Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Nói sự thực thì không sợ hãi

Nói sự thực thì không sợ hãi

Đăng lúc: 19:05 - 27/09/2016

Khi chúng ta có tri kiến/nhận thức một cách thấu suốt về lẽ không thực của tự ngã, chúng ta có thể vượt qua được những khổ đau (không thực) tác động (một cách không thực) lên thân tâm chúng ta. Nhưng thực trạng khổ đau của con người, của chúng sinh vẫn tiếp diễn trong nhận thức điên đảo mộng tưởng của họ. Vận dụng cái thấy như thực về tự ngã (trí) để dấy khởi lòng thương (bi) đối với thế giới chúng sinh, là con đường của kẻ giác ngộ (Bồ-tát).
Từ năm 2001, đầu thế kỷ 21, ngôn ngữ truyền thông bắt đầu nhắc đến nhiều từ ngữ “khủng bố”, “chủ nghĩa khủng bố” (terror/terrorism). Đây không phải là từ ngữ mới, nhưng nó được nhấn mạnh và sử dụng nhiều sau sự kiện 11/9/2001, với tòa tháp đôi ở New York sụp đổ hoàn toàn do những chiếc phi cơ bị những kẻ khủng bố Al-Qaeda dùng bạo lực cưỡng chế phi hành đoàn, điều hướng đâm vào.

Trước đó 6 tháng, vào ngày 10 tháng 3 năm 2001, lực lượng Taliban ở A-phú-hãn (Afghanistan) đã cho nổ bom làm sụp đổ hai tượng Phật khổng lồ khắc trong núi đá, có niên đại hơn 1500 năm. Hành động phá hủy tượng Phật lúc đó dù là hành vi bạo động nhưng không bị xem như là khủng bố, mà là hành động hủy diệt văn hóa nhân loại nghiêm trọng (theo sự lên án của Tổ chức Văn hóa – Khoa học và Giáo dục LHQ - UNESCO).

Vậy, có thể hiểu “khủng bố” là lời nói hay hành vi đe dọa trực tiếp đến mạng sống và đời sống của con người; nhẹ thì từ những cá nhân với mục đích trục lợi, tống tiền; nặng thì từ các tổ chức tôn giáo, chính trị để nêu cao lý tưởng của họ, hoặc từ các nhà cầm quyền nhằm ngăn chặn tiếng nói đối lập để giữ vững chế độ.


Từ “khủng bố” cũng được nghe quen từ bản Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh do Pháp sư Trần Huyền Trang (Đường Tam Tạng) dịch từ Prajñā Pāramitā Sūtra vào năm 649, sau được cô đọng lại thành bản Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh 260 chữ. Trong kinh văn nầy, chữ “khủng” và “bố” đều mang nghĩa đơn giản là (bị) sợ hãi, đe dọa; mà để không bị sợ hãi, đe dọa, tâm phải tịch lặng, an nhiên, không bị vướng mắc, trở ngại (tâm vô quái ngại). Tâm không bị vướng mắc, ngăn ngại là tâm vô trụ (ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm); tâm vô trụ là tâm không có tự ngã, là tâm bản nhiên, tâm bất sanh. Chỉ với cái tâm như thế, mới không còn sợ hãi.

Trong hoàn cảnh mà nhan nhản chung quanh chỉ toàn là những lời hư dối, người ta sợ phải nói những điều trung thực; nói ra có thể bị bắt bớ, đánh đập, tù đày; nói ra có thể bị mất việc, mất chức, mất địa vị, mất danh tiếng, mất cả tài chánh để nuôi thân và gia đình, mất cả cơ sở sinh hoạt (chùa chiền, nhà thờ…). Cá nhân đã không dám nói lời trung thực, mà ngay cả tổ chức mà cá nhân đó tham dự cũng không dám bày tỏ điều gì khác với những hư dối chung quanh. Nghĩa là từ cá nhân đến tập thể, từ những tổ chức nhỏ đến những tổ chức lớn quy tụ hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn thành viên, có mặt với sứ mệnh văn hóa, giáo dục, phục vụ lợi ích số đông… mà trong một xã hội đạo đức băng hoại, tụt dốc, và trong nguy cơ mất nước, mất chủ quyền, cũng không thể mạnh dạn nói lên một lời trung thực.

Điều gì đã làm chúng ta sợ hãi không dám lên tiếng bảo vệ sự thực, không dám bày tỏ thẳng thắn mối ưu tư của mình về tình trạng môi sinh đang bị hủy hoại, không dám đưa ra quan điểm của mình về hiểm họa lãnh thổ và biển đảo bị xâm lấn?

Chỉ vì bảo vệ tự ngã của mình mà thôi.

Sợ hãi là phản ứng của một người trước một sự kiện hay ấn tượng mà họ đã trải nghiệm, hoặc tiên đoán (nhờ rút tỉa từ kinh nghiệm), sẽ gây thiệt hại đến nhân thân (sức khoẻ, sinh mệnh) hoặc tổn thương, suy giảm đến những gì mình sở hữu (danh dự, tài sản, sự nghiệp…).

Phản ứng này là do chấp vào một cái tôi (ngã chấp) ngay từ khi mới chào đời, rồi được bồi đắp và làm cho kiên cố, sâu nặng thêm theo thời gian với những gì được tạo dựng, sở hữu (ngã sở).

Cái tôi càng lớn, sợ hãi càng sâu.

Cái sợ nầy đến từ bên trong. Những đe dọa, khủng bố từ kẻ khác chỉ là phụ thuộc.

Đập vỡ cái vỏ của tự ngã thì không còn sợ hãi, âu lo; không ai có thể đe dọa, khủng bố chúng ta được nữa.

Nhưng để làm được điều nầy, phải thấy được cả thân và tâm đều là ảo ảnh, không thực. Thân nầy không thực, tâm nầy (cảm giác, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức) cũng không thực.

Thân và tâm nầy không thực thì cả thế gian nầy cũng không thực.

(Đã không thực thì có cần phải lên tiếng về một sự thực, về nỗi thống khổ của số đông hay không?)

Bản chất của tự ngã, của thế gian chỉ là ảo ảnh, chỉ là giấc mộng huyễn hóa. Nhưng tác động nhân duyên của tự ngã và thế giới chúng sinh là có thực. Thống khổ của nhân sinh là có thực.

Khi chúng ta có tri kiến/nhận thức một cách thấu suốt về lẽ không thực của tự ngã, chúng ta có thể vượt qua được những khổ đau (không thực) tác động (một cách không thực) lên thân tâm chúng ta. Nhưng thực trạng khổ đau của con người, của chúng sinh vẫn tiếp diễn trong nhận thức điên đảo mộng tưởng của họ. Vận dụng cái thấy như thực về tự ngã (trí) để dấy khởi lòng thương (bi) đối với thế giới chúng sinh, là con đường của kẻ giác ngộ (Bồ-tát).

Khi kẻ lữ hành cô độc thong dong bước ngang những lầu đài tráng lệ và những xó xỉnh sình lầy bẩn nhơ, nhân sinh vẫn cất lên tiếng than khóc về nỗi trầm thống bất tận của họ.

Một lời nói để đắp thêm tiếng thơm hay lợi lạc cho tự thân: không cần thiết; nhưng bày tỏ trung thực về thực trạng khổ đau của kiếp người: rất nên.

California, ngày 24 tháng 9 năm 2016

Cư sĩ Vĩnh Hảo

Phật dạy "3 vô thường" giúp con người vượt qua cảm giác thất tình

Phật dạy "3 vô thường" giúp con người vượt qua cảm giác thất tình

Đăng lúc: 20:36 - 29/05/2016

Nếu chẳng thể đến với nhau, thôi đành coi như duyên phận đã tới cuối đường, rằng chỉ có thể cũng nhau đi một quãng, thế thôi.

Tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng và vô cùng cao đẹp. Tuy nhiên, không phải ai cũng may mắn yêu nhau, nắm tay và đi hết con đường. Có khi tình yêu dang dở, đứt gánh giữa đường. Người ta dễ rơi vào cảm giác thất tình, đau buồn, chán nản. Cảm giác thất tình, có lẽ mọi người trên trái đất này đều đã ít nhất một lần trải qua.
Con người gặp và yêu nhau là do duyên phận. Nhưng duyên phận lại là điều vô cùng kỳ lạ, không ai có thể hiểu thực sự về nó. Có thể hữu duyên vô phận. Có thể yêu nhau, nhớ nhau nhưng không thể gần nhau. Không cố ý đeo đuổi thì lại có, cố gắng có khi lại chẳng thành. Có câu "Có lòng trồng hoa, hoa chẳng nở, vô tình cắm liễu, liễu lại xanh" là vì thế.
Tuy nhiên, con người cũng nên hiểu rằng, hôm nay có duyên phận không có nghĩa cả đời có duyên phận. Có thể người ta chỉ đi được cùng nhau một quãng đường nào đó thôi.
Mất đi rồi cũng không nên quá ủ rũ, đau buồn, càng không thể nghĩ rằng thế giới này sụp đổ, bởi làm thế chỉ càng thêm đau lòng mà thôi. Người mất đi nhất định không phải người thích hợp nhất, vật mất đi nhất định không phải vật tốt đẹp nhất.
Bởi vậy khi thất tình chúng ta đừng nên nghĩ đó là 1 cái gì đó qua ghê gớm, rằng tình yêu của chúng ta vĩ đại ko thể thay thế, rằng anh ấy, cô ấy là người tuyệt vời nhất. Mà hãy nghĩ rằng đó chỉ là 1 giai đoạn sinh học nhất thời như chúng ta bị ốm vậy, dần dà theo thời gian khỏi bệnh, cơ thể chúng ta sẽ lại bình phục, khi đó nhìn lại thấy mình ngày xưa vật vã thật buồn cười.
Mô tả ảnh.
Ảnh minh họa
Đức Phật dạy: “Tất cả những gì trong thế gian đều biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Chúng ta đau khổ bởi cứ hy vọng tình yêu này là mãi mãi. Ta hãy cùng tìm hiểu vì sao như thế ? Vô thường có 3: thân vô thường, tâm vô thường và hoàn cảnh vô thường.
Thân vô thường. Thân thể bạn không mãi mãi khoẻ mạnh, không thể trẻ mãi không già. Từng sát na, từng giây trong thân bạn biến đổi, từng tế bào chết tế bào mới lại sanh…Các bạn không có phương pháp bảo vệ bản thân lỡ một ngày bạn bị ung thư, nhan sắc tàn phai, bị bệnh nan y … liệu người yêu bạn có còn mặn mà với bạn như xưa?
Tâm vô thường. Chúng ta phải biết rằng lòng người thay đổi – đổi thay. Con gái thì “sáng nắng, chiều mưa, trưa giông bão”, con trai thì chẳng biết đó là Lý Thông hay Thạch Sanh, chẳng ai mà đoán cho được. Người thì đi du học, người thì đi làm ăn xa, kẻ ở nhà mỏi mòn chờ đợi …rồi qua năm tháng “xa mặt cách lòng” chẳng mấy ai mà giữ cho được cái tình yêu thuở đó. Có thể bạn đang có một tình yêu đẹp nhưng cũng phải nhận chân ra một sự thật là trong tình yêu đó luôn ẩn chứa một sự đổ vỡ bởi vì đó là vô thường. Người Phật tử biết như vậy nên luôn sẳn sàng đón nhận những điều bất trắc có thể xảy ra trong tình cảm. Nhờ vậy, tránh được những hành động tiêu cực như bị sốc, thất tình tự tử vv…
Hoàn cảnh vô thường có nghĩa là vạn vật trước mắt bạn luôn thay đổi, tình thế thay đổi, thời cuộc thay đổi …Yêu nhau thật nhiều nhưng cũng không thể được gần nhau ví dụ như chiến tranh, thiên tai, tử nạn. Một khía cạnh khác của hoàn cảnh vô thường, ví dụ: Bạn Dần và bạn Mùi trước nghèo thì sao cũng được bổng dưng giàu có thì chẳng nhìn mặt nhau. Một chuyện khác, Bạn Sửu tích góp tiền để giúp bạn Tí-người yêu bao năm ăn học đàng hoàng đến khi tốt nghiệp thì người yêu gạt bỏ và yêu một người khác cùng đẳng cấp xã hội, có trí thức chứ ai lại mặn mà với bạn Sửu một người nghèo, ít học nhưng chỉ có tấm lòng. Trường hợp hoàn cảnh thay đổi như vậy thử hỏi Bạn Sửu có chịu nổi áp lực này không ? Người con Phật nên nhìn trước được hoàn cảnh để gìn giữ hạnh phúc mình.
Nhân duyên qua lời Phật dạy sâu sắc, giản đơn, con người ta tốt hơn hãy mở rộng tấm lòng mình. Cái mất đi là cái đáng quý, bởi mất đi cho ta tự nguyện, do duyên phận của đời ta. Cho nên dù nhiệt tình như lửa, ngọt ngào như hoa, ôn hòa như nước thì cũng là đoạn tình cảm đã qua, duyên phận đi tới cuối đường, buông tay cầu thanh thản.

Phong Linh (TH)

Tập thương yêu chân thành

Tập thương yêu chân thành

Đăng lúc: 07:28 - 12/03/2016

Câu chuyện về một cậu học sinh tên “Luis”.
Hôm ấy, khi Luis bước vào lớp, điều gì đó toát lên từ cử chỉ của cậu bé đặt mọi người vào một sự cảnh giác cao độ. Cách đây khoảng một tháng, một em nữ sinh đã tự bóp cổ của mình ngay trước văn phòng thầy hiệu trưởng, và đó là lý do vì sao chúng tôi phải dè dặt như vậy. Tôi nhận ra, bạo lực bộc phát không còn là chuyện diễn ra ở đâu đó xa vời nữa.

Ngay sau đó, tôi chợt liên tưởng, đây có lẽ cũng là điều mà đất nước chúng ta đang cảm nhận được, rằng bạo lực dường như là điều không thể tránh khỏi.

giaohao.jpg
Ảnh minh họa của Trần Thế Phong

Trong lúc ấy, Luis, người đang đi tới đi lui trước mặt tôi cùng với những câu nói lẩm nhẩm, thái độ bực tức, cậu bé không về chỗ của mình mặc kệ cho tiếng chuông báo hiệu vào tiết học đã reo lên. Với ánh mắt đầy sợ hãi, tất cả học sinh trong lớp nhìn nhau, rồi bọn trẻ nhìn vào tôi. “Phải làm gì bây giờ?” - tôi đã tự hỏi mình như vậy. Tôi cố tỏ ra điềm tĩnh và thử nói chuyện với Luis, nhưng cậu bé chỉ xem những chỉ dẫn và hành động của tôi như một lời sáo rỗng. Vì vậy tôi lùi lại, tránh xa khỏi cậu bé và tìm kiếm sự giúp đỡ bằng cách gọi điện cho ai đó, trông Luis dường như lại càng thêm phần nóng giận.

Tôi đã thử làm hết những gì mình có thể để trấn an và giúp cậu bé bình tĩnh hơn, nhưng tất cả đều trở nên vô vọng. Có một tín hiệu bất chợt phát ra từ văn phòng và tôi nhận thấy đó là cơ hội của mình, tôi nói lớn: “Ồ, thầy phải gọi một cuộc điện thoại thôi”. Ngay lập tức, Luis hướng sự tập trung về phía tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói: “Tất nhiên là phải gọi rồi”. Và đột nhiên những bước di chuyển của Luis trở nên nhẹ nhàng hơn, cậu bé rút từ trong túi ra chiếc bút chì và nắm chặt nó trong tay như thể đó là cán của một cây dao, rồi bước dài đến chỗ tôi.

Trong suốt cuộc đời mình, tôi luôn nỗ lực làm mọi thứ để ngăn chặn những tình huống tồi tệ có thể xảy ra. Tôi cũng được học về phi bạo lực và đã dạy cho học sinh của mình về Gandhi, người lãnh đạo các cuộc biểu tình hòa bình(Gandhi là người đã dẫn khởi nền độc lập cho Ấn Độ, đề cao “Chấp trì chân lý”, theo nguyên tắc chân lý và bất bạo động).

Tuy nhiên, trong khoảnh khắc Luis tiến đến gần, tất cả những chuẩn mực để tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới hòa bình của tôi dường như sụp đổ. Tôi không chắc rằng liệu Luis có ý định đâm tôi hay không, nhưng tôi biết mình cần phải làm gì đó để kéo cậu bé ra khỏi những học sinh khác của mình. Cậu bé to lớn hơn rất nhiều so với tôi và tôi như thấy mình rơi vào bế tắc. Tôi không dám tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra sau đó và khoảnh khắc ấy như đang chi phối tôi.

Một nỗi buồn không tưởng cuộn lấy rồi đè nặng lên tôi đến mức khiến tôi đổ gục xuống ghế. Và, tôi bắt đầu cảm nhận được một nỗi đau nào đó, đúng hơn, tôi như bắt đầu nối kết được với Luis. Không kiềm được nước mắt, tôi nói: “Thầy rất tiếc. Đó hẳn là một tổn thương rất sâu sắc”.

Cậu bé bỗng ngưng lại tất cả những hành động của mình, thả lỏng tay rồi nói: “Vâng”. Và như vậy, mọi chuyện dừng lại ở đó.

Những gì chúng ta chọn để thực hành trong cuộc sống hàng ngày, cũng là những điều sẽ xảy đến khi cuộc sống của chính chúng ta bị dồn đến bờ vực. Như vậy, nếu tôi học cách bắn vào những ai đang đe dọa đến mình và nếu có súng trong tay vào lúc đó, tôi tin chắc mình sẽ không ngần ngại bóp cò. Nhưng tôi đã chọn cách ngược lại. Một tháng sau, kể từ sự việc đáng sợ đó, mỗi ngày tôi đều dành ra 45 phút để tập bài tập có tên là “yêu thương chân thành”, hay còn gọi là “Thiền tâm từ”.

Thiền tâm từ là một phương pháp thiền định đơn giản mà khi thực hành nó, điều đầu tiên chúng ta cần làm là nghĩ về những người ta luôn quan tâm và mong muốn đem lại hạnh phúc cho họ - con cái hay thú cưng là một trong những ví dụ điển hình. Sau đó, chúng ta trải lòng mình bằng cách tập quan tâm và mong cầu hạnh phúc cho những người không mấy quan trọng hiện diện quanh ta, hay thậm chí là một người không quen biết, như bác đưa thư vẫn nhìn thấy hàng ngày, nhưng ta chẳng biết ông ấy là ai.

Trong từng hoàn cảnh, từng trường hợp như vậy, chúng ta tập giữ hình ảnh của những con người, những vật thể đó bằng trái tim, bằng suy nghĩ của mình và thầm nguyện cầu: “Mong những con người này có thể được hạnh phúc, mạnh khỏe và hiểm nguy sẽ không chạm đến họ”. Có thể đó là một sự thực hành không mấy khó khăn, nhưng nó cũng không hề đơn giản.

Quay trở lại câu chuyện về Luis. Tôi đã không biết gì cho đến sau đó, thì ra anh trai của Luis chỉ vừa bị tuyên án tù và cậu bé đã rất khó khăn để tiếp nhận sự thật này. Sự mất mát, và cậu bé cần một ai đó có thể lắng nghe để sẻ chia gánh nặng đang đè lên vai mình, nhưng vì không biết thể hiện như thế nào nên thay vào đó, Luis đã có những hành động bộc phát như vậy. Điều đó có lẽ cũng giống như Luis đang tự tìm nhà tù cho chính mình vậy.

Đến bây giờ, tôi vẫn không thể tin rằng những gì diễn ra ngày hôm đó giữa tôi và Luis là kết quả trực tiếp từ việc tôi thực hành thiền định, có lẽ đó chỉ xuất phát từ lòng khoan dung, chi phối tôi và làm tôi thấu hiểu được Luis. Nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng, việc thực hành tâm từ đã giúp tôi có thể mở lòng với người khác, để tôi luôn trong tư thế sẵn sàng trước mọi hoàn cảnh. Và đó là tất cả những gì tôi hướng đến. Khi thấu hiểu nỗi sợ hãi tạo ra nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, tôi cũng nhận biết được rằng để xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn, chúng ta cần rèn luyện cho mình sự nối kết, tình thân ái đối với vạn vật, đồng thời biết tiết chế chính mình và người khác.

Người Mỹ hiện nay luôn trang bị cho mình bằng những khẩu súng và bỏ ra nhiều thời giờ chỉ để học cách hủy diệt đi sự sống của người khác. Như vậy làm sao con người có thể mở lòng với nhau, nối kết và sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu thương?

Trên một phương diện nào đó, tôi cảm thấy con người chúng ta chẳng khác là bao so với Luis, tồn tại một nỗi sợ hãi và sự khao khát tình thân, mà ở đó con người biết sẻ chia cho nhau niềm vui cũng như nỗi buồn và tìm thấy ý nghĩa thật sự của cuộc sống. Khi không thể nhận được sự nối kết ấy từ những người xung quanh, con người lại có xu hướng cố giành lấy nó bằng cách bám chấp vào những bạo lực tồn tại bên trong suy nghĩ của mình và thể hiện những bạo lực đó ra bên ngoài bằng sức mạnh bản thân.

Trong niềm hân hoan, tôi xin kết thúc bài viết này bằng một câu khẩu hiệu đầy cảm hứng như vậy: “Hãy thiền định ngay bây giờ và thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn”. Vấn đề ở đây là tôi không tin vào điều đó và có thể bạn cũng vậy. Thay vì chờ đợi thế giới tháo bỏ khúc mắc này, tôi tìm thấy trong tư tưởng Phật giáo, sự hướng dẫn con người đi vào tự tâm của chính mình và không còn bất kỳ một ràng buộc nào.

Chúng ta có thể hiểu rằng, “không còn ràng buộc” có nghĩa là giác ngộ, biết được những gì nên làm và những gì cần lìa bỏ. Khi đạt đến “không ràng buộc” cũng đồng nghĩa với việc chúng ta không còn bị trói buộc bởi những khổ đau, phiền não kia nữa.

Những bước đầu tiên thực hành thiền định, tôi đã luôn nghĩ đến một kết quả, đó là sự yên bình. Nhưng những kết quả mà chúng ta tưởng tượng ra, bản thân nó chính là một thể của ràng buộc. Tôi không thể ngờ được thành quả của sự thiền định ấy đã thay đổi tôi trong khoảnh khắc đối mặt với Luis (tôi đã không còn nghe tin gì về Luis kể từ khi cậu bé rời khỏi trường trung học năm 2011).

Khi điều gì đó tương tự xảy ra, mọi thứ quanh ta dường như thay đổi, nhưng chúng ta sẽ nhận ra rằng mình vẫn còn tồn tại với một sinh mạng vô cùng quý giá, và trái tim sẽ luôn nhận thức được sâu sắc những đau khổ, phiền não trong thế gian này. Những đau khổ, phiền não mà chúng ta có thể nhận biết được là mênh mông vô tận, và không thể nào ngăn hết tất cả chúng lại được.

Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng mình vẫn đang tồn tại, chúng ta có thể tự kéo mình ra khỏi những suy nghĩ to tát kia và dành thời gian lưu tâm đến những chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt, vô nghĩa quanh mình.

Đến một lúc nào đó, chúng ta có thể vận dụng lòng từ bi nơi tự tâm để biết lắng nghe những Luis khác trong cuộc sống này và tạo ra sự bình yên chân thật cho chính ta.

Giao Hảo

Cục trưởng Mỹ thuật: 'Tượng Phật ở Thái Bình sập do làm tùy hứng'

Cục trưởng Mỹ thuật: 'Tượng Phật ở Thái Bình sập do làm tùy hứng'

Đăng lúc: 08:57 - 17/07/2015

Ông Vi Kiến Thành, Cục trưởng Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa) cho biết, không riêng bức tượng Phật mới bị sập ở Thái Bình mà rất nhiều địa phương có tình trạng tự ý xây dựng các tượng đài, công trình tôn giáo.
Tượng Phật trăm tấn đang thi công bất ngờ đổ sập / Tượng Phật trăm tấn đổ do lực đỡ yếu
- Ông đánh giá thế nào về việc công trình tượng Phật nặng hàng trăm tấn đang xây dựng ở chùa Sóc (Quỳnh Phụ, Thái Bình) bị đổ sập?

- Tượng đài được xây dựng khi không có phép, tồn tại đã là một khuyết điểm, giờ còn sập đổ nữa thì cần phải truy cứu trách nhiệm. Dù chi phí xây dựng do xã hội hoá nhưng tiền nào cũng từ dân mà ra. Ở đây, lỗi truy căn nguyên từ cấp xã đến huyện. Các đơn vị như Phòng Văn hoá, Xây dựng, UBND huyện... phải nắm được công trình nào sắp hoặc đang thi công trên địa bàn để kiểm tra, xem xét cho dừng nếu không có giấy phép.

vi-kien-thanh-6397-1436859161.jpg
Cục trưởng cục Mỹ thuật Nhiếp ảnh và Triển lãm Vi Kiến Thành.
Hậu quả to lớn nhất của việc bức tượng Phật sụp đổ là tác động rất xấu đến mặt tình cảm, tâm linh của người dân. Họ gửi gắm tình cảm, tâm tư vào Phật giáo, tin theo thuyết giáo của nhà chùa mà bây giờ biểu tượng cho niềm tin ấy bị một số người làm không đúng quy định gây đổ sập thì ảnh hưởng về tinh thần là khó đo đếm nổi.

- Tượng đài nói chung muốn xây dựng phải theo quy trình như thế nào?

- Đầu tiên, lãnh đạo địa phương sau khi đồng ý xây dựng công trình, sẽ giao cho một chủ đầu tư thực hiện. Đơn vị này cần xây dựng một dự án thiết kế, chi phí, bộ máy vận hành... rồi trình lên các cấp. Công trình ở cấp nào sẽ do chủ tịch UBND cấp đó duyệt. Các phòng/sở Văn hoá, Xây dựng là đơn vị thụ lý hồ sơ, thẩm tra, tham mưu đề xuất cho UBND tỉnh. Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh, các công trình xây ở trung tâm hành chính lớn, khu di tích lịch sử văn hoá, trước khi UBND tỉnh cấp giấy phép còn phải xin ý kiến của Bộ Văn hoá.

Ngay từ phác thảo bước một đã phải có sa bàn, mô hình của không gian kiến trúc và mẫu tượng. Sau đó đến bước dựng mẫu xem hình thức, nghệ thuật, cấu trúc ra sao rồi phóng đất sét tỷ lệ 1:1. Từ bản 1:1 này, người ta sẽ tính kết cấu sắt thép, xây dựng thế nào cho đảm bảo bền vững rồi mới chọn chất liệu đá, đồng hay bê tông.

Mỗi bước đều có hội đồng thẩm định do UBND lập gồm các nhà điêu khắc, xây dựng, kiến trúc sư, hoạ sĩ…, nhằm đảm bảo an toàn và thẩm mỹ cho tượng đài. Công trình cấp quốc gia thì hội đồng cấp trung ương. Công trình địa phương thì thành viên hội đồng có thể là chuyên gia của địa phương đó. Để đảm bảo chất lượng công trình, địa phương có thể mời chuyên gia trung ương vào hội đồng và có trách nhiệm theo công trình từ lúc làm đề án đến sau khi nghiệm thu.

Tượng Phật ở Thái Bình hoàn toàn không thực hiện các quy trình trên, làm tuỳ tiện, tuỳ hứng, không tính toán kết cấu hay lập hội đồng chuyên gia thẩm định... nên mới dẫn đến hậu quả bị đổ sập như vậy.

IMG-3096-JPG-6924-1436882248-4724-143693
Công trình tượng Phật ở Thái Bình sập sau 2 năm xây dựng. Ảnh: Giang Chinh.
- Qua thực tế kiểm tra, theo dõi, Cục Mỹ thuật đánh giá như thế nào về tình trạng tự ý xây dựng tượng đài và công trình tôn giáo ở các địa phương?

- Tượng Phật ở Thái Bình đổ, người ta mới biết nó chưa được cấp phép xây dựng. Thực trạng này hiện nay khá phổ biến, chủ yếu là các công trình tôn giáo.

Nhiều địa phương cho rằng tượng đài tôn giáo theo ngạch riêng, xây trong khuôn viên của chùa thì do nhà chùa thực hiện. Cục Mỹ thuật nhiều lần nhận được văn bản từ các địa phương, hỏi về việc tượng tôn giáo có chịu điều chỉnh của Nghị định 113? Chúng tôi xin khẳng định lại, đây là điều đương nhiên.

Nghị định 113 về hoạt động mỹ thuật quy định, tượng đài muốn xây dựng phải được UBND tỉnh/huyện cấp phép. Nghị định này cũng nêu rõ tượng đài là tượng được xây dựng ở ngoài trời, có phần đài, phần tượng, có quy mô, kích thước lớn, mang tính biểu tượng trong đó gồm cả tượng tôn giáo...

Một cái nhà xây lên với nhiều công năng khác nhau như bệnh viện, trường học… nhưng bản chất vẫn là cái nhà và phải tuân theo đúng Luật Xây dựng. Tượng đài cũng như thế.

Quỳnh Trang (thực hiện)

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 15
  • Hôm nay 3,339
  • Tháng hiện tại 60,724
  • Tổng lượt truy cập 23,466,973