Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
VG (9)

Nạn giả sư & nỗi lòng Tăng Ni trẻ

Đăng lúc: 21:06 - 01/03/2017

Hiện tượng giả dạng tu sĩ Phật giáo đi khất thực, xin ăn, kéo theo đó là các dịch vụ mê tín, bán bùa chú, xin xăm bói quẻ hiện nay tập trung tại các đền, chùa,… trong dịp lễ hội, ngày rằm để xin tiền bố thí của khách hành hương đã trở thành một vấn nạn nhức nhối, gây tổn thương đối với những người xuất gia chân chính - xuất phát bởi những lý tưởng cao đẹp!
VG (9).jpg
Người giả sư "làm ăn" trước chùa dịp Xuân Đinh Dậu - Ảnh: Vũ Giang

Tâm tình của “người trong cuộc”

Có dịp đi ra đường tôi đều đắp y theo truyền thống hệ phái Khất sĩ và nhiều lần đi bộ ngang qua những con đường mà ngày nào cũng xuất hiện người giả sư khất thực, tôi lại “đón nhận” ánh mắt dè chừng, thiếu thiện cảm của mọi người chung quanh (như chính mình là người đang ăn xin và sẽ làm phiền đến họ).

Phần lớn những người dân chưa hiểu nhiều về đạo Phật hay chưa có dịp đi chùa để hiểu biết đúng về người xuất gia, thì người giả sư sẽ vô tình tạo nên cho số đông những khái niệm không tốt về người tu. Tất nhiên, không thể trách người dân bởi thông qua những hình ảnh mà họ bắt gặp thường ngày từ những người giả dạng “đầu tròn áo vuông” để xin tiền, bán nhang, xem bói toán,... trên những cung đường hay tại các đình đền, chợ búa.

Có lần tôi hướng dẫn một nhóm Phật tử trẻ đi chùa lễ Phật vào ngày rằm đầu năm, nhưng khi bước vào gần tới cổng đã thấy một nhóm “nhà sư” đắp y giống mình đứng xin tiền. Khi ấy tôi vội nhanh chân bước vào trong sự ngượng ngùng, e dè và chợt thấy thương kính vô cùng chiếc y của Phật mà mình đang mặc trên người, trong đó còn có sự tổn thương tự đáy lòng khi nghĩ về những người mượn y Phật để làm xấu hình ảnh người tu ngoài kia.

Đi vào bên trong chùa lễ Phật xong, tôi bước ra sân trước để đứng chờ mọi người ra về thì có hai mẹ con đi ngang qua, đứa bé vô tình chỉ tay vào tôi rồi kêu mẹ cho tiền ông sư, thấy thế người mẹ vội lấy ít tiền lẻ ra và đưa cho tôi như một sự bố thí theo lời yêu cầu của đứa con.

Khi ấy, tôi cảm thấy áy náy vô cùng nhưng cũng kịp nhẹ nhàng từ chối, hướng dẫn vị đó là nên đem vào chùa để bỏ thùng công đức. Tất nhiên, tôi biết trong tâm thức của đứa bé lúc này đang hình dung tôi như những người giả sư đắp y ăn xin phía trước cổng mà bé thường được mẹ hướng dẫn cho tiền khi có dịp đi chùa.

Nỗi lòng Tăng Ni trẻ

Trò chuyện với các thầy, các sư cô trẻ có cùng chung nỗi ưu tư về vấn đề này thì biết, các vị ấy, mỗi người một câu chuyện cũng “dở khóc dở cười” như tôi, nhưng đáng để suy ngẫm trên bước đường tu học thường ngày dưới sự tương tác giữa mình với xã hội hiện nay.

Như thầy Thích Thanh Đạo (du học Tăng tại Thái Lan) kể lại - vào Tết Nguyên đán cách đây vài năm, thầy Đạo có dịp về thăm gia đình sau những năm tu học ở tu viện. “Khi đang dùng bữa cơm chay thân mật với gia đình thì bỗng xuất hiện một “sư thầy” đang mang trên người bộ đồ nâu, đầu cạo láng. Thấy thế, mọi người trong gia đình không mấy vui khi bị làm phiền về việc “vị thầy” mời mọc mua nhang ủng hộ và xin tiền lì xì”, thầy Thanh Đạo nhớ lại.

Khi vị khách đó vừa đi, người thân quay sang thầy Đạo hỏi: “Ủa, ở chùa cực khổ đến mức phải đi xin như vậy à?”.

“Lúc ấy, tôi cảm thấy nghẹn lòng và buồn vô cùng khi có những thành phần không tốt đã lợi dụng “chiếc áo xuất sĩ” để trục lợi cá nhân, với mục đích phục vụ nhu cầu cá nhân nhưng đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến cái nhìn của những người xung quanh, ngay cả với người thân tôi - có người xuất gia như tôi”, thầy Thích Thanh Đạo chia sẻ.

Hay câu chuyện cũng của một Tăng sinh đang học tại Thái Lan là thầy Thích Chúc Tâm. “Khi còn là một Tăng sĩ trẻ tại Đà Lạt, được thầy bổn sư gửi lên Sài Gòn để theo học tại trường Phật học, trong những ngày đầu còn bỡ ngỡ nơi đất khách và khí hậu nóng gắt khó chịu, tôi và vị sư cùng phòng quyết định đi kiếm mua cây quạt. Sau một hồi tìm kiếm, chúng tôi dừng lại ở trước tiệm bán đồ điện tử, chủ tiệm lúc ấy đang ở trong nhà xem truyền hình, tôi với gọi từ bên ngoài - Chú ơi - như ý để hỏi thăm giá cả”, ĐĐ.Chúc Tâm kể.

Thầy Tâm hồi tưởng tiếp - người bán đồ nhìn ra với ánh mắt và thái độ không vui, kèm theo đó là cử chỉ vẫy tay bảo rằng “đi đi, ở đây không có gì cả, không mua gì cả” và họ vẫn cứ tiếp tục xem truyền hình, không thèm để ý gì.

“Khi ấy, tôi khựng lại, quay qua nhìn sư bạn mà khá ngỡ ngàng với sự “phản hồi” từ chủ tiệm như thế. Thấy sư bạn ngại quá nên bảo tôi đi sang tiệm khác, nhưng tôi muốn đính chính lại, nên gọi thêm lần nữa - Chú ơi! Thầy muốn mua quạt - thì họ mới ra tiếp đón, tôi cũng nhẹ nhàng giải thích cho họ hiểu được thật-giả trong xã hội hiện nay mà chú đã nhiều lần bị làm phiền rồi “ám ảnh” nghĩ ai trong hình tướng tu sĩ cũng chỉ tới để quyên góp xây chùa hoặc bán nhang, thực chất là người giả sư đi “hành nghề”.

Từ vài ví dụ rất nhỏ trên trong bức tranh người giả sư vẫn hoạt động hàng ngày cũng như đang rộ lên trong mỗi mùa lễ hội - có thể kết luận, đây là vấn nạn chứ không còn là vấn đề bình thường, có thể cho qua, vì kéo theo đó là các hệ lụy ảnh hưởng trầm trọng đến tâm tư và sự mặc cảm cá nhân của tu sĩ trẻ khi vô tình bị đối xử, bị nhìn nhận thiếu thiện cảm mà nguyên nhân là từ các thành phần bất hảo, giả danh.

Thiết nghĩ, nếu không kịp thời lên tiếng và ngăn chặn thì đến một ngày, hình ảnh của những người xuất gia trẻ dấn thân vào đời sẽ bị mọi người hiểu lầm, ám thị rằng đấy cũng là hình ảnh của sự đi xin tiền, xấu xí mà ai cũng dè chừng, tránh né chứ không phải thiêng liêng như vốn dĩ...

Giác Minh Luật

Gặp người giả sư, tôi sẽ...

Trong trao đổi ngắn với CTV Giác Ngộ, hai Phật tử trẻ đã “gặp nhau” khi gợi ý một phương pháp ứng xử với nạn sư giả một cách nhẹ nhàng...

a Xuan Phuc.jpg
* Bạn Trịnh Hoàng Xuân Phúc (Bình Dương): Đối với những người không phải là tín đồ Phật giáo, đa số họ không quan tâm việc sư thật - giả mà suy nghĩ đơn giản rằng cứ thấy ai ăn mặc như người tu hành và ôm bình bát là bố thí tiền hầu mong đặng phước. Còn đối với bản thân tôi - một Phật tử tại gia, khi gặp những vị khất thực (thường là ở chợ) bất kể thật hay giả, tôi tuyệt đối không cúng dường tiền mà bố thí vật thực như củ khoai, vài món trái cây hay thực phẩm chay vì tôi nghĩ rằng mình là con nhà Phật mà đạo Phật là đạo từ bi.

Bản thân học theo hạnh của ngài Thường Bất Khinh Bồ-tát, tâm niệm theo lời Phật dạy rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và sẽ thành Phật ở tương lai, thay vì chửi bới hay mắng đuổi những người giả sư thì tôi lại hành động và hướng dẫn mọi người xung quanh thực hành bố thí đúng pháp. Có như vậy, theo thời gian, những người giả sư không còn đất sống vì thứ họ muốn nhận chính là tiền.

Bên cạnh đó, thiết nghĩ quý Ban Trị sự GHPGVN ở mỗi tỉnh, thành trên cả nước nên thiết lập một đường dây nóng để tiếp nhận thông tin về tình trạng giả sư nói riêng cũng như các vấn đề liên quan đến Phật giáo tỉnh nhà nói chung.

a Suong Lac.jpg
* Phật tử Sương Lạc (Mỹ Tho, Tiền Giang): Nếu gặp người giả sư khất thực tôi vẫn chắp tay trước ngực và chào. Có lần tôi gặp sư giả tại chợ Mỹ Tho lúc đang ngồi trên xe máy, họ đi đến chỗ tôi và đứng im vài giây. Khi đó tôi xuống xe chắp tay chào và nói “Nam-mô A Di Đà Phật”. Họ thấy vậy tiếp tục đứng im. Tôi lấy mấy trái ổi trên xe định bỏ vào bát (mặc dù biết giả nhưng tôi vẫn muốn cho), vị đó lắc đầu và bỏ đi luôn.

Tôi có tìm hiểu và được biết rằng, những vị sư nếu có đi khất thực cũng tuyệt đối không nhận tiền, bởi đó là luật Phật. Do vậy, Phật tử khi cúng dường quý thầy, quý sư cũng phải có hiểu biết, để không tiếp tay cho nạn giả sư tồn tại (bằng cách bỏ tiền vào bình bát của họ). Mỗi Phật tử am hiểu giới luật, văn hóa Phật giáo thì những hiện tượng giả danh Phật giáo tự khắc sẽ bị đẩy lùi...

Trúc Nhi

Ý nghĩa của việc tu phước

Ý nghĩa của việc tu phước

Đăng lúc: 20:08 - 03/01/2017

Nếu mình muốn cầu nhiều phước thì phải tu phước, tu phước thì phải trồng phước, giống như nông dân làm ruộng, phải nỗ lực trồng trọt thì mới có thu hoạch, người tu phước cũng vậy, phải đem hạt giống phước đức gieo khắp ruộng phước ( phước điền ) thì mình sẽ thu hoạch được quả của phước báo.


Ý nghĩa của việc tu phước
I. Phước là gì?
Phước là chỉ cho sự giàu sang, sống thọ, con cháu đùm đề và thân thể khỏe mạnh của người thế gian. Hàn phi Tử nói : “ sống thọ, giàu sang được gọi là phước mà người đời ai cũng muốn có, ai cũng muốn năm phước vào nhà” ( ngũ phước lâm môn ). Vậy ngũ phước là gì?
1. Sống thọ
2. Giàu sang
3. Khỏe mạnh và yên ổn
4. Đức độ được con cháu hiếu thuận
5. Sống đến cuối đời và ra đi nhẹ nhàng
Nhưng đây chỉ là Tục phước của người đời, nó có giới hạn và vô thường, không bằng Hồng phước của cỏi trời, mà Hồng phước của cỏi trời lại không bằng Thanh phước vô ngã của hàng nhị thừa, Thanh phước của hàng nhị thừa thì lại không bằng phước Vô tướng của Bồ Tát, bởi vì Bồ Tát bố thí vô tướng, trong không thấy người bố thí, ngoài không thấy vật bố thí và cũng không thấy người nhận vật bố thí cho nên gọi là “tam luận thể không”. Vì vậy phước của vị đó đạt được là rất lớn. Tuy nhiên, vẫn không bằng phước thật tướng của chư Phật. bởi vì chư Phật đã tu phước, tu huệ, trăm ngàn kiếp đã trồng các tướng hảo, đến khi đầy đủ phước đức trí tuệ, viên mãn bồ đề., đạt vô sở đắc, nên phước báo mà chư Phật đạt được là rất lớn, không thể nghĩ bàn.
Không luận là tục phước của thế gian, Hồng phước của cỏi trời, Thanh phước của hàng Thanh văn, phước vô tướng của Bồ tát, phước thật tướng của chư Phật đều phải dựa vào sự vun trồng của bản thân, mình làm mình nhận, chẳng phải người khác cho, cũng chẳng phải trời ban bố. Nếu như một người thật lòng bố thí thì chắc chắn sẽ được giàu sang, phú quý. Người từ tâm không sát hại sẽ được khỏe mạnh, trường thọ. Người không làm các việc ác, chỉ làm các việc lành thì chắc chắn được cát tường như ý, tiêu trừ tai nạn. người nào có thể bố thí vô tướng, rộng tu phước tuệ thì nhất định sẽ thành Phật. Cho nên nói “ Họa phước không có cửa, chỉ do mình tạo, người không có phước cần phải vun trồng phước, phải tu phước thì mới có đời sống tốt đẹp” chúng ta cần phải tích phước, vun bồi phước và phải cầu nhiều phước.

II. Vì sao phải cầu nhiều phước
Nếu mình muốn cầu nhiều phước thì phải tu phước, tu phước thì phải trồng phước, giống như nông dân làm ruộng, phải nỗ lực trồng trọt thì mới có thu hoạch, người tu phước cũng vậy, phải đem hạt giống phước đức gieo khắp ruộng phước ( phước điền ) thì mình sẽ thu hoạch được quả của phước báo.
Phước điền là gì ? kinh Vô Lượng Thọ có ghi “ Phước thọ của thế gian giống như sinh vật trong ruộng. nên gọi là ruộng phước (phước điền)” phước điền thế gian lại có thể phân ra làm nhiều loại.
Một là Kính điền và Bi điền: đối với cha mẹ thầy tổ và tam bảo mà sinh tâm cung kính, cúng dường, phụng dưỡng gọi là Kính điền. đối với những người nghèo khổ, bần cùng tỏ lòng thương sót, bình đẳng cứu giúp, khiến họ thoát khổ gọi là Bi điền.
Hai là Báo ân phước điền: Đối với cha mẹ, sư trưởng cho đến những người có ơn đối với ta thì phài hiếu kính, phụng dưỡng, đem các vật chất để cúng dường , giúp tinh thần an ổn thì mình sẽ được tăng trưởng phước báo đó gọi là báo ân phước điền. Cung kính Tam Bảo, công đước thù thắng sẽ được phước lớn, đó gọi là công đức phước điền. đối với hạng người bần cùng của thế gian, thương sót giúp đỡ, cho họ những vật cần thiết, cứu giúp những lúc hoạn nạn, thì sẽ tích phước rất nhiều, đó gọi là bần cùng phước điền.
Ba là Thú điền, Khổ điền, Ân điền và Đức điền: Đối với tất cả sức sanh, yêu thương, giúp đỡ bình đẳng gọi là Thú điền. đối với những người đang bị buồn khổ, bình đẳng cứu giúp thì gọi là Khổ điền. đối với cha mẹ, sư trưởng thì hiếu thuận cung kính, cúng dường, hầu hạ thì gọi là Ân điền. đối với Tam bảo thì cung kính cúng dường thì gọi là Đức điền.
Bốn là trong kinh Phạm võng đã ghi lại: 1. Phật, 2. Thánh nhân, 3. Hòa thượng (thọ giới bổn sư), 4. sư trưởng, 5. Tăng nhân, 6. Cha, 7. Mẹ, 8. người bệnh. Đối với 8 hạng người ở trên mà sanh tâm cúng kính, bố thí cúng dường, yêu thương giup đỡ thì có thể sanh vô lượng phước đức cho nên gọi là phước điền. nhưng trong 8 loại phước điền đó thì chăm sóc người bệnh là phước điền lớn nhất. khi đức Phật còn tại thế, ngài đã từng chăm sóc và lo thuốc thang cho tỳ kheo bị bệnh, rồi ngài Ngộ Đạt quốc sư đời nhà Đường cũng do lòng từ bi mà chăm sóc cho một vị tăng bị bệnh ghẻ lở, giúp cho vị đó hết đau khổ và sự xa lánh của mọi người. cho nên người nào muốn tu phước thì phải chú ý đến phước điền chăm sóc người bệnh.
Người tu phước, ngoài việc gieo trồng thật nhiều phước điền, thích làm việc thiện và bố thí, còn phải có lòng từ bi đối với tất cả, bởi vì tất cả chúng sinh đều có ân với chúng ta. Cơm ăn, áo mặc hay việc đi lại của chúng ta điều phải dựa vào việc cung cấp của mọi người, nếu như người nông dân không làm ruộng, người công nhân không dệt vải, giao thông không thuận tiện thì người buôn bán không thể vận chuyển được hàng hóa, chúng ta sẽ không có cách giải quyết được nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Nếu như không có sự dạy dỗ, chỉ bảo của sư trưởng thì làm sao tăng trưởng tri thức. nếu như không có sự trừng phạt và ngăn chặn của pháp luật, dịch vụ y tế , giữ gìn trật tự cho đến việc thúc đẩy phát triển các tiện ích công cộng thì làm thế nào người dân sống và làm việc. Vì vậy mọi người không chỉ báo đáp ân của cha mẹ, sư trưởng mà còn phải báo đáp Ân của mọi người, vì vậy đức Phật dạy “ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân tam bảo, ân đất nước, ân chúng sanh đều phải báo đáp”. Giữa người và người nếu có tâm báo đáp, cung kính lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau thì đâu chỉ là trồng phước, vã lại mọi người đều có phước, rõ ràng là tạo phúc cho mọi người, phước lợi cho xã hội, phước báo đó thật là lớn và nhiều vô kể.
Hoặc có người nói “ nghèo khổ thì khó làm việc bố thí, tôi vốn rất thích tu phước, đáng tiếc là kinh tế khó khăn, xin dạy cho tôi trồng phước thế nào? Nên biết không chỉ có tiền mới làm phước được, bởi vì tiền bạc chỉ là một phần của tài thí, ngoài ra trong nhà vật chất dư thừa có thể bố thí, quần áo dư thừa có thể bố thí, người có tri thức có thể bố thí, người có sức khỏe cũng có thể bố thí.
Cung kính hầu hạ những người lớn tuổi ở trong nhà là tu phước, thương yêu giúp đỡ nhưng người nhỏ tuổi cũng là tu phước. Đến chùa lạy Phật là tu phước, giúp đỡ mọi người, quét dọn chùa tháp cũng là tu phước. Ở ngoài xã hội thì tuân giữ luật pháp là tu phước, giữa gìn bảo vệ đồ vật công cộng cũng là tu phước, thậm chí khuyên người làm thiện hoặc cứu giúp người lúc hoạn nạn đều là tu phước.
Người tu phước ngoài việc trồng nhiều phước điền lại còn phải biết tiếc phước, tích phước, chớ làm việc tổn phước. tục ngữ có câu “ có phước thì không thể hưởng hết”. nếu không thì vui quá sanh buồn, hết phước sẽ đọa, nếu người vô phước càng khổ hơn. Vì vậy, Phật giáo ngoài việc khuyên người gieo trồng phước, vun bồi phước, tích phước còn phải biết tiếc phước. tốt nhất là tu phước hữu lậu, tiến lên nữa là tu phước vô lậu. nhờ tu phước tiểu quả của nhân thiên rồi tiến lên tu phước rộng lớn của Phật đạo. Ngày xưa vua Lương Võ Đế hỏi tổ sư Đạt Ma rằng:
_ Từ khi tôi lên ngôi đến nay đã xây dựng rất nhiều chùa tháp, độ cho rất nhiều người xuất gia, vậy tôi được bao nhiêu phước đức?
Tổ Đạt Ma nói:
_Một tí công đức cũng không có.
Bởi vì tổ Đạt Ma cho rằng: “Nhân của hữu lậu thì chỉ đắc quả nhỏ của Nhân thiên, hết phước sẽ đọa trở lại. Đối với việc kiến tánh thành Phật chẳng bổ ích tí nào cả. cho nên tổ mới nói như vậy. Đáng tiếc là vua Lương Võ Đế chấp vào tướng bố thí nên không ngộ được ý chỉ của bậc thánh.
Đến như phước vô lậu là từ tâm vô lậu mà sanh, cho nên bảo tâm vô lậu là tâm vô ngã, dùng tâm vô lậu để làm việc bố thí chính là bố thí vô tướng. kinh Kim Cang có ghi: Bồ tát không trụ vào tướng bố thí cho nên phước đức lớn không thể nghĩ bàn. Lại nữa, đức Phật hỏi ngài Tu Bồ Đề :
_Nếu có người đem hết thất bảo trong tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, người ấy được bao nhiêu phước đức?
Tu bồ Đề trả lời:
_Dạ thưa, rất nhiều.
Đức Phật dạy: Nếu lại có người ở trong kinh này thọ trì cho đến 4 câu kệ rồi đem giảng nói cho người khác, phước đức của người nầy lớn hơn người kia. Vì sao?
_ Này Tu Bồ Đề ! tất cả chư Phật và pháp vô thượng chánh đẳng giác của chư Phật đều từ kinh này mà lưu xuất, cho nên phước của người đó rất lớn.
Tóm lại, nếu muốn trở thành người tốt, hay muốn thành Phật đi nữa thì điều trước tiên là phải Tu Phước.

Quảng Tráng

Lựa lời mà nói

Lựa lời mà nói

Đăng lúc: 14:54 - 02/01/2017

Ngôn ngữ là phương tiện mà con người dùng để giãi bày tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời cũng là phương tiện giao tiếp giữa người và người trong xã hội.
Ngôn ngữ thể hiện dưới nhiều hình thức: Ngôn ngữ viết, ngôn ngữ nói, ngôn ngữ không lời (điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười…). Có quan niệm cho rằng ngôn ngữ viết quan trọng hơn ngôn ngữ nói vì: “Lời nói thì bay đi, chữ viết thì còn lại”. Song, xét kỹ thì lời nói phải đâu không quan trọng?

Tất nhiên phải có tư tưởng (tâm, ý) thì mới có thể phát xuất ra thành lời nói. Lời nói nếu được dẫn dắt bởi một tâm ý không chân chánh, thiện lành thì sẽ tạo nên khổ đau và tội lỗi. Nói những lời không chân chính thiện lành là tạo khẩu nghiệp, về sau phải gánh chịu những khổ não là lẽ đương nhiên không tránh khỏi.

a loinoi.jpg

Trong kinh Pháp cú, ngay kệ đầu tiên của phẩm Song yếu, Đức Phật đã dạy:

“Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ, ý tạo

Nếu với ý ô nhiễm

Nói lên hay hành động

Khổ não bước theo sau

Như xe, chân vật kéo”.

Đối với người xuất gia, tội về lời nói (nói dối) là một trong những điều giới cấm trọng yếu mà hàng xuất gia phải gìn giữ cả đời. Đối với người cư sĩ, Phật tử tại gia thọ trì 5 giới hay tu Thập thiện giữ 10 giới, tội lỗi về lời nói (Không vọng ngữ) được quy thành bốn tội danh cụ thể cần phải tránh, đó là: Nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói lời thô ác. Dù là tội danh nào, chung quy cũng là tội đã gây nên những tác hại, khổ não cho kẻ khác, nhưng đồng thời cũng tổn hại cho chính bản thân mình. Chỉ việc giữ gìn lời nói thôi mà trong mười điều thiện đã làm được bốn điều, cho thấy rằng việc nói năng quan trọng biết bao trong đời sống tu học của những người con Phật.

Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Lời nói không mất tiền mua/Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Nhưng “lựa lời” là lựa như thế nào? Cổ nhân có dạy: “Trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần”, đó là nhằm khuyên chúng ta phải có sự cẩn trọng, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi phát ngôn, bởi nếu ta “lỡ tay, lỡ chân” thì có khi còn cứu vãn được, nhưng “lỡ lời” thì không thể nào rút lời lại được. “Sẩy chân còn hơn sẩy miệng”. Một lời đã nói ra sẽ như mũi tên bay đi với tốc độ thần kỳ, mũi tên sẽ cắm phập vào tâm điểm mà người bắn đã nhắm vào, không có cách chi ngăn chặn lại được. “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”, một lời nói ra, dù bốn con ngựa giỏi cũng khó đuổi kịp. Lời nói còn có sức mạnh vĩ đại (Xuất ngôn như phá thạch), tác dụng to lớn và đa chiều lên đời sống cá nhân và mọi người.

Trong cuộc sống, mỗi người một ý, chẳng ai giống ai, con người thật khó tránh được sự va chạm, mâu thuẫn vì bất đồng ý kiến với nhau. Nhưng dù có mâu thuẫn thì người biết tu sẽ lựa lời để nói với nhau một cách hòa bình thân ái, tránh không làm tổn thương hay phiền lòng cho kẻ khác. “Khẩu hòa vô tranh”, nói năng hòa ái, không tranh cãi chính là một trong sáu pháp sống lục hòa thanh tịnh của hàng đệ tử Phật.

Những lời nói nhẹ nhàng, nhu hòa, thân ái, không gây tổn thương hay phiền lòng người khác… gọi là ái ngữ. Đây cũng chính là một trong bốn cách mà Bồ-tát dùng để nhiếp phục và giáo hóa quần sanh (Tứ nhiếp pháp). Nhưng, đâu nhất thiết phải là trong việc làm cao xa của Bồ-tát mới cần ái ngữ? Ngay trong cuộc sống chung hàng ngày của con người với nhau, ái ngữ luôn là điều cần phải có. Ở cấp độ đơn sơ ban đầu, chưa cần đến cách đối đãi gì lớn lao, con người có thể thân thiện, thương mến nhau trước hết cũng là do cung cách nói năng với nhau. Ngược lại, người ta ghét bỏ nhau, oán trách, thù hằn với nhau cũng do từ lời nói mà ra.

Có những lời nói thương yêu khiến người nghe ghi nhớ cả đời, nhưng cũng có lời nói ác, người nghe vẫn mang theo đến chết không quên:

“Lời nói không là dao

Mà cắt lòng đau nhói

Lời nói không là khói

Mà mắt người cay cay…”.

(Không rõ tác giả)

Có những lời nói hàm chứa ý nghĩa cao xa thâm thúy được lưu truyền từ đời này sang đời khác, từ đất nước này sang đất nước khác, trở thành những “danh ngôn” bất hủ. Như thế cho thấy rằng lời nói xem như không là gì cả, nhưng có tầm quan trọng rất lớn lao.

Tuy nhiên, xét đến rốt ráo thì ái ngữ vẫn chưa đầy đủ ý nghĩa bằng thiện ngôn. Ái ngữ mà gọi là thiện ngôn thì đòi hỏi phải đủ 5 yếu tố:

Nói nhã nhặn: Là nói nhỏ nhẹ, dịu dàng, từ tốn, khiêm cung. Lời nói thể hiện sự lịch sự, tế nhị, lễ phép, kính trên nhường dưới, xưng hô đúng phép, không nói trống không, kèm theo đó là thái độ ôn hòa, nhã nhặn… Người xưa nói: “Chim khôn hót tiếng rảnh rang/ Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe” là vậy.
Nói hợp thời: Là nói năng đúng lúc, đúng người, đúng hoàn cảnh. Không thể muốn nói gì thì nói, bạ ai cũng nói, “đụng đâu nói đó”. Nói không hợp thời thì dù có là ái ngữ cũng bị chê trách là “đoảng”, người ăn nói vô duyên.
Nói chân thật: Là nói đúng với sự thật khách quan (sự việc như thế nào thì nói như thế ấy) và nói đúng với tâm ý của mình, có sao nói vậy, nghĩ sao nói vậy. Nếu không như thế thì càng nói hay lại càng lộ ra sự “xảo ngôn”. Nói không chân thật, người nghe có thể mắc lừa ta lần đầu, nhưng sau đó thì họ sẽ không còn tin ta nữa. Lòng tin của con người đối với nhau là điều vô cùng quan trọng, ví như của báu: “Tín vi quốc gia chi bảo” (Lòng tin, uy tín là báu vật của nước nhà). Một người đã khiến kẻ khác không còn tin tưởng thì coi như không còn đủ nhân cách làm người, “Nhân vô tín bất lập”.
Nói hữu ích: Dẫu nói lời nhu hòa, êm ái mà vô ích đối với người nghe thì chỉ làm mất thời gian của người, người chẳng muốn nghe.
Nói với từ tâm: Là vì người mà nói, vì lòng thương người, muốn đem lợi lạc đến cho người nên nói. Nói mà không từ tâm là nói vì nhu cầu của chính mình, muốn nói để khoe khoang, phô trương chẳng hạn. Đây là điều mà con người thường hay va vấp, bởi vì cái ngã to lớn khiến ta chỉ thấy mình và chỉ muốn mọi người nghe mình. Cho nên ta thường nói vì “nhu cầu nói” của chính ta hơn là vì người.
Thiết nghĩ, mục đích của lời nói là chuyển tải thông tin, chia sẻ tâm tư, tình cảm giữa người nói và người nghe, nếu không đạt được mục tiêu ấy thì lời nói xem như là vô ích. Và, lời lẽ nói năng có dịu ngọt, hòa nhã… thì cũng phải từ cái tâm chân thật mà ra. Nếu cần chọn lời, sửa ý cho có được ái ngữ, thiện ngôn, thiết tưởng trước hết ta phải lo tu sửa cái tâm cho chân thật, hòa ái với mọi người, lời nói từ nội tâm an tịnh, thiện lành lưu xuất sẽ tự khắc chan chứa tình người. Đã yêu thương nhau thì lời nói tự nó sẽ dịu dàng, khả ái mà thôi.

Cho nên, “lựa lời mà nói” có nghĩa là chúng ta cần cân nhắc cẩn thận khi dùng lời nói với mọi người để tránh những lỗi lầm đáng tiếc, tránh việc gây tạo khẩu nghiệp. Cần luôn xét nghĩ đến hậu quả lời nói của mình. Nhân quả là quy luật muôn đời không bỏ sót một ai, “Nói là gieo, nghe là gặt”, mà “Gieo gió thì gặt bão” vậy.

Rốt lại, lời nói chính là thể hiện cái tâm của con người. Và hơn thế nữa, lời nói “chính là cái để đánh giá một nhân cách, đo lường chiều cao chiều rộng của một tâm thức. Ngôn ngữ là sự trang điểm (mà Phật giáo gọi là trang nghiêm) của con người, là sự nở hoa của nhân cách…” (Nguyễn Thế Đăng - Tản mạn về tiếng Việt - Văn Hóa Phật Giáo số 95).
Thích nữ Huệ Nhẫn

Nói sự thực thì không sợ hãi

Nói sự thực thì không sợ hãi

Đăng lúc: 19:05 - 27/09/2016

Khi chúng ta có tri kiến/nhận thức một cách thấu suốt về lẽ không thực của tự ngã, chúng ta có thể vượt qua được những khổ đau (không thực) tác động (một cách không thực) lên thân tâm chúng ta. Nhưng thực trạng khổ đau của con người, của chúng sinh vẫn tiếp diễn trong nhận thức điên đảo mộng tưởng của họ. Vận dụng cái thấy như thực về tự ngã (trí) để dấy khởi lòng thương (bi) đối với thế giới chúng sinh, là con đường của kẻ giác ngộ (Bồ-tát).
Từ năm 2001, đầu thế kỷ 21, ngôn ngữ truyền thông bắt đầu nhắc đến nhiều từ ngữ “khủng bố”, “chủ nghĩa khủng bố” (terror/terrorism). Đây không phải là từ ngữ mới, nhưng nó được nhấn mạnh và sử dụng nhiều sau sự kiện 11/9/2001, với tòa tháp đôi ở New York sụp đổ hoàn toàn do những chiếc phi cơ bị những kẻ khủng bố Al-Qaeda dùng bạo lực cưỡng chế phi hành đoàn, điều hướng đâm vào.

Trước đó 6 tháng, vào ngày 10 tháng 3 năm 2001, lực lượng Taliban ở A-phú-hãn (Afghanistan) đã cho nổ bom làm sụp đổ hai tượng Phật khổng lồ khắc trong núi đá, có niên đại hơn 1500 năm. Hành động phá hủy tượng Phật lúc đó dù là hành vi bạo động nhưng không bị xem như là khủng bố, mà là hành động hủy diệt văn hóa nhân loại nghiêm trọng (theo sự lên án của Tổ chức Văn hóa – Khoa học và Giáo dục LHQ - UNESCO).

Vậy, có thể hiểu “khủng bố” là lời nói hay hành vi đe dọa trực tiếp đến mạng sống và đời sống của con người; nhẹ thì từ những cá nhân với mục đích trục lợi, tống tiền; nặng thì từ các tổ chức tôn giáo, chính trị để nêu cao lý tưởng của họ, hoặc từ các nhà cầm quyền nhằm ngăn chặn tiếng nói đối lập để giữ vững chế độ.


Từ “khủng bố” cũng được nghe quen từ bản Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh do Pháp sư Trần Huyền Trang (Đường Tam Tạng) dịch từ Prajñā Pāramitā Sūtra vào năm 649, sau được cô đọng lại thành bản Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh 260 chữ. Trong kinh văn nầy, chữ “khủng” và “bố” đều mang nghĩa đơn giản là (bị) sợ hãi, đe dọa; mà để không bị sợ hãi, đe dọa, tâm phải tịch lặng, an nhiên, không bị vướng mắc, trở ngại (tâm vô quái ngại). Tâm không bị vướng mắc, ngăn ngại là tâm vô trụ (ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm); tâm vô trụ là tâm không có tự ngã, là tâm bản nhiên, tâm bất sanh. Chỉ với cái tâm như thế, mới không còn sợ hãi.

Trong hoàn cảnh mà nhan nhản chung quanh chỉ toàn là những lời hư dối, người ta sợ phải nói những điều trung thực; nói ra có thể bị bắt bớ, đánh đập, tù đày; nói ra có thể bị mất việc, mất chức, mất địa vị, mất danh tiếng, mất cả tài chánh để nuôi thân và gia đình, mất cả cơ sở sinh hoạt (chùa chiền, nhà thờ…). Cá nhân đã không dám nói lời trung thực, mà ngay cả tổ chức mà cá nhân đó tham dự cũng không dám bày tỏ điều gì khác với những hư dối chung quanh. Nghĩa là từ cá nhân đến tập thể, từ những tổ chức nhỏ đến những tổ chức lớn quy tụ hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn thành viên, có mặt với sứ mệnh văn hóa, giáo dục, phục vụ lợi ích số đông… mà trong một xã hội đạo đức băng hoại, tụt dốc, và trong nguy cơ mất nước, mất chủ quyền, cũng không thể mạnh dạn nói lên một lời trung thực.

Điều gì đã làm chúng ta sợ hãi không dám lên tiếng bảo vệ sự thực, không dám bày tỏ thẳng thắn mối ưu tư của mình về tình trạng môi sinh đang bị hủy hoại, không dám đưa ra quan điểm của mình về hiểm họa lãnh thổ và biển đảo bị xâm lấn?

Chỉ vì bảo vệ tự ngã của mình mà thôi.

Sợ hãi là phản ứng của một người trước một sự kiện hay ấn tượng mà họ đã trải nghiệm, hoặc tiên đoán (nhờ rút tỉa từ kinh nghiệm), sẽ gây thiệt hại đến nhân thân (sức khoẻ, sinh mệnh) hoặc tổn thương, suy giảm đến những gì mình sở hữu (danh dự, tài sản, sự nghiệp…).

Phản ứng này là do chấp vào một cái tôi (ngã chấp) ngay từ khi mới chào đời, rồi được bồi đắp và làm cho kiên cố, sâu nặng thêm theo thời gian với những gì được tạo dựng, sở hữu (ngã sở).

Cái tôi càng lớn, sợ hãi càng sâu.

Cái sợ nầy đến từ bên trong. Những đe dọa, khủng bố từ kẻ khác chỉ là phụ thuộc.

Đập vỡ cái vỏ của tự ngã thì không còn sợ hãi, âu lo; không ai có thể đe dọa, khủng bố chúng ta được nữa.

Nhưng để làm được điều nầy, phải thấy được cả thân và tâm đều là ảo ảnh, không thực. Thân nầy không thực, tâm nầy (cảm giác, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức) cũng không thực.

Thân và tâm nầy không thực thì cả thế gian nầy cũng không thực.

(Đã không thực thì có cần phải lên tiếng về một sự thực, về nỗi thống khổ của số đông hay không?)

Bản chất của tự ngã, của thế gian chỉ là ảo ảnh, chỉ là giấc mộng huyễn hóa. Nhưng tác động nhân duyên của tự ngã và thế giới chúng sinh là có thực. Thống khổ của nhân sinh là có thực.

Khi chúng ta có tri kiến/nhận thức một cách thấu suốt về lẽ không thực của tự ngã, chúng ta có thể vượt qua được những khổ đau (không thực) tác động (một cách không thực) lên thân tâm chúng ta. Nhưng thực trạng khổ đau của con người, của chúng sinh vẫn tiếp diễn trong nhận thức điên đảo mộng tưởng của họ. Vận dụng cái thấy như thực về tự ngã (trí) để dấy khởi lòng thương (bi) đối với thế giới chúng sinh, là con đường của kẻ giác ngộ (Bồ-tát).

Khi kẻ lữ hành cô độc thong dong bước ngang những lầu đài tráng lệ và những xó xỉnh sình lầy bẩn nhơ, nhân sinh vẫn cất lên tiếng than khóc về nỗi trầm thống bất tận của họ.

Một lời nói để đắp thêm tiếng thơm hay lợi lạc cho tự thân: không cần thiết; nhưng bày tỏ trung thực về thực trạng khổ đau của kiếp người: rất nên.

California, ngày 24 tháng 9 năm 2016

Cư sĩ Vĩnh Hảo

Trà xanh có thể ngăn ngừa chứng vỡ động mạch chủ gây chết người

Trà xanh có thể ngăn ngừa chứng vỡ động mạch chủ gây chết người

Đăng lúc: 09:02 - 30/08/2016

Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra một loạt các lợi ích sức khỏe từ việc uống trà xanh, bao gồm giúp phòng chống ung thư, bệnh tim mạch, viêm và oxy hóa (oxy hóa gây ra các loại bệnh và nhiều tác hại trên cơ thể).


Sau đây là một lợi ích của trà xanh bạn không thể bỏ qua. Uống trà xanh có thể giúp ngăn chặn tình trạng động mạch chính của cơ thể trở nên căng thẳng và sưng phồng, một chứng bệnh rất nguy hiểm, một nghiên cứu mới đây đã cho biết.

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Kyoto ở Nhật Bản nhận thấy chứng phình động mạch chủ bụng ít phát triển ở những con chuột được cho uống chất polyphenol, một thành phần chính của trà xanh.

Nếu không điều trị, chứng phình động mạch chủ bụng cuối cùng bị vỡ và gây tử vong, các nhà nghiên cứu cho biết. “chứng phình động mạch chủ bụng thường không được chú ý bởi vì chúng không có triệu chứng cho đến khi cơn bệnh bộc phát”, Kenji Minakata, tác giả của nghiên cứu cho biết.

“Nếu một bệnh nhân may mắn thì chỗ động mạch bị sưng phồng sẽ được tìm thấy trước khi vỡ. Các bác sỹ sẽ điều trị bằng cách phẫu thuật và cấy một mạch máu nhân tạo hoặc đặt stent để nong động mạch. Hiện nay, chứng bệnh này chưa có thuốc chữa,” Minakata nói.

Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra một loạt các lợi ích sức khỏe từ việc uống trà xanh, bao gồm cả việc giúp cơ thể chống ung thư, bệnh tim mạch, viêm và oxy hóa (oxy hóa gây ra các loại bệnh và nhiều tác hại trên cơ thể). “Gần đây, người ta khám phá ra chất polyphenol có trong trà xanh giúp cơ thể tái tạo elastin, một protein thiết yếu giúp các động mạch có độ đàn hồi tốt”, tác giả chính Shuji Setozaki nói.

“Chứng phình động mạch bụng là do tình trạng viêm và sự suy giảm chất elastin trong thành động mạch khiến chúng kém đàn hồi, chúng tôi cho rằng uống trà xanh sẽ rất tốt cho việc điều trị chứng bệnh này,” Setozaki nói.

Theo PTI Tokyo

Việt dịch: Hoa Nắng

BBT Website

Trung Quốc đánh đập tu sĩ Phật giáo Tây Tạng

Trung Quốc đánh đập tu sĩ Phật giáo Tây Tạng

Đăng lúc: 16:27 - 20/07/2016

Trung Quốc tấn công Phật Giáo Tây Tạng cũng xem như tấn công vào người Tây Tạng. Gần đây chủ tịch Trung Quốc, ông Tập Cận Bình, phát biểu: "Các tổ chức Tôn Giáo phải theo đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc".

Trung Quốc đánh đập tu sĩ Phật giáo Tây Tạng
Theo báo cáo ngày 10.5.2016 của tổ chức Free Tibet và Tibet Watch (trụ sở chính tại UK), Trung Quốc đang cố gắng điều khiển Phật Giáo Tây Tạng theo mục đích riêng của họ. Chính quyền đặt camera giám sát các hoạt động trong các tu viện, lập đồn cảnh sát canh bên ngoài, thường xuyên kiểm tra với các quy định 'Tuỳ tiện', giám sát và đàn áp Tăng, Ni đưa đến 143 người tự thiêu để phản đối (tính từ năm 1980-2008) và hàng loạt cuộc biểu tình. Bên cạnh đó mua chuộc các tổ chức Tôn giáo bằng quà cáp, cúng dường hoặc đối xử đặc ân, biến các tu viện thành các địa điểm du lịch, trung tâm giáo dục, hoạt động chính trị, thậm chí là thương mại. 2 tu viện điển hình là Labrang Monastery và Kirti Monastery. Các buổi cầu nguyện hoặc tụ tập đông người vì mục đích Tôn Giáo có lực lượng an ninh giám sát và biến thành các nơi tham quan cho du khách.
Trung Quốc đánh đập tu sĩ Phật giáo Tây Tạng
Thông tin chia sẻ đến những người quan tâm, chia sẻ với Phật tử Tây Tạng cũng như góp với họ một tiếng nói. Mong chúng ta đừng khởi tâm sân hận, học tập người bạn Tây Tạng hướng từ tâm đến những người đang gây ác nghiệp.
Gần đây, sự điều khiển nâng lên tầm cao mới là can thiệp vào sự tái sinh và lựa chọn Đức Dalai Lama tiếp theo (Ngài Dalai Lama hiện nay thứ 14). Trung Quốc tự bổ nhiệm vị trí Dalai Lama tiếp theo một cách thách thức và thiếu minh bạch, cũng không quan tâm các dấu hiệu tái sanh của một Dalai Lama. Bên cạnh đó luôn tìm cách xúc phạm và cho rằng Ngài Dalai Lama hiện tại là kẻ phản bội.
Trung Quốc đánh đập tu sĩ Phật giáo Tây Tạng
Trên 1 diễn đàn, 1 Phật tử Tây Tạng trả lời các bạn bè quốc tế là người Tây Tạng không muốn dùng bạo lực hay gây ra cuộc chiến tranh vũ trang để dành chủ quyền. Họ cho rằng chiến tranh vũ trang sẽ mang lại đau khổ hơn, gây nghiệp xấu, và kéo theo oan trái qua các đời sau. Họ sẽ đấu tranh ôn hoà với từ tâm.
Trung Quốc đánh đập tu sĩ Phật giáo Tây Tạng
Một vài thiền viện trung thành với Ngài Dalai Lama 14 và không khoan nhượng với Trung Quốc (Tibet's intolorable monasteries), đi đầu là tu viện Shak Rongpo Gaden Dargyeling Monastery, đã cố gắng ngăn chặn các nổ lực lật đổ hay phá hoại Phật Giáo Tây Tạng của chính quyền Trung Quốc.
Trung Quốc đánh đập tu sĩ Phật giáo Tây Tạng
Trung Quốc đánh đập tu sĩ Phật giáo Tây Tạng
Trung Quốc đánh đập tu sĩ Phật giáo Tây Tạng
Phật Giáo Tây Tạng là một phần văn hoá xã hội không thể tách rời trong cuộc sống thường nhật của người Tây Tạng. Các chính sách tấn công vào Phật Giáo Tây Tạng của Trung Quốc đồng nghĩa với đe dọa người dân Tây Tạng.
(Theo worldreligionnews.com)

Bát Chánh đạo: quản trị khủng hoảng, tạo nền bình an

Bát Chánh đạo: quản trị khủng hoảng, tạo nền bình an

Đăng lúc: 21:12 - 01/07/2016

Dù là cá nhân, tổ chức hay quốc gia, mọi khủng hoảng đều xuất phát từ vô số cái nhân không đúng đắn. Có hai việc mà người đời thường nhìn nhận thiếu chính xác về việc này. Một là người ta cho rằng khủng hoảng đến từ bên ngoài, “từ trên trời rơi xuống”, hai là chỉ thấy hậu quả, rồi ra sức đi dẹp hậu quả.

Thế nhưng, cội nguồn của khủng hoảng đa phần xuất phát ngay từ bên trong, và hậu quả chỉ là phần ngọn. Khi bên trong gieo hạt giống không tốt, thì lấy gì có đời sống bình yên?
fgg.jpg
Giữ thân khẩu ý theo Bát Chánh đạo là xây dựng nền tảng an ổn từ bên trong

Với cá nhân, khủng hoảng là do chuỗi nguyên nhân trong quá trình từng cá thể sống và ứng xử với cuộc sống. Với tổ chức thì đó là cả hệ thống vận hành của bộ máy có tương tác và ảnh hưởng đến con người, môi trường và cộng đồng. Vì là tác động hai chiều, nên khủng hoảng luôn có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào. Nhiều tập đoàn truyền thông lớn “bán chạy” các bộ quy tắc ứng xử khi có khủng hoảng. Trên các trang mạng xã hội cũng truyền nhau các quy trình xử lý khủng hoảng truyền thông. Thế nhưng, cho dù các bộ quy tắc ấy có ưu việt đến đâu, thì cũng chỉ giải quyết phần ngọn - hỗ trợ dập tắt ngọn lửa đang bùng cháy.

Vấn đề là, làm sao để hạn chế tối đa việc xảy ra khủng hoảng và trong nguy cơ vẫn có thể xây dựng hình ảnh đẹp cho cá nhân, tổ chức? Thực tế cho thấy, cá nhân hay tổ chức có được sự an ổn ngay từ bên trong thì mới tránh được khủng hoảng ở mức thấp nhất. Nếu có xảy ra mâu thuẫn thì cũng sẽ biết xử lý đẹp dựa trên các giá trị và uy tín sẵn có.

Chìa khóa nào tạo ra bình an ngay từ bên trong? Đó là Bát Chánh đạo, một trong những thuyết thoát khổ vi diệu từ nhà Phật, gồm chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm, chánh tinh tấn, chánh định. Cấu trúc của quản trị khủng hoảng có 4 phần cơ bản: một là kiểm soát hành vi và thông tin nội bộ; hai là ngăn chặn ngay khi nhìn thấy mầm mống; ba là giải quyết khi khủng hoảng đã diễn ra; cuối cùng là hành động hậu khủng hoảng. Vậy, làm thế nào để áp dụng Bát Chánh đạo và 4 phần cơ bản này một cách nhuần nhuyễn?

Phần một - kiểm soát hành vi và thông tin nội bộ, là phần tạo tiền đề đầu tiên cho một nội tại vững chãi, an ổn. Phần này như cái móng của một ngôi nhà. Móng chắc thì nhà vững. Bát Chánh đạo cần được áp dụng đầy đủ trong phần này. Tuy nhiên, có thể tập trung vào 3 điểm chính.

Thứ nhất là chánh nghiệp. Đó là hành động đúng, theo lẽ phải. Cá nhân thì sống không hại đến người khác, hành động có lương tâm trong địa vị của mình. Đối với tổ chức thì phải có hệ thống quản trị khoa học, minh bạch, kinh doanh sản phẩm và dịch vụ tốt cho cộng đồng và môi trường sống, biết xây dựng và giữ gìn thương hiệu công ty, bộ mặt tổ chức. Một công ty bán thực phẩm mà dùng quá nhiều hóa chất, bán hàng hết hạn sử dụng ra thị trường là không chánh nghiệp.

Thứ hai là chánh mạng. Với cá nhân, đó là sống đúng đời sống của mình, bằng năng lực của mình. Với tổ chức thì làm ăn, vận hành ngay thẳng, bán đúng sản phẩm dịch vụ đã đăng ký với pháp luật, làm tròn trách nhiệm với nhân viên, với cộng đồng xã hội, không trốn thuế… Biết giữ chữ tín là điều luôn cần thiết đối với cá nhân hay tổ chức. Làm sao mà khi nhắc đến cái tên của mình, tổ chức của mình, người ta thấy có sự nể trọng, đó là đã chánh mạng.

Thứ ba là chánh tinh tấn. Thường xuyên thực hành và duy trì điều đúng đắn. Với cá nhân thì chuyên làm việc tốt, trau dồi trí tuệ. Với tổ chức thì phải thường xuyên xem lại hệ thống quản trị của mình, từ quản trị con người, tài chính, vật chất, sản phẩm hay dịch vụ… Để luôn bảo đảm rằng tổ chức mình đang phục vụ tốt cho cộng đồng và sẽ mãi luôn như thế.

Ngăn chặn ngay khi nhìn thấy mầm mống là phần trung gian và thường xuyên xảy ra nhất. Bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào cũng sẽ rất nhiều lần trong đời gặp nghịch cảnh, điều bất như ý. Ai nắm được phương pháp thì sẽ giải quyết ngay tại đây để khủng hoảng không có nguy cơ xảy ra. Có 3 con đường lớn phù hợp cho giai đoạn này.

Đầu tiên là chánh định. Đó chính là tập trung để nhìn thấy sự việc đúng sai một cách sáng suốt. Lúc xảy ra nghịch cảnh, tâm càng định thì càng dễ dàng nhìn thấu sự việc. Lúc này, chánh định chính là biết nhìn cho ta, cho người, tâm sáng không phiến diện để giúp phân tích sự việc một cách khách quan nhất có thể.

Tiếp theo, chánh kiến sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho chánh định. Càng có kiến thức, hiểu biết sâu rộng, trí tuệ sáng thì càng giúp cá nhân hay tổ chức nhìn rõ vấn đề đang diễn ra, nguy cơ nào sẽ xảy đến.

Cuối cùng là chánh tư duy, là suy nghĩ chín chắn để đưa ra những quyết định hợp lý, vừa tốt cho mình, tốt cho người vừa có thể giải quyết trong hòa bình điều bất như ý đang xảy ra.

Tóm lại, khi đối diện với nghịch cảnh có nguy cơ thành hoạ, nếu ta biết tĩnh tâm suy nghĩ, là người có kiến thức sâu rộng, có nền tảng tốt và suy nghĩ chín chắn, có tâm từ bi nhìn cho người, cho cộng đồng, cho chính mình, thì cá nhân hay tổ chức có thể “chuyển rác thành hoa”. Thông thường, nếu giai đoạn này xử lý không tốt thì sẽ đưa đến khủng hoảng truyền thông.

Khi khủng hoảng xảy ra rồi, làm thế nào đây? Đó là phải đi theo hai con đường chánh ngữ và chánh nghiệp. Lời nói đúng, hay, đẹp xuất phát từ tâm từ bi sẽ dễ dàng đi vào lòng người, dễ được người khác cảm thông. Trong mọi cuộc khủng hoảng, cảm xúc của con người là quan trọng nhất. Không có đúng sai tuyệt đối. Cũng không phải vì đúng mà nói lời trịch thượng, hoặc sai mà làm liều. Đừng trú vào ngôn ngữ thô lậu để sân hận. Nhưng nói không thì không đủ, kèm theo đó là hành động đúng đắn để sửa chữa sai lầm. Hành động đi đôi với việc làm đẹp thì khủng hoảng sẽ được xoa dịu ở mức thấp nhất, có thể biến cuộc chiến thành hòa bình.

Cuối cùng, khi khủng hoảng qua đi, hãy chánh niệm! Nghĩ về những hậu quả trong quá khứ để hành động đúng trong tương lai. Biết hổ thẹn với những gì mình làm sai để tiến tới việc làm đúng về sau.

Thực tập Bát Chánh đạo là tu tập thân - khẩu - ý, vốn là những nơi tạo nghiệp, tạo các cơn sóng dữ gây nên những cuộc khủng hoảng lớn nhỏ. Giữ cho thân khẩu ý theo Bát Chánh đạo, cá nhân và tổ chức không chỉ tránh những khủng hoảng, mâu thuẫn, xung đột mà trên hết là xây dựng được nền tảng vững vàng, an ổn từ bên trong. Cuối cùng, mọi sự từ tâm mà ra. Tâm của cá nhân, tâm của tổ chức, tâm của quốc gia, tâm của vũ trụ.

Tâm yên, vạn vật yên.

Tập thương yêu chân thành

Tập thương yêu chân thành

Đăng lúc: 07:28 - 12/03/2016

Câu chuyện về một cậu học sinh tên “Luis”.
Hôm ấy, khi Luis bước vào lớp, điều gì đó toát lên từ cử chỉ của cậu bé đặt mọi người vào một sự cảnh giác cao độ. Cách đây khoảng một tháng, một em nữ sinh đã tự bóp cổ của mình ngay trước văn phòng thầy hiệu trưởng, và đó là lý do vì sao chúng tôi phải dè dặt như vậy. Tôi nhận ra, bạo lực bộc phát không còn là chuyện diễn ra ở đâu đó xa vời nữa.

Ngay sau đó, tôi chợt liên tưởng, đây có lẽ cũng là điều mà đất nước chúng ta đang cảm nhận được, rằng bạo lực dường như là điều không thể tránh khỏi.

giaohao.jpg
Ảnh minh họa của Trần Thế Phong

Trong lúc ấy, Luis, người đang đi tới đi lui trước mặt tôi cùng với những câu nói lẩm nhẩm, thái độ bực tức, cậu bé không về chỗ của mình mặc kệ cho tiếng chuông báo hiệu vào tiết học đã reo lên. Với ánh mắt đầy sợ hãi, tất cả học sinh trong lớp nhìn nhau, rồi bọn trẻ nhìn vào tôi. “Phải làm gì bây giờ?” - tôi đã tự hỏi mình như vậy. Tôi cố tỏ ra điềm tĩnh và thử nói chuyện với Luis, nhưng cậu bé chỉ xem những chỉ dẫn và hành động của tôi như một lời sáo rỗng. Vì vậy tôi lùi lại, tránh xa khỏi cậu bé và tìm kiếm sự giúp đỡ bằng cách gọi điện cho ai đó, trông Luis dường như lại càng thêm phần nóng giận.

Tôi đã thử làm hết những gì mình có thể để trấn an và giúp cậu bé bình tĩnh hơn, nhưng tất cả đều trở nên vô vọng. Có một tín hiệu bất chợt phát ra từ văn phòng và tôi nhận thấy đó là cơ hội của mình, tôi nói lớn: “Ồ, thầy phải gọi một cuộc điện thoại thôi”. Ngay lập tức, Luis hướng sự tập trung về phía tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói: “Tất nhiên là phải gọi rồi”. Và đột nhiên những bước di chuyển của Luis trở nên nhẹ nhàng hơn, cậu bé rút từ trong túi ra chiếc bút chì và nắm chặt nó trong tay như thể đó là cán của một cây dao, rồi bước dài đến chỗ tôi.

Trong suốt cuộc đời mình, tôi luôn nỗ lực làm mọi thứ để ngăn chặn những tình huống tồi tệ có thể xảy ra. Tôi cũng được học về phi bạo lực và đã dạy cho học sinh của mình về Gandhi, người lãnh đạo các cuộc biểu tình hòa bình(Gandhi là người đã dẫn khởi nền độc lập cho Ấn Độ, đề cao “Chấp trì chân lý”, theo nguyên tắc chân lý và bất bạo động).

Tuy nhiên, trong khoảnh khắc Luis tiến đến gần, tất cả những chuẩn mực để tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới hòa bình của tôi dường như sụp đổ. Tôi không chắc rằng liệu Luis có ý định đâm tôi hay không, nhưng tôi biết mình cần phải làm gì đó để kéo cậu bé ra khỏi những học sinh khác của mình. Cậu bé to lớn hơn rất nhiều so với tôi và tôi như thấy mình rơi vào bế tắc. Tôi không dám tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra sau đó và khoảnh khắc ấy như đang chi phối tôi.

Một nỗi buồn không tưởng cuộn lấy rồi đè nặng lên tôi đến mức khiến tôi đổ gục xuống ghế. Và, tôi bắt đầu cảm nhận được một nỗi đau nào đó, đúng hơn, tôi như bắt đầu nối kết được với Luis. Không kiềm được nước mắt, tôi nói: “Thầy rất tiếc. Đó hẳn là một tổn thương rất sâu sắc”.

Cậu bé bỗng ngưng lại tất cả những hành động của mình, thả lỏng tay rồi nói: “Vâng”. Và như vậy, mọi chuyện dừng lại ở đó.

Những gì chúng ta chọn để thực hành trong cuộc sống hàng ngày, cũng là những điều sẽ xảy đến khi cuộc sống của chính chúng ta bị dồn đến bờ vực. Như vậy, nếu tôi học cách bắn vào những ai đang đe dọa đến mình và nếu có súng trong tay vào lúc đó, tôi tin chắc mình sẽ không ngần ngại bóp cò. Nhưng tôi đã chọn cách ngược lại. Một tháng sau, kể từ sự việc đáng sợ đó, mỗi ngày tôi đều dành ra 45 phút để tập bài tập có tên là “yêu thương chân thành”, hay còn gọi là “Thiền tâm từ”.

Thiền tâm từ là một phương pháp thiền định đơn giản mà khi thực hành nó, điều đầu tiên chúng ta cần làm là nghĩ về những người ta luôn quan tâm và mong muốn đem lại hạnh phúc cho họ - con cái hay thú cưng là một trong những ví dụ điển hình. Sau đó, chúng ta trải lòng mình bằng cách tập quan tâm và mong cầu hạnh phúc cho những người không mấy quan trọng hiện diện quanh ta, hay thậm chí là một người không quen biết, như bác đưa thư vẫn nhìn thấy hàng ngày, nhưng ta chẳng biết ông ấy là ai.

Trong từng hoàn cảnh, từng trường hợp như vậy, chúng ta tập giữ hình ảnh của những con người, những vật thể đó bằng trái tim, bằng suy nghĩ của mình và thầm nguyện cầu: “Mong những con người này có thể được hạnh phúc, mạnh khỏe và hiểm nguy sẽ không chạm đến họ”. Có thể đó là một sự thực hành không mấy khó khăn, nhưng nó cũng không hề đơn giản.

Quay trở lại câu chuyện về Luis. Tôi đã không biết gì cho đến sau đó, thì ra anh trai của Luis chỉ vừa bị tuyên án tù và cậu bé đã rất khó khăn để tiếp nhận sự thật này. Sự mất mát, và cậu bé cần một ai đó có thể lắng nghe để sẻ chia gánh nặng đang đè lên vai mình, nhưng vì không biết thể hiện như thế nào nên thay vào đó, Luis đã có những hành động bộc phát như vậy. Điều đó có lẽ cũng giống như Luis đang tự tìm nhà tù cho chính mình vậy.

Đến bây giờ, tôi vẫn không thể tin rằng những gì diễn ra ngày hôm đó giữa tôi và Luis là kết quả trực tiếp từ việc tôi thực hành thiền định, có lẽ đó chỉ xuất phát từ lòng khoan dung, chi phối tôi và làm tôi thấu hiểu được Luis. Nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng, việc thực hành tâm từ đã giúp tôi có thể mở lòng với người khác, để tôi luôn trong tư thế sẵn sàng trước mọi hoàn cảnh. Và đó là tất cả những gì tôi hướng đến. Khi thấu hiểu nỗi sợ hãi tạo ra nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, tôi cũng nhận biết được rằng để xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn, chúng ta cần rèn luyện cho mình sự nối kết, tình thân ái đối với vạn vật, đồng thời biết tiết chế chính mình và người khác.

Người Mỹ hiện nay luôn trang bị cho mình bằng những khẩu súng và bỏ ra nhiều thời giờ chỉ để học cách hủy diệt đi sự sống của người khác. Như vậy làm sao con người có thể mở lòng với nhau, nối kết và sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu thương?

Trên một phương diện nào đó, tôi cảm thấy con người chúng ta chẳng khác là bao so với Luis, tồn tại một nỗi sợ hãi và sự khao khát tình thân, mà ở đó con người biết sẻ chia cho nhau niềm vui cũng như nỗi buồn và tìm thấy ý nghĩa thật sự của cuộc sống. Khi không thể nhận được sự nối kết ấy từ những người xung quanh, con người lại có xu hướng cố giành lấy nó bằng cách bám chấp vào những bạo lực tồn tại bên trong suy nghĩ của mình và thể hiện những bạo lực đó ra bên ngoài bằng sức mạnh bản thân.

Trong niềm hân hoan, tôi xin kết thúc bài viết này bằng một câu khẩu hiệu đầy cảm hứng như vậy: “Hãy thiền định ngay bây giờ và thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn”. Vấn đề ở đây là tôi không tin vào điều đó và có thể bạn cũng vậy. Thay vì chờ đợi thế giới tháo bỏ khúc mắc này, tôi tìm thấy trong tư tưởng Phật giáo, sự hướng dẫn con người đi vào tự tâm của chính mình và không còn bất kỳ một ràng buộc nào.

Chúng ta có thể hiểu rằng, “không còn ràng buộc” có nghĩa là giác ngộ, biết được những gì nên làm và những gì cần lìa bỏ. Khi đạt đến “không ràng buộc” cũng đồng nghĩa với việc chúng ta không còn bị trói buộc bởi những khổ đau, phiền não kia nữa.

Những bước đầu tiên thực hành thiền định, tôi đã luôn nghĩ đến một kết quả, đó là sự yên bình. Nhưng những kết quả mà chúng ta tưởng tượng ra, bản thân nó chính là một thể của ràng buộc. Tôi không thể ngờ được thành quả của sự thiền định ấy đã thay đổi tôi trong khoảnh khắc đối mặt với Luis (tôi đã không còn nghe tin gì về Luis kể từ khi cậu bé rời khỏi trường trung học năm 2011).

Khi điều gì đó tương tự xảy ra, mọi thứ quanh ta dường như thay đổi, nhưng chúng ta sẽ nhận ra rằng mình vẫn còn tồn tại với một sinh mạng vô cùng quý giá, và trái tim sẽ luôn nhận thức được sâu sắc những đau khổ, phiền não trong thế gian này. Những đau khổ, phiền não mà chúng ta có thể nhận biết được là mênh mông vô tận, và không thể nào ngăn hết tất cả chúng lại được.

Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng mình vẫn đang tồn tại, chúng ta có thể tự kéo mình ra khỏi những suy nghĩ to tát kia và dành thời gian lưu tâm đến những chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt, vô nghĩa quanh mình.

Đến một lúc nào đó, chúng ta có thể vận dụng lòng từ bi nơi tự tâm để biết lắng nghe những Luis khác trong cuộc sống này và tạo ra sự bình yên chân thật cho chính ta.

Giao Hảo

Tai nạn giao thông qua góc nhìn nhà Phật

Tai nạn giao thông qua góc nhìn nhà Phật

Đăng lúc: 19:24 - 09/11/2015

TNGT dưới góc nhìn của Thượng tọa Thích Đức Thiện, Tổng thư ký T.Ư Giáo hội Phật giáo VN tại Đại lễ cầu siêu


tai nan cau vuot thai ha
Vụ tai nạn kinh hoàng tại cầu vượt Thái Hà đêm 8/11
Đây là lần thứ 4 T.Ư Giáo hội Phật giáo VN phối hợp với Ủy ban ATGT Quốc gia tổ chức Đại lễ cầu siêu cho các nạn nhân thiệt mạng do TNGT.

"Chúng tôi mong, thông qua Đại lễ cầu siêu để cầu nguyện, khai sáng vong linh của các nạn nhân bị chết do TNGT, đồng thời cũng là để đem lại sự an lòng đối với gia đình của các nạn nhân. Đặc biệt, thông qua đó cảnh báo đến toàn xã hội những thông điệp an toàn khi tham gia giao thông để đảm bảo an toàn tính mạng của chính mình, mong muốn toàn xã hội chấp hành tốt Luật Giao thông. Mỗi người hãy tự ý thức về bản thân mình và có trách nhiệm với chính sự sống của mình để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình và toàn xã hội.

Cả hệ thống chính trị đang quyết tâm vào cuộc kéo giảm TNGT, những thiệt hại do TNGT gây ra là vô cùng lớn. Số người chết dù đã giảm, nhưng vẫn còn ở mức cao. Tính mệnh của một con người là vô cùng quý giá, với hơn 7.000 người thiệt mạng do TNGT trong 10 tháng đầu năm là nỗi đau không chỉ riêng người nhà các nạn nhân mà còn là nỗi đau của toàn xã hội. Bên cạnh đó, nó còn kéo theo nhiều hệ lụy cho xã hội, ngoài nỗi đau về tinh thần, còn thiệt hại nặng nề về kinh tế cho đất nước. Vì thế, mỗi chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ thân thể của mình để kéo giảm TNGT.

Đối với triết lý của đạo Phật, luật nhân quả chi phối tư duy, chi phối hành động của mỗi con người. Vì vậy, chúng ta cần phải ngăn chặn từ nguyên nhân không để xảy ra hậu quả nghiêm trọng. Muốn ngăn chặn được nguyên nhân đó, một trong những việc rất quan trọng là công tác tuyên truyền đến quảng đại quần chúng ý thức khi tham gia giao thông, chỉ từ một sự bất cẩn, vô trách nhiệm với chính bản thân mình mà gây ra hậu quả vô cùng đau đớn cho gia đình và cả xã hội.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam không chỉ phối hợp với Ủy ban ATGT Quốc gia tổ chức Đại lễ cầu siêu mà còn chỉ đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam các tỉnh, thành tổ chức lễ cầu siêu cho nạn nhân TNGT ngay tại địa phương. Bên cạnh đó, trong các bài giảng của các giảng sư, hoằng pháp của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và các tỉnh, thành đều đưa chương trình giáo dục ý thức tham gia giao thông vào giảng dạy để chỉ ra những mất mát, đau thương và kêu gọi tất cả mọi người bằng trách nhiệm với bản thân mình và xã hội thực hiện tốt nhất Luật Giao thông khi lưu thông trên đường. Bằng việc làm cụ thể đó, T.Ư Giáo hội Phật giáo Việt Nam xác định đây là việc làm đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho mọi người".

Thượng tọa Thích Đức Thiện
Tổng thư ký T.Ư Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Trần Duy (Ghi)

grab14345062184 Copy 298568082

Nepal: đang khắc phục Chùa Tháp Swayambhunath sau trận động đất

Đăng lúc: 06:21 - 18/06/2015

Một trong những ngôi Cổ tự và Bảo tháp được tôn kính và linh thiêng nhất ở Nepal đã bị thiệt hại trong trận động đất kinh hoàng vừa qua. Những nhà Bảo tồn hy vọng sẽ khắc phục Bảo Tháp trước mùa mưa.
Chùa Tháp Swayambhunath còn được gọi là chùa Khỉ (bởi nơi đây có nhiều khỉ cư trú, đặc biệt là ban đêm), ngôi Cổ tự tọa lạc trên một ngọn đồi được bao phủ bởi rặng cây xanh ở phía Tây thung lũng Kathmandu, nơi thu hút du khách thập phương hành hương trãi qua 1.400 năm qua. Đỉnh Bảo Tháp cao vút với sắc huỳnh kim lấp lánh và mái vòm màu trắng vươn lên trên ngọn đồi, hòa lẫn bầu trời mây bay bãng lãng, từ xa xa đã dễ dàng nhìn thấy.

Chùa Tháp Swayambhunath được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1979.

Ông Christian Manhart, giám đốc UNESCO tại Kathmandu, chia sẻ rằng: “Bảo Tháp Swayambhunath đã bị ảnh hưởng trong trận động đất kinh hoàng vừa qua. Chúng ta phải khẩn trương khắc phục những vết của Bảo Tháp trước mùa mưa”.

Dân Nepal và người nước ngoài cùng làm công việc dọn dẹp các mảnh vỡ của Thánh tích này sau trọng động đất vào ngày 25/04/2015 đã cướp đi hơn 8.500 người, bị thương 23.000 người và hàng trăm nghìn người vô gia cư, đang lâm vào cảnh màn trời chiếu đất.

Các trận động đất kinh hoàng đã tàn phá các di sản cổ xưa của Nepal, đây là trung tâm ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của nhiều người dân địa phương, bởi Thánh tích này là một hấp dẫn lớn đối với khách du lịch, một nơi thu ngoại tệ, góp ngân sách cho địa phương.

Theo tài liệu của UNESCO, hơn 30 di tích trong thung lũng Kathmandu đã bị thiệt hại trong trận động đất, và đã phát hiện thêm 120 di tích khác bị một phần thiệt hại.

Ông Christian Manhart, Giám đốc UNESCO tại Kathmandu và đồng nghiệp ước tính sẽ mất ít nhất $ 160,000,000 để sửa chữa và khôi phục 1.000 di tích bị hư hỏng, và bị phá hủy bao gồm Tu viện, Đền miếu công trình văn hóa lịch sử trên khắp cả nước. Đối với quốc gia đa Tôn giáo sắc tộc này, việc phục dựng lại là một ưu tiên đặc biệt.

Ông David Andolfatto, Nhà khảo cổ học và sử học nghệ thuật, một chuyên gia tư vấn của UNESCO, cho biết: “Chúng tôi đang kiểm kê các di tích di sản làm từ đá, đất nung và cất giữ tạm trong ngôi Cổ Tự. Mối quan tâm hàng đầu của chúng tôi hiện nay là ngăn chặn để chúng không bị cướp đi.

Bình nhật mỗi buổi sáng cư dân địa phương và du khách hành hương đi nhiễu quanh Đại bảo tháp Swayambhu, nhưng bây giờ họ không thể đến Thánh tích này được bởi không an toàn”.

Sau trận động đất, Ông David Andolfatto vội vã ra đường, nhảy vọt lên xe đạp của mình để đi kiểm tra Bảo tháp Swayambhu, nằm ở phía tây của thành phố Kathmandu. Ông đã dành thời gian quý báu của mình cho việc bảo vệ Thánh tích này cho đến hôm nay.

Cùng với việc khắc phục sửa chữa các vết nứt của Bảo Tháp, Ông là người nỗ lực giám sát những bích họa có nguy cơ mất dạng tại một ngôi Cổ tự nhỏ có tên là Shantipur. Điều này đòi hỏi sự phối hợp cẩn thận với chư tôn đức Phật giáo địa phương, và chỉ có các vị Giáo phẩm Phật giáo mới hiểu rõ được những chi tiết nơi tôn nghiêm bên trong ngôi Cổ tự nhỏ này.

Ông Christian Manhart, giám đốc UNESCO tại Kathmandu nói: “Trong trận động đất kinh hoàng vừa qua, tại Trung tâm Thủ đô, Bảo tàng Hanuman Dhoka Palace cũng chịu chung số phận trong tình trạng thảm khốc. Các bức tường và mái nhà bị rã tan.

Quân đội và các công nhân đang bảo vệ các địa điểm di tích, họ đang củng cố các bức tường và việc tìm kiếm các bộ phận khác của để bảo vệ trước khi cơn mưa đến.

Theo UNESCO đánh giá thiệt hại của trận động đất được tập trung ở thung lũng Kathmandu, một vị trí đặc biệt trong lịch sử Nam Á. Trong khi Phật giáo Ấn Độ phần lớn bị biến mất vào khoảng thế kỷ 12, nhưng Phật giáo tại Kathmandu vẫn phát triển mạnh (Năm 1178, quân đội Hồi giáo của Muhammad Ghuri đã tiến hành nhiều cuộc chinh phạt Ấn Độ. Hầu hết các công trình Phật giáo đã dần dà bị tiêu hủy. Vào năm 1197, trung tâm Phật giáo Nālandā bị hủy diệt hoàn toàn, kể cả các tăng sĩ. Vikramaśīla cũng bị chiếm năm 1203, chấm dứt hoàn toàn một thời đại lịch sử của Phật giáo tại Ấn Độ). Chúng tôi đã nghiên cứu lịch sử Phật giáo và Ấn Độ giáo tuyệt vời.

Ví dụ, một số Tự viện Phật giáo có khả năng phát triển ở đó và lan rộng khắp châu Á, những truyền thống này vẫn sôi động cho đến khi trận động đất rung chuyển đã lật đổ hàng chục công trình.

Hằng ngày mọi người đến các Tự viện Phật giáo để chiêm bái, sinh hoạt Tín ngưỡng Chánh tín, thưởng thức nghệ thuật kiến trúc, một tách Trà đạo, màu xanh biếc của những ngọn đồi núi xum xuê hùng vĩ. . .

UNESCO và Bộ Văn hóa Nepal đang tập trung vào việc củng cố di tích bị hư hỏng và có nguy cơ sụp đổ trong mùa mưa sắp tới, mưa kéo dài suốt mùa hè. Sau đó, họ sẽ chuyển sang phục hồi cấu trúc sụp đổ, kể cả nhà lịch sử.

Có những bản vẽ kiến trúc rộng lớn, cung cấp một cơ sở vững chắc để xây dựng lại. May mắn thay, hiện số tài chính quyên góp lên đến 400.000 USD và tổng cộng $ 2.000.000 từ các quốc gia Sri Lanka, Đức, Áo, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước khác”.

Theo chuyên gia Andolfatto tự tin rằng: “Người Nepal sẽ vượt qua những bi kịch và phục hồi di tích lịch sử văn hóa Tôn giáo một cách nhanh chóng bởi nhu cầu tối cần thiết bởi yếu tố tâm linh và về tinh thần dân tộc của họ”.















Thích Vân Phong(Theo Geographic. Ảnh: Niranjan Shrestha)

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 12
  • Hôm nay 3,658
  • Tháng hiện tại 61,043
  • Tổng lượt truy cập 23,467,292