Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Sa-môn Thích tử

Sa-môn Thích tử

Đăng lúc: 15:39 - 03/04/2017

Sa-môn là danh xưng của người xuất gia, cạo bỏ râu tóc, dứt trừ các điều ác, siêng làm các việc lành, tu tập thiền định để thú hướng Niết-bàn. Trước thời Đức Phật, các vị đạo sĩ sống đời xuất thế đã được gọi là Sa-môn (Bà-la-môn). Khi Đức Phật ra đời, các đệ tử xuất gia của Ngài cũng gọi là Sa-môn nhưng để phân biệt với ngoại đạo nên gọi thêm là Sa-môn Thích tử (Sa-môn con dòng họ Thích, Sa-môn đệ tử của Phật Thích Ca).
Như nước của trăm sông, khi về xuôi thì hòa nhập thành một là biển cả mênh mông rộng lớn. Nước của các sông kia cũng trở nên thuần một vị mặn mà. Cũng vậy, người trong thiên hạ tuy xuất thân từ những dòng tộc, hoàn cảnh, giai cấp khác nhau nhưng khi đã quy Phật xuất gia thì rũ bỏ hết mọi khác biệt, trở thành Sa-môn Thích tử, tất cả đều chung một mục tiêu duy nhất là thú hướng giải thoát, Niết-bàn.

samon.jpg
Tất cả đều chung một mục tiêu duy nhất là thú hướng giải thoát, Niết-bàn - Ảnh minh họa

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay có bốn dòng sông lớn từ suối A-nậu-đạt chảy ra. Những gì là bốn? Đó là Hằng-già, Tân-đầu, Bà-xoa, Tư-đà. Nước sông Hằng-già từ miệng trâu chảy ra về hướng Đông. Nước Tân-đầu từ miệng sư tử chảy về hướng Nam. Nước Tư-đà từ miệng voi chảy về hướng Tây. Nước Bà-xoa từ miệng ngựa chảy về hướng Bắc. Bốn dòng sông lớn nhiễu quanh hồ A-nậu-đạt, Hằng-già vào biển Đông, Tân-đầu và biển Nam, Bà-xoa vào biển Tây, Tư-đà vào biển Bắc. Bốn sông lớn vào biển rồi, không còn tên cũ, chỉ gọi là biển.

Đây cũng như thế, có bốn dòng họ. Những gì là bốn? Dòng Sát-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Ở chỗ Như Lai cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, không còn dòng họ cũ, chỉ gọi là Sa-môn Thích tử. Vì cớ sao? Chúng của Như Lai ví như biển lớn. Bốn dòng họ như bốn sông lớn, trừ bỏ kiết sử vào thành Niết-bàn Vô úy. Thế nên, các Tỳ-kheo! Có các vị thuộc bốn dòng cạo bỏ râu tóc, do niềm tin kiên cố, xuất gia học đạo, họ sẽ bỏ tên cũ, tự xưng Thích tử. Vì sao thế? Nay Ta chính là Thích tử, từ trong dòng họ Thích xuất gia học đạo.

Tỳ-kheo nên biết! Muốn luận nghĩa sanh con, nên gọi là Sa-môn con dòng họ Thích. Vì sao thế? Sanh đều do Ta sanh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu. Thế nên Tỳ-kheo! Nên cầu phương tiện được làm con dòng họ Thích. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 29.Khổ lạc,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.102)

Ngày nay mỗi người xuất gia đều được vinh hạnh mang dòng họ Thích cao quý của Đức Phật, nguyện làm con của Ngài, là “Sa-môn con dòng họ Thích”. Về hình thức, người xuất gia chính là Sa-môn Thích tử nhưng trong nội dung chúng ta thực sự có “cầu phương tiện được làm con dòng họ Thích” hay không, mới là chỗ đáng bàn.

Có câu “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Khi tự nhận là Thích tử, làm con của Đức Phật, thiết nghĩ chúng ta cũng nên tự soi xét lại mình có chút gì tương ưng với bậc Cha hiền (Từ phụ) của mình hay không? Bởi Thế Tôn đã từng căn dặn: “Muốn luận nghĩa sanh con, nên gọi là Sa-môn con dòng họ Thích. Vì sao thế? Sanh đều do Ta sanh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu”.

Thế nên, từ bỏ dòng họ thế tục để mang dòng họ Thích là điều không khó. Đích thực là con dòng họ Thích, “do Đức Phật sinh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu” mới là điều khó. Khó mà làm được mới đáng gọi là Sa-môn Thích tử.
Quảng Tánh

Không có gì bền chắc

Không có gì bền chắc

Đăng lúc: 19:26 - 24/03/2017

Đức Phật nói nhứt thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ, diệc như điển, nghĩa là các pháp hữu vi như chiêm bao, như giọt sương, như làn chớp. Người tu phải quán như thế. Nhiều người hiểu sai ý này. Phải xác định rằng pháp vô vi đối lập với pháp hữu vi. Người hiểu được pháp vô vi mới là người tu thực sự.
tuongphat.jpg
Đức Phật nói nhứt thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ, diệc như điển - Ảnh: Pixabay

Pháp hữu vi là những gì chúng ta nắm bắt được, hiểu được đều nằm trong sanh diệt pháp. Kinh Niết-bàn nói chư hạnh vô thường thị sanh diệt pháp, tức cái gì chúng ta nắm bắt, hiểu được là vô thường, là pháp hữu vi sanh diệt. Nhưng, còn mặt sau phải biết rằng sanh diệt diệt thời tịch diệt vi lạc. Phật dạy lý này để chúng ta chấm dứt sanh diệt mới chứng Vô sanh.

Cũng ý này, Hòa thượng Thiện Hoa dạy rằng sơn cùng thủy tận, hay tuyệt mạng tuyệt thể. Nghĩa là người tu phải đi ngược dốc, lên tận đỉnh núi, hay đi ngược về tận nguồn sông, tức về nguồn chơn tâm.

Trong dòng chảy sinh tử luân hồi, chúng ta từ nguồn chơn tâm theo vọng tưởng điên đảo mà xuất hiện trên cuộc đời này, kinh Hoa nghiêm gọi là vô minh duyên khởi. Thật vậy, từ nguồn nước trong, chúng ta theo vọng tình trôi ra dòng sông mê sẽ dẫn ra biển khổ, đó là con đường mà chúng ta đã trải qua nhiều đời nhiều kiếp luân hồi do mê mờ dẫn chúng ta đến cuộc sống hiện tại khổ đau không có lối thoát gọi là biển khổ, hay địa ngục.

Và trong biển khổ này, chúng ta gặp được Phật pháp ví như con rùa mù gặp bộng cây nổi trên biển cả mà chui vào, là chúng ta nương vào Phật pháp, trở về nguồn thì bớt khổ, cho đến hết khổ. Như vậy là cắt được hữu vi pháp.

Pháp hữu vi sanh từ vô minh, mới khởi lên nghiệp. Nghiệp có thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, Ý nghiệp là chính. Vô minh phát xuất từ ý là tham lam, bực tức, sai lầm dẫn đến quả khổ và từ quả này lại tạo nhân khác khổ hơn. Thí dụ người mới trưởng thành do vô minh sanh nghiệp ái là nghiệp đáng sợ nhất trong tất cả các nghiệp. Chàng trai hay cô gái khởi ái nghiệp dẫn họ vào mê hồn trận, nên nhìn không chính xác. Người Việt thường nói thương thì trái ấu cũng tròn, thiệt nó méo nhưng si mê thấy nó tròn, tốt. Đến khi đeo bám nó, mới thấy nó không còn tốt. Thầy có người bạn, anh này mê cô bán hàng đến trốn học, đứng gốc cây me để ngắm cô ta. Nhưng cưới được cô rồi, anh ta lại nói bây giờ con thấy bả con sợ! Mê thấy khác, tỉnh thấy khác, cứ như vậy mà người ta lún sâu vào vũng bùn nghiệp. Thấy cô gái họ cưới được đáng sợ, nên lại nghĩ đến cô khác rồi mê cô khác, làm gia đình tan nát. Đó là biển khổ mênh mông sóng ngập trời.

Tất cả pháp hữu vi không có gì bền chắc. Chúng ta thấy toàn ảo giác, vì mê nên ta thấy sai, rồi chạy theo nó; nhưng Phật dạy nó không thực bền chắc. Như Ma Đăng Già mê A Nan, dùng bùa để mê hoặc A Nan. Phật dùng thần chú Lăng Nghiêm cứu A Nan. A Nan tỉnh lại, chạy về chùa. Ma Đăng Già đuổi theo, gặp Phật, bảo Phật trả A Nan cho bà. Phật hỏi Ma Đăng Già mê A Nan cái gì. Bà nói ổng có con mắt đẹp quá. Phật dùng thần lực biến mắt A Nan đỏ chảy máu khiến bà thấy khiếp sợ.

Phật thấy sự thật, nói rằng thân người là cái túi da đựng đồ hôi thối. Nhìn bằng tuệ giác thấy chẳng những không có gì bền chắc mà còn gớm ghiếc. Với người mê sắc, Phật dạy ra thi lâm nhìn xác chết mà ghê sợ và đoạn được ái dục. Nghĩa là tu đi ngược về nguồn, chuyển cái thấy si mê thành thấy theo thật trí. Không phải thấy không bền chắc làm chúng ta chán đời, buông bỏ tất cả là sai.

Biết các pháp hữu vi không bền chắc thì hướng suy nghĩ và việc làm của mình theo con đường đúng đắn của Phật. Những gì không bền chắc chúng ta sẵn lòng buông bỏ, vì biết không giữ được, cuối cùng sinh mạng của chúng ta là nghiệp thân cũng phải bỏ. Có thân vì do nghiệp tạo, nhưng ta lại chấp thân là ta, nên phải khổ.

Huệ Tư thiền sư có thân xấu xí, ai cũng ghét và chê ngài. Nếu là phàm phu bị người chê, ghét, thì ức lắm và nói tại nghèo, nên bị khi dể, tại xấu nên bị chê. Ngài Huệ Tư nhận thấy rõ xấu xí, nghèo nàn, ngu dốt là cái nghiệp của mình. Nên ngài nói rằng người ta khinh chê, ghét bỏ là khinh chê, ghét bỏ cái nghiệp của mình, không phải khinh chê, ghét bỏ mình. Nhờ người chê mà biết được nghiệp của mình, từ đó, tu hành phải phá nghiệp, còn chấp nghiệp là mình thì cứ khổ thêm.

Biết nghèo bị khi dể thì cũng biết nghèo là do nghiệp, Phật dạy do nhiều đời gian tham trộm cắp, nên đời này làm gì cũng thất bại. Cải tạo nghiệp này, không gian tham, trộm cắp, mới thoát được cái nghèo. Vì vậy, Phật tử phải tập sống chân thật, nhờ đó lần lần có uy tín. Chính tâm chân thật, không gian tham, trộm cắp, người ta mới chấp nhận hợp tác với mình. Thực tế nhìn tướng, nghe giọng nói, hay thấy nét mặt cũng biết họ tham. Tuy muốn giúp, nhưng sợ cho vô nhà thì họ ăn cắp, thương muốn cho họ vô ở chung, nhưng sợ họ quậy phá. Khắc phục nghiệp này là tập tánh nghèo không tham.

Tướng trung thực, lời nói trung thực, hiền lành, người ta cho vô ở nhà, nhưng biết thân phận không dám vô là kinh Pháp hoa nói gã cùng tử làm công cho trưởng giả vẫn ở am tranh. Riêng thầy, tự biết thân phận nghèo, nên không dám gần ai, vì gần người có nhiều tiền, không khéo họ nghi mình làm thân để nhờ vả, hay ăn cắp. Vì vậy, thời thầy đi tu, giữ kỹ điều này lắm, tức không tới nhà giàu, vì làm thân với người giàu, họ xem thường mình. Phật cũng dạy vị Sa-môn điều này, gần người giàu, họ sợ mình ăn cắp. Trên bước đường tu, tránh gần người giàu, người quyền thế, chỉ lo tu và gạn lọc tâm cho đến tâm và lời nói mình trong sạch thì họ không sợ mình ăn cắp.

Huệ Tư dạy rằng họ chê, hay nói xấu là chê cái nghiệp, nói xấu cái nghiệp của mình. Hiểu như vậy, chúng ta tu, cám ơn người nói xấu ta, cám ơn người hại ta. Ta này là nghiệp và tu hành, biết ta từ chân tánh, hay ta và Phật đồng nhau theo kinh Hoa nghiêm. Tuy nhiên, trên thực tế, ta khác với Phật vì bị vô minh vọng tưởng bao bọc tầm nhìn, khiến mình thấy sai lầm, mới tạo vô số nghiệp ác.

Con người trong sáu đường sinh tử đều do nghiệp tạo. Nếu tạo thiện nghiệp sẽ có thân người tốt đẹp, cuộc sống sung sướng. Và tạo được cùng tột điều thiện sẽ có thân chư Thiên tốt đẹp nhất. Tạo cùng tột việc ác là ác ma. Vì vậy, Phật nói địa ngục hay thiên đường cũng do nghiệp tạo.

Chư hạnh vô thường do nghiệp và nghiệp là ảo. Vì vậy, nghiệp mất là đáng mừng, vì chúng ta cũng muốn bỏ nghiệp. Thi hào Nguyễn Du nói dễ thương rằng đã mang lấy nghiệp vào thân thì đừng trách trời, trách đất.

Mang nghiệp vô thì phải bỏ nghiệp được. Phật dạy xả uẩn, hay xả chấp. Bỏ được, nhưng vì chúng ta không chịu bỏ, sợ khổ, nhưng cứ ôm cái khổ. Bỏ nghiệp hết khổ liền. Thực tế có anh bị vợ bỏ, nếu không biết tu thì thấy khổ; nhưng anh biết tu, thấy nhẹ quá, khỏi lo nữa, được tự do làm công quả. Biết được nghiệp, mình chấp nhận thực tế này sẽ cắt được lòng tham ái, tham dục, hết khổ. Và kế tiếp, cắt luôn tham tài, tham danh. Phải biết nghiệp mình chỗ nào để cắt. Phước đến đâu hưởng đến đó. Theo thầy, Phật tử nên hưởng dưới mức mình có thì càng được an lạc hơn.

Người thương mình, mình thương họ là tình bạn đạo, nhưng mình thương mà họ không thương là nghiệp, là duyên hợp tan mà Phật nói vô thường, không bền chắc, thấy đó rồi mất. Thầy thấy biết bao người bạn mình quý trọng, nhưng nhìn lại không còn ai, đó là vô thường.

Tuy nhiên, nhìn xa trong vô thường có chơn thường là con người thực và thấy điều thực này thì mình và bạn đang hiện hữu trong thế giới tâm linh là Tịch Quang chơn cảnh. Như vậy, thầy mình và bạn mình đang ở thế giới này và khi mình mãn duyên trần sẽ đi vô đây.

Còn mình tiếc thân tứ đại mỗi ngày già yếu, bệnh hoạn, hoàn cảnh khó khăn hơn là khổ chồng chất khổ, nhưng chúng ta theo Phật, sống với chân tánh của chúng ta thì không có tướng già, không có tướng bệnh, không có tướng chết.

Từ kinh Nguyên thủy đến kinh Đại thừa, kinh nào cũng chỉ vô thường sanh diệt để chúng ta hướng đến bất sanh bất diệt là thế giới của Phật, Bồ-tát. Trong kinh Hoa nghiêm, Đức Phật dạy từ khởi thủy đến chung cuộc. Khởi thủy là gì. Người tu đi tìm nguồn gốc coi mình từ đâu tới đây và tương lai chết về đâu.
Tu Hoa nghiêm cứ đi ngược về nhiều kiếp trước để chứng Túc mạng minh. Nhờ đi ngược về quá khứ, mình mới thấy hiện tại. Nói rõ hơn, nếu quá khứ chúng ta trồng căn lành ở Phật pháp, thì hiện tại mới gặp thầy hiền bạn tốt. Vì vậy, thầy tâm đắc câu kinh trong Phổ Hiền hạnh nguyện rằng: “Những người cùng tôi đồng một hạnh. Cầu được sanh chung các cõi nước. Thân khẩu ý nghiệp đều đồng nhau. Tất cả hạnh mầu cùng tu tập…” Đây là thiện tri thức quá khứ của chúng ta tái sanh gặp lại thành bạn tâm giao, hiểu nhau, quý nhau, giúp nhau.

Thầy gặp Hòa thượng Ito. Ông đón thầy và nói rất dễ thương: Xin chào bạn. Hỏi bạn hồi nào. Nói bạn ở hội Linh Sơn. Lúc đó thầy trẻ, còn ông là Hòa thượng lớn tuổi. Như vậy, quý vị có dám nhận là bạn hay không. Bạn này là bạn tâm linh, bạn tâm giao, nên gặp là tự nhiên thương, quý trọng liền. Họ nói gì mình cũng dễ chấp nhận. Đây là thầy, là bạn quá khứ gặp lại, tự quý trọng nhau. Còn người mà mình nói gì, họ liền nói ngược lại. Thầy gặp người như vậy là thầy chấm dứt câu chuyện, không nói nữa. Phật cho biết Đề Bà Đạt Đa nhiều đời trước đã là bạn luôn chống đối Ngài.

Trên bước đường tu, quán chiếu quá khứ để biết hiện tại. Thấy người ghét mình, tự biết đó là oan gia đời trước gặp lại. Thấy người thương mình, tự biết họ đã từng là thiện tri thức đời trước. Thầy thường nói đường đi của mình đến quả vị Phật còn xa, việc làm còn nhiều, nên tránh phiền phức để đi cho nhanh. Không phải là Bà-la-môn mà ở đó tranh cãi. Còn nghe, còn cãi, còn góp ý chi cho khổ.

Nhờ thấy hiện tại mà biết quá khứ, biết ai làm bạn đồng tu, đồng hạnh, đồng nguyện. Ai nghịch hạnh thì tránh. Như vậy, mình tu nhẹ nhàng, không hơn thua tranh cãi, miễn sao sống an lạc, giải thoát. Đạo Phật là đạo tìm ra sự thật và sống với sự thật, biết nó cố cãi để hơn mình, thì mình chịu thua để cho mình được nhẹ.

Nhìn kỹ người làm đạo được nhờ duyên quá khứ là người bạn trong quá khứ tái sanh gặp lại, hỗ trợ nhau, như Khương Tăng Hội xuất gia ở Luy Lâu (Hà Nội), nhưng ngài qua Thượng Hải xây chùa Kim Sơn. Ngài nói sang Trung Hoa để gặp Ngô Tôn Quyền. Lúc đó Trung Hoa chưa có đạo Phật, dù kinh từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa rồi, nhưng người Trung Hoa chưa tin đạo Phật, nên đạo Phật không phát triển được.

Khương Tăng Hội sang Trung Hoa truyền đạo vì ngài biết có bạn ở đó và ngài cũng biết rằng bạn ngài sanh lại làm vua, ngài làm sư, hai người kết hợp để phát triển đạo Phật. Khương Tăng Hội là nhà sư đầu tiên đến Thượng Hải. Ngài không đi bình thường, nhưng đi trên chiếc nón lá. Mọi người thấy hình tướng của ngài kỳ lạ, nên tâu với vua Ngô Tôn Quyền. Ông nghĩ phải chăng Hán Minh Đế mơ thấy bạn là người này chăng.

Vua cho mời ngài tới. Ngài trả lời vua bằng tiếng Trung Hoa thông thạo như người Trung Hoa, làm vua nể phục. Vua hỏi Khương Tăng Hội khi Phật Niết-bàn, có gì để lại để thấy sự linh nghiệm. Ngài nói Phật Niết-bàn còn để lại xá-lợi là kết tinh công đức tu hành của Phật. Vua nói muốn xem công đức tu hành của Phật như thế nào mà kết tinh thành xá-lợi.

Khương Tăng Hội nói vì là công đức tu hành, người thụ đắc xá-lợi cũng phải do công đức tu hành mới được, không phải ai cũng có được. Và người có công đức mới thấy xá-lợi Phật, không phải ai cũng thấy xá-lợi hay giữ được xá-lợi.

Vua hỏi trẫm có thể thấy xá-lợi không. Khương Tăng Hội nói rằng làm vua là có phước thì thấy được xá-lợi, nhưng phải có niềm tin. Thực tế vua Ngô Tôn Quyền được coi là vua hiền đức, nhưng ông vua con là Tôn Hạo rất dữ.

Bệ hạ có phước nên thấy được xá-lợi, còn bần tăng phải nỗ lực tu mới có công đức, nhưng ngài cũng không dám nói mình có xá-lợi. Ngài bảo vua dựng thảo am để ngài tu một tuần nhằm hồi phục công đức thì mới thụ đắc xá-lợi. Nhưng thực sự ngài đã có bình xá-lợi rồi.

Trong một tuần ngài tu miên mật Thiền quán, không ăn ngủ. Qua một tuần, Ngô Tôn Quyền hỏi xá-lợi đâu. Ngài nói cho thêm một tuần tiếp tục Thiền quán. Sau đó, ngài lại xin thêm một tuần nữa. Vua nói nếu lần này không có xá-lợi thì là yêu ma, sẽ bị giết.

Tới đúng 21 ngày, am tranh ngài tỏa hào quang ngũ sắc rực sáng. Ngài bưng xá-lợi vào triều. Ngô Tôn Quyền hỏi ngoài hào quang như thế, xá-lợi còn gì linh nghiệm không. Ngài nói xá-lợi thật cứng đến chày kim cương giã không bể. Ngô Tôn Quyền bảo giã thử xem và để xá-lợi lên khối sắt cho lực sĩ giã. Xá-lợi không bể, mà lực sĩ dội té và cái cối lún xuống. Vua sụp lạy, cho xây chùa Kiến Sơ để thờ xá-lợi.

Tất cả vật là vô thường, không bền chắc, nhưng xá-lợi Phật là công đức tu của Phật thì bền chắc đến chày kim cương của Bát bộ chúng đánh không bể, tiêu biểu cho công đức tu của Phật trường tồn miên viễn.

Tu theo Phật đúng như pháp, khi xả huyễn thân, chân thân tức phước đức và trí tuệ của hành giả bền chắc. Ý thức như vậy, chúng ta bỏ giả thân không bền chắc để được cái không hư hoại, bỏ sinh mạng ngắn ngủi này để có sinh mạng vô cùng. Đó là ý Phật dạy trong kinh Hoa nghiêm rằng chúng ta tu ngược về nguồn để gạn lọc vọng tâm tham đắm mà nhiều kiếp bám chặt mình. Cần sám hối cho tiêu nghiệp mới đem Phật pháp vào tâm. Tu đúng từng bước đi lên. Tu hình thức mà thực chất không có sẽ dễ bỏ cuộc.

Tóm lại, trên bước đường tu, ban đầu chúng ta chấp chặt thân vô thường sanh diệt nên khổ với nó. Trải qua quá trình tu Thanh văn, cởi bỏ được pháp sanh diệt, tức trần lao nghiệp chướng, được giải thoát và tiến lên hành Bồ-tát đạo. Lần lần Pháp thân Bồ-tát của chúng ta hiện ra và lớn lần theo mỗi kiếp tu hành, thì tái sanh, phước đức, trí tuệ chúng ta tăng trưởng, cho đến khi đầy đủ 32 tướng tốt, trí giác và tâm đại bi viên mãn, thành tựu quả vị Phật.
HT.Thích Trí Quảng

Anh Van hoa, Phong Chau

Bình tĩnh sống giữa “kỷ nguyên chọt chọt”

Đăng lúc: 21:14 - 01/07/2016

Có lẽ, chưa bao giờ chúng ta dễ dàng tiếp cận thông tin, kết nối với “thế giới mênh mông” như hiện nay, chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh, wifi miễn phí hay 3G (mà những thứ này thì quá rẻ), mỗi người có thể tiếp xúc nhanh chóng, hàng giờ, hàng phút các thông tin, hình ảnh trên các trang báo chuyên nghiệp đến những trang “trời ơi”, chuyên đăng tin giật gân, câu view, câu like và cả mạng xã hội cập nhật từng giây...

Anh Van hoa, Phong Chau.jpg
Con người có thể “giết nhau”, đầu độc tâm hồn nhau trên mạng xã hội - Tranh minh họa

Bạn có bối rối giữa... rừng thông tin, bình luận?

Có người nói, đây là “kỷ nguyên chọt chọt” vì liên tưởng tới việc ai cũng cắm cúi vào thế giới rộng lớn ấy thông qua những ngón tay lướt và chỉ chỉ để thao tác các nút like, các câu bình luận - đôi khi ngồi với nhau, là người quen của nhau mà xa cách nghìn trùng vì ai cũng bận lướt Facebook, tám chuyện qua mạng. Ngay cả khi ăn, khi ngủ hay bất kỳ động tĩnh nào trong đời sống riêng tư, trong tâm hồn cũng phải “cúng Facebook”, cũng phải rào rào đưa lên Zalo...

Và một khi có một vụ việc nào đó, như những vụ việc về diễn biến môi sinh đó đây hay những thông tin của giới nghệ sĩ chẳng hạn, dù chưa có một kết luận nào chính thức nhưng các “thánh Facebook” đã ồ ạt có những... kết luận của riêng mình, bàn luận, nổi điên, chuyển tải đủ kiểu thông tin thật giả khiến mỗi ngày mỗi rối rắm (trước tiên cho chính mình). Nhiều vụ khác cũng thế, cư dân mạng sẵn sàng chặt chém vù vù một ai đó, một việc gì đó mà mình chưa biết đầy đủ, nghe ai nói sao thì nói theo vậy (là chính) bởi trong nội dung bàn, bình luận (hay... bình loạn) ấy đã cho thấy sự chưa có hiểu sâu sắc câu chuyện.

Thời đại này, ai không tham gia mạng xã hội có thể nói là... tụt hậu, là bảo thủ, thiếu thông tin, nhưng kỳ thực, khi tham gia lại khiến mình rối hơn, bất an nhiều hơn. Không thể phủ nhận, nhiều nguồn tin quý được nhặt từ mạng xã hội, nhiều bài viết hay, câu chuyện giá trị, tình bạn cao đẹp, thậm chí tình yêu được tìm thấy, nẩy nở, nuôi dưỡng, bước lên đỉnh cao từ chính “thế giới ảo”. Song, những mặt trái, chứa màu đen tối trên thế giới mênh mông này không phải là không có, nhất là giữa đám đông người tham gia - ai cũng muốn nói mà ít người muốn lắng nghe, ai cũng muốn thể hiện bản thân mà ít người có những chia sẻ chân thành, ai cũng manh động và ít có sự bình tĩnh để thấy đa chiều một câu chuyện nào đó.

Thực tế, mạng không là ảo khi nó có tác động tới đời thực của mỗi người. Có những người đã phải chết vì quá xấu hổ do có ai đó tiết lộ bí mật cá nhân, đời tư hay chốn phòng riêng lên mạng. Có những người phải vào tù, bị khởi tố cũng chính vì hành vi thiếu kiểm soát trên chốn “xô bồ” này. Và, có thể chắc chắn một điều rằng, khi bạn lập một trang cá nhân với nickname hoàn toàn xa lạ với lý lịch của mình, mượn ảnh ai đó làm avatar... thì việc bạn phát ngôn đầy tính kích động, xả láng ngôn từ trên chốn công cộng này - nó vẫn tác động tới con người thực của bạn, mỗi ngày và mỗi lần bạn thực hiện hành vi (tưởng không ai biết ấy).

Con người ta thường sống bản năng, buông thả khi họ nghĩ rằng, không ai biết về việc mình làm, cách mình đang sống hoặc nghĩ mình có thể che giấu được chúng bằng những “khuôn mặt khác”, nhất là trong thế giới ảo. Tuy nhiên, hành vi của mỗi người đâu phải chỉ lưu lại trên mạng, hay sẽ bị xóa sổ hoàn toàn nếu không có camera quay lại, không có người thứ hai nào nhìn thấy.

Hành vi bản năng, xấu xí của chúng ta, dù được giấu giếm rất kỹ bằng những tài khoản khác nhau, lạ lẫm trên mạng thì nó vẫn được lưu lại trong tâm hồn mình và ít nhiều gây xáo trộn đời sống của ta. Nó sẽ làm ta phải loay hoay che giấu và dần đi xa con người thật vốn giản đơn, biết giữ mình trong sáng, hay ít nhất cũng biết sợ sự lên án để không làm càng, làm quấy.

Bản thân chúng ta, ai cũng muốn bình yên, tốt đẹp, nhưng rất tiếc, đôi khi vì không kiềm giữ nổi mình trước cám dỗ, nhất là khi được sự “tạo điều kiện” của thế giới ảo - cho phép bản thân ẩn mình an toàn bằng những nickname nào đó, nên ta đã sống bừa bãi hơn, xô bồ hơn, và nghĩ thoáng đến mức đi xa lắc giá trị nhân văn, trong sáng mà mỗi người cần phải giữ, bởi đó là điều kiện tất yếu để có bình yên, để được tôn trọng.

Biến mình thành người dễ dãi trên mỗi bức ảnh, dòng tin, bình luận, chửi bới... trên dòng thời gian là một trong những cách làm cho mình bối rối trước thực tại cuộc sống. Vì, chúng ta không còn bình tĩnh để nhìn sâu sắc, để tìm ra cách giải quyết vấn đề, để cảm thông và thấy được mình cần làm gì để đóng góp; thay vào đó, suốt ngày mình chỉ hoài trách móc số phận, thất vọng với mọi thứ, mất niềm tin với tất cả... (bởi trước đó, đã quá buông thả suy nghĩ của mình trên thế giới mênh mông tuy nhiều người đó nhưng hầu như ai cũng cô đơn với những ốc đảo do mình tự bồi đắp).

Giữa chốn thị phi...

Thời nào cũng có thị phi, cũng có những tin đồn... và con người bị chi phối, bị khổ sở bởi những thứ ấy. Nhưng, có lẽ chưa thời nào bằng thời này, khi công nghệ phát triển, nhà nhà, người người tham gia mạng xã hội, cập nhật tin tức hàng giờ, hàng phút trên internet (như đã nói ở trên), càng khiến cho chốn thị phi nhộn nhịp, rộng mở xuyên biên giới.

Ở đó, có những tin thất thiệt mà cũng khiến người ta... tin sái cổ, như là chuyện bắt cóc trẻ con mới đây chẳng hạn, đã khiến các cơ quan chức năng phải “nói cho rõ” nhằm trấn an dư luận. Rồi những chuyện này nọ hàng ngày, chỉ cần báo đăng (tin chính thức trên báo chính thống) thì sau đó không lâu, cõi “ảo” lại rầm rầm rộ rộ, soi, chiếu, đem kính lúp, kính hiển vi ra để tìm kiếm nhằm bày biện đủ kiểu quan điểm, chủ yếu là “vạch lá tìm sâu”, chê là chính.

Đã không ít lần, tôi đọc được những dòng chia sẻ đầy chán ngán của bạn, rồi của anh, chị, của em... rằng, bây giờ không xài Facebook thì lạc hậu, bị cho là bảo thủ, nhưng chơi rồi mới hay, ở trên đó, người ta làm “thánh” nhiều quá, suốt ngày chỉ trích, xoi mói đời tư, tìm lỗi để ném đá, chứng tỏ mình giỏi, mình lương thiện, trong khi đời thực của họ chưa chắc hay ho gì...

Nhiều người có suy tư về vấn đề (hay vấn nạn) này đã phải đặt dấu hỏi: hình như con người ta ngày càng độc ác hơn, ít biết nhìn cái hay, cái tốt của người khác, của cuộc sống xung quanh, ít biết tha thứ khi cứ muốn kiếm lỗi người khác để làm niềm vui...

Đại ý là như thế. Có một nỗi buồn, sự thất vọng bao trùm trong những dòng ngắn ấy, phản ánh một sự thật là: con người ta kêu gọi sống tốt nhưng ngay cách họ truyền tin, phản ứng với những cái chưa tốt, việc tồn tại của cuộc sống đã cho thấy họ... đang sống xấu rồi. Suy nghĩ tiêu cực và đưa ra những góc nhìn xấu về một con người mà ở đó có chứa phần tốt, điểm đẹp, cái được... là một sự thiếu công bằng, một cách nhìn ác ý.

Đó là chưa nói, có nhiều người trong đầu có tư tưởng “sính ngoại” nên dễ dàng chê bai người trong nước với những lời lẽ thậm tệ, chỉ chờ đợi những tin xấu về người trong nước là đem ra bàn luận, đưa lên “tuyên truyền” như thể cuộc sống chỉ có bấy nhiêu chuyện, và toàn là chuyện xấu. Còn biết bao cái tốt, biểu hiện đẹp sao không đưa lên? Sao lại tự làm cho mình trở nên tiêu cực bằng cách chằm chằm nhìn vào những góc tối và truyền góc tối ấy mà thôi? Trong khi ấy, giả sử cũng với những biểu hiện tương tự, nhưng do người ngoại quốc làm thì có thể dễ dàng được cho qua, thậm chí có cái nhìn ngược lại!

Tôi thấy giữa chốn thị phi mà ở đó, sự giả danh của cái tốt bắt đầu bằng chuyện chửi bới cái xấu chỉ khiến cho đời sống tinh thần mình bị ảnh hưởng không tốt. Do vậy, thiết nghĩ cần cẩn trọng khi bước vào xa lộ thông tin trên mạng xã hội khi có quá nhiều người lạm dụng chốn ấy để xả rác, để bới móc, để khơi gợi những ý niệm không mấy tốt đẹp.

Cần biết bao những lời đẹp từ cuộc sống, những lời thật mà chân thành chớ không phải là những chỉ trích để làm cho xấu mặt người khác, làm cho nhiều người nhìn vào cuộc sống, vào đất nước mình đang sống và thấy chỉ toàn “mặt trái” và thấy “gà nhà bôi mặt đá nhau”.

Nghĩ thế nên tôi tiếp xúc với “chốn thị phi” ấy với sự bình tĩnh, để biết và lướt qua, để còn tập trung vào những điểm sáng khác, để khuyến khích cái tốt được tốt thêm thay vì chỉ là chỉ trích cái xấu, làm cho nó không những không tốt lên mà còn xấu thêm, gây ra hiệu ứng xấu trong suy nghĩ của người khác về cuộc sống, khiến nhiều ngươi rơi rớt niềm tin vào điều tốt đẹp vốn tồn tại song hành bên ta, trong mỗi chúng ta...

An Lạc

Vì sao tu thiền định?

Vì sao tu thiền định?

Đăng lúc: 20:21 - 10/06/2016

Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy Bát chánh đạo, trong Bát chánh đạo từ Chánh kiến cho tới cuối cùng là Chánh định. Theo kinh Đại thừa Phật dạy Lục độ, thứ nhất là bố thí tới thứ năm là thiền định, thứ sáu là trí tuệ.

HT Thanh Tu.JPG
HT.Thích Thanh Từ

Chúng ta tu thiền định là tu thế nào? Nhiều vị không hiểu nói người mới tu thiền phải quán hơi thở tức là sổ tức. Sổ tức là đếm số, hít vô cùng đếm một, thở ra sạch đếm hai, đếm tới mười bỏ, rồi đếm trở lại một. Cứ như vậy đếm hoài cả buổi có lợi ích gì đâu, mầu nhiệm gì đâu?

Chúng ta thử đặt lại vấn đề, tại sao đếm hơi thở? Vì muốn dừng tâm lăng xăng. Hít vô nhớ mình hít vô tới đâu, thở ra nhớ mình thở ra tới đâu, rồi nhớ số nữa. Bắt nhớ như thế để tâm quên chạy theo vọng tưởng. Dừng được tâm này là định nên nói thiền định. Thiền định là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Tĩnh lự, nghĩa là lặng cái suy nghĩ lăng xăng, chớ không gì lạ.
Qua giai đoạn đếm hơi thở rồi đến giai đoạn theo hơi thở. Khi ta chú tâm đếm hơi thở, tâm không chạy bậy, lần lần thuần thục ta bỏ đếm, chỉ theo hơi thở thôi. Nghĩa là hít vô tới đâu biết, thở ra tới đâu biết. Theo dõi như người thiếu nợ trốn chủ, bất thần chủ nợ tìm gặp, nên theo sát lưng không bỏ. Tu cũng vậy, ban đầu đếm hơi thở, sau đó theo hơi thở thật khít khao để tâm không tán loạn. Đó là phương tiện buổi đầu của người tập tu thiền.

Kế đến chúng tôi hướng dẫn hành giả tu thiền, khi niệm dấy khởi lên biết nó là hư dối, bỏ. Bởi vì khởi nghĩ không thật, mà mê theo nó thì thành thật. Như giận người A, khi dấy niệm giận mình theo niệm đó phát nổi hung hăng, muốn chửi đánh người ta, thành ra tạo nghiệp. Nếu vừa nhớ tới A liền bỏ không nghĩ, thì đâu còn tức mà muốn đánh chửi người ta. Manh mối ban đầu vừa mọc mầm liền thấy, chỉ mặt nó thì nó dừng lại nhẹ nhàng.

Tọa thiền dùng trí thấy thẳng để dẹp vọng tưởng. Đó là thấy ngay lẽ thật, không mượn phương tiện. Thiền tông dạy trực chỉ nhân tâm tức chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật là nhận ra bản tánh của mình thì thành Phật. Chỉ thẳng tâm người là tâm lăng xăng, tâm điên đảo đó. Nó vừa dấy lên, chỉ mặt rầy thì nó lặng. Cho tới bao giờ tâm ấy hoàn toàn lặng hết thì tánh Phật hiện ra. Tánh Phật là Pháp thân. Người tu thiền đặt trí tuệ lên hàng đầu. Nhìn thẳng thấy rõ ràng, không để vọng tưởng lừa gạt. Nó rủ đi đâu là chặn liền, không cho nó dụ dỗ.

Phật tử bây giờ có bệnh, mình tu thích hợp với pháp này liền chê pháp của người khác, khen pháp của mình. Do đó tâm lăng xăng càng tăng trưởng chớ không giảm. Như vậy đâu phải tu. Tu là để giảm suy nghĩ lăng xăng, rối bời, mà mình tu càng ngày càng tăng là không đúng rồi. Cho nên thấy người tu niệm Phật, ta hoan hỷ nói “Chị tu niệm Phật tốt. Ráng niệm cho nhất tâm”. Thấy người tu trì chú, nói “Anh tu trì chú tốt. Ráng trì cho tới tam mật”. Thấy người tu thiền, nói “Anh tu thiền tốt. Ráng ngồi thiền cho được định”. Như vậy ai cũng tốt hết.

Người biết tu phải hiểu cho thấu đáo để không hờn phiền những người đồng đạo. Nếu không khéo sẽ dẫn tới tình trạng người này trách người kia, người kia phiền người nọ. Chính huynh đệ trong đạo chỉ trích nhau hoài, không hòa thuận nói gì tu hành. Bởi vậy tất cả chúng ta phải hiểu rõ điều này.

Tại sao Phật dạy chúng ta phải dẹp cái nghĩ lăng xăng lộn xộn của mình? Những ý nghĩ quấy dẹp thì phải, nhưng ý nghĩ phải tại sao cũng dẹp? Nếu nghĩ xấu sai, ta sẽ nói làm theo nghiệp ác. Nếu nghĩ tốt dĩ nhiên ta nói làm theo nghiệp lành. Như vậy nghiệp lành, nghiệp ác từ ý nghĩ mà ra. Nghiệp ác thì đọa vào đường dữ, nghiệp lành thì sanh về cõi lành. Nhưng dù lành hay dữ cũng còn trong dòng trầm luân sanh tử, còn trở đi trở lại mãi trong ba cõi là còn khổ.

Tại sao nghiệp lành vẫn không giải thoát? Vì nghiệp lành thì sanh cõi lành, như được làm người sung sướng. Nhưng mấy chục năm hưởng hết phước rồi cũng chết. Hoặc sanh lên cõi Trời, ở cảnh cao sang muốn gì được nấy, nhưng hết phước cũng đọa xuống trở lại. Lên lên xuống xuống không có ngày cùng. Chỉ có ra khỏi dòng sanh tử mới được giải thoát, hết khổ đau. Bây giờ nếu chúng ta tu tới nhất tâm, không còn nghĩ thiện nghĩ ác thì đi đâu? Hết nghĩ thì hết nghiệp, hết nghiệp là hết sanh tử, đó là giải thoát. Chỗ cứu kính chân thật Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy là cái sáng suốt, bất sanh bất diệt nên gọi là Niết-bàn, vô sanh. Không có sanh lấy gì có tử.

Đức Phật vì thương chúng sanh mê lầm đuổi theo hư ảo cho là mình, rồi cả ngày sống trong cái hư ảo đó, chịu vô lượng khổ đau. Đã sống trong hư ảo thì dù làm việc tốt cũng chưa hẳn là tốt. Ví như có hai nhóm đi làm từ thiện. Nhóm A được nhiều người hoan nghênh, nhóm B cũng làm từ thiện nhưng lại bị nhiều người chỉ trích. Vậy nhóm B có vui nhìn nhóm A không? Bị thua thì giận rồi, mặc dù giận vì làm việc thiện.

Bởi vậy nói tâm của chúng ta không chân thật. Vì nó hư ảo nên biến chuyển luôn. Do đó nhiều người lúc nhỏ rất hiền lành, nhưng lớn lên bị ngoại duyên không tốt tác động lâu ngày trở thành hung dữ. Ngược lại, người lúc nhỏ hung dữ nhưng lớn lên nhờ gần gũi duyên tốt nên trở lại hiền lành. Tâm ta luôn đổi thay, không đứng một chỗ. Gặp môi trường tốt, thầy tốt, bạn tốt thì tốt theo, gặp môi trường xấu, thầy xấu, bạn xấu thì xấu theo. Tâm đó tùy thuộc ngoại cảnh chớ không tự làm chủ được. Vậy mà tất cả chúng ta đều đuổi theo nhận nó là mình, thử hỏi có đáng buồn không?

Nếu chúng ta không nhận những suy nghĩ lăng xăng lộn xộn đó là tâm mình, thì dù ở chung cả trăm ngàn người cũng không có chuyện cãi vã, nói gì đánh đập nhau. Sở dĩ chúng ta ở chung có chuyện này, chuyện kia là vì không đồng ý nhau. Mỗi người đều cho cái suy nghĩ là đúng, là tâm mình nên rồi hơn thua, phải quấy, oán thù đủ chuyện. Nuôi tâm ấy như nuôi kẻ cướp trong nhà, do đó Phật nói “Nhận giặc làm con”. Vì nhận giặc làm con nên nghe lời nó, không chịu bỏ nó. Đã vậy thì đời ta cứ đi trong trầm luân đau khổ không có ngày cùng.

Muốn ra khỏi dòng sanh tử không gì hơn là lặng được chú tạo nghiệp đó. Nghĩa là đừng nhận nó làm con nữa, đuổi nó ra khỏi nhà. Dễ quá, nó không phải là con mình thì đuổi đi. Nhưng khổ nỗi ta lại thương nó, không chịu đuổi. Khi thấy chúng sanh mê lầm như vậy, Đức Phật có thương không? Có. Chúng sanh đang lặn hụp giữa biển cả mênh mông, Ngài đưa tay xuống chờ mình ngóc đầu dậy thì kéo liền. Nhưng chúng sanh cứ mải miết lặn hụp không chịu đưa tay cho Ngài kéo.

Mỗi một ngày hết mười hai tiếng chúng ta chạy theo cái hư giả, chỉ còn một hai tiếng trở về cái thật, nên ráng buông xả cho các vọng tưởng lặng xuống, giành quyền làm chủ phần nào. Nếu không mình cứ bị nó làm chủ hoài. Ngày nào ta giảm bớt được hơn thua, phải quấy thì ngày đó an vui. Ngược lại, nếu cứ để nó lôi dẫn chạy ngược chạy xuôi, khi nhắm mắt chắc chắn phải luân hồi sanh tử.

Phật tử tu mà không hiểu, cứ ỷ lại vào thầy. Tháng nào cũng đi chùa cúng thầy một ít, chừng nào nhắm mắt mời thầy tới độ cho về Cực Lạc, khỏe ru. Tu như vậy thì oan cho đạo Phật quá. Quý vị phải nhớ chúng ta lo cho Tam bảo, để việc giáo hóa mọi người thức tỉnh được trường tồn, được phát triển. Muốn thế bản thân mình phải tu, rồi tạo điều kiện hỗ trợ Tam bảo tồn tại lâu dài nơi thế gian, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Hôm nay tôi nhắc những điều thiết yếu cho tất cả quý Phật tử biết, ứng dụng tu đúng pháp Phật dạy. Mong tất cả thực hành đúng Chánh pháp, đừng vì sự tu mà tạo phân biệt, nuôi lớn phải quấy đối đãi, trái xa với bản ý Phật dạy, cũng là tự vùi lấp sự giác ngộ của mình. Hiểu vậy trên đường tu tôi tin chắc quý vị sẽ tiến, sẽ đạt được kết quả tốt đẹp.
HT.Thích Thanh Từ

Qủa báo của việc phá thai và cách chuyển nghiệp theo lời Phật dạy

Qủa báo của việc phá thai và cách chuyển nghiệp theo lời Phật dạy

Đăng lúc: 09:49 - 08/06/2016

Trong giáo lý nhà Phật, sát sinh chính là một trong những tội nặng nhất. Trong đó, giết người hay phá thai được xem là điều tối kỵ.



Khi một người mất đi, thần thức của họ vẫn tồn tại, theo nghiệp đi đầu thai.

Luân hồi là giáo lý vô cùng quan trọng của nhà Phật. Khi một người mất đi, thần thức của họ vẫn tồn tại. Sau 49 ngày, thần thức sẽ theo nghiệp đầu thai theo 6 nẻo luân hồi. Đó là cõi Trời, cõi Người, cõi Atula, cõi Địa ngục, cõi Ngạ Quỷ, cõi Súc sinh.

Theo Đại đức Thích Bản Quyền, Trụ trì chùa Phúc Long (huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng), nếu được đầu thai làm người thì phải có 3 yếu tố. Thứ nhất là tinh cha, hai là huyết mẹ, ba là hơi ấm (tức thần thức). Khi bào thai bị người mẹ “bỏ”, thần thức sẽ bị tổn thương, chịu nghiệp bất thiện. Linh hồn đứa trẻ khó đầu thai thành người ở kiếp sau.

“Một cái thai nếu đến 7 tuần được coi là một mạng sống hoàn chỉnh. Trong vòng 7 tuần, nếu người mẹ nào phá bỏ đã mang tội, nhưng ở mức độ nhẹ. Còn nếu quá 7 tuần mà cố ý nạo phá thai thì đồng nghĩa với việc mắc tội sát sinh”, Đại đức Thích Bản Quyền nói.

Nhân quả của việc sát sinh là sức khoẻ kém, mạng yểu, luôn gặp bất hạnh, không may mắn...



Một cái thai nếu đến 7 tuần được coi là một mạng sống hoàn chỉnh.

Theo quan điểm của nhà Phật, một đứa trẻ khi tái sinh vào gia đình nhà nào đó có 4 nguyên nhân.

Thứ nhất là để đòi nợ. Đó là khi bố mẹ sinh ra, đứa bé khó nuôi, bệnh tật ốm đau. Nó làm cho cuộc đời của đấng sinh thành đau khổ, lam lũ, đến khi nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa yên lòng được. Trường hợp này cha mẹ kiếp trước nợ con cái nên kiếp này chúng đến để đòi lại.

Trường hợp thứ hai là để trả nợ. Đứa trẻ sinh ra khỏe mạnh, mau ăn, mau lớn, ngoan ngoãn không để cho mẹ phiền lòng vì bất cứ việc gì.

Thứ ba, có những đứa con sống lo cho cha mẹ đầy đủ về nhiều mặt từ vật chất đến tinh thần. Chúng học hành chăm chỉ, đỗ đạt làm quan giúp cho cha mẹ nở mặt nở mày với bà con chòm xóm, với bạn bè xung quanh. Đây là trường hợp báo ân.

Còn cuối cùng là có những đứa con gây cho cha mẹ khổ đau, oan ức, uất giận. Thậm chí, có trường hợp vì con hư hỏng mà tức giận đến chết. Đây là trường hợp báo oán.



Cha mẹ vì một lý do nào đó mà phải từ bỏ con của mình thì điều đầu tiên là phải thành tâm sám hối.

Người cha, người mẹ vì một lý do nào đó mà phải từ bỏ con mình thì đều gây thêm oán hờn. Nếu đứa con đến để trả nợ mà cha mẹ lại bỏ đi thì vô tình biến ân thành oán. Nếu đứa con đến với tâm niệm báo oán thì oán lại chất chồng. Và cứ mỗi lần phá thai, sự oán hận, sự trả thù lại càng cao và càng chất đầy hơn nữa.

Nhà Phật có nói được làm người khó như một con rùa mù ở giữa biển cả mênh mông, phải rất lâu mới được trồi lên mặt nước một lần. Trên mặt biển có một khúc gỗ mục trôi, con rùa làm sao trồi lên gặp đúng bộng cây đang trôi vô định đó, điều ấy thật khó xảy ra.

Vậy, khi một người mẹ chối bỏ một thai nhi nghĩa là chỉ trong một phút, họ đã phá đi sự cố gắng, tu tập một kiếp thậm chí là ngàn kiếp của một đứa trẻ. Điều này khiến người mẹ gặp đau khổ, bất hạnh hoặc khó đầu thai ở đời sau.

Cha mẹ vì một lý do nào đó mà phải từ bỏ con của mình thì điều đầu tiên là phải thành tâm sám hối. Sau đó cúng thí thực cho hương linh hoặc cầu siêu ở các chùa.

Xuân Thu (Tổng hợp)

Chay & mặn

Chay & mặn

Đăng lúc: 17:18 - 13/04/2016

Vợ tôi nói: Hôm nay mùng một, em nấu vài món chay thật ngon, anh có thể mời bạn về dùng bữa cho vui. Tôi cười khi nghĩ rằng hôm nay vợ tôi thật “biết điều”.

Bữa cơm dọn ra, người bạn chặc lưỡi khen ngon. Vợ tôi bẽn lẽn đỏ bừng mặt, món gà rán đó anh!

Mô Phật! Gà rán cũng… chay! Thật ra nguyên liệu cũng chỉ là măng tre trộn đậu hủ rán pha chút muối đường rồi bỏ vào dầu sôi mà lật qua lật lại đến chín vàng!

Thế là cuộc tranh luận không đặt ra lại tuôn ào đến ngay trong bữa cơm đúng ngày mùng một!

anh chayman.jpg

“Mùng một ăn chay”, từ câu dặn dò nay đã trở thành thói quen hiện thực của người Phật tử. Một thói quen của người Phật tử mà ngay tôi lại là một đoàn sinh “lão làng” của Gia đình Phật tử (GĐPT) thì càng tuân thủ hơn. Ở đây, xin miễn bàn về vấn đề trì niệm hay giới niệm hoặc Tam bảo - ngũ giới. Phật đã dạy y cứ tâm mà tu, hà cớ gì phải y cứ cái thân mà tu?

Bạn tôi, “cái ngữ” ấy na ná tôi là Phật tử chân chính, tháng ăn chay tới bốn ngày mà ngày nào cũng vậy, giỏi lắm là rau muống luộc chấm chút tương chao. Thật ra chẳng muốn tranh luận làm gì. Phật giáo Đại thừa ở Nhật Bổn, Tây Tạng một số phái cũng ăn uống bình thường, Phật giáo hệ phái Theravada cũng không ăn chay, thậm chí ngay ở đây cũng có người bảo ăn trứng gà công nghiệp “không trống” cũng là… ăn chay!

Miễn là, đừng mượn dao giết người. Có người muốn ăn thịt mà không dám cắt cổ gà đành đem chiêu ác khẩu xui khiến người khác “mần” giùm! Cái tội này gánh gấp trăm ngàn lần kẻ khác, y như đã là đoàn sinh GĐPT lại sắm cần đi câu cá về nhà làm bữa. Hỏi tại sao thì bảo “cho vui”! Cái “cho vui” sao cay đắng ác nghiệt thế kia! Cái mắt cứ thèm nhìn, cái khẩu cứ thèm ăn và tâm cứ thế tham lam bám víu.

Thế mà lại nay, ăn món chay mà bụng cứ nghĩ tới thịt cá, tới gà rán. Tôi có cứng nhắc không? Biết vậy thôi, tôi chỉ cần nói nhỏ với vợ rằng: Em cứ chiên xào hủ tiếu với đậu hủ rồi rắc lên bột “Aji ngon Moto” như trên ti-vi quảng cáo là nghe mùi vị ngọt thịt ngay cần gì gọi là gà rán! Không khéo, ăn không giống rồi nghe phàn nàn mà thấy giống quá thì… ăn gà rán thật có tốt hơn không? Cớ sao lại thích để con mắt đánh lừa mình rồi dắt dẫn mình vào con đường vi phạm ngũ giới, trong khi ăn chay chỉ cho lòng nhẹ nhàng không còn ý nghĩ sát sanh.

HT.Thích Thiện Hoa đã định nghĩa: “Ăn chay, hay ăn lạt, nghĩa là ăn những loài thảo mộc: hoa quả, rau cải, không ăn những món ăn thuộc loài động vật như thịt, cá, tôm, cua, sò, ốc những vật hữu tình, biết tham sống sợ chết như người” theo những gì đã biết trong giờ tu học Phật pháp của GĐPT.

“Cái ngữ” quay sang tôi một tràng thao thao bất tuyệt: Thì cứ bí luộc, xì dầu, gạo thơm dẻo vẫn ngon như thường nhất là khi bụng đói queo, cớ chi thịnh soạn bày biện bên ngoài cho đẹp vừa con mắt, bắt cái thọ đè cái tâm, bắt cái xúc đè cái ý... khiến cái khẩu lung tung nịnh hót đãi bôi! Mi mặc áo Lam trên người mà bụng cứ nghĩ mưu cầu lợi riêng, cứ chạy theo danh vọng, hò hét với đàn em, khúm núm với kẻ trên như gà mất đầu chạy loanh quanh. Mi như ngựa thả trên thảo nguyên, tưởng đồng cỏ mênh mông tha hồ phóng đại hay gặm cỏ tùy thích, té ra, mi chẳng có cỏ mà gặm, nhìn thảo nguyên kia bị rào che tự lúc nào! Sao không nói thật rằng mời bạn qua dùng bữa cơm rau thân mật hoặc “rửa cái bụng trần gian tục lụy” bấy lâu nay nghe còn sướng tai hơn!

Ngày xưa đi trại, chỉ rau muống lá me, cơm sống gạo vàng vẫn giành nhau mà chén, nước đun sôi để nguội còn hăng mùi khói củi… có đứa nào ôm bụng kêu rên, bụng vẫn no đầy tiếp tục trò chơi lớn kia mà! Ngay hôm qua đây thôi, có người tu Bát quan trai, khi bước vào quá đường lại dè bĩu, món ăn như thế này làm sao mà tu? Mi thấy sao?

Tôi đỏ mặt, cái ngã to đùng tự dưng trỗi dậy phừng phừng. “Cái ngữ” ấy coi thường tôi quá. Ít ra, tôi cũng đã “có mặt tham gia” từ những sự kiện thời nhà Ngô đàn áp Phật giáo cho đến năm 1997 với sự tái hiện tổ chức GĐPT trên toàn cõi đất nước. Trước đây,“cái ngữ” ấy từng vỗ vai khen tôi khéo léo quen biết huynh trưởng GĐPT từ cấp Trung ương cho đến thị thành, biết lăng xăng nghe trên răn dưới, biết chạy vạy từ nơi này đến nơi nọ để nhằm mục đích phụng sự đạo pháp. Thế mà giờ đây “cái ngữ” ấy bảo tôi là “kẻ vô tổ chức, phi chính phủ” vì không thấy ai mà chỉ thấy mình với cái ngã to bự, cái sự lý ái thủ bám víu, ngồi đó đợi người khác cung phụng nể nang rồi khi nhắm mắt hy vọng màu cờ phủ lên áo quan kèm theo hai hàng đoàn sinh thắp nến, cầm hoa đứng hai bên đường với gương mặt eo xèo nhớ tiếc mình!

Đã vậy, “cái ngữ” ấy còn xỏ xiên rằng tôi là cư sĩ nỗi gì. Chẳng qua tôi đang tu Tiên, chẳng phải tu Thiền, tu Mật hay tu Tịnh độ. Tôi đang luyện linh đơn để “trường sinh bất lão” bằng nguyên liệu là danh vọng, tiền bạc, mê đắm tham sân được chưng nấu trên ngọn lửa bản ngã bỉ thử to đùng, chẳng chịu hiểu câu “Hồi đầu thị ngạn”, là còn “dục ái trụ địa phiền não” nên tâm ý giờ mới còn mãi với “vô minh trụ địa phiền não” nên nhìn qua thì thấy tôi “bảnh chọe” thật nhưng xét kỹ thì tôi “chẳng giống ai” rồi cả đời khổ cứ khổ mới chết chứ!

“Cái ngữ” ấy “ăn được, nói được”, nói chung là “không chơi được” hà cớ gì mình mời về nhà ăn chung bữa cơm chay! Có lẽ, kể từ hôm nay, thấy mặt là ghét! Nhưng xét nghĩ, không có “cái ngữ” ấy không được. Lời nói ấy thế mà đúng, nghe ra nóng bừng cả tai, tái mét cả mặt, sự thật mất lòng, vì bấy lâu nay có ai dám nói thẳng trước mặt mình đâu! Đúng là đường vinh quang nào chẳng chông gai bầm giập.

Nhạc sĩ Phạm Duy có câu hát rằng “Đố ai nằm ngủ không mơ?”. Tôi đã từng mơ, mơ thấy mình ăn chay thật là ngon chỉ với tương chao ngô bí mà lòng thấy nhẹ nhàng, không ngụy mị, không dối trá với chính mình, không lầm lẫn giữa cái tâm và cái thân ngũ uẩn tứ đại. Dẫu biết, ăn chay đối với người Phật tử không phải là một sự hiếu kỳ, một sự hiếu danh, một cách đổi món ăn cho ngon miệng, một cách kiêng cữ theo lời dặn của bác sĩ (Phật học phổ thông - HT.Thích Thiện Hoa).

Đêm mằm mộng, thấy như thật. Tôi là ai? Tôi loạng choạng nơi cõi vô vi trống rỗng tịch diệt, không nhà không cửa, không tiền không danh, không con không vợ, không đến không đi, không buồn không vui, không tức cảnh sinh tình… nhưng thế mà sướng, chẳng lôi thôi giữa vòng u minh sinh tử! Ừ thì tỉnh dậy mau để làm người trong cõi Ta-bà này, chấp nhận đối diện với hiện trường thực tế, cố gắng phủi tay quên bớt sự đời để Chủ nhật tới chở vợ con thong dong phố phường nhìn cười thiên hạ cứ bon chen và để tỉ tê ly cà-phê “chánh mạng” cùng các bạn hiền bên hiên nhà mơ màng nhìn làn mưa chiều lâm thâm khoái trá.
Thục Độ

Hoa đăng vía Phật Di Đà tại chùa Đức Hậu

Hoa đăng vía Phật Di Đà tại chùa Đức Hậu

Đăng lúc: 15:12 - 30/12/2015

Tối ngày 17/11 năm ất mùi, tại chùa Đức Hậu, Nghi Đức, Thành phố Vinh do Đại Đức Thích Định Tuệ trụ trì đã long trọng tổ chức đêm hội hoa đăng. Đêm thiêng liêng, huyền diệu kỷ niệm ngày vía Đức Từ Phụ A Di Đà để cầu cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc, đất nước phồn vinh, gia đình hạnh phúc.

Chứng minh và tham dự có Đại Đức Thích Minh Lâm; Đại Đức Thích Quảng Tánh : BBT Báo giác Ngộ- tỉnh Đồng Nai ... Đại đức Thích Minh Duy: Trụ trì Tịnh Xá Ngọc thịnh- tỉnh Bình Dương; Sư Cô : Thích nữ Minh Hoa – Bà trịa – Vũng Tàu cùng các Tăng, Ni trong Ban Trì Sự, tỉnh nghệ An.

Và sự hiện diện rất mực thành kính, trang nghiêm của toàn thể quý Phật Tử trong Đạo Tràng Hương Sen xứ Nghệ à các em trong gia đình vườn Tuệ, cùng các Phật Tử gần xa cùng về tham dự.



“ Lái con thuyền Bát Nhã, đưa nhân loại về miền Tịnh Độ
Cầm ngọn đuốc trên tay , giúp chúng sanh thoát cõi Ta Bà
Giữa biển khổ mênh mông, thuyền chánh pháp là phương tế độ
Trong sanh từ nghìn trùng, niệm Di Đà là cách qua sông”

Đêm nay , trong buổi lễ kỷ niệm ngày vía của Ngài, những điều thiêng liêng cao đẹp nhất, những giá trị đạo đức thiêng liêng cao cả nhất được tôn vinh , được đưa vào cuộc sống cộng đồng. Đây là cơ hội tốt để mọi người hướng về đức Phật, hướng về hình ảnh siêu thoát của bậc xuất trần thượng sĩ.
Bằng tuệ giác siêu việt, Ngài đã chứng ngộ chân lý tối hậu, giải thoát cho chính mình và sẵn sàng trao cho nhân loại tấm bản đồ trở về cội nguồn chân tâm thường trú. Những pháp âm vi diệu tưới mát tâm hồn , và những đại nguyện quý báu kia vẫn còn đọng lại trong trái tim của nhân loại, vẫn còn in mãi trong tâm hồn của những người con Phật.
Đó là 48 đại nguyện , là Thánh đạo, là con đường giải thoát bằng phương pháp của tâm từ bi vô lượng, và trí tuệ vô cùng, sẵn sàng xóa bỏ mọi hận thù, tư kỷ trong tâm hồn, cho thế giới Ta – Bà phủ đầy gấm hoa, diễm lệ.



Đại Đức Thích Quảng Tánh đã ban đạo từ cho thiện nam, tín nữ trong đêm lễ hội hoa đăng về “ ý nghĩa hoa đăng và Pháp môn Tu Tịnh Độ “ . Lời Thầy chia sẻ như được lưu xuất từ một phẩm hạnh tinh sạch, trang nghiêm, ,một nội tâm có bề dày công phu tu tập, chúng con mừng vui quá đỗi, hệt như vừa tìm lại được một điều gì mà bấy lâu đã bị lãng quên. Đặc biệt là 2 ngày liên tục chúng con được sự hướng dẫn, chỉ dạy, của Chư Tôn Đức để chúng con được hành trì lời Phật dạy, thực hành, trì danh niệm phật và cảm nhận được nguồn hạnh phúc , an lạc suốt trong những ngày tu tập ở nơi đây.



Đại Đức trụ trì chùa Đức Hậu, trưởng BTC đêm hội đang đón nhận ánh sáng trí tuệ từ bàn Phật, và đang truyền sang cho chư tôn tịnh đức, như một biểu hiện của Tăng đoàn hòa hợp, chánh pháp rạng ngời.

Cầm ngọn nến trên tay, chúng con bỗng nghe tiếng lòng mình thổn thức, trái tim băng giá nay được gội sạch, bằng ánh sáng của tình thương vô hạn. Từ đây chúng con xin nguyện , sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm địa ngục trần gian đau khổ nữa. Chúng con nguyện học theo hạnh của Ngài, tìm cách có mặt ở bất cứ nới đâu mà bóng tối khổ đau, tuyệt vọng và áp bức còn đang ngự trị. Để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng niềm tin, hi vọng và giải thoát.



Chúng con nguyện cố gắng thiết lập liên hệ với những ai đang không còn lối thoát, và không bao giờ quyên lãng, hay bỏ rơi những người còn đang ở trong tình huống tuyệt vọng.
Chư tôn tịnh đức đang thảnh thơi bước xuống thềm và đêm ánh sáng ấy truyền dến cho hàng Phật tử. Nến truyền nến, tâm truyền tâm, những ngọn nến này, ngọn nến biểu tượng của trí tuệ, của ánh sáng chân lý, soi chiếu vào dòng đời , để phá ta màn vô minh si ám; ngọn nến của hiểu biết, chan trải về tất cả, để cuộc sống tình người, ngày một cảm thông hơn.

“ Chỉ có ánh sáng đạo thiên
Mới là phương pháp dẹp tan khổ sầu
Chỉ có giớ luật đứng đầu
Mới là hoa nở thấm mầu vô ưu”

Lễ hội hoa đăng mừng kỷ niệm ngày vía đức Từ Phụ A Di Đà tại chùa Đức Hậu đêm nay đã khép lại nhưng dư âm về suốt tuần lễ tu tập ở đây luôn in đậm trong lành của mỗi chúng con. Nó chính là động lực giúp chúng con tinh tấn tu tập, là nấc thang để chúng con đến với Phật pháp và mãi mãi chúng con không thể nào quên.

Nhất niệm Vô Minh tức đọa luân hồi

Nhất niệm Vô Minh tức đọa luân hồi

Đăng lúc: 21:25 - 12/11/2015

Người trên thế gian đều ở trong cảnh sống mê chết mộng, không có lúc nào tỉnh ngộ để tìm ra lối thoát khỏi luân hồi. Từ thời vô thuỷ đến nay, chúng sanh bị vô minh đưa đẩy, đi trong sáu nẻo luân hồi, sống rồi chết, chết rồi sống, quẩn quanh lên xuống không có hạn kỳ.


Cuộc đời như một vở tuồng. Trong tuồng, khi thì đóng vai vua, vui thú với vinh hoa, phú quý; khi thì đóng vai ăn mày, chịu đủ thứ khổ nạn. Khi Làm hoàng đế thì không biết cái lúc khổ làm thân ăn mày; làm ăn mày không biết cái vui khi làm vua. Những cảnh bi hoan ly hợp thoáng qua như trong nháy mắt, chẳng khác gì một giấc mơ xuân.
Nghiệp chướng của mình, tăng nhiều hay ít? Không hay biết. Ðức hạnh của mình gieo trồng được bao nhiêu? Không hay biết. Không hay biết tức là vô minh, vô minh là gốc rễ của sanh tử. Nếu không vô minh thì đâu có còn bị khổ trong cảnh luân hồi. Mục đích của chúng ta tu đạo là phá vô minh, chuyển thức thành trí, chuyển thức a- lại-da thành trí Ðại Viên Kính.
Người có vô minh của người, thú vật có vô minh của thú vật, cho đến quỷ đói, chúng sanh địa ngục, mỗi loài đều có vô minh riêng. Trong chỗ vô minh, các chúng sanh tìm lối ra (ra khỏi tam giới), nhưng càng tìm càng hồ đồ, tìm không ra lối, vẫn chịu khổ sở trong luân hồi. Tại sao? Bởi vì vọng tâm tác quái, và không biết dùng chân tâm (trí huệ) đến kiếm lối ra.
Vô minh tức không có trí huệ. Người không có trí huệ thì bất luận làm việc gì cũng làm trong sự điên đảo, lấy trái cho là phải và ngược lại. Biết rõ điều sai quấy mà vẫn làm, ấy chỉ vì vô minh che lấp khiến ta phải lầm đường. “ Chọn đường gai góc mà đi,’’ thì vĩnh viễn không kiếm ra đường chánh.
Kẻ học Phật pháp, cần phải phá vô minh này, cho pháp tánh hiển lộ. Bởi có vô minh, nên vui vẻ mà làm chuyện hồ đồ. Có các loại tà tri tà kiến này nên tâm tự tư, ích kỷ mới nổi lên tác quái, mất hết cả sự công bằng và vô tư. Từ đó, mỗi kiếp sanh ra là mỗi lần đi xuống, cho đến tận cùng là kiếp súc sanh, hoặc làm thân con kiến, hoặc làm thân con muỗi, lúc đó chỉ còn chút xíu tri giác mà thôi, Vậy mà vẫn tham, tham không biết chán, vẫn hành động trong hồ đồ. Quý vị coi! Các loại động vật đều có tánh cả. Các chúng sanh vốn sẵn có Phật tánh, nhưng không hoàn toàn, ấy bởi lý do “tánh hóa linh tàn,’’ cho nên chúng ngu si, thường xuyên sống trong vô minh.
Con người tuy gọi là vạn vật chi linh, có trí huệ, nhưng lại tạo ra nghiệp ác, cũng vì lý do vô minh che khuất trí huệ, nên mới lấy vọng tâm làm hành động. Có câu kệ tụng nói về tác dụng của cái “tâm’’ ( ¤ß ), nay tôi lược giải ra như sau:

Tam điểm như tinh bố
Loan câu tự nguyệt nha
Phi mao tòng thử khởi
Tác Phật dã do tha
Dịch nghĩa:

Ba chấm như sao bầy
Móc cong như trăng mới
Mang lông từ đây ra
Thành Phật cũng từ đấy.

Tam điểm như tinh bố: Trên đầu của chữ “tâm’’ là ba chấm, giống như mấy ngôi sao ở trên trời bầy thành một hàng.
Loan câu tự nguyệt nha: Ở dưới chữ “tâm’’ là một cái móc cong, giống như vầng trăng mới vào các ngày mồng ba hay mồng bốn âm lịch, nằm cong cong trên bầu trời.
Phi mao tòng thử khởi: Phi mao, đái giác, là mang lông đội sừng, chỉ các loài súc sanh. Tất cả đều do ảnh hưởng tâm lý mà tạo thành. Làm thân chó, thì có quả báo của loài chó, làm thân mèo có quả báo của mèo, cho đến thân ngựa, trâu, dê, rồi gà, vịt, ngỗng cũng như vậy.
Tác Phật dã do tha: Thành Phật làm Tổ sư, cũng do tâm mà nên, cho nên nói “nhất thiết do tâm tạo.’’ Chịu khổ ở địa ngục, hưởng phước ở thiên đàng, tất cả đều từ cái niệm trong tâm mà tạo ra cả
Nếu khởi lên một niệm thiện, thần cát tường sẽ hộ trì ta. Khởi lên niệm ác tức thì hung thần ác quỷ cũng sẽ bám sát ta. Người xưa nói: “Một lần lỡ bước hận thiên thu,’’ cũng như nói: “Một niệm sai là thiên cổ hận,’’ Thiện hay ác chỉ cách nhau một niệm. Nghĩ thiện thì đi lên, nghĩ ác sẽ đi xuống. Tâm người như hạt bụi, bay lơ lửng trong không, bỗng chốc lên thiên đường, bỗng chốc xuống địa ngục, bỗng chốc là thú vật, bỗng chốc là quỷ đói, chẳng bao giờ ngưng tạo nghiệp rồi chịu quả, chịu quả rồi tạo nghiệp, cứ vậy mà tuần hoàn luân chuyển.
Tới khi nào thì hiểu được “biển khổ vô bờ, quay đầu là bến’’? Biết được biển nghiệp là mênh mông, không bờ không bến, mau quay đầu lại thì đến được bến bờ. Học Phật pháp là học điều này, ngoài ra chẳng có điều gi huyền diệu cả. Nói giản dị hơn, phá bỏ các tập khí, phá bỏ tâm tự tư, tự lợi, sống không tranh, không tham, không cầu, tức là nắm được yếu nghĩa của Phật pháp.
Ngày ngày nghe pháp, phải hiểu yếu nghĩa của pháp. Ðâu là chỗ khẩn yếu nhất của pháp? Chính là các điểm không tranh, không tham, không cầu, không tự tư, không tự lợi, không nói dối. Sáu tiêu chuẩn này chính là mực thước dẫn dắt chúng ta hàng ngày trong mọi hành động. Nếu có gì không đúng với tiêu chuẩn chúng ta biết ngay để sửa đổi. Sửa làm sao để không còn sai nữa thì toàn là công đức, lúc đó mới đúng là tín đồ Phật giáo. Ðây cũng là sáu tôn chỉ của Vạn Phật Thánh Thành, hy vọng mọi người chúng ta đều tuân theo, mọi người đều giác ngộ, mọi người đều thành Phật.

Vũ điệu ý niệm trong cơn đau bản thể

Vũ điệu ý niệm trong cơn đau bản thể

Đăng lúc: 19:03 - 11/11/2015

Loài thỏ khoái cà rốt, nhưng nhiều lúc chúng vẫn ăn nhầm củ cải trắng bởi đeo kính màu. Khoa học cũng đưa ra hiện tượng “mù màu” khi con người nhìn về chân tướng vũ trụ; bắt đầu bằng những báo cáo về cấu tạo mắt của động vật.


Mỗi loài, qua sự lồi lõm tròng mắt sẽ quy định cái nhìn khác nhau; ngay trong cùng loài, mắt nhìn sự vật như một cái kính lồi, chỉ cần xê dịch tí xíu hiện tượng đã biến đổi. Để thấy, mỗi người đều nhìn sự vật hiện tượng qua con mắt của riêng mình không ai hoàn toàn giống ai. Năm đứa con, đều thấy mẹ mình tốt nhất, song sâu xa trong mỗi đứa đều lưu một hình ảnh mẹ khác xa. Công án Thiền về Tô Đông Pha. Sở dĩ họ Tô nhìn sư Phật Ấn ngồi thiền như một đống phân, đơn giản vì ngay lúc đó tâm thi/cư sĩ này nhơ bẩn; còn sư Phật Ấn nhìn Tô Đông Pha giống Phật, bởi tâm của sư tịnh sáng [như Phật].

Ở tầng cấp cao hơn, kinh Lăng Nghiêm mô tả về loài quỷ chạy bên bờ sông Hằng vẫn kêu gào khát cháy, vì ở cảnh giới của chúng nơi mênh mông nước ấy lại là sa mạc. Vấn đề đặt ra: Liệu ta đã hiểu về đối tượng mà mình có thói quen phán xét? Câu trả lời là không. Vợ chồng sống gắn bó từ lúc cưới đến đầu bạc nói hiểu nhau chân tơ kẻ tóc, thực tế họ chỉ hiểu phần tảng băng nổi. Khoa học cho biết mắt người chỉ thấy [hiểu] được 2000/400 tỉ = 1/200 triệu tức 0,0000005% thực tại. Tiến sĩ khoa học Joseph Dispenza: “Chúng ta chẳng biết gì về thực tại cả và tất cả cảm nhận về cái gọi là thực tại ngoài kia đều đã được sàng lọc qua các giác quan của con người. Não bộ xử lý 400 tỉ bit thông tin trong 1 giây nhưng chúng ta chỉ nhận biết được 2000 bit trong số đó”. Soi vào Phật pháp, ta chỉ cảm được phần tướng, còn tánh muốn thấy phải chứng ngộ, ngoài ra không còn cách nào khác.

Tánh là Tâm Phật. Tâm Phật vốn thâu toàn vũ trụ, câu thông với vạn thể. Về mặt tinh thần, chúng ta đang sử dụng vọng tâm chứ không phải chân tâm. Vọng tâm như sóng trên mặt biển không ngừng dao động, và nghiệp lực là dòng cuồng lưu phía dưới, nó dễ hợp với duyên (gió, bão…) tạo nên sóng thần, động đất. Còn thể xác chúng ta trên địa cầu nhỏ đến mức không thể so sánh với một hạt cát trong vũ trụ. Trong vũ trụ, vọng tâm lại biến hiện ra vô lượng vũ trụ khác. Chỉ lúc người tu đại ngộ mới thoát vọng tâm, trở về chân tâm, hiểu sơ đẳng giống như một người đang giữa trận cuồng phong tàn phá kinh hoàng, bỗng trời yên biển lặng. Như trong cơn ác mộng thức giấc, mồ hôi còn đầm đìa. Bỗng à lên, thì ra mơ. Sợ quá. Khiếp quá. Đây không phải so sánh, mà thật. Đại ngộ là tỉnh mộng. (Đại sư Vĩnh Gia: “Trong mộng rõ ràng có sáu cõi, tỉnh mộng rồi không cả đại thiên”).

Chúng sanh đều đang trong một giấc mộng lớn. Hãy kiểm thảo, hiếm ai trong mơ lại biết mình đang mơ. Vậy chúng ta đi đứng nằm ngồi, chúng ta véo mình thấy đau, sao gọi là mơ. Điều này Duy Thức Phật giáo giải thích cặn kẽ, hiện thời còn được ngành vật lý lượng tử minh tường. Chẳng hạn bóng đèn nê-ông bật sáng, dưới ánh nhìn khoa học thực nghiệm, ấy là sự tắt và đỏ của liên tục các điện tử nối tiếp. Trong Kinh còn nêu thí dụ, quay tròn ngọn đuốc, ta thấy một vòng lửa, thật ra đó là sự tương tục của vô vàn điểm nối ngọn đuốc với nhau, nhanh quá nên mắt thường không nhận ra. Trong phim nhân vật bước một bước, đó là sự nối ghép của 24 hình/1 giây.

Một giây, 24 hình tương tự [nối nhau] ẩn hiện đã lừa được nhục nhãn; huống hồ trong một giây vọng tâm phát xuất hàng tỉ ý niệm vi tế. Sự tiếp nối đó tạo nên vạn vật chuyển động. Chuyển động sinh năng lượng. Năng lượng sinh vật chất. Vẫn là mộng. Lúc ai nằm mơ, là mộng trong mộng, thậm chí trong mộng của mộng lại có mộng nữa, mộng đến khôn cùng. Địa ngục chính là những cơn ác mộng nối nhau không ngừng; nó là sự phản chiếu của nghiệp lực ta gây trong kiếp trước và kiếp này. Sự công bằng của con tạo khiến người đời không thể tin nổi. Tin, chính ở phước duyên sâu dày chủ yếu nhờ đời trước đã gieo nhân Phật pháp, đã tu.

Ta đều đang nhìn thấy một phần nhỏ chân lý tối thượng mà thôi. Trái đất lớn bằng ngôi sao, thì dải ngân hà có hàng tỉ ngôi sao; con người đã biết được mấy ngôi sao theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa (như vừa chân ướt chân ráo đặt lên sao Hỏa); nói gì đến trong vũ trụ có vô lượng tỉ tỉ dải ngân hà. Ta thiển cận về toàn thể vũ trụ như thế nào thì thiển cận với nhân sinh như vậy. Ngay đến thiên tài, họ cũng mới tận/sử dụng những tài năng phàm thường trong kho tàng vi diệu cuộc đời, và cũng thiển cận về bổn tâm mà thôi. Mỗi ta đều có chân/Phật tâm, cả vũ trụ nằm trong ấy, ta sẽ không hề chạm tới được [nếu chẳng nỗ lực tu hành]. A-lại-da thức chúng ta tích lũy vô vàn nghiệp lực thiện ác, dẫu qua bao nhiêu kiếp đầu thai đều y nguyên. Một lượng thông tin khổng lồ, lượng nghiệp lực khổng lồ “có hình tướng sẽ đầy cả hư không” nếu gặp duyên sẽ hiện cảnh quá lợi hại. Phật giảng: không ân oán, không đền nợ trả nợ đời trước sẽ không trở thành vợ chồng con cái trong kiếp này.

Là sự hút nhau tự nhiên như một dạng sóng cùng tần số. Trả nợ thì con hiếu thuận, đòi nợ thì con bất hiếu; thậm chí còn trường hợp, con ngoan hiền song ốm yếu bệnh tật, cha mẹ bán hết gia sản đến mạt vận, cũng là một cách đòi nợ! Duy hướng vào Phật pháp mới chuyển được nghiệp bất hiếu [từ kiếp trước] thành có hiếu [trong kiếp này]. Rồi nữa, một ngày bỗng gặp người lạ giúp đỡ mình, ngược lại lần đầu tiên gặp mặt người đã muốn đẩy ta đến đường cùng, đích thị duyên nợ từ tiền kiếp. Ta không nhận ra trước đã gây nhiễu gì cho họ; họ cũng không hề biết, song nghiệp lực trong tàng thức nó “có mắt”, biết nhận dạng do đó nó thôi thúc họ phải trả thù. Tuy nhiên, sự đòi nợ thường rất ít, gần như qua kiếp này oan gia chỉ đòi phần lãi (xóa phần nợ gốc). Đòi lãi, ta [do mờ nhân quả] nên tìm cách trả đũa mạnh bạo hơn, thế là dư báo! Chính ý nghĩ đòi lại “công bằng” là đầu mối của lục đạo, phần nhiều luân hồi trong cõi quỷ, cõi loài vật và địa ngục. Người giàu sang danh vọng, trước hết là nhờ sự quy đổi từ phước trong mạng nhiều đời; không hiểu không tin, ngỡ nhờ tài năng của mình nên mặc sức phình bản ngã tiêu pha hưởng thụ, mặc sức coi khinh những người yếu hèn nghèo đói; không dùng phước ấy làm phước, gặp đại họa, đời sau mang lông đội sừng...

Tiêu tiền hưởng thụ, vốn là tiêu phước. Phước mỏng dần nghiệp báo sẽ hiện, mà tai nạn, bệnh tật luôn là thước đo. Một nhân vật lừng danh, bỗng gặp nạn, thân liệt trí mờ, bấn loạn mộng mị triền miên; giữa lúc ngoài kia sản phẩm dán mác của họ vẫn ngồn ngộn đẻ ra tiền bạc. Họ chìm vào cõi cô đơn tận cùng cho tới lúc hồn dứt khỏi xác đau như “rùa sống lột mai”. Cũng khoan nói chuyện thức nhập thai loài gì. Thân mất, thức ấy không chịu quy định bởi vật chất thế gian nữa mà quy định bởi phước đức. Hãy tưởng đến cảnh thân vừa mất, ta thấy ngay xác mình nằm đó dần thối rữa. Ta biết mọi sự diễn ra, thấy họ hàng thân quyến đó lại bất lực trao đổi bất lực sờ chạm. Ta đói không ăn được đồ cúng kiếng ngon lành bốc khói; ta lạnh được cúng áo ấm đốt lửa vẫn lạnh, ta nóng [hồn] chui vào tủ đông vẫn nóng. Và nếu [linh hồn] vẫn chấp trước về quan tài đắt tiền, nấm mồ sang trọng, cái ngã sẽ giữ họ ở lại trong cảnh giới thân trung ấm chịu đau khổ bội bội lần thảm cảnh cuối đời, không thể siêu thăng lên cõi thanh bình.

Phật vô ngã. Chúng sanh sở ngã. Cái Ngã to đùng và nó không ngừng lớn mạnh theo chút tài sắc bé mọn. Ngã chấp càng lớn vô minh càng dày, càng che khuất phần minh tuệ trong căn mạng. Cống cao ngã mạn nhờ nói lưu loát vài thứ tiếng? Xin phép gạn ra lớp váng mê tín dị đoan để nêu sự thật: một người nông dân lúc lên đồng, vong nhập vào liền tuôn ra trôi chảy nhiều thứ tiếng. Lúc hồn kia xuất lập tức họ trở về sự thể ban đầu là người một chữ [ngoại ngữ] cắn đôi không biết! Đó dẫu sao vẫn là tục đế. Xét về chân đế, người chứng quả Thánh đầu tiên đã có thiên nhãn thông, nhìn thấu cảnh trời và địa ngục; chứng thêm nhị, tam, tứ quả liền thấu suốt ý nghĩ của bất cứ ai (Tha tâm thông), rồi Thần túc thông, hễ khởi ý niệm muốn tới đâu liền có mặt ở đó.

Người Niệm Phật đạt nhất tâm bất loạn có thể “tiền trạm” tới Tây phương Cực Lạc, thế giới của Vô Lượng Thọ, muốn bất cứ gì liền có nấy, không muốn tự biến mất. Nhưng trong nhà Phật không phải khuyên tu để đạt những thứ ấy đi lòe thiên hạ. Những vị chứng càng cao, chúng ta sẽ càng không thể biết! Người được xem và tự cho mình thông minh tỉnh táo hơn các bậc đại đạo sư, cho mình luôn làm chủ bản thân, thực chất nhầm lẫn. Khiến tự ngã thêm lớn. Một khi ta không ít nhất sai khiến được tập khí phiền não, đơn giản và cụ thể như không làm chủ không hóa giải nổi cơn nóng giận, là đang sống trong sự lôi dẫn của nghiệp lực. Con người sống bằng vọng tâm, gọi đúng danh từ là con rối của nghiệp lực.
Chúng ta có mặt trên đời bởi sự hội tụ kết tinh nghiệp từ tiền kiếp. Có những đứa trẻ mở mắt sống chưa bao lâu đã nhận ngay nghiệp dữ quá khứ; lý do khiến người đời thường gọi “trời không có mắt” gây oan giá họa.

Thực tế nhân quả tơ hào không sai. Lộ trình từ nhân tới quả biến hóa khôn lường; quả có thể méo mó biến dạng khiến ta không nhận ra, tuy nhiên hiển nhiên nhân xấu đã gieo, không sớm thì muộn quả xấu sẽ ập đến. Thường tội lỗi [nhân đời trước] chưa hiện, ta lớn dần theo cái nhìn và ý nghĩ của gia đình; lớn thêm bị quy định thêm qua tâm thái nhìn nhận của bè bạn, xóm làng; với những người nổi tiếng họ còn “nối mạng tư tưởng” với rất nhiều người trên địa cầu. Ý niệm câu thông khắp vũ trụ, còn mạnh hơn bất kỳ loại sóng nào khoa học từng khám phá. Khoa học, với những mệnh đề kiểu như “hiệu ứng cánh bướm” đã trở lên dễ hiểu. Do vậy ý niệm là yếu tố tiên quyết làm nền móng tương lai mỗi sinh mệnh. Lúc thai nhi hình thành phải được thai giáo. Người mẹ chẳng những nên sống trong một không gian nền nếp khuôn phép không có tạp âm mà ngay đến ý nghĩ của mình cũng luôn thiện lương hòa ái. Ý niệm là mấu chốt gieo nên nghiệp lực [xấu ác] mạnh mẽ nhất.

Tin nhân quả là điều trọng yếu. Tin nhân quả là bước đầu làm chủ vận mạng. Nhân quả phải là bài học đầu tiên và xuyên suốt đời người. Được giáo dục về nhân quả, đứa trẻ sẽ không nghĩ/nói xấu ác, vu oan giá họa cho ai, sẽ không ăn cắp ăn trộm thứ không phải của mình, lớn lên sẽ không sa đà rượu chè hút chích, sẽ không tà niệm với kẻ ngoài vợ mình. Đứa trẻ từ nhỏ được dạy không sát hại động vật kể cả côn trùng muỗi kiến, ngược lại còn yêu thương động vật từ mèo chó trong nhà đến những loài vật hoang trong rừng, làm sao chúng có thể khởi ý niệm hại [giết] người cho được. Nhân quả cũng giống như giới luật. Sống trong nhân quả tức đang sống trong một không gian thanh tịnh. Ta chưa hề thấy cố nội, qua ảnh cũng không, nhưng chắc chắn tin có cố nội. Có cố mới có ông, có ông mới có cha,… Nhân quả đời trước cũng vậy, ta không thấy song phải tin sâu sắc. Phật dạy nhân quả xuyên ba đời.

Tin chắc tất cả mọi sự việc không như ý gặp phải tuyệt đối chẳng ngẫu nhiên, mà do nhân từ đời trước, phải tin và quán, và quán như thế mới không khởi tâm oán hận người đã gây hại cho mình, không khởi tâm báo thù trả đũa. Người kia gây hại dù lớn đến đâu sẽ có nhân quả vũ trụ quản lý, sẽ bị báo ứng trừng trị chẳng sớm thì muộn, chớ bao giờ khởi niệm "thay trời hành đạo", muốn chỉnh sửa, giáo huấn, trừng trị y. Khởi ý niệm này nguy hiểm vô cùng, trước hết là gây tổn phước báu cho mình, nữa là làm cho mạng lưới nhân duyên cộng đồng cũng bị tổn hại và chính ta lúc mạng chung sẽ lọt vào đọa xứ. Chưa hết, khởi loại ý niệm này các oan gia trái chủ vô hình trong nhiều đời sẽ có dịp thuận tiện càng tác ý giúp thêm cho ý niệm xấu của ta mãnh liệt. Mỗi người cơ bản đều có số lượng lớn oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp âm thầm theo sát; nhờ phước ta còn dày, họ chưa thể làm gì; không tu phần đông nghiệp sẽ nhào tới lúc lâm chung. Nhớ hồi học đại học, tôi luôn mua thức ăn của một dì bán thịt heo đã ba chục năm. Bẵng đi rất lâu, một ngày hay tin dì bị ung thư, tôi liền tới thăm.

Dì nói thường thấy ai cầm dao băm chặt dưới chân... Thật mừng, những ngày cuối đời dì được đạo hữu gần đó khuyên niệm Phật, lúc tôi đến thăm dì còn bảo đọc Chú Đại Bi cho dì nghe... Có người khác, cận kề cái chết đã thấy rành rành oan gia nghiệp báo, sợ đến biến dạng mặt mày lật mình xuống giường, mà nào có trốn được. Pháp gọi hiện tượng này là hoa báo; hoa báo hiệu cho quả phía bên kia đời. Lúc sống, ai từng vùng mình khỏi cơn ác mộng (như bị truy đuổi chém giết, bị tra tấn hành hạ…), sẽ cảm được chút ít về địa ngục. Hơn thế, trí não ta chỉ mới tưởng đến cảnh hành lạc, tưởng đến cảnh sẽ phương hại “kẻ thù” như thế nào, vào địa ngục cũng hiện lên như vậy để thọ nhận. Bạn trong đời không đánh đập ai, song đã từng giết một con cá hay bất kỳ loài vật nào như thế nào, lúc mất thân, hồn vào địa ngục sẽ [hiện] chịu lại nỗi đau như thế; chủ tâm giết tổ kiến từng con từng con, vào hỏa đồ nhận lại như vậy. Ở đời cắt xẻ thịt động vật chiên xào ra sao, vào địa ngục ta bị chặt khúc rán lên như vậy. Đây chỉ là điểm xuyến thoáng qua cảnh tượng nhân quả điệp trùng Phật thuyết trong kinh Địa Tạng.

Đau đớn đến trời đất cũng ứa máu! Biết làm sao. Nghiệp ấy tự tạo tự chịu, không ai quy định cả. Đó là quy luật vĩnh hằng trong vũ trụ, người phát hiện ra chính là Phật. Phật nói lên sự thật, ai không tin đành thọ nghiệp dữ. Một sự thật quá thảm, sự thật vượt khỏi lối suy niệm thông thường, nên nó trở thành hoang đường. Nhưng cái hoang đường đó vẫn thường ngày nhỡn tiền sống động trong nhân sinh thế tục, sống động tuyệt đỉnh trong mắt của bậc chân tu.

Nhân quả hữu hình đã vậy, nhân quả vô hình quả đáng sợ biết báo - đó là Ý Niệm. Ý niệm cũng có đồng minh bè phái. Ý niệm xấu khởi ra, lập tức chiêu cảm cùng loại cuộn về như lốc tố, chiêu cảm các ác niệm cùng loại của các ác thần ác quỷ, la sát. Ngược lại ta khởi tâm lành, nhẫn nhục, tha thứ cho đối phương thì nghiệp chướng tiêu nhanh, sức khỏe ngày càng kiện khang trường thọ. Trong nhiều buổi giảng cho Phật tử và giới trí thức, tiến sĩ Nguyễn Tường Bách cũng đặc biệt nhấn mạnh điều này. Các bậc đại đức hiện thời thì kết hợp với những khám phá của khoa học để hướng người đời cứu thế giới bằng việc giữ ý niệm thiện, thay thế và loại trừ tà niệm.

Ai không tin có thể đặt hai bát cơm, hai bát nước, hai loại trái cây hay bất cứ “vật vô tri” nào ở hai căn phòng, một nghĩ xấu về nó, một phát ý nghĩ yêu thương, một thời gian sẽ thấy thứ vô tri đó biến đổi thế nào, tươi ngon hay thối úng. Xin mở ngoặc, chỉ phát ý niệm thiện hay ác là đủ, không cần chưởi rủa hay nói lời yêu thương. Những loại “vô tri” trên sẽ [bắt sóng] hiểu và biến đổi theo ý niệm của chúng ta. Qua đây cũng cho thấy ý niệm phát từ tâm mới trọng yếu, trí não sẽ nhận tín hiệu sau đó mới sai sử chân tay miệng tạo tác. Ý niệm chính là nhiên liệu tạo nên bản chất mỗi người. Nếu ý niệm không thể hiện ra chân tay miệng, bề ngoài trong đời sống y không làm hại ai song chớ nhầm tưởng y thiện lương. Trong tâm y mang ý niệm sân hận, luôn muốn người ấy người kia sớm thân bại danh liệt mau già mau chết; và bởi góp vào vũ trụ loại từ trường cực xấu, chẳng những y hại một người mà còn [góp phần] hại đến cả nhân loại. Thầy Tuệ Hải trong một buổi giảng về Nhân Quả có đoạn:

"Theo kinh Địa Tạng, chúng ta chỉ cần tác ý liền có nhân quả. Mỗi khi mình nghĩ tốt, sẽ tạo một dạng sóng trường tốt đưa ra vũ trụ, nghĩ xấu sẽ tạo sóng trường xấu mang theo một dạng màu. Nghĩ thiện lành sẽ cho ra màu trong sáng, êm ái nhẹ nhàng, đi hoài trong không gian không mất, thứ hai cái sóng trường thanh bình đó sẽ chạm tới các cõi có chúng sanh đau khổ, khiến được mát dịu; ta được nhận ngay phước. Nhưng mỗi lần sân si nghĩ xấu, sẽ tạo một sóng trường bất an mang theo khí xấu, mang theo sự khó chịu cho người, khiến ta tổn phước. Thử lắng tâm nghĩ xấu đến ai, là họ cảm giác khó chịu khi nghĩ tới mình liền… Trong Kinh nói nhất niệm xuyên tam giới là sự thật. Một ý niệm chúng ta đi khắp tam giới chứ không phải chỉ tới một vài người bình thường; và trong khoảng cách từ mình đến đối phương còn có rất nhiều cõi, nhiều loài chạm phải, thì đã có nghiệp, có quả báo dành cho ta rồi”.

Nên nghĩ tốt về người. Loại ra những điều xấu của người và thay bằng những lời nói, cử chỉ tốt của họ dẫu chỉ là tí ti. Hành giả Tịnh tông, không cứ thiện ác, cứ phát tâm từ ái niệm (tai nghe rõ) “A Di Đà Phật” ắt lợi đôi đường cả Đời lẫn Đạo. Sao niệm Phật tai phải nghe rõ từng chữ? Bởi niệm Phật (dẫu là niệm thầm) tai không nghe là miệng niệm chứ không phải tâm niệm, cũng bằng ta đang nhờ người khác niệm hộ; để tâm ta nhảy múa vũ điệu tập khí trần ai.

Niệm Phật tai không chịu lắng nghe [câu mình niệm] là tu bề ngoài, chỉ ngửi mùi chứ không thực được ăn món ấy. Niệm Phật như vậy miệng niệm nhưng tâm vẫn nhìn lỗi thế gian, đu theo mà phê bình hê hả. Lục tổ Huệ Năng khuyến “bậc chân tu không nhìn lỗi thế gian”. Người tu nào còn tin Ngài, với lời khai thị này hẳn phải chạm khắc vào máu huyết. Còn nhìn lỗi thế gian, nên hiểu ngay [lúc đó] chưa phải chân tu! Khoa học lượng tử lúc thấu tỏ lý này quả thực thấy… đau đầu; cuối cùng đưa ra hướng giải quyết thật khế hợp với tinh thần kinh điển: Thay vì chống chiến tranh, hãy ủng hộ hòa bình.

Tu, trước nhất ở Tâm; là sự thay thế ý niệm, khiến mọi vọng niệm thế gian quy về chân niệm. Mức thấp nhất, hễ nghĩ ác nghĩ xấu lập tức biết để thay vào những ý nghĩ thiện. Ý nghĩ chuyển, hành vi mới chuyển. Người lo chuyển hành vi lại không chuyển ý niệm là gãi ngứa ngoài dày, đầu đội đất chân đòi đạp trời. Hãy hướng vào nội giới, hướng vào kiểm thảo từng ý niệm tung hoành tạo tác trong tâm. Hãy nhìn lỗi mình sửa lỗi mình, chớ nhìn lỗi người lo sửa lỗi người trong lúc mình [soi gương tạo dáng nhiều] lại nhìn bản tâm quá ít. Hễ thấy anh kia rượu chè phè phỡn là chê bai bại hoại, lại không nhìn mình đóng cổng tà hạnh (ở đây chỉ nhấn mạnh việc quá mức với vợ, chưa cần mở đến dan díu bóng hồng). Thấy bà kia nhiều chuyện lại không thấy mình nịnh nọt bợ đỡ.

Thấy kẻ tham ăn lại không thấy mình tham ngủ nghỉ, tham quyền cố vị. Thấy người gặp nạn liền cho chắc hắn ở cơ quan sống chẳng ra gì, lại không nhìn nhân xấu mình thường gieo và ngay vừa khởi cái ý niệm hả hê đó... Quán sâu sắc chân lý tuyệt đối, rằng ta chỉ hiểu người được một phần tỉ tỉ, không thể khởi ý niệm phê bình. Thế gian chẳng thiếu hàng Bồ tát nghịch hạnh, những vị Phật thị hiện tướng “ác” tùy duyên độ cho những chúng sanh đặc biệt, ta không biết nên cứ mặc nhiên phạm thượng chư Phật và Bồ tát. Một vị Tổ khuyên xem tất cả chúng sanh đều là Phật, ngoại trừ ta [là phàm phu]. Tâm đạt đến mức này mới mong về nước Phật.

Tâm đạt chuyên nhất tinh ròng niệm câu hồng danh “A Di Đà Phật”, mới mong rời Ta bà về Cực Lạc. Tâm loạn, cần dụ tâm niệm theo chuỗi 5 hoặc 10 câu hoặc bao câu tùy, cứ niệm hết một chuỗi liền quay lại từ đầu. Không nên niệm một câu thì đếm một, mà phải dụng tâm nhớ. Niệm một chuỗi 9 câu, thì cứ ước niệm 3 câu, rồi 3 câu, rồi 3 câu nữa - xong một chuỗi. Hễ nhận thấy, ồ ta niệm đến câu thứ mấy [trong 9 câu] rồi, đó là vọng đang trỗi, phải xóa ngay vòng đó niệm lại từ đầu. Ta lạc vào một nơi có trường lực xấu, có sao khi trong tâm cứ niệm Phật.

Ta phải sống trong ngôi nhà trái phong thủy, hay ngôi miếu được cho nhiều ma quỷ chướng khí, có sao, cứ niệm Phật. Sóng phát ra từ câu “A Di Đà Phật” là siêu thiệu, ta vô nhiễm lại thanh lọc được cả không gian rộng lớn. Tu như vậy có đơn giản? Thực tế hiếm có pháp nào trong tám vạn bốn ngàn pháp môn đơn giản hơn. Kết quả lại quá tối thắng. Trên thế gian nhiều hành giả niệm “A Di Đà Phật” biết trước ngày giờ được về nước Phật trước ba ngày, trước ba tháng, trước nhiều năm. Đúng ngày giờ Phật hẹn (mà đương sự đã thông báo với đại chúng trước đó), hành giả không bệnh tật, tỉnh táo niệm Phật mà đi, để lại thân tướng sáng rỡ. Sự này, không lời tôn vinh nào đủ xứng đáng, đành phải dùng cụm từ: “Không thể nghĩ bàn”.

Điều đơn giản nhất cũng là thâm mật. Sao phải niệm Phật?, bởi đó mới chính đang làm chủ nghiệp lực, làm chủ vận mạng. Còn không chúng ta sống bởi sự hội tụ của tất cả ý niệm từ vô vàn người quen; kể cả những người thân nhất - cũng đang làm hại ta! Hiển nhiên. Một đứa con hư, ta liền chì chiết đồ bất hiếu nghịch tử, lúc nào cũng ý nghĩ này, và câu này sẽ phát ngay hễ nó bỗng phạm một lỗi khác. Một kẻ phạm tội ăn trộm vào trại giam, được ân xá về quê; anh ta thay đổi hoàn lương, song đến nhà bạn, bạn có đề phòng? có cất ngay ví tiền và những đồ quý trước lúc xuống nhà dưới. Tâm đề phòng xuất phát từ ý nghĩ trong tâm đen, rằng hắn, kẻ ăn trộm.

Tên ăn trộm, hãy đề phòng! Ý niệm này đã xuyên vào bản thể anh ta khơi dậy hạt giống nhòm ngó tài vật của người. Bỏ qua đức tính tốt của người, cứ chăm chăm nhìn lỗi, ý nghĩ xấu này sẽ góp phần bồi đắp lỗi thành bản chất, và dĩ nhiên nó sẽ phương hại chính mình. Từ trường ý niệm chẳng khác lúc ta hét vào một hang động, rồi nó sẽ dội lại chính ta. Cứ tưởng đến cảnh tay hốt rác vứt qua hàng xóm, sẽ biết ngay tay mình dơ trước; hay đó là cảnh ngậm máu phun người theo cách diễn của triết lý dân gian, sẽ hiểu. Tâm chao đảo, nhân loại trên trái đất và vũ trụ hiện từ cõi mê chao đảo.

Bậc chân tu thường ngày vẫn miên mật hạ thủ công phu lấy đó hồi hướng cho những người Đức Phật gọi với tận cùng tình thương yêu là “đáng thương xót”, nhưng dẫu sao vẫn là cứu vãn tình thế, trong lúc gốc bệnh của chúng sanh không ngừng gia tăng thông qua cấp số nhân của ý niệm bất chánh. Đây, là nguyên nhân sâu xa khiến ngay đến bậc đại triệt đại ngộ với năng lực vô biên cũng đành “bó tay”, không thể ngày một ngày hai cứu nổi chúng sanh thoát Lục Đạo.

vo thuong(2)

Những bài thơ hay về Phật Giáo

Đăng lúc: 20:25 - 07/11/2015

Bài 1: HƯ KHÔNG VÔ NGÃ
Quán thân bất tịnh
Quán tâm vô thường
Quán pháp vô ngã
Trí tuệ bát nhã
Giải thoát chúng sinh
Cứu khổ vô minh
Cứu nhân độ thế
Lòng trần dâu bể
Biển khổ không bờ
Trôi nổi mê mờ
Chấp bám khổ đau
Đi mãi nơi đâu?
Quay về bến giác.
Con đường giải thoát
Thanh, tĩnh, tịch, không
Buông xả trong lòng
Là bờ hạnh phúc.

Bài 2: LUÂN HỒI, VAY TRẢ
Ai sinh ra cũng một lần phải chết,
Chết đi rồi có hết được đâu
Sự sống mới rồi sẽ lại bắt đầu,
Hành tinh xanh mãi nuôi màu hi vọng.

Đi vào đời với hai bàn tay trắng
Lúc lìa đời lại trắng cả bàn tay.
Khi sống tham nhặt cho đầy,
Phải mang lấy nghiệp trả vay nợ đời.

Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.

Sống kiếp đời chớ nên gây nghiệp
Để tát sinh tạo kiếp luân hồi,
Bà Ta là cõi tạm thôi
Phước tu cực lạc, cõi trời Tây Thiên.

Bài 3: NHÂN QUẢ
Gieo tham lam, hái khổ đau,
Gieo lòng sân hận, hái sầu bi ai.
Trồng cây gai, chạm phải gai,
Hương thơm trồng huệ, trồng nhàu, trồng sen.
Gieo nhân lành, hái quả ngon,
Gieo thánh thiện, được quả tròn từ bi.
Gieo u mê, hái quả si,
Luật trời không thể biến suy lẽ đời.
Gieo nhân thánh, được lên trời,
Giác ngộ trí tuệ, rạng ngời tòa sen.

Bài 4: VÔ THƯỜNG
Khi là đứa trẻ sinh ra,
Cuối đời tất yếu, tuổi già hoại tan.
Hoa kia nở để rồi tàn,
Thành, tru, hoại, diệt, hợp tan vô thường,
Kiếp người chẳng phải vấn vương,
Tu được phước huệ rộng đường về thiên.

Bài 5: BẢN NGÃ DỤC VỌNG
Chúng sinh đắm đuối si mê,
Sống trong ảo vọng háo danh muộn phiền.
Ganh đua giành dật đồng tiền,
Tham lam sắc dục đảo điên mê mờ.
Biển khô mà không thấy bờ,
Trôi lăn muôn kiếp trông vô ngàn đời.
Vô minh, vọng tưởng xa vời,
Cái thân giả tạo một thời khổ đau.
Tham sân si muôn kiếp sầu,
Bến bờ giác ngộ hay mau quay về.
Xa lìa biển khổ, sông mê,
Con đường hạnh phúc tìm về thiên tai.

Bài 6: NGHIỆP CHƯỚNG
Nam mô nam mô tại TÂM
Biển khổ mênh mông bởi lỗi lầm
Chớ gieo tai vạ thành nghiệp chướng
Phúc họa trong đời kiếp hồi luân.

Bài 7: ƯỚC MƠ TUỔI THƠ
Tôi yêu mến thủa ngày xưa,
Tuổi thơ đi học đến trưa tan trường.
Lang thang xếp lá ven đường,
Làm chiếc thuyền nhỏ thả niềm ước mơ.
Hồn nhiên với tuổi ngây thơ,
Êm đềm như tiếng chuông chùa ngân nga.
Yêu từng cây cỏ, khóm hoa,
Yêu thiên nhiên, tiếng chim ca hót mừng.
Tuổi thơ đi thật tưng bừng,
Hồn nhiên trong sáng chưa từng âu lo.
Thế rồi cái tuổi đã qua,
Con chim oanh đã bay xa vào đời.
Hoàng hôn ngả phía chân trời,
Tôi yêu về thủa thiếu thời của tôi.
Giờ đây thương mến con người,
Sống chung vũ trụ, bầu trời thân thương.
Từ trong cái lẽ vô thường,
An nhiên, tự tại, can trường bão giông.

Bài 8: Ở TRỌ
Lang thang trong cõi Ta Bà,
Tây Thiên là chốn quê nhà xa xăm.
Khéo tu sẽ được về thăm,
Quê hương ta đó ngàn năm vĩnh hằng.

Đức Đạt Lai Lạt Ma viếng thăm Ladakh, Tiểu Tây Tạng trên đất Ấn

Đức Đạt Lai Lạt Ma viếng thăm Ladakh, Tiểu Tây Tạng trên đất Ấn

Đăng lúc: 06:48 - 29/07/2015

pituk Monastery, Leh, Ladakh, J & K, Ấn Độ, 27/07/2015 – Sáng sớm mùa Thu, bầu trời trong sáng bình minh, những áng mây trắng bãng lãng lững lờ trôi, chiếc máy bay vừa hạ cánh mặt phẳng hoang mạc ở miền cao tại Leh, Ladakh, bang Jammu và Kashmir (J&K), phía Bắc Ấn Độ, đức Đạt Lai Lạt Ma bước xuống Phi trường, cơn gió nhẹ thoáng qua hòa cùng đoàn người đứng tại sân bay để thành kính cung nghinh, Ngài được chư tôn đức Tăng già địa phương nồng nhiệt tiếp đón như các vị Kushok Bakula Rinpoche, Ganden Tri Rinpoche, Rizong Rinpoche, Bakula Rinpoche, Thiksey Rinpoche và nhiều Lạt Ma khác.
Lãnh Chính quyền địa phương và các chức sắc Tôn giáo cũng ra tận phi trường để tiếp đón đức Đạt Lai Lạt Ma, có sự hiện diện của Cư sĩ Tsering Dorjee, Bộ trưởng Bộ Nhà nước bang Jammu và Kashmir (J&K), Ông Chering Dorjay, chủ tịch Hội đồng phát triển miền núi tự quản Ladakh của Ấn Độ (Ladakh Autonomous Hill Development Council), Sheikh Syebuddin và Ashraf Ali, đại diện Cộng đồng Hồi giáo, David Gergen, đại diện giáo phận Ladakh Thiên Chúa giáo, Tu viện Gompa, Ladakh, Tsering Dolma, lãnh đạo Hiệp hội Phụ nữ, Rinchen Namgyal, lãnh đạo Hiệp hội Thanh niên. . .
Hàng nghìn người dân địa phương đứng chắp tay cung kính chào đón và dâng hương hoa dọc theo bên đường từ sân bay đến Tu viện Spituk. Nhiều người trong số họ từ các làng khác nhau của thung lũng Leh, Ladakh với những bộ trang phục truyền thống dân tộc. Những vị Tu sĩ đánh trống và thổi sừng hòa âm phối nhạc để thể hiện lòng tôn kính, long trọng nghinh tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh đạo tinh thần Tây Tạng.
Vừa đến Tu viện Spituk, nhị vị Ganden Tri Rinpoche và Bakula Rinpoche cung nghinh đức Đạt Lai Lạt Ma vào phòng khách nghỉ giải lao, sau đó cung thỉnh Ngài vào Pháp đường.
Đăng lâm Bảo tòa, đức Đạt Lai Lạt Ma Khai thị rằng: “Tôi rất hoan hỷ khi được biết trong vòng từ 10 đến 20 năm qua, quý vị thường đến Trung tâm để thỉnh vấn tôi về sự cần thiết phải nghiên cứu các văn bản cổ điển. Gần đây, tôi đã hoàn thành các chuyến công du hoằng pháp các nước Âu, Mỹ, Anh, Pháp, Đức trước ngày Sinh nhật lần thứ 80 của tôi tại Dharamsala. Vì tuổi cao sức yếu cho nên tôi cần phải có thời gian thư giản, cho nên tôi chỉ lưu lại đây trong vài ngày. Hy vọng rằng các cảm thông cho sự giới hạn thời gian ở nơi đây”.
Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ thêm về khí hậu, đặc biệt Ngài quan tâm đến khí hậu của địa phương. Ngài nói rằng các nhà khoa học mới đây đã phát hiện sự gia tăng của Băng, Tuyết ở vùng Bắc cự, có thể ảnh hưởng không khí lạnh của thời tiết năm nay.

Khoảng không gian mênh mông của dãy Himalaya (Hy Mã Lạp sơn), khi máy bay hạ cánh tại thung lũng Leh, Ladakh, J & k, Ấn Độ. 27/07/2015


Chiếc phi cơ chở đức Đạt Lai Lạt Ma vừa hạ cánh tại thung lũng Leh, Ladakh, J & k, Ấn Độ. 27/07/2015.


Hòa thượng Gaden Tripa Rizong Rinpoche cung đón đức Đạt Lai Lạt Ma tại sân bay Leh, Ladakh, J & k, Ấn Độ. 27/07/2015.


Hòa thượng Gaden Tripa Rizong Rinpoche cung đón đức Đạt Lai Lạt Ma tại sân bay Leh, Ladakh, J & k, Ấn Độ. 27/07/2015.


Cộng đồng Tây Tạng đứng hai bên đường thành kính cung nghinh đức Đạt Lai Lạt Ma từ sân bay đến Tu viện Spituk, Leh, Ladakh, J & k, Ấn Độ. 27/07/2015.


Chư tôn đức Tăng già địa phương, trang nghiêm pháp phục long trọng cung nghinh đức Đạt Lai Lạt Ma quang lâm đến Tu viện Spituk, , Leh, Ladakh, J & k, Ấn Độ. 27/07/2015.


Người dân địa phương mặc trang phục truyền thống, cung nghinh đức Đạt Lai Lạt Ma quang lâm đến Tu viện Spituk, , Leh, Ladakh, J & k, Ấn Độ. 27/07/2015.


Chư tôn đức Tăng già địa phương trổi nhạc tiếp rước đức Đạt Lai Lạt Ma quang lâm đến Tu viện Spituk, , Leh, Ladakh, J & k, Ấn Độ. 27/07/2015.


Đức Đạt Lai Lạt Ma đăng lâm Bảo tòa khai thị tại Tu viện Spituk, , Leh, Ladakh, J & k, Ấn Độ. 27/07/2015.


Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ Pháp thoại tại Tu viện Spituk, , Leh, Ladakh, J & k, Ấn Độ. 27/07/2015.

Thích Vân Phong (Tin từ VP Chính phủ Tây Tạng lưu vong - Ảnh: Tenzin Choejor)

Hàn Quốc: Chùm ảnh Đàn truyền giới cho 300 giới tử sinh viên tại Phụng Ân Tự

Hàn Quốc: Chùm ảnh Đàn truyền giới cho 300 giới tử sinh viên tại Phụng Ân Tự

Đăng lúc: 06:48 - 27/07/2015

Buổi chiều 14:00 ngày 19/07/2015, tại Tổ đình chư tôn Thiền đức Tăng già Chùa Phụng Ân, tọa lạc tại 73 Samseong-dong, quận Gangnam-gu, Tp.Seoul, Korea đã tổ chức giới đàn Truyền thụ Tam Quy Ngũ giới lần thứ 45 cho 300 sinh viên Phật tử.
Hòa thượng Wonhak, Trụ trì Tổ đình Bongeunsa (Phụng Ân Tự) Khai thị rằng:
- Này các Thiện nam, Tín nữ hãy lắng nghe: “Đời là bể khổ mênh mông không bến bờ. Nếu không có đức Thế Tôn (Phật) viên mãn công đức, Từ bi, Trí tuệ thì chúng ta chẳng biết nương vào đâu để cầu được an lạc hạnh phúc. Vậy các Thiện nam, Tín nữ muốn được an lạc hạnh phúc phải quy kính Tam bảo; muốn thoát khỏi luân hồi khổ ải thì nên thọ trì giới pháp.
Phật Pháp Tăng (Tam Bảo) là thuyền từ vượt qua bể khổ trầm luân, là ánh sáng soi đường dẫn bước trong bóng đêm mê tối, là bước chân an lạc đi đến Thiên Nhân, là bước đầu tiên của đạo quả.
Trong kinh Phật dạy rằng: “Nếu chúng sinh nào muốn cầu thoát khổ, hưởng quả an lạc hạnh phúc trọn vẹn, thì nên quy y Tam bảo; nếu ai đem tâm thanh tịnh quy kính trong giây phút thì đời đời thế nào cũng được Niết bàn an lạc.”
Quy y là gì ? Là tôn thờ, vâng theo hay quay về. Tôn thờ ngôi Tam bảo, vâng theo lời chỉ giáo và quay về với tâm thanh tịnh của chúng ta. Thầy khuyên các người trước phải nhận lãnh Tam quy, sau nên thọ trì Ngũ giới.
Tam quy là quy y với Phật, Pháp và Tăng. Phật là đấng đã giác ngộ hoàn toàn. Chúng sinh mê lầm trong bể sinh tử, không biết tự giác; đức Phật giác ngộ tất cả đều vô thường, chứng được đạo niết bàn nên gọi là Giác giả. Đức Phật trong hiện tại là đức Thích ca Mâu ni đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, là đạo sư cả ba cõi, cha lành của muôn loài, trí huệ vô lượng, phước đức cao cả!
Pháp là đạo pháp chơn chính. Nghĩa là những phương pháp Phật đã dạy, nếu ai tin tưởng tu hành sẽ được trừ hết phiền não, chứng quả yên vui thanh tịnh như Phật.
Tăng là chúng hòa hợp thanh tịnh, xuất gia đệ tử Phật, hiến đời mình cho đạo, tuân theo kinh luật mà tu trì, làm ruộng phước cho nhân thiên, làm gương lành cho muôn loài.
Tam bảo có đủ công đức như thế. Cho nên, Phật Pháp Tăng là ba ngôi quý báu nhất của thế gian và xuất thế gian. Nếu người nào phát tâm quy y thì không đọa vào ba đường dữ, luôn gặp Phật, mau chứng quả Bồ đề.
Phật tử, các ngươi đã quy y Phật rồi, từ nay phải tôn Phật làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với trời, thần, quỷ, vật vì những kẻ ấy là phàm phu còn quanh quẩn trong ba cõi, không đầy đủ trí huệ như Phật là đấng đã giải thoát vòng sinh tử của thế gian.
Quy y Pháp rồi, từ nay về sau phải tôn Pháp làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với ngoại đạo tà giáo vì những đạo pháp ấy không phải là những phương pháp xuất thế, có thể làm cho chúng ta thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi được.
Quy y Tăng rồi, từ nay về sau phải tôn Tăng làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với bè đảng xấu ác vì những người ấy không thể so với hàng đệ tử Phật đã tu chứng Tam thừa, Tứ quả.
Giờ đây các người đã chân thành quy y, sẽ được Tam bảo luôn luôn cứu hộ, hiện tại chắc chắn yên vui, tương lai sẽ được sinh về Cực lạc. Tam bảo đã có công năng như thế, các ngươi nên đêm ngày tưởng nhớ thì quyết chứng được quả bồ đề vô thượng. Vậy các ngươi hãy đọc theo thầy những lời thề nguyện:
Đệ tử đã quy y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y trời, thần, quỷ, vật.
Đệ tử đã quy y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo.
Đệ tử đã quy y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y bè đảng xấu ác.
bây giờ thầy sẽ trao cho năm giới pháp. Giới pháp này rất khó gặp, nếu Phật không ra đời thì không có. Giới pháp này đủ sức trừ sạch phiền não sanh tử và đưa chúng ta đến đạo quả Bồ đề giải thoát. Bởi lẽ ấy, giờ đây các người muốn thoát sinh tử, cầu chứng Niết bàn, nên gắng lãnh thọ giới pháp.
Lãnh giới pháp này, đàn ông thì gọi là Ưu bà tắc, đàn bà thì gọi là Ưu bà di, nghĩa là những người đã bỏ dữ làm lành, gần gũi phụng sự Tam bảo. Trong năm giới này các ngươi có thể tùy năng lực và hoàn cảnh của mình mà lãnh thọ một giới, gọi là nhất phần Ưu bà tắc (hay Ưu bà di); lãnh thọ hai giới gọi là thiểu phần; lãnh thọ ba giới gọi là bán phần; lãnh thọ bốn giới gọi là đa phần; và lãnh thọ cả Năm giới gọi là mãn phần.
Vậy, bây giờ các ngươi muốn lãnh thọ phần nào, giới nào, tùy theo hoàn cảnh và năng lực mình mà thọ lãnh. Nhưng phải nhớ: khi đã thọ lãnh giới nào thì dù gặp hoàn cảnh có thể mất tính mạng, thề quyết không hủy phạm. Vì sao thế? Vì giới pháp là thuyền bè đưa chúng ta ra khỏi bể khổ sinh tử luân hồi, thật là khó gặp mà thân mạng thì dễ mất, dầu có giữ gìn cho lắm rồi nó cũng sẽ mất; nếu không giữ giới thì thuyền bè bể rạc tất nhiên phải chìm đắm, khổ đau nhiều đời!
Bây giờ Thầy sẽ truyền trao giới pháp, giới tướng để lãnh thụ mà tu trì:
Giới Thứ Nhất:
Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện sẽ không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.
Giới Thứ Hai:
Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn.
Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.
Giới Thứ Ba:
Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con.
Con ý thức được rằng những hành động bất chánh sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.
Giới Thứ Tư:
Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải.
Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.
Giới Thứ Năm:
Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con.
Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.
Phật tử! Các ngươi được thọ giới rồi, từ nay phải khéo giữ gìn, dù gặp nhân duyên trắc trở cũng không nên hủy phạm. Nếu ai phạm những giới trên đây, hiện tại mất hết nhân cách và nền móng tốt đẹp; tương lai phải chịu nhiều kiếp đọa đày trong cảnh giới đau khổ. Các ngươi hãy cố gắng lên!”.
Giới tử thọ Tam quy, Ngũ giới xong, mỗi người đốt liều (vết sẹo) trên cánh tay để phát nguyện trọn đời gìn giữ giới pháp đã thọ, và sau đó chụp hình lưu niệm, nhận giấy Chứng nhận Quy y Tam bảo.
Một số hình ảnh Truyền thụ giới pháp, kính trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc cùng chia sẻ với Phật giáo nước bạn :

















Thích Vân Phong

Tâm ta, tâm người

Tâm ta, tâm người

Đăng lúc: 05:35 - 14/07/2015

Người xưa rất hay, nói hơi bị thừa...- “tiên trách kỷ hệu trách nhân”, đừng vội vàng chụp mũ người, hãy soi lại bản thân mình, nói kiểu bây giờ: không được chủ quan. Nhân sinh thường gặp nhau ở chỗ: nhìn người thì rõ, nhìn mình thì...không rõ, thấy lỗi người thì dễ, lỗi ta thì…Đặc điểm này phổ biến lắm. Tâm ta tâm người có sự sai biệt là chuyện thường tình.
Tôi “mê” nữ Nhà văn nọ từ lúc cô chập chững bước chân lên văn đàn với những tác phẩm nhỏ đầu tay. Dõi theo ngòi bút nữ nhân tài hoa ấy, đến khi cô viết được chừng ..vài chục đầu sách, thì gặp.

Trong một dịp tình cờ, bắt tay người nữ thâm trầm, trẻ tuổi, có đôi mắt tinh anh, tôi ngỡ ngàng biết đấy là thần tượng của mình, nữ văn sĩ X. Vài câu nói xã giao. Lần thứ hai gặp trong một dịp, cũng tình cờ, nhận ra nhau, tôi chủ động chào và được “thưởng” một nụ cười biết nói. Và, với riêng tôi, như thế đã là...trực quan sinh động lắm rồi, sau khi đã đọc không sót đầu sách nào của cô văn sĩ ấy, thêm cả những sáng tác mới chỉ được giới thiệu trên báo. Văn chương, tâm hồn, nhân dáng nữ nhân tài hoa ấy, với tôi, rất hài hòa, mười phân ít ra vẹn…chín. Nếu cô ấy lập một câu lạc bộ những người hâm mộ ắt tên tôi ở hàng đầu vì sự ngưỡng mộ. Nhưng đấy chỉ là tâm tôi thôi.


Gáo nước lạnh đầu tiên tôi nhận được khi giao lưu văn nghệ tại một tòa soạn lớn, anh bạn biên tập là con mọt sách thứ thiệt đã không hề tế nhị (mà chắc chi anh biết tôi là fan của cô văn sĩ nọ?), nói thẳng: Bà đó viết không hay! Tôi bị sốc nặng, nín thinh. Bắt đầu có những suy nghĩ “tại sao” … Chú gần nhà, học ít song mê văn, mượn sách của tôi (tác phẩm của cô văn sĩ nọ) đọc miết, rồi buông một câu còn đau hơn: tao thấy cũng thường thôi! Chẳng thà chú đánh tôi còn dễ chịu hơn. Chưa hết đâu, lần nọ đi mua thuốc tây ở hiệu dược quen, cô dược sĩ trẻ măng mang kính trắng, đang lúc rảnh rỗi, bắt chuyện văn chương với tôi, và khi nghe tôi nhắc đến thần tượng, nữ văn sĩ X, cô gái xinh đẹp ấy đã đánh đòn đau điếng: nhà văn X là ai? Trời ạ, sao lại thế?

Bây giờ tôi ngộ rồi: cuộc sống là tập hợp những cá thể rất khác nhau, sự sai biệt tư tưởng là được nhiên, không có gì lạ. chẳng riêng gì chuyện văn chương, món rất chi trừu tượng, sự khác biệt thấy ở mọi nơi mọi lúc với đủ các đối tượng: chính trị, văn hóa, thể thao, ẩm thực… Người ta tranh luận, cãi vã, bất đồng...xoay quanh nhận thức về một đối bóng, một khuynh hướng, một giọng ca…

Có những cuộc tranh luận bất phân thắng bại vì chẳng ai chịu ai, song cũng có những khác biệt dung hòa giải quyết được do người trong cuộc nhận ra khác biệt là bình thường, và đấy rất hay, theo tôi, chính vũ trụ cũng tồn tại hài hòa trong sự khác biệt cơ mà?

Điều gì sẽ xảy ra khi tất cả độc giả đều chỉ thích đúng một nhà văn duy nhất, hay một giọng ca? Các quán ăn phục vụ độc vị mỗi một món? Chán lắm… Vũ trụ mênh mông bao la với các hành tinh chuyển động với quỹ đạo khác nhau, cấu tạo hành tình cũng khác, và các vệ tinh quay quanh cũng chẳng giống nhau.

Những sự khác biệt ấy tồn tại trong trật tự hài hòa, chân phương, tuyệt mỹ, và nhờ đấy sự sống trên trái đất có nắng ấm, tuyết rơi, bốn mùa xuân hạ thu đông nhịp nhàng.

Trật tự ấy là hoàn mãn đến mức không ai ngốc đến mức đồ bỏ bớt chi tiết này hay chi tiết khác, cũng như bộ máy chiếc đồng hồ tự động, xê dịch một tí sự đo thời gian bị hỏng ngay. Tập hợp các khác biệt hợp thành sự hoàn mỹ.

Tâm ta khác tâm người do căn cơ và sự huân tập khác nhau, lòng từ, bi, hỉ, xả..sẽ dung hợp được sự khác biệt thay vì sân si từng câu nói, từng ánh mắt.

Sự thấy biết khác nhau là thường tình do duyên nghiệp và phước báu riêng. Đức Phật giác ngộ mỹ mãn mới thấu suốt lẽ thật, chúng ta phàm phu nhìn nhận sự vật hiện tượng tương đối là chuyện có gì phải bàn? Như mặt nước phản chiếu mây bay, trong thêm một chút, mây càng rõ, cố lắng lọc tâm ta cho thấu suốt sự thu cảm sẽ trong sáng hơn, ngày hôm nay thấy tốt hơn hôm qua, ngày mai lại tốt hơn nữa, rồi có ngày sẽ có diễm phúc thấy được lẽ thật, sự thật rốt ráo.

Tôi có duyên nghiệp gì đấy với nhà văn nọ, và rất nhiều người cũng đồng nghiệp như tôi, tìm thấy ở con chữ của cô cái hay cái đẹp, nói thay hồn mình.

Nhưng cũng phải thừa nhận cuộc sống mênh mông, nếu có người không chung nghiệp với ta, thấy con chữ nhà văn ấy lấn cấn chỗ nào đó, không mê, cũng nên cho là thường, đành rằng cũng lao xao buồn, việc gì phải một sống một chết “bảo vệ” nhà văn ấy, thực ra, dưới góc nhìn của đức Phật, - đấy là bảo vệ cái tâm ích kỷ của ta mà thôi, thỏa mãn tâm lý “cái gì mình cũng đúng”.

Rồi đến khi ngộ ra, biết rằng chính tâm ta cũng giả nốt, có đâu mà chấp.

Vậy thôi.

Nguyễn Thành CôngNgười xưa rất hay, nói hơi bị thừa...- “tiên trách kỷ hệu trách nhân”, đừng vội vàng chụp mũ người, hãy soi lại bản thân mình, nói kiểu bây giờ: không được chủ quan. Nhân sinh thường gặp nhau ở chỗ: nhìn người thì rõ, nhìn mình thì...không rõ, thấy lỗi người thì dễ, lỗi ta thì…Đặc điểm này phổ biến lắm. Tâm ta tâm người có sự sai biệt là chuyện thường tình.
Tôi “mê” nữ Nhà văn nọ từ lúc cô chập chững bước chân lên văn đàn với những tác phẩm nhỏ đầu tay. Dõi theo ngòi bút nữ nhân tài hoa ấy, đến khi cô viết được chừng ..vài chục đầu sách, thì gặp.

Trong một dịp tình cờ, bắt tay người nữ thâm trầm, trẻ tuổi, có đôi mắt tinh anh, tôi ngỡ ngàng biết đấy là thần tượng của mình, nữ văn sĩ X. Vài câu nói xã giao. Lần thứ hai gặp trong một dịp, cũng tình cờ, nhận ra nhau, tôi chủ động chào và được “thưởng” một nụ cười biết nói. Và, với riêng tôi, như thế đã là...trực quan sinh động lắm rồi, sau khi đã đọc không sót đầu sách nào của cô văn sĩ ấy, thêm cả những sáng tác mới chỉ được giới thiệu trên báo. Văn chương, tâm hồn, nhân dáng nữ nhân tài hoa ấy, với tôi, rất hài hòa, mười phân ít ra vẹn…chín. Nếu cô ấy lập một câu lạc bộ những người hâm mộ ắt tên tôi ở hàng đầu vì sự ngưỡng mộ. Nhưng đấy chỉ là tâm tôi thôi.


Gáo nước lạnh đầu tiên tôi nhận được khi giao lưu văn nghệ tại một tòa soạn lớn, anh bạn biên tập là con mọt sách thứ thiệt đã không hề tế nhị (mà chắc chi anh biết tôi là fan của cô văn sĩ nọ?), nói thẳng: Bà đó viết không hay! Tôi bị sốc nặng, nín thinh. Bắt đầu có những suy nghĩ “tại sao” … Chú gần nhà, học ít song mê văn, mượn sách của tôi (tác phẩm của cô văn sĩ nọ) đọc miết, rồi buông một câu còn đau hơn: tao thấy cũng thường thôi! Chẳng thà chú đánh tôi còn dễ chịu hơn. Chưa hết đâu, lần nọ đi mua thuốc tây ở hiệu dược quen, cô dược sĩ trẻ măng mang kính trắng, đang lúc rảnh rỗi, bắt chuyện văn chương với tôi, và khi nghe tôi nhắc đến thần tượng, nữ văn sĩ X, cô gái xinh đẹp ấy đã đánh đòn đau điếng: nhà văn X là ai? Trời ạ, sao lại thế?

Bây giờ tôi ngộ rồi: cuộc sống là tập hợp những cá thể rất khác nhau, sự sai biệt tư tưởng là được nhiên, không có gì lạ. chẳng riêng gì chuyện văn chương, món rất chi trừu tượng, sự khác biệt thấy ở mọi nơi mọi lúc với đủ các đối tượng: chính trị, văn hóa, thể thao, ẩm thực… Người ta tranh luận, cãi vã, bất đồng...xoay quanh nhận thức về một đối bóng, một khuynh hướng, một giọng ca…

Có những cuộc tranh luận bất phân thắng bại vì chẳng ai chịu ai, song cũng có những khác biệt dung hòa giải quyết được do người trong cuộc nhận ra khác biệt là bình thường, và đấy rất hay, theo tôi, chính vũ trụ cũng tồn tại hài hòa trong sự khác biệt cơ mà?

Điều gì sẽ xảy ra khi tất cả độc giả đều chỉ thích đúng một nhà văn duy nhất, hay một giọng ca? Các quán ăn phục vụ độc vị mỗi một món? Chán lắm… Vũ trụ mênh mông bao la với các hành tinh chuyển động với quỹ đạo khác nhau, cấu tạo hành tình cũng khác, và các vệ tinh quay quanh cũng chẳng giống nhau.

Những sự khác biệt ấy tồn tại trong trật tự hài hòa, chân phương, tuyệt mỹ, và nhờ đấy sự sống trên trái đất có nắng ấm, tuyết rơi, bốn mùa xuân hạ thu đông nhịp nhàng.

Trật tự ấy là hoàn mãn đến mức không ai ngốc đến mức đồ bỏ bớt chi tiết này hay chi tiết khác, cũng như bộ máy chiếc đồng hồ tự động, xê dịch một tí sự đo thời gian bị hỏng ngay. Tập hợp các khác biệt hợp thành sự hoàn mỹ.

Tâm ta khác tâm người do căn cơ và sự huân tập khác nhau, lòng từ, bi, hỉ, xả..sẽ dung hợp được sự khác biệt thay vì sân si từng câu nói, từng ánh mắt.

Sự thấy biết khác nhau là thường tình do duyên nghiệp và phước báu riêng. Đức Phật giác ngộ mỹ mãn mới thấu suốt lẽ thật, chúng ta phàm phu nhìn nhận sự vật hiện tượng tương đối là chuyện có gì phải bàn? Như mặt nước phản chiếu mây bay, trong thêm một chút, mây càng rõ, cố lắng lọc tâm ta cho thấu suốt sự thu cảm sẽ trong sáng hơn, ngày hôm nay thấy tốt hơn hôm qua, ngày mai lại tốt hơn nữa, rồi có ngày sẽ có diễm phúc thấy được lẽ thật, sự thật rốt ráo.

Tôi có duyên nghiệp gì đấy với nhà văn nọ, và rất nhiều người cũng đồng nghiệp như tôi, tìm thấy ở con chữ của cô cái hay cái đẹp, nói thay hồn mình.

Nhưng cũng phải thừa nhận cuộc sống mênh mông, nếu có người không chung nghiệp với ta, thấy con chữ nhà văn ấy lấn cấn chỗ nào đó, không mê, cũng nên cho là thường, đành rằng cũng lao xao buồn, việc gì phải một sống một chết “bảo vệ” nhà văn ấy, thực ra, dưới góc nhìn của đức Phật, - đấy là bảo vệ cái tâm ích kỷ của ta mà thôi, thỏa mãn tâm lý “cái gì mình cũng đúng”.

Rồi đến khi ngộ ra, biết rằng chính tâm ta cũng giả nốt, có đâu mà chấp.

Vậy thôi.

Nguyễn Thành Công

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 14
  • Hôm nay 271
  • Tháng hiện tại 62,025
  • Tổng lượt truy cập 23,468,274