Đăng lúc: 15:56 - 27/09/2019
Tối ngày 26/09/2019, Chùa Đức Hậu long trọng tổ chức Lễ Hằng Thuận kết duyên cho hai đôi bạn trẻ: Chú rể Thanh Tùng ( PD Tuệ Quân ) - Cô dâu Hà Phương ( PD Tâm Thu ).
Đăng lúc: 08:45 - 20/08/2018
Nhân mùa Vu Lan PL.2562, ngày 09/07 Mậu Tuất, Ban từ thiện Hạnh Nguyện Cấp Cô Độc thuộc Đạo tràng Hương Sen dưới sự chỉ đạo của Đại đức Thích Định Tuệ đã trao học bổng cho các em học sinh, sinh viên vượt khó học giỏi tại không gian tâm Linh Phúc Thành, Hưng Châu, Hưng Nguyên.
Đăng lúc: 21:39 - 19/08/2018
Sáng nay ngày 09/07 Mậu Tuất (19/08/2018), tại không gian tâm linh Phúc Thành đã diễn ra lễ Vu Lan báo hiếu đầy xúc động với sự hiện diện của hàng trăm người con hiếu hạnh.
Đăng lúc: 18:33 - 29/05/2018
Gần một nghìn người con Phật đã trở về không gian tâm linh chùa Đức Hậu (Nghi Đức, TP Vinh, Nghệ An) tham dự đêm thiền trà kỷ niệm ngày Đản sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni. Đây là cơ hội chúng ta nhìn lại những chất liệu tuệ giác và từ bi ở nơi chính mình để vui mừng, chăm sóc và thăng hoa.
Đăng lúc: 11:10 - 04/06/2017
Tối ngày 2/6/2017 tức ngày 8/5/Đinh Dậu, đêm thắp nến cầu nguyện hương linh thai nhi do Đại Đức Thích Định Tuệ - trụ trì Chùa Phúc Thành, Chùa Đức Hậu tổ chức. Cùng sự tham gia của Chư Tôn Đức Tăng Ni trong và ngoài tỉnh và hàng nghìn phật tử gần xa.
Dưới sự điều hành chương trình của Đại Đức Thích Định Tuệ buổi lễ trở nên linh thiêng huyền diệu hàng ngàn ngọn nến lung linh huyền diệu được thắp lên tại Chùa Đức Hậu, Nghi Đức, tỉnh Nghệ An, sau một ngày các vong hồn được nghe kinh siêu độ của Chư Đại Đức Tăng thiết lập Đàn tràng cầu siêu cho các Thai nhi bất hạnh. Thật cảm động, ngôn ngữ cũng không diễn tả hết được bằng lời cho niềm xúc cảm của những ai tham dự đêm thắp nến cầu nguyện tại đây.. Những lời sám hối của những người làm cha làm mẹ thốt ra trong buổi lễ cầu nguyện khi hàng ngàn ngọn nến được Chư Tôn thiền đức Tăng thắp lên và ngọn đăng được truyền ra khắp Đại chúng có mặt trong đêm nguyện cầu này, tựa như ánh sáng vi diệu của Phật Pháp lan tỏa trong màn đêm u tối, xóa tan hết hắc ám vô minh sau bao đêm trường mờ mịt ở những phương trời vô định để cho những vong hồn có chốn để quay về nương tựa.. bầu không khí như trầm xuống, tất cả mọi người ngồi lặng yên và cảm nhận từng lời nói, tâm tư tình cảm từ tiếng lòng của thai nhi. Những tiếng nấc nghẹn ngào, những giọt nước mắt đã chảy xuống thay cho lời sám hối, ăn năn của các bậc làm cha làm mẹ. Để tháo gỡ và chuyển hóa nỗi khổ niềm đau ấy, hội chúng đã được lắng nghe những lời khai thị của ĐĐ.Thích Định Tuệ. Trên tình thần Nhân Quả của đạo Phật thì việc nạo phá thai là một tội ác, gây nên oan gia nghiệp chướng sâu dày. Nhưng với tâm hối cải, biết phát nguyện chừa bỏ, không tái phạm và thành tâm sám hối thì nghiệp chướng có thể chuyển hóa và mang lại những lợi ích cho cả người sống và người mất. Chính vì vậy , với tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật, pháp hội này còn mang một ý nghĩa là hướng đến cách giáo dục mọi người trong việc ý thức bảo vệ sự sống, tránh đi sự suy giảm đạo đức hiện đang diễn ra trong xã hội hôm nay.
Hi vọng rằng những ánh nến tỏa sáng sẽ tương thông kết nối cảm xúc của người còn sống với người đã mất. Ánh sáng của những ngọn nến sẽ làm tan chảy sự vô cảm ,thờ ơ của những người cha người mẹ, giúp họ nhận ra sai lầm của mình. Ánh nến không chỉ là biểu tượng cho tình yêu thương ấm áp mà nó còn mang thông điệp của sự sống lan tỏa, sẻ chia.
Và cứ thế, những tiếng niệm Phật cứ tiếp nối vang lên trong không gian của ngôi Chùa cùng ánh nến lung linh đến tận cùng sâu thẳm đã để lại trong tâm của mội người một cảm xúc sâu lắng, khó quên.
Sau đây là một số hình ảnh:
Tác giả bài viết: Hồng Nga
Đăng lúc: 22:20 - 11/05/2017
Tối ngày 15/4/ÂL nhằm ngày 10/5/2017 Hòa chung trong không khí đón ngày Phật Đản - PL 2561, trên khắp mọi nẻo đường , vui mừng đón ngày Đức Phật giáng sinh. Để kỷ niệm ngày Đản sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni . Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ long trọng tổ chức Đại Lễ kính mừng Phật Đản với những nội dung chương trình phong phú, bắt đầu từ ngày mồng 6 khai kinh tuần lễ Phật Đản , thắp ngọn Liên Đăng tâm linh tại Chùa Phúc Thành , từ tối mồng 6 chương trình được liên tục diễn ra ở 2 không gian tu tập đến tối 13 chương trình thiền trà kỷ niệm và đêm văn nghệ chào mừng vào đêm 14/4/ÂL được diễn ra với nhiều nội dung phong phú và tối hôm nay Đại Lễ kỷ niệm và nghi thức tăm Phật được long trọng tổ chức tại Chùa Đức Hậu - Nghi Đức - Tp Vinh một cách trang trọng nhất.
.Đại Đức Thích Định Tuệ - trụ trì Chùa Phúc Thành, Chùa Đức Hậu , trưởng BTC Đại Lễ đã long trọng tổ chức Đại lễ Phật Đản , với sự có mặt của Đại Đức Thích Minh Lâm , Đại Đức Thích Tâm Ngọc , Đại Đức Thích Tánh Đại - trụ trì chùa Lam Sơn,Đại Đức Thích Quãng Xuân trụ trì Chùa Đồng Tương cùng các Chư Tôn Đức Tăng Ni trong tỉnh Nghệ với sự tham gia của Ông Nguyễn Văn Long ,Phó ban tôn giáo tỉnh NA và các cấp lãnh đạo ,trong thành phố và hàng tín đồ phật tử cũng dự Đại Lễ trong đêm Đại Lễ tối hôm nay. Đại Đức Thích Định Tuệ thay mặt Chư Tôn Đức cám ơn các Cấp chính quyền ,lãnh đạo đã có những lẵng hoa tươi thắm chúc mừng cho Đại lễ
Sau khi cử hàng nghi lễ truyền thống ,Chư tăng và quý vị đại biểu cùng tín đồ Phật Tử làm lễ tắm Phật rất trang nghiêm
Cuối cùng Chư Tôn Đức, Tăng , và các Phật Tử thả bóng bay cầu cho hòa bình thế giới, quốc thái dân an.
Sau đây là một số hình ảnh:
Tác giả bài viết: Hồng Nga
Đăng lúc: 15:04 - 09/05/2017
Với sự kiện thành đạo của Đức Phật và quá trình truyền bá giáo lý của Ngài đã mang đến cho tất cả chúng sinh niềm tin, sự hiểu biết về giáo lý nhân quả nghiệp báo, duyên khởi...lòng tự hào, nguồn nghị lực luôn tươi mới và bất tận trên con đường tu tập mà Đức đại hùng, đại lực, đại từ bi Thích Ca Mâu Ni Phật đã khởi nguồn và thực chứng. Với sự kiện đó, tối ngày 13/4/ÂL nhằm ngày 8/5/2017 tại Chùa Đức Hậu tổ chức đêm thiền trà kỷ niệm ngày Đức Phật Đản Sanh do Đại Đức Thích Định Tuệ tổ chức cùng Chư Tăng trong tỉnh và gần 500 tín đồ Phật Tử gần xa cũng về tham dự.
Đúng 19h các Phật Tử đã xếp hàng thứ tự lần lượt nhận ly trà và bánh do các Em trong Gia Đình Vườn Tuệ chuyển đến tận tay và đi vào chánh điện , nhẹ nhàng ngồi xuống những tấm thảm được xếp sẵn. Sau 10 phút lắng đọng thân tâm, không gian trong Chánh điện trở nên yên lặng, trang nghiêm và thanh tịnh, thoảng một mùi hương thơm nhẹ của trà và nến , hòa với tấm lòng của Các Em làm cho Người dùng Trà có cảm giác được nâng niu từ thân đến tâm, trong không gian ấm áp đó
không gian trần lặng tiếng nhạc thiền ấn áp du dương là tiếng nói nhẹ nhàng sâu lắng của Đại Đức Thích Định Tuệ hòa với tiếng nhạc đưa đến chúng ta với bài Pháp Thoại nói về kỷ niệm ngày ra đời của một vị Đại Giác Ngộ tại vườn Lâm-Tỳ-Ni. Tương truyền, nơi đây có cây cổ thụ Vô Ưu, ngàn năm hoa mới nở một lần. Nếu hoa nở trái mùa, thì đó chính là lời tiên tri thầm lặng của trời đất báo hiệu sự ra đời của một bậc vĩ nhân, vị ấy sẽmang đến cho nhân loại một làn gió mới, một cuộc sống mới, giúp họ hướng về tâm linh để tự giải thoát mình ra khỏi sự trói buộccủa tham ái dục vọng, Và, hoa Vô Ưu đã nở rộ toả hương thơm ngát cả một vùng không
Đêm nay, để tỏ lòng biết ơn lên đấng Toàn Giác, người đã khai sáng đạo từ bi và trí tuệ để lại chochúng ta một kho tàng giáo lý quý giá. sống sao cho xứng đáng là người Phật tử thuần thành, không phải chỉ trong mùa Lễ Phật Đản mà là cả một cuộc đời của chúng ta, để chúng ta tự giải thoát chúng ta ra khỏi những khổ đau phiền não có một cuộc sống thánh thiện đạo đức, giúp chúng đi vào con đường an lạcvà hạnh phúc ,
Đêm thiền trà kỷ niệm Ngày Đức Phật Thành Đạo đã dần dần kép lại, ấm áp và trang nghiêm; đã để lại kỷ niệm khó quên trong tín đồ Phật Tử .
Sau đây là một số hình ảnh:
Tác giả bài viết: Hồng Nga
Từ khóa: tối ngày
Đăng lúc: 22:35 - 30/03/2017
1- Cần thiết cho người tu thiền:
Người tu Tịnh độ để vãng sinh Cực lạc, thì việc hiểu vọng tưởng là gì có lẽ không cần thiết lắm. Bởi chỉ cần tín, hạnh, nguyện đầy đủ thì được vãng sinh. Hạnh thì một câu lục tự Di-đà niệm cho đến khi được nhất tâm bất loạn. Chỉ cần cho được nhất tâm bất loạn, không cần biết vọng tưởng là gì. Người tham thoại đầu, chắc cũng không cần biết rõ về vọng tưởng, chỉ cần đề khởi một câu thoại đầu cho đến khi tâm như thùng sơn lủng đáy. Với người tu thiền, lại là thiền “Biết vọng không theo” hay “Biết có chân tâm” thì việc biết rõ cái gì là vọng để không theo, có lẽ là khá cần thiết. Nó giúp ích cho việc tu học của hành giả không nhỏ. Đó là lý do thứ nhất triển khai bài viết này.
2- Thiền phái Trúc Lâm là phái thiền nhập thế
Là một thiền phái nhập thế thì việc tiếp duyên không thể tránh khỏi. Phật tử thuộc thiền phái Trúc Lâm thì gần như thời gian chính là dành cho công việc xã hội, giao tiếp nhiều. Cho nên, biết rõ về vọng tưởng là việc cần thiết. Để ngoài những lúc phải tiếp duyên, chúng ta hạn chế bớt các duyên. Biết vọng là gì cũng là phương cách để chúng ta nhận định rõ về những gì chúng ta đang hành xử, thông qua ba thứ thân, khẩu, ý của mình. Đó là lý do thứ hai khiến bài viết được triển khai.
anh nsgn.jpg
Vọng tưởng là gì?
Theo cái nhìn của người đời thì “vọng tưởng” được dùng để chỉ cho những lời nói hay suy nghĩ không đúng sự thật.
Với cái nhìn của Phật học, như Tự điển Phật học đã ghi, thì “Không có thật, gọi là vọng. Do phân biệt sai lầm mà có sự chấp giữ các tướng ở thế gian, gọi là tưởng”. Nghĩa này trùng với nghĩa của “Tưởng tâm sở” mà luận Thành duy thức đã nói: “Tưởng tâm sở, là tính chấp thủ tướng mạo của cảnh và có nghiệp dụng thiết đặt ra các danh ngôn”.
Như vậy nói tổng quát, vọng tưởng được chỉ cho những suy nghĩ, tư tưởng không có chất thật so với thực tế. Thực tế này, có thể được hiểu là hiện thực mà chúng ta đang sống đây. Vọng tưởng trong trường hợp này là những gì không có trong đời, như lông rùa, sừng thỏ. Cũng có thể hiểu thực tế là bờ mé chân thật tối cùng, chính là tâm chân như, cội gốc chân thật của tất cả pháp. Tâm này là sở y (tánh) của tất cả pháp. Không có pháp nào có cội gốc riêng. Như ngủ mê rồi mộng mà thấy tướng các cảnh giới, thực chất thì các cảnh giới ấy không có, chỉ là tâm, do vô minh bất giác mà khởi. Với nghĩa này, nói vọng là do đối với chân mà nói. Mọi hiện khởi hiện lên trong tâm, dù đúng dù sai đều gọi là “vọng”.
Do vô minh bất giác mà khởi, không phải chân nên nói “vọng”.
Do chấp thủ tướng cảnh giới mà nảy sinh suy nghĩ, tư tưởng, cảm xúc… nên nói “tưởng”.
Tưởng này do duyên mà thành, không có chất thật, nên nói “vọng tưởng”.
Phân loại vọng tưởng
Trong kinh Lăng-già, Phật phân vọng tưởng ra thành 12 loại.
1- Ngôn thuyết vọng tưởng
Ngôn thuyết vọng tưởng, là chỉ cho “các thứ âm thanh ca vịnh vui đẹp chấp trước”. Cũng chỉ luôn cho loại ngôn thuyết nói năng của người đời. Nói “ngôn thuyết vọng tưởng” vì do vọng tưởng mà khởi ra ngôn thuyết. Vọng tưởng là những gì đã được huân tập và lưu giữ trong tâm. Vọng tưởng vốn không thật. Các thứ âm thanh ngôn thuyết cũng không thật. Vì nó chỉ là pháp duyên hợp. Như Phật nói với Bồ-tát Đại Huệ “Do đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, nướu răng hòa hợp mà phát ra âm thanh”1. Các duyên nếu thiếu, ngôn thuyết không thể thành hình. Nên nói hư vọng.
Nhân của ngôn thuyết chính là dòng vọng tưởng tương tục khởi lên trong tâm. Cho nên, người không nói, chưa chắc vọng tưởng không có, nhưng người nói nhiều thì nhất định vọng tưởng phải nhiều, lực của dòng vọng tưởng phải mạnh. Giờ muốn không quả thì phải trừ nhân. Vì thế, muốn dừng được loại Ngôn thuyết vọng tưởng này thì hoặc là dòng vọng niệm phải dứt, hoặc là phải làm chủ được dòng vọng niệm của mình.
2- Sở thuyết sự vọng tưởng
Sở thuyết sự, là chỉ cho những gì được phát sinh từ Thánh trí, như lời kinh, tiếng kệ, pháp ngữ v.v… Kinh nói: “Nói ra là chỗ Thánh trí biết, y đó mà sinh ngôn thuyết vọng tưởng, nên gọi là Sở thuyết sự vọng tưởng”.
Lời kinh, tiếng kệ v.v… mà gọi là vọng tưởng, vì chúng chỉ là pháp dẫn đạo. Ứng duyên thì hiện. Hết duyên thì không. Như lớp học ồn, cần tiếng hét của giáo viên. Tiếng hét tuy làm dịu được tiếng ồn, nhưng cũng vẫn là tiếng ồn đối với khoảng không thinh lặng, chưa phải là chỗ thinh lặng thật sự. Đó chỉ mới là ngón tay chỉ mặt trăng, chưa phải chính mặt trăng. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Chỗ Thánh trí hiển bày phải ngộ nhập, nếu không thể nhân ngón tay mà thấy mặt trăng thì chỗ hiển bày biến thành cảnh giới giác tưởng”2. Cho nên, dù từ Thánh trí lưu xuất, nhưng nếu cho cái “Sở thuyết sự” ấy là chỗ chân thật, thì cái chân thật ấy liền biến thành cảnh giới giác tưởng, chẳng thể tỏ tường mọi thứ. Vì thế, Hương Nghiêm Trí Nhàn, thông suốt kinh luận, hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, được mệnh danh là Thích Ca thứ hai, vẫn không thể nào trả lời được câu hỏi của ngài Quy Sơn: “Thử nói một câu, trước khi cha mẹ chưa sinh là thế nào?”. Bởi ngón tay không phải là mặt trăng. Nương ngón tay để thấy mặt trăng. Nếu không biết, lấy ngón tay làm mặt trăng thì không thể nào thấy được mặt trăng. Làm thế nào để trả lời khi hỏi về mặt trăng?
Đức Sơn, khi chưa gặp Sùng Tín, là một người rất tự hào về tài học của mình. Đã từng nói với kẻ đồng môn: “Một sợi lông nuốt cả bể cả, tánh bể không thiếu. Hạt cải nhỏ ném trên mũi nhọn, mũi nhọn chẳng động. Học cùng chẳng học chỉ có ta biết thôi”3. Thì biết không phải là hạng vừa trong Giáo tông.
Nghe phương Nam, Thiền tông thịnh hành. Sư bất bình nói: “Kẻ xuất gia, muôn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật, còn chưa thể thành Phật. Huống trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Nói rồi liền quảy bộ Thanh long sớ sao, hướng phương Nam mà tới, với tâm nguyện diệt trừ bọn ma phương Nam, đền ơn Phật Tổ.
Đi giữa đường gặp bà lão bán bánh, Đức Sơn dừng lại hỏi mua bánh.
Bà lão hỏi:
- Gói ấy là sách vở gì?
Trả lời:
- Thanh long sớ sao.
Bà lão hỏi:
- Thầy thường giảng kinh gì?
Đức Sơn trả lời:
- Kinh Kim cang.
Bà nói:
- Tôi có một câu hỏi. Nếu thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Nếu không đáp được, mời thầy đi nơi khác.
Đức Sơn gật đầu ưng thuận.
- Kinh Kim cang nói “Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc”. Vậy xin hỏi, Thượng tọa dùng tâm nào để điểm?
Đức Sơn không trả lời được, bèn hỏi đường đi Long Đàm.
Đến pháp đường, gặp Sùng Tín, Sư hỏi:
- Lâu nay nghe danh Long Đàm, đi đến nơi chẳng thấy Đàm mà Long cũng chẳng hiện.
Sùng Tín trả lời:
- Người đã gần đến Long Đàm.
Đức Sơn không đáp được. Ở lại thờ Sùng Tín làm thầy.
Một đêm, Sư đứng hầu. Sùng Tín bảo:
- Đêm khuya sao chẳng xuống?
Sư chào, bước ra, nhưng lại bước trở vào nói:
- Bên ngoài tối đen.
Sùng Tín thắp đèn đưa Sư. Sư toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó, Sư đại ngộ.
Sau khi đại ngộ, mới nhận ra ngàn kinh muôn luận chỉ là ngón tay giúp người nhận mặt trăng, không phải chính mặt trăng. Sư mang bộ Sớ sao chất trước pháp đường mà đốt. Nói: “Tột cùng các biện luận siêu huyền, chỉ như sợi lông trong hư không. Thông sạch các trọng yếu ở đời, chỉ như một giọt nước gieo trong biển cả”.
Cho nên, là kẻ tu thiền, nếu nhầm những kiến giải khởi lên trong tâm, cho là chỗ tâm chứng tột cùng, thì như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, không tránh khỏi lửa táp vào mình. Vì chúng chỉ là một loại Sở thuyết sự vọng tưởng, do ứng duyên mà hiện. Nếu chấp thủ chúng, tức cho chúng là thật thì chúng là nhân dẫn dến phiền não và trở thành một loại sở tri làm chướng ngại Bồ-đề.
3- Tướng vọng tưởng
Tướng vọng tưởng là đối với tướng các pháp mà khởi vọng tưởng. Như thấy đất liền khởi tưởng cứng. Thấy lửa liền khởi tưởng nóng. Nghe nói me liền khởi tưởng chua. Với con người, con vật hay một sự kiện nào đó, khi nhìn thấy chúng mà tâm khởi lên các thứ tưởng có liên quan, thì những liên tưởng đó gọi là Tướng vọng tưởng. Do chấp thủ tướng mà sinh khởi vọng tưởng, nên gọi là Tướng vọng tưởng.
Chấp thủ tướng là, do từng biết đất có tính cứng, nước có tính ướt, lửa có tính nóng v.v… rồi lưu giữ những thấy biết đó trong tạng thức. Khi đối duyên, y tướng đang thấy mà những chấp thủ được lưu giữ trong tạng thức theo đó sinh khởi. Kinh Lăng nghiêm nói “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn” là đây. Là cái thấy biết hiện tại không do đối duyên trực biết, mà do y vào những thấy biết quá khứ để biết. Thấy biết như vậy là gốc của vô minh, cũng là lấy vô minh làm gốc.
Do y tựa vào những gì đã được lưu giữ mà biết, nên nó là pháp duyên khởi. Duyên khởi thì không có chất thật, nên nói “vọng”. Do chấp thủ tướng mà tâm sinh khởi, nên nói “Tướng vọng tưởng”.
Tướng các pháp đều do duyên tạo thành. Duyên thay đổi thì tướng pháp thay đổi. Cho nên các thứ tưởng liên quan đến tướng các pháp tại một thời điểm nào đó chưa hẳn còn chính xác vào thời điểm sau. Như thấy lửa liền liên tưởng đến tính nóng. Nhưng lửa không phải khi nào cũng nóng. Với một hỗn hợp hóa học gồm 60ml cacbondisulfua (CS2) và 40ml tetraclorua cac bon (ccl4), tướng lửa vẫn còn mà tính nóng đã mất. Các nhà hóa học gọi nó là lửa lạnh. Như con người trước khi tu hành và sau khi tu hành có khi thay đổi một trời một vực. Ngài Angulimala, đệ tử của Đức Phật, trước khi đến với Phật là một kẻ sát nhân, sau khi làm đệ tử Phật thì tu quán từ bi, một con vật nhỏ cũng không khởi tâm giết hại. Từ bi quán có lực đến nỗi đủ để Tôn giả hồi hướng cho một phụ nữ sinh nở được bình an4. Cho nên, tướng pháp luôn biến dịch, không phải khi nào cũng cố định để những lưu giữ trong tâm khi nào cũng có giá trị.
Lại, cùng một tướng như nhau mà nhân duyên hình thành nên tướng đó khác nhau thì giá trị các tướng đó cũng không như nhau. Nếu thấy cùng tướng mà cho là giá trị như nhau thì khó tránh được sai lầm.
Khổng Tử, một lần dẫn học trò du thuyết sang Tề, có Nhan Hồi và Tử Lộ đi theo. Cả hai đều là học trò giỏi của Khổng Tử.
Trong thời Đông Chu, dân chúng lầm than đói khổ, thầy trò Khổng Tử cũng không thoát được cảnh đó. May thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử phân Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm. Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.
Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm, rồi cho cơm vào miệng. Chứng kiến cảnh ấy, Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời than: “Chao ôi! Học trò giỏi của ta mà lại đi ăn vụng…”. Sự liên hệ khởi tưởng từ tướng như thế, gọi là Tướng vọng tưởng.
Thật ra, Nhan Hồi không ăn vụng. Chỉ là vì khi giở nắp xem cơm, một cơn gió thổi qua, bụi trần rơi xuống làm bẩn lớp cơm trên. Ông quyết định ăn phần cơm bẩn đó để thầy và các bạn không phải mất thêm phần cơm cho mình.
Khổng Tử, do huân tập cái thấy bình thường của người đời, thấy tướng như thế và cho là đang như thế, nên kết luận Nhan Hồi ăn vụng, mà quên mất mặt nhân duyên của pháp. Là nhân duyên gì khiến tướng đó xuất hiện? Nếu xét nhân duyên thì hiểu Nhan Hồi vẫn xứng đáng là học trò giỏi của mình.
Cho nên, cái Tướng vọng tưởng này, tuy là vọng nhưng không phải dễ phá. Vì những sở tri đã huân tập sâu trong tiềm thức. Một bậc thánh như Khổng Tử, duyên là đệ tử giỏi nhất của mình, mà vẫn không thắng nổi phần sở tri đang mang, khiến khởi cái tưởng sai lầm, thì biết loại Tướng vọng tưởng này rất mạnh ở mỗi người.
Hầu hết chúng sinh đều mắc phải Tướng vọng tưởng này, dù đang là hành giả tu thiền. Sáu căn đối sáu trần, khởi phân biệt, rồi trên phân biệt lại sinh khởi vọng tưởng. Dù không có duyên bên ngoài, thì dòng tương tục bên trong cũng hiện hành liên tục. Niệm này làm duyên cho niệm kia sinh khởi, nối tiếp không ngừng.
Thiền, chính là sáu căn đối sáu trần mà tâm ở trạng thái hiện lượng. Tổ Trúc Lâm nói: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”.
4- Lợi vọng tưởng
Tâm ưa thích tham đắm các loại lợi dưỡng như châu báu, vàng bạc, tiền tài, đất đai… thì gọi là Lợi vọng tưởng. Vọng tưởng này do tài lợi mà xuất hiện, nên gọi là Lợi vọng tưởng. Vì tâm ưa thích tham đắm thuộc tâm, không thuộc cảnh, nên nói “tưởng”. Vì tâm ưa thích tham đắm có thể thay đổi, tức tâm ấy không có chất thật, nên gọi là “vọng”. Như khi chưa tu hành thì ưa thích vòng vàng, hột xoàn. Tu hành rồi thì thích nâu sồng và cháo rau qua ngày.
5- Tự tánh vọng tưởng
Tự tánh vọng tưởng là phân biệt tất cả pháp đều có thể tánh riêng, rồi chấp giữ không bỏ. Kinh nói: “Gìn giữ tự tánh này như thế chẳng đổi khác, gọi là Tự tánh vọng tưởng”. Loại vọng tưởng này xuất hiện do chấp các pháp có tự tánh không thay đổi, nên gọi là Tự tánh vọng tưởng. Các pháp duyên hợp, vốn không tánh cố định, giờ lại cho các pháp có tánh, nên nói “vọng”.
- Cho pháp có tính chất cố định, gọi là Tự tánh vọng tưởng. Như thấy lửa có tính nóng và lấy nóng làm tánh của lửa. Khi lấy nóng làm tánh của lửa cũng có nghĩa là nóng luôn đi kèm với lửa. Có lửa là có nóng. Thực tế thì không như vậy. Như loại lửa lạnh, tuy vẫn có lửa nhưng không còn tính nóng nữa. Cách chấp thủ lửa luôn nóng, được gọi là Tự tánh vọng tưởng.
- Thấy hành vi nhất thời ở một người, rồi lấy hành vi nhất thời đó cho tánh người đó là như vậy, cũng rơi vào loại Tự tánh vọng tưởng nói đây.
Anh là một người đàn ông rộng lượng, tiền bạc đi làm về đều giao hết cho vợ. Nhưng một thời gian sau, thứ mà mọi người thấy được ở anh là anh không giao tiền cho vợ nữa, và bắt đầu tính toán các chi tiêu trong gia đình. Một người không hiểu chuyện đã kết luận anh là người keo bẩn. Thực tế, có chuyện đó là vì người vợ chơi số đề. Tất cả tiền bạc được lấy ra phục vụ cho việc chơi đề. Trong cái duyên như vậy, anh bắt buộc phải nắm tiền bạc và phân bố chi tiêu trong gia đình để tránh tình trạng thất thoát do việc tham đề của vợ sinh ra. Nếu lấy một hiện tượng thấy được trong nhất thời quy kết thành tánh cố định của một người bất chấp nhân duyên, gọi là Tự tánh vọng tưởng.
Nếu có cái nhìn nhân duyên, là biết mọi hình tướng xuất hiện đều có nhân duyên thì chúng ta không vướng vào loại Tự tánh vọng tưởng này.
- Chúng sinh không có tánh cố định, nhưng gắn tánh cố định cho pháp thì gọi là Tự tánh vọng tưởng.
Chúng sinh là một hợp thể có rất nhiều loại chủng tử trong tạng thức. Xấu có, tốt có, không xấu không tốt cũng có. Dù khi còn ở dạng chủng tử trong tạng thức thì nó mang tính vô ký. Nhưng đủ duyên hiện hình thì tốt xấu phân minh.
Chủng tử nào đủ duyên sẽ hiện hành. Đủ duyên, là khi gặp trúng hoàn cảnh, trúng con người v.v… giúp cái chủng đó hiện khởi. Đây là lý do vì sao một người lương thiện vẫn có thể có những hành vi bất thiện. Một kẻ bất thiện có khi vẫn có các hành vi thiện, là do chủng tử ẩn trong tàng thức đủ duyên hiện hành hay chưa. Đó là quy luật hiện hành của tâm. Vấn đề xảy ra là do cái tưởng của mình. Mình hay quy nạp các hiện tướng đang có, rồi lấy các hiện tướng đó làm tánh của các pháp, pháp trở thành luôn là vậy, sai lầm mới xuất hiện.
Cho nên, người tốt với người này không hẳn đã tốt với người kia, người xấu vào lúc này không hẳn đã xấu vào lúc khác, người mình cho là tốt không hẳn đã là người hoàn toàn tốt v.v… Mọi thứ đều tùy duyên. Tùy duyên thì không tánh. Với cái nhìn duyên khởi như thế, chúng ta ít bỡ ngỡ đối với các việc ở thế gian, cũng ít sai lầm khi đánh giá một hiện tượng.
- Chấp thế gian này có thật, rồi đi tìm hạt cơ bản sinh ra thế giới này, tức cho vật chất có cội gốc riêng của nó, cũng thuộc loại Tự tánh vọng tưởng nói đây.
6- Nhân vọng tưởng
Nhân vọng tưởng, là những vọng tưởng có liên quan đến phần nhân duyên. Kinh nói: “Hoặc nhân hoặc duyên phân biệt có không, nên nhân tướng sinh, ấy gọi là nhân vọng tưởng”. Ngài Hàm Thị bàn rằng: “Đối với nhân duyên, khởi phân biệt có nhân tướng, không nhân tướng, nhân này thì duyên này, nhân kia thì duyên kia…”. Nghĩa là, do sự chấp thủ mà cảnh giới vọng tưởng trở thành như thật với chúng sinh. Trên cái như thật ấy lại khởi phân biệt tìm nhân, tìm duyên v.v… khiến vọng tưởng thêm tương tục, sự chấp thủ càng kiên cố.
Nhân duyên hay duyên khởi tuy là thực lý ở thế gian, tức không pháp nào không hình thành và hoại diệt theo duyên, nhưng nếu chấp vào đó cho là thật, thì không thể nào nhận lại được chân thể thanh tịnh. Như mu bàn tay với lòng bàn tay, nếu chỉ nhìn thấy mu bàn tay và cho đó là tất cả bàn tay, thì không còn cơ hội thấy được lòng bàn tay.
Hiện tượng chỉ là mặt biểu hiện của một chân thể thanh tịnh thông qua nhân duyên và nhân quả. Không chấp vào mặt hiện tượng thì mới có khả năng nhận ra mặt chân thể sẵn đủ trong mỗi người. Còn đã chấp vào mặt hiện tượng, tức cho những hiện tướng đó là thật, rồi y đó mà nảy sinh nhân này quả này, nhân kia quả kia v.v… thì rơi vào Nhân vọng tưởng nói đây.
Như hiện nay, nhân duyên nhân quả được ứng dụng khá tốt trong nhiều lãnh vực. Từ trồng trọt, chăn nuôi, pháp luật, giáo dục v.v… Do nắm được mặt nhân duyên này của pháp, nên nảy sinh việc nhân này sẽ cho ra quả này, nhân kia sẽ cho ra quả kia. Thế giới ngày càng phong phú về mặt vật chất thì cũng có nghĩa là vọng tưởng đang trên đà lừng lẫy. Kỹ thuật biến đổi gien trong công nghệ sinh học là một điển hình. Không chỉ dừng ở mặt biến đổi duyên mà phát triển luôn ở mặt biến đổi nhân. Đà phát triển đó chưa biết sẽ đưa nhân loại về đâu với những thứ như sinh sản vô tính v.v…5. Trung luận có phẩm Phá nhân duyên, là phá sự chấp thủ đối với nhân duyên để chúng ta ý thức chấm dứt loại Nhân vọng tưởng này, thể nhập chân thể rốt ráo.
7- Kiến vọng tưởng
Kiến vọng tưởng, chỉ cho những quan điểm rơi vào nhị biên phân biệt. Kinh luận thường đề cập đến Tứ cú “có, không, không có cũng không không, vừa có cũng vừa không” để nói về loại vọng tưởng này. Cho thế giới này là có, như nghiệp thức của chúng sinh. Cho thế giới này là không, như nghiệp thức của kẻ tu loại định vô tưởng... đều là những dạng của Kiến vọng tưởng.
Thô hơn chút là quan điểm sống của chúng ta. Nó được rút ra từ việc quy nạp các kinh nghiệm trong đời sống của mình.
Một người đến đâu, thấy cũng phải có tiền mới được việc ngay cả khi vào chùa, liền hình thành quan niệm “Tiền là tất cả. Chỉ cần có tiền là có tất cả”. Đó là một loại Kiến vọng tưởng, thuộc ác kiến. Sao gọi là ác kiến? Vì nó được hình thành do quy nạp các hiện tượng từ lòng tham của con người, không phát xuất từ lý thật. Một quan niệm như thế sẽ là tiền đề cho các ác nghiệp về sau, nên gọi là ác kiến.
Người có cái nhìn tương ưng với lý thật ở thế gian thì biết phước và trí mới là cái quyết định tất cả. Hình thành nên cái thấy như vậy cũng là một loại Kiến vọng tưởng, nhưng loại vọng tưởng này thuộc thiện kiến. Vì nó tương ưng với lý chân thật, và là tiền đề giúp người hành thiện trong hiện tại và tương lai.
Người nông dân, có cái nhìn của người nông dân. Người tri thức, có cái nhìn của người tri thức v.v... Tất cả đều bắt nguồn từ việc huân tập học hỏi và kinh nghiệm trong quá khứ.
Tất cả đều do huân tập chấp thủ mà có, không có chất thật, không huân tập nữa thì mất, nên nói vọng tưởng.
Hệ quả là…
1- Sản sinh ra nhiều cái thấy khác nhau. Do loại Kiến vọng tưởng này mà trên cùng một hiện tượng, lại có nhiều cái nhìn khác nhau. Người thấy thế này, kẻ thấy thế kia.
Các tự viện hay thiền thất ở Nhật Bản thường có lệ là thiền khách nào muốn qua đêm tại đó thì phải đủ trí thắng được thiền chủ. Trong một thiền thất kia có hai vị, sư huynh là người có trí tuệ, nhưng sư đệ thì căn tánh không được lanh lợi, lại bị chột một mắt. Vì vậy, ông ít khi ra ngoài tiếp khách, chỉ loanh quanh trong bếp trong vườn là chính.
Một lần, sư huynh vừa ra khỏi cửa thì có một thiền khách đến vấn thiền. Lão đệ dù muốn hay không cũng phải tiếp khách. Biết mình không có trí, nên chủ trương dùng tay nói chuyện là chính.
Thiền khách vừa ngồi xuống liền đưa một ngón tay lên.
Sư đệ thấy vậy, đưa lên hai ngón.
Thiền khách liền đưa lên ba ngón.
Sư đệ nắm tay lại đấm vào mặt thiền khách.
Thiền khách lập tức đứng dậy bỏ đi.
Ra đến cổng, thiền khách gặp vị sư huynh. Ông báo là mình đã thua cuộc và không ngớt lời khen vị sư đệ.
Sư huynh hỏi việc, thiền khách trả lời: “Tôi đưa một ngón tay lên, ý nói Đức Phật độc tôn. Sư đệ thầy thấy vậy liền đưa ra hai ngón tay, ý nói ngoài Phật còn có pháp. Tôi liền đưa ba ngón tay, muốn nói ngoài Phật và Pháp còn có hàng đệ tử Phật. Sư đệ thầy thấy vậy liền đấm vào mặt tôi, muốn nói rằng cả ba đều khởi từ nhất thể. Tôi thua nên đứng dậy đi”. Sư huynh nghe xong, bước vào thiền thất.
Vừa vào thiền thất đã thấy sư đệ chạy tới, bực bội: “Lúc nãy có một thầy dở hơi hết sức. Vừa ngồi xuống đã chế giễu việc chột mắt của đệ. Nhưng đệ nhịn, vẫn đưa ra hai ngón tay, ý muốn nói thầy có phước nên đủ hai mắt. Không ngờ thầy ta vẫn không buông tha đệ, đưa ra ba ngón tay muốn nhấn mạnh dù có thầy đi nữa thì cộng lại cũng chỉ mới ba. Đệ tức quá tính đấm vào mặt thầy thì thầy đã đứng dậy bỏ đi”6.
Đồng căn đồng khí thì thấy như nhau. Không đồng căn đồng khí thì thấy khác nhau. Thế gian này trở thành muôn màu muôn vẻ là vậy.
2- Nhìn sự vật không còn đúng như chính nó. Người đời thường nói: “Kẻ mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa”. Chúng ta thường nhìn thế giới qua lăng kính của chính mình, ít nhìn thế giới đúng như chính nó. Kiến vọng tưởng chính là thứ trợ duyên đắc lực cho Tướng vọng tưởng.
Tô Đông Pha là bạn của Thiền sư Phật Ấn. Một lần Tô Đông Pha hỏi Thiền sư Phật Ấn:
- Thầy thấy tôi ngồi thiền thế nào.
Phật Ấn trả lời:
- Như Phật.
Phật Ấn hỏi ngược lại.
- Ông thấy tôi ngồi thiền thế nào?
Tô Đông Pha trả lời:
- Như đống phân bò.
Trả lời xong, hý hửng mang về khoe với em gái mình.
Tô tiểu muội là người am hiểu thiền pháp, lắc đầu trả lời:
- Tâm thầy như tâm Phật thành nhìn anh ngồi như Phật. Tâm anh như đống phân bò nên nhìn thầy ngồi như đống phân bò.
Câu chuyện cho thấy phần Kiến vọng tưởng trong mỗi người ảnh hưởng đến cảnh như thế nào.
3- Quyết định nghiệp mệnh của con người. Kiến vọng tưởng tuy chỉ là một loại vọng tưởng, nhưng nó lại là thứ có thể quyết định hạnh phúc hay đau khổ của một con người khi chưa đạt quả vị thánh. Triết gia Schopenhauer có một ví dụ khá lý thú cho loại Kiến vọng tưởng này. “Một con khỉ nhìn vào gương, không mong gì có một thiên thần nhìn ra”7. Nó nói lên tầm quan trọng của loại Kiến vọng tưởng đối với nghiệp mệnh của một con người.
Vì ý nghiệp là chủ của thân hành và khẩu hành nên khi ta có những tư kiến phù hợp với chân lý, cuộc sống của ta hạnh phúc. Nếu có những tư kiến đi ngược với chân lý, rơi vào tham-sân-si, cuộc sống của ta sẽ đau khổ. Thành ra, muốn chuyển đau khổ thành hạnh phúc thì phải chuyển cho được loại Kiến vọng tưởng này. Tư kiến chưa chuyển thì khó mà nghiệp mệnh chuyển được. Vì thế, trong Bát chánh đạo, chánh kiến đứng đầu. Đó là việc đầu tiên cần trang bị cho hành trình học đạo của một hành giả tu Phật.
Song dù là cái thấy nào, tương hợp hay không tương hợp với chân lý, thì đối với tự tâm thanh tịnh cũng đều là hư vọng, chỉ do chấp cảnh mà hình thành. Vì thế, muốn thể nhập chân tâm thường trụ thì phải dứt sạch tất cả các loại kiến. Trung đạo là con đường duy nhất thể nhập Đại đạo mà ai cũng phải qua. Chỉ khi ấy, chúng ta mới có khả năng nhìn thế giới này đúng như bản chất của nó.
8- Thành vọng tưởng
Kinh nói: “Tưởng ngã và sở tạo thành luận quyết định, ấy gọi là Thành vọng tưởng”. Là muốn nói đến những luận cứ hay học thuyết mang tính quyết định. Ngã là chỉ cho năng tạo. Sở tạo là chỉ cho các học thuyết mang tính quyết định ấy. Đã nói ngã thì luận thuyết ấy thường mang tính chủ quan. Từ cái chủ quan ấy mà tạo ra các học thuyết thì học thuyết ấy không tránh được sai lầm, nên nói “vọng tưởng”. Như Newton, từng cho rằng không gian là một thực thể độc lập, thời gian cũng là một thực thể độc lập. Nhưng hiện nay, với cái nhìn của Einstein, nó không như vậy nữa.
Kinh luận của Phật giáo không mang tính quyết định mà mang tính tùy duyên. Chỉ là ứng cơ mà hiện, như gặp bệnh cho thuốc. Bệnh hết thuốc cũng bỏ. Bệnh này thì thuốc này. Bệnh kia thì thuốc kia. Vì bệnh của chúng sinh vô biên nên kinh luận trở thành vô số. Đều do ứng cơ mà lập. Lập là tùy duyên, không mang tính quyết định. Cho nên trong kinh Lăng-già, Phật nói: “Tất cả pháp chẳng sinh. Bồ-tát chẳng nên lập tông ấy”. Tất cả pháp chẳng sinh là việc mà ba đời Như Lai đều nói đến, nhưng Phật không cho lập tông. Vì đó là lời nói ứng cho kẻ bất giác, không phải ứng cho kẻ giác. Chỉ vì muốn chúng sinh lìa các chấp trước nên nói tất cả pháp không sinh. Nếu lập tông chẳng sinh thì sẽ vọng thấy tướng sinh v.v…8.
Một học thuyết, dù có giá trị phục vụ nhân sinh trong hiện tại, cũng chỉ là pháp tùy duyên. Vì bản chất các pháp ở thế giới này là vậy. Tùy duyên, nên nó có thể mang lại lợi ích cho nhân sinh vào lúc này mà chưa hẳn đã mang lại lợi ích cho nhân sinh vào lúc khác. Hiểu được tính duyên khởi này của pháp thì chúng ta sẽ không có tư tưởng cố định trong việc dùng pháp. Nhưng dù là quyết định hay không quyết định thì bản chất của các luận thuyết đều là hư vọng. Phật pháp nếu chấp trước còn được gọi là Sở thuyết sự vọng tưởng, huống là các học thuyết ở đời mà đôi khi chỉ mang tính giả thuyết.
9- Sinh vọng tưởng
Đây là chỗ chấp của ngoại đạo. Cho là tất cả pháp, có hay không đều là duyên sinh, nhưng duyên có thì hiện, duyên không thì không, không có nhân quả. Cái chấp này là một loại vọng tưởng, vì nó trái với lý thật chi phối thế giới này. Do chấp vào tướng sinh của các pháp mà hình thành, nên nói Sinh vọng tưởng.
10- Bất sinh vọng tưởng
Hàng ngoại đạo này cho rằng “Tất cả tánh vốn không sinh, không có chủng tử nhân duyên, thể sinh là vô nhân”. Ngài Hàm Thị giải thích như vầy: “Tất cả pháp không có nhân sinh, không do duyên khởi, như cò nhất định trắng, quạ nhất định đen, bỗng nhiên mà hiện, không có tánh sinh”. Tức cho pháp nào có tánh nhất định của pháp đó, không có sự thay đổi, không do nhân duyên mà thành. Cái nhìn này, đối với thời đại bây giờ, không phải là cái nhìn chính xác. Bởi thời này, không giải quyết nào không đặt nền tảng trên nhân và duyên. Thứ gì cũng có khả năng thay đổi được. Ngành công nghệ sinh học hiện nay, không chỉ thay đổi duyên để quả được sai khác, mà còn có thể tác động trực tiếp vào nhân để thay đổi quả theo chiều hướng mong muốn của họ.
Luận sâu hơn, nếu không có chủng tử nhân duyên thì do đâu từ cái “vốn không sinh” đó lại có thể sinh ra vô vàn thế giới như hiện nay? Nếu không có nhân duyên thì dựa vào đâu để giải thích sự sai biệt ở loài người cho đến muôn vật trong thế giới này? Và nếu không có sự thay đổi thì phàm phu không thể thành thánh nhân, từ chỗ sinh khởi như hiện nay không thể một lần trở về chỗ “vốn không sinh” để rồi chấp trước vào đó, mà lập thành loại vọng tưởng bất sinh này. Cho nên, sinh hay không sinh là cái thấy tùy duyên, không thể lập tông. Thấy thì không lỗi mà lỗi ở chỗ lập tông. Lập tông thì tướng tùy duyên không thật liền thành chân thật. Nhưng chỗ chân thật thì không thuộc sinh cũng không thuộc bất sinh, lìa tứ cú, tuyệt bách phi.
11- Tương tục vọng tưởng
Kinh nói: “Tương tục vọng tưởng là kia đồng tương tục, như kim với chỉ, ấy gọi là tương tục vọng tưởng”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Tất cả pháp do hòa hợp mà thành. Như không và sắc, như bình và đất với nước. Bởi lệ thuộc bởi nhau mà thành tất cả pháp”. Là nói đến tính duyên khởi của pháp. Do duyên khởi mà có tương tục. Đây là cái nhìn không trái với chân lý. Nhưng nếu chấp vào đó cho là chân lý thì Phật gọi là Tương tục vọng tưởng, là loại vọng tưởng được hình thành do chấp vào mặt tương tục của pháp mà ra. Cái tương tục ấy, chỉ là mặt hiện tượng của một tánh thể không. Chính vì thể ấy không, mới cho phép các pháp theo duyên mà hiển tướng tương tục.
12- Buộc không buộc vọng tưởng
Kinh nói: “Chấp trước nhân duyên buộc cùng không buộc như sĩ phu dùng phương tiện hoặc buộc hoặc mở, ấy gọi là buộc không buộc vọng tưởng”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Có năng buộc thì có sở buộc. Buộc hay mở là do ta. Sức chấp phương tiện mà sinh phân biệt”. Phương tiện lập nên là tùy căn cơ chúng sinh. Có buộc thì mới có giải. Không buộc thì cũng không giải. Tức phương tiện không có chất thật, chỉ tùy duyên mà hiển, hết duyên liền không.
Trong việc tu hành, có hành giả cần đến phương tiện mà có hành giả không cần đến phương tiện. Không cần mà dùng thì liền thành trói buộc. Như Trúc Lâm Đại Đầu Đà hỏi Tuệ Trung thượng sĩ về việc nhẫn nhục và giữ giới. Tuệ Trung thượng sĩ trả lời: “Giữ giới cùng nhẫn nhục, chiêu tội chẳng chiêu phước…”. Không phải ai tu hành cũng đều phải nhẫn nhục và giữ giới. Với người tham sân còn nhiều thì cần phương tiện nhẫn nhục và giữ giới. Nhưng với người mà nhẫn nhục và giữ giới đã thuần, tham sân không cần đối trị nữa, mà cứ duy trì hai pháp đó thì như đi thuyền, muốn lên bờ mà vác thuyền theo, không thể nào lên bờ. Tâm chân thật vô trụ, còn trụ pháp nào thì còn tự buộc mình vào pháp ấy, không thể nhập chỗ vô trụ được. Cho nên đối với phương tiện mà chấp thì Phật gọi là Buộc không buộc vọng tưởng.
Kết luận
Trên đây là 12 loại vọng tưởng được nói trong kinh Lăng-già. Người vô trí không biết nên theo đó mà chấp trước. Kẻ có trí thì hiểu đó mà trừ đoạn. Kinh nói: “Người giác tự tâm hiện chẳng nên ở đó mà khởi tưởng có, không, khác, chẳng khác…”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Mê duyên khởi thì thành Biến kế. Đạt Duyên khởi tức là Viên thành”. Cùng là Y tha khởi, chỉ do mê và ngộ mà thành khác đường. Mê thì thành Biến kế. Ngộ thì hay Viên thành.
Chân Hiền Tâm
_______________
(1) Kinh Lăng-già tâm ấn. Đại sư Hàm Thị trực giải. HT.Thanh Từ dịch và chú.
(2) Kinh Lăng-già tâm ấn. Đại sư Hàm Thị trực giải. HT.Thanh Từ dịch và chú.
(3) Hương Nghiêm Trí Nhàn. Thiền sư Trung Hoa tập II. HT.Thanh Từ soạn dịch.
(4) Kinh Angulimala - kinh Trung bộ tập II.
(5) Francis Fukuyama. Tương lai hậu nhân loại. Hà Hải Châu biên dịch.
(6) Tranh biện để được tạm trú - 101 câu chuyện thiền (Góp nhặt cát đá - Thiền sư Vô Trú). Trần Trúc Lâm Việt dịch.
(7) Schopenhauer. Câu chuyện triết học. Bửu Đích và Trí Hải biên dịch.
(8) Lời trực giải của Đại sư Hàm Thị trong Lăng-già tâm ấn. HT.Thanh Từ dịch và chú.
Đăng lúc: 19:26 - 24/03/2017
Đức Phật nói nhứt thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ, diệc như điển, nghĩa là các pháp hữu vi như chiêm bao, như giọt sương, như làn chớp. Người tu phải quán như thế. Nhiều người hiểu sai ý này. Phải xác định rằng pháp vô vi đối lập với pháp hữu vi. Người hiểu được pháp vô vi mới là người tu thực sự.
tuongphat.jpg
Đức Phật nói nhứt thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ, diệc như điển - Ảnh: Pixabay
Pháp hữu vi là những gì chúng ta nắm bắt được, hiểu được đều nằm trong sanh diệt pháp. Kinh Niết-bàn nói chư hạnh vô thường thị sanh diệt pháp, tức cái gì chúng ta nắm bắt, hiểu được là vô thường, là pháp hữu vi sanh diệt. Nhưng, còn mặt sau phải biết rằng sanh diệt diệt thời tịch diệt vi lạc. Phật dạy lý này để chúng ta chấm dứt sanh diệt mới chứng Vô sanh.
Cũng ý này, Hòa thượng Thiện Hoa dạy rằng sơn cùng thủy tận, hay tuyệt mạng tuyệt thể. Nghĩa là người tu phải đi ngược dốc, lên tận đỉnh núi, hay đi ngược về tận nguồn sông, tức về nguồn chơn tâm.
Trong dòng chảy sinh tử luân hồi, chúng ta từ nguồn chơn tâm theo vọng tưởng điên đảo mà xuất hiện trên cuộc đời này, kinh Hoa nghiêm gọi là vô minh duyên khởi. Thật vậy, từ nguồn nước trong, chúng ta theo vọng tình trôi ra dòng sông mê sẽ dẫn ra biển khổ, đó là con đường mà chúng ta đã trải qua nhiều đời nhiều kiếp luân hồi do mê mờ dẫn chúng ta đến cuộc sống hiện tại khổ đau không có lối thoát gọi là biển khổ, hay địa ngục.
Và trong biển khổ này, chúng ta gặp được Phật pháp ví như con rùa mù gặp bộng cây nổi trên biển cả mà chui vào, là chúng ta nương vào Phật pháp, trở về nguồn thì bớt khổ, cho đến hết khổ. Như vậy là cắt được hữu vi pháp.
Pháp hữu vi sanh từ vô minh, mới khởi lên nghiệp. Nghiệp có thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, Ý nghiệp là chính. Vô minh phát xuất từ ý là tham lam, bực tức, sai lầm dẫn đến quả khổ và từ quả này lại tạo nhân khác khổ hơn. Thí dụ người mới trưởng thành do vô minh sanh nghiệp ái là nghiệp đáng sợ nhất trong tất cả các nghiệp. Chàng trai hay cô gái khởi ái nghiệp dẫn họ vào mê hồn trận, nên nhìn không chính xác. Người Việt thường nói thương thì trái ấu cũng tròn, thiệt nó méo nhưng si mê thấy nó tròn, tốt. Đến khi đeo bám nó, mới thấy nó không còn tốt. Thầy có người bạn, anh này mê cô bán hàng đến trốn học, đứng gốc cây me để ngắm cô ta. Nhưng cưới được cô rồi, anh ta lại nói bây giờ con thấy bả con sợ! Mê thấy khác, tỉnh thấy khác, cứ như vậy mà người ta lún sâu vào vũng bùn nghiệp. Thấy cô gái họ cưới được đáng sợ, nên lại nghĩ đến cô khác rồi mê cô khác, làm gia đình tan nát. Đó là biển khổ mênh mông sóng ngập trời.
Tất cả pháp hữu vi không có gì bền chắc. Chúng ta thấy toàn ảo giác, vì mê nên ta thấy sai, rồi chạy theo nó; nhưng Phật dạy nó không thực bền chắc. Như Ma Đăng Già mê A Nan, dùng bùa để mê hoặc A Nan. Phật dùng thần chú Lăng Nghiêm cứu A Nan. A Nan tỉnh lại, chạy về chùa. Ma Đăng Già đuổi theo, gặp Phật, bảo Phật trả A Nan cho bà. Phật hỏi Ma Đăng Già mê A Nan cái gì. Bà nói ổng có con mắt đẹp quá. Phật dùng thần lực biến mắt A Nan đỏ chảy máu khiến bà thấy khiếp sợ.
Phật thấy sự thật, nói rằng thân người là cái túi da đựng đồ hôi thối. Nhìn bằng tuệ giác thấy chẳng những không có gì bền chắc mà còn gớm ghiếc. Với người mê sắc, Phật dạy ra thi lâm nhìn xác chết mà ghê sợ và đoạn được ái dục. Nghĩa là tu đi ngược về nguồn, chuyển cái thấy si mê thành thấy theo thật trí. Không phải thấy không bền chắc làm chúng ta chán đời, buông bỏ tất cả là sai.
Biết các pháp hữu vi không bền chắc thì hướng suy nghĩ và việc làm của mình theo con đường đúng đắn của Phật. Những gì không bền chắc chúng ta sẵn lòng buông bỏ, vì biết không giữ được, cuối cùng sinh mạng của chúng ta là nghiệp thân cũng phải bỏ. Có thân vì do nghiệp tạo, nhưng ta lại chấp thân là ta, nên phải khổ.
Huệ Tư thiền sư có thân xấu xí, ai cũng ghét và chê ngài. Nếu là phàm phu bị người chê, ghét, thì ức lắm và nói tại nghèo, nên bị khi dể, tại xấu nên bị chê. Ngài Huệ Tư nhận thấy rõ xấu xí, nghèo nàn, ngu dốt là cái nghiệp của mình. Nên ngài nói rằng người ta khinh chê, ghét bỏ là khinh chê, ghét bỏ cái nghiệp của mình, không phải khinh chê, ghét bỏ mình. Nhờ người chê mà biết được nghiệp của mình, từ đó, tu hành phải phá nghiệp, còn chấp nghiệp là mình thì cứ khổ thêm.
Biết nghèo bị khi dể thì cũng biết nghèo là do nghiệp, Phật dạy do nhiều đời gian tham trộm cắp, nên đời này làm gì cũng thất bại. Cải tạo nghiệp này, không gian tham, trộm cắp, mới thoát được cái nghèo. Vì vậy, Phật tử phải tập sống chân thật, nhờ đó lần lần có uy tín. Chính tâm chân thật, không gian tham, trộm cắp, người ta mới chấp nhận hợp tác với mình. Thực tế nhìn tướng, nghe giọng nói, hay thấy nét mặt cũng biết họ tham. Tuy muốn giúp, nhưng sợ cho vô nhà thì họ ăn cắp, thương muốn cho họ vô ở chung, nhưng sợ họ quậy phá. Khắc phục nghiệp này là tập tánh nghèo không tham.
Tướng trung thực, lời nói trung thực, hiền lành, người ta cho vô ở nhà, nhưng biết thân phận không dám vô là kinh Pháp hoa nói gã cùng tử làm công cho trưởng giả vẫn ở am tranh. Riêng thầy, tự biết thân phận nghèo, nên không dám gần ai, vì gần người có nhiều tiền, không khéo họ nghi mình làm thân để nhờ vả, hay ăn cắp. Vì vậy, thời thầy đi tu, giữ kỹ điều này lắm, tức không tới nhà giàu, vì làm thân với người giàu, họ xem thường mình. Phật cũng dạy vị Sa-môn điều này, gần người giàu, họ sợ mình ăn cắp. Trên bước đường tu, tránh gần người giàu, người quyền thế, chỉ lo tu và gạn lọc tâm cho đến tâm và lời nói mình trong sạch thì họ không sợ mình ăn cắp.
Huệ Tư dạy rằng họ chê, hay nói xấu là chê cái nghiệp, nói xấu cái nghiệp của mình. Hiểu như vậy, chúng ta tu, cám ơn người nói xấu ta, cám ơn người hại ta. Ta này là nghiệp và tu hành, biết ta từ chân tánh, hay ta và Phật đồng nhau theo kinh Hoa nghiêm. Tuy nhiên, trên thực tế, ta khác với Phật vì bị vô minh vọng tưởng bao bọc tầm nhìn, khiến mình thấy sai lầm, mới tạo vô số nghiệp ác.
Con người trong sáu đường sinh tử đều do nghiệp tạo. Nếu tạo thiện nghiệp sẽ có thân người tốt đẹp, cuộc sống sung sướng. Và tạo được cùng tột điều thiện sẽ có thân chư Thiên tốt đẹp nhất. Tạo cùng tột việc ác là ác ma. Vì vậy, Phật nói địa ngục hay thiên đường cũng do nghiệp tạo.
Chư hạnh vô thường do nghiệp và nghiệp là ảo. Vì vậy, nghiệp mất là đáng mừng, vì chúng ta cũng muốn bỏ nghiệp. Thi hào Nguyễn Du nói dễ thương rằng đã mang lấy nghiệp vào thân thì đừng trách trời, trách đất.
Mang nghiệp vô thì phải bỏ nghiệp được. Phật dạy xả uẩn, hay xả chấp. Bỏ được, nhưng vì chúng ta không chịu bỏ, sợ khổ, nhưng cứ ôm cái khổ. Bỏ nghiệp hết khổ liền. Thực tế có anh bị vợ bỏ, nếu không biết tu thì thấy khổ; nhưng anh biết tu, thấy nhẹ quá, khỏi lo nữa, được tự do làm công quả. Biết được nghiệp, mình chấp nhận thực tế này sẽ cắt được lòng tham ái, tham dục, hết khổ. Và kế tiếp, cắt luôn tham tài, tham danh. Phải biết nghiệp mình chỗ nào để cắt. Phước đến đâu hưởng đến đó. Theo thầy, Phật tử nên hưởng dưới mức mình có thì càng được an lạc hơn.
Người thương mình, mình thương họ là tình bạn đạo, nhưng mình thương mà họ không thương là nghiệp, là duyên hợp tan mà Phật nói vô thường, không bền chắc, thấy đó rồi mất. Thầy thấy biết bao người bạn mình quý trọng, nhưng nhìn lại không còn ai, đó là vô thường.
Tuy nhiên, nhìn xa trong vô thường có chơn thường là con người thực và thấy điều thực này thì mình và bạn đang hiện hữu trong thế giới tâm linh là Tịch Quang chơn cảnh. Như vậy, thầy mình và bạn mình đang ở thế giới này và khi mình mãn duyên trần sẽ đi vô đây.
Còn mình tiếc thân tứ đại mỗi ngày già yếu, bệnh hoạn, hoàn cảnh khó khăn hơn là khổ chồng chất khổ, nhưng chúng ta theo Phật, sống với chân tánh của chúng ta thì không có tướng già, không có tướng bệnh, không có tướng chết.
Từ kinh Nguyên thủy đến kinh Đại thừa, kinh nào cũng chỉ vô thường sanh diệt để chúng ta hướng đến bất sanh bất diệt là thế giới của Phật, Bồ-tát. Trong kinh Hoa nghiêm, Đức Phật dạy từ khởi thủy đến chung cuộc. Khởi thủy là gì. Người tu đi tìm nguồn gốc coi mình từ đâu tới đây và tương lai chết về đâu.
Tu Hoa nghiêm cứ đi ngược về nhiều kiếp trước để chứng Túc mạng minh. Nhờ đi ngược về quá khứ, mình mới thấy hiện tại. Nói rõ hơn, nếu quá khứ chúng ta trồng căn lành ở Phật pháp, thì hiện tại mới gặp thầy hiền bạn tốt. Vì vậy, thầy tâm đắc câu kinh trong Phổ Hiền hạnh nguyện rằng: “Những người cùng tôi đồng một hạnh. Cầu được sanh chung các cõi nước. Thân khẩu ý nghiệp đều đồng nhau. Tất cả hạnh mầu cùng tu tập…” Đây là thiện tri thức quá khứ của chúng ta tái sanh gặp lại thành bạn tâm giao, hiểu nhau, quý nhau, giúp nhau.
Thầy gặp Hòa thượng Ito. Ông đón thầy và nói rất dễ thương: Xin chào bạn. Hỏi bạn hồi nào. Nói bạn ở hội Linh Sơn. Lúc đó thầy trẻ, còn ông là Hòa thượng lớn tuổi. Như vậy, quý vị có dám nhận là bạn hay không. Bạn này là bạn tâm linh, bạn tâm giao, nên gặp là tự nhiên thương, quý trọng liền. Họ nói gì mình cũng dễ chấp nhận. Đây là thầy, là bạn quá khứ gặp lại, tự quý trọng nhau. Còn người mà mình nói gì, họ liền nói ngược lại. Thầy gặp người như vậy là thầy chấm dứt câu chuyện, không nói nữa. Phật cho biết Đề Bà Đạt Đa nhiều đời trước đã là bạn luôn chống đối Ngài.
Trên bước đường tu, quán chiếu quá khứ để biết hiện tại. Thấy người ghét mình, tự biết đó là oan gia đời trước gặp lại. Thấy người thương mình, tự biết họ đã từng là thiện tri thức đời trước. Thầy thường nói đường đi của mình đến quả vị Phật còn xa, việc làm còn nhiều, nên tránh phiền phức để đi cho nhanh. Không phải là Bà-la-môn mà ở đó tranh cãi. Còn nghe, còn cãi, còn góp ý chi cho khổ.
Nhờ thấy hiện tại mà biết quá khứ, biết ai làm bạn đồng tu, đồng hạnh, đồng nguyện. Ai nghịch hạnh thì tránh. Như vậy, mình tu nhẹ nhàng, không hơn thua tranh cãi, miễn sao sống an lạc, giải thoát. Đạo Phật là đạo tìm ra sự thật và sống với sự thật, biết nó cố cãi để hơn mình, thì mình chịu thua để cho mình được nhẹ.
Nhìn kỹ người làm đạo được nhờ duyên quá khứ là người bạn trong quá khứ tái sanh gặp lại, hỗ trợ nhau, như Khương Tăng Hội xuất gia ở Luy Lâu (Hà Nội), nhưng ngài qua Thượng Hải xây chùa Kim Sơn. Ngài nói sang Trung Hoa để gặp Ngô Tôn Quyền. Lúc đó Trung Hoa chưa có đạo Phật, dù kinh từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa rồi, nhưng người Trung Hoa chưa tin đạo Phật, nên đạo Phật không phát triển được.
Khương Tăng Hội sang Trung Hoa truyền đạo vì ngài biết có bạn ở đó và ngài cũng biết rằng bạn ngài sanh lại làm vua, ngài làm sư, hai người kết hợp để phát triển đạo Phật. Khương Tăng Hội là nhà sư đầu tiên đến Thượng Hải. Ngài không đi bình thường, nhưng đi trên chiếc nón lá. Mọi người thấy hình tướng của ngài kỳ lạ, nên tâu với vua Ngô Tôn Quyền. Ông nghĩ phải chăng Hán Minh Đế mơ thấy bạn là người này chăng.
Vua cho mời ngài tới. Ngài trả lời vua bằng tiếng Trung Hoa thông thạo như người Trung Hoa, làm vua nể phục. Vua hỏi Khương Tăng Hội khi Phật Niết-bàn, có gì để lại để thấy sự linh nghiệm. Ngài nói Phật Niết-bàn còn để lại xá-lợi là kết tinh công đức tu hành của Phật. Vua nói muốn xem công đức tu hành của Phật như thế nào mà kết tinh thành xá-lợi.
Khương Tăng Hội nói vì là công đức tu hành, người thụ đắc xá-lợi cũng phải do công đức tu hành mới được, không phải ai cũng có được. Và người có công đức mới thấy xá-lợi Phật, không phải ai cũng thấy xá-lợi hay giữ được xá-lợi.
Vua hỏi trẫm có thể thấy xá-lợi không. Khương Tăng Hội nói rằng làm vua là có phước thì thấy được xá-lợi, nhưng phải có niềm tin. Thực tế vua Ngô Tôn Quyền được coi là vua hiền đức, nhưng ông vua con là Tôn Hạo rất dữ.
Bệ hạ có phước nên thấy được xá-lợi, còn bần tăng phải nỗ lực tu mới có công đức, nhưng ngài cũng không dám nói mình có xá-lợi. Ngài bảo vua dựng thảo am để ngài tu một tuần nhằm hồi phục công đức thì mới thụ đắc xá-lợi. Nhưng thực sự ngài đã có bình xá-lợi rồi.
Trong một tuần ngài tu miên mật Thiền quán, không ăn ngủ. Qua một tuần, Ngô Tôn Quyền hỏi xá-lợi đâu. Ngài nói cho thêm một tuần tiếp tục Thiền quán. Sau đó, ngài lại xin thêm một tuần nữa. Vua nói nếu lần này không có xá-lợi thì là yêu ma, sẽ bị giết.
Tới đúng 21 ngày, am tranh ngài tỏa hào quang ngũ sắc rực sáng. Ngài bưng xá-lợi vào triều. Ngô Tôn Quyền hỏi ngoài hào quang như thế, xá-lợi còn gì linh nghiệm không. Ngài nói xá-lợi thật cứng đến chày kim cương giã không bể. Ngô Tôn Quyền bảo giã thử xem và để xá-lợi lên khối sắt cho lực sĩ giã. Xá-lợi không bể, mà lực sĩ dội té và cái cối lún xuống. Vua sụp lạy, cho xây chùa Kiến Sơ để thờ xá-lợi.
Tất cả vật là vô thường, không bền chắc, nhưng xá-lợi Phật là công đức tu của Phật thì bền chắc đến chày kim cương của Bát bộ chúng đánh không bể, tiêu biểu cho công đức tu của Phật trường tồn miên viễn.
Tu theo Phật đúng như pháp, khi xả huyễn thân, chân thân tức phước đức và trí tuệ của hành giả bền chắc. Ý thức như vậy, chúng ta bỏ giả thân không bền chắc để được cái không hư hoại, bỏ sinh mạng ngắn ngủi này để có sinh mạng vô cùng. Đó là ý Phật dạy trong kinh Hoa nghiêm rằng chúng ta tu ngược về nguồn để gạn lọc vọng tâm tham đắm mà nhiều kiếp bám chặt mình. Cần sám hối cho tiêu nghiệp mới đem Phật pháp vào tâm. Tu đúng từng bước đi lên. Tu hình thức mà thực chất không có sẽ dễ bỏ cuộc.
Tóm lại, trên bước đường tu, ban đầu chúng ta chấp chặt thân vô thường sanh diệt nên khổ với nó. Trải qua quá trình tu Thanh văn, cởi bỏ được pháp sanh diệt, tức trần lao nghiệp chướng, được giải thoát và tiến lên hành Bồ-tát đạo. Lần lần Pháp thân Bồ-tát của chúng ta hiện ra và lớn lần theo mỗi kiếp tu hành, thì tái sanh, phước đức, trí tuệ chúng ta tăng trưởng, cho đến khi đầy đủ 32 tướng tốt, trí giác và tâm đại bi viên mãn, thành tựu quả vị Phật.
HT.Thích Trí Quảng
Đăng lúc: 21:38 - 03/12/2016
Biết ơn, tiếng Pāli là kataññutā và thường đi đôi với từ katavedi. Kataññutā nghĩa là khởi tâm biết ơn khi mình có được lợi ích từ việc thọ nhận vật gì hay sự tử tế nào đó từ người khác, còn katavedi nghĩa là thể hiện sự biết ơn đó qua lời nói hay hành động. Kataññutā khi đứng một mình bao hàm cả nghĩa của từ katavedi.
Biết ơn, tiếng Anh là gratitude, xuất phát từ gốc La-tinh là gratia, nghĩa là ơn huệ, biết ơn. Theo Pruyser (1976), tất cả những từ xuất phát từ gốc gratia đều có nghĩa là “Phải làm tất cả mọi điều với lòng tốt, tâm lượng rộng rãi, như là một món quà, cao đẹp trong việc cho và nhận một cái gì đó một cách không vụ lợi” (tr.69).
Emmons và Shelton (2002) định nghĩa biết ơn là “cảm giác kỳ diệu, cảm giác mang ơn và ghi nhận giá trị cuộc sống” (tr.460). Trên phương diện đạo đức, biết ơn là cơ sở để hình thành và nuôi dưỡng các tâm niệm lành, các hành động thiện và những suy nghĩ tích cực trên con đường hướng thiện được cụ thể hóa qua các nội dung sau:
Biết ơn giúp chúng ta đối xử tốt với mọi người
Trong Phật giáo, biết ơn là khái niệm dùng để chỉ cảm giác mang ơn và có ý muốn đền ơn khi chúng ta thọ nhận một hành vi tốt từ một người nào đó. Tachibana giải thích rằng, hình thức đền ơn căn bản và quan trọng nhất liên hệ đến việc chu toàn bổn phận của người con đối với cha mẹ; trái lại, bất hiếu với cha mẹ là một trong những tội ác lớn nhất của con người (tr.235). Do đó, người biết ơn là người thực hiện hành vi đền ơn với tất cả như một người con làm tròn bổn phận đối với cha mẹ, hay ít ra là xem tất cả như người thân của mình. Cách đền ơn toàn tâm toàn ý như vậy đáng được thực hành và nhân rộng trong cộng đồng xã hội. Mỗi người đều nên khởi tâm biết ơn người khác như một bổn phận báo đền công ơn thọ nhận trong cuộc sống. Do đó, trong các mối quan hệ xã hội, quá trình cho-nhận được thiết lập và thường xuyên diễn ra thì sự thương yêu, tôn trọng và sẵn lòng làm tất cả những gì tốt đẹp cho người khác là việc làm tất nhiên của những con người biết suy nghĩ và quán chiếu.
nsgn.jpg
Cuộc sống là một mạng lưới mà mỗi người là một mắt xích. Do vậy, chúng ta thọ ơn không chỉ với những người thân hay những người mình trực tiếp có được lợi ích về vật chất hay phi vật chất. Trong hàng ngàn các mối quan hệ chằng chịt và phức tạp, trực tiếp cũng như gián tiếp, chúng ta thọ ơn ngay cả những người xa xôi mà chúng ta chưa hề quen biết. Chúng ta không chỉ thọ ơn những người cùng thời đại với mình mà còn chịu ơn những người của bao thế hệ trước nữa. Theo tinh thần Phật giáo, “Khoảng cách về không gian và thời gian không làm ngăn ngại các mối quan hệ. Giáo lý luân hồi của các tôn giáo Ấn Độ, đặc biệt là Phật giáo, dạy chúng ta hiểu rằng, trên thực tế, chúng ta không chỉ có quan hệ với con người mà còn với tất cả chúng sanh” (Tachibana, tr.228).
Một sự thật rằng, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi nói lời cảm ơn ai đó, hoặc đón nhận lời cảm ơn từ người khác. Chúng ta sẽ phấn chấn khi có ai đó nói rằng, chính mình làm cho họ thay đổi theo hướng tích cực và họ biết ơn về điều này. Chúng ta cũng xúc động không kém khi mình đang gặp việc rắc rối, có người tự nguyện tạm gác lại việc của họ để lăn xả vào cuộc giúp mình mà không tính toán so đo. Cảm giác phấn chấn ấy có mặt vì chúng ta thấy việc mình làm đem lại lợi ích thiết thực cho người khác. Cảm giác xúc động ấy là biểu hiện lòng biết ơn của chúng ta dành cho người trải lòng chia sẻ trong lúc mình cần nhất. Trong cả hai trường hợp, biết ơn và được biết ơn đều đem đến cho chúng ta niềm vui, tâm lý an ổn và có cảm xúc cân bằng hơn. Khi chúng ta nhận được lợi ích từ công sức và thiện chí của người khác dành cho mình, tâm niệm biết ơn có mặt, và khi ấy, chúng ta trở nên tử tế hơn, vì hiểu rằng, không lúc này thì lúc khác, không cách này thì cách khác, chúng ta đã, đang hoặc sẽ mang ơn mọi người. Ý niệm này giúp chúng ta sống tử tế hơn với tất cả mọi người.
Biết ơn giúp chúng ta tận tụy hơn trong công việc
Tấm gương sinh động nhất về sự tận tụy trong công việc là Đức Phật. Sau khi thành đạo, việc đầu tiên của Đức Phật là thể hiện lòng biết ơn đối với cây bồ-đề đã che mưa chắn nắng cho Ngài trong suốt thời gian Ngài tu tập cho đến khi chứng nghiệm đạo quả giác ngộ. Nhiều sử liệu kể lại rằng, sau khi hưởng pháp lạc giải thoát, Ngài dành một tuần để đứng trước cây bồ-đề, nhìn về gốc cây với ánh mắt tri ân. Ngài thể hiện lòng biết ơn giáo pháp Ngài vừa tìm được một cách thiết thực nhất là tìm phương pháp để chuyển tải pháp giải thoát đến số đông dân chúng vốn nhiều tầng lớp với đủ các trình độ khác nhau. Khi đã tận tâm tận lực tìm được phương pháp truyền đạt hiệu quả, Ngài bắt đầu cuộc hành trình hoằng truyền giáo pháp, một hành trình đền ơn không có điểm dừng!
Đối tượng đầu tiên Ngài nghĩ đến để trao gởi thông điệp giải thoát là hai vị thầy tâm linh đầu tiên Ngài đã theo học trên con đường tìm cầu chân lý, đó là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Mặc dù Ngài không chứng đạt giác ngộ khi theo học giáo lý từ hai vị này, nhưng họ là những vị ân nhân trợ duyên không nhỏ trên lộ trình tâm linh của Ngài. Sau khi quán chiếu và biết cả hai vị đều đã mất, Ngài liền nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước đó. Đây cũng là những người Ngài từng chịu ơn bởi lẽ nhờ họ mà Ngài biết đến các hình thức khổ hạnh để Ngài tự chiêm nghiệm trong lúc hành trì. Cho dù đây chưa phải là con đường rốt ráo đưa đến giác ngộ giải thoát, nhưng những trải nghiệm này là động cơ giúp Ngài toàn tâm toàn trí để tìm ra lối đi riêng cho mình.
Một thời gian sau, Ngài bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp trong tinh thần biết ơn đến những đối tượng khác. Đó là Ngài trở về hoàng cung hóa độ người thân của mình cũng trong tinh thần biết ơn. Ngài độ các vị vua đương thời cũng trong tinh thần báo đáp. Suốt một cuộc đời tận tâm tận lực không mệt mỏi, Ngài thực hiện cuộc hành trình độ sinh trong tinh thần tri ân vô hạn. Thế nhưng, chúng ta quen nhìn Đức Phật là một bậc Đại giác ngộ, Đại từ bi, Đại công đức mà mấy ai thấy Ngài là bậc Đại tri ân đáng cho chúng ta học hỏi trọn đời. Không chỉ thể hiện hành vi giáo dục người khác qua hành động của chính mình, Đức Phật còn thể hiện tinh thần tri ân trong nhiều bài kinh. Trong kinh Điềm lành tối thượng (Mangala sutta - kinh số 4, phẩm Nhỏ, kinh Tập), Đức Phật dạy, biết ơn là một trong các điềm lành tối thượng để tiến bộ trên lộ trình tâm linh.
Lòng biết ơn lại được thể hiện rõ nét qua tấm gương của Tôn giả Sāriputta (Xá Lợi Phất), một trong các vị đệ tử lớn của của Đức Phật. Sau khi gặp Tôn giả Assaji (Ác Bệ), Tôn giả Sāriputta hiểu được lý nhân duyên và tỏ ngộ chân lý. Từ đó, Tôn giả Sāriputta cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình trong sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp để đền đáp ơn lành được gặp Chánh pháp. Tôn giả có trí tuệ siêu tuyệt và phương pháp giảng dạy giáo pháp của Tôn giả thật là đặc biệt. Tôn giả là một trong số ít các đệ tử của Đức Phật có thể thay Đức Phật thuyết pháp cho đại chúng, giảng giải chi tiết, phân tích cụ thể các vấn đề giáo pháp sau khi được Đức Thế Tôn tuyên thuyết một cách vắn tắt và các bài pháp thoại ấy đều được ghi lại trong một số kinh Nikāya (điển hình như Trung bộ kinh số 5: kinh Không uế nhiễm; Trung bộ kinh số 144: kinh Giáo giới Chanda; Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương X, kinh Sāriputta-Kotthika; Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm IV, kinh số 5: Đất; Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm III, kinh số 21: Chứng thực với thân; chương III, phẩm XIII, kinh số 128: Anuruddha; chương III, phẩm XVI, kinh số 158: Thối đọa; chương IV, phẩm XVIII, kinh số 173: Phân tích). Tôn giả là cánh tay đắc lực của Đức Phật trong quá trình truyền bá Chánh pháp. Tấm gương tri ân và báo ân của Ngài thật đáng để chúng ta ngưỡng mộ và noi theo.
Như vậy, biết ơn và dốc lòng tận tụy sống một cuộc đời đem lại lợi ích cho mọi người để đền ơn là đặc tính tự nhiên của bậc trí, tựa như chúng ta hít thở khí trời. Người trí thực hành lòng biết ơn và đền ơn trong tinh thần phục vụ như một bản năng, một bổn phận. Với trí tuệ siêu phàm và tâm từ rộng lớn, người trí rõ biết và cảm nhận được những lợi ích có được từ con người và cuộc sống xung quanh. Nếu không cảm nhận được điều này từ bản chất, việc phát khởi tâm biết ơn là một điều không phải dễ dàng, và càng khó hơn là thể hiện tâm biết ơn đó bằng sự tận tụy và hết lòng trong công việc.
Biết ơn giúp chúng ta thực hành pháp bố thí tốt hơn
Chính vì muốn nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn các thành phần xã hội trong cộng đồng để tiến bộ và từng bước hoàn thiện nhân cách của mình, Đức Phật dạy các đệ tử của Ngài cần phải bố thí như là biểu hiện của lòng biết ơn. Mình biết nhận từ người khác và có được lợi ích từ sự thọ lãnh này thì cần phải khởi tâm ban tặng như một quy luật của cuộc sống. Ngài dạy “Có hai loại bố thí, đó là bố thí tài vật và bố thí pháp. Trong hai loại bố thí này, pháp thí tối thắng hơn” (Pháp cú, câu 354; Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm XIII: Bố thí). Người đệ tử xuất gia của Ngài chuyên tâm học pháp và hành pháp, thì sẽ có pháp làm món quà tối thượng để chia sẻ với mọi người. Do đó, cả cuộc đời của người xuất gia là tận tụy, chuyên tâm tu học để thể hiện lòng biết ơn và đền ơn đối với mọi người, mọi loài trong vòng duyên sinh kết nối rộng lớn này qua cách thức cho đi và nhận lại.
Theo truyền thống, Đức Phật dạy, người xuất gia không trực tiếp làm một nghề nào như người cư sĩ để nuôi sống bản thân (kinh Di giáo) mà sống tùy vào sự phát tâm cúng dường của hàng cư sĩ tại gia để nuôi dưỡng tâm niệm tri ân thông qua việc chuyên tâm bố thí món quà tâm linh đến hàng cư sĩ ngoại hộ. Trong khi đó, người cư sĩ còn phải làm nhiều bổn phận ở đời, phải làm các nghề để kiếm kế sinh nhai, nên chưa thể toàn tâm dành hết thời gian trong ngày để học pháp và hành pháp. Họ mong được hiểu giáo pháp Đức Phật được truyền đạt từ người xuất gia và đáp lại, họ có điều kiện để cúng dường tài vật đến các bậc thầy tâm linh. Những lời Đức Phật dạy được ghi lại trong nhiều kinh rằng, người xuất gia là ruộng phước tối thượng để người cư sĩ gieo trồng công đức (Tăng chi bộ kinh, tập 1, chương III, phẩm 7, mục 70: Các lễ Uposatha; mục 75: Cần phải khích lệ; phẩm 10: phẩm Hạt muối; mục 94: Con ngựa thuần thục; phẩm 14: Kẻ chiến sĩ, mục 131: Kẻ chiến sĩ).
Do đó, người xuất gia bố thí pháp, người cư sĩ tại gia cúng dường tài vật là việc làm nhằm tạo cho đôi bên ý thức được cuộc sống do duyên nhau mà tồn tại trong quan hệ cho-nhận trực tiếp giữa người xuất gia và tại gia, qua đó thể hiện và nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn. Mỗi người nương vào pháp bố thí này như một bài thực hành căn bản để khởi niệm biết ơn dễ dàng hơn đến với những người không tham gia vào vòng cho-nhận trực tiếp. Từ ý niệm biết ơn trong quan hệ cho-nhận, chúng ta tự nhắc nhở mình - phải biết cho đi để xứng đáng với những gì mình đang nhận lại từ cuộc đời này. Với tâm niệm biết ơn như vậy, mỗi người nên có trách nhiệm với nhau hơn, mở rộng khối óc và đôi tay, sẵn sàng thực hành bố thí trong tinh thần “món vay món trả phải đồng”.
Biết ơn giúp chúng ta hài lòng với cuộc sống thực tại
Khi thấy mình là kẻ thọ ơn, chúng ta dễ dàng có cảm giác hoan hỷ chấp nhận và có tâm lý hài lòng, bằng lòng với những gì mình đang có hay vị trí mình đang là. Cảm giác này hoàn toàn chủ quan và mang tính tương đối. Cùng trong một điều kiện sống, người hài lòng thì cảm nhận được hạnh phúc, an lạc, nhưng người không hài lòng thì cảm nhận sự đau khổ, bất an. Cùng trong một môi trường, không gian sống, khi này chúng ta hài lòng, lúc khác chúng ta lại không vừa ý. Với vật chất thế gian, con người chỉ có được trạng thái hài lòng tạm thời mà thôi. Tâm chao đảo, mất cân bằng do tham đắm và bám víu vào những gì chúng ta ưa thích, từ chối và đẩy ra những gì chúng ta không ưa thích khiến chúng ta khó có được sự hài lòng lâu bền. Chỉ khi nào biết trân quý những gì chúng ta đang có, đang sử dụng với ý niệm biết ơn, biết đủ, chúng ta mới dừng tâm đòi hỏi và tìm cầu để sống một cuộc đời trọn vẹn với thực tại.
Thường xuyên thực hành hạnh biết ơn sẽ giúp chúng ta có cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ và an lành. Người không hài lòng với những gì mình đang có thì không thể ý thức được rằng mình đang thọ ơn người khác. Do vậy, thay vì khởi niệm biết ơn, họ chỉ có thể khởi tâm phàn nàn. Biết ơn, đơn giản là có cảm giác mình là người thọ lãnh và ghi nhận giá trị của những gì mình nhận được từ con người và cuộc sống. Ý niệm biết ơn là mạch máu làm tươi nhuận con tim, nuôi dưỡng khối óc và tưới tẩm tâm hồn chúng ta. Có rất nhiều cơ hội để chúng ta có thể khởi tâm cảm ơn người khác. Với cảm nhận đầy đủ về những gì mình đang có và những gì mình đang trải qua đủ để chúng ta khởi niệm biết ơn. Thân thể, vóc hình, trí tuệ, sắc đẹp, sức khỏe, tài sản, tình cảm chúng ta sở hữu trong kiếp sống này đủ để nhắc chúng ta khởi niệm cảm ơn những gì cuộc đời ban tặng. Từ trong ý niệm biết ơn, chúng ta biết cách sử dụng những gì chúng ta đang có để đem lại lợi ích cho mình, cho người, sống một cuộc đời đáng sống. Đây là cách thể hiện tinh thần biết ơn và đền ơn một cách thiết thực nhất.
Chúng ta có thể làm cho cuộc sống trở nên phong phú và giàu có với tâm niệm biết ơn. Bằng cách ghi nhận thân và tâm này vốn đã được vay mượn từ cha mẹ thuở mới sinh ra, ghi nhận những gì chúng ta đã, đang và tiếp tục thọ nhận từ người khác trong cuộc sống hàng ngày, ghi nhận giá trị ấy để luôn nhắc nhở mình sống trong tinh thần biết ơn. Chúng ta có trọn quyền và có đủ khả năng điều khiển ý tưởng của mình để đạt được hạnh phúc và bình an trong cuộc sống trên nền tảng của tâm niệm biết ơn. An lạc hay đau khổ, thật ra phần lớn đều do mình chọn lựa hơn là do hoàn cảnh hay từ những thứ bên ngoài đem lại, và tinh thần tri ân và báo ân sẽ giúp ta trong việc này.
Khởi niệm biết ơn không có nghĩa chúng ta phủ nhận - những buồn đau, thất vọng xảy ra với mình như một phần trong cuộc sống. Biết ơn là nhận ra mình còn được nhiều thứ từ cuộc đời này và hãy lấy những cái có được ấy làm toa thuốc trị bệnh đau buồn. Một khi chúng ta phàn nàn, nghĩa là chúng ta cảm thấy thiếu thốn hay không hài lòng với cuộc sống hiện tại thì chúng ta có thể khởi lên ý niệm biết ơn chăng? Cứ quay lại nhìn mình, nhìn lại những gì mình đang có, đủ để chúng ta khởi niệm cảm ơn, để tâm hồn bình an và cảm thấy hài lòng với cuộc sống còn nhiều điều bất toàn này. Vấn đề là khi biết khởi tâm biết ơn, chúng ta có đủ khả năng vượt trên những đau buồn như một cơ hội để trưởng thành. Người khôn ngoan biết lấy nghịch cảnh làm cơ hội để học hỏi và tự thân biết cách vươn lên từ trong bĩ cực nhằm hóa giải và thăng hoa nỗi đau thành niềm vui. Rác rưởi có thể sử dụng thành dưỡng chất cho cây lá tươi xanh đâm chồi nảy lộc, cho hoa trái khoe hương tỏa sắc giữa đất trời.
Khi chúng ta chú ý đến điều gì, cái đó trở nên quan trọng và chiếm vị trí trung tâm trong tất cả suy nghĩ, ý tưởng của mình. Hơn thế nữa, bao nhiêu ý tưởng liên quan đến từ khóa ấy cũng lần lượt xuất hiện. Ví như khi chúng ta gõ một từ khóa nào đó vào hệ thống tìm kiếm trên mạng, như Google chẳng hạn, thì lần lượt từng trang một, bao nội dung liên quan đến từ khóa ấy đều xuất hiện, chúng ta dễ dàng tìm tiếp và tìm tiếp nữa. Cũng như vậy, khi có một ‘từ khóa’ nào đó xuất hiện trong ý tưởng, ví dụ đó là một điều chúng ta ước muốn. Thế là biết bao ý tưởng đều từ đó phát sinh. Tương tự chim bay theo đàn, ý tưởng cuộn theo từng mảng chứ không tồn tại riêng lẻ bao giờ. Một sự thật rằng, chúng ta không nhận được những gì mình mong muốn, nên chúng ta không hài lòng với cuộc sống hiện tại. Nếu mỗi ngày chúng ta dành 5 phút để ước muốn thì thời gian 1.435 phút còn lại (24 tiếng đồng hồ là 1.440 phút) trong ngày chỉ để lo lắng, suy nghĩ. Vậy liệu những mong muốn của mình có thành tựu hay không? Ham muốn chỉ đến với người không hài lòng thực tại và không biết cách khởi niệm biết ơn.
Do đó, người không biết ơn thì tâm luôn lăng xăng bận rộn mà không thể hướng thượng và hướng thiện. Nếu chúng ta bình tâm quan sát bản thân mình với tất cả năng lực mình đang có, những gì mình đang sở hữu thì chúng ta sẽ đi đúng hướng trong việc dự đoán, chứ không phải mong cầu cho thỏa mãn lòng tham. Làm được thế này, tâm chúng ta sẽ trú trong “ngưỡng an toàn” và không quá bận rộn vô ích với những điều xa rời thực tế với tâm lý mệt mỏi, nhọc nhằn vì mong cầu mà không đạt được. Thay vì lao tâm khổ trí vì những ý tưởng tiêu cực do lo lắng, sợ hãi tạo ra, ý niệm biết ơn sẽ giúp chúng ta trở nên an ổn và thanh thản hơn trong cuộc sống.
Biết ơn giúp chúng ta bớt đi ý tưởng chấp ngã, mở rộng tâm hồn
Một lợi ích nữa là khi chúng ta biết khởi niệm biết ơn thì ý niệm chấp ngã của chúng ta vơi dần. Bằng cách thực hành biết ơn, chúng ta ý thức rõ ràng rằng, chúng ta đơn giản chỉ là một phần không thể tách rời của một bộ phận lớn hơn. Càng ý thức rõ ràng về mối quan hệ duyên sinh giữa mình và thế giới lớn hơn bên ngoài, chúng ta càng trở nên khiêm tốn hơn, thấy mình bé nhỏ lại và phụ thuộc nhiều vào thế giới chúng ta đang sống. Bớt đi ý niệm chấp ngã không có nghĩa là chúng ta đánh mất mình mà là biểu hiện về sự trưởng thành của nhận thức, là sự trưởng thành về khả năng giữ tâm thăng bằng và an lạc nhờ vào tâm niệm biết ơn.
Sống trên đời này, chúng ta không thể tồn tại, đó là chưa nói đến thành công, nếu không có cha mẹ, thầy, bạn và nhiều người thân hay không thân khác nữa. Hẳn là ít nhất chúng ta không thể không mang ơn những người này. Ý tưởng “những gì tôi có được ngày hôm nay là do bản thân tôi, không ai giúp cả” chỉ phản ánh cái nhìn thiển cận của người vô ơn và chấp ngã mà thôi. Chính tâm niệm biết ơn giúp chúng ta hạnh phúc trong vòng tay của người thân như cha mẹ, thầy tổ, bạn bè. Đây là động cơ để mở lòng sống tốt với mọi người và là cách hướng đến con đường thánh thiện trong mọi tình huống. Khi bắt đầu cảm nhận được lợi ích và ý nghĩa với những gì mình trải nghiệm, chúng ta dễ dàng thấy điều hay, lẽ đẹp nơi người khác. Biết ơn giúp cho chúng ta có niềm tin nhiều hơn trong các mối quan hệ. Biết ơn giúp chúng ta cảm nhận được những gì mình thọ nhận từ người khác để dễ dàng khởi niệm đền ơn. Lưu tâm đến cái tốt, cái đẹp thì những tâm niệm và hành động tốt đẹp dễ dàng phát sinh và chúng ta có thể nhân rộng những điều thiện lành trong cuộc sống và rộng dần ra từ nơi chúng ta sinh sống.
Với tâm rộng mở trong tinh thần biết ơn, chúng ta dễ tha thứ hơn, nhờ đó các vết đau tâm lý dễ chữa lành hơn. Tha thứ là chìa khóa để chữa lành vết thương tâm lý và cảm xúc, đồng thời, tha thứ chỉ có thể làm được khi khởi lên ý niệm biết ơn. Trong đau buồn mà vẫn thấy mình “được” chứ không mất, chúng ta mới có thể khởi niệm biết ơn và dễ dàng tha thứ. Tha thứ có thể thuần túy diễn ra từ trong ý niệm thông qua trị liệu, thiền định, thực hành tâm từ bi và sẵn lòng cảm thông đối với tất cả mọi người. Tha thứ cho chính mình hay người nào đó là chất liệu nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành hơn và chữa lành vết thương lòng nhanh hơn.
Biết ơn giúp chúng ta vững vàng hơn trong cuộc sống
Trong những tình huống khó khăn nhất, tâm chúng ta chùn xuống và các tâm lý tiêu cực đua nhau xuất hiện trên bề mặt ý thức. Điều này làm cho nỗi đau trương phồng thêm lên một cách không cần thiết. Trong những tình huống như vậy, nếu chúng ta bình tâm nhìn lại để kịp nhận ra rằng, những gì chúng ta đang có, kể cả nỗi khổ niềm đau vừa lưu dấu trong tâm, là món quà vô giá để chúng ta khởi tâm cảm ơn tất cả. Sự mất mát để lại niềm đau, nhưng đáng giá hơn là bài học vô thường sinh động mà cuộc đời ban tặng. Chúng ta hãy biết ơn điều này và với tâm lý biết ơn như vậy, đau thương mất mát được chữa lành nhanh chóng.
Biểu hiện lòng biết ơn đối với người khác có nghĩa là chúng ta đang dành cho người ấy một sự ghi nhận và hỗ trợ tinh thần với ngụ ý rằng việc người ấy làm cho chúng ta là có ý nghĩa. Điều này tạo cho người ấy tăng thêm niềm tin việc mình làm là đúng, từ đó khởi tâm hoan hỷ, tinh thần phấn chấn hơn và sống bình an hơn.
Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những thay đổi mới mẻ trong ta và trong cuộc sống. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được sự đóng góp của người khác vào sự thành công của bản thân mình một cách dễ dàng. Mỗi bước tiến trên lộ trình tâm linh là mỗi cơ hội để chúng ta thể hiện tâm biết ơn của mình. Biết ơn chính là động cơ, là nền tảng cho mỗi bước tiến trên con đường hướng thiện của bản thân mỗi người. Với sự biến đổi không ngừng của môi trường và cuộc sống, chúng ta phải luôn xem lại mình để thích ứng với hoàn cảnh hiện tại. Mỗi lần thích nghi với môi trường hay hoàn cảnh mới, chúng ta có cơ hội cảm ơn tất cả để chúng ta có thể vươn lên một nấc thang cao hơn, một trạng thái hài lòng được thiết lập trong quá trình tu tập.
Ngay cả trong hoàn cảnh không như ý, chúng ta cũng nên khởi tâm biết ơn vì nhờ có khó khăn, thất bại chúng ta mới có dịp hiểu rõ khả năng thực tế và kỹ năng xoay xở tình huống của bản thân, cũng như có dịp quan sát những tâm lý khởi lên và dâng trào đến mức độ nào trong bối cảnh bất như ý đó. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta định hướng, hạ quyết tâm để đứng vững và bước chắc trên con đường hướng thượng nhằm hoàn thiện nhân cách của mình.
Biết ơn đem lại nhiều lợi ích từ cơ thể khỏe mạnh đến tâm lý ổn định, tinh thần sảng khoái và làm tươi mát cuộc sống nội tâm cũng như trong các quan hệ giao tiếp với người xung quanh. Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ có cái nhìn thực tế, rõ ràng và chính xác hơn qua lăng kính duyên sinh về khả năng thực tế của bản thân, về sự góp phần của con người, môi trường và những sắc màu mình trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày. Qua lăng kính của biết ơn, mọi vật trở nên trong sáng hơn, con người ngày càng trưởng thành hơn và cuộc sống mỗi ngày càng thêm tươi đẹp hơn.
Liên Trí
________________
Tài liệu tham khảo
Emmons, R A. & Shelton, C. M. (2002). Gratitude and the science of positive psychology. In: Handbook of positive psychology. Snyder, C. R.; Lopez, Shane J.; New York, NY, US: Oxford University Press. 459-471.
Pruyser, P.W. (1976). The minister as diagnostician: Personal problems in pastoral perspective. Philadelphia, PA: Westminster Press.
Tachibana (1992/1975). The ethics of Buddhism. London: Curzon Press.
Thích Minh Châu (dịch) (1996). Tăng chi bộ kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.
Thích Minh Châu (dịch) (1997). Trung bộ kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.
Thích Minh Châu (dịch) (1997). Tương ưng bộ kinh. TP.Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.
Đăng lúc: 22:34 - 19/10/2016
Tưởng niệm ngày vía Bồ-tát Quán Thế Âm, tôi xin kể câu chuyện linh ứng có thật của bản thân mình. Thật kỳ diệu, rất linh ứng, nhiệm mầu trong thế giới tâm linh vốn không thể nghĩ bàn.
Từ lâu tôi được biết đến Bồ-tát Quán Thế Âm với 12 lời nguyện cứu độ chúng sanh. Bồ-tát luôn ở bên cạnh khi chúng ta tâm niệm, nguyện cầu đến Ngài. Nhất là khi thành tâm thành ý, một lòng tin tưởng, tuyệt đối hy vọng thì Ngài sẽ xuất hiện trong mọi hình thức để cứu giúp chúng ta.
anh botat.jpg
Bồ-tát Quan Thế Âm - Ảnh: L.Đ.L
Cuối năm 2012 (tôi không còn nhớ chính xác ngày tháng), cả ba mẹ tôi đều phải nhập viện vì bị mắc một chứng bệnh như nhau là viêm phế quản cấp tính, ho ra máu. Ba tôi thì viêm phế quản cấp cộng viêm phổi nặng, mẹ thì viêm phế quản cấp cùng với khớp sưng đau nhức vô cùng. Khí hậu miền Trung (Quảng Trị) vào mùa đông có những lúc rất lạnh, khiến cho người bệnh càng đau đớn thêm.
Khi ấy tôi đang ở trong Nam (TP.HCM). Em gái tôi gọi điện báo tin. Tôi rất lo lắng nhưng do điều kiện công tác không thể về bên ba mẹ để chăm sóc. Dù ở cách xa ngàn dặm nhưng lòng hiếu thảo đối với ba mẹ luôn luôn hiện hữu trong tim, tôi chỉ hướng đến ba mẹ bằng cách mà tôi luôn tin tưởng nhất, đó là tin vào sự gia hộ của Bồ-tát.
Ngày ấy tôi thường đến chùa Vạn Đức (quận Thủ Đức) lễ Phật, đọc kinh sách vì rất thích không gian yên tĩnh ở chùa. Nhiều lúc tôi ngồi hàng tiếng đồng hồ trong yên lặng và có cảm giác chùa như là nhà của mình vậy.
Nghe tin báo xong tôi lập tức đến chùa, vào chánh điện lạy Phật. Sau đó tôi ra sân lạy Bồ-tát Quán Thế Âm, cầu xin Ngài gia hộ cho ba mẹ tôi tai qua nạn khỏi, sớm khỏe lại để được đoàn tụ với con cháu trong dịp Tết cổ truyền. Tôi đã cầu nguyện khẩn thiết, thành tâm thành ý với Bồ-tát nhiều lần như vậy.
Khoảng 10 ngày sau, tôi mơ một giấc mơ lạ. Trong mơ, tôi thấy mình đến bệnh viện thăm ba mẹ. Khi vừa đến cổng thì gặp người chị (con dì) có vẻ rất lo lắng từ trong bệnh viện chạy ra, gặp tôi chị kéo lại và thì thầm: “Em ơi! Dì và dượng nguy rồi, bệnh nặng lắm, chị vừa gặp bác sĩ chuyên khoa vào khám cho dì và dượng. Bác sĩ nói riêng với chị cả hai người bệnh nặng quá, có lẽ không sống nổi qua ngày mai. Chỉ có một cách để cứu sống họ là con cái phải hiến tuổi thọ của mình cho ba mẹ ít nhất là 5 năm thì họ mới sống được. Chị lo quá nên đang chạy ra cổng bệnh viện để gọi điện về nhà thông báo, không ngờ gặp em. Bây giờ em tính sao?”.
Tôi hơi băn khoăn. Ủa, sao bệnh viện không dùng thuốc hoặc phẫu thuật để cứu người mà lại bảo phải dùng tuổi thọ của con cái để đổi lấy sự sống cho ba mẹ? Tuy băn khoăn nhưng do người chị đứng bên thúc giục quá: “Không còn thời gian đâu em ơi!”. Chị ấy vừa nói lại vừa khóc nên tôi cũng không cần suy nghĩ nhiều mà trả lời ngay: “Dạ, hiến 5 năm hay kể cả 10 năm em cũng hiến, miễn sao ba mẹ em được cứu sống”. Tôi vừa nói xong thì người chị mỉm cười hiền từ, và rất lạ lùng là tôi chưa bao giờ nhìn thấy nụ cười như thế ở chị ấy. Rồi chị biến mất trước mắt tôi một cách nhẹ nhàng. Tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra, đứng ngó quanh thì có một người đi qua đụng phải, thế là tôi giật mình tỉnh giấc.
Khi ấy tôi nhìn đồng hồ, đúng 3 giờ sáng. Tôi nằm suy nghĩ, sao giấc mơ lạ lùng vậy nhỉ? Mà sao tôi cảm thấy bình an, không một chút lo lắng gì cho ba mẹ cả. Tôi liên tưởng ngay đến người chị ấy là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm và tràn đầy tin tưởng ba mẹ tôi sẽ được Ngài cứu giúp.
Sáng hôm sau, tôi gọi điện về cho mẹ. Mẹ vui mừng thông báo bác sĩ vừa khám cho ba mẹ xong. Bác sĩ bảo bệnh cũng đỡ nhiều rồi, vài ngày nữa cho ra viện để về chuẩn bị đón Tết. Trong khi trước đó hai ngày tôi gọi điện về, mẹ cho biết bệnh tình của ba mẹ có lẽ phải chuyển lên tuyến trên, tức Bệnh viện Trung ương Huế. Thế mà giờ được ra viện trước dự kiến.
Sự việc diễn biến đến không ngờ, không biết mọi người nghĩ thế nào, riêng tôi thì tin chắc Bồ-tát đã linh ứng và cứu giúp ba mẹ tôi tai qua nạn khỏi.
Nhuận Chân
Đăng lúc: 19:41 - 17/10/2016
Lời Phật không dễ nghe – tôi hiểu điều này và trân quý hết thảy những gì mình may mắn được biết và Phật pháp trong hành trình nhận thức tìm cầu gian nan. Sống càng nhiều, xem đi xem lại trước tác nổi tiếng của nhà văn Ngô Thời Ân bản in sách hay kịch bản phim tôi càng thấm thái hành trình gian khó của Thầy trò Đường tăng lồng bên trong tính hiện thực cao; cầu Đạo và đạt Đạo là chuyện không hề giản đơn. Cuộc đời và sự nghiệp tư tưởng của Đức Chí Tôn là minh chứng vĩ đại nhất.
Biết mình là ngộ
Nhà quân sự lớn của Trung Hoa, Tôn Tử, đã có đúc kết sâu sắc “biết mình biết người trăm trận trăm thắng”, đó là một chân lý chẳng riêng gì với quân sự - chính trị.
Sự biết mình biết người trong Phật giáo không trùng khít với cách đặt vấn đề của Tôn Tử. Biết người thì đã rõ: đối tượng nhận thức từ thiên nhiên đến xã hội trong mọi chiều không gian – thời gian là vô cùng to lớn, dù vậc vĩ nhân xuất chúng hay khoa học gia thông thái nhất cũng thừa nhận đối tượng nhận thức ấy là khôn cùng và khiêm cung thừa nhận sự hữu hạn của nhận thức cá nhân. Ngày nay chúng ta thấy bao nhiêu trung tâm nghiên cứu trên khắp thế giới, bao nhiêu nhà khoa học miệt mài ngày đêm vắt óc tiếp cận các đối tượng nhận thức song công việc không hề vơi, cái mới cái chưa biết luôn tít tắp ở phía trước. Đấy là nói đến nội hàm “biết người” – vật ngoài thân.
Biết mình- một sinh linh nhỏ bé như hạt cát trên sa mạc nhưng lại không hề dễ hơn chuyện biết vạn vật bên ngoài. Thân tâm ta vô thường vận động mải miết trong từng sát na, biến hiện vô chừng thách thức của chính ta và tất nhiên- mọi người có quan tâm đến ta. Một bạn là hành giả trên đường học Phật đã viết rất hay: biết người là khôn, biết mình là ngộ. “Ngộ” là biệt ngữ nhà Phật chỉ sự thấu suốt rốt ráo hoàn toàn và viên mãn về nhận thức, vượt lên khái niệm biết thông thường. Nhưng muốn “ngộ” đâu có dễ, mấy ai dám vỗ ngực xưng tên: tôi ngộ rồi? Khó lắm.
Đọc lịch sử và theo dõi thời sự ai không căm giận và bức bối khi những tên tội phạm thâm ác nhất, dã man nhất đã cãi chày cãi chối đến cùng tại các phiên tòa cho dù tội rõ mười mươi. Người ta có thể đặt câu hỏi: họ không nhận thức được tội hay .... Số tội phạm tự thú và nhaanh chóng nhận tội, sám hối cũng có nhưng không nhiều, số chạy trốn tội vẫn chiếm số đông khiến các nhà điều tra và luật sư- báo chí luôn có nhiều việc để làm, thực té cho thấy có không ít tội phạm không thừa nhận hành vi họ là tội, có khi cho đến lúc chấm dứt sự sống ở cọc bắn! Đấy là ván đề đáng để các nhà tội phạm học và tâm, lý học nghiên cứu sâu.
Phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh Đức quốc xã diễn ra không dễ dàng, và gần đấy quốc tế cũng mệt mỏi với nỗ lực kết tội diệt chủng rõ mười mươi và kinh tởm khi tập đoàn Pol- Pot pở CPC không thừa nhận chúng có tội với hàng triệu nhan mạng đồng bào mình. Đấy, đâu có giản đơn, nói gì chuyện trộm cắp vặt hay giết ..vài mạng người! Có lẽ vì điều đó, tính chất ấy, mà nhân loại vẫn duy trì bàn tay sắt với các nhà tù và công cụ cảnh sát hùng mạnh để cưỡng bức các hành vi xâm phạm luật pháp và đạo đức khi mà ý thức đạo đức tự giác gian nan tồn tại ở thế gian này.
Biết người- biết vật ngoài thân, hãy cố gắng học tập và suy nghĩ nhiều; biết mình hãy tự quán chiếu tự thân tâm ta và chiêm nghiệm trong từng sát na sự sống quý báo. Người ta- để điều khiển phuwong tiện đơn giản là xe gắn máy phải học và thi mới điều khiển được, nhưng để sống một cách có hiểu biết, có khi nào chúng ta quên học để hiểu chính mình hay không? Phật giáo giúp bạn làm việc đó rất tốt: tu học để ngộ. ..và đấy là đóng góp vĩ đại của tôn giáo này cho nhân loại ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi..
Thành Công
Đăng lúc: 10:14 - 19/08/2016
Lễ hội Vu Lan tại Đức Hậu năm nay được diễn ra trong không khí trang nghiêm, hoành tráng, là cơ hội để các Phật tử xa gần trở về nguồn cội tổ tiên, truy niệm ân đức sâu dày của các bậc sinh thành, cúng dường, bố thí, phóng sanh, tắm mình trong dòng sữa pháp Hiếu ân,...
Hôm nay, ngày 16 tháng 7 năm Bính Thân (18/8/2016), Chùa Đức Hậu, xã Nghi Đức, TP. Vinh, Nghệ An đã tổ chức ngày tu Báo Hiếu, kỳ siêu Cửu huyền thất tổ, cúng dường Trai Tăng, và đêm Văn nghệ cúng dường Vu Lan, Bông Hồng cài áo chủ đề "Cha Mẹ là mãi mãi".
Chứng minh lễ trai tăng cúng dường, có TT. Thích Quảng Nguyên, phó Ban trị sự GHPGVN tỉnh Hà Tĩnh, trú trì chùa Thanh Lương; ĐĐ. Thích Định Tuệ, trưởng ban TTTT Ban trị sự GHPGVN tỉnh Nghệ An, trú trì chùa Đức Hậu, cùng đông đảo chư Tôn đức Tăng Ni trong và ngoài tỉnh Nghệ An.
Đây là năm thứ hai, Chùa Đức Hậu tổ chức lễ hội Vu Lan với quy mô lớn. Có khoảng 3000 Phật tử xa gần về tham dự khóa tu và dự mình trong không gian Hiếu đạo của ngôi già lam Đức Hậu.
Lễ hội Vu Lan năm nay được diễn ra trong không khí trang nghiêm, hoành tráng, là cơ hội để các Phật tử xa gần trở về nguồn cội tổ tiên, truy niệm ân đức sâu dày của các bậc sinh thành, cúng dường, bố thí, phóng sanh, tắm mình trong dòng sữa pháp Hiếu ân,... Đặc biệt, mỗi hành giả về dự khóa tu được thực hành thọ trì "nắm cơm Mục Liên", tái hiện hình ảnh ngài Mục Kiền Liên dâng cơm cứu mẹ, và cầu nguyện pháp giới chúng sanh xả bỏ xan tham, thoát ly tam đồ khổ.
Khóa lễ chiều nay sẽ tiếp tục chương trình Thuyết pháp siêu độ và quy y cho các hương linh Cửu huyền thất tổ. Buổi tối, sẽ diễn ra đêm Văn nghệ cúng dường, Bông hồng cài áo, chủ đề "Cha mẹ là mãi mãi".
Cung nghinh chư tôn đức Tăng Ni khai khóa tu.
Cung thỉnh ĐĐ. Thích Tuệ Minh ban pháp thoại chủ đề "Ân đức sinh thành"
Cung thỉnh chư Tôn đức Tăng ni hành lễ cúng ngọ, cầu siêu, truy tiến chư tiên linh
Lễ trai tăng cúng dường.
TT. Thích Quảng Nguyên, chứng trai, ban đạo từ.
Gieo giống phước điền.
Quán niệm, thọ "nắm cơm Mục Liên", nuôi dưỡng lòng Hiếu đạo.
Nam mô Vu Lan hội thượng Phật Bồ tát.
Đăng lúc: 23:21 - 15/08/2016
Tối ngày 12/07/Bính Thân, (nhằm ngày 14-8-2016), tại Chùa Phúc Thành (xã Hưng Châu, Hưng Nguyên, Nghệ An). Đại Đức Thích Định Tuệ đã long trọng tổ chức đêm thắp nến tri ân với chủ đề " Cha Mẹ là mãi mãi ", để bày tỏ tấm lòng hiếu kính của người con Phật với truyền thống tri ân và báo ân trong mùa Vu Lan Báo Hiếu.Truyền thống ấy đã hài hòa một cách sâu sắc và tồn tại với truyền thống ngàn đời của Dân Tộc Việt Nam
Đêm nay dưới bầu trời , không gian trầm mặc trong không khí trang nghiêm cùng với sự ,tham dự và chứng minh trong buổi lễ có : Đại Đức Thích Minh Lâm; Đại Đức Thích Định Tuệ , Đại Đức Thích Tâm Ngọc Phó ban văn hóa GHPGVN ,Tỉnh Nghệ An - cùng các Chư Tăng, Ni trong và ngoài tỉnh. Cùng với hơn 2000 thiện nam, tín nữ, Phật Tử đã về tham dự trong đêm thắp nến tri ân Cha Mẹ là mãi mãi , chương trình thắp nến tri ân với nhiều hình thức phong phú, nhằm dâng lên cúng dường Tam Bảo, báo đền ơn nghĩa Tổ tiên và công ơn cao trọng của những đấng sinh thành, bất luận nền luân lý nào, từ đông sang tây cũng lấy chữ hiếu làm đầu. Người xưa đã đặt ra tiêu chuẩn " Thiên kinh vạn quyển, hiếu kính vi tiên" nghĩa là muôn vàn kinh sách đều lấy chữ hiếu làm đầu, người con có hiếu thảo với Cha Mẹ đều thành tựu tốt đẹp, ngược lại bất hiếu với Cha Mẹ thì mất tất cả.
Thế nên Đức Phật có dạy tội ác lớn nhất là không gì bằng bất hiếu, điều thiện lớn nhất không gì bằng có hiếu, tối hôm nay tất cả chúng ta lại đau đáu tấc dạ và nhớ về Cha và Mẹ, một tình cảm thiêng liêng cao quí đối với hai đấng Sinh thành.
Mở đầu đêm thắp nến tri Ân là chương trình cài hoa hồng cho các Phật tử tới tham dự lễ, tiếp theo đó là chương trình văn nghệ chào mừng của Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ và Gia Đình Vườn Tuệ đã dâng lên lời ca tiếng hát ca ngợi về Cha Mẹ với những tình cảm thật sâu sắc, thiêng liêng nhất
Tháng bảy mùa thu lá rụng vàng
Ấy hồn nhân loại đón vu lan
Bâng khuâng nhớ đến ân sinh dưỡng
Thổn thức trong con ngấn lệ tràn
các Em trong Gia Đình Vườn Tuệ cài Hoa Hồng cho các Phật Tử
Hai MC Gia Đình Vườn Tuệ đẫn chương trình văn nghệ
Chư Tôn Đức Tăng ,Ni Chứng minh đêm ca nhạc hát về Cha Mẹ
Đại Đức Thích Minh Lâm đang hát tặng các Phật tử ca khúc tâm sự về Mẹ
tiết mục múa của các Em trong Gia Đình Vườn Tuệ
Phật Tử nhí đang thể hiện ca khúc về Mẹ
Phật Tử Tuệ Phương bày tỏ những cảm xúc của đêm thắp nến tri ân
Phật Tử Tuệ Tâm đoc lời cảm niệm về Cha Mẹ
Đại Đức Thích Định Tuệ dâng hương cúng dường lên Đức Phật
Chư Tôn Đức truyền ánh sáng từ Đức Từ Phụ và đưa ánh sáng trí Tuệ xuống cho các phật tử
Cầm ngọn nến trên tay, các Phật tử được Đại đức Thích Định Tuệ cùng các Chư Tôn Đức Tăng Ni đã truyền ánh sáng đến cho các phật tử và ánh sáng của trí tuệ, tuệ giác từ chư tôn Đức tăng ni, sứ giả của như lai, đem ánh sáng chân lý tối thượng chan hòa khắp mọi nơi, thông qua ánh sáng của những ngọn nến lung linh huyền ảo, chúng ta đã gửi trọn tấm lòng tri ân đến cha mẹ, người đã sinh thành chúng ta ,thắp sáng lên từ trái tim ,từ tầm hồn của chúng ta gủi đến Cha Mẹ
Ngọn nến lung linh thật nhiệm màu
Tay truyền tay nhận đẹp làm sao
Quang minh tỏ rạng nơi dương thế
Soi sáng tâm con tự thưở nào
Ánh nến đã tràn ngập khắp nơi ,ánh sáng của đêm hoa đăng đã làm ấm lại những tâm hồn hoang lạnh .Ánh sáng nối tiếp ánh sáng ,hàng vạn trái tim đã hòa cùng dịp đập ,cùng hướng về Cha Mẹ với lòng biết ơn vô bờ bến, Mong rằng hình ảnh của đêm Hoa đăng tối hôm nay sẽ mãi mãi không phai nhạt trong tâm trí của chúng ta
Nhân mùa Vu Lan báo hiếu này Đại Đức Thích Định Tuệ đã tổ chức cầu siêu cho các Anh Hùng Liệt Sĩ và cung tiến chư vị Hương Linh cửu huyền thất Tổ, Ông Bà Cha Mẹ của các gia đình và đã qui y Tam Bảo cho hơn 100 Tân Phật Tử trong tỉnh nhà.
Tác giả bài viết: Hồng Nga
Đăng lúc: 08:43 - 08/07/2016
Linh Quy Pháp Ấn tọa lạc tại thôn 4 xã Lộc Thành - Huyện Bảo Lâm - Tỉnh Lâm Đồng có một không gian thiền tĩnh lặng dành cho những người tu hành, đến đây bạn cảm thấy thanh thản và nhẹ nhàng dường như đang sống cảnh trời.
Bạn có thể bước lên "trời" một cảnh tiên có mây bay gió lượn xứ Nhật Bản tại Lâm Đồng
Thiên nhiên ban tặng một bầu trời trong tĩnh lặng.
Cảnh thiền Nhật Bản tại Việt NamCảnh thiền Nhật Bản tại Việt NamCảnh thiền Nhật Bản tại Việt Nam
Cảnh thiền Nhật Bản tại Việt NamCảnh thiền Nhật Bản tại Việt NamCảnh thiền Nhật Bản tại Việt NamCảnh thiền Nhật Bản tại Việt NamCảnh thiền Nhật Bản tại Việt Nam
Chốn thiền nơi đó có các nhà tu hành ngày đêm sống trong tĩnh giác
Hỏa Xa