Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Sa-môn Thích tử

Sa-môn Thích tử

Đăng lúc: 04:39 - 03/04/2017

Sa-môn là danh xưng của người xuất gia, cạo bỏ râu tóc, dứt trừ các điều ác, siêng làm các việc lành, tu tập thiền định để thú hướng Niết-bàn. Trước thời Đức Phật, các vị đạo sĩ sống đời xuất thế đã được gọi là Sa-môn (Bà-la-môn). Khi Đức Phật ra đời, các đệ tử xuất gia của Ngài cũng gọi là Sa-môn nhưng để phân biệt với ngoại đạo nên gọi thêm là Sa-môn Thích tử (Sa-môn con dòng họ Thích, Sa-môn đệ tử của Phật Thích Ca).
Như nước của trăm sông, khi về xuôi thì hòa nhập thành một là biển cả mênh mông rộng lớn. Nước của các sông kia cũng trở nên thuần một vị mặn mà. Cũng vậy, người trong thiên hạ tuy xuất thân từ những dòng tộc, hoàn cảnh, giai cấp khác nhau nhưng khi đã quy Phật xuất gia thì rũ bỏ hết mọi khác biệt, trở thành Sa-môn Thích tử, tất cả đều chung một mục tiêu duy nhất là thú hướng giải thoát, Niết-bàn.

samon.jpg
Tất cả đều chung một mục tiêu duy nhất là thú hướng giải thoát, Niết-bàn - Ảnh minh họa

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay có bốn dòng sông lớn từ suối A-nậu-đạt chảy ra. Những gì là bốn? Đó là Hằng-già, Tân-đầu, Bà-xoa, Tư-đà. Nước sông Hằng-già từ miệng trâu chảy ra về hướng Đông. Nước Tân-đầu từ miệng sư tử chảy về hướng Nam. Nước Tư-đà từ miệng voi chảy về hướng Tây. Nước Bà-xoa từ miệng ngựa chảy về hướng Bắc. Bốn dòng sông lớn nhiễu quanh hồ A-nậu-đạt, Hằng-già vào biển Đông, Tân-đầu và biển Nam, Bà-xoa vào biển Tây, Tư-đà vào biển Bắc. Bốn sông lớn vào biển rồi, không còn tên cũ, chỉ gọi là biển.

Đây cũng như thế, có bốn dòng họ. Những gì là bốn? Dòng Sát-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Ở chỗ Như Lai cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, không còn dòng họ cũ, chỉ gọi là Sa-môn Thích tử. Vì cớ sao? Chúng của Như Lai ví như biển lớn. Bốn dòng họ như bốn sông lớn, trừ bỏ kiết sử vào thành Niết-bàn Vô úy. Thế nên, các Tỳ-kheo! Có các vị thuộc bốn dòng cạo bỏ râu tóc, do niềm tin kiên cố, xuất gia học đạo, họ sẽ bỏ tên cũ, tự xưng Thích tử. Vì sao thế? Nay Ta chính là Thích tử, từ trong dòng họ Thích xuất gia học đạo.

Tỳ-kheo nên biết! Muốn luận nghĩa sanh con, nên gọi là Sa-môn con dòng họ Thích. Vì sao thế? Sanh đều do Ta sanh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu. Thế nên Tỳ-kheo! Nên cầu phương tiện được làm con dòng họ Thích. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 29.Khổ lạc,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.102)

Ngày nay mỗi người xuất gia đều được vinh hạnh mang dòng họ Thích cao quý của Đức Phật, nguyện làm con của Ngài, là “Sa-môn con dòng họ Thích”. Về hình thức, người xuất gia chính là Sa-môn Thích tử nhưng trong nội dung chúng ta thực sự có “cầu phương tiện được làm con dòng họ Thích” hay không, mới là chỗ đáng bàn.

Có câu “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Khi tự nhận là Thích tử, làm con của Đức Phật, thiết nghĩ chúng ta cũng nên tự soi xét lại mình có chút gì tương ưng với bậc Cha hiền (Từ phụ) của mình hay không? Bởi Thế Tôn đã từng căn dặn: “Muốn luận nghĩa sanh con, nên gọi là Sa-môn con dòng họ Thích. Vì sao thế? Sanh đều do Ta sanh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu”.

Thế nên, từ bỏ dòng họ thế tục để mang dòng họ Thích là điều không khó. Đích thực là con dòng họ Thích, “do Đức Phật sinh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu” mới là điều khó. Khó mà làm được mới đáng gọi là Sa-môn Thích tử.
Quảng Tánh

Tu tập để ra khỏi luân hồi sanh tử

Tu tập để ra khỏi luân hồi sanh tử

Đăng lúc: 07:59 - 08/10/2016

Người thế gian không hiểu nên thường oán trách cha mẹ không có phước nên sanh ra mình khổ, hoặc cha mẹ không có tài nên mình thua sút người ta, mà không biết chính mình thọ nhận quả báo đời trước đã tạo, nên mới sanh vào gia đình tương ưng như thế. Cha mẹ chỉ là phần phụ thôi, gốc ở bản thân chúng ta. Như vậy, thuyết luân hồi nói lên lẽ thực của kiếp người. Đức Phật đã thấy, đã nhớ rõ ràng nên nói ra cho chúng ta biết, chớ không phải do Ngài tự tưởng tượng, nhưng vì chúng sanh nhìn nông cạn quá nên không tin được.


- Chữ tu giữa đời thường
- Từ án mạng chùa Bửu Quang suy ngẫm bài "Tu là học xử lý khổ đau"

Khi biết rõ kiếp luân hồi như vậy, ai can đảm tạo thêm những nghiệp ác để chịu khổ hơn? Cho nên chúng ta phải tinh tấn làm những điều lành, điều thiện. Nếu không làm cho ai, ít ra ta cũng giữ được phần mình, đừng phạm những giới phải đọa lạc. Đó là tu. Đức Phật thấy rõ sự nguy hiểm của luật nhân quả luân hồi nên chỉ cho mình đường lối tu, chớ không phải áp đặt chúng ta. Khi quy y thọ năm giới, quý thầy hỏi Phật tử “giữ được không”, quý vị giữ được thì nói “dạ được”, nếu giữ chưa được thì làm thinh, chớ đâu có ép. Vì giữ giới là giữ cho mình, không phải giữ cho Phật.
Tu tập để ra khỏi luân hồi sanh tử
Đi sâu vào tâm lý mỗi người, chúng ta sẽ thấy mình đã từng quen thuộc, ưa thích với những việc làm của thuở quá khứ. Ví dụ như bản thân tôi, tại sao lại thích tu? Người đời lớn lên lo chuyện làm ăn hoặc lập gia đình, tại sao mình không thích những chuyện ấy mà lại thích đi tu? Như vậy là từ đời quá khứ ta đã tích lũy hạt giống Phật, nên bây giờ luôn nhớ việc tu. Rõ ràng chúng ta không quên hết nhân quá khứ, nhân nào chứa sâu đậm sẽ trở thành sở thích, việc làm của mình trong đời này.

Có người ra đời thích làm lành, có người ra đời lại hung dữ. Mỗi người thích mỗi cách, đó là do sự tích lũy của quá khứ khác nhau. Quá khứ đã tích lũy sẵn nên bây giờ nó hiện ra. Quý Phật tử kiểm lại xem, nếu do gien cha mẹ sanh ra là yếu tố duy nhất tạo thành những đứa con sau này, thì cha mẹ bệnh tật gì con cũng phải bệnh tật y hệt như thế. Tâm hồn của con do cái gì tạo? Có nhiều cha mẹ rất hiền nhưng con không hiền. Hoặc ngược lại cha mẹ dữ mà con lại hiền. Những sự khác biệt đó nhà Phật gọi là nghiệp tích lũy của quá khứ, chúng ta mang theo khi thọ sanh. Những gì mình đã chứa chấp đời trước, bây giờ nó hiện ra rõ ràng. Như hai anh em ruột, thể xác giống chút chút mà tâm hồn không giống nhau. Như vậy mới thấy mỗi người sanh ra mang một nghiệp khác nhau, từ đó có những sai biệt khác nhau.

Thế thì trên nẻo luân hồi muốn đi đường tốt, không đi đường xấu, chúng ta phải làm sao? Thấy người đáng ghét ta nên xử sự thế nào? Nên nghĩ rằng họ có làm gì hại mình mà ghét. Ghét người như vậy là ta đã có ý nghĩ xấu. Nếu tiếp tục nuôi dưỡng ý nghĩ này, sanh chuyện với người ta là cái cớ để tạo thêm nghiệp. Nếu mọi người đều biết tu như vậy thì gia đình, xã hội đẹp biết bao nhiêu.

Nhà Phật nói nghiệp từ thân, miệng, ý mà sanh, trong đó ý chủ động tạo nghiệp. Miệng nói tốt xấu cũng từ ý, thân làm tốt xấu cũng từ ý. Ý là nói chung cho tất cả những phân biệt thương ghét, buồn giận, hơn thua, phải quấy… đều từ ý nghĩ của mình. Chúng ta chạy theo ý nghĩ là chạy theo nghiệp. Ý nghĩ xấu nên nói bậy, làm bậy; ý nghĩ tốt nên nói lành, làm lành. Khi thân hoại, nghiệp vẫn không hoại, vì nó đâu có tướng mạo mà hoại, nên sẽ theo ta thọ sanh ở đời sau. Nhà Phật gọi là mang nghiệp đi trong luân hồi sanh tử. Vậy muốn chấm dứt nghiệp phải điều phục được ý thức của mình.

Tăng Ni trong thiền viện ngồi thiền cốt để định cái ý đó, nên gọi là thiền định. Tất cả những nghĩ suy lăng xăng, lộn xộn bắt nó lặng xuống hết. Chưa lặng thì điều phục lâu dần nó sẽ lặng. Nó lặng rồi thì nhân tạo nghiệp không còn, nhân tạo nghiệp không còn thì quả luân hồi sanh tử chấm dứt, gọi là giải thoát sanh tử.

Muốn biết có luân hồi hay không, chúng ta cứ nghiệm trong tâm niệm của mình sẽ rõ. Cha mẹ sanh thân được mà không thể sanh tâm niệm của con. Tâm niệm đó từ đâu ra? Từ sự tích lũy của đời trước. Nhiều người ngạc nhiên tại sao con còn nhỏ mà không chịu ăn mặn? Ngược lại, có kẻ cha mẹ khuyên ăn chay thì ăn không được, một ngày cũng ăn không nổi. Đó là do tích lũy từ trước, bây giờ gặp lại thấy quen, thấy thích, chớ không phải bỗng dưng mà có.

Tích lũy tức là những gì đời trước mình đã từng làm từng huân tập. Đời này trở lại những thứ ấy không mất. Vì vậy trong kiếp luân hồi chúng ta theo nghiệp mình đã tích lũy, chất chứa mà hiện ra thành tâm hồn cá biệt của mỗi người. Nên nói đến luân hồi chúng ta đừng suy gẫm gì hết, cứ nhìn lại nội tâm mình thì biết ngay. Tại sao người đó chưa quen thuộc mà mình thấy dễ thương, hoặc kẻ kia cũng chẳng quen thuộc mà mình thấy phát ghét. Vì chúng ta không nhớ nổi, nên nói không biết tại sao kỳ vậy. Thật ra do nghiệp tích lũy của quá khứ chiêu cảm nên.

Trên đời này ai không có những người thân, những kẻ thù. Có thân, có thù gặp lại nhau là khổ. Người thân thì mình thương, người thù thì mình ghét. Nhiều người nói tại sao anh chị có duyên quá, xin cái gì cũng được. Còn tôi vô duyên xin cái gì cũng không ai cho. Tại mình hay tại trời đất xui khiến. Chẳng qua hồi trước mình hất hủi thiên hạ, bây giờ tới phiên người ta hất hủi lại mình. Bình đẳng thôi. Như vậy mình tạo nghiệp lành, nghiệp dữ không đợi đời sau mới trả quả mà ngay hiện tại cũng ứng hiện quả báo phần nào. Đó là một lẽ thực.

Trong kinh kể lại Tôn giả Mục Kiền Liên khi chứng A-la-hán rồi, một hôm Ngài đi trên đường thấy có loài quỷ đầu rất to, bụng lại nhỏ xíu, thân thể ghê gớm lắm. Ngài về thuật lại với Phật, Phật nói ta cũng thường thấy chúng, nhưng nói không ai biết nên ta không nói. Những người tu chứng tới đó thì thấy như nhau, không phải chỉ riêng Phật. Nếu chúng ta đem con mắt phàm phu so sánh với con mắt Thánh nhân thì thật là quá thô thiển. Như những luồng điện đi trên hư không, mình thấy không? Không, mà nó vẫn có. Cho nên chúng ta không nên tin vào con mắt còn rất hạn chế của mình. Có những cái hiện thực mà mình chưa thấy, chưa hiểu được. Thế nên chớ vội cho cái thấy nghe của mình là đúng.

Nhiều người nói thương Phật quá nên tôi tu. Phật khổ cái gì mà thương? Chính mình mới khổ đây nè. Mình khổ, mình thương mình, mình tu chớ không phải thương Phật. Chúng ta mang ơn Phật chỉ đường cho mình tu, chớ không phải vì Phật mà tu. Mỗi vị tự kiểm điểm lại bản thân, xem hiện giờ mình đã thực hiện được những gì Phật dạy, xứng đáng đi đường nào? Như vậy tự biết mai kia khổ hay vui rồi, đâu cần phải hỏi ai. Phật tử có bệnh cứ thắp nhang cầu Phật độ cho con đời sau được sung sướng, hết khổ, mà cứ tạo nghiệp ác. Làm sao Phật cứu độ được?

Nhiều người không hiểu, cứ ngỡ ngồi thiền yên lặng cả ngày vô lý quá. Nhưng họ không ngờ chính đó là nhắm thẳng gốc để trị. Trị gốc được rồi thì sẽ dứt nhân, quả theo đó cũng không còn. Cho nên nói đạo Phật là đạo giải thoát. Giải thoát là dứt hết những mầm tạo nghiệp hoặc thiện hoặc ác, dẫn đi trong sanh tử. Phật dạy phải dừng những suy nghĩ đó lại thì cái chân thật hiện ra. Đó là mặt thật xưa nay của mình. Thật đơn giản!

Thế thì quý thầy, quý cô ở chùa vì quyết tu giải thoát nên phải tập ngồi thiền hoặc niệm Phật cho được nhất tâm. Nhất tâm thì đâu còn nghĩ bậy, đó là nhân giải thoát luân hồi sanh tử. Quý Phật tử không theo đạo Phật thì thôi, đã theo thì phải nắm vững đường lối Phật chỉ dạy, tu cho đúng. Phải chọn con đường hợp với khả năng của mình, từng bước tu tập theo lời chỉ dẫn của Phật. Có thế mới không sợ ngày mai đường trước tối tăm, không biết lối đi. Quý vị khéo ứng dụng tu, cần phải phát tâm dũng mãnh, bền bỉ thực hành cho tới bao giờ thành tựu mới thôi.

Chúc tất cả Tăng Ni, Phật tử mau chấm dứt khổ luân hồi sanh tử.

HT.Thích Thanh Từ

Tác hại của niềm tin mê lầm

Tác hại của niềm tin mê lầm

Đăng lúc: 05:08 - 05/10/2016

Khi nói đến niềm tin là nói tin về điều gì, chẳng hạn như tin theo học thuyết, triết thuyết, tin theo tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc một hệ thống tư tưởng, chủ nghĩa nào đó, tin nơi ai hoặc tin nơi chính bản thân mình (lòng tự tin, tự tín).

Tin điều gì có nghĩa là mình cho điều đó là đúng, là có thật, đặt hoàn toàn hy vọng vào điều đó, nương tựa nơi điều đó, hướng suy nghĩ và hành động theo. Niềm tin rất quan trọng và cần thiết đối với mỗi con người, tuy nhiên nó cũng mang lại nhiều tác hại nếu như đó là niềm tin sai lầm, niềm tin được xây dựng trên cơ sở nhận thức mù quáng, không sáng suốt, thiếu trí tuệ.

Một người bệnh có thể tin rằng mình sẽ khỏi bệnh nếu như gặp thầy hay thuốc giỏi và bản thân mình có mong muốn được bình phục, biết quan tâm làm theo những gì vị lương y, bác sĩ hướng dẫn. Sự lạc quan tin tưởng, niềm tin đặt đúng chỗ (đúng thầy, đúng thuốc) sẽ giúp cho người bệnh có thêm sức mạnh ý chí làm tăng sức sống, sức đề kháng bệnh tật và sự quyết tâm điều trị đẩy lùi bệnh tật. Tuy nhiên cũng trong trường hợp đó, nếu người bệnh không có lòng tin nơi thầy hay thuốc giỏi, không có lòng tin mình có thể vượt qua bệnh tật, và từ đó không nỗ lực điều trị bệnh theo hướng dẫn của vị lương y, bác sĩ, như thế thì người bệnh khó có thể đẩy lùi được bệnh tật.

Hoặc tệ hại hơn là người đó có niềm tin sai lầm (không thấy nguyên nhân của bệnh, không đi đúng hướng điều trị), đặt lòng tin không đúng chỗ (không đúng thầy, không đúng thuốc). Ví dụ như ngày xưa, khi y học chưa phát triển, gặp bất cứ bệnh gì người ta cũng rước thầy pháp về cúng, làm phép để trừ tà, kết quả là nhiều con bệnh đã mất mạng. Ngày nay cũng vậy, có nhiều người mắc bệnh tâm thần nhưng người thân không biết cứ ngỡ bị vong nhập, bị trúng tà (vì biểu hiện của một số dạng bệnh tâm thần có phần giống như hiện tượng trúng tà), lại quá mê tín nên cứ mời thầy bùa thầy pháp về làm phép đuổi tà, trấn yểm, cúng vái, cuối cùng thì tiền mất tật mang.

Niềm tin mù quáng, mê lầm có tác hại rất lớn, nó là kết quả của nhận thức cảm tính thiếu lý trí, thiếu trí tuệ sáng suốt. Ngày xưa ở một số nước có chiến tranh, nhiều tướng soái, nhiều nhà lãnh đạo chính trị, quân sự đã lợi dụng sự mê tín của người đời, giả thần giả thánh, tự xưng mình là con trời (thiên tử), tự cho việc họ làm là ý trời để thiên hạ nghe theo và không dám chống lại họ; họ ngụy tạo những bằng chứng huyền hoặc để khiến cho mọi người tin theo. Có nhiều đội quân được vẽ bùa, phù chú lên mình, được gieo vào lòng niềm tin bất bại, đao thương, súng đạn không thể làm hại, nhưng khi ra chiến trường mới biết mình tin mê lầm, họ chết gục trên chiến trận.

Có trường hợp người thủ lĩnh lợi dụng niềm tin mê tín để làm tăng thêm ý chí, sức mạnh chiến đấu của quân đội mình, nhưng cũng có trường hợp họ cũng có ảo tưởng rằng mình có phép màu bảo hộ. Tuy niềm tin đó có làm cho tinh thần chiến đấu, sức mạnh chiến đấu tăng cao, nhưng hậu quả của nó là làm cho họ chủ quan, khinh suất, không nhận thấy rõ thực lực của mình và của quân địch, từ đó dẫn đến thất bại.

Niềm tin trong tôn giáo, tín ngưỡng cũng vậy. Có những niềm tin giúp con người hướng đến điều lành điều thiện, mạnh dạn làm các việc có ích cho cá nhân, cộng đồng xã hội, nhân loại, chúng sinh. Nhưng có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người. Nó khiến con người tàn hại lẫn nhau, mất hết lý trí, khiến con người đánh mất chính mình, lệ thuộc vào những điều huyền hoặc, không tưởng, lệ thuộc vào những thế lực siêu hình do con người tưởng tượng ra, không còn ý chí, không còn tự chủ; khiến con người nô lệ cho vô minh, dục vọng, làm những chuyện tàn ác, điên rồ mà cho là làm theo chân lý, làm đúng với lẽ phải, đúng với quy luật vũ trụ.

Những niềm tin u mê này đến mức cực đoan sẽ gây ra chiến tranh, kỳ thị tôn giáo, tín ngưỡng, gây ra thù hằn, oán ghét lẫn nhau. Bởi thế cho nên, đối với vấn đề niềm tin cần phải hết sức thận trọng.

Khi con người chưa hiểu biết nhiều về thế giới, người ta không có khả năng lý giải các hiện tượng đời sống, các hiện tượng tự nhiên, cho nên tin rằng có đấng tạo hóa, có các thần linh sáng tạo ra thế giới, điều hành thế giới, tưởng tượng ra thần mặt trời, thần mặt trăng, thần mây, thần mưa, thần gió, thần núi, thần sông, thiên lôi, hà bá v.v…

Bất cứ điều gì cũng cho là ý trời sắp đặt, họa phước, thành bại, được mất, cơm ăn áo mặc, hạnh phúc, khổ đau… đều do ông trời và các thần linh ban cho, nhưng kỳ thực thì con người phải làm mới có ăn, phải lao động sáng tạo từ đời này sang đời khác mới có được thế giới như ngày nay, chứ không phải thượng đế và các thần linh ban cho hay tự dưng mà có. Sự thật sờ sờ trước mắt, nếu ông trời và các thần linh ban cho thì con người khỏi phải làm gì cả cũng có cuộc sống tốt, và những ai tin tưởng tuyệt đối vào ông trời và thần linh hẳn đã được bình an, sung sướng, hạnh phúc hơn những ai không tin.

Tuy nhiên không ít người vẫn chấp nhận nô lệ cho niềm tin mù quáng để rồi đánh mất ý chí, đánh mất niềm tin nơi chính mình, lệ thuộc thần quyền trong khi thần quyền là không có thật.

Không phải những ai thờ cúng, tín ngưỡng ông trời và các thần linh, vật linh cũng đều giàu sang, an vui, hạnh phúc, và không phải những ai không có niềm tin đó cũng nghèo khó, khốn khổ, bất hạnh. Sự thật là thế, quá rõ ràng nhưng vẫn có người không thấy.

Sự mê tín của con người vẫn không giảm mặc dù xã hội đã tiến bộ nhiều, thậm chí còn có chiều hướng tăng cao. Những thành phần bất hảo lợi dụng sự mê tín mà ra sức trục lợi. Mê tín dị đoan, tà thuyết ngoại đạo nổi lên khắp nơi khiến cho tâm trí con người điên đảo.

Ngay cả ở châu Âu, châu Mỹ, các nước được xem là văn minh tân tiến vẫn đầy dẫy tệ nạn mê tín dị đoan, các giáo phái cuồng tín lợi dụng sự tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo mà hoành hành. Còn các nước có truyền thống văn hóa phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam v.v… thì đi đến đâu cũng thấy có hiện tượng xin bùa xin phép, bói toán, coi tuổi tác, ngày tháng tốt xấu, ngồi đồng nhập cốt, đi đến đâu cũng thấy cúng bái sì sụp, cúng ông trời - thần linh, cúng nhà cửa - đất đai, cúng xe cộ - thuyền bè, cúng trên bờ - dưới sông, cúng người chết, cúng vật linh, cúng âm binh - cô hồn, có khi cúng ai cũng không biết, cứ bày nhang đèn, vàng mã, vái lạy bốn phương tám hướng mà cầu sự bình an, hưng thịnh.

Nếu chỉ đặt niềm tin vào sự cầu cúng, trông cậy vào thần thánh, ma quỷ, không siêng năng cần cù lao động, học tập, trau giồi kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn thì việc làm ăn, kinh doanh buôn bán không thể nào phát triển được. Nếu không có nhân phẩm đạo đức tốt, không có quan niệm, lối sống tích cực thì cuộc sống sẽ bất an, đau khổ. Không có ông trời, thần linh hay ma quỷ nào che chở, bảo hộ hoặc ban phước giáng họa cho được.

Ở Việt Nam, từ khi hiện tượng ngoại cảm được giới khoa học công nhận thì các nhà ngoại cảm rầm rộ nổi lên, thật có, giả có, ảo tưởng mình là nhà ngoại cảm cũng có. Còn người dân thì tin người cõi âm có thể liên hệ với người còn sống, có thể tác động, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của mình, từ đó ra sức cúng bái, cầu khẩn sự gia hộ, giúp đỡ. Nghĩ tưởng đến những người quá cố, người thân người thương, người có ân nghĩa, công đức thì tốt, nhưng hướng về người quá cố vì sợ họ làm hại mình hoặc vì cầu sự chở che, gia hộ thì quả là việc làm mê tín.

Trong một số trường hợp vong linh người chết có thể liên hệ với người còn sống (trong điều kiện nhân duyên như thế nào đó mà có sự tương thích), nhưng những trường hợp này rất ít, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là các vong linh có thể tác động, ảnh hưởng đến cuộc sống của người mà họ yêu thương hoặc oán ghét.

Nếu các vong linh ở cõi âm có thể tác động, ảnh hưởng đến người sống thì thế giới này từ lâu đã không an ổn, đã loạn lên rồi. Bởi vì trong lịch sử đã có biết bao cuộc chiến tranh diễn ra, thù hận chất chồng, nếu các vong linh người chết có thể làm hại kẻ thù của họ thì những người còn sống đã sống không yên. Giữa con người với con người, ân oán tình thù đầy dẫy, nếu sau khi chết rồi mà các vong linh có thể can thiệp vào thế giới người còn sống thì chắc chắn thế giới loài người từ lâu đã rối loạn, đã xuất hiện nhiều điều kinh khủng, quái dị lắm.

Người nào cũng có tổ tiên, ông bà, người thân quá cố, nhưng nếu chết rồi mà vong linh những người quá cố còn tồn tại mãi ở cõi âm nào đó và có thể tiếp xúc, can thiệp vào cuộc sống của người thân, nếu họ có thể giúp cho những người đó được bình an, được sang giàu, được may mắn, hạnh phúc thì trên thế gian không ai gặp rủi ro, bất hạnh, khổ đau cả, bởi vì ai cũng có người thân quá cố chở che, phù hộ. Nhưng sự thật thì không phải thế, sống trên đời ai cũng gặp khó khăn cả, không gặp khó khăn này cũng gặp khó khăn khác, không gặp nỗi khổ này cũng gặp nỗi khổ khác, không ai khỏe mạnh mãi mà không ốm đau, không ai luôn may mắn mà chưa từng gặp rủi ro bất trắc, không ai thành công mà chưa một lần thất bại v.v… Vậy rõ là người chết không thể can dự vào cuộc sống của chúng ta.

Con người sống không thể không có niềm tin, nhưng niềm tin đó phải là Chánh tín, được xây dựng trên cơ sở Chánh kiến, sự thấy biết chơn chánh, nhận thức đúng đắn, có chiều hướng tích cực, phù hợp với chân lý và quy luật cuộc sống. Nếu niềm tin gây tác hại, ảnh hưởng xấu, làm trở ngại cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, gieo bất an, khổ não cho con người thì tuyệt nhiên đó không phải là niềm tin chơn chánh, cần loại bỏ.

Phan Minh Đức

Buông bỏ - Thành tựu pháp Không - Hành Bồ-tát đạo

Buông bỏ - Thành tựu pháp Không - Hành Bồ-tát đạo

Đăng lúc: 09:18 - 13/06/2016

Phật tu, buông bỏ tất cả, chỉ có một bình bát, một ca-sa, nhưng mọi người kính trọng Phật.
GN - Đức Phật là vị đại lương y, chỗ chứng ngộ của Phật, hiểu biết của Phật không thể đem dạy người. Ý này Phật khẳng định trong kinh Pháp hoa rằng Ngài không thể nói chân lý, vì chúng sanh không hiểu được, sẽ sanh tâm hủy báng.
Có thể chia mọi người trên cuộc đời này thành ba bậc. Bậc một là chúng sanh ở trong sáu đường sinh tử luân hồi, Phật nói họ như người mù, đương nhiên không làm được gì. Vì vậy, họ phải lo chữa bệnh trước, ví như người bị trúng tên độc, phải nhổ mũi tên và chữa lành vết thương, còn lo tìm nguyên nhân ai bắn tên, có mục đích gì, thì chưa nghĩ ra được đã chết.
Đối với chúng sanh trong sáu đường sinh tử, Phật chữa cho họ thoát khỏi bệnh nghiệp, nên Ngài nói Đạo đế, đó là phương thuốc chữa bệnh cho tất cả mọi người ra khỏi sinh tử luân hồi. Vì vậy, dù tu pháp môn nào cũng phải kiểm chứng xem chúng ta có được thành quả này hay không.
Tại sao chúng ta khổ, phải có phương pháp trị liệu là Đạo đế, Khổ đế là nghiệp bệnh của chúng ta. Kết hợp Khổ đế và Đạo đế để chúng ta tu. Phật nói có 84.000 pháp môn tu, bệnh nào có thuốc đó.
Đầu tiên, Phật dạy người tu phải buông bỏ. Không buông bỏ, dù tu pháp gì cũng sẽ bị đọa. Phật tử sai lầm nghĩ mình tu Pháp hoa, hay tu Thiền cao siêu, nhưng cố chấp, không buông bỏ, thì cố chấp nhiều sẽ khổ nhiều, rồi than tại sao tu mà khổ, đó là uống lầm thuốc, nguy hiểm. Thí dụ người bị cảm phải giải độc trước, dùng thuốc tẩy độc trong cơ thể, nhưng không đẩy được chất độc ra, mà cho thuốc bổ vào là chết. Cũng vậy, tu sai, cuối cùng bị đọa.
Thầy có người bạn khoe rằng đã tụng một trăm bộ kinh Pháp hoa, nghĩ rằng mọi việc sẽ tốt, nhưng không tốt, làm không được tiền, không có nhà ở, tìm nhà trọ cũng không ra. Ông hỏi tại sao tụng một trăm bộ kinh Pháp hoa mà còn khổ hơn lúc chưa tụng kinh. Thầy nói anh đã uống lầm thuốc, thấm vào tim, gan, não rồi. Phải lo giải quyết bệnh tim, gan, não trước.
Phật biết chúng sanh mắc bệnh chấp là nghiệp nhiều, nên Phật dạy phải phá chấp, làm sao lòng chúng ta trống hết. Nghĩa là đầu tiên, chúng ta phải nghĩ rằng mình không là gì hết, dù tụng một ngàn bộ kinh cũng chưa được gì khi còn ôm một khối nghiệp chấp.
Điều chính yếu là pháp Phật dạy chúng ta giải thoát. Nếu tu lâu mà cố chấp nặng, thực tế là tuổi lớn, ở chùa lâu, gặp người nhỏ tuổi xem thường, mình dễ buồn giận. Thầy thường kiểm chứng khi người xúc phạm, mình có thanh thản không, phải trở về pháp căn bản là quán không. Không này từ trí giác của Phật mà ra. Sống với bản giác, hay chơn tâm, mới trụ pháp không, thấy mình không là gì.
Kinh nghiệm của Phật cho chúng ta thấy, Ngài giàu nhất, thông minh nhất, hảo tướng nhất, khỏe mạnh nhất… Tất cả cái gì Phật cũng nhất, nhưng Ngài ôm bình đi khất thực, sống chung với Sa-môn nghèo đói, lang thang. Có thời gian thầy tu cũng tập hạnh đầu-đà để xả ly. Khi mới đi khất thực, thầy cũng cảm thấy xấu hổ, tự ái, liền cắt bỏ cảm nghĩ phiền não này. Trên bước đường tu, trải qua năm năm, mười năm, không buồn giận, lo sợ, an trú pháp Không. Đụng chạm nhiều tất yếu sanh phiền não, nhưng mình cắt bỏ lần, cho đến không còn gì tác hại được tâm mình.
Năm 1975, có người nói thầy chết đến nơi mà không lo. Lúc đó, thầy đang thể nghiệm pháp tu Thiền, đang quán pháp Không, coi sống chết bình thường. Bạn thầy lo sợ quá, vượt biên, chết trên biển. Người khác vượt biên được, nhưng ở nước ngoài rồi cũng chết. Đến lúc chết thì lo cũng chết, nhưng lo sợ mà chết dễ bị đọa. Tâm hồn sợ hãi, hốt hoảng là cửa địa ngục mở ra. Lo tính đủ cách, nhưng không thoát, đọa ngạ quỷ. Tim cách đối phó, nhưng không được, đọa A-tu-la.
Tu pháp Không là không buồn, giận, lo, sợ, đó là nguyên tắc đầu tiên mà Phật dạy ra khỏi sinh tử. Chỉ giữ tâm thanh tịnh, nếu chết, ta về Phật được. Nói cách khác, thầy chuẩn bị chết nhiều hơn sống, nhưng không chết. Bây giờ, thầy cũng chuẩn bị sẵn để chết, vì Phật dạy thở ra mà không hít vào là chết. Chuẩn bị là giữ tâm thanh tịnh, lúc nào cũng có Phật, thì chết chắc chắn về Phật.
Pháp căn bản là Tứ niệm xứ, vì vậy, không đạt được thành quả từ pháp tu này, tất cả việc khác đều trở nên vô ích. Chất độc trong người phải giải. Độc phát xuất từ lòng tham, tham muốn ngũ dục, ham tiền, ham sắc, ham danh, ham ăn, ham ngủ. Càng ham nhiều thì khổ nhiều, không ham không khổ, dứt khoát như vậy.
Phật bỏ ngai vàng, danh lợi, tài sản…, coi có tiếc không. Bỏ hết, không bị những thứ này chi phối là quá trình tu của Phật và Ngài dạy mình cuối cùng bỏ luôn khen chê bên ngoài của thiên hạ để xem lòng mình có bị tác hại không, tâm phải thanh thản. Mình không làm việc xấu, nhưng họ dán lên mình thì “tức chết”. Phải bỏ cái “tức chết”.
Phật dạy nếu mình kiểm chứng thấy họ nói đúng, thì phải coi họ là thầy chỉ lỗi cho mình, nên phải sửa đổi. Còn tu, cứ nghĩ rằng mình đúng, họ nhỏ nhưng chỉ thẳng nghiệp mình, phải cám ơn họ, nhờ họ mà mình không tái phạm lỗi đó nữa.
Theo Phật giáo Nguyên thủy, Đề Bà Đạt Đa hại Phật đủ cách, nhưng trong kinh Pháp hoa, Phật nói Đề Bà Đạt Đa là ân nhân của Phật, vì có Đề Bà Đạt Đa làm đối tượng để Ngài tự rèn luyện tâm hoàn toàn trong sạch. Nếu không có thử thách làm sao biết mình trong sạch hay không.
Trong cuộc đời hành đạo của Đức Phật, người ngoại đạo chê trách Phật, sau này họ trở thành đệ tử Phật và trung thành với Phật, vì cảm thấy hối hận đã nói xấu để hại Phật.
Theo thầy, người nói lỗi mình không đúng, buộc lòng họ phải nói lại. Thực tế cho thấy, khi nghe nói sai về mình, người ta thường tìm đến coi thực hư ra sao, nhưng thấy mình tốt thì họ cũng theo mình.
Ngoại đạo nói xấu Phật, người tìm đến Phật, rồi quy y Phật. Như vậy, nói xấu cũng như quảng cáo cho mình. Chỉ sợ mình xấu, nhưng người ta lại nghĩ mình tốt. Phải sợ phạm lỗi lầm mà biết sửa mình. Họ nói mình tốt, nhưng chưa tốt thì phải ráng sao cho mình tốt.
Phật ví thân tứ đại ngũ uẩn như chiếc áo dơ bẩn có chứa viên ngọc quý bên trong, nghĩa là chân tâm mình bị ngũ uẩn bao che, làm mình không sáng suốt. Tất cả người tu sám hối là chữa bệnh, tức giặt áo dơ thì thân tâm mình sạch. Nhưng làm sao biết đã sạch. Muốn biết, Phật nói lấy xã hội làm tấm gương soi bóng. Nếu mình tốt thiệt, người ta sẽ cư xử tốt với mình. Cứ xem phán đoán của người mà biết mình thế nào.
Phật bảo tu hành phải nhìn vô, đừng nhìn ra. Vì vậy, tu phải thấy lỗi mình, không thấy lỗi người, vì thấy lỗi người, mình sẽ khi dễ họ là tâm ác mình sanh ra, thì về sau mình cũng sẽ phạm lỗi như họ vậy. Nhiều lúc, thầy nghĩ lắng lòng xuống để nhận xét, thấy người nói đúng, mình phải sửa cho mình đúng, thì người sẽ không nói được, hay có nói cũng không ai nghe.
Làm sao giặt giũ thân và tâm cho sạch và tâm sạch, Phật nói sẽ hiện hảo tướng. Đức Phật có 32 tướng tốt. Ai cũng là người, nhưng người hiện hảo tướng là do giữ giới, tức những gì mà người không thích thì mình không làm, điều gì người quý, mình cố gắng làm.
Nhiều người hiểu lầm hảo tướng là tướng tốt thiệt, nhưng hảo tướng luôn biến đổi, làm tốt thì người kính trọng, mai kia làm dở, họ không kính nữa. Hảo tướng không cố định, do tu tạo mà được, biết vậy, phải cố gắng giữ, không cho mất.
Tu đúng, hảo tướng hiện là thân được kết hợp bằng phước đức. Muốn thấy hảo tướng, thầy dùng pháp tu Sám hối Hồng danh là lạy Phật, đem Phật vào lòng, lúc nào tâm mình cũng thấy Phật là thấy hảo tướng và khi thể nghiệm pháp này thuần thục, thầy thấy ai cũng là Phật. Có người nói rằng người này không tốt, nhưng ai đối với thầy cũng tốt, vì lòng thầy đang nghĩ Phật, nên thấy Phật và Phật này ở trong lòng người khác. Vì vậy, thầy nghĩ họ tốt, nên họ tốt với thầy. Mình nghĩ người xấu, chắc chắn họ không thể tốt với mình. Dù họ không tốt, nhưng mình nghĩ tốt, họ cũng có cảm tình với mình.
Thể hiện lý này, Phật dạy Địa Tạng Bồ-tát rằng vào địa ngục mà không thấy ai tốt, thì không nên vào địa ngục. Sợ nhất bị lây nhiễm là thấy điều không tốt đem vào lòng mình, mai mốt mình cũng không tốt. Phật khuyên Địa Tạng vào địa ngục cố tìm điểm tốt nhất của người, dù họ có một ngàn điều xấu cũng không nghĩ đến, chỉ thấy một điểm tốt của họ thôi.
Địa Tạng hỏi một ngàn điều xấu bao vây điểm tốt nhỏ thì làm sao thấy cái tốt. Phật nói hạt châu của ông để đâu. Chúng ta thấy tượng Địa Tạng cầm hạt châu. Tâm chúng ta thanh tịnh, sáng suốt, ví như hạt châu thấy được thật tướng các pháp, tất nhiên thấy được một điểm tốt nhỏ là nhờ hạt châu.
Phật tử vào đời cứu chúng sanh, nhớ cầm hạt châu trên tay mà nhìn. Kinh Pháp hoa nói hạt châu để trong chéo áo, trong thân tứ đại, nhưng cùng tử không bao giờ dùng mà đi làm thuê mướn, đói khát. Phật dạy chỉ giữ hạt châu, còn tất cả thứ khác thì buông bỏ. Thầy thường nói trên bước đường tu, thầy nhường quyền lợi, danh vọng, địa vị… nhường tất cả cho thiên hạ, còn học và tu thì không nhường, hạt châu không cho ai. Sử dụng được hạt châu rất quan trọng.
Có chỗ, Phật nói hạt châu trong búi tóc trên đầu. Đầu chúng ta nghĩ lung tung phải khổ. Bao giờ lấy hạt châu cầm trong tay, thấy được mọi việc đúng như thật, thấy được điểm tốt của người thì mọi việc sẽ trở nên nhẹ nhàng và thanh thản. Theo kinh nghiệm của thầy, nếu thầy không thấy điều tốt của người, chắc chắn không ai theo thầy. Đơn giản là Phật tử còn về chùa tụng kinh, niệm Phật, nghe pháp là tốt rồi, cái khác không kể. Còn quyên góp làm người sợ là tâm mình tham, muốn người làm, nhưng người chưa phát tâm, không làm thì mình lại nghĩ họ xấu.
Có Tỳ-kheo hỏi Phật rằng ông đang tu quán pháp không, có con rồng tới, ông cảm thấy bị phiền hà. Rồng làm mưa làm gió, tiêu biểu cho người có quyền thế, ngày xưa chỉ cho vua. Người tu đắc đạo có sức thu hút người, vua cũng tới.
Phật bảo ông muốn nó không tới thì xin hạt châu của nó. Có hạt châu mới làm rồng, không có hạt châu thành rắn. Còn phước đức, trí tuệ thì còn làm mưa làm gió, mất phước đức, trí tuệ trở thành người thường.
Trước rồng hỏi thầy Tỳ-kheo cần gì, nó sẽ cúng dường. Ông nói không cần gì thì nó lại tới. Nhưng nghe lời Phật dạy, ông nói cần hạt châu của long vương, nghe vậy, long vương vội vàng rút lui.
Khi chúng ta không cần, tất cả mọi việc tốt tự nhiên tới theo phước đức, nhưng cần là tham vọng, tất cả mất hết.
Nhìn người qua hạt châu, thấy rõ người và về sau, không cần nữa, đem hạt châu để trên búi tóc, là Bồ-tát Địa Tạng làm như vậy, thì khi Ngài suy nghĩ điều gì, cái đó hiện ra, gọi là Phật hộ niệm. Theo kinh nghiệm hành đạo, khi khó khăn, thầy lắng lòng, nhận được trí tuệ Phật rọi vô lòng, thấy được lối thoát, thấy được hướng đi.
Giai đoạn một, tu hành, xả tục, xuất gia, tập bỏ hết. Đức Phật bỏ tất cả, Ngài làm Sa-môn, coi tâm có vắng lặng không. Chúng ta theo Phật tu, nếu không thực tập như vậy, thì nghĩ ở nhà mình được đầy đủ, nhưng tu buồn quá, cảm thấy tiếc, muốn trở về là hỏng.
Thầy nhớ thuở nhỏ, đi học về, không có thức ăn ngon, là giả bệnh. Bà ngoại rất thương thầy, sờ đầu thầy coi có bị sốt không, rồi làm đồ ăn ngon cho thầy, mà thầy cũng không ăn. Nhưng tu, vô chùa, mình bệnh thiệt, không lên quả đường được. Thầy khác bưng cháo trắng và muối cho thầy. Thấy vậy, thầy nhớ lúc chưa đi tu được bà ngoại chìu chuộng, săn sóc, nên tủi thân, không muốn ăn cháo trắng với muối. Hết giờ, không ăn thì người ta dẹp cháo, lúc đó, thầy vội nói tôi chưa ăn mà!
Đức Phật nói người giàu đi tu, khó vượt được tự ái này. Cha mẹ giàu có, sống sung sướng, tu khổ hạnh khó lắm. Điều quan trọng, phải vượt qua cửa ải này mới vào đạo được.
Về sau, khá hơn, thầy được làm thị giả Hòa thượng Thiện Hoa. Một hôm có bát cháo nấm chỉ cúng dường Hòa thượng Giám đốc (HT.Thiện Hòa) và Hòa thượng Trưởng ban (HT.Thiện Hoa). Thầy bưng cháo lên, Hòa thượng Thiện Hoa nói cho con. Thầy bưng ra, gặp thầy khác mở nắp cháo coi, ngửi mùi cháo rồi nói cháo này ngon lắm. Thầy nhớ Phật dạy rằng bần cùng bố thí nan, nghĩa là người nghèo bố thí khó. Món ngon nhất mình được thầy cho mà người khác muốn ăn, thầy liền nghĩ mình theo Phật tu phải thực tập điều Phật dạy, nên thầy nói tôi không ăn cháo, huynh ăn đi. Thiệt mình cũng muốn ăn, nhưng phải cắt cái tâm muốn ăn để bố thí, là vượt được cửa ải này.
Người giàu đi tu, thường nhớ việc sang trọng của quá khứ. Nghèo khổ thì bố thí cũng khó. Phải vượt qua hai cửa ải này, một lần vượt được một cửa ải thì người sẽ thương mình, đó là hảo tướng, đức tướng trang bị cho mình. Không phải khuôn mặt đẹp là hảo tướng. Đức Phật trải qua vô số kiếp cứu độ chúng sanh, tạo thành một hảo tướng do người khác nhìn thấy Ngài là ân nhân của họ, nên có cảm tình với Ngài.
Qua pháp Tứ chánh cần, làm sao gieo vào lòng chúng sanh ý niệm tốt nhiều chừng nào thì tốt chừng đó.
tuong but.jpg
Trong Sám hối Hồng danh, Phật dạy rằng phải sám hối tất cả tội lỗi quá khứ như trộm của người, của mười phương Tăng, hay của thường trụ, tất cả các tội có che giấu, hoặc không che giấu đáng đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nơi chốn biên địa, nghèo khổ, đọa đày…
Phải tự kiểm lại xem mình có phạm tội như vậy không. Thầy sanh vùng biên địa, nghèo khổ, nên nhớ Phật dạy, nhiều kiếp trộm của người, nợ người thì sanh kiếp này nghèo đói, khổ sở. Hơn thế nữa, trộm của thường trụ thì tu vẫn nghèo đói. Nhiều người nghĩ tu thì không bị nghèo đói, nhưng thực tế cho thấy có vị tu được cúng dường, có vị tu bị chửi mắng, hay bị nghèo đói, vì đã phạm tội trộm của Tăng, của thường trụ. Vì vậy, chí thành sám hối, cầu Phật chứng minh, hết tội thì không còn ai ghét, rồi mới làm việc khác là hành bố thí, tu tịnh hạnh làm gương cho đời.
Phật tu, buông bỏ tất cả, chỉ có một bình bát, một ca-sa, nhưng mọi người kính trọng Phật. Phật nói không phải quyền thế, tiền bạc, hay mua chuộc mà được, nhưng là đức hạnh do tịnh hạnh nhiều đời đã thực hiện, nên đã gieo hạt giống lành vào tâm chúng sanh từ kiếp xa xưa, thì kiếp này, họ tự phát tâm và quý trọng Phật. Đó là pháp tu Phật đã trải qua và dạy chúng ta. Nếu mình thực hành đúng theo Phật dạy, sẽ đạt kết quả tốt.
Trước khi làm như vậy, phải giặt áo dơ tứ đại cho sạch, người thương và quý trọng mới làm được. Họ chưa thương, làm gì cũng không ai nghe theo. Vì vậy, từ phàm phu ở giai đoạn một cho đến chứng quả A-la-hán, phải tu pháp không. Chứng A-la-hán, thực tế là nhìn đời của chúng ta không còn sai lầm. Phật nói một vị A-la-hán biết được 500 kiếp trước. Là phàm phu, trong đời này việc đã qua, chúng ta còn quên. Nhưng A-la-hán thấy rõ đến 500 kiếp, nên tất cả những người quan hệ tốt, xấu với họ, họ đều biết rõ. Không biết như vậy, dễ chuốc họa vào thân và biết chỗ nên tới, chỗ không nên tới mà tới, chắc chắn bị hại.
Vua Tần Bà Sa La đã thọ ơn Phật đời trước. Ngài đã cứu ông, nên kiếp này, khi thấy Phật, ông liền có thiện cảm. Chúng ta dù chưa khám phá được minh châu, chưa để minh châu trên búi tóc, nhưng nếu đắc quả A-la-hán, vẫn thấy không sai lầm là thành tựu Chánh kiến trong Bát chánh đạo, nên thấy rõ ai có nhân duyên làm bạn, hay có duyên đến độ, không có duyên thì nên tránh, đáng độ nhưng không đến độ là bỏ mất cơ hội.
Nhiều thầy nghĩ làm sao độ đệ tử đông, nhưng chưa đắc Thánh quả, không đáng độ mà độ là kết bè đảng với người ác xấu, rất nguy hiểm, vì tập hợp đám ô hợp, hậu quả khó lường. Vị Thánh thấy duyên chưa tới, ẩn tu. Một La-hán đắc đạo chỉ độ được một người đến ba người. Điển hình như Tổ Bồ Đề Đạt Ma độ một Huệ Khả, Huệ Khả độ Tăng Xán, Tăng Xán độ Đạo Tín, Đạo Tín độ Hoằng Nhẫn, Hoằng Nhẫn độ Lục tổ Huệ Năng. Đó là các vị Thánh.
Chúng ta nhìn các bậc chân tu đắc đạo có những điểm mà chúng ta cần học. Chưa ra Nhà lửa tam giới, chưa trụ pháp không, nguy hiểm. Ra bên ngoài, tâm trống không, trí sáng suốt, thấy chính xác, mới hành Bồ-tát đạo.
Ở giai đoạn hai là cứu đời, giúp người, nhưng không phải liều mạng làm hại mình mà không cứu được ai. Ra cứu người là hành sáu pháp Ba-la-mật, đó là đạo của Bồ-tát, nhưng Bồ-tát theo kinh Bát-nhã, kinh Hoa nghiêm, kinh Pháp hoa, hành đạo khác nhau.
Bồ-tát theo kinh Pháp hoa là đã thành Vô thượng Chánh đẳng giác rồi. Bồ-tát theo kinh Hoa nghiêm từ thập trụ đến thập hạnh, thập hồi hướng là Hiền vị. Thập địa là Thánh vị. Bồ-tát Hiền vị phải nương Bồ-tát lớn mới làm được. Mình biết nhưng phải nhờ người khác làm, mình làm theo.
Và lên Thánh vị theo kinh Hoa nghiêm, Bồ-tát Sơ địa tu bố thí là chính và ở vị trí là vua mới làm được. Mình không phải là vua, nhưng muốn làm, phải hợp tác với vua có đạo đức, hợp tác với ác vương dễ chuốc họa vào thân.
Bồ-tát hiện thân Sơ địa làm tiểu vương, giữ vững biên cương, nhân dân an lạc, nói đạo giải thoát, dạy chúng tu Thiền, đất nước bình yên thì Ngài thoái vị. Thầy nghĩ Phật hoàng Trần Nhân Tông hành Bồ-tát đạo với tư cách là tiểu vương, vì lúc đó, Việt Nam là nước nhỏ chỉ từ Quảng Bình trở ra. Ngài nói một câu đơn giản nhưng rất có ý nghĩa, rằng Ngài xem ngai vàng như chiếc giày rách. Ngài nói được, làm được, là bỏ ngai vàng đi tu lúc Ngài chưa tròn 40 tuổi, vì đã thành tựu mục tiêu đánh đuổi được quân Mông Nguyên. Có người hỏi nếu giặc trở lại phải làm cách nào. Ngài nói nó không trở lại, mới đi tu. Theo thầy, vua Trần Nhân Tông là Bồ-tát sơ địa, thành tựu việc làm của tiểu vương theo tinh thần Hoa nghiêm.
Còn người kiếm được năm trăm triệu đi bố thí, quay phim, coi là nhất, nhưng thực sự đó chỉ là làm từ thiện xã hội cỏn con. Phải có trí tuệ thấu suốt năm trăm kiếp mới có thể phát tâm làm việc cứu đời và biết rõ lúc nào nên làm, làm ở đâu.
Tóm lại, trước khi cứu người, giúp đời, phải giặt giũ thân tâm cho trong sạch, thanh tịnh, qua thể nghiệm pháp tu buông xả, thành tựu pháp không và có được hiểu biết chính xác, thấy việc nên làm, người đáng độ, từ đó mới hành Bồ-tát đạo làm lợi ích cho người.

Thân cận thiện sĩ

Thân cận thiện sĩ

Đăng lúc: 22:51 - 07/06/2016

Thân cận thiện sĩ tức là gần gũi chúng Tăng, những bậc có nhân cách cao thượng.

Kinh Tăng nhất A-hàm có hai phẩm vinh danh người cư sĩ tại gia, đó là phẩm Thanh tín sĩ, vinh danh bốn mươi nam cư sĩ đệ nhất, và phẩm Thanh tín nữ, vinh danh ba mươi nữ cư sĩ đệ nhất. Qua đó, chúng ta thấy trong hàng đệ tử tại gia của Phật có những cư sĩ tài năng, trí tuệ, thần đức, hàng phục bọn ma, nhiếp phục ngoại đạo, thuyết pháp sâu sắc, biện tài vô ngại, sở thí rộng rãi…, đặc biệt trong số những cư sĩ được vinh danh hội đủ mọi thành phần trong xã hội, từ địa vị quân chủ cho đến hàng thứ dân. Sự vinh danh này chính là sự ấn chứng, sự thọ ký của Đức Phật về khả năng tu tập và đạt được kết quả giải thoát đối với hàng cư sĩ tại gia.

Cư sĩ tại gia là người không thoát ly gia đình, không thoát ly hình thức sinh hoạt thế gian mà thực hành những vấn đề cơ bản Phật pháp, đó là dùng tam quy ngũ giới để hoàn thành tư cách Phật tử đối với bản thân, đối với gia đình và đối với xã hội; để rồi từ đó hướng đến địa vị cao thượng là giác ngộ giải thoát. Nói cách khác, người cư sĩ sống giữa cuộc đời trần tục với đầy dẫy những ràng buộc, phiền não nhưng dùng chất liệu Phật pháp để chuyển hoá, biến cải cuộc đời, để Phật hóa gia đình, biến nhân gian thành Tịnh độ.

Kinh điển Nguyên thủy cho thấy người cư sĩ tại gia có khả năng tu tập và đạt đến quả vị thứ ba trong bốn thánh quả, tức A-na-hàm. Nhưng Phật giáo Đại thừa thì tin rằng mục đích cứu cánh của giác ngộ là quả vị Phật-đà, và người tại gia cư sĩ cũng có thể đạt đến quả vị đó bằng cách phát tâm Bồ-đề, tự lãnh trách nhiệm hộ trì Chánh pháp, gọi là tu tập Bồ-tát hạnh. Tuy nhiên, bước chân khởi đầu của người cư sĩ vẫn là sự quay về nương tựa Tam bảo để trở thành một người Phật tử.

Kinh Tăng chi nói: “Ai nguyện nương tựa Phật, Pháp, Tăng, thì người ấy được gọi là Phật tử”. Nhưng để trở thành một người Phật tử có đủ tín, giới, văn, thí xả và trí tuệ thì cần phải tăng thượng tâm bằng bốn đức tính Dự lưu chi, gồm: thân cận thiện sĩ, thính văn Chánh pháp, như lý tác ý, pháp tùy pháp hành. Chính nhờ bốn đức tính này mà người cư sĩ giữ tròn giới thể, không tạo nghiệp ác sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu.

Thân cận thiện sĩ tức là gần gũi chúng Tăng, nhưng hơn hết là gần gũi với những bậc có nhân cách cao thượng. Làm thế nào để nhận biết nhân cách cao thượng? Đó “là người không sống theo khuôn khổ phàm phu, không vướng vào Nhị thừa, tâm thường trong sáng, tán dương phạm hạnh, không làm cho người sống không giới luật”. Gần gũi, thân cận với những người có nhân cách, phẩm chất, trí tuệ cao thượng để được nghe và được học, để hiểu biết những giá trị cao thượng mà người cư sĩ tại gia dù ở bất cứ địa vị nào trong xã hội cũng không thể tìm thấy trong những thú vui ngũ dục (thính văn Chánh pháp). Những gì đã nghe, đã học cần được suy nghĩ một cách sâu sắc, chân chánh (như lý tác ý) để thể nghiệm trong đời sống hằng ngày (pháp tùy pháp hành). Đây là bốn đức tính đưa người Phật tử vào đạo, dự vào dòng Thánh.

Một khi hội đủ được bốn đức tính Dự lưu, người Phật tử sẽ Nhập lưu bằng bốn niềm tin thanh tịnh, trong sáng, không bao giờ thay đổi, gọi là Tứ bất hoại tín, hay Tứ chứng tịnh (Tứ bất hoại tịnh). Ấy là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin Thánh giới. Với bốn niềm tin này, người đệ tử Phật có thể đi vào dòng dõi của bậc Thánh, sống an vui trong từng giây phút hiện tại, do sự thấy pháp và chứng nghiệm pháp đem lại. Kinh Tạp A-hàm nói rằng, người nào thành tựu bốn pháp Bất hoại tịnh này thì muốn cầu thọ mạng lâu dài liền được thọ mạng lâu dài; muốn cầu dung sắc, sức lực, khoái lạc, biện tài, liền được một cách tự tại. Đức Thế Tôn bảo: “Thánh đệ tử nếu thành tựu được bốn Bất hoại tịnh, thì ở giữa loài người không sống cuộc sống nghèo khốn; không bị lạnh rét, xin ăn; mà tự nhiên giàu sang đầy đủ”. Kinh còn nói, dù làm Chuyển luân Thánh vương, có đầy đủ bảy báu, có bốn thần lực trong cõi người, làm vua bốn thiên hạ, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh lên cõi trời, cũng chẳng bằng một vị Tỳ-kheo mang y phấn tảo, xin ăn khắp mọi nhà, dùng ngọa cụ bằng cỏ. Vì sao vậy? Bởi Chuyển luân Thánh vương chưa đoạn trừ được cái khổ của đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, do chưa đạt được bốn Bất hoại tịnh. Còn Tỳ-kheo Thánh đệ tử đã giải thoát được cái khổ của các đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, do đã thành tựu được bốn Bất hoại tịnh.

Kinh ghi: “Dù bốn đại: đất, nước, lửa, gió có sự thay đổi tăng giảm, bốn Bất hoại tịnh này chưa từng có sự tăng giảm biến khác. Chúng không tăng giảm biến khác, cho nên đa văn Thánh đệ tử đã thành tựu được đối với Phật, mà nếu bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thì điều này không thể có được”.

Người Phật tử thành tựu được bốn niềm tin bất hoại thì được gọi là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di có đầy đủ tín, giới, văn, thí xả và trí tuệ. Kinh nói: “Người cư sĩ lấy chánh tín đối với Như Lai làm gốc, kiên cố, khó lay chuyển, mà các Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên, ma, phạm và người thế gian không ai có thể phá hoại được. Này Ma-ha-nam, đó gọi là cư sĩ có đủ tín”. Như vậy, những lợi ích có được từ sự thành tựu bốn niềm tin bất hoại là không thể nghĩ bàn, và tất cả những lợi ích ấy đều được bắt đầu từ sự thân cận thiện sĩ. Nhưng, niềm tin của người Phật tử không dừng lại ở đây, mà còn tin tưởng bản thân mình cùng tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật bằng cách hành Bồ-tát đạo, qua sự phát tâm Bồ-đề, và cũng từ sự tăng thượng tâm nhờ thân cận thiện sĩ. Kinh Bồ-tát an lạc bản nghiệp, quyển thượng nói: “Tất cả chúng sanh thuận theo Phật, nhớ nghĩ đến Phật, cũng có thể thành Phật nên gọi là Phật tử”.

‘Bởi có thể thành Phật nên gọi là Phật tử’. Đó là nhận thức cơ bản mà tất cả những ai đã, đang và sẽ tự cho mình là Phật tử cần phải ghi nhớ, bởi chính nhận thức này giúp người Phật tử đứng đúng vào địa vị và làm tròn bổn phận của mình trong ngôi nhà Phật pháp. Bổn phận của người Phật tử là hộ trì Chánh pháp, nhưng cần phải ý thức rằng cái bổn phận đó là để hoàn thành Bồ-tát hạnh của mình, để thành tựu cái quả vị Phật-đà cho chính mình, chứ không đơn giản chỉ là bảo trợ đời sống cho người xuất gia, xây dựng chùa tháp… Hẳn nhiên, như kinh Như thị ngữ đã nói: “Chúng xuất gia nhờ chúng tại gia giúp đỡ những đồ dùng như quần áo, thức ăn, chỗ ở v.v...; chúng tại gia nương chúng xuất gia mà tiếp nhận giáo pháp và phạm hạnh. Cả hai bên nương nhau tu hành theo Chánh pháp”, nhưng người Phật tử đã thành tựu tín, giới, văn, thí xả, trí tuệ thì luôn luôn nhận thức rằng, mục đích cứu cánh của người cận sự nam, cận sự nữ là đạt được giác ngộ giải thoát, mà nói theo lý tưởng của Phật giáo Đại thừa là tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh ngay trong cuộc đời trần tục của mình, chứ không phải chỉ cầu phước báo nhân thiên bằng sự hộ pháp.

Thật vậy, lý tưởng của Phật giáo Đại thừa là chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này thành nhân gian Tịnh độ thanh lương. Lý tưởng đó, với nhiều người, là quá lớn lao. Thế nhưng, nó không phải là điều không tưởng, mà có thể thực hiện được bằng một ít nỗ lực, với một hành vi hết sức tầm thường, như kinh Pháp hoa nói, là chỉ cần chắp tay chào ‘Nam-mô Phật’.

Chắp tay chào ‘Nam-mô Phật’, thế là đủ để quyết định sẽ thành Phật. Đây là điều bất khả tư nghì. Ấy vậy mà nó đã từng xảy ra với một người, trong một hoàn cảnh, mà đối với chúng ta bây giờ, đã trở thành một huyền thoại.

Chuyện kể rằng, một thời tại thành Tỳ-xá-li có kỹ nữ nổi tiếng tên là Ambapāli, quản lý trung tâm giải trí công viên Am-la, một tụ điểm xa hoa trụy lạc dành cho hàng vương tôn công tử quyền uy. Trong một cơ duyên hạnh ngộ, được diện kiến và nghe Đức Phật thuyết pháp, trong lòng Ambapāli chợt rung động và chuyển hóa hoàn toàn, nàng sụp lạy Đức Thế Tôn, thành kính chắp tay chào ‘Nam-mô Phật’, rồi phát nguyện trọn đời quy y Tam bảo và thọ trì năm giới.

Từ phút giây ấy trở đi, Ambapāli trở thành con người mới. Nàng đã biến cải công viên Am-la, một tụ điểm xa hoa trụy lạc thành chốn tu hành thanh nghiêm dâng cúng cho Tăng đoàn Đức Phật. Và tại đây, cũng từ giây phút ‘đổi đời’ của Ambapāli, hàng trăm công tử Ly-xa, một bộ tộc hùng mạnh đang cai trị thành Tỳ-xá-li phú cường, với áo mão cân đai, cờ phướn, xe cộ… mỗi lần đi ra không khác chư thiên tử cõi trời, cũng tìm đến công viên nhưng không phải để hưởng thụ dục lạc mà để tìm chân lý. Tất cả sự biến cải, chuyển hóa tại công viên Am-la không xứng đáng để được gọi là Tịnh hóa, Phật hóa gia đình, xã hội hay đẹp hơn là tịnh Phật quốc độ chăng?

Mọi sự thành tựu ấy đều từ việc làm: Thân cận thiện sĩ.

Nói tóm, thân cận thiện sĩ là bước chân đầu tiên người Phật tử dự vào dòng Thánh, bởi từ đó người Phật tử được nghe, được học, được thấy những phẩm chất cao thượng mà họ không thể tìm thấy ở giữa cuộc đời trần tục.
Thích Nguyên Hùng

32 Tướng Tốt Của Bậc Đại Nhân

32 Tướng Tốt Của Bậc Đại Nhân

Đăng lúc: 12:51 - 17/05/2016

Sau khi Thái tử Tất-Đạt-Đa đản sinh, vua cha Tịnh-Phạn triệu tập các vị tinh thông tướng số đến tiên đoán vận mệnh cho Thái tử. Các vị xem tướng xong, đồng tâu lên rằng: “Thái tử có đủ 32 tướng tốt của một Bậc Đại nhân, thật hiếm có trên đời. Đây là những dấu hiệu báo trước Ngài sẽ là Bậc vĩ nhân đệ nhất trong thiên hạ. Nếu Ngài làm vua, sẽ là vị Chuyển luân Thánh vương; nếu xuất gia tu hành, Ngài sẽ là Bậc Đại Giác Ngộ”.

Chiếc xe mới

Chiếc xe mới

Đăng lúc: 08:23 - 07/11/2015

Nhà chỉ có mỗi một chiếc xe máy, chỗ làm của hai vợ chồng lại cách nhau như mặt trăng với mặt trời nên nhiều khi rất bí.

Lắm hôm chị lấy xe đạp của con gái, gò lưng đạp, mệt muốn đứt hơi nhưng đến công ty vẫn trễ. Thường thì chị đi ké xe máy của đồng nghiệp; năm bữa nửa tháng lại giành phần đổ vài lít xăng thay bạn. Đằng nào thì cũng bất tiện nên ngay sau khi trang trải xong nợ làm nhà, chị quyết tậu chiếc xe mới.

Anh hào hứng hưởng ứng ý vợ. Nhưng mua xe gì? Theo chị, xe gì cũng được, phương tiện mà, miễn có chiếc xế nổ, vi vu cho mát mặt là sướng rồi. Anh nhăn mặt xua tay, tỏ vẻ không ưng sự dễ dãi như thế. Chị vẫn bảo lưu ý mình bằng cách nói thêm, chỉ cần một chiếc Wave hay Dream là vừa đẹp lại vừa hợp túi tiền với mình. Anh dửng dưng trước nét mặt ngời ngời niềm vui của vợ rồi bất ngờ xổ một câu nặng như chùy:“Quá lạc hậu!”. Chị ngớ người, chẳng biết ngạc nhiên vì lời nhận xét chắc như định đề kia hay bởi chưa hiểu ý chồng. Anh kéo dài sự ngơ ngác của vợ khi thong thả bật lửa châm thuốc rồi rung đùi nhìn làn khói phả từ mồm; lúc lâu mới cất giọng chắc nịch: “Người ta đang đua nhau lên xe hơi; mình bét nhất phải rinh một chiếc tay ga”. Đôi mắt căng tròn của chị bỗng chớp chớp như sực tỉnh; liền đó là giọng rời rạc như hụt hơi; chị loanh quanh xa gần rồi dừng lại ở tâm điểm “đầu tiên” – tiền đâu. Chị bảo, nhà vừa xây xong, còn bao thứ phải sắm; cùng lúc xoay đâu ra gần bốn chục triệu đồng để mua xe Attila hay Air Blade. Chị lung lạc anh bằng kể lể, nào là phải dành tiền đóng tủ bếp và tủ quần áo, cả cái giường sắm từ hồi mới cưới nay đã ọp ẹp, cũng cần thay. Anh cắt phăng cái giọng thỏ thẻ như mưa dầm của chị: “Phải dồn tiền tậu con xe hoành tráng cho nở mày nở mặt với thiên hạ. Còn đồ trong buồng trong bếp, sắm lúc nào chả được!”. Từ chỗ khấp khởi vui với chiếc xe trong tưởng tượng, bỗng chốc chị chới với giống như người nhìn chùm quả ngọt ngoài tầm tay. Năn nỉ chồng xuống thang không được, chị đành giở chiêu cuối cùng – chuyển gánh nặng “tiền đâu” về phía anh. Nhưng anh thoát nhanh với tuyên bố hệt như quân lệnh: “Đã mua thì phải xe tay ga, còn không thì thôi, không bàn lùi!”. Chị thả tay bất lực trước sự kiên định của chồng. Sau hai đêm trằn trọc, tính tới tính lui, chị liều cầm sổ đỏ tới ngân hàng, vay ba mươi lăm triệu đồng. Ngay trong ngày, anh đánh chiếc Air Blade mới cứng về, dựng chễm chệ giữa sân; nhìn vợ, cười trắng răng đỏ lợi. Liền đó, anh trao chìa khóa xe cũ cho chị.

* * *

Có xe là sướng rồi; cũ mới không thành vấn đề; chị nghĩ vậy và vui vui khi một mình một xe. Vậy là hết cảnh phập phồng chờ để đi nhờ xe; chẳng còn phải đạp xe gần mười cây số đến chỗ làm; có chìa khóa xe trong tay, tha hồ vi vu bát ngát; chị lan man trong niềm phấn khởi bất tận. Nhưng thực tế sau đó, chưa hẳn như chị nghĩ. Dù đã thủ riêng chìa khóa xe mới nhưng lắm lúc anh vẫn chạy xe cũ. Đi dự tiệc hay lễ hội, tất nhiên anh bệ vệ ngự trên chiếc xe bóng nhoáng; nếu đón con hay đi tắm biển, anh đổi xe. Đặc biệt, anh tối kỵ chạy xe đẹp dưới trời mưa; anh bảo, nước mưa khác gì a-xít, hại kim loại lắm. Anh về quê, chị bảo lấy xe mới chạy đường dài cho khỏe nhưng anh còn nhìn trời, nghe thời tiết. Nếu nắng ráo, anh nghe lời chị; nếu đang mùa ẩm ướt, anh nhất quyết chạy xe cũ, vì như lời anh: “Về quê, qua đường đồng nhầy nhụa bùn, xót xe lắm!”. Nguyên tắc của anh khi khởi hành là ngồi lên xe nhún nhún mấy cái, nhìn trước ngó sau một lúc rồi mới nổ máy.

* * *

Nếu có giải thưởng dành cho người giữ tốt dùng bền xe máy thì còn lâu mới thoát khỏi tay anh.

Bắt đầu từ việc để xe, rảnh rỗi hay vội vàng đều phải dựng chân chống giữa, đề phòng xe ngã. Dù chạy đường ngắn hay dài, lâu hay mau, cứ về đến nhà là rửa xe. Anh cởi trần, tay cầm vòi nước mở hết cỡ, tay kia nhăm nhăm miếng giẻ tẩm xà phòng, kỳ tới cọ lui cho bằng sạch mới thôi. Nếu có cảm giác, chắc chiếc xe phải rên lên vì đau. Và nữa, bao giờ anh cũng dùng nước máy để rửa xe, dù nhà có giếng khoan. Anh bảo, nước giếng đầy phèn, dây vào hại xe lắm. Sau rửa nước là lau khô rồi anh chĩa hai chiếc quạt quay vù vù nhằm tống khứ những giọt nước ngoan cố bu bám trên xe. Công đoạn cuối cùng là anh đánh xe vào nhà, bật chân chống giữa rồi lấy chiếu đắp lên. Nếu không lau chùi, anh lại ngồi lặng ngắm xe, huýt sáo vang nhà. Lắm lúc anh quanh quẩn bên xe, hết ngắm nghía lại mở nắp kiểm tra xăng nhớt rồi thử phanh, nổ máy bảo dưỡng hoặc đơn giản là chỉ sờ mó. Nếu đo đếm được độ quan tâm anh dành cho người và vật xung quanh thì phần dành cho xe chắc phải kha khá. Thấy chồng mải lăng xăng bận bịu vì chiếc xe, chị ngứa mắt, bảo: “Anh yêu xe hơn con thế kia, không sợ con gái tủi thân à?”. Vẫn không rời miếng giẻ lau đang miết nhẹ trên yên xe, anh gọn lỏn: “Của bền tại người”. Hẳn là thế nhưng mình xài nó, chớ đâu lại hầu nó như vậy – chị nghĩ.

* * *

Cô gái ở trọ bên cạnh thường bồng con qua nhà chị chơi. Thằng bé thấy xe là sà tới, hết nhảy nhót nói cười với chiếc gương chiếu hậu, lại đòi bấm còi rồi bật đèn xi-nhan để nghe kêu tít tít. Những lúc đó, anh không rời mắt khỏi xe và luôn mồm cảnh báo: “Coi chừng nó cào tróc sơn!”; “Chân bẩn thế kia sao lại đứng trên yên!?”. Mẹ con cô hàng xóm tưởng anh đùa, cười toe toét. Lần cuối, thằng bé lò dò tới bên chiếc Air Blade, nhặt chìa khóa ai đánh rơi dưới đất, rạch một đường lên chiếc vè trước. Đường rạch mong manh như sợi tóc, mơ hồ như ảnh ảo, mắt mười phần mười phải nhìn kỹ mới thấy. Nhưng anh nhăn mặt xuýt xoa rồi mắng té tát khiến thằng bé co rúm, khóc thét. Từ đó, nó chẳng bao giờ dám mon men lại gần chiếc xe. Cũng từ đó, nó không thích sang nhà chị chơi. Được mẹ dẫn qua, đặt đâu nó ngồi đấy, không còn táy máy, nghiêng ngó khám phá như mọi khi. Hình như thằng bé không chịu được gò bó, chỉ một lúc là đòi về. Chị lấy bánh và nước ngọt dụ nó ở lại nhưng nó chẳng thèm. Phòng trọ chật như bao diêm và nóng như hỏa lò nên nhiều buổi trưa thằng bé quanh quẩn bên gốc xà cừ trước nhà chị để tránh nóng. Chị đứng trong nhà, đưa tay vẫy vẫy “vào đây con, có quạt nè”; nhưng nó lắc đầu nguầy nguậy. Nhìn ánh mắt cảnh giác lẫn sợ sệt của con trẻ, chị thương nó, trách chồng.

* * *

Với chị, anh cũng chẳng khách sáo. Những khi xe cũ xẹp lốp hay hết xăng, chị bất đắc dĩ phải đi xe mới. Thấy vậy, anh có lời ngay: “Dắt ra dắt vô chỗ gửi xe phải cẩn thận, đừng để trầy xước”. Thường thì anh giành phần dắt xe ra tận đường rồi mới trao chìa khóa xe cho chị. Nhìn anh giúp vợ với vẻ mặt không vui, chị biết động tác chu đáo của anh chưa hẳn vì chị mà vì sợ chiếc xe bị “tổn



thương” khi được dẫn qua lối cửa hẹp. Lắm lúc chạy xe mà chị nghĩ đâu đâu, suýt đụng vào người ta. Ngồi xe đẹp mà đầu óc căng như dây đàn sắp đứt thì sướng ích gì?! Chị bực; rồi đến lúc cũng không thể im lặng đứng nhìn anh suốt ngày quấn quýt vuốt ve chiếc xe. “Mình cưỡi nó; cớ sao lại để nó làm khổ mình như thế!?”. Lời gay gắt của chị khiến anh cứng lưỡi nhưng rồi đâu lại vào đấy.

* * *

Nói anh không nghe, chị đấu tranh bằng hình thức tiêu cực. Những khi xe cũ không chạy được, chị liền túc tắc đi bộ ra chợ hoặc tới nhà bưu điện; còn khi đưa con đi học thì chị cũng chỉ dùng xe đạp. Vừa đi chị vừa chào hỏi, bắt chuyện với bà con xung quanh, cứ như để thông báo “tôi đang đi bộ đây”. Những lúc ấy, người phờ phạc, mồ hôi đẫm áo nhưng chị chẳng hề kêu ca, chẳng thèm nhìn chiếc xe bóng nhoáng dựng chình ình trước cửa. Người ngoài nhìn vào, thắc mắc: “Sao xe đắp chiếu, người lại hành xác thế kia?!”. Chị cười như mếu. Anh ngượng. Đến lúc anh năn nỉ, chị mới hay dùng chiếc xe vốn để chưng hơn để chạy. Tuy nhiên, chuyện người khổ vì xe vẫn chưa hết.

* * *

Một buổi tối, cô ở trọ gần nhà chạy qua mượn xe. Cô đã mời được mẹ vào trông cháu để cô đi làm. Nhưng bà mẹ quê lần đầu vào thăm con nên lớ ngớ, bị nhà xe cho xuống giữa đường tránh ở bên ngoài thành phố; chưa biết xoay xở sao giữa đêm hôm. Cũng may, bà cụ biết cách gọi điện thoại cho con gái, nên cô cần xe để đi đón mẹ gấp. Cô nhờ chị nhưng xe chị đang để ngoài tiệm sửa chữa. Cô chuyển hướng sang anh, thuyết khách như năn nỉ; chị cũng lên tiếng vun vào nhưng bị từ chối khéo: “Anh sắp đi công chuyện”. Cô hàng xóm nấn ná, hình như vẫn chưa hết hy vọng; chị thầm mong anh đổi lời. Nhưng không.

* * *

Cô hàng xóm vừa về thì chị to tiếng, liền một mạch, cứ như sợ anh chen vào: “Công chuyện gì?! Anh tệ lắm! Hôm anh đi du lịch vắng nhà liền mấy ngày, con bị ngộ độc thức ăn phải vào viện cấp cứu; anh biết cô ấy giúp đỡ sao không? Cô bỏ con nhỏ cho chồng, chạy vào viện, thức trắng đêm với em. Vậy mà giờ đây, chỉ có chiếc xe mà anh nỡ…”. Giọng chị nghẹn lại. Anh cúi đầu, im lặng. Chị ức muốn khóc. Lúc lâu anh mới ngước nhìn chị, lí nhí: “Em qua nói với cô ấy đi”. Chị chạy qua bảo cô hàng xóm sang dắt xe nhưng cô đã mượn được xe, đi rồi. Hôm đó và nhiều hôm sau đó, chị nén bực tức trong im lặng. Anh cũng buồn; suốt mấy ngày liền, chẳng thèm để ý đến chiếc xe yêu quý.

* * *

Anh chủ động làm lành rồi đổi chìa khóa xe cho chị. Trước vẻ ngạc nhiên của vợ, anh tươi cười: “ Em chạy xe tay ga hợp hơn; còn anh đi xe gì chả được”. Chị nhìn anh trìu mến, niềm vui ngời trong mắt; tất nhiên chẳng phải vì được chạy xe mới.

Thiền Sư Vạn Hạnh và Bài Sấm Ký Trên Cây Gạo

Thiền Sư Vạn Hạnh và Bài Sấm Ký Trên Cây Gạo

Đăng lúc: 20:48 - 01/08/2015

Sư Vạn Hạnh bèn dùng lối chiết tự phân tích và giảng nghĩa bài sấm ký cho dân làng nghe, đại ý vua yếu, tôi mạnh, nhà Lê đổ, họ Lý thành, phương đông vua xuất hiện, phương tây dân chúng mất, qua sáu bảy năm thì thiên hạ được thái bình.


Năm 980 nhà Tiền Lê thay thế nhà Đinh, năm 1009 nhà Lý thay thế nhà Tiền Lê. Hai cuộc thay ngôi đổi chủ cách nhau 29 năm nhưng tương đối giống nhau. Hai vua kế vị tiền triều đều còn bé, sự việc diễn ra trong hòa bình và hai vua mới đều được hai bà Thái hậu triều trước trân trọng mời vào cung trao long bào và ngôi báu. Chỉ khác nhau ở chỗ người chủ xướng thay đổi triều Đinh là một đại tướng quân có binh quyền, còn người chủ xướng thay đổi triều Tiền Lê là nhà sư trong tay không tấc sắt không tên quân.
Tháng 3 năm Ất Tỵ (1005) vua Lê Đại Hành băng hà, truyền ngôi cho Thái tử Lê Long Việt. Các hoàng tử khác tranh giành ngôi báu đem quân đánh nhau suốt 8 tháng trời mới yên, Thái tử đăng cơ chỉ được ba ngày thì bị em là Long Đỉnh giết hại, cướp ngôi.
Trong bốn năm trị vì (1005-1009) xét công luận tội thì Long Đỉnh tội nhiều hơn công. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét ”Ngọa Triều (Long Đỉnh) không những thích giết người lại còn oán vua cha không lập mình làm thái tử, đánh đau người Man để họ kêu gào, nhiều lần phạm đến tên húy của cha mà lấy làm thích” Còn sử thần Ngô Thì Sĩ thì :”Khai Minh Vương(Long Đỉnh) là dứa con hư của Đại Hành, là đứa em ngỗ nghịch của Trung Tông (Long Việt)…là kiếp sau của vua Kiệt vua Trụ, nhốt tù nhân dưới nước, đặt hình phạt ngọn cây, trác táng vì rượu gái, nhiều điều tối tăm hỗn loạn không thể nào hình dung”.
Khi Long Đỉnh chết, Ngô Thì Sĩ liên hệ đến triều Đinh và cho đó là quả báo nhãn tiền ”Long Đỉnh giết Long Việt thì cũng như Đinh Liễn giết Hạng Lang. Bọn Phạm Cự Lượng tôn Lê Đại Hành cũng như bọn Đào Cam Mộc phò Lý Thái Tổ lên ngôi. Quả báo của kẻ làm nhiều điều ác như xoay theo vòng tròn” Rồi ông tiết lộ một bí mật mà các sử gia khác không biết ”Lý Thái Tổ lại rất căm phẫn về tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh Vương nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi dấu kín việc đó nên sử không được chép, nếu quả như vậy cũng là đạo trời hay báo ứng cho nên chép phụ vào đây để làm răn”. Thực hư ra sao không rõ, chỉ thấy Lý Công Uẩn lên ngôi hoàn toàn danh chánh ngôn thuận.
Trước khi Long Đỉnh qua đời, một hôm, ở làng Diên Uẩn có mưa to gió lớn, sét đánh trúng cây gạo cổ thụ làm tét một mãng da lớn. Vài ngày sau dân làng phát hiện chỗ sét đánh có nhiều chữ chi chít và cho đó là sấm ký của thần nhân. Bài sấm như sau “Thụ căn diểu diểu. Mộc biểu thanh thanh. Hòa đao mộc lạc. Thập bát tử thành. Đông A nhập địa. Mộc dị tái sinh. Chấn cung xuất nhật. Đoài cung ẩn tinh. Lục thất niên gian. Thiên hạ thái bình” (Gốc cây thăm thẳm. Ngọn cây xanh xanh. Hạt hòa đao rụng. Mười tám hạt thành. Đông A vào đất. Cây khác lại sanh. Đông mặt trời mọc. Tây sao náu mình. Khoảng sáu bảy năm. Thiên hạ thái bình)
Sư Vạn Hạnh bèn dùng lối chiết tự phân tích và giảng nghĩa bài sấm ký cho dân làng nghe, đại ý vua yếu, tôi mạnh, nhà Lê đổ, họ Lý thành, phương đông vua xuất hiện, phương tây dân chúng mất, qua sáu bảy năm thì thiên hạ được thái bình.
Bài sấm ký và lời bàn của Sư Vạn Hanh nhanh chóng lan truyền khắp trong thành ngoài nội, Sư nói với Lý Công Uẩn ”Gần đây cứ suy lời sấm thì họ Lý đáng nổi lên. Nay họ Lý trong nước có ai khoan từ nhân thứ rất được lòng người như Thân vệ, binh quyền trong tay, làm chủ muôn hộ, nếu bỏ Thân vệ thì còn ai đương nổi”.
Lúc bấy giờ Long Đỉnh còn tại vị, sợ sự việc tiết lộ mang họa sát thân, Công Uẩn không dám bàn đến việc đó mà còn đem Sư dấu ở Tiên Sơn. Sự cẩn thận của Công Uẩn không phải vô ích, Long Đỉnh cũng nghe biết bài sấm ký và lời bàn của Sư Vạn Hạnh, âm thầm sai thủ hạ thân tín tìm giết hết người họ Lý nhưng không hề đả động đến Công Uẩn thường xuyên kề cận bên mình. Có lẽ ông ta cho Công Uẩn không phải là người phản bội bởi khi ông ta giết Long Việt cướp ngôi, quần thần sợ hãi không ai dám phản ứng, chỉ có Công Uẩn ôm xác Long Việt khóc than thương tiếc được ông ta khen trung thành và thăng chức từ Đội trưởng cấm quân lên Tứ sương quân phó chỉ huy sứ rồi Tả Thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Long Đỉnh chết, con còn bé, Chi hậu Đào Cam Mộc nói với Công Uẩn ”Người trong nước đều biết họ Lý đáng nổi lên, lời sấm đã hiện ra, đó là cái họa không thể che dấu nổi, chuyển họa thành phúc chỉ một sớm một chiều. Đây là lúc trời trao mệnh và người hưởng ứng theo, Thân vệ còn ngờ gì nữa” Công Uẩn nói”Tôi biết rõ ý ông không khác ý Vạn Hạnh. Nếu đúng như lời ấy thì nên tính kế thế nào?” Biết Công Uẩn đồng ý, Cam Mộc bàn với quần thần, không ai có ý khác, bèn cùng nhau vào cung tâu với Thái hậu, bà đồng ý, vời Công Uẩn vào khuyên lên ngôi hoàng đế.
Thật ra thì bài sấm ký đó không phải của thần nhân ban cho mà tác giả chính là…Sư Vạn Hạnh. Sử thần Ngô Thì Sĩ viết ”Ôi! trời có nói gì đâu! Một tiếng sét thành ra chữ, chỉ bốn mươi chữ mà việc hưng phế của dòng họ các đời trong khoảng vài trăm năm đều khái quát vào đấy cả. Có lẽ Sư Vạn Hạnh giỏi về suy đoán, nhân sét đánh cây gạo, giả thác bài chữ sét đánh để tỏ sự thần dị”.
Sư Vạn Hạnh họ Nguyễn (không biết tên gì) sanh năm 938, người làng Cổ Pháp cùng quê với Công Uẩn. Năm 21 tuổi xuất gia tại chùa Lục Tổ, đệ tử sư Thiền Ông, thông minh, học nhiều biết rộng, tinh thông Tam giáo (Nho-Phật-Lão), từng làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành cả chánh trị lẫn quân sự, giúp vua chiến thắng quân Tống quân Chiêm xâm lược và quấy phá nước ta.
Nói Sư Vạn Hạnh giỏi suy đoán, tiên liệu việc như thần, nói đâu trúng đó cũng không ngoa, không cường điệu. Vì, Sư lăn lộn trong chính trường nhiều năm, giữ vị trí quan trong trong triều, thân cận bên vua nên không có việc gì không biết, không có biến cố nào không trải qua. Một người như thế chắc chắn tích lũy nhiều vốn sống, kinh nghiệm, nhìn vạn vật biển chuyển, thế sự thăng trầm, lòng người thay đổi là có thể đoán biết hồi kết như thế nào.
Lúc bấy giờ mọi người đều chán ghét sự hà khắc, bạo ngươc, tàn ác của Long Đỉnh, tiếng oán than, căm phẫn vang lên khắp nơi thì không chỉ có Sư mà bất cứ kẻ sĩ nào cũng biết nhà Lê đã suy vong nên thần dân ngoảnh mặt quay lưng không còn lưu luyến gì với triều đại xấu xa tàn ác đó. Thời cơ đã đến, nhân chuyện sét đánh cây gạo Sư bèn viết bài sấm ký để tác động tâm lý và kích thích lòng dân cùng khanh tướng, quan lại triều đình và cả Công Uẩn..
Công Uẩn lại được Sư nuôi dạy từ năm 7 tuổi đến trưởng thành theo sự phó thác của sư Khánh Văn. Sư nhận xét đứa học trò “Cậu bé nầy không phải là người thường, sau nầy lớn lên chắc sẽ giải quyết được nhiều việc khó, làm bậc vua sáng suốt trong thiên hạ”. Do vậy, tự thân không thể làm vua thì làm thầy vua, Sư quyết định đưa Công Uẩn lên ngôi cửu ngũ không phải bằng vũ lực mà bằng…văn chương! Việc làm của Sư xem ra khá mạo hiểm, liên quan đến an nguy sinh mạng của học trò vì Long Đỉnh có thể giết hại Công Uẩn bất cứ lúc nào để bảo vệ củng cố ngôi vị. Tuy nhiên, như đã nói trên, Sư đã từng trải nhiều năm trong triều đình, vốn sống phong phú, đầy đủ kinh nghiệm, biết người biết ta cho nên chuyện đó đã không xảy ra.
Sử thần Ngô Sĩ Liên khen Sư biết sự chuyển biến của thời vận, trí thức hơn người thường, còn sử thần Ngô Thì Sĩ thì nhận xét Sư có chí khí hơn đời, ôm tài thao lược phò tá nghiệp vương, có kiến thức, biết tính toán nên biết trước sự việc xảy ra “cũng là tay lỗi lạc trong giới thiền”.
Năm 1025 Sư viên tịch, để lại cho các đệ tử bài thơ :
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô.
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhâm vận thịnh suy vô bố úy.
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Thân người như ánh chớp có rồi không. Muôn cây mùa xuân tươi tốt mùa thu héo khô. Mặc cho thời vận thịnh suy không nên sợ hãi. Vận thịnh suy như hạt sương trên ngọn cỏ tan biến cấp kỳ).
Sau nầy, cảm kích công đức cao dày của Sư, vua Lý Nhân Tông có làm bài thơ khen tặng:
Vạn Hanh dung tam tế.
Chân phù cổ sấm ky.
Hương quan danh Cổ pháp.
Trụ tích trấn vương kỳ
(Vạn Hạnh thông ba kiếp. Phục hợp cổ sấm thi. Quê hương làng Cổ pháp. Cấm gậy trấn kinh kỳ). *./

Theo Đạo Phật ngày nay

Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ?

Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ?

Đăng lúc: 19:12 - 17/06/2015

Nếu như ngay cả việc nhỏ cũng không muốn làm, vậy sao có thể làm nên sự nghiệp lớn? Bất kể sự việc gì cũng đều không thể một bước mà thành tựu. Cũng như không ai có thể xây nhà lầu trên cát, tòa nhà trên không chỉ là điều hoang tưởng viễn vong mà thôi
Cổ nhân từng nói: “Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi”, nghĩa là, đừng tưởng việc thiện nhỏ mà không làm, đừng tưởng việc ác nhỏ mà lại chủ quan thực hiện. Con người hiện đại thường nóng vội, tham công, hám lợi; khi gây dựng đại nghiệp, họ chỉ muốn một bước là thành tựu, một đêm là thành danh, một ngày là thành tài. Họ luôn xem “việc nhỏ” là tầm thường, nhưng lại quên mất rằng việc lớn nhờ có tích tiểu mà thành đại. Họ không xem trọng lỗi sai nhỏ, nhưng chính sơ suất nhỏ lại có thể gây ra sai lầm lớn, dẫn đến “mối hận ngàn năm”. Truyền thống văn hóa 5 ngàn năm qua đã để lại rất nhiều câu chuyện lịch sử, chứng minh cho đạo lý “nước chảy đá mòn”.

Người xưa cho rằng “tiểu trung hữu đại”, trong cái nhỏ có cái lớn, giọt nước nhỏ không ngừng chảy xuống có thể làm mòn đá, ngọn lửa nhỏ đủ để đốt cháy thảo nguyên, việc nhỏ không nhịn sẽ làm rối mưu lớn, việc tốt mỗi ngày một chút ít đủ để kết nhiều thiện duyên. Bất cứ “đại thiện” nào cũng cần tích lũy từ “tiểu thiện” mà thành. Không ai có thể một bước trở thành anh hùng, muốn thành đại sự, thì cần làm từ việc nhỏ trước tiên.

quet-nha-phap-bao

Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ?

Thời Đông Hán có một thiếu niên tên là Trần Phiên. Trần Phiên tự cho mình bất phàm, vậy nên một lòng muốn gây dựng sự nghiệp lớn. Một hôm, người bạn Tiết Cần đến thăm, nhìn thấy tiểu Trần sống một mình trong căn nhà vô cùng bẩn thỉu, liền nói với bạn: “Nho tử sao không quét dọn để tiếp đãi khách?”.Trần Phiên trả lời: “Đại trưởng phu xử thế, nên quét thiên hạ, sao lo một nhà?”. Tiết Cần liền lập tức đáp lại: “Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ?”. Trần Phiên hiểu ra và không thể nói được lời nào (trích trong “Hậu Hán Thư”).
Hoài bão muốn “quét thiên hạ” của Trần Phiên là điều không sai, nhưng vấn đề nằm ở chỗ cậu không ý thức được rằng “quét thiên hạ” chính là bắt đầu từ “quét một nhà”; “quét thiên hạ” bao hàm cả “quét một nhà”, chứ không phải “quét một nhà” là không thể làm nên đại nghiệp.

Nếu như ngay đến việc nhỏ cũng không làm, hỏi sao có thể làm nên sự nghiệp lớn? Trong “Khuyến học”, nhà tư tưởng nổi tiếng thời Chiến quốc Tuân Tử từng nói: Không tích bước đi, không đạt được ngàn dặm, không tích dòng chảy nhỏ, không thể thành biển sông. Trí huệ của các bậc thánh hiền thời xưa cho chúng ta thấy rằng, cho dù làm chuyện gì cũng không thể một bước là thành. Vì vậy, chính từ từng việc nhỏ, tích lũy tiến bộ từng chút một, cuối cùng mới có thể thành tựu một việc lớn.

Hành trình ngàn dặm, khởi đầu dưới bước chân

Câu thành ngữ “Thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ” (Đi ngàn dặm, bắt đầu từ dưới bước chân) xuất phát từ “Lão Tử – chương 46”. Lão tử đã dùng rất nhiều ví dụ để nói lên rằng sự vật luôn phát triển từ nhỏ đến lớn. Ông nói: “Hợp bão chi mộc, sinh vu hào mạt; cửu tằng chi đài, khởi vu lũy thổ; thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ”. Nghĩa là, cây to dùng hai tay mới ôm hết là sinh trưởng từ cành non nhỏ bé; đài cao chín tầng là được xây từ một mô đất mà thành; lộ trình hàng ngàn dặm xa như vậy cũng bắt đầu từ bước thứ nhất dưới chân.
Trong “Vi học”, nhà văn Bành Đoan của đời Thanh từng kể một câu chuyện sau đây: Tại biên giới Tứ Xuyên có hai hòa thượng, một người nghèo khổ, còn một người thì giàu có. Khi hai vị hòa thượng chuẩn bị đến Nam Hải Triều Thánh để lễ Phật, hòa thượng giàu nói với hòa thượng nghèo: “Mấy năm nay ta luôn dự tính thuê một chiếc thuyền xuôi theo dòng sông xuống Nam Hải, nhưng vẫn chưa thể thực hiện được, còn ông thì dựa vào gì mà đi chứ?”

Một năm sau, hòa thượng nghèo từ Nam Hải Triều Thánh quay về, trong khi hòa thượng giàu vẫn chưa chuẩn bị xong chuyến đi. Ông kể rằng, trải qua một năm lội nước đường dài, chỉ dựa vào một chiếc bình nước và một cái bát đựng cơm nguội, ông đã hoàn thành được tâm nguyện của mình. Hòa thượng giàu nghe xong xấu hổ không nói nên lời. Không thể chỉ dừng lại ở miệng lưỡi, mà phải làm bằng cả ý chí và sức lực thì mới mong đạt được thành công.

Lịch sử có ghi chép nhiều bậc học giả với học thức uyên bác và tài hoa xuất chúng. Đây không phải là thành quả của một sớm một chiều, cũng không phải của tài năng thiên phú. Thực tế, họ đã phải ngồi rách đệm lót hay mài thủng đá mài mực, thì mới có thể học thành tài.

Vì vậy, “Thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ” thể hiện ý chí của một người lập chí lập nghiệp, cần phải mắt nhìn nơi xa, tay làm việc nhỏ, vừa không thể xa rời thực tế, lại càng không nói lời rỗng tuếch, và chỉ có một ý chí kiên định, không ngại gian khó mới có thể thực hiện mơ ước.

“Ngu Công dời núi” là một truyện cổ được ghi chép trong cuốn “Liệt tử – Thang vấn thiên”. Tại phía nam Kí Châu, bờ bắc Hoàng Hà, có hai ngọn núi cao tên là Thái Hành và Vương Ốc – bán kính hai ngọn núi dài 700 dặm, chiều cao lên đến mấy vạn thước. Ở phía bắc của hai ngọn núi có một ông lão tên là Ngu Công, tuổi đã gần 90. Hai ngọn núi cản trở đường đi hướng bắc, dù ra hay vào đều phải đi đường vòng rất xa, khiến Ngu Công vô cùng đau đầu trước tình huống này. Hôm đó, ông triệu tập cả nhà lại để cùng nhau thảo luận, làm thế nào để có con đường thông thoáng dẫn thẳng đến phía nam Dự Châu, bờ nam Hán Thủy. Với ước nguyện như vậy, ông quyết định san bằng hai ngọn núi này. Ngày hôm sau, Ngu Công lựa chọn ba cháu trai có thể đảm nhiệm trọng trách, cùng theo ông đi đục đá, đào đất, sau đó lại đem số đất đá vừa đào bới được chuyển đến khu vực gần biển Bột Hải.

Người hàng xóm Hà Khúc Trí Sưu cười nhạo Ngu Công, cho rằng đám người nhân lực ít ỏi, núi lại cao như vậy, làm sao có thể san bằng hai ngọn núi này? Nhưng Ngu Công vẫn kiên định: “Cho dù tôi chết rồi, tôi còn có con trai mà; con trai lại sinh cháu trai, cháu trai lại sinh con trai, con trai lại sinh con trai nữa, và con trai lại tiếp tục sinh cháu trai… Con con cháu cháu là không bao giờ hết cả, nhưng hai ngọn núi này đâu thể mọc cao hơn, cũng không thể to ra hơn – Tôi có gì phải lo lắng là không san bằng được nó chứ ?” Hà Khúc Trí Sưu nghe Ngu Công nói như vậy, tâm phục khẩu phục, nín lặng không nói nên lời.

Dù ở độ tuổi gần đất xa trời, nhưng ông lão Ngu Công không vì tuổi già sức yếu mà khoanh tay đứng nhìn. Ông tâm niệm “tích tiểu thành đại”, cho dù mỗi ngày chỉ có thể dời đi một chút đất đá, nhưng theo ngày theo tháng, ông cũng sẽ dời được ngọn núi to. Tinh thần và ý chí kiên định ấy làm cảm động Thiên đế, ngài bèn lệnh cho con trai của Đại lực thần Khoa Nga Thị di dời hai ngọn núi này. Từ đó về sau, phía nam của Kí Châu và bờ nam của Hán Thủy không còn có núi cao ngăn cản nữa.

“Thái Sơn chẳng quản gom từng hạt đất, nhờ vậy mà cao lớn; sông biển không kén dòng nhỏ to, vậy nên càng rộng lớn”. Bất cứ một việc thiện nào cũng là từng hạt đất, cũng là từng dòng nhỏ. Bắt đầu làm từ việc nhỏ, mỗi ngày một việc tốt, một câu nói thiện lương, một nụ cười rạng rỡ, một ly trà ấm nóng,… cứ như thế mà tích tiểu thiện thành đại đức.

Lão tử cho rằng: “Phu duy lận, thị vị tảo phục, thị vị trọng tích đức”, nghĩa là, đàn ông keo kiệt, là để sớm có sự chuẩn bị cho tương lai, là vì xem trọng việc tích lũy công đức. Nếu trong bất cứ trường hợp nào chúng ta cũng không bỏ qua những việc thiện nhỏ, thì nhất định sẽ có ngày thành công. Tương tự như vậy, đừng tưởng việc ác nhỏ mà lại chủ quan thực hiện, bởi mỗi việc ác nhỏ khi tích lũy lâu ngày cũng sẽ kết thành đại họa.

Đừng tưởng ác nhỏ mà làm

La Đại Kinh là người Tống triều, từng viết cuốn sách tên là “Hạc Lâm Ngọc Lộ”, trong đó kể một câu chuyện: Khi Trương Quai Nhai làm Sùng Dương Lệnh, ông phát hiện quan sứ quản lý phủ khố đã lấy ra một khoản tiền rất nhỏ để dùng vào việc riêng trong nhiều ngày trời, vì vậy, ông phán xử quan sứ phải chịu trượng hình (đánh đòn). Quan sứ không phục, Trương Quai Nhai liền viết ra giấy, phán: “Một ngày một tiền, ngàn ngày một ngàn, dây cưa đứt gỗ, giọt nước xuyên đá.” Ý nói là mỗi ngày chỉ trộm một đồng, nhưng một ngàn ngày sau sẽ là một ngàn đồng, tích lũy lâu ngày sẽ thành một số tiền không ít của nhiều ngày, giống như dùng dây thừng kéo qua kéo lại ma sát khúc gỗ, khúc gỗ có lớn thì sau cũng đứt đoạn; hay như giọt nước không ngừng nhỏ xuống mặt đá, tảng đá dù cứng đến đâu cũng có ngày bị xuyên thủng
Biện pháp phòng ngừa

Từng ý từng niệm trong đời người đều vô cùng quan trọng. Một chuyện nhỏ không đáng kể nhưng lại có thể thay đổi cả một con người. Từng chút vụn vặt trong cuộc sống ngày thường đều là tích ít mà thành nhiều, tích tiểu mà thành đại. Một chuyện nhỏ có thể gây ra sai lầm lớn, vậy nên cần có biện pháp phòng ngừa.

“Sử Ký” có ghi chép một câu chuyện kể về Cơ Tử. Một lần, Trụ Vương nhận được đôi đũa ngà voi đã vô cùng thích thú. Cơ Tử nhìn thấy, liền than thở nói: “Đũa ngà voi chắc chắn không thể phối với đồ gốm, mà phải phối với chén khắc bằng sừng tê giác, ly bằng ngọc trắng. Có ly ngọc rồi, bên trong chắc chắn không thể đựng canh rau dại và cơm nấu bằng gạo thô, mà phải là đựng sơn hào hải bị mới tương xứng. Ăn sơn hào hải vị rồi thì sẽ không muốn mặc áo quần xấu xí, cũng không muốn ở nhà tranh đơn sơ, mà phải mặc áo gấm quần lụa, ngồi xe sang trọng, ở nhà rộng lầu cao. Nếu cứ như vậy thì phẩm vật của thương nhân trong nước chúng ta sẽ không thể thỏa mãn dục vọng của vua, mà còn phải đi thu gom mọi vật kỳ quái và trân quý của các nước phương xa. Phân tích từ đôi đũa ngà voi, ta thấy được kết quả của tương lai sau này, không kìm được nỗi lo lắng cho vua.”

Cuối cùng, điều lo lắng của Cơ Tử đã trở thành hiện thực. Dục vọng của Trụ Vương quả nhiên càng ngày càng lớn. Ông xây Trích Tinh Lâu và Lộc Đài, lấy rượu làm ao, treo thịt làm rừng, thu thập đồ chơi trân quý của khắp nơi, khiến cho dân oán dân than, dẫn đến việc Châu Vũ Vương khởi binh phạt Trụ. Sau khi Trụ Vương bại trận, ông đã tự thiêu mình trong ngọn lửa rừng rực tại Lộc Đài.

Bờ kè ngàn dặm vì hang kiến mà sập

Câu nói “Thiên lý chi đê, hội vu nghĩ huyệt” (Bờ kè ngàn dặm vì hang kiến mà sập) xuất phát từ “Hàn Phi Tử – Dụ Lão” của Hàn Phi.

“Bờ kè ngàn dặm, cũng sập vì hang kiến; Nhà cao trăm tầng, vì khói trong ống khói mà cháy”, nghĩa là, một tổ kiến nhỏ bé, có thể khiến bờ kè cao trăm dặm đổ sập, cũng như vậy, chuyện nhỏ không cẩn thận sẽ gây ra họa lớn.

Tương truyền Trung Hoa thời xưa có một thôn trang gần bờ sông Hoàng Hà. Vì để phòng chống lụt lội, nông dân trong thôn xây đắp một bờ kè kiên cố. Ngày nọ, một người nông dân lớn tuổi vô tình phát hiện ra lỗ kiến, chỉ trong chốc lát đã sinh sôi nảy nở nhiều lên. Trong lòng ông tự hỏi, những lỗ kiến này có ảnh hưởng đến an toàn của bờ kè hay không? Ông định quay về thôn báo cáo, trên đường đúng lúc gặp con trai mình. Sau khi nghe xong ý định của cha, con trai ông lão tỏ ra không chút quan tâm và nói rằng: Bờ kè kiên cố như vậy, còn sợ mấy con kiến nhỏ bé sao? Buổi tối hôm đó, mưa gió bão bùng, mực nước dâng cao, nước sông dữ dội từ các lỗ kiến chảy vào liên tục, cuối cùng bờ kè nổ tung, làm ngập một vùng thôn trang và ruộng vườn bên sông.

Việc nhỏ có thể thành tựu một người, nhưng việc nhỏ cũng có thể làm hủy hoại một con người, thậm chí một quốc gia. Vậy nên mới có câu: “Mang chí lớn, nể tiểu tiết”. Bắt đầu từ việc nhỏ, từ xung quanh mình, chân đi vững bước, sau đó ắt thành tựu tự mình.



Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung

Phật tự tại trước mọi sóng gió cuộc đời

Phật tự tại trước mọi sóng gió cuộc đời

Đăng lúc: 10:53 - 15/06/2015

Đức Phật của chúng ta ngày xưa cũng bị nhiều người hủy nhục trước mặt vua quan, thần dân thiên hạ. Khi bị cô gái giả làm bụng bầu bêu xấu trước mặt mọi người: “Sa môn Cồ Đàm đã lấy em rồi mà ngày nay bỏ bê em như thế này để em phải bụng mang dạ chữa, sao anh đối với mọi người đều từ bi thương yêu bình đẳng mà lại để em thành ra nông nỗi.
Nếu anh không có thời gian để lo cho em thì hãy nên nhờ bà Tỳ Xá Khư chăm sóc, giúp đỡ cho em chứ?” Trước mặt đại chúng, Phật an nhiên trả lời “chuyện này chỉ có tôi biết, cô biết” mà không cần phải đính chính hay minh oan một lời nào. Sự thật vẫn là sự thật, trời xuôi đất khiến thế nào mà trong lúc cô ta đang diễn kịch thì cái bụng bầu giả bằng gối rớt xuống trước mặt mọi người. Cô gái quá xấu hổ nên nhanh chân bỏ chạy, nhiều người tức quá chạy chửi theo “đồ thứ con gái hư thân mất nết”.


Chuyện đó xảy ra không bao lâu thì một chuyện khác lại kinh hoàng, khủng khiếp và độc ác, dã man hơn làm rúng động lòng dân trong cả nước. Bọn người đê tiện, thấp hèn muốn hại Phật lần này đã tung một chiêu đòn quyết định, chúng muốn tẩy chay cả giáo đoàn đức Phật cho bằng được nên lập mưu bày kế tinh vi hơn lần trước gấp trăm ngàn lần. Kỳ này chúng mướn bọn nghiện rượu giết một cô gái đẹp rồi giấu trong Tịnh xá chỗ Phật ở và lên trình báo với vua quan cô gái ngoan đạo của họ một thời gian gần đây hay đến Tịnh xá của Phật nghe pháp và bây giờ đã bị mất tích.
Chúng yêu cầu nhà vua phải làm sao tìm cho được cô gái ngoan đạo ấy.Vua Ba Tư Nặc cho mở cuộc điều tra và cuối cùng tất cả mọi người đều phát giác ra cô đã bị giết và xác được chôn trong Tịnh xá. Sự thật đã quá rõ ràng, đâu còn ai nghi ngờ gì nữa vì mọi người đều tai nghe mắt thấy rõ ràng. Vậy ai là thủ phạm đã giết cô gái và chôn ở chỗ Phật?Phật à, không thể nào có chuyện đó xảy ra, đệ tử Phật cũng không thể nào làm như vậy.
Bọn người xấu lúc này lợi dụng thời cơ đem xác cô gái bỏ lên xe chở đi khắp thành Xá Vệ và rêu rao Sa môn Cồ đàm đã bức tử cô gái. Sự việc xảy ra quá bất ngờ làm cho vua Ba Tư Nặc không biết giải quyết ra sao vì ông biết chắc Phật trước kia là thái tử Sĩ Đạt Ta có vợ là hoa hậu đẹp nhất thời bấy giờ và có cả hàng trăm cung phi mỹ nữ tuyệt nhưng Ngài vẫn từ bỏ hết để sống đời tu hành đơn giản.
Nhà vua biết chắc đây là âm mưu sâu độc của bọn xấu ác vì lòng tham lam ích kỷ, ganh ghét tật đố mà làm chuyện tày trời như vậy để vu oan hủy nhục đức Phật. Những cuộc điều tra bắt đầu, nhà vua cho tung ra nhiều thám tử tài ba lỗi lạc có mặt khắp nơi để dò la tin tức. Bốn chúng đệ tử xuất gia và tại gia thì buồn rầu, lo lắng chờ đợi kết quả cuối cùng.
Riêng bọn người xấu ác thừa dịp này rêu rao tuyên truyền, tung tin rằng xác cô gái chết do sa môn Cồ Đàm quá thất nhơn ác đức đã hãm hiếp cô gái rồi giết luôn và chôn ngay chỗ ở. Lúc này những người hiểu biết đạo chỉ biết trông chờ kết quả điều tra để minh oan cho Phật. Người không hiểu đạo thì nguyền rủa đức Phật sao mà quá tàn ác, nhẫn tâm. Kẻ bếu rếu, người chửi bới làm náo loạn khắp cả thành Xá Vệ.
Lệnh khẩn cấp được ban hành giới nghiêm 24/24, toàn thể chư Tăng đều phải ở yên một chỗ, không ai được rời khỏi trú xứ cho đến khi nào điều tra được vụ án, nếu ai vi phạm sẽ bị xử trảm ngay. Một ngày trôi qua, hai ngày trôi qua nhưng vẫn không có tin tức gì sáng sủa. Nhiều người đang bất mãn, buồn chán, thất vọng, lo âu về sự thật quá phũ phàng, từ xưa đến nay có bao giờ xảy ra vụ án mạng tày trời như thế.
Nhưng trời đâu có hại người ngay, nhân quả rất công bằng, gieo gió thì gặt bão, giết người thì bị người giết lại. Đến ngày thứ ba thì ban chuyên án đã tìm ra manh mối để đem lại sự trong sạch cho Phật và giáo đoàn. Ai hay tin cũng thở phào nhẹ nhõm và mừng thầm trong bụng vì đã qua cơn đại nạn.
Số là bọn nghiện rượu sau khi giết cô gái xong đã nhận được số tiền lớn từ tay bọn xấu ác, nhưng do ăn chia không đồng đều nên trong lúc ăn nhậu cùng nhau, chúng đã cãi cọ, tranh giành nhiều ít và bị quan quân phát giác, tóm cổ.
Thế là cả bọn đều được đưa về cung vua chờ lệnh xét xử, bọn chúng sợ quá nên đã khai hết. Có một số người ngoại đạo đã mướn họ giết cô gái để tẩy chay giáo đoàn của Phật. Vua tức giận quá cho người bắt ngay kẻ chủ mưu quăng liền vào hầm lửa để thiêu sống, những tên giết mướn đều bị giam vào ngục chờ lệnh xét xử sau.
Chuyện xảy ra như vậy mà Phật vẫn bình tĩnh, an nhiên, không mảy may dao động trước sự phao du hủy nhục quá nặng nề. Phật không hề đính chính hay minh oan mà vẫn âm thầm lặng lẽ chờ đợi kết quả hiện thực. Phật an nhiên, tự tại, bất động trước Tám cơn gió lốc cuộc đời nên ngày hôm nay ta thờ Phật, cung kính lễ lạy Phật vì nhân cách siêu phàm vượt Thánh của Ngài mà cố gắng bắt chước tu tập để vượt qua cạm bẫy cuộc đời trước Tám ngọn gió được-mất, khen-chê, danh thơm-tiếng xấu và khổ-vui.
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh. Thứ đến Ngài tùy căn cơ chúng sinh mà nói pháp thích hợp để giúp họ chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Bất kể là thành phần nào trong xã hội khi gặp Phật đều được lợi lạc, an vui.
Chính vì việc làm và hành động cao thượng của Ngài đã để lại tiếng thơm muôn thuở cho đời giúp chúng ta biết cách làm chủ bản thân mà sống bình yên, hạnh phúc. Hương thơm của các loài hoa có ngào ngạt cách mấy cũng không bằng hương thơm của người đức hạnh luôn bay ngược chiều gió để lại cho đời bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
An nhiên tự tại trước đám đông khi bị hủy nhục
Ngày xưa, có một vị cao Tăng đức độ nuôi dạy gần 500 đồ chúng, đến khi tuổi già sức yếu bệnh hoạn mà chưa chọn được người kế thừa. Để tìm kiếm bậc Pháp khí trong nhà Thiền, vị cao Tăng bày ra kế điệu hổ ly sơn, tung tin bị mất trộm tiền Tam bảo làm trong chúng ai cũng hoang mang nghi ngờ lẫn nhau.
Một hôm khi chúng đang ngủ trong giờ trưa, vị cao Tăng la lớn: “Ăn trộm, ăn trộm.” Mọi người hoảng hốt chạy theo tiếng la, vị đệ tử lớn chạy vào liền bị vị cao Tăng thộp cổ áo mà nói lớn: “Ta bắt được trộm rồi”. Chú đệ tử nói: “Dạ không, con không phải là tên ăn trộm, con nghe la ăn trộm nên con chạy vô phụ thầy bắt ăn trộm.” Bằng chứng sờ sờ trước mắt nên không thể nào chối cãi, chư huynh đệ pháp lữ trong chúng ai cũng thấy thầy tay thộp cổ áo sư huynh mà la “ăn trộm, ăn trộm”.
Cho nên, vị đệ tử lớn liền bị khai trừ ra khỏi chùa ngay tức khắc mà không hề được minh oan. Trục xuất xong vị thầy còn viết giấy truyền cho các chùa khác không được chứa chấp thầy ấy vì tội ăn trộm đồ của Tam bảo. Vị đệ tử này xưa nay được Tăng chúng tín nhiệm chức thượng thủ trong chùa, chú còn là người mô phạm dạy dỗ chúng Tăng. Đột nhiên bữa nay lại bị mang danh tên ăn trộm và bị đích thân thầy mình viết giấy khai trừ khỏi Tăng chúng một cách công khai, thử hỏi ai nằm trong hoàn cảnh ấy mà không đau khổ.
Chỉ trong thoáng chốc bao nhiêu tiếng xấu đổ dồn vào vị sư huynh và bị mọi người khinh chê, coi thường, ai rơi vào hoàn cảnh này mới thấy thật tội nghiệp cho vị sư huynh ấy. Đường đường cũng là một vị Tăng tướng dung mạo trang nghiêm mà giờ đây chịu nuốt lệ đau thương ngậm ngùi, cay đắng trước một sự thật không thể ngờ.
Bị thầy hủy nhục như vậy trước mặt đồ chúng nên bao nhiêu uy tín từ xưa đến nay bỗng phút chốc tan tành theo mây khói. Vậy mà chú đệ tử ấy không hề buồn giận, trách móc hay thể hiện một nét mặt nào tỏ thái độ oán ghét vị thầy.
Chú vẫn một lòng cung kính và tôn trọng thưa: “Xin thầy hãy từ bi cho con ngủ đỡ ngoài cổng Tam quan cũng được, để mỗi ngày con còn được học hỏi và phụ giúp chúng Tăng làm việc”. Ấy vậy mà vị thầy cũng không chịu buông tha nên nói rằng nếu ở đó thì phải chịu trả tiền ngủ nhờ.
Dù bị thầy hủy nhục, hành hạ, làm khó dễ đủ điều nhưng chú vẫn một lòng tôn kính thầy mà siêng năng gia trì tinh tấn tu hành.Thời gian như vậy kéo dài gần 3 tháng, chú vẫn một lòng tín tâm, không một lời than vãn hay trách móc điều gì.
Cuối cùng, vị cao Tăng cũng tìm ra được bậc chân truyền, hôm đó ông đã chính thức tuyên bố trước đại chúng: “Ta bây giờ đã tìm được người kế thừa, mong đại chúng sau này khi ta viên tịch rồi thì hãy nghe theo lời chỉ dạy của sư huynh các người.” Nói xong ông thầy từ giã đại chúng rồi an nhiên ra đi.
Trong lịch sử nhân loại từ xưa nay biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền Thánh vẫn thường bị vu oan giá họa nhưng các ngài vẫn bình tĩnh, an nhiên chứng minh cho đời sự trong sạch của mình bằng chất liệu của từ bi, vô ngã, vị tha. Vị đệ tử đó nếu không gặp hoàn cảnh khắc nghiệt như thế thì vị cao Tăng làm sao biết được đệ tử của mình đã vượt qua Tám gió thật sự và để tất cả đại chúng có đủ niềm tin mà nương tựa học hỏi, tu hành.
Nếu gặp thầy nào còn quá yếu thì khi bị vu oan giá họa như vậy chắc có lẽ sẽ hận vị thầy của mình suốt cả đời.Nhờ thử thách đó mà vị thầy biết rõ đệ tử của mình đã qua được Tám gió được-mất, khen-chê, danh thơm-tiếng xấu và khổ-vui. Nghịch cảnh hay chướng duyên đối với người trí chỉ là thử thách nên họ vẫn bình thản, an nhiên khi bị hủy nhục sai sự thật trước mặt mọi người.
Giả sử như lúc đó tôi đang ở trong hoàn cảnh này thì có lẽ tôi sẽ đùng đùng nỗi giận mà oán ghét ông thầy của mình rồi bỏ đi không một lời từ giã. Tám gió thổi chẳng động là thước đo để kiểm nghiệm người tu hành chân chánh, nếu ta không trải qua những hoàn cảnh đau thương, nghiệt ngã như thế thì làm sao ta biết mình có bị gió thổi hay không.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 10
  • Hôm nay 3,643
  • Tháng hiện tại 61,028
  • Tổng lượt truy cập 23,467,277