Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Cứu người mà không sát vong

Cứu người mà không sát vong

Đăng lúc: 11:06 - 26/09/2017

Khóa tu chỉ có bảy người, trong đó có hai tu sĩ (đã xuất gia từ thuở nhỏ), còn lại là nam cư sĩ. Cả đoàn lặng lẽ lên núi, trú nhờ nơi gian nhà tổ của một ngôi chùa. Chùa xa và nghèo, nên chùa vắng; thuận tiện cho khóa tập; duy chỉ không có người “phục vụ” nên đoàn phải mang theo lương thực-thực phẩm đủ dùng cho hơn một tháng. Mỗi ngày, công việc chính của đoàn là bốn thời thiền tọa, mỗi thời khoảng hai giờ. Thời gian còn lại dành cho việc chẻ củi, lặt rau, bếp núc… Nghĩa là không có thời giờ trống…

aminhhoa.jpg
Ảnh minh họa
Khoảng giữa khóa thiền, một hôm có đôi vợ chồng đến gặp thầy, dắt theo người con gái để nhờ thầy trị bệnh. (Không biết do đâu mà dẫn đến việc nhờ trị bệnh này, vì khóa thiền diễn ra rất âm thầm!). Người con gái khoảng hơn hai mươi tuổi, sắc mặt hồng hào, không có vẻ gì là người có bệnh. Bệnh, theo lời đôi vợ chồng nói, là không hiểu sao, ngày nào người con gái cũng múa hát cười cợt lung tung…

Nhìn chăm chú người con gái giây lát, thầy hỏi: Có phải cháu thích ăn kẹo bánh và cứ chiều chiều, là cháu mới lên cơn, phải không? Đôi vợ chồng thưa: Quả thế thật. Cháu còn thích mặc áo quần đẹp nữa. Gia đình đã đi tìm thầy chữa hơn ba năm rồi mà thầy nào cũng… lắc đầu. Nhờ thầy làm ơn làm phước…

Thầy bảo hai vợ chồng đưa cháu về, vài hôm sau sẽ gặp lại.

Đêm ấy, thầy khó ngủ, cứ đi đi lại lại trước sân chùa…

Trong buổi uống trà sáng hôm sau, mấy huynh đệ được thầy cho biết, người con gái ấy bị một vong trẻ con đeo bám lâu ngày nên mới có những biểu hiện như thích ăn bánh kẹo, thích mặc áo quần mới… Thầy đang phân vân, chưa chọn được cách giải quyết chu toàn.

***

Mấy ngày sau, cả nhà người con gái ấy trở lên núi. Thầy cho bệnh nhân ngồi chính giữa bộ phản gỗ lớn đặt bên phải gian nhà Tổ, hai bên và phía sau bệnh nhân, thầy bảo ba huynh đệ cùng đặt tay lên lưng và hai vai người bệnh; thầy ngồi đối diện với người bệnh. Thầy bắt ấn, lâm râm trì chú rồi nói lớn: Đi, đi ra khỏi đây ngay, đi mà tìm nơi tu tập, nếu không ta sát! Vừa dứt lời, thầy đánh mạnh vào bệnh nhân…

***

Khi khóa thiền sắp kết thúc, gia đình bệnh nhân lại lên núi để báo tin, rằng sinh hoạt của con gái họ đang dần dần trở lại bình thường. Các huynh đệ đều chúc mừng, mong họ thêm vững lòng tin vào Phật pháp. Thầy cũng chân thành bày tỏ, rằng cái vong đeo bám cô gái là một vong hiền, nên thầy mới có thể “gọi” nó rời bỏ khỏi thân thể cô ấy. Và điều khiến thầy phải đắn đo khi trị bệnh, là làm sao vừa giúp được bệnh nhân mà vẫn không làm thương tổn đến cái vong ấy. Bởi vì nó cũng không có ác ý làm hại người bệnh, nó cũng chỉ là nạn nhân của chính những nghiệp quả đã gieo, đang trôi lăn trong dòng luân hồi u u minh minh bất tận. Thầy lưu ý cho tất cả huynh đệ hiểu-nhận sâu sắc rằng, mỗi một ấn quyết và thần chú đều có công năng riêng nhưng điều chủ yếu là phải dùng tâm từ để điều khiển khi sử dụng ấn chú vào những mục đích tốt đẹp nhằm cứu giúp người khác. Nếu đi lệch khỏi động cơ và mục đích ấy, mọi việc làm đều trở nên vô nghĩa, vô ích và có hại cho bản thân, vì nó chỉ làm tăng thêm cái “ngã” mà thôi. Và điều quan trọng nhất đối với mỗi người trong việc nhận thức về những thế giới tồn tại bên cạnh đời sống hàng ngày của con người, là sự tôn trọng đối với họ…

Buổi sớm mai, tiết trời se se. Còn lại mãi trong sâu xa của tất cả huynh đệ ngày ấy, là hình ảnh thầy vừa nâng tách trà nóng, vừa từ tốn: Đức Khổng phu tử đã từng dặn rằng: Kính quỷ thần nhi viễn chi! (Đối với quỷ thần thì kính trọng nhưng nên tránh xa). Ngài còn nói: Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã (Luận ngữ), có nghĩa là những kẻ vừa mới nghe giảng Đạo rồi đi thuật lại liền sau đó, thì xem như bỏ mất cái đức nơi mình, cũng có nghĩa là, người học Đạo cần phải có sự trải nghiệm chứ không chỉ nghe suông nói suông...
Nguyễn Đông Nhật

Nhất-xiển-đề & sơ tâm

Nhất-xiển-đề & sơ tâm

Đăng lúc: 08:21 - 01/07/2017

“Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”
(Trịnh Công Sơn)

Khi mới bước chân vào đạo, mình thành kính, thiết tha muốn được thấy rõ phương pháp nào dẫn mình đến sự chứng ngộ nhanh nhất. Như một tờ giấy trắng, chúng ta từ từ được nhuộm theo những gì mình tiếp xúc về đạo Phật. Nên có câu ‘Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên, tam niên bất kiến Phật’. Ngày đầu đến chùa thấy tu theo Phật sao dễ quá, nhưng sau ba năm thì thấy Phật cũng mất luôn!

Điều đáng buồn là, lẽ ra, nếu tu tập mà không thấy tiến bộ thì bỏ công tìm minh sư hay đường tu khác, đằng này, lại trở nên nghi ngờ Tam bảo, nghi ngờ luôn cả bản thân, rồi xem thường chuyện tu hành. Và cuối cùng, trở thành một kẻ nhất-xiển-đề!

shutterstock435140692.jpg
Sơ tâm là nói về cái tâm lành, tâm tốt, tâm luôn hướng thượng - Ảnh minh họa

Nhất-xiển-đề, Phạn ngữ Icchantika, là một khái niệm nói về một hạng người ‘đặc biệt nguy hiểm’ trong đạo Phật, mà hạng người này cũng tồn tại trong các tôn giáo khác. Theo dịch nghĩa chữ Hán, nhất-xiển-đề là bất tín hay tín bất cụ, nghĩa là không có lòng tin, không đủ lòng tin. Lòng tin ở đây được hiểu là tin vào Tam bảo, vào lý nhân quả - duyên sinh, và nghiệp báo.

Trong kinh Tăng chi (chương Ba pháp, phẩm Ba hạng người), hạng người gọi là ‘không hy vọng’, được mô tả như sau: ‘Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người không hy vọng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người ác giới, tánh tình độc ác, sở hành bất tịnh, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn, nhưng hiện tướng là Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng hiện tướng có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh’. Như vậy, tất cả đều là sống hình tướng, bề ngoài dù trên danh nghĩa là người tu theo Phật pháp.

Cũng theo kinh Tăng chi (chương Bốn pháp, phẩm Kesi), Đức Phật mô tả hạng người này như sau: ‘Bị giết hại, này Kesi, là con người này, trong giới luật của bậc Thánh, bị Như Lai nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới’. Rõ ràng, họ không còn coi trọng giới luật, nên không còn xứng đáng được thọ giới. Và tất nhiên, họ cũng chẳng màng đến chuyện họ có được xem là Phật tử hay không! Theo kinh Đại bát Niết-bàn (quyển 1): ‘Nhất-xiển-đề là kẻ dứt tuyệt gốc rễ của mọi điều lành, lòng không nương theo bất cứ pháp lành nào, thậm chí chẳng sanh được một niệm lành”.

Làm người, ai cũng từng có lỗi lầm. Nên Phật có nói về hai hạng người tốt: Một là người chưa bao giờ lầm lỗi. Còn hạng thứ hai, là người có lỗi mà biết ăn năn, hối quá, sửa sai. Tuy nhiên, kẻ gọi là nhất-xiển-đề đã không còn biết tàm, biết quý. Họ đã trở thành một chuyên gia lừa đảo (con artist), không sợ nhân quả, không tin đạo thánh; chỉ nghĩ lợi về mình và dùng mọi thủ đoạn, lợi dụng danh nghĩa Phật pháp để thành công.

Dù người có hám danh, như ngài Cầu Danh Bồ-tát (tiền thân Phật Di Lặc) được mô tả trong kinh Pháp hoa, nhưng biết hổ thẹn và sợ nhân quả cũng vẫn có cơ hội tu tập giải thoát. Đây là điểm chính yếu mà Phật đã dạy trong kinh Trung Bộ (kinh số 27): ‘Phật lấy hình ảnh người thợ rừng theo dấu một con voi lớn để giải thích làm cách nào đệ tử đạt đến sự xác tín hoàn toàn đối với chân lý Ngài dạy’ (Ni sư Trí Hải dịch). Tu tập thành tựu theo những điều Phật dạy, như là thợ rừng theo dấu chân voi, là mục đích tối hậu mà Đức Phật đã truyền trao giáo pháp cho chúng ta. Nên có nhiều mẩu chuyện rất cụ thể trong đời thường để chúng ta rút kinh nghiệm: Câu chuyện về một nhà tâm lý dạy cách nào để có hạnh phúc nhưng chính mình, khi bị hỏi, rất lúng túng vì ít khi có hạnh phúc. Hay, một vị sư có một người đệ tử nhờ sư khuyên bảo con của người này bỏ hút thuốc, nghiện rượu… nhưng oái oăm thay chính vị sư kia cũng đang hút thuốc và uống rượu. Hoặc, một bác sĩ chuyên giúp trị bệnh cho người, nhưng bản thân thì mệt mỏi, hay đau bệnh v.v…

Trên đây là những trường hợp điển hình cụ thể đang xảy ra nhan nhản khắp nơi. Nên người tu Phật phải biết ứng dụng lời Phật dạy cho chính mình và thận trọng, gìn giữ tâm Bồ-đề của mình, không để bị rạn nứt. Giác Ngộ online ngày 29-5-2017 đã nêu lên ‘ba nhóm vấn nạn tiêu biểu’ hiện đang xảy ra nơi các tự viện, chùa chiền: Đó là (1) Phát triển khuynh hướng tư hữu cá nhân; (2) Không có khả năng quản trị ngôi đạo tràng của mình, có xu hướng sống tà mạng, nặng về cơ sở vật chất; và (3) Tình trạng lạm dụng các tiện ích công nghệ thông tin’. Đây là những tín hiệu cho thấy khuynh hướng nhất-xiển-đề đang ngày lan rộng mạnh.

Thiền sư Ðạo Nguyên (Dogen, 1200-1253) rất tâm đắc về pháp môn thiền Sơ tâm và pháp môn này được truyền thừa cho đến ngày nay. Ngài dạy rằng: Người tu học Phật pháp phải luôn giữ gìn cái tâm ban đầu (sơ tâm) vì nếu không, sơ tâm sẽ bị các pháp thế gian làm điên đảo, mộng tưởng. Khi sơ tâm bị bể vỡ, con đường để trở thành một người nhất-xiển-đề sẽ không xa vì lòng tin vào Phật pháp đang bị bào mòn, sút giảm, khô kiệt dần.

Đỗ Đình Đồng dịch Tâm Ban sơ, nguyên tác Zen Mind, Beginner’s Mind của Shunryu Suzuki: ‘Giả sử quý vị tụng Tâm kinh Bát-nhã chỉ một lần. Đó có thể là một sự tụng rất tốt. Nhưng điều gì sẽ xảy ra đối với quý vị khi quý vị tụng nó hai lần, ba lần, bốn lần, hay nhiều hơn nữa? Có thể quý vị mất đi thái độ ban đầu một cách dễ dàng. Điều tương tự sẽ xảy ra trong những cách tu Thiền khác của quý vị. Quý vị sẽ giữ được tâm ban đầu của mình trong một lúc, nhưng nếu quý vị tiếp tục tu tập một, hai, ba năm hay nhiều hơn nữa, mặc dù quý vị có thể tiến bộ chút ít, quý vị bị mất ý nghĩa vô hạn của bản tâm’.

Sơ tâm như người mới biết đạo, đi chùa nên thấy ‘nhất niên Phật tại tiền’. Nếu chúng ta có thể giữ cho sơ tâm của mình giống như ngày mình mới biết đạo, háo hức muốn học hỏi, tu tập, thành kính, thiết tha thì dù mình có tu học bao nhiêu năm, cái sơ tâm vẫn trinh nguyên như ngày nào!

Sơ tâm là làm mọi việc, cho dù nhỏ hay lớn, đều xem như lần đầu, và làm hết mình, không so đo, tính toán lợi hại. Sơ tâm không bị mắc kẹt vào kinh nghiệm của những lần trước mà luôn mở lòng đón nhận những ý kiến mới. Tất nhiên, sơ tâm là nói về cái tâm lành, tâm tốt, tâm luôn hướng thượng.

Nhờ tính cách rỗng không của sơ tâm nên nó luôn giúp mình sẵn sàng mở lòng đón nhận mọi cái mới, luôn trung lập, và không có khái niệm về phe phái, hay chiều hướng. Chính nhờ vậy mà người giữ được sơ tâm trong sáng, luôn tỉnh giác với mọi hoàn cảnh và không bị mắc kẹt vào một pháp nào nên các thiền sư Nhật Bản gọi là ‘vô tâm’. Thiền Sơ tâm cho rằng mọi hành động là cơ hội hiển bày Phật tánh của ta - ‘bản lai diện mục’, cho nên mới nói: đói thì ăn, mệt thì ngủ đó là thiền.

Pháp môn thiền Sơ tâm là một phương pháp giúp giữ cái sơ tâm luôn trong sáng, giúp mình trở về cái tâm ban sơ, nguyên thủy thật sáng chói của chính mình. Chúng ta thấy tâm mình như gương sáng phản chiếu trung thực mọi sự vật, không tình cảm, không thiên vị, không bị dính mắc. Sơ tâm giúp mình sống thật với chính mình và với người khác.

Theo trên cho thấy, mối liên hệ mật thiết giữa sơ tâm và nhất-xiển-đề thật rõ ràng. Khi mình đánh mất sơ tâm, chúng ta trở nên chai cứng với giáo pháp, không còn sợ nhân quả, không còn biết hổ thẹn, chỉ biết hưởng thụ dục lạc. Cái đáng tiếc nhất là mình đã đánh mất chính mình, một con người háo hức muốn học Phật, thích tu, ham làm điều lành, sợ hãi điều ác lúc ban đầu nay bỗng dưng trở thành một người lão luyện về sự dối trá, gian xảo, ngụy tạo những hình thức tu tập mê tín, yêu ma để lợi dụng tình cảm, tiền tài. Hy vọng, đây là hồi chuông báo động cho tất cả chúng ta đang chao đảo niềm tin với Phật pháp, và là tiếng chuông cảnh tỉnh ai đó đang biến mình theo xu hướng nhất-xiển-đề sớm quay về tìm lại cái sơ tâm của mình.

Tháng 6 năm 2017
Thiện Ý

Thiện & bất thiện

Thiện & bất thiện

Đăng lúc: 11:21 - 15/04/2017

Một trong những biểu hiện cụ thể của người thực tu theo Chánh pháp là sống đời thiện lành; đoạn trước, đoạn giữa và đoạn sau tất cả đều thiện. Có không ít đệ tử Phật thường khái quát cách thức tu tập của mình là tu tâm. Ăn chay cũng do cái tâm, giữ giới cũng dựa trên cái tâm, làm phước cũng xuất phát từ cái tâm v.v...

Dĩ nhiên tu tâm là quá đúng. Nhưng vì chữ tâm trong đạo Phật có ý nghĩa vừa sâu kín lại vừa bao la, tâm vô hình vô tướng thoắt ẩn thoắt hiện, không phải ai cũng hiểu trọn cái tâm nên tuy thường nói tu tâm mà thực ra vô cùng lúng túng chẳng biết bắt đầu từ đâu.

devadatta-and-buddha31.jpg
Tạo mười nghiệp ác thì gọi là bất thiện, sẽ sinh về cõi ác súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục - Tranh PGNN
Theo lời dạy của Thế Tôn, tu tập hướng thiện phải thiết thực, cụ thể, tức chuyển hóa ba nghiệp thân miệng ý từ xấu ác sang thiện lành. Nói cách khác là tu mười nghiệp thiện, ba thiện nghiệp của thân, bốn thiện nghiệp của miệng, ba thiện nghiệp của ý. Và đây cũng chính là quy chuẩn về thiện và bất thiện theo quan điểm của Thế Tôn. Tạo mười nghiệp lành thì gọi là thiện, được sinh về cõi lành. Ngược lại tạo mười nghiệp ác thì gọi là bất thiện, sẽ sinh về cõi ác súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói về hạnh thiện và bất thiện. Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ đó!

Các Tỳ-kheo đáp:

- Xin vâng, Thế Tôn.

Thế Tôn dạy:

- Thế nào gọi là bất thiện? Thế nào gọi là thiện? Nghĩa là: sát sanh là bất thiện, không sát sanh là thiện; lấy của không cho là bất thiện, lấy của cho là thiện; dâm là bất thiện, không dâm là thiện; nói dối là bất thiện, không nói dối là thiện; nói thêu dệt là bất thiện, không nói thêu dệt là thiện; nói hai lưỡi là bất thiện, không nói hai lưỡi là thiện, đấu loạn kia đây là bất thiện, không đấu loạn kia đây là thiện; tham của người là bất thiện, không tham của người là thiện; nổi giận là bất thiện, không nổi giận là thiện; tà kiến là bất thiện, chánh kiến là thiện. Như thế, này các Tỳ-kheo, hành điều ác này xong, đọa trong súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Nếu người làm lành liền sanh trong loài Người, lên Trời và trong các đường lành, A-tu-la. Thế nên, hãy xa lìa hạnh ác, tu tập hạnh lành. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm16.Hỏa diệt,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.211)

Qua pháp thoại trên, thiện và bất thiện được Thế Tôn phân định thật rõ ràng. Không sát hại, không trộm cướp, không tà hạnh (ba thiện nghiệp của thân); Không nói dối, không nói thô ác, không nói đâm thọc, không nói thêu dệt (bốn thiện nghiệp của miệng); Không tham lam, không sân hận, không tà kiến si mê (ba thiện nghiệp của ý) chính là thiện. Ngược lại là bất thiện. Tạo bất thiện thì sinh vào cõi ác, tu thiện thì sinh vào cõi lành.

Vẫn biết, trọng tâm của tu tập theo giáo pháp Thế Tôn là chứng đắc giải thoát Niết-bàn, thoát ly sinh tử luân hồi ngay trong đời này. Tuy nhiên, phân biệt rõ thiện ác và lập chí hành thiện để thành tựu công đức, phước báo trong hiện tại và vị lai cũng là một trong những mục tiêu tu tập quan trọng của hàng Phật tử. Nhờ nắm được pháp căn bản này, người đệ tử Phật khi chưa hội đủ duyên lành tu tập chỉ quán để lần lượt chứng đạt bốn Thánh quả thì có thể chuyển hóa thân tâm theo mười điều thiện, đảm bảo thành tựu kết quả “nay vui đời sau vui”.
Quảng Tánh

Năm Đinh Dậu gửi bạn đọc 3 câu chuyện về gà

Năm Đinh Dậu gửi bạn đọc 3 câu chuyện về gà

Đăng lúc: 22:36 - 28/01/2017

1. Gà rừng lúc gáy lúc không
Theo kinh Bổn sinh, ngày xưa, Bồ-tát chuyển sinh làm con trai gia đình quý tộc Bà-la-môn, khi trưởng thành, Bồ-tát tinh thông kinh điển, tri thức hơn người, trở thành thầy dạy của năm trăm học trò Bà-la-môn khác. Nhà thầy có nuôi một con gà trống báo giờ. Hễ gà trống gáy sáng thì học sinh thức dậy đi học, đi làm. Về sau gà trống ấy chết đi, các học trò để tâm tìm một con gà trống khác thay thế.

tanman ga.jpg
Chuyện gà nhân năm Dậu

Một hôm, một học trò đi lượm củi ở khu rừng bên cạnh bắt được một con gà trống rừng, mang về nuôi trong chuồng, muốn nhờ tiếng gáy của nó đánh thức mọi người. Nhưng gà trống rừng từ nhỏ đã sống trong rừng sâu, không biết lúc nào nên gáy, lúc nào nên không. Có khi nửa đêm nó cất tiếng gáy.

Các học trò nghe tiếng gáy của nó thì thức dậy học bài. Họ học đến sáng thì đã mỏi mệt, không còn tinh thần để làm việc gì nữa cả. Sự việc tiếp diễn trong mấy ngày, các học trò không còn chịu nổi nữa vì thời khóa bị xáo trộn loạn xạ, bèn lén bàn với nhau giết thịt con gà vô nguyên tắc đó.

Họ làm thịt gà trống, chuyện đến tai thầy, thầy liền trầm ngâm mấy câu kệ: “Không được dạy dỗ / Không biết theo thầy / Lúc gáy lúc không / Không hiểu biết gì!”.

(Lời bàn: Lúc nên gáy thì không gáy, lúc không nên gáy thì lại gáy, gà trống rừng cuối cùng bị chết vì tiếng gáy không đúng lúc của mình. Gà trống không được nuôi dưỡng dạy dỗ nên mới mang tai họa. Con người cũng vậy, nếu thiếu giáo dục, thiếu tu dưỡng… thì sẽ không biết nên làm việc thế nào, sống thế nào, đối nhân xử thế ra sao… rất dễ thất bại trên đường đời. Vì thế chúng ta phải không ngừng nâng cao tri thức và nhận thức của mình về con người, về cuộc sống).

2. Gà trống và côn trùng

Có một đứa trẻ, mới 7 tuổi, nhưng thường tìm Thiền sư Vô Đức (947-1024), cùng sư nói lung tung một trận các chuyện đông tây nam bắc. Thiền sư Vô Đức nhận thấy cậu bé này thông minh, ăn nói lưu loát, lại thường có một chút ý vị của đạo Phật nên cũng để tâm.

Một ngày nọ, Thiền sư Vô Đức nói với cậu bé: “Lão tăng mỗi ngày đều bề bộn công việc, không có thời gian để thỉnh thoảng ở đây tranh biện với con. Bây giờ ta cùng con hãy tiếp tục tranh biện một phen. Nếu con thua, con phải mua bánh mời ta; còn nếu ta thua, ta sẽ mua bánh cho con”.

Cậu bé nghe xong nói: “Vậy thỉnh sư phụ đưa tiền ra trước!”.

Thiền sư Vô Đức nói: “Tranh biện thua mới phải chịu mất tiền, còn biện thắng thì không mất gì. Thứ nhất, giả sử lão tăng ta là một con gà trống”.

Cậu bé nhanh nhẩu: “Vậy thì con là côn trùng nhỏ”.

Thiền sư Vô Đức được thế, bèn nói: “Nếu đúng con là con côn trùng nhỏ, thì con phải mua bánh cho ta, bởi vì gà trống ăn côn trùng!”.

Cậu bé không chịu thua, nói: “Không thể, thưa sư phụ! Thầy cần mua bánh cho con mới đúng. Thầy là gà trống lớn, con là côn trùng nhỏ, con vừa nhìn thấy thầy đã bay mất tiêu luôn rồi. Bởi vì giữa thầy trò không nên tranh luận, không hơn thua với nhau! Vì vậy thầy chẳng phải là đã thua rồi sao?”.

Thiền sư Vô Đức dắt tay cậu bé, dẫn cậu đến chỗ có nhiều người qua lại, sư nói:

“Chuyện này so với cuộc chiến và khuôn phép là giống nhau. Nay nhờ đến dân làng phán xét. Ở đây có ba trăm người dân, vì thế không thể ai cũng không đưa ra ý kiến. Mọi người à! Xin mọi người phán đoán một chút, giữa lão tăng và cậu bé đây, ai là người có lý?”. Rồi sư bắt đầu kể về cuộc tranh biện của hai người họ.

Nghe xong ai nấy cũng gật gù, nhưng cuối cùng cũng chẳng ai có thể phân định được thắng thua, thế là Thiền sư Vô Đức nghiêm túc nói: “Phải mở to mắt ra mới có thể phân định được”.

Ba ngày sau, tất cả mọi người đều thấy Thiền sư Vô Đức lặng lẽ đi mua bánh cho cậu bé 7 tuổi kia.

(Lạm bàn: Thiền sư Vô Đức vừa bắt đầu đã nghĩ thắng đồng tử 7 tuổi kia, nhưng cậu bé lại tự nguyện làm một kẻ yếu là con côn trùng nhỏ - miếng mồi ngon đối với con gà trống to lớn kia. Nhưng con côn trùng lại có lợi thế nhỏ, linh hoạt của mình, có thể bay đi, không để con gà trống có cơ hội tiếp cận. Cái to lớn nhiều lúc không uy hiếp được cái nhỏ bé. Và vấn đề càng không phải ở sự thắng thua, ẩn ý qua cách xử sự của vị thiền sư kia, mở to mắt - trí tuệ, chánh niệm mới là điều quan trọng, nhận chân thực tướng của cuộc đời).

3. Chỉ vì một con gà

Trong xóm nọ, có hai gia đình ở sát cạnh nhau. Gia đình anh Ba có một mảnh vườn nhỏ sau nhà chuyên trồng rau cải. Còn gia đình anh Năm có vườn rộng hơn nhưng không trồng trọt mà nuôi gà. Một hôm không biết làm sao mà một con gà của anh Năm lại nhảy qua được hàng rào vào vườn anh Ba mổ lung tung làm hư mấy bụi rau của chị Ba. Chị Ba tức tối chạy qua mắng vốn chị Năm nuôi gà làm sao mà để cho nó chạy qua nhà hàng xóm phá hoại. Nhưng chị Năm cũng không vừa, cãi lại ai biểu hàng rào nhà chị Ba làm không kỹ nên gà mới nhảy qua được. Hai chị lời qua tiếng lại, không ai nhận lỗi mình mà chỉ đổ lỗi cho người kia, nên thoáng chốc hai chị mắng chửi nhau thậm tệ.

Đến chiều, anh Ba đi làm về, chị Ba kể lể chuyện hồi sáng và muốn chồng mình phải đi qua hàng xóm mắng vốn và bắt đền mấy bụi rau. Anh Ba thương vợ nên đi qua nhà anh Năm mắng vốn. Trong khi đó bên kia, chị Năm cũng đang kể cho chồng nghe chuyện hồi sáng thì anh Ba sang tới nơi. Hai anh lời qua tiếng lại, anh nào cũng bênh vợ của mình. Người thì nói dai, còn người thì hay cộc tính nên chỉ vài câu là hai anh bắt đầu thượng cẳng tay hạ cẳng chân. Anh Năm bị đấm trúng mặt té nhào xuống đất. Lồm cồm bò dậy, liếc thấy con dao phay của vợ thường dùng cắt thịt gà để trên bàn, anh nhào tới nắm con dao và chém anh Ba tới tấp. Trong cơn sân ngút trời, anh Năm đã chém chết anh Ba.

Chỉ vì một con gà mà anh Ba mất mạng, anh Năm ngồi tù chung thân, chị Ba góa chồng, chị Năm cũng mất chồng, mấy đứa con của anh Ba trở thành mồ côi cha, mấy đứa con của anh Năm tuy còn cha nhưng cũng như không. Xưa nay hai chị không đi làm, chỉ biết ở nhà làm nghề nội trợ, nay người thì chồng chết, người thì chồng ở tù, nên chị Ba phải đi bán bún riêu, còn chị Năm thì đi bán hủ tiếu kiếm tiền nuôi con.

(Lạm bàn: Kết cục kia sẽ không xảy ra nếu mọi người có sự chân thành, biết nhận lỗi và thể hiện sự xin lỗi. Đôi khi chỉ vì những nguyên nhân không đâu vào đâu mà dẫn tới những hậu quả khó lường!).

Nguyên Quân

Chay & mặn

Chay & mặn

Đăng lúc: 06:18 - 13/04/2016

Vợ tôi nói: Hôm nay mùng một, em nấu vài món chay thật ngon, anh có thể mời bạn về dùng bữa cho vui. Tôi cười khi nghĩ rằng hôm nay vợ tôi thật “biết điều”.

Bữa cơm dọn ra, người bạn chặc lưỡi khen ngon. Vợ tôi bẽn lẽn đỏ bừng mặt, món gà rán đó anh!

Mô Phật! Gà rán cũng… chay! Thật ra nguyên liệu cũng chỉ là măng tre trộn đậu hủ rán pha chút muối đường rồi bỏ vào dầu sôi mà lật qua lật lại đến chín vàng!

Thế là cuộc tranh luận không đặt ra lại tuôn ào đến ngay trong bữa cơm đúng ngày mùng một!

anh chayman.jpg

“Mùng một ăn chay”, từ câu dặn dò nay đã trở thành thói quen hiện thực của người Phật tử. Một thói quen của người Phật tử mà ngay tôi lại là một đoàn sinh “lão làng” của Gia đình Phật tử (GĐPT) thì càng tuân thủ hơn. Ở đây, xin miễn bàn về vấn đề trì niệm hay giới niệm hoặc Tam bảo - ngũ giới. Phật đã dạy y cứ tâm mà tu, hà cớ gì phải y cứ cái thân mà tu?

Bạn tôi, “cái ngữ” ấy na ná tôi là Phật tử chân chính, tháng ăn chay tới bốn ngày mà ngày nào cũng vậy, giỏi lắm là rau muống luộc chấm chút tương chao. Thật ra chẳng muốn tranh luận làm gì. Phật giáo Đại thừa ở Nhật Bổn, Tây Tạng một số phái cũng ăn uống bình thường, Phật giáo hệ phái Theravada cũng không ăn chay, thậm chí ngay ở đây cũng có người bảo ăn trứng gà công nghiệp “không trống” cũng là… ăn chay!

Miễn là, đừng mượn dao giết người. Có người muốn ăn thịt mà không dám cắt cổ gà đành đem chiêu ác khẩu xui khiến người khác “mần” giùm! Cái tội này gánh gấp trăm ngàn lần kẻ khác, y như đã là đoàn sinh GĐPT lại sắm cần đi câu cá về nhà làm bữa. Hỏi tại sao thì bảo “cho vui”! Cái “cho vui” sao cay đắng ác nghiệt thế kia! Cái mắt cứ thèm nhìn, cái khẩu cứ thèm ăn và tâm cứ thế tham lam bám víu.

Thế mà lại nay, ăn món chay mà bụng cứ nghĩ tới thịt cá, tới gà rán. Tôi có cứng nhắc không? Biết vậy thôi, tôi chỉ cần nói nhỏ với vợ rằng: Em cứ chiên xào hủ tiếu với đậu hủ rồi rắc lên bột “Aji ngon Moto” như trên ti-vi quảng cáo là nghe mùi vị ngọt thịt ngay cần gì gọi là gà rán! Không khéo, ăn không giống rồi nghe phàn nàn mà thấy giống quá thì… ăn gà rán thật có tốt hơn không? Cớ sao lại thích để con mắt đánh lừa mình rồi dắt dẫn mình vào con đường vi phạm ngũ giới, trong khi ăn chay chỉ cho lòng nhẹ nhàng không còn ý nghĩ sát sanh.

HT.Thích Thiện Hoa đã định nghĩa: “Ăn chay, hay ăn lạt, nghĩa là ăn những loài thảo mộc: hoa quả, rau cải, không ăn những món ăn thuộc loài động vật như thịt, cá, tôm, cua, sò, ốc những vật hữu tình, biết tham sống sợ chết như người” theo những gì đã biết trong giờ tu học Phật pháp của GĐPT.

“Cái ngữ” quay sang tôi một tràng thao thao bất tuyệt: Thì cứ bí luộc, xì dầu, gạo thơm dẻo vẫn ngon như thường nhất là khi bụng đói queo, cớ chi thịnh soạn bày biện bên ngoài cho đẹp vừa con mắt, bắt cái thọ đè cái tâm, bắt cái xúc đè cái ý... khiến cái khẩu lung tung nịnh hót đãi bôi! Mi mặc áo Lam trên người mà bụng cứ nghĩ mưu cầu lợi riêng, cứ chạy theo danh vọng, hò hét với đàn em, khúm núm với kẻ trên như gà mất đầu chạy loanh quanh. Mi như ngựa thả trên thảo nguyên, tưởng đồng cỏ mênh mông tha hồ phóng đại hay gặm cỏ tùy thích, té ra, mi chẳng có cỏ mà gặm, nhìn thảo nguyên kia bị rào che tự lúc nào! Sao không nói thật rằng mời bạn qua dùng bữa cơm rau thân mật hoặc “rửa cái bụng trần gian tục lụy” bấy lâu nay nghe còn sướng tai hơn!

Ngày xưa đi trại, chỉ rau muống lá me, cơm sống gạo vàng vẫn giành nhau mà chén, nước đun sôi để nguội còn hăng mùi khói củi… có đứa nào ôm bụng kêu rên, bụng vẫn no đầy tiếp tục trò chơi lớn kia mà! Ngay hôm qua đây thôi, có người tu Bát quan trai, khi bước vào quá đường lại dè bĩu, món ăn như thế này làm sao mà tu? Mi thấy sao?

Tôi đỏ mặt, cái ngã to đùng tự dưng trỗi dậy phừng phừng. “Cái ngữ” ấy coi thường tôi quá. Ít ra, tôi cũng đã “có mặt tham gia” từ những sự kiện thời nhà Ngô đàn áp Phật giáo cho đến năm 1997 với sự tái hiện tổ chức GĐPT trên toàn cõi đất nước. Trước đây,“cái ngữ” ấy từng vỗ vai khen tôi khéo léo quen biết huynh trưởng GĐPT từ cấp Trung ương cho đến thị thành, biết lăng xăng nghe trên răn dưới, biết chạy vạy từ nơi này đến nơi nọ để nhằm mục đích phụng sự đạo pháp. Thế mà giờ đây “cái ngữ” ấy bảo tôi là “kẻ vô tổ chức, phi chính phủ” vì không thấy ai mà chỉ thấy mình với cái ngã to bự, cái sự lý ái thủ bám víu, ngồi đó đợi người khác cung phụng nể nang rồi khi nhắm mắt hy vọng màu cờ phủ lên áo quan kèm theo hai hàng đoàn sinh thắp nến, cầm hoa đứng hai bên đường với gương mặt eo xèo nhớ tiếc mình!

Đã vậy, “cái ngữ” ấy còn xỏ xiên rằng tôi là cư sĩ nỗi gì. Chẳng qua tôi đang tu Tiên, chẳng phải tu Thiền, tu Mật hay tu Tịnh độ. Tôi đang luyện linh đơn để “trường sinh bất lão” bằng nguyên liệu là danh vọng, tiền bạc, mê đắm tham sân được chưng nấu trên ngọn lửa bản ngã bỉ thử to đùng, chẳng chịu hiểu câu “Hồi đầu thị ngạn”, là còn “dục ái trụ địa phiền não” nên tâm ý giờ mới còn mãi với “vô minh trụ địa phiền não” nên nhìn qua thì thấy tôi “bảnh chọe” thật nhưng xét kỹ thì tôi “chẳng giống ai” rồi cả đời khổ cứ khổ mới chết chứ!

“Cái ngữ” ấy “ăn được, nói được”, nói chung là “không chơi được” hà cớ gì mình mời về nhà ăn chung bữa cơm chay! Có lẽ, kể từ hôm nay, thấy mặt là ghét! Nhưng xét nghĩ, không có “cái ngữ” ấy không được. Lời nói ấy thế mà đúng, nghe ra nóng bừng cả tai, tái mét cả mặt, sự thật mất lòng, vì bấy lâu nay có ai dám nói thẳng trước mặt mình đâu! Đúng là đường vinh quang nào chẳng chông gai bầm giập.

Nhạc sĩ Phạm Duy có câu hát rằng “Đố ai nằm ngủ không mơ?”. Tôi đã từng mơ, mơ thấy mình ăn chay thật là ngon chỉ với tương chao ngô bí mà lòng thấy nhẹ nhàng, không ngụy mị, không dối trá với chính mình, không lầm lẫn giữa cái tâm và cái thân ngũ uẩn tứ đại. Dẫu biết, ăn chay đối với người Phật tử không phải là một sự hiếu kỳ, một sự hiếu danh, một cách đổi món ăn cho ngon miệng, một cách kiêng cữ theo lời dặn của bác sĩ (Phật học phổ thông - HT.Thích Thiện Hoa).

Đêm mằm mộng, thấy như thật. Tôi là ai? Tôi loạng choạng nơi cõi vô vi trống rỗng tịch diệt, không nhà không cửa, không tiền không danh, không con không vợ, không đến không đi, không buồn không vui, không tức cảnh sinh tình… nhưng thế mà sướng, chẳng lôi thôi giữa vòng u minh sinh tử! Ừ thì tỉnh dậy mau để làm người trong cõi Ta-bà này, chấp nhận đối diện với hiện trường thực tế, cố gắng phủi tay quên bớt sự đời để Chủ nhật tới chở vợ con thong dong phố phường nhìn cười thiên hạ cứ bon chen và để tỉ tê ly cà-phê “chánh mạng” cùng các bạn hiền bên hiên nhà mơ màng nhìn làn mưa chiều lâm thâm khoái trá.
Thục Độ

Nét Chữ Của Mẹ Tôi

Nét Chữ Của Mẹ Tôi

Đăng lúc: 20:49 - 10/07/2015

Mẹ tôi xuất thân làm nghề ruộng, từ nhỏ đã rành sáu câu việc cấy gặt hơn là thuê thùa may vá. Tản cư tránh bom đạn, mẹ đã nhiều lần bồng bế tôi về quê ngoại, chứng kiến công việc của mấy dì tôi thấy hình bóng chính người mẹ tần tảo của mình ngày trước trên đồng lúa. Cắm cúi với đồng lúa, mẹ học hành đâu có mấy chữ cỡ vỡ lòng hay lớp 1, 2 bây giờ thôi. Ở chợ bán buôn lặt vặt xôi chè đẵm đổi, cân đường, ký đậu mẹ nhẩm tính rất lâu, ăn nói thì vụng về, ti vi cũng không xem được vì mắt yếu bẩm sinh. Vậy đó, mẹ quê mùa giữa chợ đời, thua thiệt.


Tôi siêng học lắm, và đấy hầu như là thú vui duy nhất của một trẻ nghèo. Nhà lá dột nát mà tủ sách hàng top trong thị trấn, đủ sách đông tây kim cổ mua từ tiền mò cua bắt cá, nhiều lần tủ bị tạt nước mưa, phơi sách trên chiếu ngoài sân đầy một khoảnh!

Nhưng mẹ tôi không biết xem sách, và đọc – khi cần, như giấy tờ hành chính- chật vật lắm, đánh vần từng chữ cái một theo cách xưa- nên tôi tôi không thể sẻ chai với mẹ tinh hoa văn hóa từ những trang sách, dù rất muốn. Điều ấy sau này có điều kiện tôi đã làm theo cách khác: mua thật nhiều đĩa VCD theo lớp lang nhất định để cho mẹ xem dần, hàng ngày, như học “hàm thụ” vậy: Tây Thi, Lưu Bình – Dương Lễ, Phạm Công Cúc Hoa, Bên cầu dệt lụa, Thoại Khanh Châu Tuấn.. Mấy trăm đĩa, và mẹ hạnh phúc theo cách có thể thấy được: người nói nhiều hơn, trong bữa cơm hay lúc rảnh việc, về các nhân vật trong tuồng tích cổ với lời bình phẩm, cảm xúc. Đấy, mẹ tôi học “bổ túc” như thế đấy.

Đời học sinh của tôi ngay cấp II đã nếm mùi vị hạnh phúc: liên tiếp đạt giải học sinh giỏi. Khi lên tỉnh tập trung luyện thi vòng toàn quốc, tôi xúc động nghĩ nhiều về người mẹ vụng về của mình. Trong quyển vở trắng tinh được thưởng, hàng viện trợ của Unicef, tôi cẩn trọng xin vài chữ lưu niệm từ thầy cô, bạn bè. Ở trang đầu tiên, tôi giành cho mẹ. Mẹ xúc động, lúng túng mãi, cây viết trật vuột trong tay, ngoằn nghèo trên trang giấy trắng. Tôi ..đã đọc cho mẹ mình viết: “Mẹ rất vui, mong con đi xa giữ gìn sức khỏe, đừng lo cho mẹ ở nhà…”. Chỉ có mấy chữ loằng ngoằn mà mẹ viết khá lâu, tôi nhìn trong làn nước mắt nhòe nhoẹt… Đấy là lần đầu tiên mẹ tôi viết. Quyển vở ấy sau bao biến đổi bể dâu, nay không còn nữa, song tôi nhớ rất rõ từng dòng lưu bút của thầy cô bạn bè, trước nhất là nét bút của mẹ mình.

Mẹ viết như thế, mấy chữ đã khó khăn, vậy mà Người nâng bước cho tôi vào đời, mua gánh bán bưng cho tôi có khoảng trống mà học hành, đọc nghìn vạn chữ. Bây giờ tôi gõ máy tính như nghệ sỹ dương cầm, có thể viết thẳng suy nghĩ của mình rất nhanh, gửi đi cộng tác các báo, chính là khởi đầu từ nét bút vụng về của mẹ. Mẹ tôi không viết bằng mực trên giấy- ngoài lần duy nhất như đã kể qua- mẹ viết bằng mồ hôi, ý chí trên chính cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn nắng gió.

Mẹ già rồi, trên bảy mươi, dáng còng, giấc ngủ nhọc nhằn. Người chỉ viết có một lần trong đời, theo lời đọc của con mình, mấy mươi năm trước. Mẹ ơi!

Nguyễn Thành Công

Tùy lúc lễ lạy

Tùy lúc lễ lạy

Đăng lúc: 20:40 - 22/06/2015

Ngoài tâm cung kính, muốn đảnh lễ chư Tăng, cần phải hợp thời, tùy lúc chứ không nên tùy tiện.
Lễ bái là một pháp tu phổ biến trong đạo Phật. Thường thì chúng ta lễ Phật, các vị Bồ-tát, chư vị Tổ sư để thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn, nguyện học tập theo công hạnh của các Ngài, nhất là để dẹp trừ bản ngã nhằm tiến tu đạo nghiệp.

Không chỉ lễ Phật, Bồ-tát và chư vị Tổ sư, người đệ tử Phật còn đảnh lễ chư Tăng, những bậc thầy hiện thế đang hướng đạo, giúp chúng ta hướng thiện, khai tâm mở trí cho chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Một số nơi, các Tỳ-kheo trẻ đảnh lễ chư vị Trưởng lão hay các Phật tử kính lễ chư Tăng mỗi ngày để cầu học, để được giáo huấn, để dẹp trừ ngã mạn và tăng trưởng phước báo.
Tuy vậy, sự lễ lạy không nên tùy tiện mà cần biết rõ phép tắc, lúc nào nên và lúc nào thì không nên. Lễ lạy vào những lúc không nên sẽ gây ra sự lúng túng, đánh mất nét tôn nghiêm cần có của việc lễ lạy. Đức Phật dạy có năm lúc không nên lễ người. Đó là “ở trong tháp không nên làm lễ, ở trong đại chúng không nên làm lễ, lại ở đường đi không nên làm lễ, đau bệnh nằm trên giường không nên làm lễ, nếu lúc ăn uống không nên làm lễ”.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có năm lúc không nên lễ người. Thế nào là năm? Nếu ở trong tháp (thâu-bà) không nên làm lễ, ở trong đại chúng không nên làm lễ, lại ở đường đi không nên làm lễ, đau bệnh nằm trên giường không nên làm lễ, nếu lúc ăn uống không nên làm lễ. Ðó là, này các Tỳ-kheo, có năm việc không nên làm lễ với người.
Lại có năm việc biết thời làm lễ. Thế nào là năm? Không ở trong tháp, không ở trong đại chúng, không ở trên đường đi, không bị đau bệnh, lại không phải lúc ăn uống. Ðây nên làm lễ. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tạo phương tiện biết lúc mà hành.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Tà tư,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.364)

Như vậy, ngoài tâm cung kính, muốn đảnh lễ chư Tăng, cần phải hợp thời, tùy lúc chứ không nên tùy tiện. Ở đây, sự trang nghiêm của người được kính lễ là yếu tố cần thiết. Người kính lễ và người được kính lễ cần tuân thủ lời Phật dạy để tránh gây ra sự bất tiện đồng thời khiến cả hai đều được phước. Trong “năm lúc không nên lễ người” mà Thế Tôn đã dạy, có một yếu tố đáng chú ý là “lúc ăn uống không nên làm lễ”.
Trong mùa an cư kiết hạ của chư Tăng, các Phật tử thường cúng dường trai phạn hoặc trai tăng. Dĩ nhiên, Phật tử phát tâm cúng dường cần dâng lời tác bạch và tham dự lễ cúng quá đường. Nhưng một số nơi, sau khi cúng quá đường xong, lúc chư Tăng đang thọ trai, các Phật tử vẫn tiếp tục lên trước bàn hương án ở trai đường hay đến trực tiếp các bàn ăn của chư Tăng để lễ bái. Rõ ràng, theo lời Phật dạy, việc lễ bái này là không phải lúc.
Đành rằng chúng ta luôn đề cao tinh thần tùy duyên và tùy thuận. Tuy nhiên nếu tùy thuận mà không chỉ rõ phép tắc lễ lạy để hàng Phật tử thực hành đúng lời Phật dạy thì sự tùy thuận này cần được xem xét lại để điều chỉnh. Thiết nghĩ, nếu chưa có phép tắc thì mọi việc có thể tùy duyên, còn những việc gì Thế Tôn đã thiết định, đã có phép tắc thì cần y pháp mà hành trì.
Quảng Tánh

Năm Tháng Không Đợi Đừng Hẹn Ngày Mai

Năm Tháng Không Đợi Đừng Hẹn Ngày Mai

Đăng lúc: 20:59 - 21/06/2015

Trên con đường tu hành, việc niệm Phật là một việc vừa cần thiết, vừa cấp bách. Hễ gặp dịp tu là tu liền, gặp dịp niệm được là niệm ngay, chớ nên chần chờ để cho thời gian luống trôi qua một cách vô ích.



Phật dạy mạng người ở trong một hơi thở, thở ra mà không thở vào nữa là đời tàn! Bất luận lúc nào, giờ phút nào, con người cũng có thể chết được, không một ai có đủ tài năng bảo đảm đời sống vững chắc lâu dài. Thế gian có câu ca rằng: “Đời người khác thể bóng câu, sớm còn tối mất biết đâu mà lường”.

Sự thật đơn giản và phũ phàng ấy, từ Thánh nhân cho đến thế tục, không ai là không xác nhận. Sinh hữu hạn, tử vô kỳ, cho nên muốn kịp thời đối phó với cái chết bất thần, ta không nên để lỡ một thời gian nào trôi qua mà không tu niệm. Bất cứ lúc nào tu được, niệm được thì phải gấp rút và tinh tấn hành trì; có thế lúc lâm chung mới tránh khỏi cảnh hoang mang tay quàng chân rối, lúng túng chẳng biết về đâu!

Có một số thường nghĩ sai lầm rằng tay chân còn tráng kiện, đời sống còn dài, việc tu niệm xin để gác lại, đợi khi nào già yếu sẽ bắt đầu hạ thủ công phu cũng không muộn gì. Trong sự tu niệm bằng cách sắp đặt tính toán như trên thường hay đưa đến hỏng việc.

Ngày xưa, có người đến nhà bạn là Trương tổ Lưu khuyên niệm Phật. Trương nghe theo, nhưng xin khất lại một ngày khác vì có ba việc chưa làm xong: một là cha mẹ đang còn cần phải lo phụng dưỡng, hai là con cái chưa dựng gả xong, ba là việc nhà chưa thu xếp gọn. Trương hẹn khi nào làm xong ba việc ấy, sẽ hạ thủ công phu, nhất tâm niệm Phật. Sau khi cáo ra về được vài ba tháng, người kia trở lui thăm với chủ ý khiến ông bạn đừng nên chần chờ nữa, nhưng than ôi! Khi đến mới biết rằng bạn đã là người thiên cổ! Bèn ngậm ngùi than thở và làm một bài thơ điếu rằng:

“Ngô hữu danh vi Trương tổ Lưu,
Khuyến y niệm Phật thuyết tam điều,
Khước hận Diêm công vô phân hiểu,
Tam điều vị liễu tiện lai câu.”

Tạm dịch là:

“Ông bạn tôi tên Trương tổ Lưu,
Tôi khuyên niệm Phật hẹn ba điều,
Diêm vương ác hại không thèm hiểu,
Ba việc chưa xong vội bắt liều.”

Người đời dù quyền cao chức trọng đến đâu, vẫn không thể bảo đảm cho tương lai đời mình một cách chắc chắn được. Trường hợp như Trương tổ Lưu trên đây không phải là hiếm, vì thế nếu đã có chí tu hành thì tâm phải cho quyết và phải biết lợi dụng thời gian mới khỏi để ân hận về sau. Vậy, lúc nào tu được là nên tu liền, phút nào niệm được là phải niệm ngay.
Trích PHÁP MÔN TỊNH ÐỘ
Hòa Thượng Thích Trí Thủ biên tập

An tâm như thế nào?

An tâm như thế nào?

Đăng lúc: 21:28 - 19/06/2015

Trong Thiền tông có một câu chuyện đối thoại giữa Tổ Bồ Đề Đạt Ma và đệ tử thiền sư Huệ Khả.



Thiền sư Huệ Khả cảm thấy trong tâm có rất nhiều vấn đề, nên muốn Tổ giúp đỡ mình an tâm. Vì thế, Tổ hỏi Thiền sư: “Tâm con ở đâu? Con hãy đem tâm bất an ra cho thầy xem thử!”. Kết quả, Thiền sư không tìm được tâm mình. Lúc đó, Tổ Bồ Đề Đạt Ma bảo: “Thầy đã an tâm cho con rồi”.

Nguyên nhân nội tâm con người bất an, rốt cuộc là không phải ở bên ngoài mà do tâm ganh tỵ, tâm lo lắng, tâm sân hận, tâm tức giận, tâm tham... gây mâu thuẫn xung đột. Sự xung đột này bao gồm giữa mình với mình, hoặc mình với người khác, có thể là thật mà cũng có thể là tưởng tượng.

Như tâm ganh tỵ, có lúc chúng ta nhìn thấy người khác thành công, trong tâm rất khó chịu. Đúng ra, người khác thể hiện sự thành công, chúng ta phải vui mừng, khen ngợi, chia vui cùng họ; vả lại, sự thành công của họ làm cho chúng ta được thơm lây, thậm chí có cơ hội học theo. Thay vì ganh tỵ với người khác, chi bằng tìm hiểu nguyên nhân nào họ có thể thành công; đồng thời, hãy xem xét lại mình làm thế nào mới có thể tài giỏi giống như họ. Nhưng có lúc người khác làm được mà chúng ta cố gắng hết sức mình vẫn không làm được; lúc đó, chúng ta hãy nghĩ lại nhân duyên, phước báo của mình chưa đủ, cần phải nỗ lực thêm. Sau đó, cố gắng vun trồng nhân duyên, phước đức thì tất nhiên sẽ thành tựu.

Sở dĩ, người khác được thành công là vì họ phải trải qua nỗ lực vất vả; cho dù trong đời này họ không cực nhọc, nhưng đời quá khứ họ cũng từng tích lũy. Có người nhìn thấy người khác giàu sang, có địa vị danh vọng cảm thấy không khâm phục, cho rằng mình suốt đời làm lụng cực khổ mà vẫn thiếu trước hụt sau, cũng không có hạnh phúc. Lúc đó, chúng ta hãy nghĩ lại, người khác được giàu sang, hạnh phúc là kết quả từ đời quá khứ đã nỗ lực tu tập, chúng ta không ngưỡng mộ họ, cũng không nên ganh tỵ.

Ngoài ra, tâm tham cũng là nguyên nhân làm cho tâm con người bất an, người sống biết đủ không gọi là tham, người không biết đủ luôn tìm cầu gọi là tham. Người tham không biết chán là điều rất đau khổ, thật ra người biết đủ tất sẽ được đầy đủ. Chúng ta không cần suy nghĩ tìm mọi cách để đi tranh giành với người khác, chỉ cần nỗ lực làm việc thì tất nhiên sẽ được đơm hoa kết trái. Nếu như thành quả chưa xuất hiện là chứng tỏ nhân duyên chưa thành thục, chúng ta cũng không nên buồn vì việc này. Nếu suy nghĩ như thế sẽ tiêu trừ nhân tham sinh ra đau khổ.

Trên thực tế, tâm bất an chủ yếu là tự mình làm khổ mình, tự chuốc phiền não. Khi chúng ta cảm thấy bất an, trước phải hiểu rõ vì sao mình bất an? Sau khi tìm hiểu nguyên nhân thì thấy rất nhiều phiền não mà chúng ta cũng không cần bận tâm. Như chúng ta đi thi, sau khi thi xong, có người hàng ngày trông chờ kết quả, trong tâm lúc nào cũng hồi hộp lo lắng, không biết mình có thi đậu không? Thi đậu rồi học ở đâu? Nếu như lúc đó chúng ta suy nghĩ: “Dù sao mình cũng đã thi xong, có lo lắng như thế cũng chẳng giải quyết được gì; còn sau khi đậu học ở đâu, đến lúc đó sẽ tính, hiện tại có lo lắng cũng vô ích, cần gì tự mình chuốc lấy phiền não?”. Nếu nghĩ như thế thì tâm an liền, cảm thấy mình suy nghĩ lung tung thật vô duyên.

Cho nên, khi tâm chúng ta bất an thì hãy nghĩ lại, tự hỏi mình nguyên nhân bất an là gì? Do mình suy nghĩ quá nhiều, thực ra chẳng có việc gì đáng làm cho chúng ta phiền não và buồn rầu. Khi phản tỉnh như thế thì tâm chúng ta sẽ an ổn.

Ngoài ra, khi bất an, cũng có thể niệm danh hiệu Phật A Di Đà, hay Bồ-tát Quán Thế Âm. Nếu chuyên tâm niệm Phật, sẽ không còn nghĩ những vấn đề phiền não, tất nhiên từ từ tâm sẽ an lạc.

HT. Thánh Nghiêm

bizmac thumb 23434

Bao dung là tiền đề để hiểu nhau

Đăng lúc: 19:55 - 13/05/2015

Thông thường ai cũng cho rằng, giao tiếp là phải để đối phương chấp nhận mình mà quên việc mình phải thông cảm, tìm hiểu yêu cầu thực sự của người khác với mình. Ví dụ có người muốn tìm hiểu, giao tiếp với người khác nói: “Tôi đã đặt mình vào vị trí bạn để nghĩ cho bạn vì thế nhất định bạn phải chấp nhận yêu cầu của tôi”, rồi người đó hỏi “bạn có thấy khó chấp nhận không?” Nếu đối phương cảm thấy khó chấp nhận, người đó hỏi tiếp “đơn giản thôi, chỉ cần bạn nghe theo lời đề nghị của tôi, tất cả khó khăn đều sẽ giải quyết suôn sẻ”.Có thể xem đây là mẫu giao tiếp đến từ một phía, hoàn toàn không phải là hiểu nhau. Giao tiếp thực sự đòi hỏi bạn phải tìm hiểu đối phương có khó khản gì, cần giúp đỡ không, sau đó bạn cố gắng giúp trong khả năng có thể, không nên chỉ biết một mực yêu cầu người khác chấp nhận cách làm của mình.Trong thời gian du học ở Nhật, tôi phát hiện ra rằng đến bất cứ một cửa hiệu nào, nhân viên phục vụ đều hỏi câu “Xin hỏi, quý khách có cần giúp đỡ gì không ạ?”. Trong giao tiếp, chúng ta nên lấy việc hiểu biết nhau làm chuẩn mực. Khi giúp đỡ người khác, không nên làm theo cách mình định sẵn trước rồi áp đặt, bắt buộc đối phương phải nghe theo. Ví dụ, khi ta mở tiệc mời khách thường không hỏi đến khẩu vị khách mời mà cứ có khách ngồi vào bàn là liên tục gắp thức ăn cho họ khiến khách ăn không được, bỏ không xong, rất lúng túng khó chịu ở các nước phương Tây không như thế. Có lần có khách đến nhà tôi chơi, tôi gắp thức ăn cho họ, họ vô cùng vui mừng nói: “Thầy biết tôi thích ăn món này hả?”. Từ đó, trước khi gắp thức ăn cho ai, tôi đều hỏi khẩu vị người đó trước.Từ đó, chúng ta có thể đúc kết thành nguyên tắc trong giao tiếp: “Trước hết hãy để đối phương nêu cách nghĩ và nhu cầu của họ, sau đó cho họ biết mình có thể giúp được gì cho những nhu cầu của họ không, như thế mới là một giao tiếp thành công”.Giao tiếp là quá trình giao lưu, tìm hiểu lẫn nhau từ cả hai phía, nếu chỉ đến từ một phía nhất định đấy không phải là giao tiếp thành công đích thực. Trong Phật pháp có nêu biện pháp tiếp cận mọi người gọi là “tứ nhiếp pháp”1 gồm: Đồng sự, bố thí, lợi hành và ái ngữ. Đây là bốn phương pháp rất quan trọng trong việc tiếp cận cảm hóa mọi người.Một người xuất gia muốn gần gũi, cảm hóa chúng sinh tuyệt đối không được ép người khác phải học và làm theo Phật pháp mà trước tiên hãy để họ thực sự hiểu và chấp nhận trước. Muốn hóa độ chúng sinh, điều trước tiên bạn phải chấp nhận chúng sinh.Theo Phật giáo, đệ tử Phật hoặc những người thực hành hạnh Bồ-tát không thể lìa xa chúng sinh để tu tập được. Vì lời nguyện đầu tiên của một người thực hành hạnh Bồ-tát là “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” (chúng sinh vô lượng thề cứu hết). Lìa xa chúng sinh để cầu độ sinh là điều không tưởng; nhất định bạn phải phụng sự chúng sinh, mở rộng lòng mình để chấp nhận tất cả lỗi lầm của chúng sinh, giúp họ giải quyết vấn đề trước, sau đó mới mong họ mở rộng lòng mình chấp nhận tu học theo Phật pháp.Thật là sai lầm khi nói với mọi người “Phật pháp nhiệm mầu, mọi người phải tin theo, phải làm theo”, làm thế nghĩa là bạn đang chứng tỏ quyền uy chứ không phải cảm hóa người khác. Nên lấy Phật pháp để cảm hóa, để gõ cửa lương tâm, thức tỉnh tình thương trong con người chứ không nên dùng Phật pháp như công cụ dạy dỗ người khác.Bồ-tát luôn là người đến với chúng sinh bằng thân phận bình thường, hòa mình vào cuộc sống bình thường, thậm chí còn hạ mình thấp để chúng sinh được cao hơn cả chính mình, cho họ một cảm giác được tôn trọng mới mong họ có thiện cảm với Phật pháp. Cũng thế, khi giao tiếp với người khác, bạn cần hạ thấp mình trước đối phương, hãy dành cho đối phương sự tôn trọng, trước hết bạn phải chấp nhận và dung nạp đối phương sau đó đối phương mới chấp nhận và giao tiếp với bạn.

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 26
  • Hôm nay 2,879
  • Tháng hiện tại 60,264
  • Tổng lượt truy cập 23,466,513