Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Trụ Trì rồi !!!

Trụ Trì rồi !!!

Đăng lúc: 09:14 - 26/01/2018

Một người bình thường ngoài đời cứ học hành xong, có công việc, tự lo cho bản thân được rồi, bắt đầu kết hôn, có gia đình. Người ta nói là đã trưởng thành.
Còn người tu, cũng vẫn học, tùy theo khả năng mỗi người mà học. Có người thì học mỗi Trung cấp Phật học, xong rồi thôi, coi như có vốn kiến thức tạm đủ về mà tu, hay là xác định học xong về ở với Thầy tổ, không cần trụ trì, nên học nhiều cũng không làm gì.

Cũng có người học lên Đại học, xác định học xong phải đi trụ trì một ngôi chùa nào đó, rồi hoằng pháp, dạy học, tiếp Tăng độ chúng.

Cũng có người học lên Thạc sĩ, có thêm kiến thức, ít ra giá trị cũng nằm ở cái bằng so với mặt bằng chung dừng ở mức độ Đại học. Để có thể làm giáo thọ của một trường Phật học nào đấy, làm giảng sư, cũng để có vị trí nhất định trong Giáo Hội tiếp tục kế thừa những vị lãnh đạo trước.

Cũng có người lên tới Tiến sĩ, học về trụ trì một lần hai-ba cái ngôi chùa, đi giảng chỗ này chỗ kia, tổ chức khóa tu này khóa tu nọ, có vị trí đáng nể trong đội ngũ lãnh đạo Giáo Hội.

Nhưng rồi học tới đâu đi chăng nữa cũng tùy vào trình độ, hay đơn giản là nhu cầu của địa phương sinh hoạt. Quan trọng nhất, cũng là tu kiểu gì.
FB IMG 1515400368457
Vậy đó. Người tu đủ tuổi thọ Đại giới xong, học hành cũng mãn, về lại chùa xưa, Thầy Tổ hay Giáo Hội giao cho ngôi chùa nào đó về trụ trì, tự lập. Bắt đầu sứ mạng tuyên dương chánh pháp… người ta mới gọi là trưởng thành.

Ở trường Trung cấp Huế, tôi ở cùng phòng với một sư huynh người Hà Tĩnh, mới thọ Đại Giới năm ngoái, đang học Học viện năm thứ III. Thọ giới về xong, sư phụ giao cho cái chùa ngoài Hà Tĩnh, chùa quê, nhưng ấm áp.

Thật sự ở cùng liêu nhưng tôi với thầy ấy chẳng nói chuyện nhiều là mấy, ngoài mấy câu hỏi đáp bâng quơ, nhưng chắc cũng cả mấy ngày mới hỏi, có lẽ là không hợp cho lắm. Vậy mà cũng chung liêu được gần 4 năm rồi. Nghĩ lại thấy cái duyên nó ngộ.

Cứ mỗi tuần học xong, thầy ấy lại tất bật chạy về Hà Tĩnh, phần lo cho chùa, cửa nẻo ra sao, mùa mưa bão nước có tạt không, bà con tu tập kiểu gì. Mỗi tuần trước ngày về, lại lỉnh kỉnh đi mua một mớ đồ, sắm cho chùa từng chút, cái chuông, cái mõ, ông Phật… đủ thứ.

Tháng nữa chuẩn bị Tết, thầy đi in lịch, tặng bà con trong làng cho vui. Tết người ta vào nhà chúc Tết, thấy cái lịch trên tường có tên nhà chùa tặng, cũng nở mày nở mặt.

In lịch xong, lấy về. Thầy ấy mở ra coi, săm soi từng tờ, lật lật, nâng niu như sợ nó rơi số ra ngoài. Đếm, rồi lại lật. Tôi ngồi bên giường, thầy ấy không nói, nhưng chắc là thầy vui lắm.

Vui vì lần đầu tiên mình đi tặng lịch Tết. Lần đầu tiên cho người ta cái thứ mà hồi nhỏ cứ nghĩ là phải làm gì ghê gớm lắm mới có lịch đem đi tặng.

Vui vì trên tờ lịch đó in tên chùa mình, mặc dù hổng phải tên mình, nhưng cũng vui, bởi chùa đó, mình trụ trì chớ ai.

Vui vì rồi cũng có ngày đường đường chính chính cầm tờ lịch trên tay đi tặng bà con, bạn bè với danh xưng ông trụ trì. Nhất là, về nhà đưa mẹ, con trai mẹ làm trụ trì rồi. Mẹ cầm tờ lịch, tay rờ rờ trên cái tên chùa, hổng có quà Tết năm nào mẹ vui như năm nay.

Nghĩ cũng lạ, trụ trì rồi, người ta cứ tất bật, nhưng cũng hay vui, vui từ mấy cái nhỏ nhất.

Trụ trì rồi, không còn là công tử ở với sư phụ nữa. Bắt đầu tung cánh, bay đi, bay đến nơi nào cần. Đi mà ban rải chánh pháp. Cũng đồng nghĩa với việc không còn nhõng nhẽo với sư phụ nữa, bây giờ có gì phải tự lo, tự xử với bất trắc của cuộc đời.

Trụ trì rồi, nghĩa là thời gian dành cho sư phụ cũng ít đi. Phải lo cho Phật tử riêng, trăn trở với việc chùa. Nghĩa là bữa cơm với sư phụ cũng ít dần, lâu lâu cũng chỉ là bữa cơm hội ngộ ngày có giỗ. Nghĩa là không còn nói chuyện tâm sự nhiều với sư phụ, vài ba bữa một cú điện thoại xa, hỏi thầy có khỏe không, thầy ăn cơm có ngon miệng không, huynh đệ ở chùa có làm thầy vui không, hay lâu rồi con không về thầy có buồn không. Rồi cũng có những cuộc điện thoại ngây thơ về sư phụ, đòi chỉ cách xử lý mấy việc không tên mà ngày xưa, sư phụ làm có bao giờ chịu hỏi.

Trụ trì rồi, tự nhiên nhiều lúc thấy nhớ chùa xưa da diết. Nhớ tiếng mõ lốc cốc của chúng điệu chiều công phu, nhớ tiếng hồng chung giật mình ngáy ngủ lúc 4 giờ sáng. Nhớ cái nhà bếp thầy trò ngồi ăn cơm mà rôm rả, cũng nhớ luôn cái ghế ngồi bao nhiêu năm trời muốn chai đít, hổng biết mình đi rồi, đứa nào ngồi chỗ đó. Cũng nhớ luôn bà nhà bếp nấu ăn, vui thì cười ha hả, buồn thì bỏ muối cho đậm đà món ăn. Nhớ mấy cái la rầy của ông sư phụ, mà không biết, sư phụ cả đống chuyện phải lo. Nhớ cây chôm chôm sau hè, bữa có trái cả chùa cứ quấn quanh khen chê đủ kiểu, bây giờ hổng biết mùa này chôm chôm có ngọt hông. Vậy đó, đêm về nằm trong căn phòng mới, tự nhiên bao nhiêu kỷ niệm ùa về, chảy nước mắt, tự nhiên thèm nhỏ miết, đừng có lớn để đi trụ trì, xa chi rồi nhớ…

Trụ trì rồi, là bao nhiêu việc phải lo, toàn là mấy việc trước giờ thấy sư phụ làm tưởng dễ lắm, bây giờ một chút thôi cũng mệt, tự nhiên thấy thương sư phụ quá chừng.

Trụ trì rồi, có Phật tử riêng, bắt đầu dạy bảo, hướng dẫn đủ điều, mới thấy chúng sanh khó độ, tự nhiên thấy hối hận ngày xưa thấy Phật tử chùa người ta, cứ bảo Phật tử chùa đó gì kỳ vậy.

Trụ trì rồi, được người ta gọi làm sư phụ. Mới biết gọi thì dễ mà làm hông có dễ, sư phụ thì phải đàng hoàng, sư phụ thì phải nghiêm khắc, sư phụ thì phải quan tâm, sư phụ thì thương nhưng vẫn đánh, tự nhiên thấy từ sư phụ sao thiêng liêng quá, ngẫm lại thấy sư phụ mình ghê thiệt.

Trụ trì rồi, bắt đầu gánh những điều tiếng, lời ra tiếng vào, thị phi dư luận đủ trò. Lần đầu mới thấy bị tổn thương, mới biết cảnh làm dâu trăm họ, mới hiểu thế nào là ức chế. Bây giờ mới hiểu chữ Nhẫn ngày xưa thầy dạy.

Trụ trì rồi, là có đệ tử, bắt đầu có con rồi. Mới biết có con mệt ra sao, trời lạnh không biết nó lạnh không, lặng lẽ tạt qua phòng kéo chăn lên cho nó, thấy nó ăn cơm ít, tưởng bệnh, đem dĩa mãn cầu mới hái xuống cho nó, kêu thầy không thích ăn mấy cái này. Làm thầy mới biết thấy nó hư, phải đánh, phải la, mà trong lòng đau như đứt. Làm thầy rồi là tập không biết khen, nó làm gì cũng chê, để dạy nó đừng kiêu ngạo nghe con… làm thầy rồi mới biết, ngày xưa hiểu lầm sư phụ đủ thứ, tự nhiên thèm chạy về ôm thầy quá chừng.

Trụ trì rồi, Tết không còn cảnh huynh đệ quầy quanh sư phụ xin lì xì, không nghe sư phụ chúc từng đứa nữa mà đổi lại năm nay, mình phải chuẩn bị tiền đặng lì xì người ta, xung quanh toàn mấy gương mặt mới, lạ nhưng ấm áp, có cái gì đó vui trong lòng.

Trụ trì rồi, có tiền hơn rồi, nhưng không phải để mua quyển sách ngày xưa thích đọc, hay may bộ đồ màu mới. Mà lại đi sắm đồ để ở chùa, mua cái chén cho Phật tử về ăn cơm, sắm cái mền cho người ta đắp, hay bắt thêm mấy bóng đèn ngoài sân sợ tối về tụng kinh họ hổng thấy đường.

Trụ trì rồi, hình như mắt sáng hơn. Cái lá rụng sau cửa chùa cũng thấy, vết bụi nhỏ trên tượng Phật trong chánh điện cũng thấy, cây chổi quét nhà gãy cán nhét vội sau vườn cũng thấy, kể cả trái ổi nâng niu mấy ngày trời chờ ngày thơm để hái mà chiều nay đâu mất tiêu… thấy rồi lại tự tay mà làm, tự cầm cây chổi quét cái lá, thấy nhớ cái thời làm điệu ngày xưa, tự nhiên thương cái chùa mình vô cùng, như bản thân mình vậy, dơ một chút, chịu không nổi.

Lạ vậy đó.

Trụ trì rồi tự nhiên con người ta khác đi, thấy mình trưởng thành hơn, biết nhẫn, biết đau, biết tổn thương, biết ngã, biết tự đứng lên… nghĩ cũng lạ.

Nói gì nói, tôi viết bài này cũng chưa làm trụ trì, thấy sao kể vậy. Nhưng viết xong rồi mới thấy mình may mắn, bởi chưa có trụ trì, để có thời gian trân trọng những thứ đó hơn, để sau này không phải tiếc nuối, ngồi trước cổng chùa cầm cái nón ngó về chùa xưa, chảy nước mắt mới giật mình, trụ trì rồi…
Tác giả bài viết: Mộc Trầm

Chùa Đức Hậu - Nghi Đức - Tp Vinh tổ chức Đêm thắp nến cầu nguyện cho các hương linh thai nhi.

Chùa Đức Hậu - Nghi Đức - Tp Vinh tổ chức Đêm thắp nến cầu nguyện cho các hương linh thai nhi.

Đăng lúc: 00:10 - 04/06/2017

Tối ngày 2/6/2017 tức ngày 8/5/Đinh Dậu, đêm thắp nến cầu nguyện hương linh thai nhi do Đại Đức Thích Định Tuệ - trụ trì Chùa Phúc Thành, Chùa Đức Hậu tổ chức. Cùng sự tham gia của Chư Tôn Đức Tăng Ni trong và ngoài tỉnh và hàng nghìn phật tử gần xa.




Dưới sự điều hành chương trình của Đại Đức Thích Định Tuệ buổi lễ trở nên linh thiêng huyền diệu hàng ngàn ngọn nến lung linh huyền diệu được thắp lên tại Chùa Đức Hậu, Nghi Đức, tỉnh Nghệ An, sau một ngày các vong hồn được nghe kinh siêu độ của Chư Đại Đức Tăng thiết lập Đàn tràng cầu siêu cho các Thai nhi bất hạnh. Thật cảm động, ngôn ngữ cũng không diễn tả hết được bằng lời cho niềm xúc cảm của những ai tham dự đêm thắp nến cầu nguyện tại đây.. Những lời sám hối của những người làm cha làm mẹ thốt ra trong buổi lễ cầu nguyện khi hàng ngàn ngọn nến được Chư Tôn thiền đức Tăng thắp lên và ngọn đăng được truyền ra khắp Đại chúng có mặt trong đêm nguyện cầu này, tựa như ánh sáng vi diệu của Phật Pháp lan tỏa trong màn đêm u tối, xóa tan hết hắc ám vô minh sau bao đêm trường mờ mịt ở những phương trời vô định để cho những vong hồn có chốn để quay về nương tựa.. bầu không khí như trầm xuống, tất cả mọi người ngồi lặng yên và cảm nhận từng lời nói, tâm tư tình cảm từ tiếng lòng của thai nhi. Những tiếng nấc nghẹn ngào, những giọt nước mắt đã chảy xuống thay cho lời sám hối, ăn năn của các bậc làm cha làm mẹ. Để tháo gỡ và chuyển hóa nỗi khổ niềm đau ấy, hội chúng đã được lắng nghe những lời khai thị của ĐĐ.Thích Định Tuệ. Trên tình thần Nhân Quả của đạo Phật thì việc nạo phá thai là một tội ác, gây nên oan gia nghiệp chướng sâu dày. Nhưng với tâm hối cải, biết phát nguyện chừa bỏ, không tái phạm và thành tâm sám hối thì nghiệp chướng có thể chuyển hóa và mang lại những lợi ích cho cả người sống và người mất. Chính vì vậy , với tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật, pháp hội này còn mang một ý nghĩa là hướng đến cách giáo dục mọi người trong việc ý thức bảo vệ sự sống, tránh đi sự suy giảm đạo đức hiện đang diễn ra trong xã hội hôm nay.




Hi vọng rằng những ánh nến tỏa sáng sẽ tương thông kết nối cảm xúc của người còn sống với người đã mất. Ánh sáng của những ngọn nến sẽ làm tan chảy sự vô cảm ,thờ ơ của những người cha người mẹ, giúp họ nhận ra sai lầm của mình. Ánh nến không chỉ là biểu tượng cho tình yêu thương ấm áp mà nó còn mang thông điệp của sự sống lan tỏa, sẻ chia.


Và cứ thế, những tiếng niệm Phật cứ tiếp nối vang lên trong không gian của ngôi Chùa cùng ánh nến lung linh đến tận cùng sâu thẳm đã để lại trong tâm của mội người một cảm xúc sâu lắng, khó quên.

Sau đây là một số hình ảnh:

















































































































Tác giả bài viết: Hồng Nga

Tâm linh thấy bằng trái tim

Tâm linh thấy bằng trái tim

Đăng lúc: 20:41 - 04/02/2017

Mạch ngầm tâm linh cứ thế mà chảy âm ỉ trong đời sống. Dòng năng lượng ấy chưa bao giờ ngưng lại, thậm chí đang ngày một mạnh mẽ hơn, khi mà con người đang tiến dần vào một thời đại của mâu thuẫn đỉnh cao giữa giá trị vật chất và tinh thần. Nhưng tâm linh không phải là điều gì đó huyền bí, mê tín dẫn dắt con người đi sâu vào bóng tối mê man, mà đó là những điều ta tin bằng trái tim. Những linh cảm đẹp đẽ đến từ tâm hồn, cuối cùng, sẽ có vị trí xứng đáng trong mọi hình thức của sự sống.

shutterstock_518429221.jpg
Thực hành đời sống tâm linh càng nhiều, ta dễ dàng an tâm
đón nhận những vô thường bất tận của cuộc đời

Khó có thể định nghĩa hoặc diễn tả đầy đủ về hai từ tâm linh, vốn là thế giới của mơ hồ vô hình dạng. Thế giới ấy có mà không, không mà có. Không thấy bằng con mắt vật lý nhưng có thể cảm nhận rất gần và mạnh mẽ bằng mọi giác quan và vượt ra khỏi con người vật chất. Như Saint Exupery viết trong Hoàng tử bé (Le Petit Prince): “On ne voit bien qu'avec le cœur. L'essentiel est invisible pour les yeux”. Giữa nhiều bản dịch với lời lẽ hoa mỹ, thậm chí đi hơi xa so với bản gốc tiếng Pháp, tôi thích bản dịch đơn sơ và sát nghĩa của Bùi Giáng tiên sinh: “Người ta chỉ nhìn thấy rõ là với trái tim. Các cốt thiết, cái tinh thể, cái đó vô hình đối với hai con mắt".
Linh cảm bằng trái tim

Trái tim ở đây không chỉ là con tim nằm hơi lệch qua phía ngực trái, có một sợi dây thần kinh dẫn trực tiếp kết nối đến ngón đeo nhẫn, mà nó còn là tâm hồn. Tâm và hồn. Đó cũng là lý do vì sao nam nữ khi kết nghĩa phu thê thì đeo nhẫn vào ngón áp út, bởi họ tin rằng sẽ có sự kết nối giữa hai tâm hồn và hơn thế nữa.

Tâm linh, đó là bất kỳ khoảnh khắc nào trong đời sống mà bạn thấy mầu nhiệm, giúp bạn vượt qua những cái khổ tự nhiên mà Đức Phật đã chỉ ra. Là một ngày, khi năng lượng xuống thấp nhất sau nhiều biến cố, bạn thấy mình gần như kiệt quệ. Bạn mở màn hình máy tính, nhưng chữ nghĩa cứ nhảy múa trước mắt. Bạn không thể tập trung. Bạn ước ao có một điều gì đó đến bất ngờ và tươi mới để thay đổi năng lượng. Bỗng nhiên bạn nhận được một món quà từ phương xa của người bạn thân, là một chuỗi hạt chakras 7 màu tuyệt đẹp, đơn giản vì chỉ duy nhất người ấy biết bạn thích những chuỗi hạt. Khi bạn cầm chiếc vòng tăng năng lượng này trên tay, lập tức bạn thấy có một nguồn sống mới ập đến. Và rồi có một lực đẩy vô hình, bạn mở máy và làm việc một mạch với những ý tưởng tuôn trào.

Đó có thể là chuyện con gái bé bỏng bị bệnh kéo dài nhiều ngày rồi mà không khỏi. Bé không chịu ăn uống gì cả, người ốm tong teo hẳn đi làm người mẹ rất lo lắng và tuyệt vọng. Trong lúc bé đang hâm hấp sốt và ngủ thiếp đi, người mẹ bèn ra ban công, nhìn lên trời, thầm cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ-tát. Người mẹ cầu nguyện rất lâu, để cho những giọt nước mắt của mình chảy trên má mà quên hết thời gian. Tâm của người mẹ giờ đây chỉ có Bồ-tát và con gái của mình. Bất chợt, cô bé trở mình, kêu mẹ ơi, con đói bụng. Bạn lật đật quay vào lấy cháo cho bé ăn. Sau khi ăn hết tô cháo nóng, điều mà trước đây bé không bao giờ làm được, người mẹ chợt nhận ra gương mặt của con tươi tỉnh hơn, sờ trán con thì thấy cơn sốt đã giảm đi.

Là một buổi sáng bình thường bạn thức dậy như bao ngày khác. Bạn đã từ bỏ công việc cũ hơn 6 tháng nay và hầu như không tìm được bất kỳ công việc nào như ý. Chuỗi ngày đó thật nhàm chán trôi qua với những tách cà-phê và những status trầm buồn trên Facebook. Nhưng sáng nay, bỗng bạn thấy một cảm giác rất khác lạ. Lòng dễ chịu, khoan khoái, tươi vui mà không vì một lý do nào. Điều đặc biệt là cảm xúc đó rất mạnh, mạnh đến nỗi bạn cảm nhận chúng lan tỏa khắp cơ thể mình, chảy khắp bộ não của mình. Và ngày hôm đó, bạn nhận được một lời mời cho công việc mới không thể tốt hơn.

Có muôn hình dáng về tâm linh. Không có đúng không có sai. Nó như như là thế. Dường như nó vượt lên con người. Nó là những mạch ngầm có vẻ dửng dưng không liên quan gì vào đời sống vật chất này, thế nhưng nó lại song hành và có khả năng can thiệp, hỗ trợ, chia sẻ cùng cuộc đời của những ai tin vào nó.

Là chuyện của lòng tin

Không có một lý giải, bình luận hay phản biện… nào tròn trịa khi nói về tâm linh. Đó chỉ là câu chuyện của lòng tin. Tin và không tin. Tin thì thấy, không tin thì không thấy. Tin thì cảm, không tin thì không cảm. “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Chúa Giê-su).

Phương Tây khi nhìn về phương Đông như là vùng đất của tâm linh với vô số điều huyền bí. Những hành trình về phương Đông của những bậc trí thức khoa học phương Tây đã minh chứng cho việc họ đã công nhận rằng, có những sự việc mà khoa học không thể giải thích và chỉ được hiểu theo cơ chế tâm linh. Nhiều học giả đã quá kinh ngạc vì sao các bậc hành giả du-già có thể sống thọ mà không cần ăn uống gì trên dãy Hy Mã Lạp Sơn hàng vạn năm tuyết phủ. Dần dần, đời sống tâm linh giờ đây không còn phân biệt vùng đất hay lãnh thổ. Thật ra thì tâm linh đến từ vũ trụ siêu nhiên, nên nếu có sự phân biệt quốc gia này và vùng đất khác, thì đó chính là do tâm phân biệt của con người. Ngày nay, Âu Mỹ và những đất nước giàu hiện đại vốn chỉ tin vào khoa học, đã đón nhận đời sống tâm linh một cách cởi mở và trân trọng. Bằng chứng là Google mời Thiền sư Thích Nhất Hạnh đến nói chuyện về năng lực kỳ diệu của thiền cho nhân viên của họ. Đó là những cuộc diễn thuyết về lòng từ bi và đạo đức bên ngoài tôn giáo của Đức Dalai Lama thu hút hàng chục ngàn người đến tham dự tại Mỹ và một số nước châu Âu. Tất cả những việc này là vì sao? Chỉ đơn giản là vì lòng tin của mọi người vào những lời dạy đến từ các bậc dẫn dắt tâm linh vốn được cho là hóa thân của Bồ-tát.

Có thể nhìn thấy rõ về vấn đề “lòng tin vào siêu nhiên” là khi đối diện với hàng loạt câu hỏi “tại sao” của trẻ con. Chúng hỏi: “Vì sao con được sinh ra?”. Cha mẹ hiện đại sẽ trả lời rất khoa học và rành mạch không úp úp mở mở như ngày xưa: “Vì tinh trùng của cha kết hợp với trứng của mẹ”. Nhưng, chúng sẽ hỏi tiếp: “Vì sao tinh trùng và trứng kết hợp thì lại thành em bé?”. Ngang đây là ta sẽ bắt đầu lớ ngớ một chút rồi, nhưng vẫn giải thích được, tùy trình độ của các bậc cha mẹ, đại khái có thể là: “Vì trứng và tinh trùng là hai thứ cốt lỏi của đàn ông và phụ nữ để giúp duy trì nòi giống”. Thế mà có xong đâu, bọn trẻ sẽ hỏi tiếp: “Vì sao đó là hai thứ cốt lõi mà không là hai thứ khác?”. Tôi đã từng “cạn lời” trước hàng loạt những câu hỏi vì sao dồn dập như thế với ánh mắt trong veo của con gái tôi, tôi trả lời kiểu gì nó cũng có thể hỏi thêm vì sao. Cuối cùng thì tôi chỉ có thể làm cho con tin mình mà không tiếp tục hỏi nữa, bằng câu trả lời như sau: “Con biết không, có những thứ không thể lý giải một cách cụ thể, bởi loài người được sinh ra một cách tự nhiên và được tự nhiên quy định như vậy. Chúng ta cứ thế mà tin vào và thế giới hình thành từ đó”.

Cảm nhận tự nhiên, chính là tâm linh. Sống theo tự nhiên, chính là sống đời sống tâm linh. Những thứ mà khoa học tưởng chừng như có thể giải thích được thì cũng không thể nào lý giải được toàn bộ vũ trụ siêu nhiên. Nhưng, bằng tâm linh thì con người có thể hiểu và hoan hỷ đón nhận, hoan hỷ vui sống. Chẳng hạn như, theo đạo Phật, em bé sinh ra không phải chỉ là vấn đề tinh cha huyết mẹ (khái niệm vật chất), mà còn là duyên khởi từ nhiều kiếp giữa em bé và cha mẹ. Nếu con cái và cha mẹ có duyên lành với nhau thì sẽ gặp được nhau trong hạnh phúc. Nếu là nghịch duyên thì cũng sẽ gặp nhau nhưng trong một điều kiện bất như ý. Khi nhìn vào việc hình thành sự sống dưới góc độ tâm linh, chúng ta dễ dàng sống lương thiện hơn, biết tu tâm dưỡng tánh hơn, biết tạo ra nhiều thiện nghiệp để từ đó có nhiều cơ may đón nhận duyên lành với các hậu duệ của mình.

Ví dụ trên chỉ là một giọt nước bé xíu trong dòng thiên hà. Rõ ràng, một ngày nào đó, bạn thử đặt những câu hỏi vì sao của trẻ con, bạn sẽ thấy mình không bao giờ có câu trả lời, cho đến khi bạn đưa nó về với đời sống tâm linh của trời đất, bạn sẽ tìm ra câu trả lời cho riêng mình.

Chánh tín tâm linh

Trên trang chủ của langmai.org, có một câu nói dẫn vào như sau: “Nếu hôm nay chúng ta có một chiều hướng tâm linh trong đời sống cũng như công việc thì chớ nên lo lắng cho ngày mai. Ngày mai sẽ tự lo việc của ngày mai. Với sự nâng đỡ của một đoàn thể tâm linh, chúng ta sẽ thực hiện được ước mơ của mình”.

Câu này đưa đến một thông điệp chính: “Bạn sẽ bình an khi có đời sống tâm linh”.

Trong con người luôn có hai mặt đấu tranh. Mặt đen mặt trắng này thường cãi nhau kịch liệt. Nếu ta tạm mặc định theo chủ nghĩa nhị nguyên rằng mặt đen là điều ác và mặt trắng là điều thiện một cách tự nhiên trong một con người, thì ta có thể hiểu rằng, những linh cảm đến từ mặt đen là mê tín và đến từ mặt trắng là chánh tín. Hai thể lòng tin này đều có thể được gọi là đời sống tâm linh. Trí huệ càng nhiều thì con người càng dễ dàng đi đến đồng thuận với tiếng nói của mặt trắng chánh tín. Ngược lại, khi bị u mê dẫn dắt, những việc làm trong đời sống tâm linh cũng dễ đưa ta đến ngõ tối, đó là lúc tiếng nói của mặt đen lên ngôi. Biết bao nhiêu người vì mê tín mà lầm đường lạc lối.

Điểm cốt lõi nào để phân biệt giữa mê tín và chánh tín trong đời sống tâm linh? Khi có chánh tín, ta thường ít mong cầu điều gì ngoài bình an và tự tại, rồi mọi thứ khác sẽ đến theo cách vận hành riêng của nó, tùy duyên và dựa trên cộng nghiệp. Vì tin vào điều đó nên ta thảnh thơi, tự do thoát khỏi mọi lăn tăn khổ sở. Còn nếu là mê tín, ta thường hay cầu nguyện được vật chất, tiền tài, được quyền danh, được đủ thứ trên đời, nói tắt chính là tham. Cái tham không có điểm dừng và sẽ dẫn ta đi đến nhiều hành động sai lầm mà nếu có một đoàn thể tâm linh hùng mạnh nào đó cũng không thể cứu nổi ta.

Tâm linh không hẳn là tôn giáo. Có rất nhiều người không theo bất kỳ một tôn giáo cụ thể, nhưng họ vẫn có một đời sống tâm linh vững chắc. Như Dalai Lama từng nói, tôn giáo của Ngài chính là lòng từ bi. Vì sao sống cần phải sống tử tế và giàu tình thương? Vì cho điều gì sẽ nhận lại điều đó. Tin vào luật nhân quả, đó chính là một trong những điểm cốt lõi của đời sống có tâm linh.

Vậy, có một định nghĩa đơn giản dễ hiểu nào cho một đời sống tâm linh lành mạnh, để ai cũng có thể thực hành? Thật khó để có câu trả lời xác đáng và đầy đủ cho câu hỏi này. Bởi tùy vào ta là ai, sống đời sống nào, cần điều kiện gì để sống tốt cuộc đời đó. Nhưng, có thể có một điều đơn sơ nhất: Tâm linh, đó là tin vào linh cảm đẹp của trái tim.

Thực hành đời sống tâm linh càng nhiều, ta dễ dàng an tâm đón nhận những vô thường bất tận của cuộc đời. Ta biết rằng càng ít điều kiện, càng ít lý luận, càng ít đòi hỏi - vốn là những sản phẩm của lý trí chấp thủ, thì ta càng dễ dàng an vui, tâm hồn càng rộng mở. Bởi ta và cuộc đời đã nhìn thấy nhau không bằng mắt thường mà bằng trái tim và tâm hồn. Và, hãy “đến để thấy” (ehi-passika), như Đức Phật đã từng dạy.
Bùi Lan Xuân Phượng

Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ "Hướng về Miền Trung, ủng hộ đồng bào lũ lụt"

Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ "Hướng về Miền Trung, ủng hộ đồng bào lũ lụt"

Đăng lúc: 10:28 - 02/11/2016

Sáng ngày 29/10/2016, hơn 500 người dân tập trung về chùa Vĩnh Phúc (Chùa Phúc Tự) thôn Phúc Tự xã Văn Hóa huyện Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình nhận quà từ thiện của phái đoàn Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ. Với gần 550 suất quà , mỗi suất trị giá 600.000đ gửi gắm tới những người dân bị lũ lụt nơi đây.

Buổi trao tặng quà đến người dân có sự hiện diện của Đại đức Thích Định Tuệ ,trụ trì Chùa Đức Hậu , Chùa Phúc Thành ,thành phố Vinh .Nghệ An kiêm trưởng đoàn từ thiện Hương Sen Xứ Nghệ; với sự tham gia của Đại đức Thích Minh Lâm; Đại đức Thích Quảng Văn; Đại đức Thích Quảng Xuân; Đại đức Thích Quảng Phước trụ trì chùa Vĩnh Phúc; đi cùng phái đoàn có Ông Nguyễn Văn Long, phó ban tôn giáo tỉnh Nghệ An; ông Lương Thanh Tấn-bí thư xã Văn Hóa; ông Đinh Xuân Phước-chủ tịch mặt trận xã Văn Hóa cùng các Phật Tử trong Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ



Đại Đức Thích Định Tuệ chia sẻ những suy nghĩ, tình cảm của mình đối với đồng bào nới đây: Chúng tôi nghe được tin bão đó rất xót xa khi nhìn những hình ảnh trên tivi, trên các mặt báo, thì chúng tôi rất xúc động . Bằng những tình cảm sâu sắc nhất của mình hướng về miền Trung và đặc biệt là về xã Văn Hóa này thì toàn Quý Thầy và các Phật Tử tỉnh Nghệ An , có một ít quà gửi tặng đến tất cả đồng bào . Được sự giới thiệu của xã Văn Hóa ,các vị có mặt sáng hôm nay, chúng tôi xin được, chia sẻ những thiệt hại mà cơn bão lũ vừa qua đã gây cho các vị, và mong rằng các vị sớm khắc phục được những thiệt hại đó, trở lại cuộc sống bình thường và xã của chúng ta ngày càng phát triển giàu đẹp hơn và trong dịp này, thay mặt các Quý Thầy, thay mặt các Quý phật Tử trong đoàn xin có lời cám ơn sâu sắc đến Đại Đức trụ trì đã tạo mọi điều kiện đồng thuận cho đoàn chúng tôi thực hiện được tâm nguyện của mình.
Thầy chúc bà con thật nhiều sức khỏe, sớm khắc phục được những thiệt hại do thiên tai bão lũ vừa qua đã gây ra cho đồng bào , và chúc đồng bào thật nhiều sức khỏe.



Người dân vui mừng nhận quà, cũng có người rưng rưng nước mắt chia sẻ: "Người dân nơi đây biết ơn những phái đoàn về đây cứu trợ, nhiều nhất là các phái đoàn của Phật giáo luôn quan tâm hỗ trợ tinh thần cũng như vật chất".



Tại xã Văn Hóa nơi được xem vùng rốn lũ trong đợt lũ vừa qua, nước lũ đã rút hết, còn lại nơi đây những con đường lấm đầy bùn đất, song đó những bụi tre làng được phủ đầy những lớp váng cặn rác trôi về. những vật dụng điện tử như tủ lạnh, tivi, quạt điện đều bị hư hỏng.
Được biết khi lũ tràn về, cả thôn xóm chìm ngập trong biển nước, người dân không kịp trở tay, thu dọn đồ đạc trong nhà. Nơi đây ngôi chùa Vĩnh Phúc (chùa Phúc Tự) ngập cổng tam quan, may mắn chùa nằm ở địa thế đồi cao, nên nước chỉ vào ở dưới bậc thềm chánh điện. Sau gần 2 ngày nước rút, người dân mới ổn định trở lại đời sống sinh hoạt thôn xóm .


Đoàn lại đến xã Thạch Hóa, và Đức Hóa , nơi đông là một vùng bị ngập sâu nhất và nghèo nhất. Gặp lại như người dân ở nơi này sau bão lụt chúng tôi thật khó cầm được nước mắt. Với tâm nguyện của Đại Đức Thích Định Tuệ mong muốn cho người dân nơi đây sau cơn lũ lụt được ổn định cuộc sống.Xoa dịu nỗi đau thiên tai " Một miếng khi đói, bằng một gói khi no" . Thầy cám ơn các Quý Phật Tử gần xa đã đóng góp cho chương trình Từ Thiện thành công tốt đẹp, mang lại ý nghĩa lợi lạc lớn cho đông đảo bà con vùng lũ tỉnh Quảng Bình. Chuyến đi đã thành công tốt đẹp và để lại niềm hân hoan của các nơi mà đoàn đã đến.

Sau đây là một số hình ảnh ghi nhận :























































Tác giả bài viết: Hồng Nga

Hơn 300 triệu đồng Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ

Hơn 300 triệu đồng Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ

Đăng lúc: 18:56 - 29/10/2016

Từ sáng sớm ngày 29/10/2016, hơn 500 người dân tập trung về chùa Vĩnh Phúc (Chùa Phúc Tự) thôn Phúc Tự xã Văn Hóa huyện Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình nhận quà từ thiện của phái đoàn Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ.




Video clip phái đoàn Hương Sen Xứ Nghệ tặng 550 phần quà tại Xã Văn Hóa.
Buổi trao tặng quà đến người dân có sự hiện diện của Đại đức Thích Định Tuệ trưởng đoàn Hương Sen Xứ Nghệ; Đại đức Thích Minh Lâm; Đại đức Thích Quảng Văn; Đại đức Thích Quảng Xuân; Đại đức Thích Quảng Phước trụ trì chùa Vĩnh Phúc; Ông Nguyễn Văn Long, phó ban tôn giáo tỉnh Nghệ An; ông Lương Thanh Tấn-bí thư xã Văn Hóa; ông Đinh Xuân Phước-chủ tịch mặt trận xã Văn Hóa cùng quý anh chị thành viên Hương sen xứ Nghệ.
Hơn 300 triệu đồng Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ
Đoàn đã trao 550 suất quà, mỗi phần quà trị giá 600 ngàn đồng, gồm gạo, 1 chăn ấm, và bao thư. Ảnh: Lan Anh
Người dân vui mừng nhận quà, cũng có người rưng rưng nước mắt chia sẻ: "Người dân nơi đây biết ơn những phái đoàn về đây cứu trợ, nhiều nhất là các phái đoàn của Phật giáo luôn quan tâm hỗ trợ tinh thần cũng như vật chất".
Tại xã Văn Hóa nơi được xem vùng rốn lũ trong đợt lũ vừa qua, nước lũ đã rút hết, còn lại nơi đây những con đường lấm đầy bùn đất, song đó những bụi tre làng được phủ đầy những lớp váng cặn rác trôi về. những vật dụng điện tử như tủ lạnh, tivi, quạt điện đều bị hư hỏng.

"Nhà tôi bị nước ngập gần 3m, cả gia đình phải leo lên tra (gác lúa) để trú ngụ, chúng tôi không biết nói gì ngoài những lời cảm ơn, nhận quà chúng tôi cảm kích những tấm lòng từ bi của quý nhà chùa, quý mạnh thường quân đã thương tưởng đến bà con sau cơn lũ đi qua". Chị Nguyễn Đào Sen (thôn Hà Thâu) nói.
Hơn 300 triệu đồng Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ
Toàn bộ số tiền 330 triệu đồng, phái đoàn Hương Sen Xứ Nghệ trao tận tay đến bà con vùng lũ miền Trung. Ảnh: Lan Anh
Được biết khi lũ tràn về, cả thôn xóm chìm ngập trong biển nước, người dân không kịp trở tay, thu dọn đồ đạc trong nhà. Nơi đây ngôi chùa Vĩnh Phúc (chùa Phúc Tự) ngập cổng tam quan, may mắn chùa nằm ở địa thế đồi cao, nên nước chỉ vào ở dưới bậc thềm chánh điện. Sau gần 2 ngày nước rút, người dân mới ổn định trở lại đời sống sinh hoạt thôn xóm .

Võ Tùng Am

Chùa Đức Hậu - Thành phố Vinh (Nghệ An): Xúc động Lễ Vu Lan báo hiếu 2016

Chùa Đức Hậu - Thành phố Vinh (Nghệ An): Xúc động Lễ Vu Lan báo hiếu 2016

Đăng lúc: 03:55 - 20/08/2016

Nhân dịp mùa Vu Lan báo hiếu năm 2016 - PL.2560, đêm ngày 18/08/2016 (tức ngày 16/07 Bính Thân), tại chùa Đức Hậu - Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ đã long trọng tổ Lễ Vu Lan báo hiếu, cài Bông Hồng, với chủ đề “Cha mẹ là mãi mãi” để bày tỏ tấm lòng hiếu kính của những người con đối với cha mẹ.

Với truyền thống tri ân và báo ân trong mùa Vu Lan báo hiếu, truyền thống ấy đã in sâu và tồn tại từ bao đời trong tâm khảm của nhân dân. Trên tinh thần cao cả ấy, Chùa Đức Hậu (xã Nghi Đức - TP Vinh) do Đại đức Thích Định Tuệ trụ trì (cũng là Trưởng Ban Tổ chức cùng Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ) đã long trọng tổ chức Lễ Vu lan Bông Hồng Cài áo với chủ đề “Cha Mẹ là mãi mãi”. Đến chứng minh và tham dự buổi lễ có chư Tôn đức tăng, ni trong và ngoài tỉnh, các cấp lãnh đạo chính quyền tỉnh Nghệ An và sự góp mặt của hơn 3.000 nhân dân, phật tử về tham dự.
Suốt chiều dài lịch sử Phật giáo thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng, hơn hai nghìn năm Phật giáo hiện diện ở Việt Nam đã trở thành một tôn giáo dân tộc, chưa bao giờ rời xa đời sống xã hội. Đạo hiếu là bài học đầu tiên của đạo làm người, là nền tảng đạo đức của xã hội, đối với người con Phật, đức Phật đã dạy các hàng đệ tử phải luôn ghi nhớ và báo đáp bốn ơn là: Ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, ơn Tổ quốc và ơn chúng sinh. Đó là bốn ơn đức cao quý mà ai ai cũng đều phải trải qua để nuôi dưỡng nhân tâm của lòng hiếu đạo. Làm người ai cũng mang ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Người Phật tử Việt Nam hướng về Lễ hội Vu Lan vào ngày Rằm tháng Bảy mỗi năm là thực hiện một phương thức báo hiếu vốn có từ lâu đời và xem đó như là một tín ngưỡng truyền thống. Đây là nét đẹp của đạo hiếu xuyên suốt chiều dài lịch sử vốn có trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam chúng ta.
Chúng ta đều hiểu rằng, bất luận nền luân lý nào, từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây cũng đều lấy chữ hiếu làm đầu. Người xưa đã đặt ra tiêu chuẩn: Thiên kinh vạn quyển - Hiếu kính vi tiên. Nghĩa là muôn ngàn kinh sách đều lấy hiếu hạnh làm đầu, người con có hiếu thảo với cha mẹ thì mọi việc đều thành tựu tốt đẹp, ngược lại bất hiếu với cha mẹ thì sẽ mất tất cả. Điều tuyệt với nhất không gì bằng có hiếu và hôm nay đây mùa Vu Lan báo hiếu, mùa tri ân và báo ân lại về trong niềm hân hoan của người con đức Phật, chắc hẳn trong lòng mỗi người chúng ta lại cảm thấy một nỗi niềm đau đáu tất dạ và xao động tâm hồn như nhớ nhung một miền viễn tưởng xa xôi nào đó, viễn tưởng ấy dần dần hiện rõ trong tâm trí để rồi đánh dấu bởi một Đại lễ với trọn tình thiêng liêng nhất cao quý nhất của những người con mang nặng nghĩa, ân, đối với hai đấng sinh thành.

Trong một lễ hội mang nặng nghĩa tình và yêu thương của các bậc cha mẹ và con cái trong mùa Vu Lan báo hiếu ngày hôm nay, không ai bảo ai thì tất cả chúng ta đều biết rằng, mùa lễ hội Vu Lan báo hiếu tại chùa Đức Hậu diễn ra hàng năm đã mang lại hơi ấm cho song thân và giúp cho giới trẻ quy y Phật trong tỉnh Nghệ An xây dựng nếp sống đạo đức dựa trên nền tảng hiếu thảo. Đã có những giọt nước mắt chảy trong tâm hồn của biết bao nhiêu người con cảm thấy mình vô tâm trong suốt những mùa Vu Lan qua tại ngôi chùa thân thương này như là một lời hối cải muộn màng khi nhận ra mình quá vô tâm với mẹ cha. Một đóa hồng tươi thắm, với diễm phúc cài lên áo trong mùa Vu Lan báo hiếu là một hạnh phúc không gì bằng, là một niềm vui lớn trong đời khi chúng ta còn được chiêm ngưỡng chân dung mẹ cha, là điểm tựa, là bước tường thành cho cuộc đời chúng ta lớn khôn thành người. Xin trao tặng tất cả những bà mẹ, mỗi người một đoá hồng và xin tất cả chúng ta, những đứa con đều biết lưu giữ đoá hồng tươi thắm ấy trong trái tim của chính mình.

Những ngọn đèn tâm hiếu vào mùa Vu Lan báo hiếu là dịp chúng ta nhìn lại nhân cách của chính mình, và cũng là góp phần nhắc nhở mọi người về ân đức sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, của những bậc ân nhân thiện hữu tri thức, của các vị tiền bối tổ sư, chư thánh tử đạo, liệt vị chiến sĩ anh linh. Và hôm nay một lần nữa dưới mái chùa Đức Hậu những cung bậc thương yêu được khơi dậy cho những ai vô tình với mẹ cha, hòa chung trong không gian lắng đọng tình người này. Trong không khí ngập tràn niềm tri ân và báo ân vô hạn, buổi lễ Vu lan Bông Hồng Cài áo với chủ đề “Cha Mẹ là mãi mãi” đã để lại những hoài niệm khó phai trong lòng của mỗi người xứ Nghệ.
Một số hình ảnh tại buổi lễ:
Tác giả bài viết: Tuệ Đại

Thiền sư Tông Diễn & hành trình tìm lại người mẹ ly biệt

Thiền sư Tông Diễn & hành trình tìm lại người mẹ ly biệt

Đăng lúc: 07:16 - 12/08/2016

“Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Với tinh thần đó, đọc lại lịch sử Phật giáo Việt Nam, nhất là qua gương sống của chư vị thiền sư, các bậc xuất gia, ngoài công hạnh tu tập, hành đạo, chúng ta còn gặp nhiều câu chuyện hiếu đạo hết sức đặc biệt. Trong số đó, phải kể đến Thiền sư Tông Diễn.

minhhoa.jpg
Minh họa - Nhuận Thường

Chuyện ghi lại rằng, Thiền sư Tông Diễn, hiệu Chân Dung (1640-1711), người thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Sư là Tổ thứ 2 của dòng thiền Tào Động ở Việt Nam. Ngoài đạo nghiệp, cuộc đời của Thiền sư Tông Diễn còn có một sự tích rất cảm động lòng người. Đó là câu chuyện về lòng hiếu thảo của ngài với người mẹ của mình.

Sư mồ côi cha từ nhỏ, mẹ tảo tần chạy chợ buôn bán để nuôi sư. Năm sư 12 tuổi, một hôm bà mẹ chuẩn bị gánh hàng ra chợ bán, dặn con: “Mẹ có mua sẵn một giỏ cáy (cua) để sẵn ở ao, trưa nay con giã cáy nấu canh, trưa về mẹ con mình dùng”. Bà gánh hàng đi rồi, gần đến giờ nấu cơm, sư ra ao xách giỏ cáy lên định đem giã nấu canh như lời mẹ dặn, song nhìn thấy những con cáy tuôn những hạt bọt ra, dường như khóc rơi từng giọt nước mắt. Xót thương quá, sư không đành đem giã, lại đem đến ao giở nắp giỏ thả hết.

Đến trưa bà mẹ đi bán về, vừa nhọc nhằn vừa đói bụng, hai mẹ con lên mâm cơm ngồi ăn, bà không thấy món canh cáy liền hỏi lý do. Sư thưa: “Con định đem đi giã, thấy chúng nó khóc, con thương quá đem thả hết”. Bà mẹ nổi giận, bỏ bữa cơm, chạy lấy roi đánh sư một trận như lôi đình. Sợ quá, sư chạy một mạch không dám ngó lại. Từ đó sư và mẹ ruột ly biệt.

Sau khi chạy khỏi nhà, sư mệt quá ngất đi và được một sư cụ đưa về chùa cưu mang. Từ đó sư ở chùa và rồi xuất gia. Sau khi đã tu hành sáng đạo, một bữa sư tọa thiền, lòng bỗng nhớ đến người mẹ xưa. Ngài nghĩ mẹ giờ chắc đã già yếu không có ai chăm sóc. Người tu hành từ bỏ đời sống gia đình nhưng ơn sinh thành dưỡng dục thì phải đền đáp. Nghĩ vậy ngài liền về quê cũ tìm mẹ nhưng tìm không ra. Bởi vì sau buổi lỡ giận đánh con đó, mẹ ngài cũng hối hận đi lang thang khắp nơi tìm con.

Đến hơn ba mươi năm sau, người mẹ thì cũng già yếu nên trở về quê cũ và mở một quán nước để làm kế sinh nhai và tiện việc hỏi han tin tức con mình. Suốt mấy chục năm bà chỉ mong tìm được đứa con trai duy nhất để nói một câu xin lỗi, có thế thì mới yên lòng nhắm mắt và gặp lại chồng dưới chín suối.

Về phần mình, sư vẫn dò la tin tức về người mẹ đã ly biệt. Một dịp, sư lại về làng cũ và vào quán trà của bà lão uống nước. Thấy bà lão đầu tóc bạc phơ đang châm trà bán cho khách, đợi đến lúc bà lão rảnh, sư mới hỏi thăm lai lịch. Bà thở dài than:

- Bạch sư cụ, chồng tôi mất sớm, có một đứa con trai mà nó bỏ đi mất từ khi được mười hai tuổi. Thân già hôm sớm không ai, tôi phải lập quán bán nước trà, kiếm chút ít tiền sống lây lất qua ngày.

Sư hỏi:

- Cụ có muốn vào chùa không, nếu cụ đồng ý thì chúng tôi xin thỉnh cụ về chùa để nương bóng từ bi trong những tháng ngày còn lại.

- Tôi già rồi đâu làm gì nổi mà vào chùa công quả, không làm mà ăn cơm chùa tội lắm.

Sư nói:

- Cụ đừng ngại, ở chùa có nhiều việc, người mạnh gánh nước bửa củi, nấu cơm, người yếu quét sân, nhổ cỏ, miễn có làm chút ít, còn thì giờ tụng kinh niệm Phật là tốt.

Bà lão thấy sư có lòng tốt bèn nói:

- Nếu sư cụ thương giúp kẻ cô quả này, tôi rất mang ơn.

Sư hẹn ít hôm sau sẽ có người đến đón bà về chùa. Về chùa, sư họp Tăng chúng nơi sư đang trụ trì hỏi ý kiến có thuận cho bà lão cô quả ấy ở chùa không. Toàn chúng đều đồng thuận mời bà lão về chùa. Sư cho cất một am tranh trong khuôn viên chùa, cho người đi rước bà lão về ở đây. Mỗi hôm, sư phân công bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe của bà. Sư luôn luôn nhắc nhở bà tu hành và mỗi sáng đều qua am thăm hỏi bà lão.

Được một thời gian, bà lão lâm bệnh, sư tự thân nấu cháo săn sóc bà lão khiến các đệ tử đều thấy lạ. Biết bà lão không sống được bao lâu, song vì có duyên sự phải đi vắng năm bảy hôm nên trước khi đi, sư dặn dò mọi người: Nếu bà lão có mệnh hệ gì thì chúng Tăng cứ làm đủ lễ nghi nhưng khi liệm thì đừng vội đậy nắp áo quan, đợi sư về sẽ đậy sau.

Đúng như lời sư đoán, bốn năm hôm sau bà tắt thở, Tăng chúng làm đúng như lời sư dặn, chỉ để bà trong áo quan mà không đậy nắp. Hai hôm sau sư về, nghe bà lão mất còn để trong áo quan. Sư về nhìn mặt lần chót, đi quanh quan tài 3 lần rồi đậy nắp quan lại. Sau đó sư nói to:

- Như lời Phật dạy: Một người tu hành ngộ đạo cha mẹ sanh thiên, nếu lời ấy không ngoa xin cho quan tài bay lên hư không để chứng minh lời Phật.

Nói xong sư liền cầm tích trượng gõ ba cái, quan tài từ từ bay lên hư không, rồi hạ xuống. Lúc ấy mọi người mới biết bà lão là mẹ của sư.

Hòa thượng vừa dứt tiếng, chiếc quan tài bỗng như có một lực đẩy, từ từ nâng lên cao, sát mái am tranh, lơ lửng. Mọi người đồng loạt quỳ xuống, chắp tay, ngẩng mặt nhìn lên trong một niềm kính ngưỡng tột cùng. Mắt Hòa thượng sáng ngời, an trú trong giây phút hiện tại tuyệt vời, một giây mà đằng đẵng thiên thu.

Tâm hiếu của người con hòa lẫn trong tâm từ của một bậc chân tu đắc đạo, nở tung như đóa sen tỏa hương tinh khiết, tuy vô hình mà bất diệt, tuy vô thanh mà tràn ngập âm hưởng diệu kỳ, tuy vô tướng mà chan hòa khắp cùng cõi giới.

Khi chiếc áo quan nhẹ nhàng trở về chỗ cũ, người ta thấy gương mặt bà cụ - bây giờ đã rõ là thân mẫu của sư trụ trì - tươi nhuận rạng rỡ. Mùi hương lạ lại tỏa ra phảng phất quanh nhà. Mọi người đứng bất động, đắm mình trong niềm phúc lạc ngàn năm chưa dễ có.

Nơi quán nước ngày xưa của mẹ, sư bèn lập một ngôi chùa đặt tên là Mại Trà Lai tự. Am tranh mẹ từng ở có tên là Dưỡng Mẫu đường, sớm chiều khói hương nghi ngút.

Đó là một trong nhiều câu chuyện trong hành trạng của vị thiền sư Việt Nam đạo phong, liên quan tới hiếu đạo của người xuất gia. Ngài cũng là người sống gần dân, được người dân yêu quý gọi bằng tên mộc mạc là Hòa thượng Cua.

Cách báo đáp thâm ân cha mẹ của Thiền sư Tông Diễn đã lưu mãi trong lòng người, vượt cả thời gian. Hình tượng và hạnh hiếu đó không chỉ lưu truyền trong dân gian mà đã được xây dựng thành hình tượng nghệ thuật, được chuyển thể qua các loại hình sân khấu, làm rung động lòng người nhiều thế hệ.

D.N sưu tầm

Phật ở đâu?

Phật ở đâu?

Đăng lúc: 21:38 - 07/07/2016

Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào: "Ôi Đức Phật yêu quí của con. "

Phật ở đâu?
Thuở xưa, có anh chàng đọc kinh nghe nói về Phật, thích lắm, quyết định đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp ra đi. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, hầm hố gian nguy hiểm trở... Chàng vẫn chưa gặp được Phật giống như hình dạng trong Kinh đã diễn tả.

"Thân Phật sắc vàng, cao một trượng sáu, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chói sáng. "

Một hôm tại một sườn non, chàng trai tình cờ gặp một cụ già râu tóc bạc phơ, cốt cách siêu phàm, mừng quá, chàng khẩn khoản:

- Thưa cụ, cụ có biết Phật đang ngụ ở đâu không... Xin chỉ dùm cho con với.

Ông lão mĩm cười:

- Ồ! Chỗ nào mà không có Phật... Trên quãng đường vừa qua, chả lẽ con không gặp được Ngài ư...

- Thưa cụ, trên đường đi con đã từng gặp vô số người, nhưng đều là hạng phàm phu tục tử cả. Con chưa từng thấy người nào có được vài tướng tốt như trong kinh đã mô tả về Phật cả.

Ông cụ cười ha hả:

- Cháu ngốc nghếch thật, cháu không biết rằng cái thân đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đó người Ấn Độ đã đốt thành tro và chia nhau xây tháp thờ cúng cả rồi ư...

- Thưa, thế thì Phật chết rồi sao...

- Hiện giờ Đức Phật đang phân thân ở khắp mọi nơi. Ngài cũng mang thân tốt và xấu như chúng sinh vậy. Con có còn muốn gặp Ngài nữa không...

- Thưa, dù bất cứ với hình dáng nào, nếu đích thật là Ngài thì con vẫn vô cùng khát ngưỡng.

- Vậy thì, để ta mách nước cho con nhé... Con hãy quay về, trên đường về nếu con gặp người nào mang guốc trái ở chân phải, guốc phải ở chân trái thì người đó chính là một hóa thân của Phật. Hãy thừa sự và cúng dường vị Phật ấy như trong kinh đã dạy.

Chàng trai hối hả quay về. Suốt quãng đường dài, chàng không gặp Đức Phật nào mà hình dạng như cụ già diễn tả. Chán nản, chàng đi luôn về nhà. Trời đã khuya, bà mẹ còn chong đèn ngồi đợi con. Nghe tiếng gọi cửa bà mừng quá, quờ quạng tìm đôi guốc rồi chống gậy tất tả ra mở cửa.

Chàng trai thấy mẹ tiều tụy, nước mắt chảy dài trên đôi má nhăn nheo, mang lộn chiếc guốc trái qua chân phải, guốc phải sang chân trái. Chàng ôm chầm lấy mẹ nghẹn ngào: "Ôi Đức Phật yêu quí của con. "

Chuyện hay

Tập thương yêu chân thành

Tập thương yêu chân thành

Đăng lúc: 19:28 - 11/03/2016

Câu chuyện về một cậu học sinh tên “Luis”.
Hôm ấy, khi Luis bước vào lớp, điều gì đó toát lên từ cử chỉ của cậu bé đặt mọi người vào một sự cảnh giác cao độ. Cách đây khoảng một tháng, một em nữ sinh đã tự bóp cổ của mình ngay trước văn phòng thầy hiệu trưởng, và đó là lý do vì sao chúng tôi phải dè dặt như vậy. Tôi nhận ra, bạo lực bộc phát không còn là chuyện diễn ra ở đâu đó xa vời nữa.

Ngay sau đó, tôi chợt liên tưởng, đây có lẽ cũng là điều mà đất nước chúng ta đang cảm nhận được, rằng bạo lực dường như là điều không thể tránh khỏi.

giaohao.jpg
Ảnh minh họa của Trần Thế Phong

Trong lúc ấy, Luis, người đang đi tới đi lui trước mặt tôi cùng với những câu nói lẩm nhẩm, thái độ bực tức, cậu bé không về chỗ của mình mặc kệ cho tiếng chuông báo hiệu vào tiết học đã reo lên. Với ánh mắt đầy sợ hãi, tất cả học sinh trong lớp nhìn nhau, rồi bọn trẻ nhìn vào tôi. “Phải làm gì bây giờ?” - tôi đã tự hỏi mình như vậy. Tôi cố tỏ ra điềm tĩnh và thử nói chuyện với Luis, nhưng cậu bé chỉ xem những chỉ dẫn và hành động của tôi như một lời sáo rỗng. Vì vậy tôi lùi lại, tránh xa khỏi cậu bé và tìm kiếm sự giúp đỡ bằng cách gọi điện cho ai đó, trông Luis dường như lại càng thêm phần nóng giận.

Tôi đã thử làm hết những gì mình có thể để trấn an và giúp cậu bé bình tĩnh hơn, nhưng tất cả đều trở nên vô vọng. Có một tín hiệu bất chợt phát ra từ văn phòng và tôi nhận thấy đó là cơ hội của mình, tôi nói lớn: “Ồ, thầy phải gọi một cuộc điện thoại thôi”. Ngay lập tức, Luis hướng sự tập trung về phía tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói: “Tất nhiên là phải gọi rồi”. Và đột nhiên những bước di chuyển của Luis trở nên nhẹ nhàng hơn, cậu bé rút từ trong túi ra chiếc bút chì và nắm chặt nó trong tay như thể đó là cán của một cây dao, rồi bước dài đến chỗ tôi.

Trong suốt cuộc đời mình, tôi luôn nỗ lực làm mọi thứ để ngăn chặn những tình huống tồi tệ có thể xảy ra. Tôi cũng được học về phi bạo lực và đã dạy cho học sinh của mình về Gandhi, người lãnh đạo các cuộc biểu tình hòa bình(Gandhi là người đã dẫn khởi nền độc lập cho Ấn Độ, đề cao “Chấp trì chân lý”, theo nguyên tắc chân lý và bất bạo động).

Tuy nhiên, trong khoảnh khắc Luis tiến đến gần, tất cả những chuẩn mực để tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới hòa bình của tôi dường như sụp đổ. Tôi không chắc rằng liệu Luis có ý định đâm tôi hay không, nhưng tôi biết mình cần phải làm gì đó để kéo cậu bé ra khỏi những học sinh khác của mình. Cậu bé to lớn hơn rất nhiều so với tôi và tôi như thấy mình rơi vào bế tắc. Tôi không dám tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra sau đó và khoảnh khắc ấy như đang chi phối tôi.

Một nỗi buồn không tưởng cuộn lấy rồi đè nặng lên tôi đến mức khiến tôi đổ gục xuống ghế. Và, tôi bắt đầu cảm nhận được một nỗi đau nào đó, đúng hơn, tôi như bắt đầu nối kết được với Luis. Không kiềm được nước mắt, tôi nói: “Thầy rất tiếc. Đó hẳn là một tổn thương rất sâu sắc”.

Cậu bé bỗng ngưng lại tất cả những hành động của mình, thả lỏng tay rồi nói: “Vâng”. Và như vậy, mọi chuyện dừng lại ở đó.

Những gì chúng ta chọn để thực hành trong cuộc sống hàng ngày, cũng là những điều sẽ xảy đến khi cuộc sống của chính chúng ta bị dồn đến bờ vực. Như vậy, nếu tôi học cách bắn vào những ai đang đe dọa đến mình và nếu có súng trong tay vào lúc đó, tôi tin chắc mình sẽ không ngần ngại bóp cò. Nhưng tôi đã chọn cách ngược lại. Một tháng sau, kể từ sự việc đáng sợ đó, mỗi ngày tôi đều dành ra 45 phút để tập bài tập có tên là “yêu thương chân thành”, hay còn gọi là “Thiền tâm từ”.

Thiền tâm từ là một phương pháp thiền định đơn giản mà khi thực hành nó, điều đầu tiên chúng ta cần làm là nghĩ về những người ta luôn quan tâm và mong muốn đem lại hạnh phúc cho họ - con cái hay thú cưng là một trong những ví dụ điển hình. Sau đó, chúng ta trải lòng mình bằng cách tập quan tâm và mong cầu hạnh phúc cho những người không mấy quan trọng hiện diện quanh ta, hay thậm chí là một người không quen biết, như bác đưa thư vẫn nhìn thấy hàng ngày, nhưng ta chẳng biết ông ấy là ai.

Trong từng hoàn cảnh, từng trường hợp như vậy, chúng ta tập giữ hình ảnh của những con người, những vật thể đó bằng trái tim, bằng suy nghĩ của mình và thầm nguyện cầu: “Mong những con người này có thể được hạnh phúc, mạnh khỏe và hiểm nguy sẽ không chạm đến họ”. Có thể đó là một sự thực hành không mấy khó khăn, nhưng nó cũng không hề đơn giản.

Quay trở lại câu chuyện về Luis. Tôi đã không biết gì cho đến sau đó, thì ra anh trai của Luis chỉ vừa bị tuyên án tù và cậu bé đã rất khó khăn để tiếp nhận sự thật này. Sự mất mát, và cậu bé cần một ai đó có thể lắng nghe để sẻ chia gánh nặng đang đè lên vai mình, nhưng vì không biết thể hiện như thế nào nên thay vào đó, Luis đã có những hành động bộc phát như vậy. Điều đó có lẽ cũng giống như Luis đang tự tìm nhà tù cho chính mình vậy.

Đến bây giờ, tôi vẫn không thể tin rằng những gì diễn ra ngày hôm đó giữa tôi và Luis là kết quả trực tiếp từ việc tôi thực hành thiền định, có lẽ đó chỉ xuất phát từ lòng khoan dung, chi phối tôi và làm tôi thấu hiểu được Luis. Nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng, việc thực hành tâm từ đã giúp tôi có thể mở lòng với người khác, để tôi luôn trong tư thế sẵn sàng trước mọi hoàn cảnh. Và đó là tất cả những gì tôi hướng đến. Khi thấu hiểu nỗi sợ hãi tạo ra nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, tôi cũng nhận biết được rằng để xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn, chúng ta cần rèn luyện cho mình sự nối kết, tình thân ái đối với vạn vật, đồng thời biết tiết chế chính mình và người khác.

Người Mỹ hiện nay luôn trang bị cho mình bằng những khẩu súng và bỏ ra nhiều thời giờ chỉ để học cách hủy diệt đi sự sống của người khác. Như vậy làm sao con người có thể mở lòng với nhau, nối kết và sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu thương?

Trên một phương diện nào đó, tôi cảm thấy con người chúng ta chẳng khác là bao so với Luis, tồn tại một nỗi sợ hãi và sự khao khát tình thân, mà ở đó con người biết sẻ chia cho nhau niềm vui cũng như nỗi buồn và tìm thấy ý nghĩa thật sự của cuộc sống. Khi không thể nhận được sự nối kết ấy từ những người xung quanh, con người lại có xu hướng cố giành lấy nó bằng cách bám chấp vào những bạo lực tồn tại bên trong suy nghĩ của mình và thể hiện những bạo lực đó ra bên ngoài bằng sức mạnh bản thân.

Trong niềm hân hoan, tôi xin kết thúc bài viết này bằng một câu khẩu hiệu đầy cảm hứng như vậy: “Hãy thiền định ngay bây giờ và thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn”. Vấn đề ở đây là tôi không tin vào điều đó và có thể bạn cũng vậy. Thay vì chờ đợi thế giới tháo bỏ khúc mắc này, tôi tìm thấy trong tư tưởng Phật giáo, sự hướng dẫn con người đi vào tự tâm của chính mình và không còn bất kỳ một ràng buộc nào.

Chúng ta có thể hiểu rằng, “không còn ràng buộc” có nghĩa là giác ngộ, biết được những gì nên làm và những gì cần lìa bỏ. Khi đạt đến “không ràng buộc” cũng đồng nghĩa với việc chúng ta không còn bị trói buộc bởi những khổ đau, phiền não kia nữa.

Những bước đầu tiên thực hành thiền định, tôi đã luôn nghĩ đến một kết quả, đó là sự yên bình. Nhưng những kết quả mà chúng ta tưởng tượng ra, bản thân nó chính là một thể của ràng buộc. Tôi không thể ngờ được thành quả của sự thiền định ấy đã thay đổi tôi trong khoảnh khắc đối mặt với Luis (tôi đã không còn nghe tin gì về Luis kể từ khi cậu bé rời khỏi trường trung học năm 2011).

Khi điều gì đó tương tự xảy ra, mọi thứ quanh ta dường như thay đổi, nhưng chúng ta sẽ nhận ra rằng mình vẫn còn tồn tại với một sinh mạng vô cùng quý giá, và trái tim sẽ luôn nhận thức được sâu sắc những đau khổ, phiền não trong thế gian này. Những đau khổ, phiền não mà chúng ta có thể nhận biết được là mênh mông vô tận, và không thể nào ngăn hết tất cả chúng lại được.

Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng mình vẫn đang tồn tại, chúng ta có thể tự kéo mình ra khỏi những suy nghĩ to tát kia và dành thời gian lưu tâm đến những chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt, vô nghĩa quanh mình.

Đến một lúc nào đó, chúng ta có thể vận dụng lòng từ bi nơi tự tâm để biết lắng nghe những Luis khác trong cuộc sống này và tạo ra sự bình yên chân thật cho chính ta.

Giao Hảo

Ơn Thầy

Ơn Thầy

Đăng lúc: 20:15 - 20/11/2015

Tôi vốn sinh ra trong một gia đình ở làng quê nghèo, có thể nói là nghèo xác nghèo xơ, nghèo khánh kiệt. Ở cái vùng quê thắt eo miền Trung khắc nghiệt ấy nắng, gió, bão táp luôn rình rập, bủa vây phận đời trôi nổi của mẹ con tôi qua những tháng năm dài theo vòng quay nghiệp dĩ.

Mẹ tôi, với suy nghĩ bình dị muốn thoát ra khỏi nghiệp đói nghèo dai dẳng ấy bằng cách khuyên dạy tôi: “Con phải học lấy năm ba chữ cho ấm thân và làm hành trang cho cuộc sống sau này”.

Lớp học xưa - Ảnh minh họa

Từ suy nghĩ giản đơn ấy như một thông điệp thiết thực, mẹ tìm mọi cách cho tôi đến trường vì: Sợ con mù chữ, đời nó sẽ khổ! Bởi, cái nghèo khó đã quấn chặt lấy đời mẹ và có thể trói buộc luôn cả đời con.

Luôn tâm niệm về điều đó nên mẹ không quản ngại thức khuya dậy sớm, đầu tắt mặt tối, bất chấp hoàn cảnh thiếu trước hụt sau, nỗi đau mất chồng… mà gắng lo cho con. Mẹ chỉ mong luôn có sức khỏe, để vượt qua chặng đường số phận, gánh nặng cơm áo gạo tiền mà lo cho con có được cái chữ. Nhìn bạn bè đồng trang lứa ngày ngày được đến trường học chữ, mẹ ứa nước mắt còn tôi chuyện được đi học như là sự viễn mơ...

Cuối cùng, bằng sự hy sinh phi thường ấy của mẹ, ước mơ “đi học” của tôi rồi cũng đã đến. Ngày mẹ dẫn tôi đến trường, tâm trạng của hai mẹ con rất vui nhưng vẫn rụt rè khép nép, pha lẫn chút sợ sệt âu lo. Lần đầu tiên được tiếp xúc với một thầy giáo, tóc thầy đã hoa râm, dáng thầy khắc khổ, hiện lên trên nét mặt là tính nghiêm khắc. Tôi cố bình tĩnh khoanh tay và cúi đầu chào thầy, còn mẹ tôi thì ấp a ấp úng nói không ra lời. Thầy cũng đoán được mục đích mà mẹ con tôi đến đây để cho tôi vào học lớp vỡ lòng.

Sau này tôi được biết, các cô cậu nhóc con trong lớp học của tôi có nhiều trình độ khác nhau: Kẻ thì học vỡ lòng, người thì học lớp ba, lớp tư… nên thầy phải chia thời gian dạy cho từng trò một. Tôi trình độ vỡ lòng, thầy dạy tôi hai mươi bốn chữ cái. Tôi vừa đánh vần, vừa tập đọc, vừa tập viết để nhớ mặt chữ. Cứ vậy, với một cây viết chì, một cục tẩy trên tay để nếu lỡ viết sai, không đúng quy cách ô li của thầy đã định thì xóa đi viết lại. Cứ vậy mà ê a và xoay tua đọc viết suốt ngày.

Khi thầy thấy tôi đã thuộc làu làu hai mươi bốn chữ cái, thầy hướng dẫn tôi học bảng cửu chương nhưng thỉnh thoảng thầy lại hỏi lại các chữ cái mà tôi đã học, như một cách ôn bài cho tôi. Sau khi đã thuộc nằm lòng hai mươi bốn chữ cái và bảng cửu chương, thầy bảo tôi mua một lưỡi viết lá tre gắn vô một cái cán chừng một gang tay thành một cây viết và một bình mực tím hoặc xanh rồi thầy dạy cho tôi viết chữ.

Bắt đầu từ những chữ đơn rồi đến chữ ghép. Khi tôi đã quen thuộc với lối viết ghép chữ rồi, thầy dạy tôi sang viết cả dòng chính tả. Cứ như vậy, thầy luyện đi luyện lại chữ viết cho tôi cho đến khi thật đẹp, bởi theo thầy “Nhìn chữ viết sẽ biết tính cách của con người” hay nói như ông bà xưa “Nét chữ nết người”.

Vì trong lớp có nhiều trình độ cũng như độ tuổi khác nhau nên thầy phải rất vất vả để “trị” đám học trò “ô hợp” và được mệnh danh là “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” chúng tôi. Thầy chọn phương pháp răn đe, bằng cách nhờ một trò tìm cho thầy một miếng vỏ mít khô làm dụng cụ trừng phạt. Thầy giao ước với chúng tôi: “Nếu em nào không thuộc bài hoặc làm bài sai, lần đầu tiên nhắc nhở, tái phạm lần thứ hai chép phạt, tái phạm lần thứ ba phạt quỳ gối trên miếng vỏ mít khô”.

Qua những lời răn dạy kèm theo hình phạt mà thầy đã đưa ra, bọn nhóc chúng tôi sợ lắm nên đứa nào đứa ấy bảo nhau chăm chỉ học tập để tránh hình phạt nhãn tiền mà thầy đã quy ước. Không biết phương pháp răn dạy ấy của thầy có đúng với quy chuẩn sư phạm ngày ấy hay không, nhưng nó đã rất tác dụng và hiệu quả với lớp học của thầy. Trong một không gian chật hẹp ấy với khoảng bảy mươi học sinh cấp tiểu học, trình độ khác nhau, độ tuổi khác nhau, ngồi chen ngồi chúc với nhau, mùa hè thì nóng bức, mùa đông thì tối tăm rét buốt, duy chỉ một mình thầy đứng lớp nhưng việc học của chúng tôi vẫn có kết quả tốt.

Cứ vậy, bằng sự cần mẫn, nhẫn nại và tình thương yêu bao la của thầy, đám học trò “măng tơ” chúng tôi ngày ấy mới có được như ngày hôm nay. Chiêm nghiệm cuộc đời mình, tôi thấy nhờ cách rèn người, rèn chữ bằng sự tận tâm tận lực của thầy và sự tri ân sâu sắc của phụ huynh xưa “Muốn con hay chữ phải yêu kính thầy” mà học trò từng bước nên người.

Trong thời buổi nhiễu nhương của ngày hôm nay, ở đâu đó vẫn còn có sự thất kính, khẩu khí hiềm khích, trích biếm từ những bậc phụ huynh làm buồn lòng các thầy cô giáo đang ngày đêm tận tụy mang con chữ đến lớp, từ thành thị, đến tận các vùng xa xôi, hẻo lánh, gieo tri thức cho lớp trẻ tương lai của đất nước này. Suy cho cùng, câu nói của người xưa “Không thầy đố mày làm nên” và đạo lý của tổ tiên ta “Công cha - nghĩa mẹ - ơn thầy” đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Còn tôi, đứa trẻ của mấy chục năm trước luôn kính cẩn ghi nhớ ơn sâu người thầy thuở ấy!
Thanh Phương

tải xuống

Người tu không sợ "đói"

Đăng lúc: 07:54 - 29/10/2015

Bước tiếp những bước chân của sứ giả Như Lai về với vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên ải, phiên dậu của non sông vì nơi đó thật sự cần chúng ta, bao trái tim chân chất đang đợi chờ, mời gọi sự dấn thân của tu sĩ trẻ.

Về với các em thiếu nhi bản Sán Sả Hồ, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang trong mùa Trung Thu vừa qua đã lưu lại trong tôi một cảm nhận sâu sắc về tấm lòng của người dân vùng cao và càng làm cho tôi cảm nhận sâu hơn lời dạy của Hòa Thượng Thiền Tâm trong thời kỳ khó khăn trước đổi mới rằng “Người tu không sợ đói”.

Trong thời gian đó sinh hoạt ở các chùa gặp nhiều khó khăn, các thầy phải tăng gia sản xuất để duy trì đời sống, phật tử đến chùa cũng rất ít, công việc phật sự gặp nhiều trở ngại làm cho không ít người hoang mang dao động kể cả các vị xuất gia…

Trong một lần nói chuyện với các tu sĩ tịnh xứ Hương Nghiêm Hòa thượng đã sách tấn…”Người tu không sợ đói”. Ngài kể lại câu chuyện rằng: "Vào một ngày Hòa thượng ngồi thiền tọa trên một ngọn đồi cho đến buổi trưa có hai em nhỏ chăn bò ở đồi cỏ bên cạnh đã đem một phần lon cơm trộn khoai mà các em đem theo để ăn đến cúng dường cho ngài”. Nơi vùng đồi núi cô quạnh chỉ có cỏ cây, đàn bò và hai đứa trẻ chăn bò nhưng hai em vẫn phát tâm dâng cơm cúng cho Hòa thượng rồi mới dùng… Điều Hòa thượng chia sẻ và sách tấn ấy đã làm cho rất nhiều tu sĩ trẻ chúng con lúc đó giữ vững niềm tin, vững bước trên bước đường tu tập của mình và chúng con nhớ mãi cho đến tận hôm nay.

Đem ánh trăng niềm tin hy vọng về với trẻ em vùng cao là chương trình mà Hội Sự Nghiệp Từ Thiện Minh Đức thực hiện suốt trong bảy năm qua. Năm nay chương trình về với trẻ em bản làng vùng cao nơi mà cuộc sống còn nhiều khó khăn, lần đầu tiên trẻ em trong toàn xã ai cũng được khám nha, ai cũng được phát quà dự liên hoa văn nghệ, đốt lửa trại, phá cỗ mừng đón Trung Thu trong niềm tin yêu hy vọng. Buổi chiều đến với núi rừng vùng cao sao thanh thoát đến vậy… trong thời gian đợi các bạn Thiện Nguyện Viên Trẻ chuẩn bị cho khâu tổ chức văn nghệ và phát quà vào buổi tối, tôi đã đi dạo ra ngoài cổng ủy Ban xã để ngắm nhìn phong cảnh núi đồi trùng điệp ở nơi đây.

Ngồi nơi triền dốc trước cổng ủy Ban để ngắm nhìn phong cảnh thiên nhiên và cho lòng ngực mở toang hít thở trọn vẹn bầu không khí trong lành không ô nhiễm. Các em học sinh lại đến quây quần bên tôi, hỏi thăm :“Thầy có mệt không ?” “mấy hôm nay thấy Thầy vất vả vì chúng con quá !”

“Mấy hôm nay chúng cháu vui lắm, mong đợi đoàn về tổ chức trung thu mà chẳng nhắm mắt ngủ được”…thế mới biết các cháu rất vui và mong đợi chương trình như vậy, nên công lặn lội vượt chặng đường xa của đoàn đến với các em là điều nên làm.

Thầy trò chuyện vãng vui tươi, các em lại nêu đề nghị “Thầy ơi thầy ở lại đây, ngày mai đừng về thầy nhá !” “Nhà chúng con sắp ăn cơm mới rồi thầy ở lại ăn cơm với chúng con đi” “Thầy ở lại đây luôn với chúng con thầy nhá, chúng con chẳng muốn thầy về đâu”. Thế rồi các em lại khóc, những giọt nước mắt chân thành lăn tròn trên đôi má của các em làm cho tôi xao xuyến, bùi ngùi… Tôi hỏi “ Thầy là thầy tu, sức khỏe thầy lại không tốt, không làm ra tiền, thầy ở lại đây lấy gì mà sống?” Các em ríu rít trả lời trong tiếng nấc và tiếp tục mời gọi “Thầy ở lại đi, chúng con sẽ nuôi thầy” “thầy ở lại đi, chúng con sẽ hái rau nuôi thầy, không cho thầy đói đâu” “Ở đây với chúng con có cái ăn mà thầy”… những lời nói chân thành chất phát được thốt ra tự đáy lòng của các em làm chúng tôi không cầm được nước mắt. Những con người ở đây họ thật lòng như vậy, không khách sáo màu mè, bụng nghĩ sao thì nói vậy, thực sự mong muốn thầy ở lại, và thực sự không để thầy phải đói.

Trong tâm khảm chúng tôi lại nhớ đến lời sách tấn của Hòa thượng năm xưa… “Người tu thật sự không bao giờ sợ đói”. Sợ là sợ chúng ta không thật tu mà thôi. Người cư sĩ hộ pháp không bao giờ để điều đó xảy ra… Đạo pháp màu nhiệm là thế đấy. Bao nhiêu tấm lòng của những người tu sĩ muốn dấn thân vùng cao, vùng sâu, vùng xa ở nơi đó những người Phật tử khát khao ánh đạo đang chờ đón và mời gọi chúng ta. Ở nơi đó có những khó khăn thật sự nhưng người cư sĩ và Hộ Pháp không bao giờ để “Người tu phải đói”. Hãy đến và hãy đi để trải nghiệm điều màu nhiệm cao cả này.

Bước tiếp những bước chân của sứ giả Như Lai về với vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên ải, phiên dậu của non sông vì nơi đó thật sự cần chúng ta, bao trái tim chân chất đó vẫn đợi chờ, mời gọi sự dấn thân của tu sĩ trẻ chúng ta.

Chia sẻ để cùng nhau vững tin và vững bước hơn trên hành trình hoằng hóa chúng sanh. Hãy tin, hãy bước và hãy đến với bao người !

Thích Giải Hiền

Vĩnh Phúc: Đêm hội Hoa đăng tri ân tôn sư Hải Triều Âm

Vĩnh Phúc: Đêm hội Hoa đăng tri ân tôn sư Hải Triều Âm

Đăng lúc: 05:39 - 08/08/2015

Tối ngày 05 tháng 08 năm 2015, nhằm ngày 21 tháng 06 năm Ất Mùi, toàn thể môn đồ Pháp quyến và nhân dân Phật tử chùa Linh Sơn – xã Lũng Hòa – huyện Vĩnh Tường – tỉnh Vĩnh Phúc đã long trọng tổ chức Đêm hội Hoa đăng dâng Phật nhân lễ Húy nhật Đại tường của cố Ni trưởng Thích Nữ Hải Triều Âm.
Đêm hội hoa đăng này nhằm mục đích hướng nguyện tâm thành đến mười phương chư Phật, và cũng là dịp để hàng đệ tử, môn đồ Pháp quyến, hàng Phật tử thể hiện lòng tôn kính đến cuộc đời và công hạnh của Cố Ni trưởng Thích Nữ Hải Triều Âm. Đồng thời cũng hy vọng rằng, ánh sáng của Từ Bi và Trí Tuệ của đêm hội hoa đăng này sẽ trải khắp lòng từ bi và bác ái, mang lại sự yêu thương và hiểu biết làm lợi lạc cho chúng sinh, nguyện cầu thế giới hòa bình, dân an quốc thái.
Chứng minh buổi lễ có: Hòa thượng Thích Thanh Đàm - Ủy viên thường trực HĐCM GHPGVN; Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm – Phó chủ tịch HĐTS kiêm Trưởng Ban hoằng pháp TW GHPGVN; Thượng tọa Thích Thọ Lạc – Ủy viên TT HĐTS TW GHPGVN, Phó thường trực Ban Văn hóa TW GHPGVN; Đại đức Thích Minh Nghiêm - Ủy viên HĐTS TW GHPGVN, Trưởng BTS GHPGVN Tỉnh Phú Thọ cùng chư tôn đức Tăng Ni đến từ các tự viện tịnh thất, chư tôn đức Tăng Ni môn đồ Pháp quyến cùng sự tham dự của đông đảo tín đồ Phật tử thập phương.
Mở đầu buổi lễ, sau lời phát biểu khai mạc của Thượng tọa Thích Thọ Lạc, Đại đức Thích Minh Nghiêm - Ủy viên HĐTS TW GHPGVN, Trưởng BTS GHPGVN Tỉnh Phú Thọ đã đọc ý nghĩa hoa đăng.
Và trong giây phút thiêng liêng nhất, chư tôn đức chứng minh và toàn thể đại chúng đã làm lễ niêm hương, bạch Phật, khai trì Đại thừa Vô thượng Pháp Bảo Đại Bi Thần Chú và Bát Nhã tôn kinh để chú nguyện ánh sáng. Sau đó, Hòa thượng Thích Thanh Đàm và Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm đã đón nhận ánh sáng trí tuệ từ bàn thờ Phật, truyền trao cho chư tôn Thiền đức, như một biểu hiện của Tăng đoàn hòa hợp, của chính pháp rạng ngời.
Từ ngọn nến trên tay chư tôn đức, quý đại biểu chính quyền và Phật tử cũng tuần tự đón nhận nguồn ánh sáng của trí tuệ, soi chiếu vào dòng đời để phá tan vòng vô minh si ám. Ánh nến tiếp tục truyền đi, vùng sáng dần dần được lan tỏa. Đó là ngọn nến của hiểu biết, trang trải vào tất cả để cuộc sống tình người ngày càng một cảm thông hơn.
“Cung kính đỉnh lễ Đức Từ Phụ A Di Đà!
Cầm ngọn nến trên tay, ánh sáng truyền đến với nhau, chúng con thầm hiểu ra một điều rằng cõi đời này đêm tối vô minh vẫn còn dài lắm, bao nỗi thống khổ, những hệ lụy trần gian vẫn còn nhiều lắm. Bao phiền muộn trái ngang vẫn cứ quằn nặng lên đôi vai bé nhỏ. Nước mắt vẫn rơi, máu đào vẫn đổ. Trong khi đó, tất cả chúng con đang là những kẻ lạc lõng bơ vơ giữa dòng đời muôn lối. Không có ánh đuốc sáng soi đường, không tìm thấy một người chỉ nẻo. Vậy mà đường đến bờ lành đối với chúng con vẫn còn mờ xa thăm thẳm. Có ước mơ gì trong những cuộc viễn chinh mỏi mòn và lê thê ấy, có tìm thấy được gì sau bao tháng ngày rong ruổi bồng phiêu. Nhìn lại tất cả chỉ là bọt bèo hư huyễn.
Ngày vui vụt qua thoáng chốc, tuổi xanh thoắt đó hết rồi. Kiếp nhân sinh như phù du tù tánh, bả lợi danh như biển nước mây bay. Nhưng kính lạy Đức Từ Phụ: nhờ ánh quang minh và lòng từ mẫn của Người soi đến, chúng con đã định hướng được đường về. Có Tam Bảo để tựa nương, biết cầu vãng sanh nơi Phật cảnh.”
Buổi lễ đã kết thúc bằng phút mặc niệm thiêng liêng, lắng lòng tâm tư ngưỡng nguyện giác linh cố Ni trưởng Thích Nữ Hải Triều Âm cao đăng Phật quốc, thượng phẩm thượng sinh, không quên nguyện lực, tái hiện Sa bà, giáo nhân bất quyện.



































































Chùa Bằng

grab1438043622Duc Phat Thich Ca 550x371

Gian lao không làm ta nhụt chí

Đăng lúc: 20:56 - 27/07/2015

Bạn với tôi là cùng màu áo, chung thờ một lý tưởng. Ðã lâu chúng ta không gặp nhau, hoặc đã gặp mà không có dịp trao đổi ý kiến cùng nhau. Hôm nay ngày hoan hỉ đã về, lòng tôi thấy nao nao, nhớ đến bạn và cần nhủ đôi lời cùng bạn, gọi là thực hiện phần nào điều “KIẾN HÒA ÐỒNG GIẢI” của đức Từ Phụ đã dạy chúng ta.
Duc_Phat_Thich_Ca
Bạn ạ! Trên đường học đạo thật xa diệu vợi, chúng ta tiến bước đã dẫm phải bao mũi gai nhọn cản trở, và hiện thăm thẳm những hố sâu, sừng sững những vách đá chơi vơi chặn lối đi của chúng ta.
Ở trường hợp này, bạn xử trí thế nào? Lùi lại chăng? Hay hăng hái tiến tới? Chắc bạn sẽ đồng thanh với tôi, chúng ta không thể lùi lại, mà vẫn anh dũng tiến lên, vì đó là hướng ta nhắm. Bảo thành đã hiện trước mắt ta rồi, dù phải tan thân mất mạng, chúng ta cũng được hài lòng, vì cái chết đó làm tăng thêm giá trị ta và đưa ta vượt lên một nấc khá cao trên cây thang đạo hạnh.
Bạn thử nghĩ! Những học sinh trung học, sinh viên đại học chịu biết bao khổ sở do những cuộc thi hành phạt. Có đôi khi, họ phải gạt nước mắt, cho đến muốn tự tử là khác. Như vậy người bày ra cuộc thi, phải chăng vì muốn ngăn bước tiến của họ? – Nhất định là không. Ðó là những cuộc thử thách để khuyến khích họ cố gắng thêm, là cây thước để đo trình độ và khả năng của họ, cũng là làm tăng giá trị của họ vậy. Nếu một sinh viên đủ lý trí, có sợ thi khó mà bỏ học chăng? Có cưu lòng oán hận người khảo hạch mình không? – Chắc là không, họ sẽ mang ơn những người khảo hạch, vì nhờ đó mà họ tiến thêm.
Lại nữa, một chiến sĩ, vì bảo vệ non sông tổ quốc và rạng danh cho giống nòi, nên xem thường chết sống, lăn mình vào rừng bom đạn. Nếu một chiến sĩ mặc bộ nhung phục bóng láng, cỡi con bạch mã thật xinh, mỗi khi ngồi trên lưng ngựa xem rất oai vệ, nhưng suốt đời chỉ ăn với ngủ, thì còn gọi được là “chiến sĩ” chăng? Cố nhiên, người chiến sĩ muốn được ngày khải hoàn rực rỡ: mỗi nhịp ngựa là hằng vạn tiếng hoan hô, hoa bội tinh bừng nở trên ngực, trước muôn triệu cặp mắt nhìn quên nháy và ước mơ, thì phải lăn mình trong ngàn tên muôn giáo, xem cái chết nhẹ hơn làn gió thoảng. Như vậy, những nguy hiểm gian lao đối với người chiến sĩ anh dũng sẽ không thấy gian lao mà chỉ thấy là công danh sự nghiệp.
Bạn ạ! Chúng ta là người chèo thuyền ngược dòng đời, thì làm gì có sự dễ dàng bình thản. Giả sử có, thì mục đích chúng ta nhắm đâu còn cao quí, vì mọi người đều có thể đến được. Bạn thử tưởng tượng, nếu một tu sĩ ăn no, ngủ kỹ, đầy đủ mọi nhu cầu, mãi sống trong cảnh nhàn hạ, mà được thành Phật, thì ông Phật ấy còn ai chịu lạy chăng? – Chắc là không! Vì dễ làm quá, có gì khó khăn mà phải kính phục. Sở dĩ chúng ta và mọi người đều tôn sùng kính lạy đức Phật, vì Ngài làm những điều mà chúng ta chưa làm được. Như vậy, giá trị người tu có là do vượt qua mọi hiểm trở khó khăn, ở chỗ ô trọc, mà tâm vẫn thanh bạch cao khiết.
Bạn đang tu hạnh nhẫn nhục chăng? Nếu bạn tu hạnh nhẫn nhục, mà không có người mạ nhục, đánh đập để thử lòng bạn có phiền, có giận chăng? Thì cái nhẫn nhục ấy chỉ là nhẫn nhục ở đầu môi. Muốn chứng thật hạnh nhẫn nhục của bạn, phải có người mạ nhục, đánh đập: ấy là lửa thử vàng nhẫn nhục của bạn vậy. Ðức Thích-ca khi còn làm vị tiên tu nhẫn nhục, nhờ có vua Ca-lợi cắt tay, thẻo mũi… Ngài mới chứng được nhẫn nhục Ba-la-mật.
Bạn đang tu hạnh bố thí chăng? – Thế là những kẻ đến xin đều là ân nhân của bạn. Nếu thiếu họ, bạn sẽ không viên mãn công hạnh. Mặc dù trong số người xin cũng có một hai kẻ đèo bòng, xin những điều không thể cho được. Nhưng bạn đừng vội phiền họ, mà bạn phải tự trách mình hạnh bố thí chưa cứu kính. Người Bà-la-môn xin con Thái tử Tu-đại-noa, chính là người đã giúp Ngài thành tựu hạnh bố thí Ba-la-mật, các hạnh khác cũng thế.
Tất cả cuộc thử thách đều là sự chứng thật hạnh tu hành của mình. Người hay hoàn cảnh để thử thách ta đều là ân nhân, là cảnh tốt nâng đỡ ta lên từng lầu thánh nhân. Vì thế trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đã nói: “Ðề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức bậc nhất của ta, nhờ Ðề-bà-đạt-đa mà ta mau chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Như trên bạn đã thấy, cái “khó” không phải là điều làm nhụt chí ta, mà là sự nghiệp, là chứng thật đời tu của ta. Càng gian lao, càng khó khổ, chiến thắng được nó thì giá trị ta càng cao, sự nghiệp ta càng lớn. Vì thế, các vị Bồ-tát hy sinh cảnh Niết-bàn để vào địa ngục cứu độ chúng sanh.
Chúng ta đã là người tu, người sẵn sàng chịu khó khổ, mọi thử thách để rèn luyện lòng mình, để thay khổ cho chúng sanh, thì bao giờ có thở dài khi gian lao, chau mày khi nguy hiểm… mà nhất định tươi tỉnh hăng hái tiến thẳng đến mục đích tuyệt vời của mình đã nhắm. Ấy là con đường mà tôi và bạn cùng đi, cùng hướng. Vậy chúng ta sẽ hẹn ngày để gặp nhau ở điểm cứu kính này.

Theo Phật học

Khi người không yêu ta, hãy biết từ bỏ…

Khi người không yêu ta, hãy biết từ bỏ…

Đăng lúc: 18:42 - 13/07/2015

Tổn thương trong tình yêu có thể khiến người ta làm nhiều việc điên rồ mà suốt đời họ sẽ phải hối tiếc.
Do đó, trách nhiệm của người làm cha mẹ là mô tả, gọi tên được bản chất của tình yêu, để những đứa con non nớt trải nghiệm của mình hiểu được rằng, yêu là cảm xúc của khoảnh khắc.
0-1436605240
Phải tự tìm dòng suối nơi chính bản thân mình: dòng suối của sự tự do
Nếu khoảnh khắc đó kéo dài được nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, là bởi vì giữa hai người có nhiều yếu tố đủ để gắn kết, chia sẻ, giáo dục, bổ sung lẫn nhau.
Nếu khoảnh khắc đó ngắn ngủi thì bởi vì giữa hai người không có đủ hoặc quá ít yếu tố để tạo nên một tình yêu bền vững.
Do đó, nếu con yêu một người mà nhanh chóng phai lạt, hoặc họ nhanh chóng rời bỏ con, đó là bởi giá trị mà hai con mang cho nhau không thật sự đủ, đối với họ.
Nếu con đã có một quá trình yêu thương khắn khít, mà cuộc tình đó làm cho con hạnh phúc nhưng người kia cũng bỏ con ra đi, bởi vì con không thật sự cần cho họ nữa.
Phải đối mặt với việc mình trở nên vô nghĩa với người mình yêu thương nhất, thật là một trải nghiệm đau đớn, khó khăn, không ai đủ già dặn hay chai sạn để cảm thấy bình thường hay thản nhiên trước điều đó. Nhưng nếu con yêu một người thật lòng, con phải hiểu rõ rằng, nếu một người hết yêu mình, không phải lỗi của họ.
Yêu thương là tiếng nói của trái tim chứ không phải sự tách bạch rạch ròi của lý trí. Không ai xứng đáng để bị phán xét nếu trái tim họ không còn chỗ cho một người nào đó. Hay là, kể cả khi ai đó không còn yêu chúng ta như cách chúng ta hằng mong muốn, thì đó không phải lỗi của họ.
Nếu thật yêu một người, chắc chắn con sẽ làm được việc này: nuốt nước mắt vào trong để nhìn thấy họ hạnh phúc, bằng lòng, an nhiên với một người khác. Bởi nếu yêu thật sự một người, con sẽ hiểu rằng, níu giữ họ bên cạnh mình sẽ gây ra sự khó chịu, oán hờn, khinh thường, mâu thuẫn hay những thứ phức tạp, khó chịu hơn.
Tìm cách để níu giữ một người đã ra khỏi tình yêu cũng giống như tìm cách đứng trong bóng râm giữa sa mạc không có nước và bóng cây. Sự thiêu đốt khủng khiếp của nỗi cô đơn sẽ đeo bám con trước tiên, rồi mới tới người bị con níu giữ. Sao có thể níu cái bóng của một con người?
Và vì con không mang lại hạnh phúc cho họ, nên con phải có trách nhiệm tự mang hạnh phúc cho mình, trả lại họ cơ hội yên vui. Khi một khoảnh khắc tình yêu qua đi, nếu con vẫn còn để trái tim mình trong trẻo lành lặn, tự khắc sẽ có một tình yêu khác đến. Nếu làm tổn thương mình chỉ vì không có được tình yêu của người khác, có phải con quá tàn nhẫn với bản thân con hay không?
Vụ thảm sát vì tình tại Bình Phước một lần nữa gióng lên hồi chuông cảnh báo cho các bậc phụ huynh. Trong xã hội chồng chéo các giá trị đông tây, những đứa trẻ ở trong nhà của chúng ta mỗi sáng vẫn cắp sách đến trường, hát những bài nhạc trẻ dễ dãi hời hợt, nhảy theo các điệu nhảy của các ca sĩ nhuộm tóc nhiều màu của Hàn Quốc, ăn những thức ăn nhanh của Mỹ…, đến lúc nào đó sẽ bắt đầu biết yêu. Nói với con về tình yêu như thế nào để không có ngày những đứa trẻ của chúng ta trở thành những “sát thủ” khi tình yêu đổ vỡ?
Và nếu làm tổn thương người khác chỉ vì không được yêu như ý muốn, có phải con quá vô lý hay không, bởi kể cả họ đã chết, có phải con sẽ không bao giờ được họ yêu thương, và sẽ không bao giờ có được cơ hội yêu thương trong trẻo một lần nữa? Hay có thể con sẽ sống suốt đời trong nỗi cô đơn khủng khiếp, nỗi ám ảnh kinh hoàng không gì gột rửa nổi?
Con lấy quyền gì để yêu cầu tình yêu từ người khác? Cho nên, từ bỏ cũng là một loại vốn. Đó chính là vốn cơ hội. Khi từ bỏ một điều không còn phù hợp, một người không còn yêu con nữa, đó là cơ hội cho con có một tình yêu khác. Nhưng quan trọng hơn, đó chính là cơ hội tự do cho người mà con đang yêu thương.
Không ai phải xấu hổ hay nhục nhã vì thất bại trong tình yêu hết. Bởi tình yêu là một dòng suối ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn con người, chứ không phải là cuộc chiến. Nếu không còn dòng suối đó, con phải tự tìm dòng suối nơi chính bản thân mình: dòng suối của sự tự do.
Ngô Phương Thảo
Theo Tuổi Trẻ

Nét Chữ Của Mẹ Tôi

Nét Chữ Của Mẹ Tôi

Đăng lúc: 20:49 - 10/07/2015

Mẹ tôi xuất thân làm nghề ruộng, từ nhỏ đã rành sáu câu việc cấy gặt hơn là thuê thùa may vá. Tản cư tránh bom đạn, mẹ đã nhiều lần bồng bế tôi về quê ngoại, chứng kiến công việc của mấy dì tôi thấy hình bóng chính người mẹ tần tảo của mình ngày trước trên đồng lúa. Cắm cúi với đồng lúa, mẹ học hành đâu có mấy chữ cỡ vỡ lòng hay lớp 1, 2 bây giờ thôi. Ở chợ bán buôn lặt vặt xôi chè đẵm đổi, cân đường, ký đậu mẹ nhẩm tính rất lâu, ăn nói thì vụng về, ti vi cũng không xem được vì mắt yếu bẩm sinh. Vậy đó, mẹ quê mùa giữa chợ đời, thua thiệt.


Tôi siêng học lắm, và đấy hầu như là thú vui duy nhất của một trẻ nghèo. Nhà lá dột nát mà tủ sách hàng top trong thị trấn, đủ sách đông tây kim cổ mua từ tiền mò cua bắt cá, nhiều lần tủ bị tạt nước mưa, phơi sách trên chiếu ngoài sân đầy một khoảnh!

Nhưng mẹ tôi không biết xem sách, và đọc – khi cần, như giấy tờ hành chính- chật vật lắm, đánh vần từng chữ cái một theo cách xưa- nên tôi tôi không thể sẻ chai với mẹ tinh hoa văn hóa từ những trang sách, dù rất muốn. Điều ấy sau này có điều kiện tôi đã làm theo cách khác: mua thật nhiều đĩa VCD theo lớp lang nhất định để cho mẹ xem dần, hàng ngày, như học “hàm thụ” vậy: Tây Thi, Lưu Bình – Dương Lễ, Phạm Công Cúc Hoa, Bên cầu dệt lụa, Thoại Khanh Châu Tuấn.. Mấy trăm đĩa, và mẹ hạnh phúc theo cách có thể thấy được: người nói nhiều hơn, trong bữa cơm hay lúc rảnh việc, về các nhân vật trong tuồng tích cổ với lời bình phẩm, cảm xúc. Đấy, mẹ tôi học “bổ túc” như thế đấy.

Đời học sinh của tôi ngay cấp II đã nếm mùi vị hạnh phúc: liên tiếp đạt giải học sinh giỏi. Khi lên tỉnh tập trung luyện thi vòng toàn quốc, tôi xúc động nghĩ nhiều về người mẹ vụng về của mình. Trong quyển vở trắng tinh được thưởng, hàng viện trợ của Unicef, tôi cẩn trọng xin vài chữ lưu niệm từ thầy cô, bạn bè. Ở trang đầu tiên, tôi giành cho mẹ. Mẹ xúc động, lúng túng mãi, cây viết trật vuột trong tay, ngoằn nghèo trên trang giấy trắng. Tôi ..đã đọc cho mẹ mình viết: “Mẹ rất vui, mong con đi xa giữ gìn sức khỏe, đừng lo cho mẹ ở nhà…”. Chỉ có mấy chữ loằng ngoằn mà mẹ viết khá lâu, tôi nhìn trong làn nước mắt nhòe nhoẹt… Đấy là lần đầu tiên mẹ tôi viết. Quyển vở ấy sau bao biến đổi bể dâu, nay không còn nữa, song tôi nhớ rất rõ từng dòng lưu bút của thầy cô bạn bè, trước nhất là nét bút của mẹ mình.

Mẹ viết như thế, mấy chữ đã khó khăn, vậy mà Người nâng bước cho tôi vào đời, mua gánh bán bưng cho tôi có khoảng trống mà học hành, đọc nghìn vạn chữ. Bây giờ tôi gõ máy tính như nghệ sỹ dương cầm, có thể viết thẳng suy nghĩ của mình rất nhanh, gửi đi cộng tác các báo, chính là khởi đầu từ nét bút vụng về của mẹ. Mẹ tôi không viết bằng mực trên giấy- ngoài lần duy nhất như đã kể qua- mẹ viết bằng mồ hôi, ý chí trên chính cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn nắng gió.

Mẹ già rồi, trên bảy mươi, dáng còng, giấc ngủ nhọc nhằn. Người chỉ viết có một lần trong đời, theo lời đọc của con mình, mấy mươi năm trước. Mẹ ơi!

Nguyễn Thành Công

Thà khuấy động nước nghìn sông, chứ không được làm động lòng người tu đạo

Thà khuấy động nước nghìn sông, chứ không được làm động lòng người tu đạo

Đăng lúc: 20:48 - 04/07/2015

Thiền phòng tĩnh lặng như đầm nước chết, yên ắng như chốn không bóng người;

Chỉ có lão thiền sư đứng trông, mọi thứ trước mắt ông đều minh bạch;

Bốn mươi vị pháp sư tham gia bế quan lần này;

Hôm nay đã đến quan ải cuối cùng, cửa ải vượt ngoài sinh tử;

Cửa sinh tử ấy chính là sắc tình, sắc tình chẳng đoạn, sinh tử khó thoát.

Chỉ mong sao những vị pháp sư hôm nay không xảy ra chuyện gì, thuận lợi vượt quan.

Một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần chợt xông thẳng vào trong phòng thiền…..

Trong lúc lão thiền sư đang lo lắng cầu nguyện, bỗng có tiếng cãi cọ từ ngoài cửa truyền vào;

Thì ra là vị pháp sư canh giữ bên ngoài thiền phòng đang tranh cãi với một người con gái, lão thiền sư lẳng lặng mở cửa phòng đi ra để can ngăn cuộc cãi vã, nhưng chính ngay lúc đó, người con gái đẩy mạnh cửa phòng, bất thình lình cất bước xông thẳng vào phòng thiền.

Khi vị pháp sư trông coi phòng thiền muốn ngăn lại nhưng chẳng kịp, bốn mươi vị pháp sư đang thiền định vượt quan, nghe thấy tiếng cửa phòng mở, gần như đồng thời mở mắt, tất cả đều bị cô gái ở trước mặt làm cho sững sờ.

Một thiếu nữ duyên dáng yêu kiều, thật là tú mĩ, đoan trang, xinh đẹp, diễm lệ biết bao; ánh mắt của cô đảo quanh một vòng, nhìn khắp từng vị thiền sư đang ngồi ngay ngắn nơi kia; rồi đáp lại bằng một nụ cười thanh nhã dịu dàng; giây phút ấy thật khiến người ta ngơ ngẩn tâm hồn, nụ cười rung động lòng người đó, đủ khiến cho bất cứ người nào một lần nhìn thấy cả đời khó quên.

Lão Thiền sư cung kính hợp thập hỏi:

“Xin hỏi nữ thí chủ, cô đi vào thiền phòng của tôi, không biết là có việc gì”.

“A Di Đà Phật! Tiểu nữ được biết các vị pháp sư bế quan tu luyện ở đây, vậy nên đặc biết đến đây để cúng dường cho mỗi vị một đôi giày, cúi xin lão thiền sư từ bi, để cho tiểu nữ có thể hoàn thành tâm nguyện của mình”.

“Nếu đã như vậy, xin thí chủ hãy để giày lại, để sau khi xuất quan, lão nạp sẽ thay thí chủ phát lại cho mỗi người là được rồi”.

Thiếu nữ khẽ lắc đầu, mỉm cười đáp:

“Tiểu nữ đã phát nguyện rằng sẽ đích thân đem mỗi đôi tăng hài mà mang vào chân cho từng vị pháp sư, cúi xin ngài hãy rủ lòng từ bi, như vậy vừa hoàn thành tâm nguyện của tiểu nữ, cũng hoàn thành tâm nguyện khó nói của chư vị pháp sư”.

Người thiếu nữ đích thân mang từng đôi hài vào chân cho các vị pháp sư…..

Lúc này, bốn mươi vị pháp sư trong phòng thiền vừa nghe thiếu nữ muốn đích thân mang giày vào cho mình, người nào người nấy tim đập thình thịch, ai ai cũng đều lộ vẻ vui mừng ra mặt.

Lão thiền sư bất đắc dĩ thở dài một hơi, hai tay hợp thập đáp:

“Nếu đã như vậy, xin thí chủ cứ tự nhiên”.

Thiếu nữ khẽ dời gót sen, lần lượt mang giày cho từng vị pháp sư. Khuôn mặt kiều mĩ đó, bàn tay mềm mại đó, dáng vẻ thướt tha đó, mùi hương thơm ngát đó, khiến cho bậc tu hành ai nấy đều thở dài xúc động:

Nếu có thể bầu bạn với cô gái này chỉ một ngày thôi, cho dù có chết cũng mãn nguyện!

thiền, sắc tình, người tu đạo, Bài chọn lọc,

Thà khuấy động nước nghìn sông, chứ không được làm động lòng người tu Đạo! Cô hôm nay đã khuấy động đạo tâm của bốn mươi vị pháp sư trong thiền phòng của ta…..

Khi thiếu nữ mang xong giày cho vị tăng nhân cuối cùng, chuẩn bị rời khỏi phòng thiền, thì mới phát hiện rằng cánh cửa thiền phòng đã bị khóa cứng, thiếu nữ đến trước mặt lão thiền sư hỏi:

“Sư phụ, người nhốt tiểu nữ trong phòng thiền này, chẳng hay có dự tính gì? Tiểu nữ ra ngoài thế nào đây?”

Lão thiền khuôn mặt thâm trầm tĩnh lặng như nước, lạnh lùng nói:

“Cô hôm nay còn định ra ngoài sao?”

“Đúng vậy, tăng hài đã mang xong rồi, tiểu nữ cũng phải trở về nhà thôi”.

“Thà khuấy động nước nghìn sông, chứ không được làm động tâm người tu hành! Cô hôm nay đã khuấy động đạo tâm của bốn mươi vị pháp sư trong thiền phòng của ta, vậy mà cô còn suy nghĩ sẽ sống sót mà bước ra khỏi đây hay sao?”

Thiếu nữ bàng hoàng, hỏi:

“Tiểu nữ đến để bố thí tăng hài, các pháp sư thấy sắc động tâm, lẽ nào đây lại là lỗi của tiểu nữ? Xin người hãy mau mở cửa thả tiểu nữ ra ngoài”.

“Thả cô ra thì rất dễ, nhưng cô phải để lại một thứ”…..

“Xin hỏi sư phụ, người muốn tôi để lại thứ gì?”.

“Mạng của cô”, lão pháp sư nói như đinh đóng cột.

Thiếu nữ nước mắt lưng tròng, đau đớn lòng người mà quỳ trước mặt lão thiền sư, ủy khuất hỏi:

“Cớ sao lại muốn mạng của tiểu nữ?”

“Vì cô hôm nay đã gieo một nhân ác, ở trước mặt cô chỉ có hai con đường: Một, cô sẽ phải luân hồi trong kiếp thân nữ đến bốn mươi đời, lần lượt gả cho bốn mươi vị pháp sư đã vì cô mà động lòng phàm, họ cũng sẽ phải luân hồi trong lục đạo, bất luận họ chuyển sinh vào đường nào, cô đều phải tùy theo nghiệp chướng mà gả cho họ. Hai, chính là hôm nay cô chết tại nơi này, để đoạn đứt cái nhân luân hồi trong bốn mươi kiếp này“.

Thiếu nữ hoảng sợ mở to đôi mắt diễm lệ của mình, mặc cho nước mắt ủy khuất chảy dài xuống hai gò má.

“Tiểu nữ không còn có sự lựa chọn nào khác nữa sao?”

Lão thiền sư kiên quyết trả lời:

“Đúng vậy! Hai con đường tùy cô chọn lấy”.

Thiếu nữ chậm rãi nói với lão thiền sư rằng:

“Phiền ông hãy kiếm cho tôi một dải lụa, thà rằng tôi để mạng lại đây, cũng không muốn luân hồi làm thân nữ trong bốn mươi kiếp nữa”.

Nghe thấy những lời của người thiếu nữ, bốn mươi vị pháp sư trong phòng Thiền đều ngẩn người ra, nhìn thấy người thiếu nữa mới đây thôi vẫn còn yêu kiều quyến rũ rung động lòng người, mà giờ đây lại thần sắc nặng nề, tay cầm dải lụa từ từ đi đến trước cửa để kết thúc sinh mệnh quý báu, mỹ lệ của mình, không ai không cảm thấy tiếc nuối.

Người thiếu nữ đó đã tự sát, chính là chết treo trên xà ngang ngay trước cửa thiền phòng…..

Đó từng là một sinh mệnh tràn đầy sức sống, mà nay như đống tro tàn nguội lạnh; đó từng là gương mặt diễm lệ như hoa như ngọc, nay đã nhợt nhạt lạnh lẽo, dù không mất đi vẻ đẹp của mình.

Ba ngày sau đó, thi thể người thiếu nữ bắt đầu thối rữa, dung mạo mĩ lệ cũng đã đổi màu; nhưng lão thiền sư cứ giống như chưa từng xảy ra chuyện gì, mỗi ngày trông coi bốn mươi vị pháp sư bế quan tu luyện trong phòng thiền.

Mỗi ngày trôi qua, thi thể của người thiếu nữ từng ngày cũng đang phát sinh biến hóa; nguyên là thân thể thướt tha yểu điệu, giờ đây đã sưng vù rữa nát không sao tả được; gương mặt từng khiến cho bao người động lòng kia, giờ đây đã biến thành màu xanh nhạt. Thi thể không ngừng rỉ nước, bốc ra những mùi hôi thổi khiến người ta ngửi thấy muốn nôn. Những vị sư phụ bế quan không cách nào chịu đựng được nữa, muốn xin lão thiền sư mở cửa sổ ra để thay đổi không khí, và dời cái xác chết này đi. Tuy nhiên, lão thiền sư vẫn coi như không có chuyện gì cả, tiếp tục canh giữ trong thiền phòng mà không nói lời nào.

Ngày thứ bảy, bốn mươi vị sư phụ bế quan tu luyện, khi đối diện với xác chết hôi thối cực kỳ, hình thù khiến người ta hoảng sợ, thì không tài nào chịu đựng thêm được nữa. Lúc này, một tảng thịt trên xác chết rơi xuống, váy áo cũng rơi xuống theo. Lúc này, mọi người mới nhìn rõ, ngay tại cái chỗ miếng thịt thối rơi ra để lộ ra phần xương trắng rợn người. Vô số dòi bọ đang lúc nhúc ngọ nguậy bên trong.

Mọi người không còn khống chế bản thân được nữa, gần như nôn ọe cùng lúc. Lão thiền sư đang ngồi trên tấm bồ đoàn từ từ đứng dậy, đối diện với mọi người, lạnh lùng nói :

“Mọi người muốn ra khỏi phòng thiền, đúng không?”

Bốn mươi người đồng thanh trả lời:

“Đúng vậy!”

Ai có thể trả lời câu hỏi của ta, thì có thể ra ngoài…..

Người thiếu nữ đó là ai?

“Được thôi, ai có thể trả lời câu hỏi của ta, thì có thể ra ngoài, ai muốn trả lời thì hãy giơ tay lên”.

Bốn mươi vị pháp sư đều giơ tay cùng lúc, lão thiền sư xoay tay lại chỉ vào xác chết người thiếu nữ bên cạnh, hỏi:

“Người thiếu nữ này là ai?”

Bốn mươi vị sư phụ bế quan tu luyện đều ngây người ra, không nói được lời nào.

Lão thiền sư đứng trước mặt xác chết người thiếu nữ, lớn tiếng hỏi:

“Nói cho ta biết, người thiếu nữ này là ai? Có phải là người thiếu nữ khiến cho các ông thần hồn điền đảo, suy nghĩ lung tung đó phải không?”

Mọi người cùng đáp:

“Không phải!”

“Bây giờ có còn muốn cùng người ta chung sống cả đời nữa không?”

Mọi người trăm lời như một:

“Không!”

“Trên thế gian này còn có người con gái nào xứng đáng để cho các ông động lòng nữa không?”

Mọi người đồng thanh trả lời như đinh đóng cột:

“Không có nữa!”

Lão thiền sư vung tay lên:

“Tốt, ra ngoài đi!”

Thi thể của cô gái được bao phủ lại bằng một tấm vải màu vàng, được bốn mươi sư phụ xuất quan khiêng ra ngoài…..

Các vị sư phụ không tản đi, vì trong tâm họ vẫn còn một nút thắt: “Người thiếu nữ này là ai?”

Lão thiền sư thần thái trang trọng dẫn theo mọi người đến nơi đặt thi thể của người thiếu nữ ấy, đảnh lễ ba cái xong, bèn nói với mọi người rằng:

“Không phải các ông muốn biết người thiếu nữ này rốt cuộc là ai hay sao? Sau khi tôi đi khỏi đây, các ông hãy tự mình xem đi”.

Nói xong, lão thiền sư xoay người trở về căn phòng nhỏ của mình.

Khi kéo tấm vải màu vàng đang phủ kín trên thi thể người thiếu nữ ra…..Chính là Thánh tượng Quan Thế Âm Bồ Tát trong tự viện…..

Khi mọi người vội vàng kéo tấm vải màu vàng đang đậy trên thi cô gái ra, tất cả đều sững sờ, đây đâu phải là xác chết đã thối rữa mà họ đã khiêng ra ngoài đâu? Mà đó chính là Thánh tượng của Quan Thế Âm Bồ Tát trong tự viện, mọi người cung kính mà sắp xếp ổn thỏa Thánh tượng Quan Âm Bồ tát xong, mới nhớ ra rằng nên hỏi thử lão thiền sư xem sao ông lại biết được? Khi mọi người như điên như dại chạy đến gian phòng của lão thiền sư, mới phát hiện rằng ông đã tọa hóa viên tịch rồi.

Đây chính là Thiền, điều để lại cho chúng ta là lời nhắn nhủ, chứ không phải tiếc nuối.

Hãy phá trừ tất cả giả tướng của thế gian, đi hết cuộc đời quý báu của mình, trân quý cuộc đời mình, hiến dâng cuộc đời bằng một trái tim tự tại bình lặng.

Thì ra đây chính là Thiền…

Quả thật là huyền diệu vô cùng!

Tiểu Thiện, dịch từ cmoney.tw

Loài Vật Cũng Có Cảm Xúc

Loài Vật Cũng Có Cảm Xúc

Đăng lúc: 20:57 - 21/06/2015

Khi một người gặp tai nạn, người khác vội vàng đến giúp đỡ. Vậy tại sao khi loài vật gần gũi nhất với con người gặp nạn, chẳng ai chạnh lòng đến cứu chúng? Ôi, từ bi tâm của chúng ta ở nơi đâu?
Tình bạn cảm động của hai chú chó
Trên con đường đông đúc xe cộ, một con chó không ngừng lay bạn của nó đang nằm bất động rồi chạy quanh cầu cứu mọi người giúp đỡ. Con chó bị xe đâm nằm bẹp giữa đường. Một con khác trông rất buồn thảm, dùng mõm và chân lay liên tục mong bạn nó hồi tỉnh. Sau đó, nó chạy quanh ngỏng cổ lên cầu khẩn người qua đường giúp đỡ.


Hình ảnh thương tâm này đã được đăng lên mạng internet, khiến cư dân mạng chạnh lòng.



Con chó cố gắng lay bạn tỉnh lại. Tuy nhiên, theo Tom, nhiều độc giả rất bức xúc vì trước tình cảnh đáng thương của đôi chó, không người đi đường nào dừng lại giúp đỡ chúng. Những chiếc ôtô tránh đường rồi đi mất. Nhiều người đi bộ chỉ đứng nhìn hoặc chạy lại chụp ảnh như một chuyện kỳ khôi.



Con chó không bỏ mặc người bạn đáng thương. Sau một hồi lay bạn, nó ngỏng cổ lên cầu cứu người đi đường giúp đỡ.



Nhưng không ai chạy lại cứu giúp.​

Tình nghĩa loài chim nhạn nhỏ bé

Ngay cả loài chim nhỏ bé cũng không nỡ bỏ rơi bạn mình, thế mà loài người chỉ vì lợi danh, tiền bạc có thể đánh đổi tất cả, ngay cả chính bản thân mình.


Một con chim nhạn bay lượn thấp là đà ngang qua đường phố bị một chiếc xe đụng phải. Nàng chim mái nầy bị thương nặng và đang chờ chết.


Chàng chim trống sà xuống mang theo thức ăn và tận tình lo lắng.


Chàng bay đi rồi trở lại mang thêm thức ăn cho nàng, nhưng nàng đã nằm bất động.


Chàng cố lung lay gọi nàng …. một hành động hiếm thấy từ loài chim nhạn


Khi nhận ra rằng nàng đã ra đi, vĩnh viễn không bao giờ trở lại, chàng khóc rống thảm thiết bi thương.


Tiếng khóc vang vang của loài chim nhỏ bé, nhưng nỗi bi ai xé lòng không kém một sinh vật nào. Đứng cạnh xác nàng, chàng buồn thảm và tan nát cả cõi lòng … biết đến bao giờ?​

Hàng triệu người khắp Mỹ, Âu, Á đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy những bức ảnh nầy. Vậy mà có nhiều người nghĩ: động vật thì chả có đầu óc và cũng chẳng có cảm xúc nào?

(Sưu tầm)

Nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng

Nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng

Đăng lúc: 22:43 - 04/06/2015

Trong các pháp thoại của Thế Tôn, những hình ảnh trực quan luôn được vận dụng để minh họa cho thính chúng dễ hiểu, dễ liên hệ, nhận rõ ý nghĩa những lời dạy của Ngài. Nước sông Hằng đã được Thế Tôn dùng để chỉ cho nước mắt của chúng sanh khóc thương nhau trong những lần tử biệt sanh ly, chuyển lưu sanh tử trong nhiều đời kiếp.

Một trẻ thơ chào đời, mọi người thân đều vui. Một người nhắm mắt lìa đời, những người thân yêu đều tiếc thương, ngậm ngùi khóc than tiễn biệt. Nhịp sống cứ tiếp nối như vậy, trải qua biết bao lần vui buồn với tử sanh, khiến cho nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng, thậm chí nhiều hơn nước trong bốn biển.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Thế nào, Tỳ-kheo các thầy lưu chuyển sanh tử trải qua bao khổ não, trong đó buồn khóc nước mắt rơi là nhiều chăng? Hay nước sông Hằng nhiều?
Các Tỳ-kheo đến trước bạch Phật:
- Chúng con khi quan sát ý nghĩa câu nói của Như Lai, trải qua sanh tử, nước mắt rơi khi buồn khóc nhiều hơn nước sông Hằng.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Lành thay, lành thay! Các Tỳ-kheo! Như các thầy nói không khác. Các thầy ở trong sanh tử, nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng. Vì sao thế? Ở trong sanh tử, cũng vì phụ mẫu mạng chung, khi ấy khóc lóc không thể tính kể. Lâu dài cha con, chị em, vợ con, ngũ thân và các quyến thuộc ân ái thương nhớ khóc lóc không thể tính kể.
Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên chán họa sanh tử, xa lìa pháp ấy. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Khi Phật nói pháp này, có sáu mươi Tỳ-kheo được lậu tận ý giải.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm Phi thường,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.527)

Thế Tôn nói một cách cụ thể về sự “thương nhớ khóc lóc không thể tính kể”, về “nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng” để chỉ cho chúng ta thấy rằng, mình đã trôi lăn trong luân hồi nhiều kiếp, mình đã trải qua vô lượng khóc than tiễn biệt nhau, nay được làm thân người “nên chán họa sanh tử” mà hướng đến vô sanh. Biết rằng rồi đây mình sẽ chết, sẽ kết thúc một đời vốn nhiều khổ đau và giả tạm này nhưng sau cái chung cuộc ấy thì cánh cửa nào sẽ mở ra?
Tam giới, lục đạo hay Cực Lạc, Niết-bàn hoàn toàn tùy thuộc vào nhận thức, cách sống và cách tu dưỡng của chính mình trong hiện tại. Nếu muốn sanh lên, muốn hướng thượng và thăng hoa thì cần xả buông. Buông được chừng nào thì càng nhẹ nhàng chừng nấy. Còn nắm giữ, dính mắc càng nhiều thì càng bị kẹt và nặng nề thêm, không thể thoát ra được.
Người con Phật phải nhận rõ khổ đau lớn nhất của kiếp người là mãi trôi lăn trong luân hồi sanh tử. Giải thoát tối hậu là ra khỏi luân hồi, chứng đắc Niết-bàn hay ít ra là thành tựu vãng sanh Cực Lạc. Giải thoát từng phần chính là sự thực hành xả buông trong đời sống hàng ngày.
Chán ngán cuộc luân hồi tử sanh vô tận (Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán) là tuệ giác đầu tiên, là nền tảng cho nguyện lực quyết buông bỏ những dính mắc và trói buộc thế thường để cất bước ra đi tìm đường thoát khỏi sanh già bệnh chết. Như Thế Tôn xưa, sau khi dạo bốn cửa thành thấy chán ngán tất cả mới đủ nguyện lực xả buông, nửa đêm vượt thành xuất gia tầm đạo.
Chúng ta ngày nay bước chân vào chùa, vào đạo là nguyện theo dấu chân xưa. Dẫu sống trong cuộc đời như bao người nhưng quyết không bị kẹt, không chìm đắm. Dẫu cũng tử sanh như bao người nhưng nguyện đó là lần sau cùng. Dẫu biết rằng giải thoát khỏi tử sanh là vượt sang bờ kia nhưng kỳ thực làm gì có bờ để sang, có tử sanh để vượt thoát.
“Sáu mươi Tỳ-kheo được lậu tận ý giải” chính là chỗ này. Khổ đau, sanh tử cũng từ tâm mình mà ra và cũng ngay nơi tâm mà diệt. Xả buông đến tận cùng, không chấp thủ bất cứ vật hay việc gì thì ngay đây, ngay nơi tử sanh mà giải thoát, ngay nơi cuộc đời “nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng” này chính là Cực Lạc, Niết-bàn.

Quảng Tánh (

Thân và tâm cái nào quan trọng?

Thân và tâm cái nào quan trọng?

Đăng lúc: 22:41 - 04/06/2015

Thân và tâm, tức thể xác và tinh thần, cái nào quan trọng hơn? Đa số chúng ta thường lo cho thể xác hay lo cho tinh thần? Chúng ta ai cũng lo cho thân làm sao được sạch đẹp, sung mãn, đầy đủ; còn phần tinh thần ít ai quan tâm tới. Nhưng thử hỏi, chúng ta lo cho thể xác được sung mãn, đầy đủ thì nó có bền bỉ, lâu dài được không? Rất tiếc, dù ta lo cho nó cách mấy thì thân này cũng phải già-bệnh-chết.


Ta lo cho thân đầy đủ để rồi ngày mai nó sẽ mất. Vậy lo cho thân như thế là mình khôn hay dại? Ấy vậy mà ai cũng lo, lo giữ cái không thể bền bỉ, lâu dài mà vô tâm, không để ý đến phần chủ động để mặc tình nó ra sao thì ra. Chúng ta hành động như vậy là sáng suốt hay si mê? Ta nào là lo nhà cửa, lo cơm ăn áo mặc, lo tiền bạc của cải làm sao cho có thật nhiều; nhưng khi nhắm mắt ta chỉ mang theo nghiệp tốt hoặc xấu, tất cả những thứ đó ta đều phải bỏ lại hết, mà nghiệp tốt hay xấu là do tâm tạo tác mà ra.
Khi muốn làm gì thì ý phải nghĩ trước rồi thân này mới hành động. Tinh thần là cái chỉ huy, sắp đặt mọi việc trong cuộc sống nên chúng ta phải làm sao lo cho nó được thánh thiện, tốt đẹp, cao quý mới phải. Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
Lâu nay chúng ta cho thân người là thật, tâm suy tư nghĩ tưởng cũng là thật. Do mê lầm, chấp chặt như vậy nên chúng ta cứ lo tìm cách gom góp tài sản, của cải cho mình và con cháu mai sau. Đầu tiên ta chấp cảnh, sau mình chấp thân và tâm là thường, là ngã.
Vì tình chấp như thế nên Phật dạy thân người do bốn chất đất-nước-gió-lửa giả hợp mà có, song bốn chất này thường xung khắc nhau; đất ngăn ngại nước, nước xói mòn đất, nước làm tắt lửa, gió thổi thì đất rung rinh. Chúng xung khắc mà phải hợp lại nên thường sanh ra những hiện tượng bất hòa như đau yếu, bệnh hoạn. Khi chúng không dung hợp nhau được nữa thì tan rã, tứ đại phân ly; nên mới nói “có thân là có khổ”. Ai cũng có thể biết vậy nhưng làm việc gì cũng lo cho thân, ăn uống bồi bổ cũng vì thân.
Thân chúng ta những chất cứng như da, thịt, gân, xương, tóc, răng thuộc về đất. Những chất lỏng như máu, mủ, mồ hôi, nước mắt thuộc về nước. Những vật có tính động như hơi thở vô, hơi thở ra thuộc về gió. Nhiệt độ trong thân như hơi ấm thuộc về lửa.
Khoa học hiện đại ngày nay phân tích thân người có hằng hà vô số tế bào, song cũng từ bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp thành. Từ lâu chúng ta lầm tưởng thân này là thật tôi, là của tôi, rồi cứ chấp chặt vào đó. Nếu ai đụng chạm đến “cái tôi” này thì ta liền phản ứng chống trả lại hoặc tìm đủ mọi cách để bảo vệ, vun bồi cho nó được đầy đủ, thỏa mãn.
Nhưng với tuệ giác của Phật thì Ngài thấy rõ thân do đất-nước-gió-lửa hợp lại mà thành, nếu thiếu một trong bốn chất ấy thì thân này tan rã. Song, mỗi ngày chúng ta muốn duy trì thân để được tồn tại phải ăn cơm, uống nước, hít thở không khí. Cứ thế ta vay mượn đất-nước-gió-lửa bên ngoài để bồi bổ, thay thế cho đất-nước-gió-lửa bên trong. Suốt cả cuộc đời chúng ta sống bằng sự vay mượn liên tục, khi hết vay mượn thì mạng sống dừng.
Hơi thở trả về với gió. Hơi ấm trả về với lửa. Máu, nước miếng, nước mắt trả về với nước. Da, thịt, gân xương trả về với đất. Tất cả đều rã tan, trở thành một cái xác thúi chẳng còn gì gọi là thân mạng nữa. Vậy mà ai cũng cố tâm lo cho chúng mà quên hẳn phần tinh thần.


Thích Đạt ma Phổ Giác

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 59
  • Hôm nay 4,369
  • Tháng hiện tại 62,887
  • Tổng lượt truy cập 23,469,136