Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Thiền Sư Vạn Hạnh và Bài Sấm Ký Trên Cây Gạo

Thiền Sư Vạn Hạnh và Bài Sấm Ký Trên Cây Gạo

Đăng lúc: 20:48 - 01/08/2015

Sư Vạn Hạnh bèn dùng lối chiết tự phân tích và giảng nghĩa bài sấm ký cho dân làng nghe, đại ý vua yếu, tôi mạnh, nhà Lê đổ, họ Lý thành, phương đông vua xuất hiện, phương tây dân chúng mất, qua sáu bảy năm thì thiên hạ được thái bình.


Năm 980 nhà Tiền Lê thay thế nhà Đinh, năm 1009 nhà Lý thay thế nhà Tiền Lê. Hai cuộc thay ngôi đổi chủ cách nhau 29 năm nhưng tương đối giống nhau. Hai vua kế vị tiền triều đều còn bé, sự việc diễn ra trong hòa bình và hai vua mới đều được hai bà Thái hậu triều trước trân trọng mời vào cung trao long bào và ngôi báu. Chỉ khác nhau ở chỗ người chủ xướng thay đổi triều Đinh là một đại tướng quân có binh quyền, còn người chủ xướng thay đổi triều Tiền Lê là nhà sư trong tay không tấc sắt không tên quân.
Tháng 3 năm Ất Tỵ (1005) vua Lê Đại Hành băng hà, truyền ngôi cho Thái tử Lê Long Việt. Các hoàng tử khác tranh giành ngôi báu đem quân đánh nhau suốt 8 tháng trời mới yên, Thái tử đăng cơ chỉ được ba ngày thì bị em là Long Đỉnh giết hại, cướp ngôi.
Trong bốn năm trị vì (1005-1009) xét công luận tội thì Long Đỉnh tội nhiều hơn công. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét ”Ngọa Triều (Long Đỉnh) không những thích giết người lại còn oán vua cha không lập mình làm thái tử, đánh đau người Man để họ kêu gào, nhiều lần phạm đến tên húy của cha mà lấy làm thích” Còn sử thần Ngô Thì Sĩ thì :”Khai Minh Vương(Long Đỉnh) là dứa con hư của Đại Hành, là đứa em ngỗ nghịch của Trung Tông (Long Việt)…là kiếp sau của vua Kiệt vua Trụ, nhốt tù nhân dưới nước, đặt hình phạt ngọn cây, trác táng vì rượu gái, nhiều điều tối tăm hỗn loạn không thể nào hình dung”.
Khi Long Đỉnh chết, Ngô Thì Sĩ liên hệ đến triều Đinh và cho đó là quả báo nhãn tiền ”Long Đỉnh giết Long Việt thì cũng như Đinh Liễn giết Hạng Lang. Bọn Phạm Cự Lượng tôn Lê Đại Hành cũng như bọn Đào Cam Mộc phò Lý Thái Tổ lên ngôi. Quả báo của kẻ làm nhiều điều ác như xoay theo vòng tròn” Rồi ông tiết lộ một bí mật mà các sử gia khác không biết ”Lý Thái Tổ lại rất căm phẫn về tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh Vương nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi dấu kín việc đó nên sử không được chép, nếu quả như vậy cũng là đạo trời hay báo ứng cho nên chép phụ vào đây để làm răn”. Thực hư ra sao không rõ, chỉ thấy Lý Công Uẩn lên ngôi hoàn toàn danh chánh ngôn thuận.
Trước khi Long Đỉnh qua đời, một hôm, ở làng Diên Uẩn có mưa to gió lớn, sét đánh trúng cây gạo cổ thụ làm tét một mãng da lớn. Vài ngày sau dân làng phát hiện chỗ sét đánh có nhiều chữ chi chít và cho đó là sấm ký của thần nhân. Bài sấm như sau “Thụ căn diểu diểu. Mộc biểu thanh thanh. Hòa đao mộc lạc. Thập bát tử thành. Đông A nhập địa. Mộc dị tái sinh. Chấn cung xuất nhật. Đoài cung ẩn tinh. Lục thất niên gian. Thiên hạ thái bình” (Gốc cây thăm thẳm. Ngọn cây xanh xanh. Hạt hòa đao rụng. Mười tám hạt thành. Đông A vào đất. Cây khác lại sanh. Đông mặt trời mọc. Tây sao náu mình. Khoảng sáu bảy năm. Thiên hạ thái bình)
Sư Vạn Hạnh bèn dùng lối chiết tự phân tích và giảng nghĩa bài sấm ký cho dân làng nghe, đại ý vua yếu, tôi mạnh, nhà Lê đổ, họ Lý thành, phương đông vua xuất hiện, phương tây dân chúng mất, qua sáu bảy năm thì thiên hạ được thái bình.
Bài sấm ký và lời bàn của Sư Vạn Hanh nhanh chóng lan truyền khắp trong thành ngoài nội, Sư nói với Lý Công Uẩn ”Gần đây cứ suy lời sấm thì họ Lý đáng nổi lên. Nay họ Lý trong nước có ai khoan từ nhân thứ rất được lòng người như Thân vệ, binh quyền trong tay, làm chủ muôn hộ, nếu bỏ Thân vệ thì còn ai đương nổi”.
Lúc bấy giờ Long Đỉnh còn tại vị, sợ sự việc tiết lộ mang họa sát thân, Công Uẩn không dám bàn đến việc đó mà còn đem Sư dấu ở Tiên Sơn. Sự cẩn thận của Công Uẩn không phải vô ích, Long Đỉnh cũng nghe biết bài sấm ký và lời bàn của Sư Vạn Hạnh, âm thầm sai thủ hạ thân tín tìm giết hết người họ Lý nhưng không hề đả động đến Công Uẩn thường xuyên kề cận bên mình. Có lẽ ông ta cho Công Uẩn không phải là người phản bội bởi khi ông ta giết Long Việt cướp ngôi, quần thần sợ hãi không ai dám phản ứng, chỉ có Công Uẩn ôm xác Long Việt khóc than thương tiếc được ông ta khen trung thành và thăng chức từ Đội trưởng cấm quân lên Tứ sương quân phó chỉ huy sứ rồi Tả Thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Long Đỉnh chết, con còn bé, Chi hậu Đào Cam Mộc nói với Công Uẩn ”Người trong nước đều biết họ Lý đáng nổi lên, lời sấm đã hiện ra, đó là cái họa không thể che dấu nổi, chuyển họa thành phúc chỉ một sớm một chiều. Đây là lúc trời trao mệnh và người hưởng ứng theo, Thân vệ còn ngờ gì nữa” Công Uẩn nói”Tôi biết rõ ý ông không khác ý Vạn Hạnh. Nếu đúng như lời ấy thì nên tính kế thế nào?” Biết Công Uẩn đồng ý, Cam Mộc bàn với quần thần, không ai có ý khác, bèn cùng nhau vào cung tâu với Thái hậu, bà đồng ý, vời Công Uẩn vào khuyên lên ngôi hoàng đế.
Thật ra thì bài sấm ký đó không phải của thần nhân ban cho mà tác giả chính là…Sư Vạn Hạnh. Sử thần Ngô Thì Sĩ viết ”Ôi! trời có nói gì đâu! Một tiếng sét thành ra chữ, chỉ bốn mươi chữ mà việc hưng phế của dòng họ các đời trong khoảng vài trăm năm đều khái quát vào đấy cả. Có lẽ Sư Vạn Hạnh giỏi về suy đoán, nhân sét đánh cây gạo, giả thác bài chữ sét đánh để tỏ sự thần dị”.
Sư Vạn Hạnh họ Nguyễn (không biết tên gì) sanh năm 938, người làng Cổ Pháp cùng quê với Công Uẩn. Năm 21 tuổi xuất gia tại chùa Lục Tổ, đệ tử sư Thiền Ông, thông minh, học nhiều biết rộng, tinh thông Tam giáo (Nho-Phật-Lão), từng làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành cả chánh trị lẫn quân sự, giúp vua chiến thắng quân Tống quân Chiêm xâm lược và quấy phá nước ta.
Nói Sư Vạn Hạnh giỏi suy đoán, tiên liệu việc như thần, nói đâu trúng đó cũng không ngoa, không cường điệu. Vì, Sư lăn lộn trong chính trường nhiều năm, giữ vị trí quan trong trong triều, thân cận bên vua nên không có việc gì không biết, không có biến cố nào không trải qua. Một người như thế chắc chắn tích lũy nhiều vốn sống, kinh nghiệm, nhìn vạn vật biển chuyển, thế sự thăng trầm, lòng người thay đổi là có thể đoán biết hồi kết như thế nào.
Lúc bấy giờ mọi người đều chán ghét sự hà khắc, bạo ngươc, tàn ác của Long Đỉnh, tiếng oán than, căm phẫn vang lên khắp nơi thì không chỉ có Sư mà bất cứ kẻ sĩ nào cũng biết nhà Lê đã suy vong nên thần dân ngoảnh mặt quay lưng không còn lưu luyến gì với triều đại xấu xa tàn ác đó. Thời cơ đã đến, nhân chuyện sét đánh cây gạo Sư bèn viết bài sấm ký để tác động tâm lý và kích thích lòng dân cùng khanh tướng, quan lại triều đình và cả Công Uẩn..
Công Uẩn lại được Sư nuôi dạy từ năm 7 tuổi đến trưởng thành theo sự phó thác của sư Khánh Văn. Sư nhận xét đứa học trò “Cậu bé nầy không phải là người thường, sau nầy lớn lên chắc sẽ giải quyết được nhiều việc khó, làm bậc vua sáng suốt trong thiên hạ”. Do vậy, tự thân không thể làm vua thì làm thầy vua, Sư quyết định đưa Công Uẩn lên ngôi cửu ngũ không phải bằng vũ lực mà bằng…văn chương! Việc làm của Sư xem ra khá mạo hiểm, liên quan đến an nguy sinh mạng của học trò vì Long Đỉnh có thể giết hại Công Uẩn bất cứ lúc nào để bảo vệ củng cố ngôi vị. Tuy nhiên, như đã nói trên, Sư đã từng trải nhiều năm trong triều đình, vốn sống phong phú, đầy đủ kinh nghiệm, biết người biết ta cho nên chuyện đó đã không xảy ra.
Sử thần Ngô Sĩ Liên khen Sư biết sự chuyển biến của thời vận, trí thức hơn người thường, còn sử thần Ngô Thì Sĩ thì nhận xét Sư có chí khí hơn đời, ôm tài thao lược phò tá nghiệp vương, có kiến thức, biết tính toán nên biết trước sự việc xảy ra “cũng là tay lỗi lạc trong giới thiền”.
Năm 1025 Sư viên tịch, để lại cho các đệ tử bài thơ :
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô.
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhâm vận thịnh suy vô bố úy.
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Thân người như ánh chớp có rồi không. Muôn cây mùa xuân tươi tốt mùa thu héo khô. Mặc cho thời vận thịnh suy không nên sợ hãi. Vận thịnh suy như hạt sương trên ngọn cỏ tan biến cấp kỳ).
Sau nầy, cảm kích công đức cao dày của Sư, vua Lý Nhân Tông có làm bài thơ khen tặng:
Vạn Hanh dung tam tế.
Chân phù cổ sấm ky.
Hương quan danh Cổ pháp.
Trụ tích trấn vương kỳ
(Vạn Hạnh thông ba kiếp. Phục hợp cổ sấm thi. Quê hương làng Cổ pháp. Cấm gậy trấn kinh kỳ). *./

Theo Đạo Phật ngày nay

Hàn Quốc: Chùm ảnh Đàn truyền giới cho 300 giới tử sinh viên tại Phụng Ân Tự

Hàn Quốc: Chùm ảnh Đàn truyền giới cho 300 giới tử sinh viên tại Phụng Ân Tự

Đăng lúc: 19:48 - 26/07/2015

Buổi chiều 14:00 ngày 19/07/2015, tại Tổ đình chư tôn Thiền đức Tăng già Chùa Phụng Ân, tọa lạc tại 73 Samseong-dong, quận Gangnam-gu, Tp.Seoul, Korea đã tổ chức giới đàn Truyền thụ Tam Quy Ngũ giới lần thứ 45 cho 300 sinh viên Phật tử.
Hòa thượng Wonhak, Trụ trì Tổ đình Bongeunsa (Phụng Ân Tự) Khai thị rằng:
- Này các Thiện nam, Tín nữ hãy lắng nghe: “Đời là bể khổ mênh mông không bến bờ. Nếu không có đức Thế Tôn (Phật) viên mãn công đức, Từ bi, Trí tuệ thì chúng ta chẳng biết nương vào đâu để cầu được an lạc hạnh phúc. Vậy các Thiện nam, Tín nữ muốn được an lạc hạnh phúc phải quy kính Tam bảo; muốn thoát khỏi luân hồi khổ ải thì nên thọ trì giới pháp.
Phật Pháp Tăng (Tam Bảo) là thuyền từ vượt qua bể khổ trầm luân, là ánh sáng soi đường dẫn bước trong bóng đêm mê tối, là bước chân an lạc đi đến Thiên Nhân, là bước đầu tiên của đạo quả.
Trong kinh Phật dạy rằng: “Nếu chúng sinh nào muốn cầu thoát khổ, hưởng quả an lạc hạnh phúc trọn vẹn, thì nên quy y Tam bảo; nếu ai đem tâm thanh tịnh quy kính trong giây phút thì đời đời thế nào cũng được Niết bàn an lạc.”
Quy y là gì ? Là tôn thờ, vâng theo hay quay về. Tôn thờ ngôi Tam bảo, vâng theo lời chỉ giáo và quay về với tâm thanh tịnh của chúng ta. Thầy khuyên các người trước phải nhận lãnh Tam quy, sau nên thọ trì Ngũ giới.
Tam quy là quy y với Phật, Pháp và Tăng. Phật là đấng đã giác ngộ hoàn toàn. Chúng sinh mê lầm trong bể sinh tử, không biết tự giác; đức Phật giác ngộ tất cả đều vô thường, chứng được đạo niết bàn nên gọi là Giác giả. Đức Phật trong hiện tại là đức Thích ca Mâu ni đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, là đạo sư cả ba cõi, cha lành của muôn loài, trí huệ vô lượng, phước đức cao cả!
Pháp là đạo pháp chơn chính. Nghĩa là những phương pháp Phật đã dạy, nếu ai tin tưởng tu hành sẽ được trừ hết phiền não, chứng quả yên vui thanh tịnh như Phật.
Tăng là chúng hòa hợp thanh tịnh, xuất gia đệ tử Phật, hiến đời mình cho đạo, tuân theo kinh luật mà tu trì, làm ruộng phước cho nhân thiên, làm gương lành cho muôn loài.
Tam bảo có đủ công đức như thế. Cho nên, Phật Pháp Tăng là ba ngôi quý báu nhất của thế gian và xuất thế gian. Nếu người nào phát tâm quy y thì không đọa vào ba đường dữ, luôn gặp Phật, mau chứng quả Bồ đề.
Phật tử, các ngươi đã quy y Phật rồi, từ nay phải tôn Phật làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với trời, thần, quỷ, vật vì những kẻ ấy là phàm phu còn quanh quẩn trong ba cõi, không đầy đủ trí huệ như Phật là đấng đã giải thoát vòng sinh tử của thế gian.
Quy y Pháp rồi, từ nay về sau phải tôn Pháp làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với ngoại đạo tà giáo vì những đạo pháp ấy không phải là những phương pháp xuất thế, có thể làm cho chúng ta thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi được.
Quy y Tăng rồi, từ nay về sau phải tôn Tăng làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với bè đảng xấu ác vì những người ấy không thể so với hàng đệ tử Phật đã tu chứng Tam thừa, Tứ quả.
Giờ đây các người đã chân thành quy y, sẽ được Tam bảo luôn luôn cứu hộ, hiện tại chắc chắn yên vui, tương lai sẽ được sinh về Cực lạc. Tam bảo đã có công năng như thế, các ngươi nên đêm ngày tưởng nhớ thì quyết chứng được quả bồ đề vô thượng. Vậy các ngươi hãy đọc theo thầy những lời thề nguyện:
Đệ tử đã quy y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y trời, thần, quỷ, vật.
Đệ tử đã quy y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo.
Đệ tử đã quy y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y bè đảng xấu ác.
bây giờ thầy sẽ trao cho năm giới pháp. Giới pháp này rất khó gặp, nếu Phật không ra đời thì không có. Giới pháp này đủ sức trừ sạch phiền não sanh tử và đưa chúng ta đến đạo quả Bồ đề giải thoát. Bởi lẽ ấy, giờ đây các người muốn thoát sinh tử, cầu chứng Niết bàn, nên gắng lãnh thọ giới pháp.
Lãnh giới pháp này, đàn ông thì gọi là Ưu bà tắc, đàn bà thì gọi là Ưu bà di, nghĩa là những người đã bỏ dữ làm lành, gần gũi phụng sự Tam bảo. Trong năm giới này các ngươi có thể tùy năng lực và hoàn cảnh của mình mà lãnh thọ một giới, gọi là nhất phần Ưu bà tắc (hay Ưu bà di); lãnh thọ hai giới gọi là thiểu phần; lãnh thọ ba giới gọi là bán phần; lãnh thọ bốn giới gọi là đa phần; và lãnh thọ cả Năm giới gọi là mãn phần.
Vậy, bây giờ các ngươi muốn lãnh thọ phần nào, giới nào, tùy theo hoàn cảnh và năng lực mình mà thọ lãnh. Nhưng phải nhớ: khi đã thọ lãnh giới nào thì dù gặp hoàn cảnh có thể mất tính mạng, thề quyết không hủy phạm. Vì sao thế? Vì giới pháp là thuyền bè đưa chúng ta ra khỏi bể khổ sinh tử luân hồi, thật là khó gặp mà thân mạng thì dễ mất, dầu có giữ gìn cho lắm rồi nó cũng sẽ mất; nếu không giữ giới thì thuyền bè bể rạc tất nhiên phải chìm đắm, khổ đau nhiều đời!
Bây giờ Thầy sẽ truyền trao giới pháp, giới tướng để lãnh thụ mà tu trì:
Giới Thứ Nhất:
Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện sẽ không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.
Giới Thứ Hai:
Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn.
Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.
Giới Thứ Ba:
Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con.
Con ý thức được rằng những hành động bất chánh sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.
Giới Thứ Tư:
Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải.
Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.
Giới Thứ Năm:
Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con.
Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.
Phật tử! Các ngươi được thọ giới rồi, từ nay phải khéo giữ gìn, dù gặp nhân duyên trắc trở cũng không nên hủy phạm. Nếu ai phạm những giới trên đây, hiện tại mất hết nhân cách và nền móng tốt đẹp; tương lai phải chịu nhiều kiếp đọa đày trong cảnh giới đau khổ. Các ngươi hãy cố gắng lên!”.
Giới tử thọ Tam quy, Ngũ giới xong, mỗi người đốt liều (vết sẹo) trên cánh tay để phát nguyện trọn đời gìn giữ giới pháp đã thọ, và sau đó chụp hình lưu niệm, nhận giấy Chứng nhận Quy y Tam bảo.
Một số hình ảnh Truyền thụ giới pháp, kính trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc cùng chia sẻ với Phật giáo nước bạn :

















Thích Vân Phong

Tầm sư học đạo

Tầm sư học đạo

Đăng lúc: 00:10 - 22/07/2015

Cách tìm minh sư là gieo duyên với chư vị xuất gia, gặp vị nào có thể trợ duyên cho mình tu học thì nương tựa.
HỎI: Tôi 52 tuổi, mới phát nguyện quy y Tam bảo, giữ năm giới và ăn chay trường. Gần đây tôi đến chùa tụng kinh, gặp một số đạo hữu chỉ bảo rằng chừng ấy chưa đủ, cần phải phát nguyện tu Bát quan trai, hành Thập thiện, nói tóm là phải đi cầu đạo, tìm bậc minh sư để nương tựa tu học. Tôi muốn hỏi những pháp tu ấy là gì? Những lời khuyên ấy có đúng và cần thiết không? Tìm minh sư, cầu đạo ở đâu? Nếu tôi không tu thêm các pháp ấy thì có đúng với lời Phật dạy không?

(THANH TRÚC, Q.5, TP.HCM)


ĐÁP:
Bạn Thanh Trúc thân mến!
Pháp tu căn bản của người Phật tử là quy y Tam bảo, giữ gìn năm giới, từ bỏ những việc xấu ác, siêng làm các hạnh lành như bố thí, cúng dường... Sau đó, nếu hội đủ duyên lành, người Phật tử phát nguyện tu tập nâng cao như tham dự các khóa tu Bát quan trai, Thập thiện v.v… Tu Bát quan trai là lên chùa phát nguyện thọ trì tám giới, tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật, tọa thiền, nghe pháp…, nói chung tập sự xuất gia một ngày một đêm (hiện nay thường là một ngày). Tu Thập thiện chủ yếu là phát nguyện thọ trì mười giới, chuyển hóa mười nghiệp ác của thân, miệng, ý thành mười nghiệp thiện.
Người Phật tử nên phát tâm tham dự các khóa tu Bát quan trai và Thập thiện. Khi tham dự các khóa tu này, bạn sẽ được thực hành các phương pháp để chuyển hóa nội tâm, cũng như được kết duyên tu hành với hội chúng (tu hành có bạn), hiểu biết thêm nhiều điều trong tu học, và nhất là được nghe giáo pháp từ chư vị xuất gia. Nếu chỉ quy y và thọ năm giới cùng làm việc thiện thì hiện tại được phước báo, đời sau tái sanh làm người nhiều phước. Còn tu Bát quan trai, Thập thiện thì hiện tại được phước báo, đời sau tái sanh về các cõi trời hưởng phước thù thắng hơn.
Vấn đề tìm bậc minh sư để cầu đạo, nương tựa tu học là gieo duyên với chư vị xuất gia. Một người Phật tử, ngoài vị bổn sư đã quy y cho mình, cần nương tựa một hoặc nhiều vị thầy khác để học hỏi, được chia sẻ kinh nghiệm tu tập, cách ứng xử trong nhiều phương diện đời sống theo tinh thần Phật giáo. Minh sư, theo nghĩa là bậc thầy sáng đạo, hiện rất hiếm có nên khó gặp. Còn minh sư là vị thầy hiểu đạo, có thể soi sáng đường tu cho mình thì hiện rất nhiều. Cách tìm minh sư thông thường là gieo duyên với chư vị xuất gia, gặp vị nào có thể soi sáng, sẻ chia và trợ duyên cho mình tu học thì nương tựa, học hỏi. Ngoài ra, minh sư có thể là kinh điển, sách báo, băng đĩa Phật giáo. Tự tìm hiểu giáo pháp, hiểu biết sâu sắc lời Phật dạy rồi ứng dụng tu hành.
Trong trường hợp bạn không tu thêm, chỉ “quy y Tam bảo, giữ năm giới và ăn chay trường”, cùng với siêng làm phước thiện thì vẫn đúng với chuẩn mực căn bản Phật dạy cho hàng cư sĩ.
Chúc bạn tinh tấn!
TỔ TƯ VẤN
(tuvangiacngo@yahoo.com)

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sang Mỹ điều trị

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sang Mỹ điều trị

Đăng lúc: 21:55 - 16/07/2015

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có mặt ở Bờ Tây nước Mỹ vào ngày 11.7 để tham dự “một chương trình phục hồi sức khỏe chuyên sâu hơn”, theo thông tin đăng tải ngày 14.7 trên trang web Làng Mai (plumvillage.org) của thiền sư.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sang Mỹ chữa bệnh - ảnh 1
Thiền sư Thích Nhất Hạnh - Ảnh: Reuters

Trang Làng Mai hồi tháng 4 cho biết Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã xuất viện trở về nhà sau gần 5 tháng điều trị chứng xuất huyết não tại bệnh viện ở Bordeaux, miền nam nước Pháp.

Trong bản tin ngày 14.7, trang Làng Mai cho biết thiền sư hiện đã đủ khỏe để bày tỏ nguyện vọng được tham gia chương trình hồi sức và chính ông đã chọn Mỹ.

“Thiền sư đã sang Mỹ bằng máy bay cá nhân do một người bạn cung cấp. Ông được sư cô Chân Không tháp tùng và một đội ngũ sẽ tiếp tục chăm sóc thiền sư 24/24 giờ trong thời gian ở Mỹ”, theo thông báo của Làng Mai.

Khi máy bay hạ cánh, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nhất quyết tự rời máy bay, không chịu ngồi trên xe lăn và “ông đã mỉm cười vui vẻ”, bản tin Làng Mai thuật lại.

Một nhóm chuyên gia thần kinh học giỏi thuộc trường Đại học California (USCF) sẽ đảm trách chương trình hồi sức cho thiền sư, thông báo cho hay.

Trước đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nhập viện sau khi bị xuất huyết não nghiêm trọng vào ngày 11.11.2014, tại bệnh viện ở Bordeaux, miền nam nước Pháp.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926 ở Huế. Ông xuất gia năm 16 tuổi ở chùa Từ Hiếu, sau đó theo học tại Phật học viện Bảo Quốc. Ông từng là Tổng biên tập báo Phật giáo Việt Nam, người sáng lập Trường Thanh niên Phụng sự xã hội, góp phần thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh và Nhà xuất bản Lá Bối.

Ông đi giảng dạy ở nhiều nước và thành lập nhiều trung tâm thiền. Ông chính thức cư ngụ ở Tu viện Làng Mai (Pháp), đã về thăm Việt Nam hai lần vào năm 2005 và 2007, tổ chức ba trai đàn chẩn tế cầu siêu lớn tại cả ba miền.

Thiền sư hiện được xem là nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây chỉ sau Đạt Lai Lạt Ma. Ông đã xuất bản hơn 100 cuốn sách, trong đó có nhiều sách bằng tiếng Anh, về triết lý sống và triết lý Phật giáo, nổi tiếng với các bài giảng về việc sống trong giây phút hiện tại, quán chiếu hơi thở và bước đi.

Hoàng Uy

Nghệ An: Ban HDPT tỉnh tổ chức khóa tu “Ươm mầm hoa sen”

Nghệ An: Ban HDPT tỉnh tổ chức khóa tu “Ươm mầm hoa sen”

Đăng lúc: 19:37 - 12/07/2015

Tối ngày 11/7, tại chùa Chí Linh (xã Xuân Thành, huyện Yên Thành) Ban Hướng dẫn Phật tử tỉnh Nghệ An đã khai mạc khóa tu mùa hè với chủ đề “Ươm mầm hoa sen”.
Buổi lễ có sự hiện diện của TT.Thích Thọ Lạc, Phó Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An, cùng Chư tôn đức BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An, trụ trì các chùa trong toàn tỉnh, lãnh đạo một số ban ngành đoàn thể huyện Yên Thành và xã Xuân Thành .

Niệm phật cầu gia hộ

Chủ đề của khóa tu mùa hè năm nay là “Ươm mầm hoa sen”, với gần 700 học sinh tham gia. Đây là lần đầu tiên Ban Hướng dẫn Phật tử tỉnh Nghệ An tổ chức khóa tu mùa hè dành cho các em học sinh.

Tu sinh tham dự khóa tu

Đại diện tu sinh đọc lời hứa thực hiện đúng nội quy cuả BTC đề ra

Khóa tu diễn ra trong thời gian 5 ngày từ 11/7 – 15/7/2015. Đến với khóa tu các em được học về kỹ năng sống, ý thức về trách nhiệm bổn phận của mình trong cuộc sống cũng là cơ hội thực tập đời sống xuất gia như cách ăn chay, tọa thiền và nuôi dưỡng tình yêu thương.

Tại khóa tu, các tu sinh được hướng dẫn trực tiếp về cách thức thực tập tĩnh lặng thân tâm, giúp các bạn tìm lại cho bản thân một trạng thái thanh tịnh. Đây cũng chính là sân chơi lành mạnh, đạo đức hướng thiện cho các em nhỏ và cũng là cơ hội để các em tìm hiều kiến thức cơ bản về Phật giáo.

Hữu Tình

Đối mặt với sự ra đi đột ngột của người thân

Đối mặt với sự ra đi đột ngột của người thân

Đăng lúc: 21:17 - 11/07/2015

Ni Sư Thubten Chodron (thế danh Cherry Green), sinh năm 1950, lớn lên gần vùng Los Angeles. Ni sư hoàn thành Cử Nhân Lịch Sử tại Đại Học UCLA năm 1971. Sau khi du lịch qua Châu Âu, Bắc Phi và Châu Á trong khoảng một năm rưỡi, Ni sư trở về Mỹ, lấy chứng chỉ sư phạm, theo học chương trình sau đại học tại USC về Giáo Dục và dạy học ở Hệ Thống Các Trường tại thành phố Los Angeles.
Năm 1975, Ni sư tham dự một khóa tu thiền của Ngài Lama Yeshe và ngài Zopa Rinpoche. Sau đó Ni sư qua Nepal tiếp tục tu học và hành thiền tại Tu Viện Kopan. Năm 1977, Ni sư được Ngài Kyabje Ling Rinpoche cho xuất gia tại Dharamsala, Ấn Độ, và năm 1986 Ni sư thọ đại giới tại Đài Loan.
Ni Sư Thubten Chodron thường chú trọng đến việc áp dụng những điều Phật dạy vào đời sống hằng ngày của chúng ta và đặc biệt thiện xảo trong việc giải thích chúng bằng những phương cách dễ hiểu và dễ thực hành. Ni Sư nổi tiếng với những bài Pháp đầy ý nhị, nhẹ nhàng, chân thật và rõ ràng.
***

Hình minh họa

Dưới đây là bài pháp thoại của Ni Sư Thubten Chodron trong chương trình hoằng pháp qua video: Bodhisattva’s Breakfast Corner của tu viện Sravasti Abbey
02-01-15
***
Năm ngoái có một số người đã viết thư cho chúng tôi hoặc vì họ có người thân vừa mất đi trong một tai nạn bất ngờ hoặc là vì con họ đã đột ngột ra đi. Hoặc cả hai như trong trường hợp con họ bị mất trong một tai nạn. Dĩ nhiên điều đó gây đau đớn khôn cùng cho gia đình của nạn nhân.
Người ta khó chấp nhận việc đột tử của người thân là vì họ vừa có mặt hôm nay ở đây, rồi bỗng ngày hôm sau không có mặt. Khi chúng ta thấy ai đó hôm nay, chúng ta nghĩ là họ cũng phải có mặt ngày hôm sau vì thông thường là như thế: họ có mặt hôm nay, thì họ sẽ có mặt ngày hôm sau hay hôm sau nữa, vì thế chúng ta không hề nghĩ là có thể họ sẽ không có mặt ở đây nữa. Dầu về mặt tri thức, chúng ta vẫn biết là người có mặt hôm nay có thể không có mặt trong ngày mai, vì không ai sống mãi, nhưng ta lại ngạc nhiên vì sự vắng mặt của họ.
Ngay đối với cha tôi, người vừa ra đi năm ngoái ở tuổi 93. Tất cả chúng tôi đều biết ông sẽ ra đi vì ở tuổi 93 chắc chắn là ông không thể sống lâu hơn nữa, nhưng vì ông chết do một tai nạn là ăn bị nghẹn. Phản ứng đầu tiên của tôi là kêu lên “Nhưng tôi vừa gặp người hôm qua mà!” vì ngày hôm trước đó chúng tôi vừa quay một video về ông. Vì thế, ngay trong trường hợp bạn đã chuẩn bị cho việc ai đó sắp ra đi, bạn cũng không thể dễ dàng chấp nhận.
Đối với sự ra đi đột ngột của con cái, ta càng khó chấp nhận hơn, vì dường như điều đó đi ngược lại với cái ‘trật tự tự nhiên’. Đó là người già phải đi trước rồi mới đến người trẻ, là cha mẹ phải ra đi trước con, cho nên khi con ra đi trước cha mẹ thì trật tự đó bị đảo lộn. Vì thế chúng ta thường thấy có sự xung đột giữa những điều chúng ta biết dựa trên tri thức và những gì tự động xảy ra trong cuộc sống. Thí dụ chúng ta biết mọi người đều phải chết nhưng khi nghe ai đó ra đi, ta lại ngạc nhiên. Hoặc chúng ta biết rằng tuổi tác không phải là yếu tố dự báo khi nào ta ra đi nhưng khi có người trẻ tuổi mất đi, chúng ta đều ngạc nhiên. Cho nên có sự khác biệt giữa những gì ta biết và những gì thực sự xảy ra. Vì thế trong Phật giáo ứng dụng, chúng ta cố gắng đưa những gì chúng ta biết đến gần hơn với những gì thực sự là.
Chúng ta biết là cái chết sẽ đến với tất cả. Chết là điều tự nhiên chứ không phải là trái tự nhiên, vì ngay khi ai đó vừa được sinh ra, chúng ta biết rồi lúc nào đó họ sẽ chết vì không có ai sống mãi. Chết chỉ là một phần tự nhiên của cuộc sống, không phải vì ai đó làm điều gì sai trái mà họ phải chết, phải bị đau khổ hay bất cứ điều gì tương tự như thế. Chỉ là thân chúng ta vô thường, và chỉ có thể được duy trì đến một mức độ nào đó rồi thì nó cũng phải hư hoại. Chúng ta phải thực sự hiểu điều đó và quán tưởng về nó.
Người cha trước đây đã viết thư cho chúng tôi nhờ giúp đỡ, tư vấn về vấn đề này, đã có lần email cho chúng tôi nói rằng, dầu ông không phải là người theo một tôn giáo nào, nhưng cái chết đột ngột của con trai khiến ông nhận ra rằng sự sống rất ngắn ngủi, tạm bợ. Tôi nghĩ đó là một nhận thức khôn ngoan. Nếu đó là điều tâm bạn thực sự cảm nhận được trong khi trải qua kinh nghiệm đau đớn của việc mất đi đứa con thì cuối cùng cuộc đời của bạn và những người chung quanh sẽ thực sự được hữu ích, được tăng trưởng. Vì khi ta nhận thức được rằng tất cả rồi sẽ chết, thì chúng ta sẽ thấy những chuyện tủn mủm, vụn vặt mà ta vẫn tranh cãi với nhau là phi lý. Nếu tất cả chúng ta sẽ ra đi thì có gì quan trọng trong việc ai sẽ là người lau dọn nhà, bạn hay tôi, tại sao chúng ta phải cãi nhau về những chuyện trẻ con, ngu ngốc đó. Khi biết mình sẽ chết, thì ta không còn thì giờ để hờn giận ai nữa. Có thể có ai đó đã làm tổn thương, làm hại ta trong quá khứ, nhưng khi chúng ta quán tưởng về cái chết của mình, của người, thì có ai còn muốn khư khư giữ lấy sự giận hờn, oán trách trong tâm nữa, vì tất cả đều vô nghĩa. Vì thế khi chúng ta ý thức được về cái chết, điều đó thực sự giúp chúng ta sống một cách sinh động hơn -tôi đoán rằng những người còn lại trong gia đình như cha mẹ, anh chị em sẽ quý trọng nhau hơn sau sự mất mát đó. Vì họ đã nhận thức được điều đó.
Trong cuộc sống ai cũng bận rộn: cha mẹ thì phải đi làm, trẻ em thì phải đến trường, ai cũng có công việc, không có thì giờ để trò chuyện với nhau. Nhưng khi bạn thấy là cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào thì chúng ta sẽ chọn lựa khác đi, ta sẽ biết điều gì quan trọng hơn, cần làm trước hơn. Và chúng ta sẽ thấy là con người quan trọng hơn tất cả mọi thứ.
Thương yêu hay tử tế với nhau quan trọng hơn là sự nổi tiếng, sự đúng sai, hay quyền lực. Khi ta thực sự nghĩ đến điều này, thì chúng ta sẽ dừng lại, và thấy rằng con người và muôn vật đều giống nhau, đều quan trọng, vì tất cả đều có cảm xúc. Vậy ta có thể làm gì để giúp họ được hạnh phúc, để biểu lộ tình thương yêu đối với họ. Đừng nghĩ là họ phải biết mình yêu thương họ, mà cứ sống thản nhiên, không cần biểu lộ tình cảm. Và việc cần biểu lộ tình thương yêu không chỉ đối với người thân trong gia đình mà còn cả đối với bạn bè, đồng nghiệp, hay bất cứ ai mà chúng ta gặp. Hãy bày tỏ sự trân quý đối với những ai chúng ta gặp ở bất cứ thời điểm nào, ở trước mắt chúng ta, chứ đừng sống thản nhiên, coi mọi thứ là điều tự nhiên. Vì chỉ có giây phút trước mắt là giây phút chúng ta thực sự sống. Cứ bận rộn với thứ này, việc nọ thì cả cuộc đời ta sẽ vùi trong những thứ đó. Sự liên kết với con người và biểu lộ sự quan tâm, sự mong ước cho họ được hạnh phúc, đó mới thực sự là những điều quan trọng. Tôi ít nghe ai đó trước khi từ giã cõi đời lại nói, “Tôi thật tiếc đã không làm thêm nhiều giờ tăng ca”, hay “Tiếc là tôi đã không nổi tiếng hơn nữa”, hay “Giá mà tôi đã thắng trong cuộc tranh cãi hai mươi năm về trước”. Thật thế, không ai nghĩ như thế cả. Nhưng ai cũng nuối tiếc là mình đã không kết nối với người thân yêu hơn, đã không sống trọn vẹn hơn. Đó là điều mà tất cả chúng ta đều có thể học được từ cái chết bất ngờ của người thân, là điều mà tất cả chúng ta đều phải trải qua, chắc chắn như thế. Chúng ta sẽ chứng kiến sự ra đi của người thân, chứng kiến sự ra đi của chính mình. Vì thế hãy để cuộc sống của chúng ta trở nên ý nghĩa hơn.
Khi một người ra đi đột ngột, chúng ta thường hỏi tại sao điều này lại xảy ra. Nhưng tôi không nghĩ là câu trả lời có thể giúp người ta bớt khổ đau hơn. Nó có thể giải thích sự việc, giống như trong Phật giáo, chúng ta cũng có cách giải thích, nhưng tôi nghĩ rằng câu hỏi tại sao không phải là câu hỏi mà trong thâm tâm chúng ta muốn hỏi. Tôi nghĩ điều mà thâm tâm ta muốn biết là làm sao để biểu lộ, diễn tả sự quan tâm, tình thương yêu không chỉ cho người đã mất mà cả cho những người còn sống quanh ta.
Nếu chúng ta quan tâm đến người đã chết, tốt hơn hết chúng ta tiễn họ đi với tình thương yêu. Chúng ta tin rằng có tái sinh. Người thân của ta có cuộc sống khác, nên ta có thể cầu cho người ra đi được có một cuộc sống kế tiếp tốt đẹp. Cầu cho họ tái sinh với lòng từ bi, có đức hạnh, có trí tuệ, và dùng trí tuệ đó một cách có đạo đức. Cầu cho họ được tái sinh trong một môi trường, hoàn cảnh sống tốt đẹp hầu trưởng dưỡng các đức tính của họ, và mong họ cũng có thể trưởng dưỡng đức tính của những người họ tiếp cận. Vì thế tôi nghĩ thái độ đúng đắn đối với sự ra đi đột ngột của người thân là dầu chúng ta có buồn đau vì người đã mất, chúng ta nên tiễn đưa họ với tất cả những lời chúc phúc tốt lành. Không chỉ cầu cho kiếp tái sinh của họ được giàu sang, đầy đủ thực phẩm, chỗ trú ngụ, vân vân -dĩ nhiên, chúng ta luôn mong cho họ những điều đó- nhưng hãy nghĩ đến những giá trị nội tâm mà họ có thể được đón nhận. Mong rằng trong cuộc sống kế tiếp, họ có thể sống có ý nghĩa, có thể đóng góp, phụng sự cho người, cho xã hội, để họ có thể biểu lộ sự quan tâm, tử tế đối với bất cứ ai mà họ tiếp cận trong cuộc sống kế tiếp. Và niềm tin này rất hữu ích khi chúng ta gửi gấm những ý nghĩ này theo với người chết vì chúng ảnh hưởng đến tiềm thức của họ trong kiếp sống tới một cách tích cực. Tôi nghĩ đó là điều rất hữu ích cho bản thân và tha nhân.
Trở lại vấn đề thực sự hàm ân đối với nhiều thứ. Trong Phật giáo có câu nói: “Ly đã bể”. Bạn có thể dùng câu này để nói về nhiều thứ, thí dụ, cái loa đã bể. Việc dùng cái ly hay cái tách chỉ là một thí dụ điển hình. Ly vẫn còn đây, nhưng chúng ta biết rằng nó có thể bể. Nếu chúng ta biết rằng một ngày kia ly sẽ bể thì chúng ta không sống với hy vọng rằng cái ly sẽ không bể, rằng nó sẽ luôn có mặt ở đây. Nếu không hy vọng như thế thì chúng ta sẽ trân trọng cái ly hơn, nhưng khi ly có bể thì ta cũng thản nhiên vì ta đã biết như thế. Chúng ta thích chất liệu của ly, nhưng chúng ta không bám víu vào nó, không nói rằng, “Đây là cái ly quý báu của tôi. Chớ có đụng đến ly của tôi, chứ đừng nói đến việc làm bể ly của tôi”. Biết rằng ly đã bể, chúng ta sẽ biết trân quý khi nó còn có mặt. Rồi khi nó vỡ đi, ta cũng không hối tiếc. Không đau khổ. Tương tự chúng ta không hối tiếc đối với quá khứ vì ta đã có những kỷ niệm đáng nhớ với người thân. Chúng ta không đau khổ vì quá khứ đã qua đi, chúng ta đã trải nghiệm nó. Không đau khổ cho hiện tại vì hiện tại có thể chấm dứt trong nháy mắt. Tôi nghĩ cái mà chúng ta hối tiếc hướng tới tương lai, cái tương lai mà ta phác hoại một đằng nhưng nó đã xảy ra đằng khác. Chúng ta nghĩ là sẽ có cái ly trong tương lai, nên ta bám víu vào nó, gắn kết với nó, rồi khi ly bể, ta bực tức, giận dữ. Cũng thế đối với con người, ta cũng nghĩ là người thân phải/sẽ có mặt bên ta, nhất là đối với cha mẹ. Bậc cha mẹ đã nghĩ là đứa con sẽ luôn có mặt bên mình, suốt cuộc đời mình, và nó sẽ chứng kiến sự ra đi của mình. Khi chúng ta hối tiếc, khổ đau cho tương lai vì những gì ta nghĩ là sẽ xảy ra, đã không xảy ra, đó là tà kiến. Cho nên nói cách khác là chúng ta đang đau khổ, hối tiếc cho một điều không có thật, không hiện hữu. Chúng ta không đau khổ, hối tiếc cho cái gì đã xảy ra mà hối tiếc cho những gì chưa xảy ra. Vì thế giờ chúng ta phải thay đổi cách suy nghĩ của mình. Ý nghĩ của chúng ta về tương lai sẽ phải thay đổi. Mặc dầu chúng ta mất đi một người thân mà chúng ta rất mực thương yêu, nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể có một tương lai tốt đẹp. Vì tình thương yêu không phải là cái gì cố định, hạn chế mà bạn đã cho ai rồi thì không thể cho người khác. Tình thương yêu là thứ mà bạn càng chia sẻ nhiều, bạn sẽ có nhiều hơn. Và ở đây tôi không nói về tình thương yêu lãng mạn của trai gái, mà tôi nói về sự quan tâm, lo lắng, tình thân ái mà con người có thể dành cho nhau, vì tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc, không ai muốn khổ đau. Với loại tình thương này chúng ta càng cho nhiều người thì nó càng phát triển, trái tim ta sẽ càng rộng lớn hơn, cuộc sống của ta đầy đủ ý nghĩa hơn. Vì chúng ta biết rằng loại tình thương này có thể được chia sẻ với nhiều, nhiều người, vì nó không phải là cái cố định. Vì thế, có thể cái tương lai mà chúng ta nghĩ là nó sẽ có mặt, nhưng lại không có mặt, nó có thể là một tương lai khác, một tương lai tốt đẹp không chỉ cho chúng ta mà cho cả người đã mất vì chúng ta đã tiễn họ đi với tình thương yêu, với những lời nguyện cầu và những hoài vọng tốt đẹp.
Diệu Liên Lý Thu Linh
Theo Thư viện Hoa Sen

Nghị quyết Hội nghị công tác Tăng sự toàn quốc 2015

Nghị quyết Hội nghị công tác Tăng sự toàn quốc 2015

Đăng lúc: 06:51 - 03/07/2015

Hội nghị công tác Tăng sự toàn quốc 2015 diễn ra từ ngày 26, 27-6-2015, được tổ chức tại chùa Bái Đính, tỉnh Ninh Bình dưới sự chứng minh của Trưởng lão HT.Thích Thanh Dũng, Phó Thư ký Ban Thường trực HĐCM T.Ư GHPGVN, cùng chư tôn đức Ban Thường trực HĐCM: HT.Thích Thanh Đàm, HT.Thích Giác Tường, HT.Thích Thanh Dục và HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS T.Ư GHPGVN.
Hội nghị đặt dưới sự chủ tọa của HT.Thích Thiện Pháp, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS, Trưởng ban Tăng sự T.Ư; HT.Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS, Phó ban Thường trực Ban Tăng sự T.Ư, cùng quý Hòa thượng Phó Chủ tịch HĐTS.
Tại phiên khai mạc, hội nghị được vinh dự đón tiếp PGS.TS Phạm Dũng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ; ông Nguyễn Lam, Phó trưởng ban Dân vận T.Ư; Thiếu tướng Hoàng Cao Tánh, Cục trưởng A88-Bộ Công an; ông Đinh Văn Điến, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình đến dự, tặng hoa chúc mừng và phát biểu tại hội nghị.
hn tang su.JPG
Hội nghị Tăng sự toàn quốc năm 2015 - phiên bế mạc, chiều 27-6
Sau 2 ngày làm việc, hội nghị được nghe báo cáo tổng hợp công tác Tăng sự hiện nay của Ban Thư ký, các báo cáo tham luận của Ban Tăng sự các tỉnh, thành phố và các đại biểu tham dự hội nghị. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí quyết nghị:
1. Hội nghị nhất trí với bản báo cáo tổng hợp công tác Tăng sự do Ban Thư ký trình bày, ghi nhận các đề xuất trong các báo cáo, tiếp thu các ý kiến phát biểu và ý kiến chỉ đạo của Hòa thượng Chủ tịch HĐTS GHPGVN tại hội nghị.
2. Nhất trí nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động trong công tác phối hợp điều hành giữa Ban Tăng sự T.Ư với Ban Tăng sự các địa phương, với Ban Pháp chế T.Ư, Ban Kiểm soát T.Ư, Ban Giáo dục Tăng Ni T.Ư, Ban Văn hóa T.Ư, các Ban chuyên môn của HĐTS và Sơn môn, Hệ phái trong lĩnh vực Tăng sự. Có thông tư hướng dẫn chi tiết để thể chế hóa việc thực hiện các quy định quản lý Tăng sự theo đúng Nội quy Ban Tăng sự T.Ư nhiệm kỳ VII (2012-2017).
3. Ban Tăng sự T.Ư thành lập Hội đồng biên soạn xây dựng một mẫu tiêu chuẩn thống nhất về tổ chức Giới đàn dựa trên cơ sở giới luật, Nội quy Ban Tăng sự T.Ư và phù hợp với truyền thống hệ phái, văn hóa Phật giáo của khu vực để làm tiêu chuẩn bắt buộc y cứ thực hiện.
4. Ban Tăng sự T.Ư thể chế hóa việc an cư, xuất gia, thọ giới, nghiệp sư, y chỉ sư, quản lý tự viện bằng một thông tư hướng dẫn chi tiết có cân nhắc yếu tố đặc thù của từng khu vực, hệ phái.
5. Ban Tăng sự các địa phương xây dựng bộ quy chuẩn đối với việc bổ nhiệm trụ trì dựa trên Nội quy Ban Tăng sự T.Ư và tình hình thực tế địa phương, đệ trình Ban Tăng sự T.Ư xem xét trình Ban Thường trực HĐTS phê chuẩn và phổ biến thực hiện.
6. Thống nhất việc tấn phong Giáo phẩm căn cứ vào hạ lạp theo đúng quy định của Hiến chương GHPGVN và Nội quy Ban Tăng sự T.Ư. Ban Tăng sự T.Ư sẽ xây dựng tiêu chuẩn được xét đặc cách tấn phong (đối tượng được đặc cách, thành tích đóng góp cho Giáo hội và đất nước; khung giới hạn hạ lạp được xét đặc cách tấn phong…).
7. Ban Tăng sự T.Ư xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện thiết lập phần mềm quản lý và cấp đổi Giấy chứng nhận Tăng Ni, Chứng điệp thọ giới, An cư kiết hạ mới (thiết lập phần mềm, mẫu Giấy chứng nhận Tăng Ni, Chứng điệp thọ giới, An cư kiết hạ, lộ trình thời gian thực hiện) và kế hoạch tổ chức tổng thống kê Tăng Ni, tự viện toàn quốc đệ trình Ban Thường trực HĐTS trong phiên họp gần nhất.
8. Ban Tăng sự T.Ư sẽ ban hành văn bản quy định để chấn chỉnh tệ nạn khất thực phi pháp, nạn giả danh hình thức tu sĩ Phật giáo.
9. Ban Tăng sự T.Ư sẽ tiếp tục làm việc với Ban Tăng sự, Ban Trị sự các tỉnh, thành phố để triển khai và thực hiện triệt để nghị quyết của Hội nghị Tăng sự này.
Hội nghị kết thúc vào hồi 16g30 ngày 27-6-2015 trong tinh thần hoan hỷ và quyết tâm cao.
CHỦ TỌA
(đã ký)
HT.THÍCH THIỆN PHÁP

Nam nữ luyến ái

Nam nữ luyến ái

Đăng lúc: 20:43 - 29/06/2015

Trong đời sống thế tục, ái dục đem đến hạnh phúc khiến cho họ gắn kết không rời...

Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên ái dục vốn sẵn trong thân tâm của mình. Ái dục nam nữ là nghiệp dĩ bình thường của chúng sanh. Trong đời sống thế tục, ái dục đem đến hạnh phúc khiến cho họ gắn kết không rời, có người không chỉ yêu thương nhau trong đời này mà còn nguyện ước gắn kết trong các đời sau.

Người xuất gia thì ngược lại, không tùy thuận theo dòng chảy ái dục như người thế tục. Khi mới phát tâm xuất gia, dĩ nhiên năng lực ái dục chưa được chế ngự và nhiếp phục, nên tránh duyên là điều hết sức cần thiết. Nếu không tránh duyên được, chánh niệm là pháp quan trọng để giữ vững thân tâm. Nhờ có chánh niệm, tâm vọng khởi mê đắm sắc dục được chuyển hóa, giúp người tu làm chủ được mình.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta ở trong chúng này, không thấy một pháp nào tối thắng, tối diệu, mê hoặc người đời, không đến được chỗ tĩnh lặng, cột trói vào lao ngục, không giải thoát được, như là đàn ông trông thấy sắc của đàn bà. Thấy rồi họ liền khởi tưởng để ý, rất yêu kính, khiến người không được tĩnh lặng, trói buộc lao ngục, không cởi bỏ ra được, ý không xa lìa, xoay vần qua lại đời này đến đời sau, luân chuyển năm đường, trải bao số kiếp.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Tiếng Phạm âm nhu nhuyến

Như lời Như Lai khó thấy

Hoặc lại có lúc thấy

Buộc niệm ở trước mắt

Cũng chớ cùng nữ nhân

Qua lại và nói năng

Hằng bủa lưới bắt người

Chẳng đến được vô vi.

Thế nên, này các Tỳ-kheo, nên trừ các sắc khởi tưởng đắm trước. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Một đứa con,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.99)
Rõ ràng, vượt qua đam mê ái dục nam nữ là một trong những thách thức to lớn đối với người xuất gia. Chính Đức Phật cũng xác định, nếu trần gian có đến hai món khoái lạc như ái dục nam nữ thì không ai có thể tu được. Chỉ có một món thôi cũng đã khiến cho nhiều người trầy trật trên đường tu của mình. Thế Tôn đã dạy, nếu biết tránh duyên và nhất là thường “buộc niệm ở trước mắt” thì có thể làm chủ tâm, chuyển hóa các ý niệm đắm say, dính mắc vào sắc dục.

Thế Tôn đã dùng biết bao phương tiện để nói đến sự bất tịnh của sắc, sự nguy hiểm của sắc, sự trói buộc của sắc để giúp cho người tu giác tỉnh. Kỳ thực thì sắc trần vốn không có lỗi, tâm chúng ta đắm trước sắc trần mới là căn nguyên của tội lỗi. Do đó, “trừ các sắc khởi tưởng đắm trước” không phải phá bỏ các sắc thuộc về bên ngoài mà chủ yếu là giữ vững tâm của mình.

Riêng đối với người đệ tử tại gia, pháp thoại này mang ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập và giữ gìn hôn nhân hạnh phúc. Nhờ các nhân duyên trong quá khứ và hiện tại nên hai người tự nguyện đến với nhau, nguyện sống chung và “trói buộc, không xa lìa” nhau. Chính nhờ nghiệp luyến ái này mà thệ nguyện sống với nhau đến ngày răng long, tóc bạc. Vậy nên mỗi người cư sĩ phải tự sửa mình, sao cho mình trở nên hấp dẫn, dễ thương và mát mẻ để “trói buộc” nhau chặt hơn. Hạnh phúc gia đình vốn rất mong manh, vì vậy mỗi người phải là điểm tựa cho người bạn đời và người thân của mình tìm về, dù cuộc mưu sinh ngược xuôi, nhiều lo toan vất vả.

Học cách quên

Học cách quên

Đăng lúc: 11:17 - 15/06/2015

Một buổi tối, tôi đi thăm một người bạn từng bị vu cáo hãm hại. Lúc ăn cơm, anh nhận được một cuộc điện thoại, người trong điện thoại muốn nói cho anh biết ai đã hãm hại anh.

(Ảnh: Pixabay)
(Ảnh: Pixabay)
Nhưng anh bạn tôi đã từ chối nghe. Nhìn thấy vẻ mặt ngạc nhiên của tôi, anh nói “Biết rồi thì sao chứ? Cuộc sống có những chuyện không cần biết và có những thứ cần phải quên đi”.
Sự rộng lượng của anh khiến tôi rất cảm kích. Đời người không phải lúc nào cũng được như ý, muốn bản thân vui vẻ, đôi khi việc giảm áp lực cho chính mình là điều cần thiết và cách để giảm áp lực tốt nhất chính là học cách quên, bởi trong cuộc sống này có những thứ cần nhặt lên và bỏ xuống đúng lúc. Trong kinh Phật có một câu chuyện kể rằng: tiểu hòa thượng và lão hòa thượng cùng đi hóa duyên, tiểu hòa thượng lễ độ cung kính, việc gì cũng đều nhìn theo sư phụ. Khi tới bờ sông, một cô gái muốn qua sông, lão hòa thượng đã cõng cô gái qua sông, cô gái cảm ơn rồi bước đi, tiểu hòa thượng trong lòng cứ thắc mắc: “Sư phụ sao có thể cõng một cô gái qua sông như thế?”. Nhưng cậu ta không dám hỏi, cứ thế đi mãi được 20 dặm, cậu ta thực sự không kìm được đành hỏi sư phụ: “Chúng ta là người xuất gia, sao thầy có thể cõng một cô gái qua sông?” Sư phụ điềm đạm nói: “Ta cõng cô gái đó qua sông xong thì bỏ cô ấy xuống, còn ngươi thì đã cõng cô gái ấy 20 dặm rồi vẫn chưa bỏ xuống.”
Lời nói của lão hòa thượng đầy thiền ý, hàm chứa trong nó chính là nghệ thuật nhân sinh. Cuộc đời con người giống như một cuộc hành trình dài, không ngừng bước đi, ven đường nhìn thấy vô vàn phong cảnh, trải qua biết bao những gập ghềnh, nếu như đem tất cả những nơi đã đi qua đã nhìn thấy ghi nhớ hết trong lòng thì sẽ khiến cho bản thân mình chất chứa thêm rất nhiều gánh nặng không cần thiết. Sự từng trải càng phong phú, áp lực càng lớn, chẳng bằng đi một chặng đường quên một chặng đường, mãi mãi mang một hành trang gọn nhẹ trên đường. Quá khứ đã qua, thời gian cũng không thể quay ngược trở lại, ngoài việc ghi nhớ lấy những bài học kinh nghiệm, còn lại không cần thiết để cho lòng phải vướng bận thêm.
Sẵn sàng quên đi là một cách cân bằng tâm lý, cần phải chân thành và thản nhiên đối mặt với cuộc sống. Có một câu nói rất hay rằng tức giận là lấy sai lầm của người khác để trừng phạt chính mình, cứ mãi nhớ và không quên khuyết điểm của người khác thì người bị tổn thương nhiều nhất chính là bản thân mình, bởi lẽ đó để có được niềm vui và cuộc sống thanh thản ta không nên truy cứu lỗi lầm cũ của người khác.
Rất nhiều người thích câu thơ : “Xuân có hoa bách hợp, thu có trăng. Hạ có gió mát, đông có tuyết”. Trong lòng không có việc phải phiền lo mới chính là mùa đẹp của nhân gian. Nhớ những cái cần nhớ, quên những cái nên quên, sống cuộc sống cởi mở, trong lòng không vướng mắc thì cuộc sống này sẽ thật tươi đẹp.
Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè

Theo (Việt đại kỷ nguyên)

Phật tự tại trước mọi sóng gió cuộc đời

Phật tự tại trước mọi sóng gió cuộc đời

Đăng lúc: 10:53 - 15/06/2015

Đức Phật của chúng ta ngày xưa cũng bị nhiều người hủy nhục trước mặt vua quan, thần dân thiên hạ. Khi bị cô gái giả làm bụng bầu bêu xấu trước mặt mọi người: “Sa môn Cồ Đàm đã lấy em rồi mà ngày nay bỏ bê em như thế này để em phải bụng mang dạ chữa, sao anh đối với mọi người đều từ bi thương yêu bình đẳng mà lại để em thành ra nông nỗi.
Nếu anh không có thời gian để lo cho em thì hãy nên nhờ bà Tỳ Xá Khư chăm sóc, giúp đỡ cho em chứ?” Trước mặt đại chúng, Phật an nhiên trả lời “chuyện này chỉ có tôi biết, cô biết” mà không cần phải đính chính hay minh oan một lời nào. Sự thật vẫn là sự thật, trời xuôi đất khiến thế nào mà trong lúc cô ta đang diễn kịch thì cái bụng bầu giả bằng gối rớt xuống trước mặt mọi người. Cô gái quá xấu hổ nên nhanh chân bỏ chạy, nhiều người tức quá chạy chửi theo “đồ thứ con gái hư thân mất nết”.


Chuyện đó xảy ra không bao lâu thì một chuyện khác lại kinh hoàng, khủng khiếp và độc ác, dã man hơn làm rúng động lòng dân trong cả nước. Bọn người đê tiện, thấp hèn muốn hại Phật lần này đã tung một chiêu đòn quyết định, chúng muốn tẩy chay cả giáo đoàn đức Phật cho bằng được nên lập mưu bày kế tinh vi hơn lần trước gấp trăm ngàn lần. Kỳ này chúng mướn bọn nghiện rượu giết một cô gái đẹp rồi giấu trong Tịnh xá chỗ Phật ở và lên trình báo với vua quan cô gái ngoan đạo của họ một thời gian gần đây hay đến Tịnh xá của Phật nghe pháp và bây giờ đã bị mất tích.
Chúng yêu cầu nhà vua phải làm sao tìm cho được cô gái ngoan đạo ấy.Vua Ba Tư Nặc cho mở cuộc điều tra và cuối cùng tất cả mọi người đều phát giác ra cô đã bị giết và xác được chôn trong Tịnh xá. Sự thật đã quá rõ ràng, đâu còn ai nghi ngờ gì nữa vì mọi người đều tai nghe mắt thấy rõ ràng. Vậy ai là thủ phạm đã giết cô gái và chôn ở chỗ Phật?Phật à, không thể nào có chuyện đó xảy ra, đệ tử Phật cũng không thể nào làm như vậy.
Bọn người xấu lúc này lợi dụng thời cơ đem xác cô gái bỏ lên xe chở đi khắp thành Xá Vệ và rêu rao Sa môn Cồ đàm đã bức tử cô gái. Sự việc xảy ra quá bất ngờ làm cho vua Ba Tư Nặc không biết giải quyết ra sao vì ông biết chắc Phật trước kia là thái tử Sĩ Đạt Ta có vợ là hoa hậu đẹp nhất thời bấy giờ và có cả hàng trăm cung phi mỹ nữ tuyệt nhưng Ngài vẫn từ bỏ hết để sống đời tu hành đơn giản.
Nhà vua biết chắc đây là âm mưu sâu độc của bọn xấu ác vì lòng tham lam ích kỷ, ganh ghét tật đố mà làm chuyện tày trời như vậy để vu oan hủy nhục đức Phật. Những cuộc điều tra bắt đầu, nhà vua cho tung ra nhiều thám tử tài ba lỗi lạc có mặt khắp nơi để dò la tin tức. Bốn chúng đệ tử xuất gia và tại gia thì buồn rầu, lo lắng chờ đợi kết quả cuối cùng.
Riêng bọn người xấu ác thừa dịp này rêu rao tuyên truyền, tung tin rằng xác cô gái chết do sa môn Cồ Đàm quá thất nhơn ác đức đã hãm hiếp cô gái rồi giết luôn và chôn ngay chỗ ở. Lúc này những người hiểu biết đạo chỉ biết trông chờ kết quả điều tra để minh oan cho Phật. Người không hiểu đạo thì nguyền rủa đức Phật sao mà quá tàn ác, nhẫn tâm. Kẻ bếu rếu, người chửi bới làm náo loạn khắp cả thành Xá Vệ.
Lệnh khẩn cấp được ban hành giới nghiêm 24/24, toàn thể chư Tăng đều phải ở yên một chỗ, không ai được rời khỏi trú xứ cho đến khi nào điều tra được vụ án, nếu ai vi phạm sẽ bị xử trảm ngay. Một ngày trôi qua, hai ngày trôi qua nhưng vẫn không có tin tức gì sáng sủa. Nhiều người đang bất mãn, buồn chán, thất vọng, lo âu về sự thật quá phũ phàng, từ xưa đến nay có bao giờ xảy ra vụ án mạng tày trời như thế.
Nhưng trời đâu có hại người ngay, nhân quả rất công bằng, gieo gió thì gặt bão, giết người thì bị người giết lại. Đến ngày thứ ba thì ban chuyên án đã tìm ra manh mối để đem lại sự trong sạch cho Phật và giáo đoàn. Ai hay tin cũng thở phào nhẹ nhõm và mừng thầm trong bụng vì đã qua cơn đại nạn.
Số là bọn nghiện rượu sau khi giết cô gái xong đã nhận được số tiền lớn từ tay bọn xấu ác, nhưng do ăn chia không đồng đều nên trong lúc ăn nhậu cùng nhau, chúng đã cãi cọ, tranh giành nhiều ít và bị quan quân phát giác, tóm cổ.
Thế là cả bọn đều được đưa về cung vua chờ lệnh xét xử, bọn chúng sợ quá nên đã khai hết. Có một số người ngoại đạo đã mướn họ giết cô gái để tẩy chay giáo đoàn của Phật. Vua tức giận quá cho người bắt ngay kẻ chủ mưu quăng liền vào hầm lửa để thiêu sống, những tên giết mướn đều bị giam vào ngục chờ lệnh xét xử sau.
Chuyện xảy ra như vậy mà Phật vẫn bình tĩnh, an nhiên, không mảy may dao động trước sự phao du hủy nhục quá nặng nề. Phật không hề đính chính hay minh oan mà vẫn âm thầm lặng lẽ chờ đợi kết quả hiện thực. Phật an nhiên, tự tại, bất động trước Tám cơn gió lốc cuộc đời nên ngày hôm nay ta thờ Phật, cung kính lễ lạy Phật vì nhân cách siêu phàm vượt Thánh của Ngài mà cố gắng bắt chước tu tập để vượt qua cạm bẫy cuộc đời trước Tám ngọn gió được-mất, khen-chê, danh thơm-tiếng xấu và khổ-vui.
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh. Thứ đến Ngài tùy căn cơ chúng sinh mà nói pháp thích hợp để giúp họ chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Bất kể là thành phần nào trong xã hội khi gặp Phật đều được lợi lạc, an vui.
Chính vì việc làm và hành động cao thượng của Ngài đã để lại tiếng thơm muôn thuở cho đời giúp chúng ta biết cách làm chủ bản thân mà sống bình yên, hạnh phúc. Hương thơm của các loài hoa có ngào ngạt cách mấy cũng không bằng hương thơm của người đức hạnh luôn bay ngược chiều gió để lại cho đời bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
An nhiên tự tại trước đám đông khi bị hủy nhục
Ngày xưa, có một vị cao Tăng đức độ nuôi dạy gần 500 đồ chúng, đến khi tuổi già sức yếu bệnh hoạn mà chưa chọn được người kế thừa. Để tìm kiếm bậc Pháp khí trong nhà Thiền, vị cao Tăng bày ra kế điệu hổ ly sơn, tung tin bị mất trộm tiền Tam bảo làm trong chúng ai cũng hoang mang nghi ngờ lẫn nhau.
Một hôm khi chúng đang ngủ trong giờ trưa, vị cao Tăng la lớn: “Ăn trộm, ăn trộm.” Mọi người hoảng hốt chạy theo tiếng la, vị đệ tử lớn chạy vào liền bị vị cao Tăng thộp cổ áo mà nói lớn: “Ta bắt được trộm rồi”. Chú đệ tử nói: “Dạ không, con không phải là tên ăn trộm, con nghe la ăn trộm nên con chạy vô phụ thầy bắt ăn trộm.” Bằng chứng sờ sờ trước mắt nên không thể nào chối cãi, chư huynh đệ pháp lữ trong chúng ai cũng thấy thầy tay thộp cổ áo sư huynh mà la “ăn trộm, ăn trộm”.
Cho nên, vị đệ tử lớn liền bị khai trừ ra khỏi chùa ngay tức khắc mà không hề được minh oan. Trục xuất xong vị thầy còn viết giấy truyền cho các chùa khác không được chứa chấp thầy ấy vì tội ăn trộm đồ của Tam bảo. Vị đệ tử này xưa nay được Tăng chúng tín nhiệm chức thượng thủ trong chùa, chú còn là người mô phạm dạy dỗ chúng Tăng. Đột nhiên bữa nay lại bị mang danh tên ăn trộm và bị đích thân thầy mình viết giấy khai trừ khỏi Tăng chúng một cách công khai, thử hỏi ai nằm trong hoàn cảnh ấy mà không đau khổ.
Chỉ trong thoáng chốc bao nhiêu tiếng xấu đổ dồn vào vị sư huynh và bị mọi người khinh chê, coi thường, ai rơi vào hoàn cảnh này mới thấy thật tội nghiệp cho vị sư huynh ấy. Đường đường cũng là một vị Tăng tướng dung mạo trang nghiêm mà giờ đây chịu nuốt lệ đau thương ngậm ngùi, cay đắng trước một sự thật không thể ngờ.
Bị thầy hủy nhục như vậy trước mặt đồ chúng nên bao nhiêu uy tín từ xưa đến nay bỗng phút chốc tan tành theo mây khói. Vậy mà chú đệ tử ấy không hề buồn giận, trách móc hay thể hiện một nét mặt nào tỏ thái độ oán ghét vị thầy.
Chú vẫn một lòng cung kính và tôn trọng thưa: “Xin thầy hãy từ bi cho con ngủ đỡ ngoài cổng Tam quan cũng được, để mỗi ngày con còn được học hỏi và phụ giúp chúng Tăng làm việc”. Ấy vậy mà vị thầy cũng không chịu buông tha nên nói rằng nếu ở đó thì phải chịu trả tiền ngủ nhờ.
Dù bị thầy hủy nhục, hành hạ, làm khó dễ đủ điều nhưng chú vẫn một lòng tôn kính thầy mà siêng năng gia trì tinh tấn tu hành.Thời gian như vậy kéo dài gần 3 tháng, chú vẫn một lòng tín tâm, không một lời than vãn hay trách móc điều gì.
Cuối cùng, vị cao Tăng cũng tìm ra được bậc chân truyền, hôm đó ông đã chính thức tuyên bố trước đại chúng: “Ta bây giờ đã tìm được người kế thừa, mong đại chúng sau này khi ta viên tịch rồi thì hãy nghe theo lời chỉ dạy của sư huynh các người.” Nói xong ông thầy từ giã đại chúng rồi an nhiên ra đi.
Trong lịch sử nhân loại từ xưa nay biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền Thánh vẫn thường bị vu oan giá họa nhưng các ngài vẫn bình tĩnh, an nhiên chứng minh cho đời sự trong sạch của mình bằng chất liệu của từ bi, vô ngã, vị tha. Vị đệ tử đó nếu không gặp hoàn cảnh khắc nghiệt như thế thì vị cao Tăng làm sao biết được đệ tử của mình đã vượt qua Tám gió thật sự và để tất cả đại chúng có đủ niềm tin mà nương tựa học hỏi, tu hành.
Nếu gặp thầy nào còn quá yếu thì khi bị vu oan giá họa như vậy chắc có lẽ sẽ hận vị thầy của mình suốt cả đời.Nhờ thử thách đó mà vị thầy biết rõ đệ tử của mình đã qua được Tám gió được-mất, khen-chê, danh thơm-tiếng xấu và khổ-vui. Nghịch cảnh hay chướng duyên đối với người trí chỉ là thử thách nên họ vẫn bình thản, an nhiên khi bị hủy nhục sai sự thật trước mặt mọi người.
Giả sử như lúc đó tôi đang ở trong hoàn cảnh này thì có lẽ tôi sẽ đùng đùng nỗi giận mà oán ghét ông thầy của mình rồi bỏ đi không một lời từ giã. Tám gió thổi chẳng động là thước đo để kiểm nghiệm người tu hành chân chánh, nếu ta không trải qua những hoàn cảnh đau thương, nghiệt ngã như thế thì làm sao ta biết mình có bị gió thổi hay không.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Điều kỳ diệu về nhục thân của Hòa thượng Thích Minh Đức

Điều kỳ diệu về nhục thân của Hòa thượng Thích Minh Đức

Đăng lúc: 19:19 - 07/06/2015

Nhận được tin báo từ TS Đoàn Ngọc Khôi, Phó Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi, tôi được UBND tỉnh mời vào để nghiên cứu, đánh giá về chuyện “toàn thân xá lợi” của Hòa thượng Thích Minh Đức sau 26 năm viên tịch. Đồng thời phải tìm cách xử lý vì nhục thân của ngài đặt trong tháp đá bắt đầu có hiện tượng mối đùn… Thượng tọa Thích Hạnh Khương - trụ trì chùa Long Bửu, đội 11, thôn Xuân Vinh, xã Hành Đức, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, niềm nở tiếp chúng tôi và thuật lại câu chuyện.
Hòa thượng Thích Minh Đức, thế danh Nguyễn Khắc Dần, sinh năm 1901 tại làng Hiệp Phổ, xã Hành Đức, huyện Nghĩa Hành. Năm 17 tuổi, ngài xuất gia tu học tại chùa Phước Quang, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, dưới sự dìu dắt của Hòa thượng Tăng Cang Hoằng Tịnh và được ban pháp tự Đạo Thứ. Vốn là người thông minh, ham học hỏi, lại vô cùng đức độ, khiêm nhường, nên năm 1940, ngài được cử về trụ trì Tổ Đình Long Bửu và đảm nhận làm Hội trưởng Hội Phật giáo huyện Nghĩa Hành.

Năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ Ngài được cử làm Hội trưởng Hội Phật giáo cứu quốc huyện Nghĩa Hành. Ngài đã dốc sức hoàn thành mọi công việc để làm đẹp đạo, tốt đời… Bên cạnh việc tu tập, ngài còn nghiên cứu về đông y và trở thành một lương y nổi tiếng để cứu độ chúng sinh...

Cuối năm 1984, linh cảm thấy gần đến lúc phải ra đi, ngài rời chùa Linh Phước về lại tổ đình Long Bửu. Vào đêm 18 tháng Giêng năm Ất Sửu 1985, ngài gọi các đệ tử lại bên mình dặn dò lần cuối, nhắn nhủ 13 điều khuyên người niệm Phật… Đôi mắt ngài ngước lên nhìn bức ảnh tượng Adiđà, ngài bảo vị Trưởng tử đưa cho mình bức ảnh. Hai tay nâng bức ảnh phật Adiđà úp lên mặt, cũng là lúc ngài trút hơi thở cuối cùng. Lúc đó, kim đồng hồ chỉ 3h sáng 19 tháng Giêng năm Ất Sửu, tức 8/2/1985. Ngài trụ thế 84 năm và hạ lạp 51 năm. Môn đồ tứ chúng xây tháp để an trí nhục thân ngài ngay tại sát bên phải tổ đình Long Bửu.


Khai quật mộ của Hòa thượng Thích Minh Đức. Ảnh: Lê Văn Bình.
Thời gian trôi qua, ngôi tháp cũ bị xuống cấp trầm trọng vì mưa nắng, lũ lụt. Môn đồ chùa Linh Phước ở Đà Lạt, đã phát nguyện để xây dựng một ngôi bảo tháp mới, được đặt tên là Long Bửu tháp. Ngày 11/1/2011, trước sự chứng giám của 10 phương chư phật, chư tôn, tăng ni, phật tử gần xa…, lễ khai quật mộ phần ngài trong ngôi tháp cũ bắt đầu, để sau đó cải táng đưa vào tháp mới.

Mọi người thật sửng sốt khi chứng kiến quan tài của ngài đã bị mục nát nhưng chiếc áo ca sa và những dải băng vải bó thân xác ngài vẫn còn nguyên vẹn. Xương sọ của ngài có màu vàng. Hai xương bàn chân còn nguyên vẹn, các đốt xương bàn và cổ chân dính chặt vào nhau và dựng đứng lên theo như tư thế chôn ban đầu. Qua bức ảnh của nhà nhiếp ảnh Lê Văn Bình, tôi thấy điều kỳ diệu là khung xương phần thân của ngài không bị sập xuống, mặc dầu khối đất đè trên mình là quá lớn khi quan tài đã mục nát.

Thượng tọa Thích Hạnh Khương còn kể lại cho tôi một chi tiết cũng rất lạ. Khi mới khai quật lên, thấy trên sọ Hòa Thượng có ba chấm màu hồng. Sau khi đưa nhục thân của ngài vào tháp thì 1 tuần sau ba chấm chuyển sang màu đen, 1 tuần sau nữa ba chấm chuyển thành màu trắng, còn hiện nay là màu vàng. Nhìn tháp mộ của ngài kiên cố như vậy mà không hiểu sao theo báo cáo lại bắt đầu có mối đùn lên ở bên trong.

Tôi hỏi Thượng tọa Thích Thanh Khương thì được biết: “Quan tài mới của Hòa Thượng được làm bằng loại gỗ quý kiền kiền, hay người ta còn gọi là gỗ xoay (tên khoa học là Hopea pierrei Hance, thuộc họ dầu Dipterocarpaceae), rất cứng, không bị mối mọt. Quan tài chỉ có 4 mặt bao quanh, dưới đáy là một tấm thất tinh (có 7 lỗ để thông thoáng với đất). Trên tấm tất tinh, người ta trải gạo nếp rang và đặt Hòa thượng lên trên”.

Theo tôi, có lẽ chính đây là nguyên nhân sơ xuất khi cải táng, vì mối đã dễ dàng đi qua 7 lỗ để vào ăn lớp gạo trải ở dưới. Không có lý do gì để ngăn cản bọn mối khi ăn hết gạo sẽ hủy hoại nhục thân của Hòa thượng.

Ngày 27/5, trong buổi làm việc với Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi – ông Lê Quang Thích và sau đó với ông Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở VH, TT&DL tỉnh, chúng tôi đã nói rõ giá trị của nhục thân và đề nghị phải xử lý ngay chuyện mối. Lãnh đạo tỉnh rất quan tâm và đã đề nghị Bảo tàng Tổng hợp Quảng Ngãi tổ chức cuộc họp với Ban Tôn giáo tỉnh, huyện, chùa Long Bửu và các cơ quan có liên quan để được phía Giáo hội Phật giáo đồng tình cho tiến hành chống mối và bảo quản nhục thân bằng phương pháp khoa học.

Về ý nghĩa của nhục thân Hòa thượng Thích Minh Đức, theo chúng tôi có những nét độc đáo. Như đã biết, ở Việt Nam hiện nay có 4 nhục thân mà chúng tôi đặt tên cho táng thức này là thiền táng, đó là các thiền sư: Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường (Chùa Đậu - Hà Nội), Như Trí, Chuyết Chuyết (Bắc Ninh). Nhưng cả 4 vị này đều dùng kỹ thuật sơn ta trộn với phụ gia: đất mối đùn, giấy dó, mạt cưa, vải màn rồi dát vàng, bạc, quang dầu… để phủ bọc lên cơ thể. Còn ở nhục thân của Hòa Thượng Thích Minh Đức, hoàn toàn chôn ngay trong đất, không hề có sơn ta. Vậy tại sao hài cốt và vải bọc bên ngoài còn nguyên vẹn?

Theo ý kiến của chúng tôi, có 2 lý do cơ bản đó là do Đại lão Hòa thượng Thích Minh Đức đã có một quá trình rất dài chứng nghiệm trong tu tập và đạt đến sự giác ngộ viên mãn. Điều đó thể hiện sự đắc đạo trong tu chứng mà chỉ có những vị cao tăng mới đạt được. Chỉ có làm chủ được tâm thức thì ngài mới tự điều khiển được ngày, giờ ngài ra đi để trở về với cõi vĩnh hằng. Bên cạnh đó cũng có thể do long mạch khi đặt huyệt mộ rất chính xác nên nhục thân được bảo toàn.

Chúng tôi được biết, ở Thái Lan, vào tháng 6/1973, tại ngôi chùa Kararam trên đảo Samui, vị sư trụ trì Luang Po Daeng linh cảm giờ phút từ bỏ cõi đời của mình đã đến. Ông nói với các sư trong chùa rằng ông sắp ra đi. Thế rồi ông lặng lẽ bước vào căn phòng nhỏ, thay chiếc áo vàng mới, ngồi xuống tấm chăn mỏng và cả người cứ bất động như thế cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Thi hài của ông sau này chỉ bị hỏng phần mắt, da dẻ còn nguyên, họ đặt ngài vào quan tài dựng đứng, lắp kính trong suốt để du khách thập phương tới chiêm ngưỡng…

Tại sao những di hài này không bị phân hủy theo thời gian? Có lẽ cũng do sự tu tập viên mãn, như Hòa thượng Thích Minh Đức. Trước đây, chúng ta cũng đã từng biết Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để chống lại chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo. Thịt nát, xương tan nhưng trái tim của Hòa thưởng vẫn còn nguyên vẹn, điều mà chúng tôi, những nhà khoa học không thể giải thích được, nhưng Phật giáo thì lại coi là chuyện đương nhiên.

Để khép lại bài báo này, chúng tôi chỉ mong muốn Bộ VH, TT& DL sẽ có kế hoạch xếp hạng chùa Long Bửu thành di tích Quốc gia, nơi còn lưu giữ nhục thân của Đại lão Hòa thượng Thích Minh Đức - đúng với giá trị của nó và sẽ là nơi cho khách thập phương được chiêm ngưỡng nhục thân của ngài, với ngôi bảo tháp bằng đá tuyệt đẹp, với chùa Long Bửu mà phía trước là cả một đầm sen rộng mênh mông, lộng gió.

PGS.TS Nguyễn Lân Cường

Nghiệp duyên chỉ bởi một nụ cười

Nghiệp duyên chỉ bởi một nụ cười

Đăng lúc: 21:26 - 05/06/2015

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng giảng rằng: Phương pháp độ nhân, cần phải chú trọng “khéo léo đúng dịp”. Câu chuyện Đức Phật hóa độ Bạt Kiết Đế, người con gái đem lòng cảm mến tôn giả A Nan, chính là một minh chứng sống động về phương diện này.


Tôn giả A Nan trông vô cùng anh tuấn khôi ngô, Văn Thù Bồ Tát từng dùng “Tướng như thu mãn nguyệt, mục tựa tịnh liên hoa” để ca ngợi ngài.

Một hôm, tôn giả A Nan khát nước đến không chịu được, liền đến bên một thiếu nữ đang gánh nước xin chút nước uống. Thiếu nữ này tên là Bạt Kiết Đế, là tộc người Ma Đăng Già vốn bị mọi người xem là hạ tiện. Cũng giống như bao thiếu nữ quyền quý khác, cô cũng đã ngưỡng mộ A Nan từ lâu. Nhân thấy A Nan đến chỗ mình xin nước uống, lòng cô vui khôn tả xiết.

Tôn giả A Nan uống nước xong, cúi mình cảm tạ cô gái, trong lòng ngài không hiểu sao lại có cảm giác dường như đã quen biết cô từ rất lâu rồi.

Thiếu nữ nhìn theo hình bóng A Nan đi xa rồi khuất dần, bỗng sinh lòng mến mộ, từ đó cô chìm sâu vào nỗi nhớ tương tư của mối tình đầu, thần trí suốt ngày ngẩn ngơ như mất hồn mất vía.

Mẹ cô không ngừng gặn hỏi nguyên do, cuối cùng cô cũng nói ra sự thật. Người mẹ không nhẫn tâm nhìn thấy con gái ngày một gầy đi, liền nghĩ ra một mưu kế: Sa Bì Già La Tiên Phạm Thiên chú, có thể mê hoặc đàn ông, nếu như gạt A Nan đến chỗ này, mời người niệm chú, để cho họ gạo nấu thành cơm……

Một hôm, quốc vương Ba Tư Nặc mở hội đàn trai tăng cúng dường, Đức Phật cùng chúng đệ tử là những người được mời đến tham dự. Tôn giả A Nan vì đi ra ngoài chưa về, nên không thể đến dự tiệc hội trai tăng, đành phải tự mình cầm bát đi khất thực. Khi đi ngang qua trước cửa nhà của người thiếu nữ Ma Đăng Già, cô mỉm cười tiếp đón ngài, nói: “Tôn giả A Nan, ngài còn nhớ tôi không?”

Tôn giả A Nan thực tình vẫn chưa quên người thiếu nữ xinh đẹp này, liền cười cười gật đầu.

Thiếu nữ vô cùng xúc động nắm lấy tay A Nan, nói: “Hãy theo em vào nhà nào, vào nhà em nhận cúng dường”.

A Nan trong đầu mơ mơ màng màng đi theo sau cô gái, vào đến khuê phòng của cô, tôn giả cứ như khúc gỗ, mặc cho người ta sắp đặt, trong lòng rất muốn thoát ra, nhưng lại không làm gì được.

Lúc này, hội trai tăng cúng dường trong hoàng cung cũng vừa mới bắt đầu, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni biết rõ A Nan bị ma chú khống chế, không cách nào thoát ra được, liền căn dặn Văn Thù Bồ tát, dùng Lăng Nghiêm Chú mà giải cứu A Nan.

Văn Thù Bồ tát vội đến nhà thiếu nữ, dùng Lăng Nghiêm Chú hóa giải Sa Bì Già La Tiên Phạm Thiên chú. A Nan giật mình tỉnh ngộ, thoát khỏi sự khống chế của cô gái, lôi thôi lếch thếch trở về tịnh xá.

Thiếu nữ Ma Đăng Già không can tâm bỏ cuộc dễ dàng như vậy, ngày ngày cứ đứng chờ A Nan trước của tịnh xá, A Nan đi đến đâu, cô theo đến đó. Cuối cùng tôn giả A Nan hết cách, đành cầu xin Đức Phật giúp đỡ.

Đức Phật nói: “Ngày mai con hãy gọi cô gái đó đến đây, ta sẽ nói chuyện với cô ấy”.

Ngày hôm sau, cô gái theo A Nan đến gặp Đức Phật. Đức Phật không hề oán trách cô nửa lời, Ngài từ bi mà nói với cô rằng: “Tâm tình muốn được gả cho A Nan của con ta hiểu được, nhưng A Nan đã là người xuất gia, nếu con muốn gả cho y, thì con cần phải xuất gia tu hành một năm cái đã”. Thiếu nữ liền gật đầu đồng ý.

Đức Phật nói: “Xuất gia cần phải được sự đồng ý của cha mẹ, cha mẹ con đồng ý cho con xuất gia sao?”

Thiếu nữ đáp: “Bẩm Phật Đà! Từ nhỏ đến lớn cha mẹ con lúc nào cũng đều nghe lời con hết, họ nhất định sẽ đồng ý cho con xuất gia”.

Cứ như vậy, thiếu nữ Ma Đăng Già vui vui vẻ vẻ mà xuống tóc tu hành, trở thành một thành viên trong nhóm Tỳ Kheo Ni.

Sau khi xuất gia, dưới sự cảm hóa của Phật Pháp, trái tim nồng nhiệt ban đầu của cô, càng ngày càng trở nên tĩnh lặng, dần dần cô hiểu ra rằng tình cảm ràng buộc đối với A Nan ngày trước đều là sự ngu muội nhất thời mà thôi.

Phật Đà nói với chúng đệ tử rằng: A Nan và Bạt Kiết Đế 500 năm kiếp trước, trong một lần tình cờ gặp gỡ, hai người đã mỉm cười với nhau, từ đó mà dẫn đến tình duyên trong đời này.

Từ đó, Bạt Kiết Đế càng thêm nỗ lực tinh tấn tu hành, sau cùng cô trở thành một trong những người kiệt xuất trong nhóm Tỳ Kheo Ni, chứng đắc Thánh quả còn sớm hơn cả A Nan.

(Dựa theo “Câu chuyện mười đại đệ tử của Đức Phật”)

Nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng

Nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng

Đăng lúc: 22:43 - 04/06/2015

Trong các pháp thoại của Thế Tôn, những hình ảnh trực quan luôn được vận dụng để minh họa cho thính chúng dễ hiểu, dễ liên hệ, nhận rõ ý nghĩa những lời dạy của Ngài. Nước sông Hằng đã được Thế Tôn dùng để chỉ cho nước mắt của chúng sanh khóc thương nhau trong những lần tử biệt sanh ly, chuyển lưu sanh tử trong nhiều đời kiếp.

Một trẻ thơ chào đời, mọi người thân đều vui. Một người nhắm mắt lìa đời, những người thân yêu đều tiếc thương, ngậm ngùi khóc than tiễn biệt. Nhịp sống cứ tiếp nối như vậy, trải qua biết bao lần vui buồn với tử sanh, khiến cho nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng, thậm chí nhiều hơn nước trong bốn biển.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Thế nào, Tỳ-kheo các thầy lưu chuyển sanh tử trải qua bao khổ não, trong đó buồn khóc nước mắt rơi là nhiều chăng? Hay nước sông Hằng nhiều?
Các Tỳ-kheo đến trước bạch Phật:
- Chúng con khi quan sát ý nghĩa câu nói của Như Lai, trải qua sanh tử, nước mắt rơi khi buồn khóc nhiều hơn nước sông Hằng.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Lành thay, lành thay! Các Tỳ-kheo! Như các thầy nói không khác. Các thầy ở trong sanh tử, nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng. Vì sao thế? Ở trong sanh tử, cũng vì phụ mẫu mạng chung, khi ấy khóc lóc không thể tính kể. Lâu dài cha con, chị em, vợ con, ngũ thân và các quyến thuộc ân ái thương nhớ khóc lóc không thể tính kể.
Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên chán họa sanh tử, xa lìa pháp ấy. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Khi Phật nói pháp này, có sáu mươi Tỳ-kheo được lậu tận ý giải.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm Phi thường,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.527)

Thế Tôn nói một cách cụ thể về sự “thương nhớ khóc lóc không thể tính kể”, về “nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng” để chỉ cho chúng ta thấy rằng, mình đã trôi lăn trong luân hồi nhiều kiếp, mình đã trải qua vô lượng khóc than tiễn biệt nhau, nay được làm thân người “nên chán họa sanh tử” mà hướng đến vô sanh. Biết rằng rồi đây mình sẽ chết, sẽ kết thúc một đời vốn nhiều khổ đau và giả tạm này nhưng sau cái chung cuộc ấy thì cánh cửa nào sẽ mở ra?
Tam giới, lục đạo hay Cực Lạc, Niết-bàn hoàn toàn tùy thuộc vào nhận thức, cách sống và cách tu dưỡng của chính mình trong hiện tại. Nếu muốn sanh lên, muốn hướng thượng và thăng hoa thì cần xả buông. Buông được chừng nào thì càng nhẹ nhàng chừng nấy. Còn nắm giữ, dính mắc càng nhiều thì càng bị kẹt và nặng nề thêm, không thể thoát ra được.
Người con Phật phải nhận rõ khổ đau lớn nhất của kiếp người là mãi trôi lăn trong luân hồi sanh tử. Giải thoát tối hậu là ra khỏi luân hồi, chứng đắc Niết-bàn hay ít ra là thành tựu vãng sanh Cực Lạc. Giải thoát từng phần chính là sự thực hành xả buông trong đời sống hàng ngày.
Chán ngán cuộc luân hồi tử sanh vô tận (Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán) là tuệ giác đầu tiên, là nền tảng cho nguyện lực quyết buông bỏ những dính mắc và trói buộc thế thường để cất bước ra đi tìm đường thoát khỏi sanh già bệnh chết. Như Thế Tôn xưa, sau khi dạo bốn cửa thành thấy chán ngán tất cả mới đủ nguyện lực xả buông, nửa đêm vượt thành xuất gia tầm đạo.
Chúng ta ngày nay bước chân vào chùa, vào đạo là nguyện theo dấu chân xưa. Dẫu sống trong cuộc đời như bao người nhưng quyết không bị kẹt, không chìm đắm. Dẫu cũng tử sanh như bao người nhưng nguyện đó là lần sau cùng. Dẫu biết rằng giải thoát khỏi tử sanh là vượt sang bờ kia nhưng kỳ thực làm gì có bờ để sang, có tử sanh để vượt thoát.
“Sáu mươi Tỳ-kheo được lậu tận ý giải” chính là chỗ này. Khổ đau, sanh tử cũng từ tâm mình mà ra và cũng ngay nơi tâm mà diệt. Xả buông đến tận cùng, không chấp thủ bất cứ vật hay việc gì thì ngay đây, ngay nơi tử sanh mà giải thoát, ngay nơi cuộc đời “nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng” này chính là Cực Lạc, Niết-bàn.

Quảng Tánh (

grab1431472037main 1200 017 143184535 (1)

Rực rỡ đêm cầu nguyện nhân lễ Makha Bucha tại Dhammakaya - Thái Lan

Đăng lúc: 18:31 - 14/05/2015

Hàng ngàn Phật tử tụ hội lại Wat Dhammakaya (Thiền đường Pháp Thân) ở Thái Lan vào thứ 4 để hành lễ Makha Bucha, một nghi lễ đánh dấu ngày kỷ niệm Bụt thuyết bài thuyết pháp đến 1.250 Tăng sĩ đầu tiên mới xuất gia cách đây 2.558 năm. Kiến trúc của đại tháp và nghệ thuật sắp xếp tạo nên những kiệt tác tuyệt vời: hình ảnh của hàng ngàn tượng Phật nhỏ bằng vàng tạo nên mái vòm trung tâm, hơn 100.000 lồng đèn rực sáng trong đêm, và hàng ngàn Tăng sĩ và Phật tử tụ hội trong những vòng tròn và hàng để thực tập thiền.

bizmac thumb 23434

Bao dung là tiền đề để hiểu nhau

Đăng lúc: 19:55 - 13/05/2015

Thông thường ai cũng cho rằng, giao tiếp là phải để đối phương chấp nhận mình mà quên việc mình phải thông cảm, tìm hiểu yêu cầu thực sự của người khác với mình. Ví dụ có người muốn tìm hiểu, giao tiếp với người khác nói: “Tôi đã đặt mình vào vị trí bạn để nghĩ cho bạn vì thế nhất định bạn phải chấp nhận yêu cầu của tôi”, rồi người đó hỏi “bạn có thấy khó chấp nhận không?” Nếu đối phương cảm thấy khó chấp nhận, người đó hỏi tiếp “đơn giản thôi, chỉ cần bạn nghe theo lời đề nghị của tôi, tất cả khó khăn đều sẽ giải quyết suôn sẻ”.Có thể xem đây là mẫu giao tiếp đến từ một phía, hoàn toàn không phải là hiểu nhau. Giao tiếp thực sự đòi hỏi bạn phải tìm hiểu đối phương có khó khản gì, cần giúp đỡ không, sau đó bạn cố gắng giúp trong khả năng có thể, không nên chỉ biết một mực yêu cầu người khác chấp nhận cách làm của mình.Trong thời gian du học ở Nhật, tôi phát hiện ra rằng đến bất cứ một cửa hiệu nào, nhân viên phục vụ đều hỏi câu “Xin hỏi, quý khách có cần giúp đỡ gì không ạ?”. Trong giao tiếp, chúng ta nên lấy việc hiểu biết nhau làm chuẩn mực. Khi giúp đỡ người khác, không nên làm theo cách mình định sẵn trước rồi áp đặt, bắt buộc đối phương phải nghe theo. Ví dụ, khi ta mở tiệc mời khách thường không hỏi đến khẩu vị khách mời mà cứ có khách ngồi vào bàn là liên tục gắp thức ăn cho họ khiến khách ăn không được, bỏ không xong, rất lúng túng khó chịu ở các nước phương Tây không như thế. Có lần có khách đến nhà tôi chơi, tôi gắp thức ăn cho họ, họ vô cùng vui mừng nói: “Thầy biết tôi thích ăn món này hả?”. Từ đó, trước khi gắp thức ăn cho ai, tôi đều hỏi khẩu vị người đó trước.Từ đó, chúng ta có thể đúc kết thành nguyên tắc trong giao tiếp: “Trước hết hãy để đối phương nêu cách nghĩ và nhu cầu của họ, sau đó cho họ biết mình có thể giúp được gì cho những nhu cầu của họ không, như thế mới là một giao tiếp thành công”.Giao tiếp là quá trình giao lưu, tìm hiểu lẫn nhau từ cả hai phía, nếu chỉ đến từ một phía nhất định đấy không phải là giao tiếp thành công đích thực. Trong Phật pháp có nêu biện pháp tiếp cận mọi người gọi là “tứ nhiếp pháp”1 gồm: Đồng sự, bố thí, lợi hành và ái ngữ. Đây là bốn phương pháp rất quan trọng trong việc tiếp cận cảm hóa mọi người.Một người xuất gia muốn gần gũi, cảm hóa chúng sinh tuyệt đối không được ép người khác phải học và làm theo Phật pháp mà trước tiên hãy để họ thực sự hiểu và chấp nhận trước. Muốn hóa độ chúng sinh, điều trước tiên bạn phải chấp nhận chúng sinh.Theo Phật giáo, đệ tử Phật hoặc những người thực hành hạnh Bồ-tát không thể lìa xa chúng sinh để tu tập được. Vì lời nguyện đầu tiên của một người thực hành hạnh Bồ-tát là “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” (chúng sinh vô lượng thề cứu hết). Lìa xa chúng sinh để cầu độ sinh là điều không tưởng; nhất định bạn phải phụng sự chúng sinh, mở rộng lòng mình để chấp nhận tất cả lỗi lầm của chúng sinh, giúp họ giải quyết vấn đề trước, sau đó mới mong họ mở rộng lòng mình chấp nhận tu học theo Phật pháp.Thật là sai lầm khi nói với mọi người “Phật pháp nhiệm mầu, mọi người phải tin theo, phải làm theo”, làm thế nghĩa là bạn đang chứng tỏ quyền uy chứ không phải cảm hóa người khác. Nên lấy Phật pháp để cảm hóa, để gõ cửa lương tâm, thức tỉnh tình thương trong con người chứ không nên dùng Phật pháp như công cụ dạy dỗ người khác.Bồ-tát luôn là người đến với chúng sinh bằng thân phận bình thường, hòa mình vào cuộc sống bình thường, thậm chí còn hạ mình thấp để chúng sinh được cao hơn cả chính mình, cho họ một cảm giác được tôn trọng mới mong họ có thiện cảm với Phật pháp. Cũng thế, khi giao tiếp với người khác, bạn cần hạ thấp mình trước đối phương, hãy dành cho đối phương sự tôn trọng, trước hết bạn phải chấp nhận và dung nạp đối phương sau đó đối phương mới chấp nhận và giao tiếp với bạn.

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 93
  • Hôm nay 4,267
  • Tháng hiện tại 61,652
  • Tổng lượt truy cập 23,467,901