Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Không có gì bền chắc

Không có gì bền chắc

Đăng lúc: 19:26 - 24/03/2017

Đức Phật nói nhứt thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ, diệc như điển, nghĩa là các pháp hữu vi như chiêm bao, như giọt sương, như làn chớp. Người tu phải quán như thế. Nhiều người hiểu sai ý này. Phải xác định rằng pháp vô vi đối lập với pháp hữu vi. Người hiểu được pháp vô vi mới là người tu thực sự.
tuongphat.jpg
Đức Phật nói nhứt thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ, diệc như điển - Ảnh: Pixabay

Pháp hữu vi là những gì chúng ta nắm bắt được, hiểu được đều nằm trong sanh diệt pháp. Kinh Niết-bàn nói chư hạnh vô thường thị sanh diệt pháp, tức cái gì chúng ta nắm bắt, hiểu được là vô thường, là pháp hữu vi sanh diệt. Nhưng, còn mặt sau phải biết rằng sanh diệt diệt thời tịch diệt vi lạc. Phật dạy lý này để chúng ta chấm dứt sanh diệt mới chứng Vô sanh.

Cũng ý này, Hòa thượng Thiện Hoa dạy rằng sơn cùng thủy tận, hay tuyệt mạng tuyệt thể. Nghĩa là người tu phải đi ngược dốc, lên tận đỉnh núi, hay đi ngược về tận nguồn sông, tức về nguồn chơn tâm.

Trong dòng chảy sinh tử luân hồi, chúng ta từ nguồn chơn tâm theo vọng tưởng điên đảo mà xuất hiện trên cuộc đời này, kinh Hoa nghiêm gọi là vô minh duyên khởi. Thật vậy, từ nguồn nước trong, chúng ta theo vọng tình trôi ra dòng sông mê sẽ dẫn ra biển khổ, đó là con đường mà chúng ta đã trải qua nhiều đời nhiều kiếp luân hồi do mê mờ dẫn chúng ta đến cuộc sống hiện tại khổ đau không có lối thoát gọi là biển khổ, hay địa ngục.

Và trong biển khổ này, chúng ta gặp được Phật pháp ví như con rùa mù gặp bộng cây nổi trên biển cả mà chui vào, là chúng ta nương vào Phật pháp, trở về nguồn thì bớt khổ, cho đến hết khổ. Như vậy là cắt được hữu vi pháp.

Pháp hữu vi sanh từ vô minh, mới khởi lên nghiệp. Nghiệp có thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, Ý nghiệp là chính. Vô minh phát xuất từ ý là tham lam, bực tức, sai lầm dẫn đến quả khổ và từ quả này lại tạo nhân khác khổ hơn. Thí dụ người mới trưởng thành do vô minh sanh nghiệp ái là nghiệp đáng sợ nhất trong tất cả các nghiệp. Chàng trai hay cô gái khởi ái nghiệp dẫn họ vào mê hồn trận, nên nhìn không chính xác. Người Việt thường nói thương thì trái ấu cũng tròn, thiệt nó méo nhưng si mê thấy nó tròn, tốt. Đến khi đeo bám nó, mới thấy nó không còn tốt. Thầy có người bạn, anh này mê cô bán hàng đến trốn học, đứng gốc cây me để ngắm cô ta. Nhưng cưới được cô rồi, anh ta lại nói bây giờ con thấy bả con sợ! Mê thấy khác, tỉnh thấy khác, cứ như vậy mà người ta lún sâu vào vũng bùn nghiệp. Thấy cô gái họ cưới được đáng sợ, nên lại nghĩ đến cô khác rồi mê cô khác, làm gia đình tan nát. Đó là biển khổ mênh mông sóng ngập trời.

Tất cả pháp hữu vi không có gì bền chắc. Chúng ta thấy toàn ảo giác, vì mê nên ta thấy sai, rồi chạy theo nó; nhưng Phật dạy nó không thực bền chắc. Như Ma Đăng Già mê A Nan, dùng bùa để mê hoặc A Nan. Phật dùng thần chú Lăng Nghiêm cứu A Nan. A Nan tỉnh lại, chạy về chùa. Ma Đăng Già đuổi theo, gặp Phật, bảo Phật trả A Nan cho bà. Phật hỏi Ma Đăng Già mê A Nan cái gì. Bà nói ổng có con mắt đẹp quá. Phật dùng thần lực biến mắt A Nan đỏ chảy máu khiến bà thấy khiếp sợ.

Phật thấy sự thật, nói rằng thân người là cái túi da đựng đồ hôi thối. Nhìn bằng tuệ giác thấy chẳng những không có gì bền chắc mà còn gớm ghiếc. Với người mê sắc, Phật dạy ra thi lâm nhìn xác chết mà ghê sợ và đoạn được ái dục. Nghĩa là tu đi ngược về nguồn, chuyển cái thấy si mê thành thấy theo thật trí. Không phải thấy không bền chắc làm chúng ta chán đời, buông bỏ tất cả là sai.

Biết các pháp hữu vi không bền chắc thì hướng suy nghĩ và việc làm của mình theo con đường đúng đắn của Phật. Những gì không bền chắc chúng ta sẵn lòng buông bỏ, vì biết không giữ được, cuối cùng sinh mạng của chúng ta là nghiệp thân cũng phải bỏ. Có thân vì do nghiệp tạo, nhưng ta lại chấp thân là ta, nên phải khổ.

Huệ Tư thiền sư có thân xấu xí, ai cũng ghét và chê ngài. Nếu là phàm phu bị người chê, ghét, thì ức lắm và nói tại nghèo, nên bị khi dể, tại xấu nên bị chê. Ngài Huệ Tư nhận thấy rõ xấu xí, nghèo nàn, ngu dốt là cái nghiệp của mình. Nên ngài nói rằng người ta khinh chê, ghét bỏ là khinh chê, ghét bỏ cái nghiệp của mình, không phải khinh chê, ghét bỏ mình. Nhờ người chê mà biết được nghiệp của mình, từ đó, tu hành phải phá nghiệp, còn chấp nghiệp là mình thì cứ khổ thêm.

Biết nghèo bị khi dể thì cũng biết nghèo là do nghiệp, Phật dạy do nhiều đời gian tham trộm cắp, nên đời này làm gì cũng thất bại. Cải tạo nghiệp này, không gian tham, trộm cắp, mới thoát được cái nghèo. Vì vậy, Phật tử phải tập sống chân thật, nhờ đó lần lần có uy tín. Chính tâm chân thật, không gian tham, trộm cắp, người ta mới chấp nhận hợp tác với mình. Thực tế nhìn tướng, nghe giọng nói, hay thấy nét mặt cũng biết họ tham. Tuy muốn giúp, nhưng sợ cho vô nhà thì họ ăn cắp, thương muốn cho họ vô ở chung, nhưng sợ họ quậy phá. Khắc phục nghiệp này là tập tánh nghèo không tham.

Tướng trung thực, lời nói trung thực, hiền lành, người ta cho vô ở nhà, nhưng biết thân phận không dám vô là kinh Pháp hoa nói gã cùng tử làm công cho trưởng giả vẫn ở am tranh. Riêng thầy, tự biết thân phận nghèo, nên không dám gần ai, vì gần người có nhiều tiền, không khéo họ nghi mình làm thân để nhờ vả, hay ăn cắp. Vì vậy, thời thầy đi tu, giữ kỹ điều này lắm, tức không tới nhà giàu, vì làm thân với người giàu, họ xem thường mình. Phật cũng dạy vị Sa-môn điều này, gần người giàu, họ sợ mình ăn cắp. Trên bước đường tu, tránh gần người giàu, người quyền thế, chỉ lo tu và gạn lọc tâm cho đến tâm và lời nói mình trong sạch thì họ không sợ mình ăn cắp.

Huệ Tư dạy rằng họ chê, hay nói xấu là chê cái nghiệp, nói xấu cái nghiệp của mình. Hiểu như vậy, chúng ta tu, cám ơn người nói xấu ta, cám ơn người hại ta. Ta này là nghiệp và tu hành, biết ta từ chân tánh, hay ta và Phật đồng nhau theo kinh Hoa nghiêm. Tuy nhiên, trên thực tế, ta khác với Phật vì bị vô minh vọng tưởng bao bọc tầm nhìn, khiến mình thấy sai lầm, mới tạo vô số nghiệp ác.

Con người trong sáu đường sinh tử đều do nghiệp tạo. Nếu tạo thiện nghiệp sẽ có thân người tốt đẹp, cuộc sống sung sướng. Và tạo được cùng tột điều thiện sẽ có thân chư Thiên tốt đẹp nhất. Tạo cùng tột việc ác là ác ma. Vì vậy, Phật nói địa ngục hay thiên đường cũng do nghiệp tạo.

Chư hạnh vô thường do nghiệp và nghiệp là ảo. Vì vậy, nghiệp mất là đáng mừng, vì chúng ta cũng muốn bỏ nghiệp. Thi hào Nguyễn Du nói dễ thương rằng đã mang lấy nghiệp vào thân thì đừng trách trời, trách đất.

Mang nghiệp vô thì phải bỏ nghiệp được. Phật dạy xả uẩn, hay xả chấp. Bỏ được, nhưng vì chúng ta không chịu bỏ, sợ khổ, nhưng cứ ôm cái khổ. Bỏ nghiệp hết khổ liền. Thực tế có anh bị vợ bỏ, nếu không biết tu thì thấy khổ; nhưng anh biết tu, thấy nhẹ quá, khỏi lo nữa, được tự do làm công quả. Biết được nghiệp, mình chấp nhận thực tế này sẽ cắt được lòng tham ái, tham dục, hết khổ. Và kế tiếp, cắt luôn tham tài, tham danh. Phải biết nghiệp mình chỗ nào để cắt. Phước đến đâu hưởng đến đó. Theo thầy, Phật tử nên hưởng dưới mức mình có thì càng được an lạc hơn.

Người thương mình, mình thương họ là tình bạn đạo, nhưng mình thương mà họ không thương là nghiệp, là duyên hợp tan mà Phật nói vô thường, không bền chắc, thấy đó rồi mất. Thầy thấy biết bao người bạn mình quý trọng, nhưng nhìn lại không còn ai, đó là vô thường.

Tuy nhiên, nhìn xa trong vô thường có chơn thường là con người thực và thấy điều thực này thì mình và bạn đang hiện hữu trong thế giới tâm linh là Tịch Quang chơn cảnh. Như vậy, thầy mình và bạn mình đang ở thế giới này và khi mình mãn duyên trần sẽ đi vô đây.

Còn mình tiếc thân tứ đại mỗi ngày già yếu, bệnh hoạn, hoàn cảnh khó khăn hơn là khổ chồng chất khổ, nhưng chúng ta theo Phật, sống với chân tánh của chúng ta thì không có tướng già, không có tướng bệnh, không có tướng chết.

Từ kinh Nguyên thủy đến kinh Đại thừa, kinh nào cũng chỉ vô thường sanh diệt để chúng ta hướng đến bất sanh bất diệt là thế giới của Phật, Bồ-tát. Trong kinh Hoa nghiêm, Đức Phật dạy từ khởi thủy đến chung cuộc. Khởi thủy là gì. Người tu đi tìm nguồn gốc coi mình từ đâu tới đây và tương lai chết về đâu.
Tu Hoa nghiêm cứ đi ngược về nhiều kiếp trước để chứng Túc mạng minh. Nhờ đi ngược về quá khứ, mình mới thấy hiện tại. Nói rõ hơn, nếu quá khứ chúng ta trồng căn lành ở Phật pháp, thì hiện tại mới gặp thầy hiền bạn tốt. Vì vậy, thầy tâm đắc câu kinh trong Phổ Hiền hạnh nguyện rằng: “Những người cùng tôi đồng một hạnh. Cầu được sanh chung các cõi nước. Thân khẩu ý nghiệp đều đồng nhau. Tất cả hạnh mầu cùng tu tập…” Đây là thiện tri thức quá khứ của chúng ta tái sanh gặp lại thành bạn tâm giao, hiểu nhau, quý nhau, giúp nhau.

Thầy gặp Hòa thượng Ito. Ông đón thầy và nói rất dễ thương: Xin chào bạn. Hỏi bạn hồi nào. Nói bạn ở hội Linh Sơn. Lúc đó thầy trẻ, còn ông là Hòa thượng lớn tuổi. Như vậy, quý vị có dám nhận là bạn hay không. Bạn này là bạn tâm linh, bạn tâm giao, nên gặp là tự nhiên thương, quý trọng liền. Họ nói gì mình cũng dễ chấp nhận. Đây là thầy, là bạn quá khứ gặp lại, tự quý trọng nhau. Còn người mà mình nói gì, họ liền nói ngược lại. Thầy gặp người như vậy là thầy chấm dứt câu chuyện, không nói nữa. Phật cho biết Đề Bà Đạt Đa nhiều đời trước đã là bạn luôn chống đối Ngài.

Trên bước đường tu, quán chiếu quá khứ để biết hiện tại. Thấy người ghét mình, tự biết đó là oan gia đời trước gặp lại. Thấy người thương mình, tự biết họ đã từng là thiện tri thức đời trước. Thầy thường nói đường đi của mình đến quả vị Phật còn xa, việc làm còn nhiều, nên tránh phiền phức để đi cho nhanh. Không phải là Bà-la-môn mà ở đó tranh cãi. Còn nghe, còn cãi, còn góp ý chi cho khổ.

Nhờ thấy hiện tại mà biết quá khứ, biết ai làm bạn đồng tu, đồng hạnh, đồng nguyện. Ai nghịch hạnh thì tránh. Như vậy, mình tu nhẹ nhàng, không hơn thua tranh cãi, miễn sao sống an lạc, giải thoát. Đạo Phật là đạo tìm ra sự thật và sống với sự thật, biết nó cố cãi để hơn mình, thì mình chịu thua để cho mình được nhẹ.

Nhìn kỹ người làm đạo được nhờ duyên quá khứ là người bạn trong quá khứ tái sanh gặp lại, hỗ trợ nhau, như Khương Tăng Hội xuất gia ở Luy Lâu (Hà Nội), nhưng ngài qua Thượng Hải xây chùa Kim Sơn. Ngài nói sang Trung Hoa để gặp Ngô Tôn Quyền. Lúc đó Trung Hoa chưa có đạo Phật, dù kinh từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa rồi, nhưng người Trung Hoa chưa tin đạo Phật, nên đạo Phật không phát triển được.

Khương Tăng Hội sang Trung Hoa truyền đạo vì ngài biết có bạn ở đó và ngài cũng biết rằng bạn ngài sanh lại làm vua, ngài làm sư, hai người kết hợp để phát triển đạo Phật. Khương Tăng Hội là nhà sư đầu tiên đến Thượng Hải. Ngài không đi bình thường, nhưng đi trên chiếc nón lá. Mọi người thấy hình tướng của ngài kỳ lạ, nên tâu với vua Ngô Tôn Quyền. Ông nghĩ phải chăng Hán Minh Đế mơ thấy bạn là người này chăng.

Vua cho mời ngài tới. Ngài trả lời vua bằng tiếng Trung Hoa thông thạo như người Trung Hoa, làm vua nể phục. Vua hỏi Khương Tăng Hội khi Phật Niết-bàn, có gì để lại để thấy sự linh nghiệm. Ngài nói Phật Niết-bàn còn để lại xá-lợi là kết tinh công đức tu hành của Phật. Vua nói muốn xem công đức tu hành của Phật như thế nào mà kết tinh thành xá-lợi.

Khương Tăng Hội nói vì là công đức tu hành, người thụ đắc xá-lợi cũng phải do công đức tu hành mới được, không phải ai cũng có được. Và người có công đức mới thấy xá-lợi Phật, không phải ai cũng thấy xá-lợi hay giữ được xá-lợi.

Vua hỏi trẫm có thể thấy xá-lợi không. Khương Tăng Hội nói rằng làm vua là có phước thì thấy được xá-lợi, nhưng phải có niềm tin. Thực tế vua Ngô Tôn Quyền được coi là vua hiền đức, nhưng ông vua con là Tôn Hạo rất dữ.

Bệ hạ có phước nên thấy được xá-lợi, còn bần tăng phải nỗ lực tu mới có công đức, nhưng ngài cũng không dám nói mình có xá-lợi. Ngài bảo vua dựng thảo am để ngài tu một tuần nhằm hồi phục công đức thì mới thụ đắc xá-lợi. Nhưng thực sự ngài đã có bình xá-lợi rồi.

Trong một tuần ngài tu miên mật Thiền quán, không ăn ngủ. Qua một tuần, Ngô Tôn Quyền hỏi xá-lợi đâu. Ngài nói cho thêm một tuần tiếp tục Thiền quán. Sau đó, ngài lại xin thêm một tuần nữa. Vua nói nếu lần này không có xá-lợi thì là yêu ma, sẽ bị giết.

Tới đúng 21 ngày, am tranh ngài tỏa hào quang ngũ sắc rực sáng. Ngài bưng xá-lợi vào triều. Ngô Tôn Quyền hỏi ngoài hào quang như thế, xá-lợi còn gì linh nghiệm không. Ngài nói xá-lợi thật cứng đến chày kim cương giã không bể. Ngô Tôn Quyền bảo giã thử xem và để xá-lợi lên khối sắt cho lực sĩ giã. Xá-lợi không bể, mà lực sĩ dội té và cái cối lún xuống. Vua sụp lạy, cho xây chùa Kiến Sơ để thờ xá-lợi.

Tất cả vật là vô thường, không bền chắc, nhưng xá-lợi Phật là công đức tu của Phật thì bền chắc đến chày kim cương của Bát bộ chúng đánh không bể, tiêu biểu cho công đức tu của Phật trường tồn miên viễn.

Tu theo Phật đúng như pháp, khi xả huyễn thân, chân thân tức phước đức và trí tuệ của hành giả bền chắc. Ý thức như vậy, chúng ta bỏ giả thân không bền chắc để được cái không hư hoại, bỏ sinh mạng ngắn ngủi này để có sinh mạng vô cùng. Đó là ý Phật dạy trong kinh Hoa nghiêm rằng chúng ta tu ngược về nguồn để gạn lọc vọng tâm tham đắm mà nhiều kiếp bám chặt mình. Cần sám hối cho tiêu nghiệp mới đem Phật pháp vào tâm. Tu đúng từng bước đi lên. Tu hình thức mà thực chất không có sẽ dễ bỏ cuộc.

Tóm lại, trên bước đường tu, ban đầu chúng ta chấp chặt thân vô thường sanh diệt nên khổ với nó. Trải qua quá trình tu Thanh văn, cởi bỏ được pháp sanh diệt, tức trần lao nghiệp chướng, được giải thoát và tiến lên hành Bồ-tát đạo. Lần lần Pháp thân Bồ-tát của chúng ta hiện ra và lớn lần theo mỗi kiếp tu hành, thì tái sanh, phước đức, trí tuệ chúng ta tăng trưởng, cho đến khi đầy đủ 32 tướng tốt, trí giác và tâm đại bi viên mãn, thành tựu quả vị Phật.
HT.Thích Trí Quảng

Phân biệt lời Phật, lời ma

Phân biệt lời Phật, lời ma

Đăng lúc: 20:05 - 05/12/2016

Thời mạt pháp, ma cường pháp nhược, có khi rồi cũng phải biết thứ gì là lời Như Lai nói, thứ gì là ma nói mà phòng hộ cho bản thân.
Là người đã chứng lý tánh thì vấn đề phân biệt này không có gì khó. Dù kinh luận thấy có nhiều sai khác, trong kinh luận thấy có nhiều chỗ như trái nhau1 thì vẫn biết không có gì ra ngoài lý tánh ấy. Đó là mặt duyên khởi biểu hiện cho lý tánh không của vạn pháp. Nắm được mặt duyên khởi này, sẽ thấy thuận hay không thuận, giữ giới hay không giữ giới v.v… đều là pháp của Phật khi chúng ta sử dụng nó đúng duyên. “Pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ”2. Vấn đề là pháp có được sử dụng đúng duyên hay không. Không sử dụng pháp đúng duyên thì Phật pháp cũng thành ma pháp.

Với người lý tánh chưa nắm được, tức mặt duyên khởi chưa thông, thì cần nương vào những gì Như Lai đã nói và những gì không phải là Như Lai nói để việc tiến tu không lầm lẫn.

Trong kinh Đại bát Niết-bàn tập I, phẩm Tài chánh, Bồ-tát Ca Diếp cũng đã nêu lên việc này:

- Nay con phải làm thế nào để phân biệt được lời nào là của Phật nói, lời nào là của ma nói? Có những chúng sinh chạy theo hạnh ma, cũng có những chúng sinh thuận theo lời Phật dạy. Phải làm thế nào để biết rành hai loại ấy?

Phật đã dạy:

- Này Ca Diếp, sau khi Phật nhập diệt khoảng 700 năm, ma Ba Tuần sẽ ngăn trở và làm hư hoại Chánh pháp. Ví như thợ săn, thân mặc pháp y. Cũng vậy, ma Ba Tuần sẽ giả hình Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Cũng hóa thân thành Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Cũng hóa thân thành Phật. Ma vương mang thân hữu lậu hóa thành thân vô lậu để làm hư hại Chánh pháp...

Xưa, ma Ba Tuần có thể hóa thành Phật giống đến nỗi chính Tổ Ưu-ba-cúc-đa còn phải lầm3, huống là những hình tướng bên ngoài như Tỳ-kheo, La-hán, cư sĩ hay tiến sĩ Phật học v.v… Thứ có thể phân biệt là ở giới luật và trí tuệ. Vì thế Phật dạy cho Phật tử biết thế nào là lời Phật dạy, là lời ma nói để mà phân biệt. Không nên dựa vào hình tướng bên ngoài và cấp vị mà tin những lời phát ra đó là pháp Phật nói, là pháp như thật lý.

thuyet-phap.jpg

Phật dạy gì?

Về sự kiện Phật đản sinh

Nếu nói: “Bồ-tát ở cung trời Đâu Suất, chết rồi sinh vào cung vua Bạch Tịnh tại thành Ca-tì-la-vệ, nhân nơi ái dục của cha mẹ mà có thân. Không bao giờ có người nào sinh trong loài người mà được đại chúng cõi Trời Người tôn kính. Cũng nói, xưa kia tu khổ hạnh bố thí đầu, mắt, tủy, não, vợ, con mà đặng thành Phật…”, là ma nói4.

Nếu nói: “Đức Như Lai đã thành Phật từ lâu, vì muốn cứu độ chúng sinh nên nay mới thị hiện thành Phật. Vì tùy thuận theo thế gian nên thị hiện có cha mẹ, nhân nơi ái dục mà sinh”, là Phật nói.

Chỗ khác nhau ở đây là, một bên y nơi tướng mà nói, một bên y nơi tánh mà nói. Ma chỉ thấy được tướng Phật chết đây sinh kia, như phàm phu bị “phần đoạn sinh tử” trói buộc mà chuyển lưu. Không thấy được mặt ứng hóa thân của chư Phật, là từ pháp thân thường trụ, do ứng duyên mà hiện tướng ở cõi Sa-bà để độ sinh. Việc ứng hiện này, nhân là căn lành của chúng sinh đã gieo trong quá khứ, duyên là bi nguyện cao cả của chư Phật, nhân duyên đầy đủ thì tướng Phật (với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp) hiện cõi Sa-bà, đó là quả. Do ứng duyên mà hiện, là pháp nhân duyên, nên thân ấy sinh diệt theo nhân duyên. Đủ duyên thì hiện. Hết duyên thì không. Tuy sinh diệt nhưng không phải là Như Lai sinh diệt, chỉ là ứng hóa thân sinh diệt. Pháp thân Như Lai vẫn thường trụ.

Bởi chỉ thấy được tướng sinh diệt, nên cho rằng Như Lai do khổ hạnh, do bố thí đầu, mắt, vợ, con v.v… mà thành. Không thấy được đó chỉ là tướng thể hiện Như Lai đã chứng được pháp thân bình đẳng mà ra, tam giới không ngoài tâm, vạn pháp chỉ như huyễn, tất cả đều là huyễn thân, nên có thể xả đến chỗ tận cùng. Đại trí tuệ đã viên mãn thì đại bi mới tròn đầy.

Pháp thân thường trụ không do tác nhân, chỉ do liễu nhân5 mà thành. Không thể tu hành mà tạo ra pháp thân ấy, nhưng nhờ tu hành mà nhận ra và thể nhập lại pháp thân ấy. Như ngọn đèn không thể tạo ra đồ vật trong phòng tối nhưng có thể giúp ta thấy được đồ vật trong phòng tối. Giới, định, tuệ cũng như vậy, không thể tạo ra pháp thân, nhưng nhờ nó chúng ta nhận ra và thể nhập lại pháp thân ấy. Không thể chỉ có khổ hạnh mà thành Phật. Do bi nguyện, tùy căn cơ của chúng sinh mà Như Lai có pháp, thuận hay nghịch đều vì lợi ích cho chúng sinh. Như Quán Thế Âm có tướng nữ từ bi hiền dịu của mẹ hiền, nhưng cũng có tướng là Tiêu Diện Đại sĩ, lưỡi dài mặt đen của ác quỷ, nhưng đều là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Nếu nói: “Không nên tin Như Lai lúc mới sinh đi bảy bước”, là lời của ma.

Nếu nói: “Như Lai khi ra đời, hướng về bốn phương đi bảy bước, đó là phương tiện thị hiện”, là lời của Như Lai nói.

Với cái nhìn của người đời nay, việc sinh ra bên hông phải và đi bảy bước là việc không thể chấp nhận. Chư vị thiện tri thức có khi vì cái nhìn chưa thấu suốt này mà phương tiện thành không. Không hẳn chư vị đã cho là không.

Pháp thân vô tướng, do ứng cơ mà hiện thành tướng, nên tùy căn cơ chúng sinh mà cảnh sở hiện thấy có khác nhau. Con người sẽ thấy những gì thuộc về nghiệp thức của con người. Trời sẽ thấy những gì thuộc nghiệp thức của Trời. Cùng một cảnh giới mà phàm phu thấy thế giới này qua lăng kính của phàm phu, thánh nhân thấy thế giới này theo lăng kính của thánh nhân. Người thấy nước là nước nhưng ngạ quỷ thấy nước là máu6. Việc hiện tướng Phật cũng như thế. Cõi người không thể thấy con cái ra đời từ hông phải của mẹ, nhưng với chư thiên việc đó là thường. Phàm phu không thể thấy Phật đi bảy bước, nhưng thánh nhân thì không hẳn như vậy. Mọi hiện tướng nói trong kinh luận, không chỉ là cái thấy của người và phàm phu mà có cả chư thiên và thánh nhân. Vì thế, có thứ phàm phu thấy được mà có thứ phàm phu không thấy được. Như hiện nay, khi khoa học phát triển, đã chứng mình cho ta thấy có nhiều thứ ta không thấy được bằng mắt nhưng không có nghĩa là không có.

Việc “bình thường” và “không bình thường” này chỉ thể hiện mặt duyên khởi sâu xa mà Phật đã nói. Pháp thân Như Lai thường trụ, chỉ tùy căn cơ của chúng sinh mà thị hiện thân tướng. Đã tùy cơ mà hiện tướng thì không thể có một tướng cố định xuất hiện chỉ phụ thuộc vào cái nhìn của một loại chúng sinh. Đó là lý do vì sao xuất hiện nhiều tướng mà với tâm thức con người, là hư ảo, khó lường, nhưng Như Lai vẫn xác định việc đó có. Vì tất cả đều do ứng duyên mà thành sự. Chỉ do ứng duyên mà thành sự nên Như Lai nói “phương tiện thị hiện”. Nói “phương tiện”, vì do ứng cơ mà thành, không có chất thật. Nói “thị hiện” vì tùy nhân tùy duyên mà hiện tướng.

Nếu nói: “Trời sinh trước, Phật sinh sau, cớ sao chư thiên lại lễ kính Phật?”, là lời nói của ma.

Nếu nói: “Khi Bồ-tát giáng sinh, tất cả vua của chư thiên ở các cõi đều đến lễ lạy”, là lời của Phật.

Tướng Như Lai xuất hiện đó chỉ là hóa thân ứng với nghiệp thức của người và trời mà xuất hiện. Còn pháp thân Như Lai thì vô tướng, thường trụ. Trời hay người v.v… đều từ đó mà ra. Đó là lý do không thể y cứ trên tướng mà phân trước sau, cũng không thể y cái phân trước sau đó để nói đến sự tôn kính.

Lìa bỏ tâm tham dục

Nếu nói: “Lúc làm thái tử, vì lòng tham dục nên Bồ-tát lấy vợ, hưởng thọ khoái lạc nơi chốn thâm cung”, là lời của ma.

Nếu nói: “Từ lâu, Bồ-tát đã bỏ lìa tâm tham dục, vợ con. Cho đến sự vi diệu của Tam thập tam thiên, Bồ-tát cũng coi như đàm giải, huống là sự vui ở cõi người? Bồ-tát cạo bỏ râu tóc, xuất gia hành đạo”, là lời Phật nói.

Do tham dục, chúng ta không có giải thoát, không thể sống lại được với pháp thân thanh tịnh của mình. Sắc, thanh, hương, vị, xúc đều là sở hiện của tự tâm, do bất giác mà hiện thành. Nhưng chạy theo lục trần thì bỏ mất bản tâm. Hợp trần thì bối giác. Cái hợp trần chạy theo đó là biểu hiện của tham dục. Vì thế, người tu, dù là tu để chứng La-hán hay để sống lại với pháp thân của mình đều phải từ bỏ tâm tham dục. Dù thị hiện có vợ con thì vẫn không có tâm tham dục. Chỉ do lòng bi mẫn mà thị hiện thân tướng như thế để độ sinh. Ma thì y tướng mà nói pháp để dẫn phát tâm tham ái của chúng sinh, muốn họ chìm sâu trong biển mê, không thoát được phiền não và sở tri chướng. Không thể giải thoát cũng không được Bồ-đề. Phật thì y tánh mà nói. Tuy thị hiện tướng tham dục mà không có tham dục, như kinh Duy Ma nói: “Hiện vào khắp các đạo để đoạn dứt nhân duyên”.

Người tu thời mạt pháp cần nắm vững việc này. Có thể vì nhân duyên trong đời chưa đủ cơ duyên để thanh tịnh thân tâm, nhưng đã muốn giải thoát và chứng Bồ-đề vô thượng thì hướng đến cũng phải như chư Như Lai, không có tham dục. Xác định được tinh thần này rồi, thì mọi tu hành hiện đời đều phải có phần hồi hướng cho việc dứt tham dục này. Đủ cơ duyên, trong tham dục mà không tham dục, trong biển sinh tử mà không có trần lao.

Hàng Bồ-tát ứng cơ vào cõi tham dục vì lợi ích cho chúng sinh, trước sau gì đều ở trong tham dục mà dứt hẳn tham dục, không tạo điều kiện cho tham dục phát sinh. Đối với việc lợi tha thì tùy cơ của chúng sinh mà nói pháp. Như người tại gia chưa có tâm tu giải thoát thì không nói đến việc từ bỏ tham dục, nhưng không có nghĩa là ca tụng tham dục, cũng không nói lời hủy hoại giới cấm để tạo điều kiện cho tham dục phát sinh. Tham dục ở đây không chỉ nói ở mặt ái dục mà chỉ cho tất cả các mặt còn lại thuộc sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Hiện nay vấn đề âm nhạc được phổ biến rất rộng trong Phật giáo. Không phải chỉ trong một vài buổi lễ mà còn cả trong những buổi tu tập. Có cảnh phụ nữ lớn tuổi và các cô gái mặc áo tràng múa may quay cuồng trước sự chứng kiến của quý thầy như là một pháp tu. Đây là thanh dục. Nói như thế vì thanh đã được tâm tham dục chấp thủ. Còn thanh, bản thân nó vốn như, không thể nói nó là thanh dục hay không thanh dục. Nhưng nếu chúng ta dùng nó như một pháp tu, tức mình đã sử dụng nó không đúng duyên, thì cũng có nghĩa là tham dục đã phát sinh, thanh lúc ấy trở thành thanh dục.

Vì âm nhạc vốn không phải là thanh dục nên có thể dùng nó để hướng người chưa biết đạo vào đạo, giúp các em thiếu nhi (cái tuổi chưa thể không mọi thứ, cũng chưa thể ý thức được gì về việc trừ bỏ tham dục) không thấy trống trải khi đến với đạo, có thể giúp các em thấy đạo vui hơn đời v.v… mà tiến lần lên đạo giải thoát của Như Lai.

Vì âm nhạc làm động tâm và có thể khiến phát khởi tham dục nơi mỗi người, nên với cái duyên là Sa-di thôi, chư Phật đã có giới cấm không được “Tự ý đi xem, nghe, hát, đàn v.v…”. Bài văn “Sám hối sáu căn” của vua Trần Thái Tông đã quở việc này. Trong các bài kinh thuộc hệ A-hàm cũng nói đến việc chư vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không nên sử dụng âm nhạc. Nên thời Hòa thượng Trúc Lâm còn giảng thuyết, dù khen âm nhạc cũng là một phương tiện dẫn đạo tốt, nhưng không có việc chư Tăng Ni hát hò trong các thiền viện.

Tuy vậy trong việc dẫn đạo hiện nay, nhất là với các em thiếu nhi, có khi phải dùng âm nhạc để dẫn chúng, nên chư Tăng Ni cũng phải dùng đến âm nhạc, một loại nhạc được gọi là nhạc đạo để giúp các em tiến dần vào đạo mà không thấy buồn tẻ. Việc dẫn đạo này đương nhiên phải được dùng đúng duyên, đúng đối tượng.

Với người đến với đạo vì hiểu biết, dù là tuổi trẻ, không cần dùng âm nhạc mới độ được họ thì không dùng âm nhạc để độ họ.

Việc dùng âm nhạc cũng được giới hạn trong một số Tăng Ni có trách nhiệm với việc này. Không phải là pháp truyền bá rộng rãi trong thiền môn thanh tịnh, giúp phát khởi chủng tử âm nhạc đã huân tập trong bao đời, chỉ nhờ duyên thanh tịnh bên ngoài mà tạm yên.

Âm nhạc được sử dụng đúng duyên thì mang lại lợi ích cho chính đối tượng đó. Không sử dụng nó đúng duyên, nó sẽ trở thành thanh dục, khơi dậy tâm tham dục trong mỗi người, không còn vì lợi ích cho chúng sinh nữa. Nếu sử dụng không đúng duyên, nó còn tạo điều kiện cho hàng chúng sinh căn cơ cạn mỏng không có ý thức ngăn dừng mà còn y đó phát tán chủng tử âm nhạc đã huân quá sâu trong tạng thức. “Thầy cô lớn còn hát được, sao mình không thể hát”. Tư tưởng đó chính là cái nhân giúp chủng tử âm nhạc ngày càng huân sâu, muốn từ bỏ rất cực. Không từ bỏ thì động tâm không thể dừng. Nếu là người xuất gia thì giới tướng, giới thể đều không thể giữ. Việc xuất gia cũng trở thành hạn chế đối với Phật tử mà chủng âm nhạc huân quá sâu.

Chúng tôi có duyên được chứng kiến một buổi chúc Tết của chư Tăng đối với Ni chúng. Tăng hát một bài để tặng và Ni đáp trả một bài. Việc một năm hát một lần trao tặng nhau bằng âm nhạc, xét theo giới luật thì không như pháp, nhưng chỉ một lần trong năm, không có sự tập dượt huân tập, thì không có gì nghiêm trọng. Có điều sự việc xảy ra khá lý thú.

Sau khi chư Tăng hát tặng rồi, chư Ni không ai biết hát, phải để một Ni, chắc mới xuất gia, hát đỡ một bài. Cô hát một bài của Trịnh Công Sơn, “Hãy yêu nhau đi!”. Không ai là không tái mặt. Chư Tăng có người bỏ ra về. Còn Ni nhỏ thì vẫn vô tư hát. Việc ấy chứng tỏ Tăng Ni không có tâm tham dục trong việc sử dụng âm nhạc. Nhưng nó để lại trong tâm tôi một sự nhắc nhở sâu xa: “Nếu không có cái nhân là việc hát tặng, dù là nhạc đạo, thì sẽ không có cái quả là cô Ni kia phát tán bài hát “Hãy yêu nhau đi!”. Điều đó có nghĩa là, với những người đã cứng cáp thì duyên thế nào cũng không mang lại quả xấu cho họ. Nhưng với những người tâm còn yếu đuối, cần môi trường thanh tịnh của tùng lâm để thanh lọc thân tâm, thì chúng ta phải cẩn thận từ những cái nhân rất nhỏ. Việc giảm bớt căng thẳng trong tu học khác với việc tạo điều kiện để tập khí sinh khởi. Nếu chúng ta sử dụng pháp không đúng duyên, xem thường những cái nhân nhỏ, không loại bỏ hay hạn cuộc nó ngay từ đầu, thì kết quả khó mà lường hết được. Từ đạo biến thành đời chẳng mấy chốc. Từ chỗ thanh tịnh biến thành tham dục chẳng khó khăn. Đó là bài học tôi nhận được từ việc chúc Tết ấy.

Vấn đề chứa chấp của cải…

Nếu nói: “Tại nước Xá-vệ, nơi tinh xá Kỳ-hoàn, vì lòng Đại từ thương xót chúng sinh, nên Phật cho Tỳ-kheo nuôi tôi tớ, voi ngựa, gia súc, chứa vàng bạc châu báu, cho buôn bán, gieo trồng…”, là lời của ma nói.

Nếu nói: “Tại nước Xá-vệ, nơi tinh xá Kỳ-hoàn, trước vua Ba-tư-nặc và Bà-la-môn Cổ-chi-đức, Phật cấm Tỳ-kheo không được nuôi chứa tôi tớ, voi ngựa, gia súc, chứa vàng bạc châu báu, cho buôn bán, gieo trồng… Người phạm vào các điều này thời không được ở trong hàng Tỳ-kheo, phải hoàn tục, như đám cỏ trong ruộng lúa cần phải nhổ bỏ”, là lời Phật nói. Người thuận theo đây chính là Bồ-tát.

Đây có mấy điểm cần lưu ý.

Một là địa điểm và thời gian lúc Phật nêu ý kiến này. Đó là vào thời Phật và tại đất nước Xá-vệ. Hai là nội dung tích chứa. Vào thời đó Tăng đoàn được sự hỗ trợ mạnh từ đông đảo quần chúng vua quan và lấy việc khất thực làm chính, nghiệp căn thân cũng nhẹ hơn, nên Phật đã cấm Tỳ-kheo làm các việc đó. Vì nó nuôi lớn lòng tham.

Hiện nay điều kiện xã hội và con người đã khác thời Đức Phật. Tăng đoàn hội chúng không còn đi khất thực mà tụ hội tu tập và bá tánh cần có chỗ nơi nương tựa. Vào những lúc mà điều kiện xã hội không được hanh thông, Tăng Ni phải tự trồng trọt hay mua bán để có thể tự tiếp tục việc tu hành, nuôi chúng và xây dựng chùa chiền. Vì thế không thể chỉ y nơi hình tướng quán xét sự việc mà phải y vào tinh thần. Việc tích chứa hay trồng trọt đó là do tham dục mà ra hay chỉ tạo điều kiện để Tăng Ni tu học được tốt hơn? Nếu trồng trọt mua bán chỉ là điều kiện để việc tu học của đại chúng được tốt hơn thì trồng trọt mua bán không lỗi. Nếu trồng trọt và mua bán chỉ để của cải tích chứa thêm nhiều, việc tu học bị phế bỏ, tập trung cho việc kiếm tiền, không khác gì người ngoài đời, chỉ mượn danh đệ tử Như Lai mà không hành việc Như Lai, chỉ làm vững mạnh thêm pháp thế tục thì đúng là lỗi. Nên Như Lai cấm trồng trọt, mua bán và bắt hoàn tục. Là để tránh quả xấu trong tương lai cho chính người đó.

Thị hiện vào tất cả cảnh giới mà không có tâm luyến ái

Nếu nói: “Bồ-tát thị hiện vào miếu thờ trời, ở trong pháp ngoại đạo xuất gia tu hành, thị hiện biết tất cả oai nghi lễ tiết, khéo hiểu tất cả văn tự kỹ nghệ, thị hiện làm bậc tôn quý nhất trong các giai cấp xã hội, dầu vậy Bồ-tát chẳng có lòng luyến ái, như hoa sen không nhiễm bùn nhơ. Vì độ chúng sinh nên Bồ-tát phương tiện thị hiện theo thế pháp. Những lời trên đây là của Phật nói, người thuận theo đây là Bồ-tát. Nếu nói trái lại là lời của ma và quyến thuộc của ma”, là lời Phật nói.

Pháp thân bất biến nhưng tùy duyên ứng cơ mà hiện tướng làm lợi ích chúng sinh. Đây là 32 ứng hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, 48 lời nguyện của Đức Di Đà, thệ nguyện độ sinh của Bồ-tát Địa Tạng v.v… Đều do bi nguyện mà thành.

Đây là dụng của hàng Bồ-tát pháp thân. Địa càng cao, ứng hóa thân các rộng.

Điểm đặc biệt ở đây là “Thị hiện làm các bậc tôn quý nhất trong các giai cấp xã hội” nhưng không có lòng luyến ái với giai cấp, địa vị mà mình đang có. Kinh Duy Ma nói: “Đến cảnh sắc và vô sắc mà không cho là thù thắng. Hiện làm hạng giàu có mà xem là vô thường, không có tham đắm. Hiện làm kiêu mạn mà đối với chúng sinh mình cũng như cầu đò v.v...”. Phu nhân Thắng Man trong mười Đại thệ nguyện cũng hiện rõ điều này: “Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ-đề, không vì mình mà nhận chứa tài vật. Phàm có thọ nhận, đều vì thành thục chúng sinh bần khổ”, hoặc “Thế Tôn! Con từ hôm nay cho đến khi chứng quả Bồ-đề, hành Tứ nhiếp pháp mà chẳng cầu báo đáp, dùng tâm không tham, không lợi, không nhàm đủ, không ngăn ngại mà nhiếp thọ chúng sinh”.

Do không nắm được lý “duy tâm sở hiện” mà Phật Tổ đã nói, nên có người cho rằng lợi ích của Phật pháp chỉ hạn cuộc trong việc tu hành, không mở rộng được như ở các đạo giáo khác. Đó là vì nghiệp thức của chư vị chỉ nhìn thấy được mặt nổi của vấn đề, không thấy được mặt sâu xa của sự việc. Tất cả đều có thể là hiện thân của Bồ-tát và Phật ở khắp tất cả chỗ. Các vua đời Trần thể hiện việc độ sinh mở rộng này một cách rõ ràng nên chúng ta có thể thấy được rõ ràng. Nhưng với những người mà hình thức của họ không mang tính đạo giáo như Hồ Chí Minh v.v… thì chúng ta không thể hình dung, nên không thấy được mặt lợi ích của việc tịnh tâm, thiền định, chứng lại pháp thân thường trụ, để có thể sử dụng mặt ứng hóa thân này rộng khắp.

Tóm lại, bất cứ ai vì lợi ích chúng sinh, giúp chúng sinh thoát khổ thành công, dù chỉ một giai đoạn v.v… đều là hóa thân của Phật và Bồ-tát đối với chúng sinh đó.

Tin kính kinh điển Đại thừa

Nếu nói: “Người cố chấp chín bộ kinh luận mà không chịu tin kinh điển Phương đẳng Đại thừa, cho rằng không phải Phật nói, vì trong kinh luận của họ không có nói đến, phải biết người này có tội, không phải là đệ tử của Phật. Nếu có người tin kinh điển Đại thừa, cho rằng vì độ chúng sinh nên Như Lai nói kinh điển Đại thừa. Người này chính là đệ tử của Phật”, là lời Phật nói.

Các bộ kinh thuộc hệ A-hàm, được chư vị cổ đức xếp vào cái gọi là kinh luận Nhị thừa. Các bộ kinh như Lăng-già, Lăng nghiêm, Hoa nghiêm v.v… là những bộ kinh nói đến Phật tánh, đến pháp giới Hoa nghiêm, được chư vị xếp vào cái gọi là kinh Đại thừa Phương quảng. Với chư vị, tất cả đều là kinh Phật nói; chỉ là tùy thời, tùy căn cơ của chúng sinh mà giả lập, cũng y đó mà ẩn hay hiện.

Người đời sau, có người quả quyết Phật chỉ nói 5 bộ kinh thuộc hệ A-hàm, còn lại không phải Phật nói. Người thì kinh Đại thừa cũng bác mà kinh Nhị thừa cũng chê, dù khoác áo Tăng-già.

Tôi có một nhân duyên khá tốt giúp tăng trưởng niềm kính tin đối với kinh điển Đại thừa.

Do nhân duyên đời quá khứ, tôi gặp được pháp Đại thừa đốn giáo do Hòa thượng Trúc Lâm giảng dạy qua những cuốn sách quay ronéo bán ngoài chợ trời, thông qua ông bạn đời của mình. Củng cố niềm tin nhiều hơn là nhờ vào những cảnh giới chứng. Trong việc tu tập, tuy gặp nhiều chướng duyên từ thân tâm, nhưng sau mỗi lần khổ nhọc, cố gắng, tôi lại được chứng nghiệm những cảnh giới đã nói trong kinh điển. Hiểu rõ những thứ mà trước khi có sự tu tập, tôi không hiểu được. Nên niềm tin đối với kinh điển Đại thừa được củng cố mạnh.

Thêm một tác nhân quan trọng nữa, đó là Sư Hưng. Nhân duyên tôi gặp Sư khá kỳ quặc.

Sư vào trại cải tạo chung với ông bạn đời của tôi. Ngày đó ông bạn tôi vượt biên, Sư thì vào vì phát biểu linh tinh. Hai ngày sau Sư báo với người bạn là Sư sắp ra khỏi trại, muốn gặp tôi. Sư được người cậu bảo lãnh ra thật, rồi thuê xe về thẳng nhà tôi, bắt tôi trả tiền xe và quỳ nhận Sư làm thầy. Tôi không thích nhưng vẫn phải quỳ xuống lạy Sư. Tôi không gặp Sư thường xuyên, vì Sư ở mãi Long Xuyên, Sa Đéc. Tôi không thích phong cách của Sư, vì Sư bắt tôi quăng con gái qua một bên khi nó đang khóc ngất, không một chút động lòng. Nhưng mỗi lần tôi có việc buồn, Sư đều xuất hiện rất đúng lúc. Sư là người đầu tiên nói với tôi “Bỏ tất cả, con sẽ được tất cả”.

Việc thứ hai khiến tôi không thích Sư nữa là Sư đụng đến phần ngã sở của tôi. Sư chê Sư ông Trúc Lâm là “Đi đâu, Phật tử cũng theo đông quá”. Có điều Sư lại khen Thầy: “Chưa bao giờ thấy ai có cái tướng hảo quang minh như Nhật Quang”. Có lẽ do một chút đó mà tôi còn dính tới Sư.

Chính Sư là người đã giải mã chỗ Tiểu thừa - Đại thừa này cho tôi, giải tỏa rõ ràng pháp Thiền đốn giáo mà tôi đang tu tập.

Sư nói với tôi Sư thuộc hệ phái Tiểu thừa. Tôi cũng thấy Sư sống đời sống khất sĩ thời Phật. Đầu trần, chân đất, ngày ăn một bữa. Ngoài chiếc y quấn trên người, Sư không có gì nữa. Nay ngụ chỗ này, mai ngụ chỗ kia, không hề có tiền trong túi. Ngày đó tôi không biết cái gì là Tiểu thừa, Trung thừa hay Đại thừa. Chỉ do đang tu nửa chừng thì gặp một người bạn, nói đừng tu pháp đó nữa, pháp đó là của mấy ông bên Trung Hoa, không phải của Phật nói. Vì lời nói ấy, tôi mang ra hỏi Sư. Coi Sư có nhận định thế nào về lời nói của cô bạn.

- Thiền Đốn giáo có phải của Phật nói không Sư?

Sư không trả lời mà hỏi ngược lại tôi:

- Con có nghe tích Phật truyền nửa tòa ngồi cho ngài Ca Diếp?

Tôi gật đầu. Sư trả lời:

- Ca Diếp là Tổ đầu tiên của thiền Đốn giáo. Truyền qua 33 vị.

Một câu trả lời đó đủ xác minh cho tôi thấy “Thiền đốn giáo” là một phần trong pháp Phật đã nói.

Sau này có ít định lực và trí tuệ rồi, tôi nhận ra tính nhất quán từ kinh tạng Tiểu thừa cho đến Nhất thừa. Tuy nhất quán mà vẫn không nhất quán. Không nhất quán mà nhất quán. Cái nhất quán là mặt bất biến của pháp. Cái không nhất quán là mặt tùy duyên của pháp. Trong Nhị thừa ngầm ẩn Đại thừa. Trong Đại thừa ngầm có Nhị thừa.

Phải nói, chỉ với hệ thống kinh luận của Nhị thừa, không đủ để giải mã những gì mà khoa học và triết học đang bế tắc. Chỉ một vòng mắt xích Thập nhị nhân duyên, nếu không có phần Duy thức học thì không giải mã được tính hợp lý của chuỗi nhân quả đó. Vì thế, chối bỏ kinh điển Đại thừa chỉ khiến Phật pháp trở nên yếu kém trước những bước tiến vượt bực của thời đại. Đúng là có tội với chư Phật.

Thứ mà tôi thích nhất được nói trong các kinh điển Đại thừa, là dù tu pháp Đại thừa chăng nữa thì rốt cuộc “Đại thừa là không chấp vào Đại thừa, cho đó là nhất, là thật, mới là Đại thừa”. Rất bình đẳng, không thiên lệch pháp mình, pháp người. Tất cả đều phải xả bỏ để trở về chỗ vô trụ. Nó không mang tính thiên lệch cố chấp cho pháp mình tu mới là nhất, là của Phật nói. Mọi thứ nếu có chỉ là pháp đối trị. Như có bệnh thì cho thuốc, không bệnh thuốc không dùng. Tu Đại thừa mà phải dùng pháp Tiểu thừa mới trị được bệnh thì dùng pháp Tiểu thừa v.v... Tôi thích tính bình đẳng ấy của Đại thừa. Tất cả pháp đều là Phật pháp, khi chúng ta biết sử dụng pháp đúng duyên.

Đức tướng của Như Lai

Nếu nói: “Như Lai không phải là kết quả của vô lượng công đức, là vô thượng biến đổi, do chứng pháp không nên tuyên nói lý vô ngã, chẳng thuận với thế gian”, là lời của ma. Tin lời này là quyến thuộc của ma.

Nếu nói: “Như Lai là bực Đẳng chánh giác không thể nghĩ bàn, là kết quả của vô lượng công đức, là thường trụ không biến đổi”, là lời Phật nói.

Như Lai là pháp thân thường trụ, không do tạo tác mà thành, nên không do tu hành mà được. Nhưng nếu không tu hành, không có thánh hạnh thì không thể bối trần hợp giác mà ngộ nhập lại tri kiến Như Lai trong mỗi chúng sinh, nên Như Lai tuy là thường trụ mà vẫn là kết quả của vô lượng tướng công đức.

Hành giả tu hành, nếu không có sẵn Phật tánh thì tu hành vô lượng kiếp cũng chẳng thành Phật, như sâu có gốc là bướm thì đủ duyên mới hóa bướm được. Nếu có sẵn Phật tánh mà không chịu khó thanh lọc nhiễm ô có từ thời vô thủy thì Phật tánh dù có, cũng không thể hiển cái dụng nhiệm mầu của nó. Cho nên, tuy biết mình có sẵn Phật tánh, dù ở phàm không giảm, ở thánh không tăng, nhưng không vì thế mà không tu, không hành thánh hạnh. Kinh Niết-bàn tập I, phẩm Tài chánh nói: “Tôi đã thành Phật vì tôi có Phật tánh. Người nói lời này phạm tội Ba-la-di. Vì dầu có Phật tánh, nhưng chưa tu tập các pháp lành, nên chưa được thấy. Vì chưa thấy Phật tánh, nên chẳng thể thành Phật”.

Giới là của Phật chế

Nếu nói: “Không có bốn trọng tội, mười ba tội Tăng tàn, hai tội bất định v.v… Nếu có Tỳ-kheo phạm các tội trên đây mà đọa địa ngục thì hàng ngoại đạo lẽ ra đều sinh lên cõi trời, vì ngoại đạo không thọ giới, nên không có giới để phạm. Đó là Như Lai muốn khủng bố người nên nói các điều giới ấy. Nói bị đọa vào địa ngục cũng là khủng bố người. Đây là các nhà luật sư vọng nói mà cho là lời Phật chế. Kỳ thật không phải do Phật chế…”, là lời ma nói.

Nếu nói: “Chẳng nên thân cận người phủ nhận nhân quả. Chánh pháp của Phật trong sạch như vậy, sao phạm vào Du-lan-giá hoặc Tăng-tàn hoặc Ba-la-di mà chẳng phải là tội? Thế nên phải tự giữ gìn những giới pháp như vậy. Nếu không giữ gìn thì lấy gì gọi là cấm giới? Trong các kinh Như Lai đã nói, nếu phạm giới thời phải theo luật mà trị. Dù tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng phải do nơi trì giới rồi sau mới được thấy. Do thấy Phật tánh mà được thành Vô thượng chánh giác. Nếu không trì giới sao có thể thấy được Phật tánh?”, là lời Phật nói.

Khi Như Lai sắp nhập Niết-bàn, A Nan thưa sau này chúng sinh sẽ y chỉ ai làm thầy? Như Lai nói lấy giới làm thầy. Thì hiểu giữ giới quan trọng thế nào.

Giới là một trong ba vô lậu học Giới - Định - Tuệ. Không phải khi nào có giới là lập tức có định, nhưng nó là điều kiện tiên quyết có thể làm phát sinh định. Vì thế muốn có định tuệ thì phải giữ giới nghiêm cẩn.

Chúng sinh có sẵn Phật tánh nhưng không thể nhận ra, cũng không dùng được tướng và dụng của nó như chư Phật, vì bị lực của dòng tập nghiệp lôi kéo. Như biển nổi sóng, cứ theo sóng mà quên mất tánh ướt của biển. Muốn dừng được lực ấy, hành giả phải có sức định. Muốn có sức định thì phải giữ giới nghiêm túc. Giữ giới nghĩa là giữ không cho những chủng tử trong tạng thức hiện hành tương tục trong tâm. Do duyên ấy mà dừng được dòng nghiệp lực. Phật tánh có điều kiện hiển bày.

Hỏi: Vậy sao Tuệ Trung thượng sĩ lại nói “Giữ giới cùng nhẫn nhục/Chiêu tội chẳng chiêu phước?”7

Đáp: Vì Trần Nhân Tông không có giới để phạm. Nếu chấp vào giới thì không thể nhập được chỗ vô trụ. Nên Tuệ Trung thượng sĩ nói giữ giới cùng nhẫn nhục là chiêu tội. Đó là tùy cơ mà có pháp. Nó có tác dụng “nhổ đinh, tháo chốt” cho những ai đang bị kẹt. Một trong những phương pháp khai thị đặc thù của Thiền tông. Cho nên, dạy xong Tuệ Trung thượng sĩ dặn “Không nói cho người không ra gì biết”. “Người không ra gì” là người mà giới và nhẫn vẫn cần để đối trị các tật xấu của thân tâm.

Lý Trung đạo

Nếu nói: “Ngã thường còn. Ngã đoạn diệt”, là lời ma nói.

Nếu nói: “Như Lai không nói ngã thường còn, không nói ngã đoạn diệt. Như Lai có khi nói có ngã, có khi nói không ngã. Đây gọi là Trung đạo”, là lời Phật nói.

Trung đạo là yếu lý được nói trong các bộ kinh Đại thừa. Vì nó là con đường giúp hành giả chứng nhập lại Phật tánh của mình. Hàng Nhị thừa, muốn được trạng thái vô ngã cũng phải phá bỏ phần nhị biên phân biệt thô, nhưng những cặp phân biệt tế như đạo và tục, Niết-bàn và sinh tử vẫn còn. Đó là do chư vị chưa nhận ra được tánh thể bình đẳng của vạn pháp để có thể thấy đạo hay tục, Niết-bàn hay sinh tử chỉ như hai mặt của một bàn tay.

Tánh của tất cả pháp vốn không, duyên khởi mà thành có tướng. Nhị biên phân biệt chính là phần duyên khởi của lý tánh không ấy. Y đó mà Như Lai lập pháp. Đối trị với tục mà nói đạo. Đối trị với sinh tử mà nói Niết-bàn. Đối trị ngã tướng của phàm phu mà nói vô ngã. Đối trị vô ngã của Nhị thừa mà nói có ngã. Nếu không có sinh tử thì Như Lai không nói Niết-bàn, không có ngã của phàm phu thì Như Lai không nói vô ngã của Nhị thừa, không có vô ngã của Nhị thừa thì Như Lai không nói ngã của Thượng thừa. Nghĩa là, do đối trị với tâm bệnh của chúng sinh mà Như Lai có pháp tương ưng. Pháp ấy tương ưng với từng trạng thái tâm thức của chúng sinh. Do đối trị nên pháp Như Lai nói là pháp tùy duyên, như tùy bệnh mà cho thuốc. Pháp tùy duyên nên tùy duyên mà lập, không mang tính cố định. Đó là lý do nói “Như Lai có khi nói ngã, có khi nói vô ngã…”. Cái có thể cố định là “không”, không có hình tướng, không thuộc về ngã hay vô ngã, Niết-bàn hay sinh tử v.v… nhưng không lìa các thứ đó. Những hình tướng đối nghịch của pháp chỉ là mặt duyên khởi của pháp, biểu hiện cho tánh thể “không” này.

Tánh thể “không” này không phải có, vì nó vô tướng, không phải là đối tượng sở biết của một cái năng biết. Không phải không, vì đủ duyên thì vạn pháp y đó hiện tướng thông qua luật nhân quả. Đây là chỗ khác nhau giữa cái “không” mà Phật giáo đã nói với cái không mà ngoại đạo thấy. Tánh thể “không” này chính là cái nhân Phật tánh có sẵn trong mỗi chúng sinh. Do mê mà chúng ta không nhận được nó.

Lý Trung đạo còn được thể hiện qua các đoạn kinh sau:

“Như Lai không nói phải luôn đứng co một chân mà dạy theo đúng Chánh pháp, tùy ý đi, đứng, nằm, ngồi”. Pháp Như Lai dạy không bị ràng buộc trong một hình tướng cố định nào. Nó mang tính tùy duyên mà bất biến. Cái bất biến ở đây là tinh thần mà Như Lai muốn nói. “Theo đúng Chánh pháp” là bất biến. “Đi, đứng, nằm, ngồi” là tướng tùy duyên.

“Như Lai chẳng bảo phải tuyệt thực hay uống độc dược, hoặc năm thứ nóng đốt thân, trói cột chân tay, giết hại chúng sinh, luyện bàng môn chú thuật, dùng ngà voi châu ngọc làm dép da”. Khi Như Lai dạy một việc mang tính khẳng định thì biết đó là do đối trị. Nói đối trị thì pháp chỉ có giá trị trong duyên. Đây là đối trị pháp tu sai lầm của ngoại đạo, đối trị tâm tham đắm của Phật tử.

“Như Lai nói tứ đại không có thọ mạng, cỏ cây không có thọ mạng…”. Vì lý thật của các pháp vốn vậy. Sắc thân hay sắc chất nếu lìa nghiệp thức thì không có thọ mạng.

Do đối trị bệnh của chúng sinh mà chúng ta thấy có khi Phật nói thế này, có khi Phật nói thế kia, nhưng tất cả không ra ngoài lý đạo, quan trọng là đúng duyên. Nếu chúng ta dùng pháp trái với lý đạo, lại không đúng duyên thì đó là ma nói, không phải Phật nói.

Như trong tất cả kinh điển, từ kinh điển Nguyên thủy cho đến kinh điển Đại thừa, đều nói đến địa ngục. Trong luận Đại trí độ tập I, tiền thân của Văn Thù Sư Lợi từng đọa địa ngục vô lượng kiếp, chỉ vì không hiểu được lý Trung đạo mà một đạo nhân đã nói nên hủy báng nó. Nghĩa là, với nghiệp thức của chúng sinh và cái nhìn của thánh nhân, địa ngục không phải không, khi nó đã có nhân và đủ duyên. Bát-nhã nói “không…”, Lăng-già nói “phi…”, không phải là bác không địa ngục, mà muốn nhấn mạnh đến mặt tánh thể của vạn pháp. Tánh không ấy thể hiện ra tướng duyên khởi như sau:

- Nếu gieo cái nhân địa ngục thì khi đủ duyên, địa ngục hiện tiền. Trong trường hợp này địa ngục là có.

- Nếu không gieo cái nhân địa ngục thì dù đủ duyên bao nhiêu, cũng không xuất hiện cảnh giới địa ngục. Trong trường hợp này, địa ngục là không.

Như vậy địa ngục có hay không là tùy người tạo tác. Nó là pháp nhân duyên, không mang tính cố định để có thể khẳng định địa ngục là có hay là không.

- Địa ngục, dù trong cái duyên là có thì bản chất nó vẫn không (không tánh). Nó là pháp lệ thuộc vào duyên tạo tác của chúng sinh, không phải là một cõi giới cố định không thể thay đổi. Nếu thành tâm sám hối và tu hành, có thể chuyển chủng nhân bất thiện thành chủng nhân thiện thì cảnh giới địa ngục tan hoại (với loại nghiệp bất định).

Nếu nói pháp cho đại chúng phổ trà, là những người còn đầy tham dục và sân giận mà khẳng định không có địa ngục, là rơi vào chấp không. Kinh Lăng-già tâm ấn nói: “Thà chấp có bằng núi Tu-di còn hơn chấp không bằng hạt cải”. Chấp không thì vừa không khế lý vừa không khế cơ. Đó là ma nói không phải là lời của Phật và Bồ-tát nói.

Không thân cận, cung kính, cúng dường cho Sa-môn không có đạo hạnh

Nếu nói: “Nếu có Tỳ-kheo phạm tội Du-lan-giá, thời không nên thân cận. Những gì gọi là tội Du-lan-giá? Có Tỳ-kheo thấy cọng chỉ trong xâu hoa, không hỏi xin mà lấy, là mắc tội Du-lan-giá. Nếu vì tâm tham mà phá hoại tháp Phật thời phạm tội Du-lan-giá. Phật tử vì muốn tu bổ cúng dường xá-lợi v.v…, mới mang châu báu tiền bạc gởi các Tỳ-kheo. Tỳ-kheo nhận rồi, bèn tự ý thọ dụng, đây là hạng bất tịnh, sinh nhiều đấu tranh. Cư sĩ tốt, không nên gần gũi cúng dường”, là lời Phật nói.

Nếu nói: “Nếu có Tỳ-kheo vì cầu lợi, rồi làm nhiều cách dua nịnh dối trá, tuy giữ đúng oai nghi, ở riêng nơi yên vắng nhưng chỉ với mục đích cầu lợi, khiến người đời tưởng mình là bực tốt nhất đã chứng quả thánh, là bậc phước điền lớn. Tỳ-kheo này nhiều ngu si. Nếu có Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào làm như vậy thì mắc tội đại vọng ngữ…”, là lời Phật nói.

Tăng bảo là bậc thay thế Phật Tổ truyền dạy pháp trừ bỏ tham-sân-si cho người đời, là bậc mô phạm của chúng sinh, vì thế mới gọi là Tăng bảo. Đó cũng là lý do để chúng sinh phải thân cận, tôn kính và cúng dường.

Gọi là Tăng bảo, thì không thể chỉ có danh mà không có chất. Nếu chỉ có danh mà không chất thì không phải là “bảo” mà là “dõm”. Vì thế không thể chỉ có danh mà đồng thời phải có chất, mới được gọi là Tăng bảo. Ở đây, Phật dạy phải thân cận, cung kính, cúng dường Tăng bảo. Không phải là Tăng bảo thì không nên thân cận, cúng dường. Không nói “không cung kính”, vì đối với tất cả chúng sinh, Phật tử nên học theo hạnh của Bồ-tát Thường Bất Khinh để giữ tâm mình.

Trong kinh Tâm địa quán báo tứ ân, Phật phân Tăng bảo thành ba hạng vị:

1) Bồ-tát Tăng, như Văn Thù Sư Lợi và Di Lặc…

2) Thanh văn Tăng, như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên…

3) Phàm phu Tăng, là những vị đã thành tựu biệt giải thoát giới, là chân thiện phàm phu, đầy đủ chánh kiến, hay vì người khác diễn thuyết, khai thị các pháp thánh đạo làm lợi lạc cho chúng hữu tình, gọi là phàm phu Tăng.

Ba hạng trên gọi là Chân thật phúc điền Tăng.

Cũng nói: “Lại có một hạng gọi là Phúc điền Tăng, là đối với xá-lợi Phật và hình tượng Phật cùng các pháp chế giới của Tăng thánh, sinh lòng kính tin sâu đậm, tự mình không có tà kiến, khiến người cũng được như vậy. Hay diễn nói Chánh pháp, tán thán Nhất thừa, tin sâu nhân quả, thường phát thiện nguyện, tùy chỗ phạm lỗi của mình mà sám trừ nghiệp chướng. Phải biết lực tin Tam bảo của người này hơn hẳn các ngoại đạo trăm ngàn vạn lần, cũng hơn bốn loại Chuyển Luân Thánh Vương, huống là các loại chúng sinh khác. Như hoa uất kim, dù héo úa vẫn đẹp hơn loài hoa dại. Tỳ-kheo chánh kiến cũng như vậy, vẫn hơn chúng sinh trăm ngàn vạn ức, dù hủy cấm giới cũng không hoại chánh kiến. Do nhân duyên này mà gọi là Phúc điền Tăng”.

Như vậy tiêu chuẩn thấp nhất mà Tăng bảo cần có để chúng sinh có thể y đó thân cận, cung kính, cúng dường là phải có giới luật, có chánh kiến, thường phát thiện nguyện, tin sâu nhân quả, nếu có lỗi thì phải phát lồ sám hối, không bẻ quẹo kinh luận theo chỗ hiểu biết cũng như phạm giới của mình. Ngoài ra thì không nên thân cận và cúng dường.

Kinh Đại bát Niết-bàn I, phẩm Tứ y cũng dạy rõ: “Này Ca Diếp! Trong chư Tăng, có chân thật Tăng, có giả danh Tăng, có trì giới Tăng, có phá giới Tăng. Trong Đại chúng ấy, phải bình đẳng cúng dường, cung kính, lễ bái. Vì với mắt thịt, hàng cư sĩ không thể phân biệt được vị nào trì giới, vị nào phá giới, ai là chân thật Tăng, ai là giả danh Tăng... Này Ca Diếp! Nếu đã biết rõ đó là Tỳ-kheo phá giới, thời chẳng nên cung kính cúng dường. Nếu trong chư Tăng có người phá giới, chẳng nên vì đắp ca-sa mà cung kính lễ bái”.

Phép tắc hàng Sa-môn

Nếu nói: “Trong Phật pháp, phép tắc của hàng Sa-môn là phải sinh lòng từ bi lợi ích chúng sinh, cho đến loài trùng kiến cũng phải ban sự vô úy. Xa lìa uống rượu cho đến ngửi mùi. Không được vọng ngữ cho đến trong giấc mộng cũng không nghĩ đến sự vọng ngữ. Không sinh lòng dục cho đến trong giấc mộng cũng không nghĩ đến lòng dục”, là lời Phật nói.

Đã nói là phép tắc của Sa-môn, nên nếu không có những phép tắc đó đi kèm thì không gọi là Sa-môn, là Tăng bảo của Phật. Phép tắc đó là gì?

- Phải có lòng từ với chúng sinh. Không nên vì việc ăn uống, ngủ nghỉ v.v… của bản thân mà giết hại chúng sinh dù chỉ là những con vật nhỏ như kiến v.v… Không theo phép tắc này thì không phải là Tăng bảo.

- Không uống bia, uống rượu, dùng các chất gây nghiện v.v… Vì các chất đó ngoài việc không lợi ích cho bản thân và chúng sinh, nó còn là tác nhân đưa đến quả xấu trong tương lai. Như uống rượu, sẽ bị quả báo là sinh vào nhà tà kiến, khiến bản thân không thoát được tà kiến. Tà kiến là đầu mối của mọi tệ hại ở thế gian này. Luận Đại trí độ tập I có kể câu chuyện nói về việc này.

- Không sinh lòng dục. Với loại dục thuộc ái thì không sinh lòng dục với người khác giới cũng như người cùng giới. Thành đã là Tăng bảo thì không thể có vợ con. Đang có vợ con thì lúc đó không thể gọi là Tăng bảo.

Đây nói “không sinh lòng dục”, nghĩa là không chạy theo những dục niệm đang dấy khởi trong lòng. Vì một khi đã có nhân duyên với chúng sinh trong quá khứ thì việc sinh khởi dục tâm khó tránh khỏi. Nhưng sinh khởi mà đình chỉ sự sinh khởi ấy khác với việc buông trôi theo nó. Đây nói “không sinh lòng dục” là đình chỉ dục tâm khi nó đủ duyên sinh khởi. Kinh nói: “Tỳ-kheo chiêm bao hành dâm dục có phạm giới chăng? Không phạm giới. Nếu chiêm bao hành dâm, lúc thức dậy phải hổ thẹn ăn năn, nếu móng lòng dâm dục phải kịp trừ bỏ”.

Cũng nói: “Tỳ-kheo đi khất thực, lúc nhận cúng dường, phải có ý tưởng như ăn thịt con đẻ trong thời kỳ đói kém”. Thì biết lòng dục nói đây còn chỉ cho ngũ dục. Là Tăng bảo thì sẽ làm chủ được các loại dục này. Chưa được thì sẽ được. Được rồi thì không sinh khởi.

- Không được vọng ngữ. Những gì nói quá sự thật, gọi là vọng ngữ. Loại vọng ngữ này có hai: Một là do lầm lẫn mà thành vọng ngữ. Hai là do chủ ý lừa gạt mà sinh vọng ngữ. Phạm vi phần này nói về loại thứ hai. Tuy vậy, việc nói quá sự thật này chỉ trở thành lỗi khi nó được thực hiện với mục đích danh lợi. Như kinh nói: “Có Tỳ-kheo vì cầu lợi, vì việc ăn uống… mà có những cách gian trá, khiến người đời tưởng ta là bậc khất sĩ. Tỳ-kheo này nhiều ngu si, tự biết mình chưa chứng bốn quả thánh nhưng luôn nghĩ cách để mọi người nghĩ ta đã chứng thánh. Tỳ-kheo này vì cầu lợi không vì cầu pháp mà nghĩ tưởng phải đi đứng đoan nghiêm, chấp trì y bát, giữ đúng oai nghi, ở riêng nơi yên vắng như La-hán, khiến người đời lầm lẫn…”. Chỉ vì lợi lộc của bản thân mà vọng ngữ nên thành lỗi mà Như Lai nói “Không được vọng ngữ”. Nếu việc vọng ngữ này nhằm mục đích “hướng chúng sinh vào đạo, có thể khiến các Tỳ-kheo và cư sĩ phá giới trở thành người giữ giới, Chánh pháp được kiến lập, pháp vô thượng của Như Lai thành rạng rỡ, khai hiển Phương đẳng Đại thừa, độ thoát vô lượng chúng sinh, khéo hiểu nghĩa khinh trọng trong kinh luật mà Như Lai đã nói v.v…” thì Như Lai không cấm và gọi đó là Bồ-tát. Tuy vậy, những vị được gọi là Bồ-tát đây ắt không cần, cũng không thích dối trá hay vọng ngữ. Mình thế nào hiện y thế ấy. Chỉ là tùy chúng sinh nghĩ tưởng mà thôi.

Một dạng vọng ngữ nữa là, dù đọc tụng giải thuyết Đại thừa, cũng nói tin nhận Đại thừa, nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nói phá kiết sử liền đặng thấy Vô thượng Chánh đẳng chánh giác, nhưng tâm lại chẳng tin những lời mình nói. Chỉ vì lợi dưỡng mà nói theo văn kinh. Hạng này Phật gọi là người ác. Hạng ác này Phật nói “không thọ quả báo liền, như sữa thành lạc”.

Việc không thọ quả báo liền này, kinh Đại-bát Niết-bàn, phẩm Sư tử hống nói có hai hạng:

1- Hạng có nghiệp bất định làm thành quả báo quyết định, quả báo hiện đời làm thành quả báo đời kế, quả báo nhẹ làm thành quả báo nặng, đáng nhẽ thọ báo trong loài người lại thọ báo trong địa ngục.

2- Hạng người với định nghiệp làm thành bất định nghiệp, đáng nhẽ thọ báo ở đời kế thì thọ báo ở đời hiện tại, báo nặng làm thành báo nhẹ, đáng thọ báo địa ngục lại thọ báo nhẹ trong loài người.

Hai hạng đó, hạng thứ nhất chỉ cho người ngu, hạng thứ hai chỉ cho kẻ trí. Kẻ trí biến nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ. Người ngu biến nghiệp nhẹ thành nghiệp nặng. Một trong những thứ làm thành nặng và nhẹ đó là người trí sẽ nhận được quả báo tức thì, còn người ngu thì dời quả báo sang các đời sau. Do cái “tức thì” đó mà nhận ra mặt nhân quả ở thế gian rõ ràng, thêm tin sâu nhân quả, rút kinh nghiệm tránh được các lầm lẫn. Vì thế, với hạng người ác, Phật nói “không thọ quả báo liền, như sữa thành lạc”, là phải chờ đủ duyên của nó vào những kiếp sau mới thọ ác quả.

Một hạng người ác không bị thọ quả báo tức thì nữa là chư vị Tỳ-kheo Nhất-xiển-đề.

Nhất-xiển-đề có hai loại. Một là kẻ không tin. Không tin Phật pháp, không tin mình có Phật tánh, đoạn tuyệt hết mọi thiện căn. Hai là Bồ-tát đại bi đã viên mãn, nhưng chưa chịu thành Phật, vì còn muốn trải dài sinh tử độ sinh1. Nhất-xiển-đề nói đây thuộc loại thứ nhất. Không tin mình có Phật tánh, phỉ báng kinh điển Đại thừa, đoạn tuyệt dòng giống Phật. Kinh nói: “Có kẻ Nhất-xiển-đề làm dạng A-la-hán, chê bai kinh điển Đại thừa. Người phàm phu thấy đó đều cho thật là A-la-hán, là Đại Bồ-tát. Bọn ác Tỳ-kheo Nhất-xiển-đề này ở nơi A-lan-nhã phá hoại pháp A-lan-nhã, thấy người khác được lợi, sinh lòng ganh ghét, cho kinh điển Đại thừa là lời của Thiên ma Ba Tuần, chẳng phải là lời lành, lời thuận. Họ nói Như Lai là pháp vô thường. Họ hủy diệt Chánh pháp, phá hoại chúng Tăng. Hạng này làm ác nhưng không thọ quả báo liền, như sữa thành lạc”.

Trên ghi lại những lời Phật thuyết trong kinh Đại bát Niết-bàn, để phân biệt lời Phật nói, lời ma nói. Việc đó cho thấy vào thời mạt pháp, trong Tăng đoàn không phải chỉ thuần là Tăng bảo. Đối với người đã có phước báu từ kiếp trước, hoặc đã sẵn có chút trí tuệ thì không khó để phân biệt thế nào là Tăng bảo và Pháp bảo. Cái khó là đối với người phước thiếu, trí không. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể tránh được đại nạn này, là nương vào lời nguyện.

Lời nguyện có thể giúp tránh được ma pháp

Trong kinh Tăng nhất A-hàm, phẩm Thiên tử Mã Huyết hỏi về bát chánh, kinh số 2, sau khi dạy về việc thọ Bát quan trai, Phật có dạy đại chúng phát nguyện, cũng nói về tầm quan trọng của phát nguyện. Nguyện ấy như vầy: “Nay con do pháp Bát quan trai này, không rơi vào ba đường dữ, không rơi vào bát nạn, không ở biên địa, không rơi vào chỗ hung ác, không theo ác tri thức, thờ phụng cha mẹ, không tu tập tà kiến, sinh vào trung tâm quốc gia nghe pháp lành này. Phân biệt suy nghĩ thành tựu từng pháp. Đem công đức giữ gìn trai pháp này nhiếp thủ điều lành cho tất cả chúng sinh. Đem công đức này bố thí cho người, khiến cho tất cả cùng thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Cũng đem phước báu thệ nguyện này bố thí cho hàng Tam thừa, khiến không thối chuyển nửa chừng”. Câu “không theo ác tri thức” sẽ giúp mình gặp được Tăng bảo. Nếu có gặp ác tri thức, qua đến mình cũng thành Pháp bảo. Vì thế làm bất cứ thiện nghiệp nào cũng nên phát lời nguyện gặp được minh sư, Chánh pháp, chỉ thân cận các bậc thiện tri thức để tránh các nạn trong thời mạt pháp.

Chân Hiền Tâm

_________________

(1) Khi thì bảo “phải giữ giới và tu nhẫn nhục” (kinh luận), lúc lại bảo “giữ giới cùng nhẫn nhục, chiêu tội chẳng chiêu phước”. (Lời của Tuệ Trung thượng sĩ dạy Trần Nhân Tông).

(2) Kinh Pháp hoa.

(3) Sử 33 vị Tổ Ấn Hoa - Phẩm Ưu-ba-cúc-đa. “Sau khi qui y Tam bảo xong, Tổ bảo ma: “Xưa ngươi từng thấy Như Lai. Giờ hiện thử ta xem”. Ma nói: “Hiện việc xưa không khó. Chỉ xin Tôn giả trong thấy đừng lễ”. Ma liền vào rừng ẩn mất. Chốc, lại thấy Phật từ mé rừng đi ra, oai nghi nghiêm chỉnh, theo sau là 1.250 vị Tỳ-kheo. Ngài trông thấy bất giác cúi mình đảnh lễ. Ma hoảng kinh biến mất”.

(4) Tất cả những trích dẫn sau, nếu không có phần ghi chú xuất xứ, đều được trích từ kinh Đại-bát Niết-bàn tập I - phẩm Tài chánh.

(5) Lăng-già tâm ấn - Thiền sư Hàm Thị trực giải, HT.Thanh Từ dịch và chú.

(6) Lăng-già tâm ấn - Hàm Thị trực giải, HT.Thanh Từ dịch và chú.

(7) Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục. HT.Thanh Từ.

(1) Tự điển Phật học Hán Việt, chủ biên Kim Cương Tử, Nhà xuất bản Khoa Học

Tu tập để ra khỏi luân hồi sanh tử

Tu tập để ra khỏi luân hồi sanh tử

Đăng lúc: 18:59 - 08/10/2016

Người thế gian không hiểu nên thường oán trách cha mẹ không có phước nên sanh ra mình khổ, hoặc cha mẹ không có tài nên mình thua sút người ta, mà không biết chính mình thọ nhận quả báo đời trước đã tạo, nên mới sanh vào gia đình tương ưng như thế. Cha mẹ chỉ là phần phụ thôi, gốc ở bản thân chúng ta. Như vậy, thuyết luân hồi nói lên lẽ thực của kiếp người. Đức Phật đã thấy, đã nhớ rõ ràng nên nói ra cho chúng ta biết, chớ không phải do Ngài tự tưởng tượng, nhưng vì chúng sanh nhìn nông cạn quá nên không tin được.


- Chữ tu giữa đời thường
- Từ án mạng chùa Bửu Quang suy ngẫm bài "Tu là học xử lý khổ đau"

Khi biết rõ kiếp luân hồi như vậy, ai can đảm tạo thêm những nghiệp ác để chịu khổ hơn? Cho nên chúng ta phải tinh tấn làm những điều lành, điều thiện. Nếu không làm cho ai, ít ra ta cũng giữ được phần mình, đừng phạm những giới phải đọa lạc. Đó là tu. Đức Phật thấy rõ sự nguy hiểm của luật nhân quả luân hồi nên chỉ cho mình đường lối tu, chớ không phải áp đặt chúng ta. Khi quy y thọ năm giới, quý thầy hỏi Phật tử “giữ được không”, quý vị giữ được thì nói “dạ được”, nếu giữ chưa được thì làm thinh, chớ đâu có ép. Vì giữ giới là giữ cho mình, không phải giữ cho Phật.
Tu tập để ra khỏi luân hồi sanh tử
Đi sâu vào tâm lý mỗi người, chúng ta sẽ thấy mình đã từng quen thuộc, ưa thích với những việc làm của thuở quá khứ. Ví dụ như bản thân tôi, tại sao lại thích tu? Người đời lớn lên lo chuyện làm ăn hoặc lập gia đình, tại sao mình không thích những chuyện ấy mà lại thích đi tu? Như vậy là từ đời quá khứ ta đã tích lũy hạt giống Phật, nên bây giờ luôn nhớ việc tu. Rõ ràng chúng ta không quên hết nhân quá khứ, nhân nào chứa sâu đậm sẽ trở thành sở thích, việc làm của mình trong đời này.

Có người ra đời thích làm lành, có người ra đời lại hung dữ. Mỗi người thích mỗi cách, đó là do sự tích lũy của quá khứ khác nhau. Quá khứ đã tích lũy sẵn nên bây giờ nó hiện ra. Quý Phật tử kiểm lại xem, nếu do gien cha mẹ sanh ra là yếu tố duy nhất tạo thành những đứa con sau này, thì cha mẹ bệnh tật gì con cũng phải bệnh tật y hệt như thế. Tâm hồn của con do cái gì tạo? Có nhiều cha mẹ rất hiền nhưng con không hiền. Hoặc ngược lại cha mẹ dữ mà con lại hiền. Những sự khác biệt đó nhà Phật gọi là nghiệp tích lũy của quá khứ, chúng ta mang theo khi thọ sanh. Những gì mình đã chứa chấp đời trước, bây giờ nó hiện ra rõ ràng. Như hai anh em ruột, thể xác giống chút chút mà tâm hồn không giống nhau. Như vậy mới thấy mỗi người sanh ra mang một nghiệp khác nhau, từ đó có những sai biệt khác nhau.

Thế thì trên nẻo luân hồi muốn đi đường tốt, không đi đường xấu, chúng ta phải làm sao? Thấy người đáng ghét ta nên xử sự thế nào? Nên nghĩ rằng họ có làm gì hại mình mà ghét. Ghét người như vậy là ta đã có ý nghĩ xấu. Nếu tiếp tục nuôi dưỡng ý nghĩ này, sanh chuyện với người ta là cái cớ để tạo thêm nghiệp. Nếu mọi người đều biết tu như vậy thì gia đình, xã hội đẹp biết bao nhiêu.

Nhà Phật nói nghiệp từ thân, miệng, ý mà sanh, trong đó ý chủ động tạo nghiệp. Miệng nói tốt xấu cũng từ ý, thân làm tốt xấu cũng từ ý. Ý là nói chung cho tất cả những phân biệt thương ghét, buồn giận, hơn thua, phải quấy… đều từ ý nghĩ của mình. Chúng ta chạy theo ý nghĩ là chạy theo nghiệp. Ý nghĩ xấu nên nói bậy, làm bậy; ý nghĩ tốt nên nói lành, làm lành. Khi thân hoại, nghiệp vẫn không hoại, vì nó đâu có tướng mạo mà hoại, nên sẽ theo ta thọ sanh ở đời sau. Nhà Phật gọi là mang nghiệp đi trong luân hồi sanh tử. Vậy muốn chấm dứt nghiệp phải điều phục được ý thức của mình.

Tăng Ni trong thiền viện ngồi thiền cốt để định cái ý đó, nên gọi là thiền định. Tất cả những nghĩ suy lăng xăng, lộn xộn bắt nó lặng xuống hết. Chưa lặng thì điều phục lâu dần nó sẽ lặng. Nó lặng rồi thì nhân tạo nghiệp không còn, nhân tạo nghiệp không còn thì quả luân hồi sanh tử chấm dứt, gọi là giải thoát sanh tử.

Muốn biết có luân hồi hay không, chúng ta cứ nghiệm trong tâm niệm của mình sẽ rõ. Cha mẹ sanh thân được mà không thể sanh tâm niệm của con. Tâm niệm đó từ đâu ra? Từ sự tích lũy của đời trước. Nhiều người ngạc nhiên tại sao con còn nhỏ mà không chịu ăn mặn? Ngược lại, có kẻ cha mẹ khuyên ăn chay thì ăn không được, một ngày cũng ăn không nổi. Đó là do tích lũy từ trước, bây giờ gặp lại thấy quen, thấy thích, chớ không phải bỗng dưng mà có.

Tích lũy tức là những gì đời trước mình đã từng làm từng huân tập. Đời này trở lại những thứ ấy không mất. Vì vậy trong kiếp luân hồi chúng ta theo nghiệp mình đã tích lũy, chất chứa mà hiện ra thành tâm hồn cá biệt của mỗi người. Nên nói đến luân hồi chúng ta đừng suy gẫm gì hết, cứ nhìn lại nội tâm mình thì biết ngay. Tại sao người đó chưa quen thuộc mà mình thấy dễ thương, hoặc kẻ kia cũng chẳng quen thuộc mà mình thấy phát ghét. Vì chúng ta không nhớ nổi, nên nói không biết tại sao kỳ vậy. Thật ra do nghiệp tích lũy của quá khứ chiêu cảm nên.

Trên đời này ai không có những người thân, những kẻ thù. Có thân, có thù gặp lại nhau là khổ. Người thân thì mình thương, người thù thì mình ghét. Nhiều người nói tại sao anh chị có duyên quá, xin cái gì cũng được. Còn tôi vô duyên xin cái gì cũng không ai cho. Tại mình hay tại trời đất xui khiến. Chẳng qua hồi trước mình hất hủi thiên hạ, bây giờ tới phiên người ta hất hủi lại mình. Bình đẳng thôi. Như vậy mình tạo nghiệp lành, nghiệp dữ không đợi đời sau mới trả quả mà ngay hiện tại cũng ứng hiện quả báo phần nào. Đó là một lẽ thực.

Trong kinh kể lại Tôn giả Mục Kiền Liên khi chứng A-la-hán rồi, một hôm Ngài đi trên đường thấy có loài quỷ đầu rất to, bụng lại nhỏ xíu, thân thể ghê gớm lắm. Ngài về thuật lại với Phật, Phật nói ta cũng thường thấy chúng, nhưng nói không ai biết nên ta không nói. Những người tu chứng tới đó thì thấy như nhau, không phải chỉ riêng Phật. Nếu chúng ta đem con mắt phàm phu so sánh với con mắt Thánh nhân thì thật là quá thô thiển. Như những luồng điện đi trên hư không, mình thấy không? Không, mà nó vẫn có. Cho nên chúng ta không nên tin vào con mắt còn rất hạn chế của mình. Có những cái hiện thực mà mình chưa thấy, chưa hiểu được. Thế nên chớ vội cho cái thấy nghe của mình là đúng.

Nhiều người nói thương Phật quá nên tôi tu. Phật khổ cái gì mà thương? Chính mình mới khổ đây nè. Mình khổ, mình thương mình, mình tu chớ không phải thương Phật. Chúng ta mang ơn Phật chỉ đường cho mình tu, chớ không phải vì Phật mà tu. Mỗi vị tự kiểm điểm lại bản thân, xem hiện giờ mình đã thực hiện được những gì Phật dạy, xứng đáng đi đường nào? Như vậy tự biết mai kia khổ hay vui rồi, đâu cần phải hỏi ai. Phật tử có bệnh cứ thắp nhang cầu Phật độ cho con đời sau được sung sướng, hết khổ, mà cứ tạo nghiệp ác. Làm sao Phật cứu độ được?

Nhiều người không hiểu, cứ ngỡ ngồi thiền yên lặng cả ngày vô lý quá. Nhưng họ không ngờ chính đó là nhắm thẳng gốc để trị. Trị gốc được rồi thì sẽ dứt nhân, quả theo đó cũng không còn. Cho nên nói đạo Phật là đạo giải thoát. Giải thoát là dứt hết những mầm tạo nghiệp hoặc thiện hoặc ác, dẫn đi trong sanh tử. Phật dạy phải dừng những suy nghĩ đó lại thì cái chân thật hiện ra. Đó là mặt thật xưa nay của mình. Thật đơn giản!

Thế thì quý thầy, quý cô ở chùa vì quyết tu giải thoát nên phải tập ngồi thiền hoặc niệm Phật cho được nhất tâm. Nhất tâm thì đâu còn nghĩ bậy, đó là nhân giải thoát luân hồi sanh tử. Quý Phật tử không theo đạo Phật thì thôi, đã theo thì phải nắm vững đường lối Phật chỉ dạy, tu cho đúng. Phải chọn con đường hợp với khả năng của mình, từng bước tu tập theo lời chỉ dẫn của Phật. Có thế mới không sợ ngày mai đường trước tối tăm, không biết lối đi. Quý vị khéo ứng dụng tu, cần phải phát tâm dũng mãnh, bền bỉ thực hành cho tới bao giờ thành tựu mới thôi.

Chúc tất cả Tăng Ni, Phật tử mau chấm dứt khổ luân hồi sanh tử.

HT.Thích Thanh Từ

Bậc chân tu đạo cao đức trọng quỷ thần kính sợ

Bậc chân tu đạo cao đức trọng quỷ thần kính sợ

Đăng lúc: 22:03 - 05/09/2016

Người xưa tu hành có đạo đức cao thượng tôn quý, khiến thiên long quỷ thần cảm động, tự nhiên đến ủng hộ. Vì thế, đạo đức là tôn quý nhất ở thế gian, nên có câu: "Đạo cao long hổ phục. Đức trọng quỷ thần khâm".
Quỷ thần cùng con người, mỗi loài đều có pháp giới tôn quý ty tiện khác nhau. Tại sao chư thiên, quỷ thần lại tôn trọng, cung kính pháp giới loài người? Diệu tánh linh minh vốn chẳng phân biệt mình người, đều đồng quy về nhất thể. Chỉ vì vô minh bất giác, mê muội nguồn chân, mới phân mười pháp giới, tức sáu phàm bốn thánh. Nếu muốn xả mê về ngộ, phải xoay về cội nguồn. Song, trình độ giác ngộ của mỗi pháp giới không đồng. Trong pháp giới của con người, có kẻ giác và bất giác, cũng có kẻ chánh tri kiến và tà tri kiến. Pháp giới chư thiên và quỷ thần cũng như thế. Tuy nằm trong sáu loài phàm phu, nhưng pháp giới con người lại vượt trội năm pháp giới khác.

Chư thiên cõi trời Lục Dục vẫn còn đam mê tham ái nữ sắc, quên mất việc tu hành. Trời Tứ Thiền Thiên thì lại tham đắm thiền vị, quên mất con đường minh ngộ chân tâm. Trời Tứ Không Thiên thì lại lạc vào thiên chấp biến không, quên mất chánh tri kiến. A Tu La còn nhiều sân hận. Chúng sanh trong đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thọ bao khổ nhọc, khiến chẳng có chánh niệm, thì làm sao tu hành? Cõi người khổ nhọc vui sướng không đồng, nhưng so với các cõi khác thì dễ dàng giác ngộ hơn, nên có thể minh tâm kiến tánh, siêu phàm nhập thánh. Chư thiên quỷ thần tuy có thần thông phước báo nhiều ít không đồng, nhưng đều tôn trọng người có đạo đức và cùng ngưỡng mộ chánh pháp.

Thiền sư Nguyên Khê, kết am tại Nhạc Bàng Ô, đã từng truyền giới cho thần núi. Trong bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, viết: "Ngày nọ, có một dị nhân, đầu đội mão rộng, thân mặc cân đai, dẫn rất nhiều người, thư thả đi vào am, bảo rằng muốn yết kiến Đại Sư. Thấy hình mạo kỳ lạ phi thường, Đại Sư hỏi:

- Lành thay! Nhân giả vì cớ gì mà đến đây?


Thần đáp:

- Đại Sư nhận ra con không?

- Ta chỉ dùng mắt bình đẳng mà quán chư Phật cùng tất cả chúng sanh, sao lại có phân biệt!

- Con vốn là thần trụ núi này, và cầm nắm sanh tử con người trong vùng. Đại Sư có nhận biết không?

- Ta vốn vô sanh, ông làm sao giết được? Thân Ta đồng với hư không, cùng đồng với thân ông. Ông có thể phá hoại hư không cùng thân của mình không? Chẳng thể được! Thân Ta bất sanh bất diệt. Ông chưa có thể làm được như thế, sao cầm nắm sanh tử của ta?

Thần cung kính cúi đầu thưa:

- Con là vị thần rất mực thông minh chánh trực, há lại không biết Đại Sư có trí huệ quảng đại sao? Nay mong cầu Đại Sư hãy truyền chánh giới, con xin lãnh thọ.

- Ông khất cầu giới, tức đã đắc giới. Tại sao? Ngoài tâm không có giới, sao cần cầu giới?

- Nghe lý này, con thật mê muội, chỉ cầu Đại Sư truyền giới để con trở thành đệ tử của Ngài.

Đại Sư lên tòa, ngồi ngay thẳng, tay cầm bình hương trầm, bảo:

- Hôm nay truyền năm giới cấm, nếu ông phụng trì được, thì đáp rằng con giữ được. Ngược lại, hãy đáp rằng không giữ được.

Thần thưa:

- Con kính cẩn thọ giáo.

- Ông có thể giữ giới cấm dâm dục được không?

- Con vẫn còn có vợ.

- Chẳng phải thế! Ta bảo là không nên tà dâm.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm ăn cắp được không?

- Con đâu có thiếu gì, sao lại đi ăn cắp?

- Không phải vậy! Hưởng thụ mà không tham lam quá độ. Không được cúng, chớ nên gieo họa cho người hiền.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm giết hại được không?

- Con đang nhậm chức phán sát, sao không thể giết hại được?

- Không phải thế! Chẳng nên lạm dụng quyền thế, giết hại người hiền.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm nói láo được không?

- Tâm con chất trực, sao lại đi nói láo?

- Không phải thế! Không nói láo tức lời nói trước sau đều hợp với tâm của trời đất.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm uống rượu được không?

- Con giữ được.

- Trên đây là những giới cấm do Phật chế. Có tâm phụng trì mà vô tâm chấp vật. Có tâm vì vật, mà vô tâm nghĩ tưởng thân. Nếu được như thế, thì lúc trời đất vừa thành lập, chẳng tinh khiết. Lúc trời đất tan hoại thì chẳng già. Biến hóa ngày đêm mà không động. Cứu cánh tịch mặc mà chẳng ngừng nghỉ. Ngộ được như thế, tuy có vợ mà chẳng phải thê thiếp. Tuy hưởng thụ, mà chẳng chấp thủ. Tuy có oai quyền mà chẳng lạm dụng uy thế. Tuy làm mà chẳng tạo. Tuy say rượu mà chẳng hôn mê. Nếu vô tâm nơi muôn vật, tuy nhiều dục mà chẳng dâm; tham lam quá độ mà không phạm tội ăn cắp; lạm quyền giết lầm người mà không phạm tội sát. Trước sau ngược với trời đất mà không vọng dối. Hôn vọng điên đảo mà chẳng say. Đó gọi là vô tâm. Vô tâm thì vô giới. Vô giới tức là vô tâm, vô Phật, vô chúng sanh, vô nhân, vô ngã, vậy thì ai là người trì giới?

- Thần thông của con thật không thể sánh bằng Phật.

- Trong mười phần thần thông, ông không thể làm được năm phần, còn Phật thì không thể làm ba phần.

Nghe thế Thần bèn quỳ xuống thưa:

- Cầu xin Đại Sư kể rõ cho con nghe.

Đại Sư hỏi:

- Ông có thể khiến mặt trời mọc ở hướng tây, lặn ở hướng đông không?

- Không thể.

- Ông có thể lấy đất năm đỉnh núi mà kết thành bốn biển không?

- Không thể.

- Phật có thể chuyển tất cả tướng không thành muôn pháp trí, mà không thể diệt định nghiệp. Phật có thể biết sự việc của chúng sanh cùng tận ức kiếp, mà không thể giáo hóa những kẻ vô duyên. Phật có thể độ vô lượng loài hữu tình mà không thể diệt tận pháp giới chúng sanh. Đó là ba việc mà Phật không thể làm được. Định nghiệp cũng không lâu. Kẻ vô duyên cũng có kỳ. Pháp giới chúng sanh vốn không tăng không giảm. Không ai có thể làm chủ tất cả pháp. Có pháp mà vô chủ, nên gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ, cũng gọi là vô tâm. Nay giải thích về Phật, Ta cũng chẳng có thần thông, chỉ dùng vô tâm mà thông đạt hết muôn pháp.

- Con thật rất ngu muội, chưa từng được nghe nghĩa không. Đại Sư truyền giới, con vâng giữ phụng hành. Ngày nay, con nguyện muốn báo đáp ân đức từ bi của Đại Sư, nên sẽ hiển hiện chút ít thần thông.

- Ta quán thân vô vật, quán pháp vô thường, sao cần cầu chi nữa?

- Nếu Đại Sư cho phép, con sẽ triển chuyển chút ít thần thông, để khiến người đã phát tâm, vừa phát tâm, chưa phát tâm, chẳng có tín tâm, đã có tín tâm, biết được có Phật, có thần có năng lực thần thông, không có năng lực thần thông, có tự nhiên, không có tự nhiên.

- Không được! Không được!

- Phật cũng sử dụng thần thông để truyền pháp, sao Đại Sư chẳng làm theo? Xin Đại Sư rũ lòng dạy bảo.

Đại Sư bất đắc dĩ bảo:

- Chùa Đông Nham có chướng ngại là cỏ dại rậm rạp mà chẳng có cây cối to lớn; đằng sau lưng chùa lại không có chỗ tựa. Ngọn núi phía bắc có rất nhiều cây cối. Ông có thể di chuyển cây cối bên hướng bắc qua đỉnh núi phía đông không?

Thần thưa:

- Xin vâng mạng! Giữa khuya, con sẽ thổi chúng đi, mong Đại Sư chớ sợ!

Nói xong, Thần liền đảnh lễ tạ từ lui ra. Tăng chúng trong chùa, vừa đưa Thần ra cửa, thì thấy có rất nhiều người, đứng hai hàng dài, đi theo hầu. Tướng Thần oai vệ uy nghi như vua chúa, xung quanh thân sương khói xông lên mù mịt, mây ngũ sắc quấn chằng chịt, trên đầu có tràng phan ngọc bội. Thần bay lên hư không rồi biến mất. Tối đến, quả nhiên mây kéo đến ùn ùn, mưa to gió lớn, sấm sét nổi lên, mái nóc đều lung lay rung động, khiến chim chóc cầm thú la hoảng. Đại Sư bảo đại chúng:

- Chớ sợ! Chớ sợ! Thần làm theo ý ta.

Sáng hôm sau, trời trong mưa tạnh; tất cả cây cối bên phía bắc đều được dời hết qua đỉnh núi phía đông, mọc tủa xum xuê khắp nơi. Đại Sư thấy thế, bảo đệ tử:

- Sau khi Ta mất, chớ kể chuyện này cho người ngoài nghe. Nếu họ biết được, sẽ cho Ta là yêu quái.

Quý vị hãy xem, thần tuy có thần thông, nhưng không bằng người có đạo đức. Thế nên bảo rằng "đức trọng quỷ thần khâm". Người không có đạo đức, bị quỷ thần quản chế, thọ bao hiểm họa. Người có đạo đức, lại muốn minh tâm kiến tánh, thì tự nhiên sẽ cảm động quỷ thần. Chư thiền sư đại đức xưa nay, tu hành kinh thiên động địa, khiến hươu nai dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Thiên ma ngoại đạo, chư tiên quỷ thần, đều đến quy y, như Chân tổ sư quy y Quán Âm, Tài Thần quy y Phổ Hiền, Động Tân tiên sư quy y Hoàng Long, Vương Linh Quang quy y Địa Tạng, vua Văn Xương quy y Phật Thích Ca, v.v... Do đó, hoàng đế Nhân Tông triều Tống viết bài kệ phú tán thán chư tăng đại đức: "Những bậc tôn quý nhất trên thế gian, không ai bằng những vị xả tục xuất gia.

Nếu được làm tăng sĩ, thì mới thọ sự cúng dường của trời người. Làm đệ tử của đấng Thế Tôn, tức là quyến thuộc của tiên thánh, vào nơi cửa vàng, đến cung điện bảo tạng. Hươu trắng dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Xuân nghe chim hót líu lo, vang tiếng diệu nhạc cơ trời. Hạ nghe ve kêu trên cây cao, liền biết mùa nóng đã đến. Thu ngắm trời xanh, gió trong trăng sao chiếu sáng. Đông xem tuyết phủ đảnh núi sông ngòi. Ngồi thiền trên bồ đoàn, thân ấm áp. Dẫu sóng ba đào nổi dậy, vẫn cỡi tích trượng thăng hư không. Mười đại quân ma khi nghe danh, vẫn phải hàng phục, quy y chánh đạo. Vang tiếng gõ bản, bèn lên vân đường lễ cúng. Nghe tiếng chuông, bèn lên chánh điện tụng kinh. Mọi việc đều như ý, muôn loại hiện thành. Lúc sống làm thầy trời người. Lúc chết quyết định quy y thánh quả. Kệ viết:

"Không Vương đệ tử Phật
Quyến thuộc chư Như Lai
Thân mặc y trăm mảnh
Miệng ăn ngàn bát cơm
Tối ngủ giường vô úy
Sáng thấy Phật A Di Đà".

Nếu Trẫm được như vậy, thì rất là mãn nguyện".

Trên đây là lời văn tán tụng chư tăng đại đức của hoàng đế Nhân Tông. Chúng ta tự hãy xem xét mình có tương ưng điểm nào với bài văn phú tán thán này không? Nếu hạnh mình đều tương hợp với lời văn trên, thì mới có thể thọ sự tôn kính của quỷ thần. Nếu "sóng ba đào khởi", như khi vô minh dấy lên, mà không thể "mở tích trượng, phóng lên hư không", khiến làm náo loạn cả trời đất, thì thật xấu hổ cùng cực. Ngược lại, nếu "mười đại ma quân" làm phiền hà, khiến chẳng được như ý, và bao việc chẳng thành tựu, mà có thể hàng phục chúng, thì trời rồng tám bộ quỷ thần đều tôn trọng cung kính.

Thiền sư Hư Vân

Phật ở đâu?

Phật ở đâu?

Đăng lúc: 08:38 - 08/07/2016

Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào: "Ôi Đức Phật yêu quí của con. "

Phật ở đâu?
Thuở xưa, có anh chàng đọc kinh nghe nói về Phật, thích lắm, quyết định đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp ra đi. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, hầm hố gian nguy hiểm trở... Chàng vẫn chưa gặp được Phật giống như hình dạng trong Kinh đã diễn tả.

"Thân Phật sắc vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chói sáng. "

Một hôm tại một sườn non, chàng trai tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, cốt cách siêu phàm, mừng quá, chàng khẩn khoản:

- Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không... Xin chỉ dùm cho con với.

Ông lão mĩm cười:

- Ồ! Chỗ nào mà không có Phật... Trên quãng đường vừa qua, chả lẽ con không gặp được Ngài ư...

- Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng phàm phu tục tử cả. Con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã mô tả về Phật cả.

Ông cụ cười ha hả:

- Cháu ngốc nghếch thật, cháu không biết rằng cái thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đó người Ấn Độ đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cúng cả rồi ư...

- Thưa, thế thì Phật chết rồi sao...

- Hiện giờ Đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tốt và xấu như chúng sinh vậy. Con có còn muốn gặp Ngài nữa không...

- Thưa, dù bất cứ với hình dáng nào, nếu đích thật là Ngài thì con vẫn vô cùng khát ngưỡng.

- Vậy thì, để ta mách nước cho con nhé... Con hãy quay về, trên đường về nếu con gặp người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái thì người đó chính là một hóa thân của Phật. Hãy thừa sự và cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã dạy.

Chàng trai hối hả quay về. Suốt quãng đường dài, chàng không gặp Đức Phật nào mà hình dạng như cụ già diễn tả. Chán nản, chàng đi luôn về nhà. Trời đã khuya, bà mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa bà mừng quá, quờ quạng tìm đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa.

Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào: "Ôi Đức Phật yêu quí của con. "

Chuyện hay

Một ngày an vui theo giáo lý nhà Phật

Một ngày an vui theo giáo lý nhà Phật

Đăng lúc: 20:52 - 27/06/2016

Với người biết tu thì tránh xa những thú vui làm khổ người, khổ mình, thay vào đó là vui với những thú vui của hạnh nghiệp lương thiện, phù hợp đạo lý, vui mà không làm phiền làm khổ ai cả.
Một ngày an vui theo giáo lý nhà Phật
Đạo Phật là đạo diệt khổ, đem vui đến cho chúng sinh.
Ví dụ như ăn chay, mỗi tháng người Phật tử ăn chay hai ngày, hoặc sáu ngày, hoặc mười ngày... Thoạt nhìn, thấy ăn chay là khổ, vì không được ăn uống tự do, phải hạn chế thức ăn, ăn không ngon miệng, mau đói...
Vui phàm, vui thánh
Song, đối với người biết tu, ăn chay được họ lấy làm vui, vì không giết hại sinh vật để bồi bổ cho xác thịt của mình. Một ngày không giết hại là một ngày không làm khổ chúng sinh. Một ngày không làm khổ chúng sinh là một ngày an vui. Cái vui của người ăn chay là cái vui tránh khổ cho loài vật, nhờ vậy mà lòng từ tăng trưởng.
Ăn chay là tránh sát sinh, không làm tổn hại sinh mạng loài vật là vui chứ không phải hôm nay là ngày chay, nhiều người kiêng ăn thịt cá nên cá thịt rẻ, ra chợ mua, nhất là mua cá đem về để mai mốt ăn cho đỡ tốn kém.
Ăn chay cốt không làm tổn hại sinh mạng chúng sinh, tránh được tội lỗi, làm được điều tốt, tiết dục không ham muốn nhiều.
Người không biết tu thì vui trên cái khổ của kẻ khác hoặc của loài vật; còn người biết tu thì vui khi tránh được điều ác, không làm tổn hại người vật, làm được việc thiện lợi mình, lợi người. Thế nên nói người tu được cái vui thoát tục, tức là vượt khỏi cái vui tầm thường của người thế gian.
Ở thế gian có những người thanh niên trẻ tuổi, sống với cái vui thoát tục xa lìa ngũ dục, ăn chay lo tu tỉnh, thì bị những người thọ hưởng ngũ dục phê bình châm biếm cho là ngu dại, không biết thụ hưởng thú vui ở đời.
Cứ nghiệm xét lại người uống rượu, hút ma túy, cờ bạc...không thấy hậu quả việc làm của mình, cứ chạy theo thị hiếu, thỏa mãn lòng tham muốn, cuối cùng tự chuốc khổ họa vào thân thì không khôn, không phải là người trí. Người trí biết cờ bạc, rượu chè, hút sách... là cái nhân đưa đến nghèo đói, bệnh hoạn, khổ đau nên tránh, tự thân không bị khổ và không làm phiền lụy cho người khác.
Trong Kinh A Hàm, Phật dạy: “Sắc, thinh, hương, vị, xúc, tất cả những pháp này khả lạc, khả hỷ, khả ý. Khi nào chúng ta hiện hữu, thế giới chư thiên xem chúng là khả lạc, khi chúng bị hoại diệt mới thấy chúng là khổ”.
Ở đây Phật dạy rằng, người đời khi được những món ngũ dục, sắc, thinh, hương, vị, xúc thì cảm thấy vừa ý cho là vui. Người trời thấy ngũ dục là vui nhưng khi chúng bị hoại diệt, tức là khi chúng mất đi thì chừng đó mới thấy khổ.
Còn bậc Thánh thấy vui, khi mình đoạn diệt được tham trước ngũ dục lạc, là cái mầm dẫn đi trong luân hồi sinh tử. Cái vui khi dứt mầm sinh tử mới là cái vui chân thật vĩnh viễn.
Cái vui của bậc thánh khác với cái vui của phàm phu; cái vui của phàm phu bậc thánh cho là khổ, cái vui của thánh nhân, phàm phu cho là khổ.
Thí dụ một tu sĩ ăn mặc đơn sơ thường tọa thiền dưới cội cây, người nhậu nhẹt ăn chơi cho rằng sống tiết chế kham khổ như thế là ngu không biết thụ hưởng thú vui của đời. Ngược lại, bậc thánh thấy người đời vui say ngũ dục ăn chơi trà đình tửu điếm, cho đó là mê mờ thiếu trí tuệ, đem lòng thương xót.
Thế nên, người đời phải khéo biết cái vui nào là cái vui chân thật trường cửu, để duy trì và gìn giữ; cái vui nào trá hình của khổ đau để tránh. Nhược bằng cứ chạy theo cái vui trá hình của khổ đau, thì vui trong chốc lát mà khổ lâu dài, sống như vậy là mê mờ thiếu trí tuệ.
Tỉnh mà vui, vui mà tỉnh
Thế những cái vui của người tỉnh là gì? Người biết tu tỉnh khi tâm hồn bình thản, thanh tịnh thì vui. Lúc ngồi dưới gốc cây, bên sườn núi, cảnh vắng vẻ, nhìn trời mây, nhìn cây cỏ hoa lá, tâm hồn thanh thản an định, cảm nhận một niềm vui tràn khắp thân tâm cảnh vật.
Người tỉnh tu khi tâm thanh tịnh, vui trên sự thanh bình của vạn vật, không làm tổn hại bất cứ loài vật nào, không tổn hại sức khỏe, cũng không hao tiền tốn của.
Lại nữa, người tỉnh tu vui khi phá được vô minh phiền não. Giả sử có người gièm pha chỉ trích, nói lời nhạo báng Phật pháp, người tu nghe qua khởi niệm bực bội, muốn nói lại cho đã giận nhưng liền khi đó tỉnh giác, biết giận là phiền não mê mờ, nói lời xúc phạm gây buồn đau cho người là tội lỗi.
Cơn giận sẽ từ từ lắng xuống, tâm được bình an, lòng vui sướng thấy mình chiến thắng được phiền não sân giận. Nếu không thắng được cơn giận thì phát ngôn bừa bãi, nói ra những lời đau đầu nhức óc, kẻ nói qua người trả lại; lúc đầu thì đấu khẩu, sau đó thì đấu tay chân... như vậy, chỉ là khổ, chẳng lợi ích gì!
Giờ đây tự phản tỉnh, thấy rõ từng tâm niệm của mình, niệm sân vừa khởi liền biết, không chạy theo nó, đó là tự thắng mình, thắng được phiền não sân giận. Thế là mình được an ổn và mối quan hệ giữa mình và người bình thường vui vẻ, không có chuyện buồn ghét xảy ra.
Thế nên nói người biết tu, vui khi thắng được phiền não, một cơn giận một niệm buồn khởi lên, liền biết dừng ngay. Cứ thế mà tu tỉnh hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm thì sự an vui cũng thường có trọn giờ, trọn ngày, trọn tháng, trọn năm... Ngược lại, hễ ai đụng tới là buồn giận, không phản tỉnh, không biết dừng thì buồn khổ mãi.
Lại nữa, người tỉnh tu vui khi làm lợi ích cho người. Ví dụ người làm việc từ thiện xã hội đem được gạo tiền, thuốc men, quần áo... đến tận vùng bão lụt, đưa tận tay cho người mắc nạn, giúp cho họ được no lòng, ấm thân... thì thấy lòng mình vui sướng, vì đã làm được điều lợi ích cho người. Người tỉnh giác càng làm lợi ích cho người, càng giúp cho người sáng ra là càng vui, niềm vui chân thật lâu dài.

Người đã phát tâm tu theo đạo Phật thì suốt đời phải tinh tấn tu hành
Gắng gỏi mà tu
Như vậy, bạn đọc nhận thấy tu là vui hay khổ? Nếu thấy tu là vui, thì hãy nỗ lực cố gắng tu, để trở về cái chân thật hằng hữu được cái vui bất tuyệt. Ở thế gian này có ai giàu có thọ hưởng ngũ dục một cách đầy đủ mà khỏi đau bệnh, già yếu, chết chóc không?
Từ ngàn xưa đến nay không ai tránh khỏi! Thế mà hưởng được cái vui giàu sang sung sướng chỉ được mấy mươi năm, chúng ta tưởng là lâu dài, rồi cứ mãi mê đuổi bắt nó. Khi nào chúng ta thoát ra khỏi cái khổ sinh tử thì mới được cái vui chân thật lâu dài.
Nếu còn ở trong sinh tử dầu có nhiều tiền lắm của rồi cũng tiêu hoại. Chỉ có người biết trở về cái chân thật, tâm hết vô minh phiền não mới thoát khỏi mọi khổ đau, được cái vui chân thật bất diệt.
Qua những dữ kiện vừa nêu, cho chúng ta thấy người đời không sáng suốt lấy cái khổ của người làm cái vui của mình; vui trên sự đau khổ của người và vật. Còn người chân chính tu hành hằng sáng suốt không bao giờ thừa nhận mình vui trên sự đau khổ của người vật, mà ngược lại lấy cái vui của mình, đem sự an vui đến cho người vật.
Tất cả chúng ta phát tâm tu là phát nguyện sống đời an vui bất tận, chẳng những trong đời này mà vĩnh viễn về sau. Muốn được như thế phải nỗ lực tu hành. Người tu hành thoạt nhìn thấy như thiệt thòi khổ sở vì không thọ hưởng những cái vui sướng của thế gian, lại khép mình trong giới điều nghiêm ngặt để tinh tiến tu hành.
Vậy, người đã phát tâm tu theo đạo Phật thì suốt đời phải tinh tấn tu hành, chứ không phải tu một thời gian rồi ngừng nghỉ không tu nữa. Nhất là người già phải nỗ lực tu nhiều hơn, vì già cái khổ tử vong gần kề, nếu không lo tu hành khi cái chết đến làm sao trở tay kịp?
Thế nên người phát tâm tu chẳng những khi còn trẻ lo tu hành mà lúc già lại phải tu nhiều hơn, như thế mới có được nguồn an vui chân thật, dứt mọi khổ đau.
Tóm lại, đạo Phật là đạo diệt khổ, đem vui đến cho chúng sinh, và chính đạo Phật là chỗ an bình, là chỗ nương tựa an vui chân thật, muôn đời của tất cả loài người…
Bình luận 0 Thích Thanh Từ

Tám nạn

Tám nạn

Đăng lúc: 20:04 - 19/06/2016

Là đệ tử Phật, được tu hành trong giáo pháp của Như Lai, đôi khi chúng ta nghĩ đó là bình thường nhưng kỳ thực, được nương tựa Tam bảo là có phước duyên lớn. Vì nếu thiếu duyên, chúng ta sẽ rơi vào tám trường hợp “không được nghe pháp, không biết tu hành”.

Tám nạn
Khi Thế Tôn thuyết pháp ở đời thì mình đang bị đày ải, trầm luân nơi địa ngục (1), ngạ quỷ (2), súc sanh (3), hoặc tiêu diêu nơi cõi trời Trường Thọ (4), hoặc sống nơi biên giới (5), hoặc sống ở trung tâm đất nước mà bị tật nguyền (6), hoặc bị tà kiến chướng ngại (7); hoặc gặp thời không có Chánh pháp (8) nên không thấy nghe Phật pháp. Rơi vào tám trường hợp ấy Thế Tôn gọi là tám nạn.

“Một thời Phật ở một nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Người phàm phu không nghe, không biết thời tiết thuyết pháp. Tỳ-kheo nên biết! Có tám thời không được nghe pháp, người không được tu hành. Thế nào là tám?

- Nếu lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi được đến Niết-bàn, là việc làm của Như Lai, nhưng chúng sanh này ở trong địa ngục, không nghe, không thấy. Đó là nạn đầu tiên.

- Lại nếu lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi, mà chúng sanh này ở trong loài súc sanh không nghe, không thấy. Đó là nạn thứ hai.

- Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi, nhưng chúng sanh này ở trong ngạ quỷ, không nghe, không thấy. Đấy là nạn thứ ba.

- Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi, nhưng chúng sanh này ở cõi trời Trường Thọ không nghe, không thấy. Đó là nạn thứ tư.

- Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi, nhưng chúng sanh này sống ở biên địa, phỉ báng Hiền Thánh, tạo các tà nghiệp. Đó là nạn thứ năm.

- Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi đến được Niết-bàn, nhưng chúng sanh này tuy sống ở trung tâm của nước, nhưng sáu căn không đầy đủ, lại cũng không phân biệt được pháp thiện ác. Đó là nạn thứ sáu.

- Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi đến được Niết-bàn, nhưng chúng sanh này tuy sống ở trung tâm của nước, sáu căn đầy đủ không có khuyết tật, mà tâm thức tà kiến; cho rằng người không thí, người không thọ, cũng không có quả báo thiện ác, không đời này, đời sau, cũng không cha mẹ, đời không có Sa-môn, Bà-la-môn v.v... có thành tựu quả A-la-hán, tự thân chứng được để tự an lạc. Đó là nạn thứ bảy.

- Lại nữa, lúc Như Lai không xuất hiện ở đời, Như Lai cũng không thuyết pháp đưa đến Niết-bàn, tuy chúng sanh này sống ở trung tâm nước, sáu căn đầy đủ, kham nhẫn thọ pháp, thông minh tài cao, nghe pháp hiểu liền, tu hành chánh kiến, biết có vật, có thí, có người thọ, có quả báo thiện ác, có đời này, đời sau, ở đời có Sa-môn, Bà-la-môn v.v... tu chánh kiến chứng được A-la-hán. Đó là nạn thứ tám, chẳng được tu hành Phạm hạnh. Này Tỳ-kheo, đó gọi là tám nạn chẳng được tu hành Phạm hạnh.

Ở đây, này Tỳ-kheo! Có một thời tiết cho người tu hành phạm hạnh. Thế nào là một? Đó là lúc Như Lai xuất hiện ở đời, rộng nói giáo pháp được đến Niết-bàn, và người này sinh ở trung tâm của nước, thế trí biện thông, thấy vật đều rõ biết, tu hành chánh kiến, cũng hay phân biệt các pháp thiện ác, biết có đời này, đời sau, đời có bậc Sa môn, Bà-la-môn tu chánh kiến chứng được A-la-hán. Đó là người phạm hạnh tu hành một pháp được Niết-bàn.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm 42, Bát nạn 1 [trích],

VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.82)

Thế mới biết, hàng đệ tử Phật chúng ta vẫn còn nhiều phước duyên. Dẫu Thế Tôn không còn ở đời nhưng Chánh pháp vẫn lưu truyền, chư Tăng Ni vẫn đang miệt mài hoằng hóa. Nếu biết phát huy chánh kiến, tin sâu nhân duyên quả, thâm tín với các bậc chân tu thành tựu giải thoát để nỗ lực thực hành giáo pháp thì chúng ta sẽ có cơ hội thành tựu phạm hạnh, đạt đến Niết-bàn.

Quảng Tánh

Thân cận thiện sĩ

Thân cận thiện sĩ

Đăng lúc: 09:51 - 08/06/2016

Thân cận thiện sĩ tức là gần gũi chúng Tăng, những bậc có nhân cách cao thượng.

Kinh Tăng nhất A-hàm có hai phẩm vinh danh người cư sĩ tại gia, đó là phẩm Thanh tín sĩ, vinh danh bốn mươi nam cư sĩ đệ nhất, và phẩm Thanh tín nữ, vinh danh ba mươi nữ cư sĩ đệ nhất. Qua đó, chúng ta thấy trong hàng đệ tử tại gia của Phật có những cư sĩ tài năng, trí tuệ, thần đức, hàng phục bọn ma, nhiếp phục ngoại đạo, thuyết pháp sâu sắc, biện tài vô ngại, sở thí rộng rãi…, đặc biệt trong số những cư sĩ được vinh danh hội đủ mọi thành phần trong xã hội, từ địa vị quân chủ cho đến hàng thứ dân. Sự vinh danh này chính là sự ấn chứng, sự thọ ký của Đức Phật về khả năng tu tập và đạt được kết quả giải thoát đối với hàng cư sĩ tại gia.

Cư sĩ tại gia là người không thoát ly gia đình, không thoát ly hình thức sinh hoạt thế gian mà thực hành những vấn đề cơ bản Phật pháp, đó là dùng tam quy ngũ giới để hoàn thành tư cách Phật tử đối với bản thân, đối với gia đình và đối với xã hội; để rồi từ đó hướng đến địa vị cao thượng là giác ngộ giải thoát. Nói cách khác, người cư sĩ sống giữa cuộc đời trần tục với đầy dẫy những ràng buộc, phiền não nhưng dùng chất liệu Phật pháp để chuyển hoá, biến cải cuộc đời, để Phật hóa gia đình, biến nhân gian thành Tịnh độ.

Kinh điển Nguyên thủy cho thấy người cư sĩ tại gia có khả năng tu tập và đạt đến quả vị thứ ba trong bốn thánh quả, tức A-na-hàm. Nhưng Phật giáo Đại thừa thì tin rằng mục đích cứu cánh của giác ngộ là quả vị Phật-đà, và người tại gia cư sĩ cũng có thể đạt đến quả vị đó bằng cách phát tâm Bồ-đề, tự lãnh trách nhiệm hộ trì Chánh pháp, gọi là tu tập Bồ-tát hạnh. Tuy nhiên, bước chân khởi đầu của người cư sĩ vẫn là sự quay về nương tựa Tam bảo để trở thành một người Phật tử.

Kinh Tăng chi nói: “Ai nguyện nương tựa Phật, Pháp, Tăng, thì người ấy được gọi là Phật tử”. Nhưng để trở thành một người Phật tử có đủ tín, giới, văn, thí xả và trí tuệ thì cần phải tăng thượng tâm bằng bốn đức tính Dự lưu chi, gồm: thân cận thiện sĩ, thính văn Chánh pháp, như lý tác ý, pháp tùy pháp hành. Chính nhờ bốn đức tính này mà người cư sĩ giữ tròn giới thể, không tạo nghiệp ác sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu.

Thân cận thiện sĩ tức là gần gũi chúng Tăng, nhưng hơn hết là gần gũi với những bậc có nhân cách cao thượng. Làm thế nào để nhận biết nhân cách cao thượng? Đó “là người không sống theo khuôn khổ phàm phu, không vướng vào Nhị thừa, tâm thường trong sáng, tán dương phạm hạnh, không làm cho người sống không giới luật”. Gần gũi, thân cận với những người có nhân cách, phẩm chất, trí tuệ cao thượng để được nghe và được học, để hiểu biết những giá trị cao thượng mà người cư sĩ tại gia dù ở bất cứ địa vị nào trong xã hội cũng không thể tìm thấy trong những thú vui ngũ dục (thính văn Chánh pháp). Những gì đã nghe, đã học cần được suy nghĩ một cách sâu sắc, chân chánh (như lý tác ý) để thể nghiệm trong đời sống hằng ngày (pháp tùy pháp hành). Đây là bốn đức tính đưa người Phật tử vào đạo, dự vào dòng Thánh.

Một khi hội đủ được bốn đức tính Dự lưu, người Phật tử sẽ Nhập lưu bằng bốn niềm tin thanh tịnh, trong sáng, không bao giờ thay đổi, gọi là Tứ bất hoại tín, hay Tứ chứng tịnh (Tứ bất hoại tịnh). Ấy là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin Thánh giới. Với bốn niềm tin này, người đệ tử Phật có thể đi vào dòng dõi của bậc Thánh, sống an vui trong từng giây phút hiện tại, do sự thấy pháp và chứng nghiệm pháp đem lại. Kinh Tạp A-hàm nói rằng, người nào thành tựu bốn pháp Bất hoại tịnh này thì muốn cầu thọ mạng lâu dài liền được thọ mạng lâu dài; muốn cầu dung sắc, sức lực, khoái lạc, biện tài, liền được một cách tự tại. Đức Thế Tôn bảo: “Thánh đệ tử nếu thành tựu được bốn Bất hoại tịnh, thì ở giữa loài người không sống cuộc sống nghèo khốn; không bị lạnh rét, xin ăn; mà tự nhiên giàu sang đầy đủ”. Kinh còn nói, dù làm Chuyển luân Thánh vương, có đầy đủ bảy báu, có bốn thần lực trong cõi người, làm vua bốn thiên hạ, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh lên cõi trời, cũng chẳng bằng một vị Tỳ-kheo mang y phấn tảo, xin ăn khắp mọi nhà, dùng ngọa cụ bằng cỏ. Vì sao vậy? Bởi Chuyển luân Thánh vương chưa đoạn trừ được cái khổ của đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, do chưa đạt được bốn Bất hoại tịnh. Còn Tỳ-kheo Thánh đệ tử đã giải thoát được cái khổ của các đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, do đã thành tựu được bốn Bất hoại tịnh.

Kinh ghi: “Dù bốn đại: đất, nước, lửa, gió có sự thay đổi tăng giảm, bốn Bất hoại tịnh này chưa từng có sự tăng giảm biến khác. Chúng không tăng giảm biến khác, cho nên đa văn Thánh đệ tử đã thành tựu được đối với Phật, mà nếu bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thì điều này không thể có được”.

Người Phật tử thành tựu được bốn niềm tin bất hoại thì được gọi là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di có đầy đủ tín, giới, văn, thí xả và trí tuệ. Kinh nói: “Người cư sĩ lấy chánh tín đối với Như Lai làm gốc, kiên cố, khó lay chuyển, mà các Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên, ma, phạm và người thế gian không ai có thể phá hoại được. Này Ma-ha-nam, đó gọi là cư sĩ có đủ tín”. Như vậy, những lợi ích có được từ sự thành tựu bốn niềm tin bất hoại là không thể nghĩ bàn, và tất cả những lợi ích ấy đều được bắt đầu từ sự thân cận thiện sĩ. Nhưng, niềm tin của người Phật tử không dừng lại ở đây, mà còn tin tưởng bản thân mình cùng tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật bằng cách hành Bồ-tát đạo, qua sự phát tâm Bồ-đề, và cũng từ sự tăng thượng tâm nhờ thân cận thiện sĩ. Kinh Bồ-tát an lạc bản nghiệp, quyển thượng nói: “Tất cả chúng sanh thuận theo Phật, nhớ nghĩ đến Phật, cũng có thể thành Phật nên gọi là Phật tử”.

‘Bởi có thể thành Phật nên gọi là Phật tử’. Đó là nhận thức cơ bản mà tất cả những ai đã, đang và sẽ tự cho mình là Phật tử cần phải ghi nhớ, bởi chính nhận thức này giúp người Phật tử đứng đúng vào địa vị và làm tròn bổn phận của mình trong ngôi nhà Phật pháp. Bổn phận của người Phật tử là hộ trì Chánh pháp, nhưng cần phải ý thức rằng cái bổn phận đó là để hoàn thành Bồ-tát hạnh của mình, để thành tựu cái quả vị Phật-đà cho chính mình, chứ không đơn giản chỉ là bảo trợ đời sống cho người xuất gia, xây dựng chùa tháp… Hẳn nhiên, như kinh Như thị ngữ đã nói: “Chúng xuất gia nhờ chúng tại gia giúp đỡ những đồ dùng như quần áo, thức ăn, chỗ ở v.v...; chúng tại gia nương chúng xuất gia mà tiếp nhận giáo pháp và phạm hạnh. Cả hai bên nương nhau tu hành theo Chánh pháp”, nhưng người Phật tử đã thành tựu tín, giới, văn, thí xả, trí tuệ thì luôn luôn nhận thức rằng, mục đích cứu cánh của người cận sự nam, cận sự nữ là đạt được giác ngộ giải thoát, mà nói theo lý tưởng của Phật giáo Đại thừa là tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh ngay trong cuộc đời trần tục của mình, chứ không phải chỉ cầu phước báo nhân thiên bằng sự hộ pháp.

Thật vậy, lý tưởng của Phật giáo Đại thừa là chuyển hóa cõi Ta-bà uế trược này thành nhân gian Tịnh độ thanh lương. Lý tưởng đó, với nhiều người, là quá lớn lao. Thế nhưng, nó không phải là điều không tưởng, mà có thể thực hiện được bằng một ít nỗ lực, với một hành vi hết sức tầm thường, như kinh Pháp hoa nói, là chỉ cần chắp tay chào ‘Nam-mô Phật’.

Chắp tay chào ‘Nam-mô Phật’, thế là đủ để quyết định sẽ thành Phật. Đây là điều bất khả tư nghì. Ấy vậy mà nó đã từng xảy ra với một người, trong một hoàn cảnh, mà đối với chúng ta bây giờ, đã trở thành một huyền thoại.

Chuyện kể rằng, một thời tại thành Tỳ-xá-li có kỹ nữ nổi tiếng tên là Ambapāli, quản lý trung tâm giải trí công viên Am-la, một tụ điểm xa hoa trụy lạc dành cho hàng vương tôn công tử quyền uy. Trong một cơ duyên hạnh ngộ, được diện kiến và nghe Đức Phật thuyết pháp, trong lòng Ambapāli chợt rung động và chuyển hóa hoàn toàn, nàng sụp lạy Đức Thế Tôn, thành kính chắp tay chào ‘Nam-mô Phật’, rồi phát nguyện trọn đời quy y Tam bảo và thọ trì năm giới.

Từ phút giây ấy trở đi, Ambapāli trở thành con người mới. Nàng đã biến cải công viên Am-la, một tụ điểm xa hoa trụy lạc thành chốn tu hành thanh nghiêm dâng cúng cho Tăng đoàn Đức Phật. Và tại đây, cũng từ giây phút ‘đổi đời’ của Ambapāli, hàng trăm công tử Ly-xa, một bộ tộc hùng mạnh đang cai trị thành Tỳ-xá-li phú cường, với áo mão cân đai, cờ phướn, xe cộ… mỗi lần đi ra không khác chư thiên tử cõi trời, cũng tìm đến công viên nhưng không phải để hưởng thụ dục lạc mà để tìm chân lý. Tất cả sự biến cải, chuyển hóa tại công viên Am-la không xứng đáng để được gọi là Tịnh hóa, Phật hóa gia đình, xã hội hay đẹp hơn là tịnh Phật quốc độ chăng?

Mọi sự thành tựu ấy đều từ việc làm: Thân cận thiện sĩ.

Nói tóm, thân cận thiện sĩ là bước chân đầu tiên người Phật tử dự vào dòng Thánh, bởi từ đó người Phật tử được nghe, được học, được thấy những phẩm chất cao thượng mà họ không thể tìm thấy ở giữa cuộc đời trần tục.
Thích Nguyên Hùng

Hàn Quốc: Chùm ảnh Đàn truyền giới cho 300 giới tử sinh viên tại Phụng Ân Tự

Hàn Quốc: Chùm ảnh Đàn truyền giới cho 300 giới tử sinh viên tại Phụng Ân Tự

Đăng lúc: 06:48 - 27/07/2015

Buổi chiều 14:00 ngày 19/07/2015, tại Tổ đình chư tôn Thiền đức Tăng già Chùa Phụng Ân, tọa lạc tại 73 Samseong-dong, quận Gangnam-gu, Tp.Seoul, Korea đã tổ chức giới đàn Truyền thụ Tam Quy Ngũ giới lần thứ 45 cho 300 sinh viên Phật tử.
Hòa thượng Wonhak, Trụ trì Tổ đình Bongeunsa (Phụng Ân Tự) Khai thị rằng:
- Này các Thiện nam, Tín nữ hãy lắng nghe: “Đời là bể khổ mênh mông không bến bờ. Nếu không có đức Thế Tôn (Phật) viên mãn công đức, Từ bi, Trí tuệ thì chúng ta chẳng biết nương vào đâu để cầu được an lạc hạnh phúc. Vậy các Thiện nam, Tín nữ muốn được an lạc hạnh phúc phải quy kính Tam bảo; muốn thoát khỏi luân hồi khổ ải thì nên thọ trì giới pháp.
Phật Pháp Tăng (Tam Bảo) là thuyền từ vượt qua bể khổ trầm luân, là ánh sáng soi đường dẫn bước trong bóng đêm mê tối, là bước chân an lạc đi đến Thiên Nhân, là bước đầu tiên của đạo quả.
Trong kinh Phật dạy rằng: “Nếu chúng sinh nào muốn cầu thoát khổ, hưởng quả an lạc hạnh phúc trọn vẹn, thì nên quy y Tam bảo; nếu ai đem tâm thanh tịnh quy kính trong giây phút thì đời đời thế nào cũng được Niết bàn an lạc.”
Quy y là gì ? Là tôn thờ, vâng theo hay quay về. Tôn thờ ngôi Tam bảo, vâng theo lời chỉ giáo và quay về với tâm thanh tịnh của chúng ta. Thầy khuyên các người trước phải nhận lãnh Tam quy, sau nên thọ trì Ngũ giới.
Tam quy là quy y với Phật, Pháp và Tăng. Phật là đấng đã giác ngộ hoàn toàn. Chúng sinh mê lầm trong bể sinh tử, không biết tự giác; đức Phật giác ngộ tất cả đều vô thường, chứng được đạo niết bàn nên gọi là Giác giả. Đức Phật trong hiện tại là đức Thích ca Mâu ni đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, là đạo sư cả ba cõi, cha lành của muôn loài, trí huệ vô lượng, phước đức cao cả!
Pháp là đạo pháp chơn chính. Nghĩa là những phương pháp Phật đã dạy, nếu ai tin tưởng tu hành sẽ được trừ hết phiền não, chứng quả yên vui thanh tịnh như Phật.
Tăng là chúng hòa hợp thanh tịnh, xuất gia đệ tử Phật, hiến đời mình cho đạo, tuân theo kinh luật mà tu trì, làm ruộng phước cho nhân thiên, làm gương lành cho muôn loài.
Tam bảo có đủ công đức như thế. Cho nên, Phật Pháp Tăng là ba ngôi quý báu nhất của thế gian và xuất thế gian. Nếu người nào phát tâm quy y thì không đọa vào ba đường dữ, luôn gặp Phật, mau chứng quả Bồ đề.
Phật tử, các ngươi đã quy y Phật rồi, từ nay phải tôn Phật làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với trời, thần, quỷ, vật vì những kẻ ấy là phàm phu còn quanh quẩn trong ba cõi, không đầy đủ trí huệ như Phật là đấng đã giải thoát vòng sinh tử của thế gian.
Quy y Pháp rồi, từ nay về sau phải tôn Pháp làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với ngoại đạo tà giáo vì những đạo pháp ấy không phải là những phương pháp xuất thế, có thể làm cho chúng ta thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi được.
Quy y Tăng rồi, từ nay về sau phải tôn Tăng làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với bè đảng xấu ác vì những người ấy không thể so với hàng đệ tử Phật đã tu chứng Tam thừa, Tứ quả.
Giờ đây các người đã chân thành quy y, sẽ được Tam bảo luôn luôn cứu hộ, hiện tại chắc chắn yên vui, tương lai sẽ được sinh về Cực lạc. Tam bảo đã có công năng như thế, các ngươi nên đêm ngày tưởng nhớ thì quyết chứng được quả bồ đề vô thượng. Vậy các ngươi hãy đọc theo thầy những lời thề nguyện:
Đệ tử đã quy y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y trời, thần, quỷ, vật.
Đệ tử đã quy y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo.
Đệ tử đã quy y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y bè đảng xấu ác.
bây giờ thầy sẽ trao cho năm giới pháp. Giới pháp này rất khó gặp, nếu Phật không ra đời thì không có. Giới pháp này đủ sức trừ sạch phiền não sanh tử và đưa chúng ta đến đạo quả Bồ đề giải thoát. Bởi lẽ ấy, giờ đây các người muốn thoát sinh tử, cầu chứng Niết bàn, nên gắng lãnh thọ giới pháp.
Lãnh giới pháp này, đàn ông thì gọi là Ưu bà tắc, đàn bà thì gọi là Ưu bà di, nghĩa là những người đã bỏ dữ làm lành, gần gũi phụng sự Tam bảo. Trong năm giới này các ngươi có thể tùy năng lực và hoàn cảnh của mình mà lãnh thọ một giới, gọi là nhất phần Ưu bà tắc (hay Ưu bà di); lãnh thọ hai giới gọi là thiểu phần; lãnh thọ ba giới gọi là bán phần; lãnh thọ bốn giới gọi là đa phần; và lãnh thọ cả Năm giới gọi là mãn phần.
Vậy, bây giờ các ngươi muốn lãnh thọ phần nào, giới nào, tùy theo hoàn cảnh và năng lực mình mà thọ lãnh. Nhưng phải nhớ: khi đã thọ lãnh giới nào thì dù gặp hoàn cảnh có thể mất tính mạng, thề quyết không hủy phạm. Vì sao thế? Vì giới pháp là thuyền bè đưa chúng ta ra khỏi bể khổ sinh tử luân hồi, thật là khó gặp mà thân mạng thì dễ mất, dầu có giữ gìn cho lắm rồi nó cũng sẽ mất; nếu không giữ giới thì thuyền bè bể rạc tất nhiên phải chìm đắm, khổ đau nhiều đời!
Bây giờ Thầy sẽ truyền trao giới pháp, giới tướng để lãnh thụ mà tu trì:
Giới Thứ Nhất:
Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện sẽ không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.
Giới Thứ Hai:
Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn.
Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.
Giới Thứ Ba:
Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con.
Con ý thức được rằng những hành động bất chánh sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.
Giới Thứ Tư:
Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải.
Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.
Giới Thứ Năm:
Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con.
Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.
Phật tử! Các ngươi được thọ giới rồi, từ nay phải khéo giữ gìn, dù gặp nhân duyên trắc trở cũng không nên hủy phạm. Nếu ai phạm những giới trên đây, hiện tại mất hết nhân cách và nền móng tốt đẹp; tương lai phải chịu nhiều kiếp đọa đày trong cảnh giới đau khổ. Các ngươi hãy cố gắng lên!”.
Giới tử thọ Tam quy, Ngũ giới xong, mỗi người đốt liều (vết sẹo) trên cánh tay để phát nguyện trọn đời gìn giữ giới pháp đã thọ, và sau đó chụp hình lưu niệm, nhận giấy Chứng nhận Quy y Tam bảo.
Một số hình ảnh Truyền thụ giới pháp, kính trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc cùng chia sẻ với Phật giáo nước bạn :

















Thích Vân Phong

Tâm ta, tâm người

Tâm ta, tâm người

Đăng lúc: 05:35 - 14/07/2015

Người xưa rất hay, nói hơi bị thừa...- “tiên trách kỷ hệu trách nhân”, đừng vội vàng chụp mũ người, hãy soi lại bản thân mình, nói kiểu bây giờ: không được chủ quan. Nhân sinh thường gặp nhau ở chỗ: nhìn người thì rõ, nhìn mình thì...không rõ, thấy lỗi người thì dễ, lỗi ta thì…Đặc điểm này phổ biến lắm. Tâm ta tâm người có sự sai biệt là chuyện thường tình.
Tôi “mê” nữ Nhà văn nọ từ lúc cô chập chững bước chân lên văn đàn với những tác phẩm nhỏ đầu tay. Dõi theo ngòi bút nữ nhân tài hoa ấy, đến khi cô viết được chừng ..vài chục đầu sách, thì gặp.

Trong một dịp tình cờ, bắt tay người nữ thâm trầm, trẻ tuổi, có đôi mắt tinh anh, tôi ngỡ ngàng biết đấy là thần tượng của mình, nữ văn sĩ X. Vài câu nói xã giao. Lần thứ hai gặp trong một dịp, cũng tình cờ, nhận ra nhau, tôi chủ động chào và được “thưởng” một nụ cười biết nói. Và, với riêng tôi, như thế đã là...trực quan sinh động lắm rồi, sau khi đã đọc không sót đầu sách nào của cô văn sĩ ấy, thêm cả những sáng tác mới chỉ được giới thiệu trên báo. Văn chương, tâm hồn, nhân dáng nữ nhân tài hoa ấy, với tôi, rất hài hòa, mười phân ít ra vẹn…chín. Nếu cô ấy lập một câu lạc bộ những người hâm mộ ắt tên tôi ở hàng đầu vì sự ngưỡng mộ. Nhưng đấy chỉ là tâm tôi thôi.


Gáo nước lạnh đầu tiên tôi nhận được khi giao lưu văn nghệ tại một tòa soạn lớn, anh bạn biên tập là con mọt sách thứ thiệt đã không hề tế nhị (mà chắc chi anh biết tôi là fan của cô văn sĩ nọ?), nói thẳng: Bà đó viết không hay! Tôi bị sốc nặng, nín thinh. Bắt đầu có những suy nghĩ “tại sao” … Chú gần nhà, học ít song mê văn, mượn sách của tôi (tác phẩm của cô văn sĩ nọ) đọc miết, rồi buông một câu còn đau hơn: tao thấy cũng thường thôi! Chẳng thà chú đánh tôi còn dễ chịu hơn. Chưa hết đâu, lần nọ đi mua thuốc tây ở hiệu dược quen, cô dược sĩ trẻ măng mang kính trắng, đang lúc rảnh rỗi, bắt chuyện văn chương với tôi, và khi nghe tôi nhắc đến thần tượng, nữ văn sĩ X, cô gái xinh đẹp ấy đã đánh đòn đau điếng: nhà văn X là ai? Trời ạ, sao lại thế?

Bây giờ tôi ngộ rồi: cuộc sống là tập hợp những cá thể rất khác nhau, sự sai biệt tư tưởng là được nhiên, không có gì lạ. chẳng riêng gì chuyện văn chương, món rất chi trừu tượng, sự khác biệt thấy ở mọi nơi mọi lúc với đủ các đối tượng: chính trị, văn hóa, thể thao, ẩm thực… Người ta tranh luận, cãi vã, bất đồng...xoay quanh nhận thức về một đối bóng, một khuynh hướng, một giọng ca…

Có những cuộc tranh luận bất phân thắng bại vì chẳng ai chịu ai, song cũng có những khác biệt dung hòa giải quyết được do người trong cuộc nhận ra khác biệt là bình thường, và đấy rất hay, theo tôi, chính vũ trụ cũng tồn tại hài hòa trong sự khác biệt cơ mà?

Điều gì sẽ xảy ra khi tất cả độc giả đều chỉ thích đúng một nhà văn duy nhất, hay một giọng ca? Các quán ăn phục vụ độc vị mỗi một món? Chán lắm… Vũ trụ mênh mông bao la với các hành tinh chuyển động với quỹ đạo khác nhau, cấu tạo hành tình cũng khác, và các vệ tinh quay quanh cũng chẳng giống nhau.

Những sự khác biệt ấy tồn tại trong trật tự hài hòa, chân phương, tuyệt mỹ, và nhờ đấy sự sống trên trái đất có nắng ấm, tuyết rơi, bốn mùa xuân hạ thu đông nhịp nhàng.

Trật tự ấy là hoàn mãn đến mức không ai ngốc đến mức đồ bỏ bớt chi tiết này hay chi tiết khác, cũng như bộ máy chiếc đồng hồ tự động, xê dịch một tí sự đo thời gian bị hỏng ngay. Tập hợp các khác biệt hợp thành sự hoàn mỹ.

Tâm ta khác tâm người do căn cơ và sự huân tập khác nhau, lòng từ, bi, hỉ, xả..sẽ dung hợp được sự khác biệt thay vì sân si từng câu nói, từng ánh mắt.

Sự thấy biết khác nhau là thường tình do duyên nghiệp và phước báu riêng. Đức Phật giác ngộ mỹ mãn mới thấu suốt lẽ thật, chúng ta phàm phu nhìn nhận sự vật hiện tượng tương đối là chuyện có gì phải bàn? Như mặt nước phản chiếu mây bay, trong thêm một chút, mây càng rõ, cố lắng lọc tâm ta cho thấu suốt sự thu cảm sẽ trong sáng hơn, ngày hôm nay thấy tốt hơn hôm qua, ngày mai lại tốt hơn nữa, rồi có ngày sẽ có diễm phúc thấy được lẽ thật, sự thật rốt ráo.

Tôi có duyên nghiệp gì đấy với nhà văn nọ, và rất nhiều người cũng đồng nghiệp như tôi, tìm thấy ở con chữ của cô cái hay cái đẹp, nói thay hồn mình.

Nhưng cũng phải thừa nhận cuộc sống mênh mông, nếu có người không chung nghiệp với ta, thấy con chữ nhà văn ấy lấn cấn chỗ nào đó, không mê, cũng nên cho là thường, đành rằng cũng lao xao buồn, việc gì phải một sống một chết “bảo vệ” nhà văn ấy, thực ra, dưới góc nhìn của đức Phật, - đấy là bảo vệ cái tâm ích kỷ của ta mà thôi, thỏa mãn tâm lý “cái gì mình cũng đúng”.

Rồi đến khi ngộ ra, biết rằng chính tâm ta cũng giả nốt, có đâu mà chấp.

Vậy thôi.

Nguyễn Thành CôngNgười xưa rất hay, nói hơi bị thừa...- “tiên trách kỷ hệu trách nhân”, đừng vội vàng chụp mũ người, hãy soi lại bản thân mình, nói kiểu bây giờ: không được chủ quan. Nhân sinh thường gặp nhau ở chỗ: nhìn người thì rõ, nhìn mình thì...không rõ, thấy lỗi người thì dễ, lỗi ta thì…Đặc điểm này phổ biến lắm. Tâm ta tâm người có sự sai biệt là chuyện thường tình.
Tôi “mê” nữ Nhà văn nọ từ lúc cô chập chững bước chân lên văn đàn với những tác phẩm nhỏ đầu tay. Dõi theo ngòi bút nữ nhân tài hoa ấy, đến khi cô viết được chừng ..vài chục đầu sách, thì gặp.

Trong một dịp tình cờ, bắt tay người nữ thâm trầm, trẻ tuổi, có đôi mắt tinh anh, tôi ngỡ ngàng biết đấy là thần tượng của mình, nữ văn sĩ X. Vài câu nói xã giao. Lần thứ hai gặp trong một dịp, cũng tình cờ, nhận ra nhau, tôi chủ động chào và được “thưởng” một nụ cười biết nói. Và, với riêng tôi, như thế đã là...trực quan sinh động lắm rồi, sau khi đã đọc không sót đầu sách nào của cô văn sĩ ấy, thêm cả những sáng tác mới chỉ được giới thiệu trên báo. Văn chương, tâm hồn, nhân dáng nữ nhân tài hoa ấy, với tôi, rất hài hòa, mười phân ít ra vẹn…chín. Nếu cô ấy lập một câu lạc bộ những người hâm mộ ắt tên tôi ở hàng đầu vì sự ngưỡng mộ. Nhưng đấy chỉ là tâm tôi thôi.


Gáo nước lạnh đầu tiên tôi nhận được khi giao lưu văn nghệ tại một tòa soạn lớn, anh bạn biên tập là con mọt sách thứ thiệt đã không hề tế nhị (mà chắc chi anh biết tôi là fan của cô văn sĩ nọ?), nói thẳng: Bà đó viết không hay! Tôi bị sốc nặng, nín thinh. Bắt đầu có những suy nghĩ “tại sao” … Chú gần nhà, học ít song mê văn, mượn sách của tôi (tác phẩm của cô văn sĩ nọ) đọc miết, rồi buông một câu còn đau hơn: tao thấy cũng thường thôi! Chẳng thà chú đánh tôi còn dễ chịu hơn. Chưa hết đâu, lần nọ đi mua thuốc tây ở hiệu dược quen, cô dược sĩ trẻ măng mang kính trắng, đang lúc rảnh rỗi, bắt chuyện văn chương với tôi, và khi nghe tôi nhắc đến thần tượng, nữ văn sĩ X, cô gái xinh đẹp ấy đã đánh đòn đau điếng: nhà văn X là ai? Trời ạ, sao lại thế?

Bây giờ tôi ngộ rồi: cuộc sống là tập hợp những cá thể rất khác nhau, sự sai biệt tư tưởng là được nhiên, không có gì lạ. chẳng riêng gì chuyện văn chương, món rất chi trừu tượng, sự khác biệt thấy ở mọi nơi mọi lúc với đủ các đối tượng: chính trị, văn hóa, thể thao, ẩm thực… Người ta tranh luận, cãi vã, bất đồng...xoay quanh nhận thức về một đối bóng, một khuynh hướng, một giọng ca…

Có những cuộc tranh luận bất phân thắng bại vì chẳng ai chịu ai, song cũng có những khác biệt dung hòa giải quyết được do người trong cuộc nhận ra khác biệt là bình thường, và đấy rất hay, theo tôi, chính vũ trụ cũng tồn tại hài hòa trong sự khác biệt cơ mà?

Điều gì sẽ xảy ra khi tất cả độc giả đều chỉ thích đúng một nhà văn duy nhất, hay một giọng ca? Các quán ăn phục vụ độc vị mỗi một món? Chán lắm… Vũ trụ mênh mông bao la với các hành tinh chuyển động với quỹ đạo khác nhau, cấu tạo hành tình cũng khác, và các vệ tinh quay quanh cũng chẳng giống nhau.

Những sự khác biệt ấy tồn tại trong trật tự hài hòa, chân phương, tuyệt mỹ, và nhờ đấy sự sống trên trái đất có nắng ấm, tuyết rơi, bốn mùa xuân hạ thu đông nhịp nhàng.

Trật tự ấy là hoàn mãn đến mức không ai ngốc đến mức đồ bỏ bớt chi tiết này hay chi tiết khác, cũng như bộ máy chiếc đồng hồ tự động, xê dịch một tí sự đo thời gian bị hỏng ngay. Tập hợp các khác biệt hợp thành sự hoàn mỹ.

Tâm ta khác tâm người do căn cơ và sự huân tập khác nhau, lòng từ, bi, hỉ, xả..sẽ dung hợp được sự khác biệt thay vì sân si từng câu nói, từng ánh mắt.

Sự thấy biết khác nhau là thường tình do duyên nghiệp và phước báu riêng. Đức Phật giác ngộ mỹ mãn mới thấu suốt lẽ thật, chúng ta phàm phu nhìn nhận sự vật hiện tượng tương đối là chuyện có gì phải bàn? Như mặt nước phản chiếu mây bay, trong thêm một chút, mây càng rõ, cố lắng lọc tâm ta cho thấu suốt sự thu cảm sẽ trong sáng hơn, ngày hôm nay thấy tốt hơn hôm qua, ngày mai lại tốt hơn nữa, rồi có ngày sẽ có diễm phúc thấy được lẽ thật, sự thật rốt ráo.

Tôi có duyên nghiệp gì đấy với nhà văn nọ, và rất nhiều người cũng đồng nghiệp như tôi, tìm thấy ở con chữ của cô cái hay cái đẹp, nói thay hồn mình.

Nhưng cũng phải thừa nhận cuộc sống mênh mông, nếu có người không chung nghiệp với ta, thấy con chữ nhà văn ấy lấn cấn chỗ nào đó, không mê, cũng nên cho là thường, đành rằng cũng lao xao buồn, việc gì phải một sống một chết “bảo vệ” nhà văn ấy, thực ra, dưới góc nhìn của đức Phật, - đấy là bảo vệ cái tâm ích kỷ của ta mà thôi, thỏa mãn tâm lý “cái gì mình cũng đúng”.

Rồi đến khi ngộ ra, biết rằng chính tâm ta cũng giả nốt, có đâu mà chấp.

Vậy thôi.

Nguyễn Thành Công

Phải đoạn tuyệt phiền não thị phi

Phải đoạn tuyệt phiền não thị phi

Đăng lúc: 09:39 - 05/06/2015

Hàng phàm phu vì chưa chứng vào chân tâm bình đẳng, và còn ranh giới giữa Ta và Người, nên trong đời sống, sự hơn thua phải quấy, khen chê có đến muôn ngàn, và không ai tránh khỏi. Dù cho chư Phật, chư Bồ Tát vì lòng đại bi mà thị hiện giữa cõi trần để độ
Hàng phàm phu vì chưa chứng vào chân tâm bình đẳng, và còn ranh giới giữa Ta và Người, nên trong đời sống, sự hơn thua phải quấy, khen chê có đến muôn ngàn, và không ai tránh khỏi. Dù cho chư Phật, chư Bồ Tát vì lòng đại bi mà thị hiện giữa cõi trần để độ sinh, cũng phải chịu cảnh thị phi, thương ghét.




Những sự thị phi làm cho người niệm Phật, nếu không sáng suốt, bình tỉnh, nhiều khi phải xao động mà phát sinh phiền não, gây chướng ngại cho việc hành trì.


Nếu chúng ta muốn dứt tâm thị phi, cần phải:

1. Phải xét lỗi mình, đừng nói lỗi người. Là phàm phu, ai cũng thích lời khen, ghét tiếng chê, và ưa bươi móc điều dở của người, không dè mình cũng nhiều lỗi lầm, chẳng có chi là tốt đẹp cả. Cho nên nguyên tắc của người niệm Phật là phải luôn luôn tự phản tỉnh, xét sửa lấy mình, đừng nên nhìn và nói đến lỗi lầm của người khác. Xét sửa lỗi lầm của mình sẽ giúp cho mình càng ngày càng sáng. Còn nhìn nói lỗi người tất càng thêm oan trái.

2. Khi bị sự thị phi khinh báng, nên an nhẫn mà niệm Phật nhiều hơn, chứ đừng tìm cách biện minh. Ví như tờ giấy trắng bị vết mực làm lem, thì ta cứ để yên, nó chỉ dơ một chút đó rồi lần lần phai nhạt, nếu lấy tay lau chùi tất sẽ hoan ố toàn diện. Bởi khi việc khinh báng xẩy ra, nếu hiện tại mình không sai quấy, tất kiếp trước cũng lỗi lầm, nên đời nay phải chịu quả báo. Giả sử kiếp trước mình không có biệt nghiệp trực tiếp gây nên lỗi lầm, thì cũng do cộng nghiệp tội ác, mới cùng sinh ra trong chốn ngũ trược này.

3. Người niệm Phật phải giữ vững lập trường, tin chắc nhân quả và đừng xao động vì tiếng hay, dở bên ngoài. Kinh Pháp Cú dạy:

_ " Ngọn núi cao đứng vững giữa cơn giông tố
Người chân chính an nhiên giữa tiếng thị phi".

Những tiếng khen, chê bên ngoài không làm cho ta tốt hay xấu, siêu hay đọa. Mà tốt, xấu, siêu, đọa đều do nơi ta. Nếu ta gây nhân tố lành, thì dù người có khinh là xấu xa, tội ác, nhưng ta vẫn được siêu thăng. Trái lại, nếu ta gây nhân tố xấu ác thì tuy người khác quý trọng, ngợi khen, nhưng ta vẫn phải chịu đọa lạc.

Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng:

" Nếu là bậc chân tu
Không thấy lỗi của đời
Nếu như thấy lỗi người
Mình chê là kém dở
Người quấy, ta đừng quấy
Ta chê, tự có lỗi
Muốn phá tan phiền não
Hãy trừ tâm thị phi
Thương ghét chẳng để lòng
Nằm thẳng đôi chân nghỉ".

HT. Thích Thiền Tâm

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 11
  • Hôm nay 3,784
  • Tháng hiện tại 61,169
  • Tổng lượt truy cập 23,467,418