Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Sử dụng ái ngữ và lắng nghe sâu

Sử dụng ái ngữ và lắng nghe sâu

Đăng lúc: 09:36 - 31/03/2018

Khi truyền thông bị cắt đứt hay bị bế tắc, chúng ta khổ đau. Khi không có ai lắng nghe và hiểu ta, ta sẽ trở thành trái bom sắp nổ. Lắng nghe với tâm từ bi mang đến cho ta nhiều trị liệu. Đôi khi, chỉ cần mười phút lắng nghe sâu là chúng ta có thể được chuyển hóa và có lại nụ cười trên môi

Chuyển hóa đố kỵ

Chuyển hóa đố kỵ

Đăng lúc: 04:33 - 10/07/2017

Đố kỵ là tâm lượng hẹp hòi, khó chịu, bực bội, ganh ghét những ai có sắc đẹp, danh vọng, quyền lợi, may mắn và thành công hơn mình. Khi chưa dự vào Hiền Thánh thì ai cũng mang trong mình tâm xấu đố kỵ này. Chỉ khác nhau là người nhiều kẻ ít, người bộc lộ hết ra bên ngoài còn kẻ thì giấu nhẹm một phần hay giấu hết vào bên trong. Thậm chí ngay cả những lời chia vui chúc tụng chân thành lắm khi cũng là bề ngoài, còn nội tâm thế nào thì mỗi người tự biết.
doky.jpg
Người đời hơn thua nhau từng chút một, người tu mang tâm đố kỵ cũng chẳng phải là hiếm- Ảnh minh họa

Tâm đố kỵ ở đời thì quá rõ ràng, dễ hiểu. Điều khiến ta bất ngờ là trong đạo, người tu mang tâm đố kỵ cũng chẳng phải là hiếm. Và khó hiểu nhất là “đố kỵ Phạm hạnh”. Phạm hạnh có nghĩa là thực hành đạo đức, giới hạnh, tịnh hạnh, Thánh hạnh. Thì ra đố kỵ có mặt khắp nơi, trong môi trường tài sắc danh lợi thì có đố kỵ theo tài sắc danh lợi; trong môi trường tu học, thực hành đạo đức thì cũng có đố kỵ theo cách riêng. Nghĩa là, một người chuyên trau dồi đạo đức, thực hành giới hạnh trọn vẹn thanh tịnh, thay vì người này được tán thán, cung kính, lễ bái, cúng dường thì đôi khi lại trở thành đối tượng bị cô lập, bị gièm pha công kích, bị đố kỵ rằng “thấy vậy mà… không phải vậy”. Nói rõ ra, một người thành công về đạo đức, giới hạnh thì vẫn có thể bị đồng đạo vụng tu đố kỵ như thường.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Ta ở trong đây, không thấy một pháp nào mau đưa đến hoại diệt như là ganh ghét, đố kỵ Phạm hạnh. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy tu hành từ nhẫn, thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm12. Nhập đạo,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.140)

Thời Thế Tôn, sự đố kỵ Phạm hạnh đã xảy ra. Đơn giản vì, người có đạo đức và giới hạnh càng cao thì tứ chúng quy ngưỡng ngày càng nhiều, khiến người thiếu Phạm hạnh sút giảm tín đồ nên không vui, sinh tâm ghét ganh, đố kỵ. Theo Thế Tôn, đố kỵ có nhiều thứ bậc nhưng riêng đố kỵ Phạm hạnh rất nguy hiểm, khiến cho đạo pháp “mau đưa đến hoại diệt” nhất. Bởi lẽ, người có đạo tâm khi đối trước bậc Phạm hạnh luôn sinh tâm kính ngưỡng. Nếu xét đạo đức và giới hạnh của mình chưa bằng thì sinh tâm hổ thẹn, tự trách và răn mình cố gắng hơn. Ngược lại sinh tâm đố kỵ với bậc Phạm hạnh thì đạo tâm của mình đã hủ hóa, không chỉ riêng mình thối đọa mà đố kỵ còn khiến cho đạo tình bị sứt mẻ, đạo pháp bị tổn thương.

Thế nên, khi giác tỉnh nhận ra đố kỵ dấy khởi nơi tâm mình thì hãy nhanh chóng rải tâm từ để hóa giải. Từ là tâm yêu thương, mong cho mọi người đều tốt đẹp, an lành. Thấy rõ nguyên nhân vì sao người thành công, và vì cái gì mà ta chưa thành công? Nhờ thấy rõ mọi sự với tuệ tri cùng với vận dụng lời dạy “Hãy tu hành từ nhẫn” của Thế Tôn nên tâm đố kỵ được tưới tẩm yêu thương và nhanh chóng lắng dịu. Dặn lòng nhẫn nhịn, hãy khoan hoặc bớt đố kỵ. Mở lòng yêu thương, mong mọi người thành công từ trong suy nghĩ cho đến lời nói và việc làm. Được vậy thì tâm đố kỵ tan biến, bản thân mình an vui và mọi người cũng an vui.
Quảng Tánh

Vọng tưởng

Vọng tưởng

Đăng lúc: 11:35 - 30/03/2017

1- Cần thiết cho người tu thiền:

Người tu Tịnh độ để vãng sinh Cực lạc, thì việc hiểu vọng tưởng là gì có lẽ không cần thiết lắm. Bởi chỉ cần tín, hạnh, nguyện đầy đủ thì được vãng sinh. Hạnh thì một câu lục tự Di-đà niệm cho đến khi được nhất tâm bất loạn. Chỉ cần cho được nhất tâm bất loạn, không cần biết vọng tưởng là gì. Người tham thoại đầu, chắc cũng không cần biết rõ về vọng tưởng, chỉ cần đề khởi một câu thoại đầu cho đến khi tâm như thùng sơn lủng đáy. Với người tu thiền, lại là thiền “Biết vọng không theo” hay “Biết có chân tâm” thì việc biết rõ cái gì là vọng để không theo, có lẽ là khá cần thiết. Nó giúp ích cho việc tu học của hành giả không nhỏ. Đó là lý do thứ nhất triển khai bài viết này.

2- Thiền phái Trúc Lâm là phái thiền nhập thế

Là một thiền phái nhập thế thì việc tiếp duyên không thể tránh khỏi. Phật tử thuộc thiền phái Trúc Lâm thì gần như thời gian chính là dành cho công việc xã hội, giao tiếp nhiều. Cho nên, biết rõ về vọng tưởng là việc cần thiết. Để ngoài những lúc phải tiếp duyên, chúng ta hạn chế bớt các duyên. Biết vọng là gì cũng là phương cách để chúng ta nhận định rõ về những gì chúng ta đang hành xử, thông qua ba thứ thân, khẩu, ý của mình. Đó là lý do thứ hai khiến bài viết được triển khai.

anh nsgn.jpg

Vọng tưởng là gì?

Theo cái nhìn của người đời thì “vọng tưởng” được dùng để chỉ cho những lời nói hay suy nghĩ không đúng sự thật.

Với cái nhìn của Phật học, như Tự điển Phật học đã ghi, thì “Không có thật, gọi là vọng. Do phân biệt sai lầm mà có sự chấp giữ các tướng ở thế gian, gọi là tưởng”. Nghĩa này trùng với nghĩa của “Tưởng tâm sở” mà luận Thành duy thức đã nói: “Tưởng tâm sở, là tính chấp thủ tướng mạo của cảnh và có nghiệp dụng thiết đặt ra các danh ngôn”.

Như vậy nói tổng quát, vọng tưởng được chỉ cho những suy nghĩ, tư tưởng không có chất thật so với thực tế. Thực tế này, có thể được hiểu là hiện thực mà chúng ta đang sống đây. Vọng tưởng trong trường hợp này là những gì không có trong đời, như lông rùa, sừng thỏ. Cũng có thể hiểu thực tế là bờ mé chân thật tối cùng, chính là tâm chân như, cội gốc chân thật của tất cả pháp. Tâm này là sở y (tánh) của tất cả pháp. Không có pháp nào có cội gốc riêng. Như ngủ mê rồi mộng mà thấy tướng các cảnh giới, thực chất thì các cảnh giới ấy không có, chỉ là tâm, do vô minh bất giác mà khởi. Với nghĩa này, nói vọng là do đối với chân mà nói. Mọi hiện khởi hiện lên trong tâm, dù đúng dù sai đều gọi là “vọng”.

Do vô minh bất giác mà khởi, không phải chân nên nói “vọng”.

Do chấp thủ tướng cảnh giới mà nảy sinh suy nghĩ, tư tưởng, cảm xúc… nên nói “tưởng”.

Tưởng này do duyên mà thành, không có chất thật, nên nói “vọng tưởng”.

Phân loại vọng tưởng

Trong kinh Lăng-già, Phật phân vọng tưởng ra thành 12 loại.

1- Ngôn thuyết vọng tưởng

Ngôn thuyết vọng tưởng, là chỉ cho “các thứ âm thanh ca vịnh vui đẹp chấp trước”. Cũng chỉ luôn cho loại ngôn thuyết nói năng của người đời. Nói “ngôn thuyết vọng tưởng” vì do vọng tưởng mà khởi ra ngôn thuyết. Vọng tưởng là những gì đã được huân tập và lưu giữ trong tâm. Vọng tưởng vốn không thật. Các thứ âm thanh ngôn thuyết cũng không thật. Vì nó chỉ là pháp duyên hợp. Như Phật nói với Bồ-tát Đại Huệ “Do đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, nướu răng hòa hợp mà phát ra âm thanh”1. Các duyên nếu thiếu, ngôn thuyết không thể thành hình. Nên nói hư vọng.

Nhân của ngôn thuyết chính là dòng vọng tưởng tương tục khởi lên trong tâm. Cho nên, người không nói, chưa chắc vọng tưởng không có, nhưng người nói nhiều thì nhất định vọng tưởng phải nhiều, lực của dòng vọng tưởng phải mạnh. Giờ muốn không quả thì phải trừ nhân. Vì thế, muốn dừng được loại Ngôn thuyết vọng tưởng này thì hoặc là dòng vọng niệm phải dứt, hoặc là phải làm chủ được dòng vọng niệm của mình.

2- Sở thuyết sự vọng tưởng

Sở thuyết sự, là chỉ cho những gì được phát sinh từ Thánh trí, như lời kinh, tiếng kệ, pháp ngữ v.v… Kinh nói: “Nói ra là chỗ Thánh trí biết, y đó mà sinh ngôn thuyết vọng tưởng, nên gọi là Sở thuyết sự vọng tưởng”.

Lời kinh, tiếng kệ v.v… mà gọi là vọng tưởng, vì chúng chỉ là pháp dẫn đạo. Ứng duyên thì hiện. Hết duyên thì không. Như lớp học ồn, cần tiếng hét của giáo viên. Tiếng hét tuy làm dịu được tiếng ồn, nhưng cũng vẫn là tiếng ồn đối với khoảng không thinh lặng, chưa phải là chỗ thinh lặng thật sự. Đó chỉ mới là ngón tay chỉ mặt trăng, chưa phải chính mặt trăng. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Chỗ Thánh trí hiển bày phải ngộ nhập, nếu không thể nhân ngón tay mà thấy mặt trăng thì chỗ hiển bày biến thành cảnh giới giác tưởng”2. Cho nên, dù từ Thánh trí lưu xuất, nhưng nếu cho cái “Sở thuyết sự” ấy là chỗ chân thật, thì cái chân thật ấy liền biến thành cảnh giới giác tưởng, chẳng thể tỏ tường mọi thứ. Vì thế, Hương Nghiêm Trí Nhàn, thông suốt kinh luận, hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, được mệnh danh là Thích Ca thứ hai, vẫn không thể nào trả lời được câu hỏi của ngài Quy Sơn: “Thử nói một câu, trước khi cha mẹ chưa sinh là thế nào?”. Bởi ngón tay không phải là mặt trăng. Nương ngón tay để thấy mặt trăng. Nếu không biết, lấy ngón tay làm mặt trăng thì không thể nào thấy được mặt trăng. Làm thế nào để trả lời khi hỏi về mặt trăng?

Đức Sơn, khi chưa gặp Sùng Tín, là một người rất tự hào về tài học của mình. Đã từng nói với kẻ đồng môn: “Một sợi lông nuốt cả bể cả, tánh bể không thiếu. Hạt cải nhỏ ném trên mũi nhọn, mũi nhọn chẳng động. Học cùng chẳng học chỉ có ta biết thôi”3. Thì biết không phải là hạng vừa trong Giáo tông.

Nghe phương Nam, Thiền tông thịnh hành. Sư bất bình nói: “Kẻ xuất gia, muôn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật, còn chưa thể thành Phật. Huống trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Nói rồi liền quảy bộ Thanh long sớ sao, hướng phương Nam mà tới, với tâm nguyện diệt trừ bọn ma phương Nam, đền ơn Phật Tổ.

Đi giữa đường gặp bà lão bán bánh, Đức Sơn dừng lại hỏi mua bánh.

Bà lão hỏi:

- Gói ấy là sách vở gì?

Trả lời:

- Thanh long sớ sao.

Bà lão hỏi:

- Thầy thường giảng kinh gì?

Đức Sơn trả lời:

- Kinh Kim cang.

Bà nói:

- Tôi có một câu hỏi. Nếu thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Nếu không đáp được, mời thầy đi nơi khác.

Đức Sơn gật đầu ưng thuận.

- Kinh Kim cang nói “Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc”. Vậy xin hỏi, Thượng tọa dùng tâm nào để điểm?

Đức Sơn không trả lời được, bèn hỏi đường đi Long Đàm.

Đến pháp đường, gặp Sùng Tín, Sư hỏi:

- Lâu nay nghe danh Long Đàm, đi đến nơi chẳng thấy Đàm mà Long cũng chẳng hiện.

Sùng Tín trả lời:

- Người đã gần đến Long Đàm.

Đức Sơn không đáp được. Ở lại thờ Sùng Tín làm thầy.

Một đêm, Sư đứng hầu. Sùng Tín bảo:

- Đêm khuya sao chẳng xuống?

Sư chào, bước ra, nhưng lại bước trở vào nói:

- Bên ngoài tối đen.

Sùng Tín thắp đèn đưa Sư. Sư toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó, Sư đại ngộ.

Sau khi đại ngộ, mới nhận ra ngàn kinh muôn luận chỉ là ngón tay giúp người nhận mặt trăng, không phải chính mặt trăng. Sư mang bộ Sớ sao chất trước pháp đường mà đốt. Nói: “Tột cùng các biện luận siêu huyền, chỉ như sợi lông trong hư không. Thông sạch các trọng yếu ở đời, chỉ như một giọt nước gieo trong biển cả”.

Cho nên, là kẻ tu thiền, nếu nhầm những kiến giải khởi lên trong tâm, cho là chỗ tâm chứng tột cùng, thì như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, không tránh khỏi lửa táp vào mình. Vì chúng chỉ là một loại Sở thuyết sự vọng tưởng, do ứng duyên mà hiện. Nếu chấp thủ chúng, tức cho chúng là thật thì chúng là nhân dẫn dến phiền não và trở thành một loại sở tri làm chướng ngại Bồ-đề.

3- Tướng vọng tưởng

Tướng vọng tưởng là đối với tướng các pháp mà khởi vọng tưởng. Như thấy đất liền khởi tưởng cứng. Thấy lửa liền khởi tưởng nóng. Nghe nói me liền khởi tưởng chua. Với con người, con vật hay một sự kiện nào đó, khi nhìn thấy chúng mà tâm khởi lên các thứ tưởng có liên quan, thì những liên tưởng đó gọi là Tướng vọng tưởng. Do chấp thủ tướng mà sinh khởi vọng tưởng, nên gọi là Tướng vọng tưởng.

Chấp thủ tướng là, do từng biết đất có tính cứng, nước có tính ướt, lửa có tính nóng v.v… rồi lưu giữ những thấy biết đó trong tạng thức. Khi đối duyên, y tướng đang thấy mà những chấp thủ được lưu giữ trong tạng thức theo đó sinh khởi. Kinh Lăng nghiêm nói “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn” là đây. Là cái thấy biết hiện tại không do đối duyên trực biết, mà do y vào những thấy biết quá khứ để biết. Thấy biết như vậy là gốc của vô minh, cũng là lấy vô minh làm gốc.

Do y tựa vào những gì đã được lưu giữ mà biết, nên nó là pháp duyên khởi. Duyên khởi thì không có chất thật, nên nói “vọng”. Do chấp thủ tướng mà tâm sinh khởi, nên nói “Tướng vọng tưởng”.

Tướng các pháp đều do duyên tạo thành. Duyên thay đổi thì tướng pháp thay đổi. Cho nên các thứ tưởng liên quan đến tướng các pháp tại một thời điểm nào đó chưa hẳn còn chính xác vào thời điểm sau. Như thấy lửa liền liên tưởng đến tính nóng. Nhưng lửa không phải khi nào cũng nóng. Với một hỗn hợp hóa học gồm 60ml cacbondisulfua (CS2) và 40ml tetraclorua cac bon (ccl4), tướng lửa vẫn còn mà tính nóng đã mất. Các nhà hóa học gọi nó là lửa lạnh. Như con người trước khi tu hành và sau khi tu hành có khi thay đổi một trời một vực. Ngài Angulimala, đệ tử của Đức Phật, trước khi đến với Phật là một kẻ sát nhân, sau khi làm đệ tử Phật thì tu quán từ bi, một con vật nhỏ cũng không khởi tâm giết hại. Từ bi quán có lực đến nỗi đủ để Tôn giả hồi hướng cho một phụ nữ sinh nở được bình an4. Cho nên, tướng pháp luôn biến dịch, không phải khi nào cũng cố định để những lưu giữ trong tâm khi nào cũng có giá trị.

Lại, cùng một tướng như nhau mà nhân duyên hình thành nên tướng đó khác nhau thì giá trị các tướng đó cũng không như nhau. Nếu thấy cùng tướng mà cho là giá trị như nhau thì khó tránh được sai lầm.

Khổng Tử, một lần dẫn học trò du thuyết sang Tề, có Nhan Hồi và Tử Lộ đi theo. Cả hai đều là học trò giỏi của Khổng Tử.

Trong thời Đông Chu, dân chúng lầm than đói khổ, thầy trò Khổng Tử cũng không thoát được cảnh đó. May thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử phân Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm. Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.

Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm, rồi cho cơm vào miệng. Chứng kiến cảnh ấy, Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời than: “Chao ôi! Học trò giỏi của ta mà lại đi ăn vụng…”. Sự liên hệ khởi tưởng từ tướng như thế, gọi là Tướng vọng tưởng.

Thật ra, Nhan Hồi không ăn vụng. Chỉ là vì khi giở nắp xem cơm, một cơn gió thổi qua, bụi trần rơi xuống làm bẩn lớp cơm trên. Ông quyết định ăn phần cơm bẩn đó để thầy và các bạn không phải mất thêm phần cơm cho mình.

Khổng Tử, do huân tập cái thấy bình thường của người đời, thấy tướng như thế và cho là đang như thế, nên kết luận Nhan Hồi ăn vụng, mà quên mất mặt nhân duyên của pháp. Là nhân duyên gì khiến tướng đó xuất hiện? Nếu xét nhân duyên thì hiểu Nhan Hồi vẫn xứng đáng là học trò giỏi của mình.

Cho nên, cái Tướng vọng tưởng này, tuy là vọng nhưng không phải dễ phá. Vì những sở tri đã huân tập sâu trong tiềm thức. Một bậc thánh như Khổng Tử, duyên là đệ tử giỏi nhất của mình, mà vẫn không thắng nổi phần sở tri đang mang, khiến khởi cái tưởng sai lầm, thì biết loại Tướng vọng tưởng này rất mạnh ở mỗi người.

Hầu hết chúng sinh đều mắc phải Tướng vọng tưởng này, dù đang là hành giả tu thiền. Sáu căn đối sáu trần, khởi phân biệt, rồi trên phân biệt lại sinh khởi vọng tưởng. Dù không có duyên bên ngoài, thì dòng tương tục bên trong cũng hiện hành liên tục. Niệm này làm duyên cho niệm kia sinh khởi, nối tiếp không ngừng.

Thiền, chính là sáu căn đối sáu trần mà tâm ở trạng thái hiện lượng. Tổ Trúc Lâm nói: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”.

4- Lợi vọng tưởng

Tâm ưa thích tham đắm các loại lợi dưỡng như châu báu, vàng bạc, tiền tài, đất đai… thì gọi là Lợi vọng tưởng. Vọng tưởng này do tài lợi mà xuất hiện, nên gọi là Lợi vọng tưởng. Vì tâm ưa thích tham đắm thuộc tâm, không thuộc cảnh, nên nói “tưởng”. Vì tâm ưa thích tham đắm có thể thay đổi, tức tâm ấy không có chất thật, nên gọi là “vọng”. Như khi chưa tu hành thì ưa thích vòng vàng, hột xoàn. Tu hành rồi thì thích nâu sồng và cháo rau qua ngày.

5- Tự tánh vọng tưởng

Tự tánh vọng tưởng là phân biệt tất cả pháp đều có thể tánh riêng, rồi chấp giữ không bỏ. Kinh nói: “Gìn giữ tự tánh này như thế chẳng đổi khác, gọi là Tự tánh vọng tưởng”. Loại vọng tưởng này xuất hiện do chấp các pháp có tự tánh không thay đổi, nên gọi là Tự tánh vọng tưởng. Các pháp duyên hợp, vốn không tánh cố định, giờ lại cho các pháp có tánh, nên nói “vọng”.

- Cho pháp có tính chất cố định, gọi là Tự tánh vọng tưởng. Như thấy lửa có tính nóng và lấy nóng làm tánh của lửa. Khi lấy nóng làm tánh của lửa cũng có nghĩa là nóng luôn đi kèm với lửa. Có lửa là có nóng. Thực tế thì không như vậy. Như loại lửa lạnh, tuy vẫn có lửa nhưng không còn tính nóng nữa. Cách chấp thủ lửa luôn nóng, được gọi là Tự tánh vọng tưởng.

- Thấy hành vi nhất thời ở một người, rồi lấy hành vi nhất thời đó cho tánh người đó là như vậy, cũng rơi vào loại Tự tánh vọng tưởng nói đây.

Anh là một người đàn ông rộng lượng, tiền bạc đi làm về đều giao hết cho vợ. Nhưng một thời gian sau, thứ mà mọi người thấy được ở anh là anh không giao tiền cho vợ nữa, và bắt đầu tính toán các chi tiêu trong gia đình. Một người không hiểu chuyện đã kết luận anh là người keo bẩn. Thực tế, có chuyện đó là vì người vợ chơi số đề. Tất cả tiền bạc được lấy ra phục vụ cho việc chơi đề. Trong cái duyên như vậy, anh bắt buộc phải nắm tiền bạc và phân bố chi tiêu trong gia đình để tránh tình trạng thất thoát do việc tham đề của vợ sinh ra. Nếu lấy một hiện tượng thấy được trong nhất thời quy kết thành tánh cố định của một người bất chấp nhân duyên, gọi là Tự tánh vọng tưởng.

Nếu có cái nhìn nhân duyên, là biết mọi hình tướng xuất hiện đều có nhân duyên thì chúng ta không vướng vào loại Tự tánh vọng tưởng này.

- Chúng sinh không có tánh cố định, nhưng gắn tánh cố định cho pháp thì gọi là Tự tánh vọng tưởng.

Chúng sinh là một hợp thể có rất nhiều loại chủng tử trong tạng thức. Xấu có, tốt có, không xấu không tốt cũng có. Dù khi còn ở dạng chủng tử trong tạng thức thì nó mang tính vô ký. Nhưng đủ duyên hiện hình thì tốt xấu phân minh.

Chủng tử nào đủ duyên sẽ hiện hành. Đủ duyên, là khi gặp trúng hoàn cảnh, trúng con người v.v… giúp cái chủng đó hiện khởi. Đây là lý do vì sao một người lương thiện vẫn có thể có những hành vi bất thiện. Một kẻ bất thiện có khi vẫn có các hành vi thiện, là do chủng tử ẩn trong tàng thức đủ duyên hiện hành hay chưa. Đó là quy luật hiện hành của tâm. Vấn đề xảy ra là do cái tưởng của mình. Mình hay quy nạp các hiện tướng đang có, rồi lấy các hiện tướng đó làm tánh của các pháp, pháp trở thành luôn là vậy, sai lầm mới xuất hiện.

Cho nên, người tốt với người này không hẳn đã tốt với người kia, người xấu vào lúc này không hẳn đã xấu vào lúc khác, người mình cho là tốt không hẳn đã là người hoàn toàn tốt v.v… Mọi thứ đều tùy duyên. Tùy duyên thì không tánh. Với cái nhìn duyên khởi như thế, chúng ta ít bỡ ngỡ đối với các việc ở thế gian, cũng ít sai lầm khi đánh giá một hiện tượng.

- Chấp thế gian này có thật, rồi đi tìm hạt cơ bản sinh ra thế giới này, tức cho vật chất có cội gốc riêng của nó, cũng thuộc loại Tự tánh vọng tưởng nói đây.

6- Nhân vọng tưởng

Nhân vọng tưởng, là những vọng tưởng có liên quan đến phần nhân duyên. Kinh nói: “Hoặc nhân hoặc duyên phân biệt có không, nên nhân tướng sinh, ấy gọi là nhân vọng tưởng”. Ngài Hàm Thị bàn rằng: “Đối với nhân duyên, khởi phân biệt có nhân tướng, không nhân tướng, nhân này thì duyên này, nhân kia thì duyên kia…”. Nghĩa là, do sự chấp thủ mà cảnh giới vọng tưởng trở thành như thật với chúng sinh. Trên cái như thật ấy lại khởi phân biệt tìm nhân, tìm duyên v.v… khiến vọng tưởng thêm tương tục, sự chấp thủ càng kiên cố.

Nhân duyên hay duyên khởi tuy là thực lý ở thế gian, tức không pháp nào không hình thành và hoại diệt theo duyên, nhưng nếu chấp vào đó cho là thật, thì không thể nào nhận lại được chân thể thanh tịnh. Như mu bàn tay với lòng bàn tay, nếu chỉ nhìn thấy mu bàn tay và cho đó là tất cả bàn tay, thì không còn cơ hội thấy được lòng bàn tay.

Hiện tượng chỉ là mặt biểu hiện của một chân thể thanh tịnh thông qua nhân duyên và nhân quả. Không chấp vào mặt hiện tượng thì mới có khả năng nhận ra mặt chân thể sẵn đủ trong mỗi người. Còn đã chấp vào mặt hiện tượng, tức cho những hiện tướng đó là thật, rồi y đó mà nảy sinh nhân này quả này, nhân kia quả kia v.v… thì rơi vào Nhân vọng tưởng nói đây.

Như hiện nay, nhân duyên nhân quả được ứng dụng khá tốt trong nhiều lãnh vực. Từ trồng trọt, chăn nuôi, pháp luật, giáo dục v.v… Do nắm được mặt nhân duyên này của pháp, nên nảy sinh việc nhân này sẽ cho ra quả này, nhân kia sẽ cho ra quả kia. Thế giới ngày càng phong phú về mặt vật chất thì cũng có nghĩa là vọng tưởng đang trên đà lừng lẫy. Kỹ thuật biến đổi gien trong công nghệ sinh học là một điển hình. Không chỉ dừng ở mặt biến đổi duyên mà phát triển luôn ở mặt biến đổi nhân. Đà phát triển đó chưa biết sẽ đưa nhân loại về đâu với những thứ như sinh sản vô tính v.v…5. Trung luận có phẩm Phá nhân duyên, là phá sự chấp thủ đối với nhân duyên để chúng ta ý thức chấm dứt loại Nhân vọng tưởng này, thể nhập chân thể rốt ráo.

7- Kiến vọng tưởng

Kiến vọng tưởng, chỉ cho những quan điểm rơi vào nhị biên phân biệt. Kinh luận thường đề cập đến Tứ cú “có, không, không có cũng không không, vừa có cũng vừa không” để nói về loại vọng tưởng này. Cho thế giới này là có, như nghiệp thức của chúng sinh. Cho thế giới này là không, như nghiệp thức của kẻ tu loại định vô tưởng... đều là những dạng của Kiến vọng tưởng.

Thô hơn chút là quan điểm sống của chúng ta. Nó được rút ra từ việc quy nạp các kinh nghiệm trong đời sống của mình.

Một người đến đâu, thấy cũng phải có tiền mới được việc ngay cả khi vào chùa, liền hình thành quan niệm “Tiền là tất cả. Chỉ cần có tiền là có tất cả”. Đó là một loại Kiến vọng tưởng, thuộc ác kiến. Sao gọi là ác kiến? Vì nó được hình thành do quy nạp các hiện tượng từ lòng tham của con người, không phát xuất từ lý thật. Một quan niệm như thế sẽ là tiền đề cho các ác nghiệp về sau, nên gọi là ác kiến.

Người có cái nhìn tương ưng với lý thật ở thế gian thì biết phước và trí mới là cái quyết định tất cả. Hình thành nên cái thấy như vậy cũng là một loại Kiến vọng tưởng, nhưng loại vọng tưởng này thuộc thiện kiến. Vì nó tương ưng với lý chân thật, và là tiền đề giúp người hành thiện trong hiện tại và tương lai.

Người nông dân, có cái nhìn của người nông dân. Người tri thức, có cái nhìn của người tri thức v.v... Tất cả đều bắt nguồn từ việc huân tập học hỏi và kinh nghiệm trong quá khứ.

Tất cả đều do huân tập chấp thủ mà có, không có chất thật, không huân tập nữa thì mất, nên nói vọng tưởng.

Hệ quả là…

1- Sản sinh ra nhiều cái thấy khác nhau. Do loại Kiến vọng tưởng này mà trên cùng một hiện tượng, lại có nhiều cái nhìn khác nhau. Người thấy thế này, kẻ thấy thế kia.

Các tự viện hay thiền thất ở Nhật Bản thường có lệ là thiền khách nào muốn qua đêm tại đó thì phải đủ trí thắng được thiền chủ. Trong một thiền thất kia có hai vị, sư huynh là người có trí tuệ, nhưng sư đệ thì căn tánh không được lanh lợi, lại bị chột một mắt. Vì vậy, ông ít khi ra ngoài tiếp khách, chỉ loanh quanh trong bếp trong vườn là chính.

Một lần, sư huynh vừa ra khỏi cửa thì có một thiền khách đến vấn thiền. Lão đệ dù muốn hay không cũng phải tiếp khách. Biết mình không có trí, nên chủ trương dùng tay nói chuyện là chính.

Thiền khách vừa ngồi xuống liền đưa một ngón tay lên.

Sư đệ thấy vậy, đưa lên hai ngón.

Thiền khách liền đưa lên ba ngón.

Sư đệ nắm tay lại đấm vào mặt thiền khách.

Thiền khách lập tức đứng dậy bỏ đi.

Ra đến cổng, thiền khách gặp vị sư huynh. Ông báo là mình đã thua cuộc và không ngớt lời khen vị sư đệ.

Sư huynh hỏi việc, thiền khách trả lời: “Tôi đưa một ngón tay lên, ý nói Đức Phật độc tôn. Sư đệ thầy thấy vậy liền đưa ra hai ngón tay, ý nói ngoài Phật còn có pháp. Tôi liền đưa ba ngón tay, muốn nói ngoài Phật và Pháp còn có hàng đệ tử Phật. Sư đệ thầy thấy vậy liền đấm vào mặt tôi, muốn nói rằng cả ba đều khởi từ nhất thể. Tôi thua nên đứng dậy đi”. Sư huynh nghe xong, bước vào thiền thất.

Vừa vào thiền thất đã thấy sư đệ chạy tới, bực bội: “Lúc nãy có một thầy dở hơi hết sức. Vừa ngồi xuống đã chế giễu việc chột mắt của đệ. Nhưng đệ nhịn, vẫn đưa ra hai ngón tay, ý muốn nói thầy có phước nên đủ hai mắt. Không ngờ thầy ta vẫn không buông tha đệ, đưa ra ba ngón tay muốn nhấn mạnh dù có thầy đi nữa thì cộng lại cũng chỉ mới ba. Đệ tức quá tính đấm vào mặt thầy thì thầy đã đứng dậy bỏ đi”6.

Đồng căn đồng khí thì thấy như nhau. Không đồng căn đồng khí thì thấy khác nhau. Thế gian này trở thành muôn màu muôn vẻ là vậy.

2- Nhìn sự vật không còn đúng như chính nó. Người đời thường nói: “Kẻ mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa”. Chúng ta thường nhìn thế giới qua lăng kính của chính mình, ít nhìn thế giới đúng như chính nó. Kiến vọng tưởng chính là thứ trợ duyên đắc lực cho Tướng vọng tưởng.

Tô Đông Pha là bạn của Thiền sư Phật Ấn. Một lần Tô Đông Pha hỏi Thiền sư Phật Ấn:

- Thầy thấy tôi ngồi thiền thế nào.

Phật Ấn trả lời:

- Như Phật.

Phật Ấn hỏi ngược lại.

- Ông thấy tôi ngồi thiền thế nào?

Tô Đông Pha trả lời:

- Như đống phân bò.

Trả lời xong, hý hửng mang về khoe với em gái mình.

Tô tiểu muội là người am hiểu thiền pháp, lắc đầu trả lời:

- Tâm thầy như tâm Phật thành nhìn anh ngồi như Phật. Tâm anh như đống phân bò nên nhìn thầy ngồi như đống phân bò.

Câu chuyện cho thấy phần Kiến vọng tưởng trong mỗi người ảnh hưởng đến cảnh như thế nào.

3- Quyết định nghiệp mệnh của con người. Kiến vọng tưởng tuy chỉ là một loại vọng tưởng, nhưng nó lại là thứ có thể quyết định hạnh phúc hay đau khổ của một con người khi chưa đạt quả vị thánh. Triết gia Schopenhauer có một ví dụ khá lý thú cho loại Kiến vọng tưởng này. “Một con khỉ nhìn vào gương, không mong gì có một thiên thần nhìn ra”7. Nó nói lên tầm quan trọng của loại Kiến vọng tưởng đối với nghiệp mệnh của một con người.

Vì ý nghiệp là chủ của thân hành và khẩu hành nên khi ta có những tư kiến phù hợp với chân lý, cuộc sống của ta hạnh phúc. Nếu có những tư kiến đi ngược với chân lý, rơi vào tham-sân-si, cuộc sống của ta sẽ đau khổ. Thành ra, muốn chuyển đau khổ thành hạnh phúc thì phải chuyển cho được loại Kiến vọng tưởng này. Tư kiến chưa chuyển thì khó mà nghiệp mệnh chuyển được. Vì thế, trong Bát chánh đạo, chánh kiến đứng đầu. Đó là việc đầu tiên cần trang bị cho hành trình học đạo của một hành giả tu Phật.

Song dù là cái thấy nào, tương hợp hay không tương hợp với chân lý, thì đối với tự tâm thanh tịnh cũng đều là hư vọng, chỉ do chấp cảnh mà hình thành. Vì thế, muốn thể nhập chân tâm thường trụ thì phải dứt sạch tất cả các loại kiến. Trung đạo là con đường duy nhất thể nhập Đại đạo mà ai cũng phải qua. Chỉ khi ấy, chúng ta mới có khả năng nhìn thế giới này đúng như bản chất của nó.

8- Thành vọng tưởng

Kinh nói: “Tưởng ngã và sở tạo thành luận quyết định, ấy gọi là Thành vọng tưởng”. Là muốn nói đến những luận cứ hay học thuyết mang tính quyết định. Ngã là chỉ cho năng tạo. Sở tạo là chỉ cho các học thuyết mang tính quyết định ấy. Đã nói ngã thì luận thuyết ấy thường mang tính chủ quan. Từ cái chủ quan ấy mà tạo ra các học thuyết thì học thuyết ấy không tránh được sai lầm, nên nói “vọng tưởng”. Như Newton, từng cho rằng không gian là một thực thể độc lập, thời gian cũng là một thực thể độc lập. Nhưng hiện nay, với cái nhìn của Einstein, nó không như vậy nữa.

Kinh luận của Phật giáo không mang tính quyết định mà mang tính tùy duyên. Chỉ là ứng cơ mà hiện, như gặp bệnh cho thuốc. Bệnh hết thuốc cũng bỏ. Bệnh này thì thuốc này. Bệnh kia thì thuốc kia. Vì bệnh của chúng sinh vô biên nên kinh luận trở thành vô số. Đều do ứng cơ mà lập. Lập là tùy duyên, không mang tính quyết định. Cho nên trong kinh Lăng-già, Phật nói: “Tất cả pháp chẳng sinh. Bồ-tát chẳng nên lập tông ấy”. Tất cả pháp chẳng sinh là việc mà ba đời Như Lai đều nói đến, nhưng Phật không cho lập tông. Vì đó là lời nói ứng cho kẻ bất giác, không phải ứng cho kẻ giác. Chỉ vì muốn chúng sinh lìa các chấp trước nên nói tất cả pháp không sinh. Nếu lập tông chẳng sinh thì sẽ vọng thấy tướng sinh v.v…8.

Một học thuyết, dù có giá trị phục vụ nhân sinh trong hiện tại, cũng chỉ là pháp tùy duyên. Vì bản chất các pháp ở thế giới này là vậy. Tùy duyên, nên nó có thể mang lại lợi ích cho nhân sinh vào lúc này mà chưa hẳn đã mang lại lợi ích cho nhân sinh vào lúc khác. Hiểu được tính duyên khởi này của pháp thì chúng ta sẽ không có tư tưởng cố định trong việc dùng pháp. Nhưng dù là quyết định hay không quyết định thì bản chất của các luận thuyết đều là hư vọng. Phật pháp nếu chấp trước còn được gọi là Sở thuyết sự vọng tưởng, huống là các học thuyết ở đời mà đôi khi chỉ mang tính giả thuyết.

9- Sinh vọng tưởng

Đây là chỗ chấp của ngoại đạo. Cho là tất cả pháp, có hay không đều là duyên sinh, nhưng duyên có thì hiện, duyên không thì không, không có nhân quả. Cái chấp này là một loại vọng tưởng, vì nó trái với lý thật chi phối thế giới này. Do chấp vào tướng sinh của các pháp mà hình thành, nên nói Sinh vọng tưởng.

10- Bất sinh vọng tưởng

Hàng ngoại đạo này cho rằng “Tất cả tánh vốn không sinh, không có chủng tử nhân duyên, thể sinh là vô nhân”. Ngài Hàm Thị giải thích như vầy: “Tất cả pháp không có nhân sinh, không do duyên khởi, như cò nhất định trắng, quạ nhất định đen, bỗng nhiên mà hiện, không có tánh sinh”. Tức cho pháp nào có tánh nhất định của pháp đó, không có sự thay đổi, không do nhân duyên mà thành. Cái nhìn này, đối với thời đại bây giờ, không phải là cái nhìn chính xác. Bởi thời này, không giải quyết nào không đặt nền tảng trên nhân và duyên. Thứ gì cũng có khả năng thay đổi được. Ngành công nghệ sinh học hiện nay, không chỉ thay đổi duyên để quả được sai khác, mà còn có thể tác động trực tiếp vào nhân để thay đổi quả theo chiều hướng mong muốn của họ.

Luận sâu hơn, nếu không có chủng tử nhân duyên thì do đâu từ cái “vốn không sinh” đó lại có thể sinh ra vô vàn thế giới như hiện nay? Nếu không có nhân duyên thì dựa vào đâu để giải thích sự sai biệt ở loài người cho đến muôn vật trong thế giới này? Và nếu không có sự thay đổi thì phàm phu không thể thành thánh nhân, từ chỗ sinh khởi như hiện nay không thể một lần trở về chỗ “vốn không sinh” để rồi chấp trước vào đó, mà lập thành loại vọng tưởng bất sinh này. Cho nên, sinh hay không sinh là cái thấy tùy duyên, không thể lập tông. Thấy thì không lỗi mà lỗi ở chỗ lập tông. Lập tông thì tướng tùy duyên không thật liền thành chân thật. Nhưng chỗ chân thật thì không thuộc sinh cũng không thuộc bất sinh, lìa tứ cú, tuyệt bách phi.

11- Tương tục vọng tưởng

Kinh nói: “Tương tục vọng tưởng là kia đồng tương tục, như kim với chỉ, ấy gọi là tương tục vọng tưởng”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Tất cả pháp do hòa hợp mà thành. Như không và sắc, như bình và đất với nước. Bởi lệ thuộc bởi nhau mà thành tất cả pháp”. Là nói đến tính duyên khởi của pháp. Do duyên khởi mà có tương tục. Đây là cái nhìn không trái với chân lý. Nhưng nếu chấp vào đó cho là chân lý thì Phật gọi là Tương tục vọng tưởng, là loại vọng tưởng được hình thành do chấp vào mặt tương tục của pháp mà ra. Cái tương tục ấy, chỉ là mặt hiện tượng của một tánh thể không. Chính vì thể ấy không, mới cho phép các pháp theo duyên mà hiển tướng tương tục.

12- Buộc không buộc vọng tưởng

Kinh nói: “Chấp trước nhân duyên buộc cùng không buộc như sĩ phu dùng phương tiện hoặc buộc hoặc mở, ấy gọi là buộc không buộc vọng tưởng”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Có năng buộc thì có sở buộc. Buộc hay mở là do ta. Sức chấp phương tiện mà sinh phân biệt”. Phương tiện lập nên là tùy căn cơ chúng sinh. Có buộc thì mới có giải. Không buộc thì cũng không giải. Tức phương tiện không có chất thật, chỉ tùy duyên mà hiển, hết duyên liền không.

Trong việc tu hành, có hành giả cần đến phương tiện mà có hành giả không cần đến phương tiện. Không cần mà dùng thì liền thành trói buộc. Như Trúc Lâm Đại Đầu Đà hỏi Tuệ Trung thượng sĩ về việc nhẫn nhục và giữ giới. Tuệ Trung thượng sĩ trả lời: “Giữ giới cùng nhẫn nhục, chiêu tội chẳng chiêu phước…”. Không phải ai tu hành cũng đều phải nhẫn nhục và giữ giới. Với người tham sân còn nhiều thì cần phương tiện nhẫn nhục và giữ giới. Nhưng với người mà nhẫn nhục và giữ giới đã thuần, tham sân không cần đối trị nữa, mà cứ duy trì hai pháp đó thì như đi thuyền, muốn lên bờ mà vác thuyền theo, không thể nào lên bờ. Tâm chân thật vô trụ, còn trụ pháp nào thì còn tự buộc mình vào pháp ấy, không thể nhập chỗ vô trụ được. Cho nên đối với phương tiện mà chấp thì Phật gọi là Buộc không buộc vọng tưởng.

Kết luận

Trên đây là 12 loại vọng tưởng được nói trong kinh Lăng-già. Người vô trí không biết nên theo đó mà chấp trước. Kẻ có trí thì hiểu đó mà trừ đoạn. Kinh nói: “Người giác tự tâm hiện chẳng nên ở đó mà khởi tưởng có, không, khác, chẳng khác…”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Mê duyên khởi thì thành Biến kế. Đạt Duyên khởi tức là Viên thành”. Cùng là Y tha khởi, chỉ do mê và ngộ mà thành khác đường. Mê thì thành Biến kế. Ngộ thì hay Viên thành.

Chân Hiền Tâm

_______________

(1) Kinh Lăng-già tâm ấn. Đại sư Hàm Thị trực giải. HT.Thanh Từ dịch và chú.

(2) Kinh Lăng-già tâm ấn. Đại sư Hàm Thị trực giải. HT.Thanh Từ dịch và chú.

(3) Hương Nghiêm Trí Nhàn. Thiền sư Trung Hoa tập II. HT.Thanh Từ soạn dịch.

(4) Kinh Angulimala - kinh Trung bộ tập II.

(5) Francis Fukuyama. Tương lai hậu nhân loại. Hà Hải Châu biên dịch.

(6) Tranh biện để được tạm trú - 101 câu chuyện thiền (Góp nhặt cát đá - Thiền sư Vô Trú). Trần Trúc Lâm Việt dịch.

(7) Schopenhauer. Câu chuyện triết học. Bửu Đích và Trí Hải biên dịch.

(8) Lời trực giải của Đại sư Hàm Thị trong Lăng-già tâm ấn. HT.Thanh Từ dịch và chú.

Nét đẹp trì bình khất thực trên đất Thái Lan

Nét đẹp trì bình khất thực trên đất Thái Lan

Đăng lúc: 07:27 - 08/03/2017

Có thể khẳng định, vấn nạn giả sư đã cướp đi cơ hội - phương tiện để mang hình ảnh đẹp của những nhà sư lặng lẽ xếp thành hàng trì bình vào những buổi sáng: bước vào cuộc đời, vào từng ngõ ngách xóm làng để tạo duyên cho người gieo duyên với Tam bảo ngay trên chính trên quê hương Việt Nam mình.
tribinh.jpg
Nét đẹp trì bình và gieo duyên với Tam bảo của người dân nước Phật giáo - Ảnh: Pixabay

Tôi đã trì bình khất thực ở Thái Lan...

Tôi đã từng yêu quý chiếc y và hình ảnh của một nhà sư ôm bát trì bình ngang qua nhà mình khi còn rất nhỏ, đó như là hình ảnh đánh thức hạt giống lành trong tiềm thức rồi sau đó phát tâm xuất gia để được trở thành hình ảnh đó. Thực sự không còn niềm hạnh phúc nào bằng khi tự mình đắp y mang bát đi khất thực trì bình vào những buổi sớm mai một cách tự do và không sợ bị dòm ngó thật-giả, đúng-sai như một sự thực tập đức hạnh khiêm cung cần có và tự nhắc mình là Khất sĩ - xin ăn tu học, lấy phẩm thực để nuôi thân, pháp hành để nuôi trí.

Với cơ duyên du học tại Thái Lan, ngoài những ngày học chính thức tại trường, vào những ngày cuối tuần hoặc ngày Phật nhật (4 ngày trong tháng - như ngày rằm tại VN) thì tôi có nhiều cơ hội để tiếp xúc và thực tập truyền thống tốt đẹp này ngay tại thủ đô Bangkok - một thành phố hiện đại bậc nhất của Thái Lan.

Khi trời vừa hừng sáng, đúng 5 giờ sáng là tôi thức dậy vệ sinh cá nhân, lấy y, ôm bát - bát ở đây được làm bằng bạc hoặc nhôm và được bao bọc bên ngoài bởi chiếc thẩu mây và có dây đeo ngang bên vai phải để đỡ mỏi tay khi ôm bát đi đường dài quanh khu vực chùa nơi mình cư trú hoặc xa hơn.

Vừa bước ra khỏi cổng là đã thấy người dân trải những chiếc chiếu nhỏ, quỳ bên lề đường, đặt một mâm thức ăn trước mặt để đợi Tăng đoàn đi ngang qua mà dâng cúng. Điều đặc biệt là họ phải thức dậy thật sớm, sớm hơn các nhà sư để chuẩn bị thức ăn cúng dường, thường là cơm, xôi, trái cây và vài cái bánh để thể hiện tấm lòng tôn kính cũng như sự chuẩn bị chu đáo cho phẩm thực cúng dường của mình. Đôi khi những Phật tử này phải thức cả đêm để gói bánh và ngồi canh nồi cơm chín.

Khi thấy các sư đi ngang qua, lần lượt người dân không ai bảo ai, tự lấy thức ăn bỏ vào trong bát dâng lên cúng dường và nhờ các sư chú nguyện.

Khi ấy, mọi người vừa thấy tôi bước đến thì nở nụ cười như ra hiệu muốn cúng dường, và thế là tôi nhẹ nhàng đứng lại để họ quỳ xuống chắp tay trang nghiêm theo nghi thức truyền thống cúng dường của người Thái. Sau khi bỏ thức ăn vào bát cho chư Tăng và mỗi tín chủ sẽ thọ nhận lại lời kinh cầu nguyện sớm mai từ sự gia tâm chú nguyện của Tăng đoàn (riêng tôi thì những ngày đầu còn nhiều bỡ ngỡ nên chưa thể tụng kinh bằng tiếng Pali, khi ấy tôi nhẹ nhàng tụng phẩm hồi hướng công đức bằng tiếng Việt để gửi trao năng lượng bình an đến họ - NV), cứ thế tôi lại thấy họ cười và hoan hỷ vô cùng như để bắt đầu một ngày mới ngập tràn niềm tin.

Sau khi nhận đủ thức ăn, tôi quay người trở lại con đường cũ để trở về chùa thọ dụng phần thực phẩm mà mình đã nhận được và phần nào còn dư lại tôi để dùng chung với thức ăn độ ngọ được nấu vào buổi trưa. Riêng, vào những ngày lễ lớn, thức ăn cúng dường hơi nhiều thì các vị cư sĩ hay còn gọi là hộ bát xách giỏ đi theo bên cạnh nhà sư trong lúc trì bình để hỗ trợ chư Tăng xách đồ, sau khi được chú nguyện xong thì họ mang chuỗi thức ăn dư về lại cho những người nghèo khó trong xóm hoặc gửi đến các trung tâm nuôi trẻ mồ côi - phúc lợi xã hội gần chùa như một sự cho - nhận tiếp nối, đầy nhân văn.

Xong buổi sáng khất thực vào ngày cuối tuần tại đất nước Thái Lan, tôi lại lên đường tiếp tục đi dạy tiếng Anh miễn phí cho trẻ em nghèo trong vùng. Lớp học được bắt đầu vào lúc 7 giờ sáng cuối tuần, hôm nào các em cũng tập trung lại từ rất sớm tại phòng học trong khu ký túc xá mà mình đang ở. Thấy tôi đến, các em vội đứng lên chắp tay chào và quỳ xuống làm lễ (lạy) theo truyền thống. Theo đó, sẽ có hai em đại diện dùng thau nước sạch và khăn để lau chân cho nhà sư mà cũng vừa là thầy giáo của mình để thể hiện niềm tôn kính.

Sở dĩ có truyền thống đó vì tại Thái Lan, Tăng sĩ đóng vai trò hết sức quan trọng trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước, tạo nên một mối liên hệ mật thiết lâu đời giữa các Tăng sĩ và quần chúng nơi mình đang ở. Các ngôi chùa sẽ là những trung tâm văn hóa, học thuật và giáo dục, trong đó các nhà sư luôn được coi là thầy giáo về mặt tâm linh lẫn học thức ở đời - để hướng dẫn, dìu dắt, nuôi dưỡng những thế hệ tiếp nối, phụng sự đất nước mình trên tinh thần đạo đức nhà Phật. Ngoài ra, Tăng sĩ còn được xem như “thẩm phán” để khuyên nhủ, giải quyết và giúp đỡ những mối quan hệ bất hòa trong gia đình và xã hội khi chưa thật sự cần đến sự can thiệp của pháp luật.

Mong ước đơn sơ của một Khất sĩ

Phải chăng, trăm vạn ngôn từ có khi không bằng một hình ảnh thảnh thơi bình dị thật sự chín muồi của một Tăng sĩ nhẹ nhàng, tươi mát, thật tu, thật học, đắp y - mang bát bước đi trên những cung đường đầy tấp nập của chợ-đời để trao truyền, tiếp nối và thức tỉnh cái duyên của đạo cho những ai đã gieo trồng từ vô thủy vô chung?

Thực ra, sự bình dị, khiêm cung từ lời nói đến hành động là bản chất vốn có của người xuất gia học Phật, khi luôn thấy mình nhỏ bé, cầu học và biết dừng lại đúng lúc - đó là những yếu tố trọng yếu cần có ở những người tu trẻ như tôi, thấy rằng phép khất thực là cách tự dạy, tự học, tự nhắc mình hữu hiệu nhất bằng thân giáo để yểm trợ và dưỡng nuôi chính mình từ bài học không lời mà mình phải ôn, phải luyện mỗi ngày từ các bậc tiền nhân đi trước. Khi ấy các ngài cũng đã từng mang đạo vào đời bằng chính đôi chân, bằng mảnh y, bằng chiếc bát của Phật để vân du trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này.

Mơ rằng, một ngày nào đó tôi và những huynh đệ có thể lại được tiếp tục thực hiện phép khất thực ngay trên chính quê hương mình chứ không phải thực hiện ở một nơi nào khác hay tại một đất nước nào đó như đã kể trên. Biết rằng vẫn còn nhiều những bất cập, những khó khăn nhưng đừng vì sự lợi dụng của những người giả sư để rồi “thỏa hiệp”, đánh mất đi hình ảnh thiêng liêng, bài học đạo-đời giá trị mà đã ít nhiều làm bừng tỉnh biết bao con tim khi có duyên lành được hội ngộ, được nhìn thấy và đem lòng kính phục, tiếp nối - trở thành những “thạch trụ tòng lâm” mai sau.

Và rằng đừng để phép khất thực được xem là điều tế nhị nữa, khi đấy là món ăn thực dưỡng tâm linh hết sức quan trọng và rất cần thiết cho những người xuất gia trẻ, chuyên chở bài học khiêm cung, bình dị và tập nhận diện chính mình giữa một xã hội ngày càng thêm trăm điều cám dỗ...

Những người có quyền lực khiến cho người khác phải tôn trọng

Những người có quyền lực khiến cho người khác phải tôn trọng

Đăng lúc: 07:29 - 04/01/2017

Những người có nhiều quyền lực khiến cho người khác phải tôn trọng ngoài sự nỗ lực, gắng sức của chính vị ấy còn có sự trợ duyên của phước báu mà họ đã tạo từ đời trước lẫn hiện tại và nay nhân duyên chín mùi, thiện nghiệp hội đủ nhân lành cho quả tạo nên uy quyền trợ duyên cho vị ấy nhiều điều kiện thuận lợi trong việc tầm cầu tài sản và có đòn bẩy tốt để thực hiện ước mơ, nguyện vọng của mình được thuận lợi, suôn sẻ hơn.


Những người có quyền lực khiến cho người khác phải tôn trọng
Đức Phật là người có quyền lực khiến cho người khác phải tôn kính.
Trong kinh điển, Đức Phật có nói về nhân lành tạo dựng phước báu để có được quyền thế lớn như sau:
"Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không có tật đố, đối với những người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, không sanh tật đố, không sanh tâm, không ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp ấy... thiện thú... quyền thế lớn. Con đường ấy đưa đến quyền thế lớn, này Thanh niên, tức là không tật đố... không ôm ấp tật đố."
(Trung Bộ Kinh Majjhima Nikaya 135. Tiểu kinh Nghiệp phân biệt (Cùlakammavibhanga sutta).

Lời bàn:
Khi tu tập rèn luyện tâm xả ly được sự ghen ghét, đố kị khi thấy người khác có được quyền uy hay họ thành tựu được những điều tốt đẹp khác trong cuộc sống về các mặt như được cung kính, tôn trọng,đảnh lễ, cúng dường thì đây chính là con đường đem lại sự an vui và lợi ích lớn lao lâu dài, tạo dựng nên phước lành cao thượng để có quyền thế trong tương lai và là đạo lộ đưa đến những cảnh giới tái sanh an lành trong kiếp lai sinh nếu được thiện nghiệp trợ duyên trong thời cận tử.
Tật đố là một loại tâm sân si, phiền não mang lại phiền não khổ đau ngay trong hiện tại đôi khi dẫn đến những hành động cản trở sự thành tựu của người khác và tự mình hại mình vì đã tạo nên ác nghiệp và về sau sẽ gặp phải những chướng ngại, trắc trở trên bước đường thực hiện sở nguyện của mình tương xứng với ác nghiệp đã gieo theo quy luật nhân quả công bằng và phân minh.
Hạn chế tối đa tật đố bằng việc tu dưỡng nhân tâm, rèn luyện đạo đức chính là nhân lành đưa đến sự an vui, hạnh phúc và bình an lâu dài.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Thiên An

Làm sao gỡ dính mắc?

Làm sao gỡ dính mắc?

Đăng lúc: 22:59 - 18/12/2016

Trong lúc gửi đi một cái email nhẹ nhàng không có file đính kèm, tôi chợt nhớ - và gần như đó là phút giây giác ngộ tức thì - về quan điểm không dính mắc trong đạo Phật.

godinhmac.jpg
Chúng ta bị dính mắc nhiều thứ thuộc về năm món dục của thế gian
(danh, sắc, tài, thực - ăn uống, thùy - ngủ nghỉ), nên cần quán niệm để gỡ dần - Ảnh minh họa

Có một ngày nọ, vì rơi vào cao điểm của công việc, tôi phải xử lý mấy chục cái email quan trọng, mà cái nào cũng có rất nhiều thông tin hình ảnh gửi qua file đính kèm (attachment). Đó lại là khoảng thời gian mạng bị hư suốt, chập chờn lúc được lúc không, còn tài liệu thì cái nào cũng gấp. Chúng tôi tìm mọi cách để chuyển các file đính kèm đi, các bên than phiền nhau, không ai hài lòng về nhau… Đối với những việc tối quan trọng hay đối tác lớn, tôi phải cử người chạy đến trực tiếp đưa cái ổ đĩa cứng vì không thể gửi chúng qua internet.
Suốt một ngày cả văn phòng phải tập trung toàn bộ tâm trí vào cái tài liệu đến nỗi vào cuối ngày, không ai nói với ai một lời, vẻ mặt mệt mỏi gần như nhau. Tôi rời văn phòng trong trạng thái đờ đẫn, đầu óc cứ chập chờn hình ảnh tài liệu…

Ngày hôm sau, khi mọi việc được giải quyết ổn thỏa, tôi không còn phải gửi gì qua lại cho đối tác nữa. Email lúc này chỉ đơn giản gọn nhẹ vài dòng. Trong lúc gửi đi một cái email nhẹ nhàng không attachment, tôi chợt nhớ - và gần như đó là phút giây giác ngộ tức thì - về quan điểm không dính mắc (non-attachment) trong đạo Phật.

Rõ ràng, gửi một cái email không có file đính kèm thì bao giờ cũng nhanh gọn hơn là có file đính kèm. Cuộc sống cũng không khác gì về điều này.

Chúng ta dính mắc vào quá nhiều thứ trong cuộc sống, đó là điều tất yếu không thể tránh khỏi. Vì sống là tương quan giao tế giữa nhiều mối quan hệ trong cộng đồng. Các nhu cầu sống, dù cơ bản hay nâng cao, thì đều có những thứ ta cần đến không bao giờ dứt được.

Chúng ta dính mắc vào internet. Không có internet một ngày, chúng ta cuống cuồng lên, loay hoay trong mớ thông tin ứ đọng. Internet đã mang đến cho con người sự thuận tiện thì cũng giam con người trong chính cái lồng tưởng rộng lớn của nó. Một ngày không có internet, văn phòng loạn xạ, công việc ngưng trệ, con người cau có với nhau. Ai cũng sẵn sàng nói những lời bực dọc.

Chúng ta dính mắc các tiêu dùng. Cô bạn thân của tôi có thói quen chỉ mua giày và túi xách hàng hiệu. Thời hoàng kim, thu nhập tốt giúp cô thỏa mãn việc bất cứ lúc nào cô cũng có thể mua những món đồ trong cửa hiệu sang trọng. Thói quen này còn đưa đến cho cô ấy một tính cách khá kỳ cục, là nếu cô thấy ai mang giày và túi xách mà không phải hàng hiệu, thì cô sẽ nhìn họ cười nhẹ, hoặc tỏ ra chê bai. Cho đến một ngày, cô thất nghiệp và ly hôn, hai thứ đó đến một lúc và kéo dài cả năm trời. Thời gian đầu, cô không chấp nhận nổi điều đó. Cô than thở, cô khóc lóc thường xuyên. Có lần tôi còn thấy cô điên cuồng đi mua sắm để thể hiện đẳng cấp của mình, bởi cô không muốn ai nhìn thấy mình trong bộ dạng thất bại. Nhưng cuộc sống có những dòng chảy riêng không theo ý mình. Khi những đồng tiền để dành đã cạn, cô giật mình trở về thực tại. Cô ru rú ở nhà một mình không gặp ai, bạn bè rủ đi chơi cô đều từ chối, vì lý do, nếu đi mà không mua sắm đúng đẳng cấp thì mất thể diện lắm.

Chúng ta dính mắc vào ái tình. Anh bạn thân của tôi từ bé, rất tốt tính, chơi với bạn bè thoải mái phóng khoáng không chê trách điều gì. Anh ấy đã có gia đình đầm ấm nhưng vẫn có thói quen có tình nhân bên ngoài. Vì tôi là bạn thân từ bé nên anh ấy rất hay kể lể. Có đôi khi đi chơi với tình nhân về, nỗi ân hận lên ngôi lại gọi tôi ra cà-phê để chia sẻ như hai thằng đàn ông. Anh ta khẳng định rằng anh ta không hề thấy hạnh phúc thực sự khi ngoại tình, nhất là khi bước vào nhà đối diện với các con. Nhưng anh ta bảo rằng những cuộc tình như vậy nó dính vào người anh không thể dứt, chúng giúp anh giải tỏa những căng thẳng từ gia đình và công việc một cách tạm thời. Những lúc tỉnh táo, anh cũng biết là mình đang sai, nhưng cái cảm xúc thú vị của những cuộc tình bên ngoài làm anh không thể dứt ra.

Cũng một người bạn khác của tôi, giữ một vị trí rất lớn trong một tập đoàn đa quốc gia. Cô ấy làm việc một ngày hơn 16 tiếng đồng hồ trong suốt 10 năm liên tục như thế. Cô ấy bị bệnh đau dạ dày nặng và thoát vị đĩa đệm. Tôi đã khuyên cô ấy rất nhiều lần rằng cần phải nghỉ ngơi để bảo vệ sức khỏe, thứ quý giá nhất của bản thân. Cô ấy bỏ ngoài tai mọi lời khuyên cho đến ngày cô ấy không thể ngồi dậy được nữa, phải nằm một chỗ. Trong lúc nằm cô ấy vẫn nghĩ đến núi công việc và cứ bị nỗi ám ảnh là nếu mình nằm như thế quá lâu thì vị trí của cô sẽ bị thay thế. Quyền lực là một nỗi đam mê rất lớn trong đời sống này.

Một vài ví dụ để thấy rằng khi ta dính mắc vào một điều gì nào đó, thì chính là nỗi khổ đang ôm lấy ta. Có người nhận ra mình đang khổ, có người không nhận ra. Từ khi sinh ra cho đến khi mất đi, ta sẽ vướng vào vô số dính mắc, mà nếu không nhìn thấy ánh sáng thì ta sẽ đi như vậy cho đến lúc ta đi đến chỗ không thể quay đầu.

Làm thế nào để gỡ dính mắc? Hãy bắt đầu từ những bước nhỏ nhất, cụ thể với 3 điều sau:

• Quán vô thường: Vạn vật vô thường và ta cũng không ngoại lệ. Ta và những cái chung quanh ta đều sẽ thay đổi theo thời gian. Đừng để cảm xúc và tâm trí của bản thân trú ngụ hoàn toàn vào một điều nào đó. Trong lúc đang vui hay đau khổ, hãy nhớ rằng những việc đó rồi sẽ có lúc thay đổi. Chuẩn bị tâm thế đó giúp ta sớm nhìn thấy những tia sáng đầu tiên của việc thoát khỏi dính mắc.

• Quán vô dục: Hãy nhìn sâu vào những nhu cầu, những cơn thèm khát của bản thân từ mọi phía, từ vật chất đến tình cảm, để thấy rằng chúng có hai mặt, một mặt tươi đẹp mà mắt thường và tâm vô minh sẽ dễ thấy. Và một mặt khác, sâu hơn, đó là những khổ đau do chúng mang lại, mặt này khó thấy hơn. Ngạn ngữ Pháp có câu đơn giản: Cái gì nhiều quá cũng không tốt (tout excès est mauvais). Hiểu vậy để thấy biết đủ với mọi nhu cầu. Khởi đầu của biết đủ là khởi đầu của hành trình thoát khỏi dính mắc.

• Quán hơi thở: Quan sát hơi thở để thấy rằng, đó là nguồn sống, là gia tài cốt lõi của bạn. Nhờ có hơi thở mà bạn biết bạn đang hiện diện ở đây, trong cuộc đời này. Không có hơi thở, những dính mắc cũng chỉ là những hạt bụi bay giữa luân hồi.
Xuân Phượng

Đạo Phật & trí thức trong thời đại mới

Đạo Phật & trí thức trong thời đại mới

Đăng lúc: 08:51 - 31/10/2016

Bài viết này đề cập đến vai trò của đạo Phật đối với trí thức trong thời đại mới, thời đại phát triển của khoa học công nghệ và một xã hội tiêu thụ tiện nghi vật chất nhưng cũng đầy áp lực, bế tắc (tình trạng tự tử rất cao tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Mỹ…). Điều đó đặt ra vai trò của đời sống tâm linh để cân bằng giữa đời sống vật chất hưởng thụ và những bế tắc, căng thẳng trong đời sống tâm lý.

Vai trò của đạo Phật trong đời sống gia đình, xã hội

Đạo Phật không chỉ là một tôn giáo, đạo Phật còn là một nguồn tuệ giác vô cùng to lớn cũng như là một phương pháp thực tập về thân và tâm để đạt tới trạng thái an lạc, hạnh phúc, vượt qua những chuẩn mực hạnh phúc thông thường của con người như đầy đủ về vật chất, địa vị xã hội hay thành công trong sự nghiệp và gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà nhà bác học lỗi lạc Albert Eisntein đã phát biểu rằng: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó”. Nhưng sẽ rất xa vời và lý thuyết nếu không hiểu đạo Phật dưới góc độ thực tập và thực chứng, áp dụng vào đời sống gia đình, xã hội như một phương thuốc chữa trị các căn bệnh về tâm, ảnh hưởng lên sức khỏe về thân.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một vị thiền sư nổi tiếng trong nước và trên thế giới đã áp dụng đạo Phật dưới góc độ trị liệu các vấn đề về tâm thức. Ngài đưa ra những khái niệm về ái ngữ và lắng nghe, thiết lập truyền thông, hóa giải những nội kết trong tâm để hòa giải những mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng, cha mẹ đối với con cái, đồng nghiệp với nhau… Đó là sự áp dụng một phần trong Bát Chánh đạo về thực tập chánh ngữ (giới thứ 4). Ngoài ra những phương pháp về chánh niệm, thực tập nhận diện khổ đau, ôm ấp và hóa giải khổ đau được thực hiện qua các phương pháp thiền trà, quán niệm hơi thở và lắng nghe cũng được thực tập để làm giảm những căng thẳng trong xã hội hiện đại. Dù những phương pháp này (ngoài lời Phật dạy, có sáng tạo thêm) nhưng nó lại rất phù hợp với xã hội hiện đại, đặc biệt là các nước Tây phương và Mỹ có truyền thống tôn giáo thờ đấng sáng tạo lâu đời.

Với những người trí thức, việc áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong đời sống hàng ngày dựa trên nguyên tắc hiểu biết rõ nguyên nhân của đau khổ là do sự tham vọng, mong cầu mà không đạt được sẽ dẫn đến tâm trạng thất vọng chán nản và tuyệt vọng. Tôi đã chứng kiến rất nhiều bạn bè, đồng nghiệp là những nghiên cứu sinh đang nghiên cứu các chương trình tiến sĩ. Bản chất của nghiên cứu tiến sĩ là những vấn đề mới, khó và không dễ dàng đạt được trong một thời gian ngắn. Những áp lực, kỳ vọng và sự mong cầu đã làm cho những nhà nghiên cứu rất mệt mỏi và chán nản đôi khi muốn bỏ cuộc.

Nhưng với những người có sự hiểu biết căn bản giáo lý đạo Phật và có sự hành trì trong đời sống hàng ngày thì họ quán xét mọi việc trên phương diện nhân duyên quả. Những nghiên cứu hay kết quả này cần một thời gian nhất định mới ra kết quả (trổ quả), cần những yếu tố (nhân duyên) hội đủ cần thiết như số liệu, phương pháp nghiên cứu… Và những góp ý của giáo sư hướng dẫn hay đồng nghiệp sẽ đưa lại kết quả mong muốn. Ở một khía cạnh khác, những trí thức và những người nghiên cứu luôn đặt ra cho mình đích đến và mục tiêu của nghiên cứu hay kết quả dự án mà đôi khi kết quả không như mong muốn hoặc có thể tốt hơn ngoài dự kiến. Điều đó cho thấy nếu có cái nhìn trung dung, quân bình hay tùy duyên thì người nghiên cứu sẽ nỗ lực trong sự bình thản và hiểu rõ đường đi của nó mà không khởi lên sự đau khổ hay thất vọng, bế tắc. Đó là lợi ích của đạo Phật cung cấp cho ta cái nhìn Trung đạo xa lìa hai cực đoan về thế giới quan và nhân sinh quan trong mọi việc.

Hơn thế nữa, có những vấn đề mà người trí thức hay bất kể là ai đều gặp phải trong đời sống như vợ chồng không hạnh phúc, con cái hư hỏng, đổ vỡ trong sự nghiệp, kinh doanh thất bại hay những vấn đề về sức khỏe, sinh tử. Chính những lúc đó thì những kiến thức khoa học chuyên sâu lại không giúp ích được trong việc giải quyết khổ đau, tuyệt vọng. Đây là một câu chuyện có thật, có một luật sư người Đức rất giỏi và giàu có nhưng ông ta đã tuyệt vọng và tự tử trên chiếc giường mà ông và tình nhân đã ngủ suốt bao nhiêu năm tháng. Ông đã phải lòng và yêu cô thư ký trong văn phòng luật sư, và ông ta đã bỏ lại vợ con. Cái chết của ông ta là kết quả của sự bế tắc và tuyệt vọng khi mất tình nhân vì cô ta đi theo một người trẻ khác.

Qua câu chuyện này cho thấy, ông ta là luật sư giỏi, không thể nói ông ta là người thiếu hiểu biết về tri thức căn bản trong xã hội. Nhưng có những vấn đề thuộc về tâm lý mà không có sự tu tập chuyển hóa sẽ không hóa giải được đành chọn cái chết để kết thúc mọi việc. Còn đối với trí thức Phật tử, người đó hiểu rằng mọi thứ đều có nguyên nhân của nó, và hôm nay là kết quả nhận được. Hơn nữa người Phật tử thấy rõ mọi thứ trên thế gian đều vô thường, biến đổi, không có gì là vĩnh viễn trường tồn, bất biến. Cho nên hãy chấp nhận nó bởi đơn giản đó là sự thật, và để chấp nhận nó là cả một quá trình tu tập, chiến đấu với chính mình đầy gian khổ và khó khăn.

Đóng góp và lợi ích của Tứ diệu đế, Bát Chánh đạo đối với trí thức

Đức Phật là một con người, nhưng Ngài đã giác ngộ và chứng đạt những quy luật của sự sống như khổ và nguyên nhân của khổ và con đường thoát khổ. Ngài ra đời là “Vì an lạc của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của chư thiên và loài người” (Kinh Tăng chi I). Ngài đã thấy rõ đường đi của sinh tử qua Mười hai nhân duyên, và Ngài đã nói lên rất nhiều bài pháp để các hành giả vượt thoát khổ đau nhờ sự tu tập, buông xả, thấy rõ thực tướng của vạn pháp.

Con đường của Đức Phật không nhằm mục đích lý luận, giải quyết các vấn đề triết học hay nguồn gốc của vũ trụ, loài người. Ngài chủ trương đưa ra một phương pháp thực tập một cách khoa học, logic tuần tự từ thấp đến cao cho nhiều đối tượng khác nhau từ người Phật tử tại gia cho đến những tu sĩ chuyên sâu tu tập. Con đường của Ngài không gì khác hơn là Giới, Định, Tuệ (giữ giới, thiền định và quán chiếu) dựa trên nền tảng của Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo cùng với sự hỗ trợ của 37 phẩm trợ đạo giúp hành giả vượt thoát khổ đau thuộc về tâm, từ sơ quả (Tu-đà-hoàn) đến an lạc Niết-bàn (A-la-hán).

Vậy người trí thức sẽ áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo thế nào trong đời sống, công việc, học tập và kinh doanh? Đối với những trí thức và những người trẻ thì việc áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo vào đời sống sẽ đưa đến nhiều lợi ích thiết thực bằng tuệ quán và sự tư duy quán xét trên từng sự việc. Thật vậy, điều này đã được xác chứng trong lịch sử Phật giáo cách đây gần 26 thế kỷ, đó là rất nhiều người xuất thân từ vua chúa, trí thức, thương gia cho đến các tầng lớp thấp như tướng cướp, kỹ nữ hay nông dân nghèo khổ đã từ bỏ và đi theo con đường của Đức Phật để chứng an lạc, giải thoát, Niết-bàn như vua Tịnh Phạn, anh em Da Xá, ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Angulimala, kỹ nữ Ambapàlì….

Trong công việc học tập, người trí thức hiểu rõ nhân quả nên nỗ lực lao động, học tập và làm việc, nhờ đó mà đạt được những thành tựu mong muốn. Tránh xa hai cực đoan của sự cầu xin, cúng bái dựa vào các thế lực siêu nhiên vô hình hay chủ quan cho rằng tất cả đều chỉ dựa vào nỗ lực cá nhân là đủ mà quên đi vai trò của sự hỗ trợ, các yếu tố bên ngoài tác động vào. Người xưa từng nói “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên (duyên)” hay “người tính không bằng trời tính” - là sự đúc rút kinh nghiệm thực tiễn đời sống. Nhưng dưới cái nhìn tuệ giác của Phật giáo, Đức Phật chỉ rõ đường đi của nhân-duyên-quả, vì sao lại thu được kết quả như thế. Điều này phù hợp với khoa học hiện đại bởi những phát minh, tìm kiếm nguyên nhân hình thành của vô số các hiện tượng về vật lý hay hóa học.

Người trí thức còn có thể sử dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong chính sách nghề nghiệp như việc áp dụng triệt để chánh kiến và chánh tư duy trong việc định hướng và dự báo chiến lược của công ty hay tập đoàn. Áp dụng chánh ngữ và chánh nghiệp trong việc giao tiếp với nhân viên, đồng nghiệp tạo ra sự đồng thuận, ủng hộ góp phần thành công trong một chiến lược cụ thể nào đó. Người trí thức Phật tử luôn dùng chánh niệm để lắng nghe những đề xuất, đóng góp, bình luận hay gợi ý làm cho sản phẩm hay chiến lược trở nên tốt đẹp hơn. Đó cũng là những lợi ích rất lớn trong việc thực tập Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong công việc và đời sống hàng ngày. Ngoài ra nhờ sự quán chiếu, tu tập và hành trì trong mọi công việc và sự kiện hàng ngày mang lại cho họ cái nhìn chân thực, chính xác mà không chứa đựng quan điểm cá nhân (bản ngã) để ra quyết định một cách chính xác chứa đựng trí tuệ và nhân văn sâu sắc là thuộc tính của một thiện tri thức.

Tóm lại, hiểu biết và ứng dụng đạo Phật trong công việc và đời sống hàng ngày đối với tầng lớp trí thức mang lại lợi ích rất lớn và thiết thực, vượt qua giới hạn về tôn giáo, thờ cúng hay một loại tín ngưỡng mà đa phần những người chưa hiểu biết về đạo Phật thường quan niệm như vậy. Xin kết thúc bài viết này bằng một nhận định của một học giả về Phật giáo: “Là Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát Chánh đạo và Tứ diệu đế của Đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó” (Giáo sư Rhys Davids).
ThS.Trần Ánh Dương

Những điều hay để học hỏi trong cuộc sống

Những điều hay để học hỏi trong cuộc sống

Đăng lúc: 10:54 - 14/10/2016

Có đôi khi trong cuộc sống chúng ta bỏ qua những chuyện nhỏ nhặt, nhưng ngẫm lại thấy đáng quý, thì lúc đó đã muộn rồi. Thân thiết quá dễ trở thành nhàm chán
Dễ buông lời ngao ngán cõi lòng nhau
Nếu trân kính như buổi vừa kết bạn
Dù xa xôi vẫn đẹp thuở ban đầu
Quan tâm quá dễ trở nên ràng buộc
Rồi xây thành giam nhốt kẻ mình thương
Khi ta hiểu người ta thương cùng tột
Đâu trói người chết ngột bởi tơ vương
Yêu thương quá có khi lòng đau đớn
Bởi tình đời như nắng sớm sương tan
Trong hội ngộ đã ươm sầu chia biệt
Nọ người dưng sao lệ nhỏ hai hàng
Sâu đậm quá rồi có khi nhòa nhạt
Kẻ khóc nhiều đôi lúc lại mau quên
Không gắn bó không trách đời đen bạc
Xót xa này ai trót dệt thành tên
Nên hãy sống mở lòng thương như Bụt
Trí và bi như lượng nước sông Hằng
Tình hạn lượng dắt ta vào ngõ cụt
Với tâm từ vui giải thoát lâng lâng.

Đan Nguyên

Nghiệp và tái sinh

Nghiệp và tái sinh

Đăng lúc: 08:01 - 27/09/2016

Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên phần đông thường không màng chi đến điều đó, mà thản nhiên nói về nghiệp “của tôi”, sự tái sinh “của tôi”. Nhất là sự tái sinh “của tôi”, thật vô cùng kỳ quặc. Họ muốn nói về kiếp trước hay kiếp tương lai? Bạn có nghĩ nó sẽ lại là “tôi” nữa không?

Thật ra, ta không có nhiều lựa chọn khi sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, tuy nhiên điều nói ra cũng phát xuất từ quá trình tư duy của ta.

Người ta thường hỏi, nếu không phải là “tôi” thì cái gì đã tái sinh? Nghiệp như những hệ quả còn sót lại trong tâm thức tái sinh đã được sinh trở lại, nhưng chắc chắn là nó không có dáng hình hay hành động giống như người mà ta biết, không cùng tên, có thể không cùng giới tính, có thể không phải là người. Nó không có liên hệ gì khác hơn là nghiệp. Vì ta có thể thấy rõ ràng rằng con người tái sinh chỉ kết nối với kiếp sống trước qua nghiệp trong thức tái sinh, ta cũng có thể thấy rõ ràng như thế rằng nghiệp là vô ngã, không có danh tánh. Khi ta nói về nghiệp “của tôi”, đó thực sự là một chu trình không có tự tánh. Nghiệp không phải là tội và hình phạt, dầu nó có vẻ là như thế, và là quan niệm được nhận định rộng rãi. Nhiều quan điểm mà chúng ta bám chặt vào đã ăn sâu vào tâm thức đến nỗi rất khó để ta chấp nhận điều gì quá khác biệt.

Thực sự ra nghiệp chỉ có nghĩa là hành động. Vào thời Đức Phật còn tại thế, ở Ấn Độ người ta đã hiểu như thế. Để thức tỉnh người nghe về nghiệp thực sự là gì, Đức Phật đã nói: “Nghiệp, này các Tỳ-kheo, Ta bảo là sự chủ tâm”. Đầu tiên nghiệp phát khởi trong tâm, rồi chuyển ra thành lời, thành hành động. Đức Phật đã cho nghiệp một định nghĩa mới, vì nó thường bị hiểu lầm, bị coi đó là tiền định.

Có nhiều vị thầy vào thời Đức Phật cũng đã dạy như thế, nhưng Đức Phật bác bỏ điều này, xem đó là tà kiến, là quan điểm sai lầm, dễ đưa đến các quả bất thiện. Tuy nhiên, quan điểm xem nghiệp như là tiền định vẫn còn phổ biến vào thời này cũng như ở thời Đức Phật còn tại thế. Nó thường được phát biểu như sau: “Đó là nghiệp của tôi. Tôi không thể làm được gì”. Đó là niềm tin dại khờ nhất mà ta có thể chấp vào, vì ta đã đặt trọng trách của việc chủ tâm vào điều mơ hồ nào đó mà ta cũng chẳng rõ. Nói cách khác, ta không muốn chịu trách nhiệm cho hành động của chính mình, là điều sai lầm thường xảy ra.

Khó gặp được người có trách nhiệm hơn là vô trách nhiệm. Phần đông nếu không thành công trong cuộc đời, họ không muốn chịu trách nhiệm cho việc đó. Từ sự bất hạnh của mình, họ đã nảy sinh ý nghĩ về một số phận đã được định sẵn. “Tôi có thể làm gì được chứ? Đâu phải lỗi tại tôi, là do nghiệp của tôi mà ra”. Vậy những gì công phu tu tập có thể mang đến đều vô nghĩa? Đức Phật đã nói: “Nếu đúng là như thế, thì đâu cần sống có giới hạnh, cũng không cần phải được giác ngộ”. Đó là tà kiến mà ta trước hết phải nhanh chóng gạt bỏ ra khỏi sự suy nghĩ của mình, nếu ta muốn trau dồi đời sống tâm linh.

Nghiệp là chủ tâm, và sự chủ tâm là ở hiện tại, có nghĩa là nghiệp đang được tạo ra ngay bây giờ, trong từng giây phút tỉnh thức của ta. Tuy nhiên khi hai người thực hiện cùng một hành động, quả của hành động của họ có thể không giống nhau. Đây là điều Đức Phật đã nhấn mạnh. Vì nghiệp không thuộc tự ngã, nên nó chỉ tùy thuộc vào dòng chảy của các sự kiện, và chính chúng tự tạo ra quả nghiệp. Đó là vấn đề của nhân và quả. Tất cả chỉ có vậy, do đó đôi khi giáo lý của Đức Phật được gọi là giáo lý về nhân quả.

Đôi khi ta biết những người rất hiền từ, đến một con ruồi họ cũng không nỡ làm hại, vậy mà họ toàn gặp những bất hạnh. Trong khi có những người rất khó thương, nhưng mọi điều may mắn đều xảy ra cho họ. Sao lại có thể như thế? Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào sự tích lũy các nghiệp tốt hay xấu, giờ chúng trổ quả trong tâm tục sinh của họ. Đức Phật đã đưa ra một ẩn dụ như sau: “Nếu ta bỏ một muỗng muối vào ly nước, thì ly nước đó không còn uống được nữa. Nhưng nếu ta bỏ muỗng muối đó xuống sông Hằng thì nước sông chẳng có gì thay đổi”. Do đó nếu ta tạo nhiều nghiệp xấu mà chỉ có một ly nghiệp tốt; kết quả sẽ thảm hại biết bao. Nhưng nếu ta có cả sông nghiệp tốt để hỗ trợ bản thân, thì quả xấu sẽ chẳng lớn lao gì. Vì thế ta không thể so sánh nghiệp quả của con người với nhau vì ta không biết về quá khứ của họ.

Tâm thức tích lũy, tương tục mà ta mang theo từ kiếp này sang kiếp khác chắc chắn có ảnh hưởng đến kiếp sống này, nhất là nơi chốn ta sinh ra, trong hoàn cảnh nào, trong gia đình nào. Đức Phật đã cho ta một ẩn dụ như sau: “Nếu có một đàn bò bị nhốt trong chuồng, khi cửa chuồng mở ra, con mạnh nhất sẽ ra trước. Nếu không có con bò nào như thế, thì con đầu đàn sẽ ra trước; nếu không có con nào như thế thì con gần cửa nhất sẽ ra trước. Nếu không có con nào như thế, thì tất cả sẽ cố chen ra cửa cùng một lúc”. Ẩn dụ này mô tả những giây phút cuối của tâm thức trước khi chết. Vì cái chết có thể xảy ra cho bất cứ ai không kể tuổi tác, cho nên việc chuẩn bị cho cái chết ngay bây giờ là một điều khôn ngoan.

Ý nghĩ sau cùng lúc hấp hối sẽ ảnh hưởng đến thức tái sinh để đưa ta đến nơi ta sẽ tái sinh. Ta có thể so sánh điều đó với việc trước khi đi ngủ, ta nghĩ là sẽ thức dậy lúc bốn giờ sáng hôm sau. Phần đông chúng ta có thể dễ dàng thức đúng như thế. Và ý nghĩ cuối cùng trước khi ngủ trở thành ý nghĩ đầu tiên khi thức dậy. Khi chết cũng giống như thế, chỉ khác là khi tái sinh ta sẽ có một thân mới, khác với thân hiện tại. Phần đông sẽ tái sinh với thân người, trừ khi nghiệp ác của họ quá lớn, khiến họ không thể trở lại thành người. Dầu ai cũng muốn được tái sinh vào cõi chư thiên, nhưng phần đông có lẽ đều trở lại kiếp người.

Ý nghĩ cuối cùng trước khi chết thường liên quan đến trải nghiệm gì nổi trội nhất trong kiếp sống này. Thí dụ nếu ta giết người thì đó sẽ là một ký ức hằn sâu trong tâm, và có thể là điều ta nhớ đến trước lúc ra đi. Hoặc nếu ta có công đức xây chùa, tu viện thì đó cũng có thể là một ký ức mãnh liệt. Hoặc việc ta luôn biết giữ gìn giới hạnh cũng có thể là ý nghĩ cuối cùng ở giờ phút lâm chung. Tóm lại, bất cứ điều gì mãnh liệt nhất trong tâm thì điều đó dễ phát khởi lên nhất. Nếu không thì những gì ta thường nghĩ đến sẽ xảy ra. Thí dụ nếu ta thường bực bội, sân si, thì điều đó sẽ hiện ra trong tâm. Trái lại, nếu ta có lòng thương yêu, từ bi, hay giúp đỡ người khác thì những ý nghĩ đó sẽ xuất hiện.

Nếu không có thói quen suy nghĩ gì đặc biệt, thì điều gì xảy đến ở các cửa giác quan vào lúc lâm chung sẽ lãnh phần ưu tiên. Giác quan cuối cùng ra đi là thính giác. Do đó, phần đông các tôn giáo đều có những bài kinh tụng, hát tụng do các vị sư hay các tu sĩ thực hiện để giúp người sắp ra đi có những ý nghĩ cuối cùng hướng thiện. Nếu các tâm hành trước phút lâm chung thiện lành thì sự tái sinh sẽ được tốt đẹp. Điều đó không có nghĩa là các nghiệp quả khác sẽ biến mất. Nó chỉ có nghĩa là những gì bộc phát ở giờ phút lâm chung sẽ có một số ảnh hưởng đến sự tái sinh của ta. Do đó những tư tưởng cuối cùng trước khi lâm chung vô cùng quan trọng.

Nếu bạn là người rất rộng lượng, đó có thể là ý nghĩ cuối cùng của bạn. Do đó, việc nhắc nhở cho người sắp ra đi về những điều thiện lành họ đã làm trước đây được coi là vô cùng ích lợi. Thí dụ như sự rộng rãi của họ; việc họ đã nuôi dạy con cái thành đạt; lòng tử tế, vân vân, vì người thế tục thường hay có những ăn năn, hối tiếc trước lúc ra đi. Chỉ mới gần đây người ta mới nhận thức rằng chết cũng là một phần quan trọng trong cuộc sống, dầu người Tây phương không tin vào tái sinh. Ai cũng quá sốt sắng, quan tâm đến sự có mặt của em bé mới sinh, vì em bé đó sẽ ở bên họ một thời gian dài và sẽ là một thành viên quan trọng trong gia đình. Nhưng ít ai để ý đến giây phút cận tử, vì theo họ, khi người chết rồi thì xong, chấm dứt. Giờ người ta hiểu rằng đó không phải là cách đối xử tốt đẹp đối với người ra đi. Hiện nay ở Tây phương cũng có nhiều bệnh viện dành cho những người bị bệnh chờ chết hay người sắp chết. Ở đó người ta chú tâm nhiều đến các trạng thái tâm, để làm giảm bớt hay diệt trừ sự sợ hãi, lo âu trước cái chết. Rất ít người ở Tây phương tin vào tái sinh, dẫu thế, chết cũng được coi là việc rất quan trọng.

Một yếu tố nữa cũng làm ảnh hưởng đến kinh nghiệm cận tử của chúng ta. Đó là hiện nay chúng ta khá tiến bộ về kỹ thuật, nên trong một số trường hợp, người đã chết lâm sàng, có thể hồi sinh nhờ vào các phương tiện tối tân trong các bệnh viện ở phương Tây. Có người đã nói với các bác sĩ về sự trải nghiệm “cái chết” của họ. Một số bác sĩ, nhất là bác sĩ Moody1, đã viết về các hiện tượng này. Nét nổi bật của các câu chuyện kể, là các khía cạnh quan trọng gần như giống hệt nhau. Thêm một ghi nhận về trạng thái vô ngã (anatta). Tất cả, không ngoại trừ ai, đều rất tự tại với “cái chết” của mình, và hầu như không muốn trở lại trần thế. Có người tỉnh lại tỏ thái độ giận dữ với bác sĩ vì đã sử dụng phương tiện tân tiến trong việc thiết lập lại dòng sinh tục cho họ.

Tất cả các trải nghiệm đều liên quan đến một luồng ánh sáng rực rỡ, chứa đựng tâm hoàn toàn tỉnh thức, nhưng thiếu thân. Mọi người đều có thể thấy chính thân họ đang ở trên giường bệnh, rồi tiến tới luồng ánh sáng đó, trong lúc hoàn toàn ý thức đến những gì đang xảy ra, kể cả việc quan sát các bác sĩ đang làm việc. Sau đó họ tự rời khỏi bệnh viện để tiến vào một không gian của hạnh phúc, tĩnh lặng và an lạc. Có người còn nhắc đến những người họ gặp gỡ. Phần đông tả về một người đặc biệt là ‘nguồn sáng’. Trong các câu chuyện kể không có biểu tượng của bất cứ tôn giáo nào nhưng chúng rất giống nhau, một số hoàn toàn trùng lặp. Khi những cuốn sách như thế được nhiều người biết đến thì giây phút cận tử mới được coi là quan trọng.

Trong năm điều mà Đức Phật dạy ta phải quán tưởng hàng ngày là ai cũng phải chết. Đức Phật thuyết về giây phút cận tử là vô cùng quan trọng, do đó ta cần phải suy gẫm về chúng ngay bây giờ, chứ đợi đến khi gần chết thì quá muộn. Những suy nghĩ thiện lành của ta đều liên quan đến các tâm từ, bi, hỷ, xả. Nếu ta khởi phát các tâm này ngay bây giờ, để tạo thành thói quen thì ta có thể mang chúng theo đến tận giờ lâm chung. Như thế, ta không những có thể chắc chắn về một sự tái sinh tốt đẹp, mà chí ít cũng được sự an bình, hạnh phúc ngay trong kiếp sống này. Điều đó giúp ta dễ có điều kiện tu tập trở lại. Nếu ta sinh ra trong một gia đình quá nghèo khó, không đủ ăn, thì khó thể có cơ hội ngồi xuống hành thiền, vì trong gia đình nghèo, ai cũng phải lao động cật lực để kiếm sống. Hoặc nếu ta tái sinh trong một xã hội mà thiền không hiện hữu, thì cũng khó để ta tiếp tục thực hành. Do đó, nếu ta đợi đến lúc già, lúc sắp chết để suy nghĩ đúng đắn, là quá dại khờ. Suy nghĩ đúng đắn bao gồm việc biết tâm hành của mình, qua chánh niệm và chú tâm.

Sự có mặt của ta trên trái đất này rất ngắn ngủi - ngay cả 70 năm cũng không phải là dài lâu - nên ta có thể nghĩ về mình như là một vị khách được mời đến để biểu diễn, lúc nào cũng chờ đợi được cổ vũ. Dĩ nhiên điều đó sẽ khiến cuộc sống thêm khó khăn. Đầu tiên là ta cảm giác sợ sân khấu. Không biết mình có diễn xuất tốt hay không? Có được vỗ tay tán thưởng không? Nếu không, ta sẽ cảm thấy vô cùng thất vọng. Biết mình chỉ là người khách diễn tuồng trên trái đất này là suy nghĩ chân chính, nhưng chờ đợi được vỗ tay tán thưởng là một tà kiến. Nếu ta tự biết mình đã cố gắng với tất cả khả năng, ta không phải đợi ai tán thưởng. Ta luôn có chủ tâm đúng đắn. Đó mới là điều đáng kể nhất, vì sự chủ tâm hướng đến điều thiện liên quan không chỉ đến bản thân mà cả người chung quanh. Bớt quan tâm đến bản thân sẽ giúp ta có thể quan tâm đến người.

Chúng ta không được xao lãng việc học Pháp và thực hành thiền, vì chỉ khi bản thân ta đã tiến bộ đến một mức độ nào đó, ta mới có thể giúp đỡ người khác, nếu không là ta đã hành động trong vô minh, sẽ đem lại những kết quả không tốt.

Nếu ta quá quan tâm đến sự tái sinh sắp tới của mình, thì ta thực sự đang sống trong mộng. Vì người đang tạo ra nghiệp hiện tại không phải là người sẽ lãnh quả. Sự kết nối duy nhất chỉ là những gì còn sót lại của nghiệp, là quả của nghiệp (vipaka). Ngay cả sự nối kết này cũng rất mong manh vì ta có thể phá vỡ các mắt xích. Nếu ai đó đã tạo nhiều nghiệp xấu nhưng trong kiếp tái sinh lại tạo nhiều nghiệp tốt hơn, thì các quả xấu có thể không bao giờ tựu thành trái, ngược lại cũng thế.

Thí dụ như Angulimala (Vô Não) đã giết 999 mạng người mà vẫn có thể trở thành A-la-hán, vì ông đã được trở thành đệ tử của Phật, được sống trong tu viện của Đức Phật, nơi mà nghiệp xấu của ông không có cơ hội trổ quả. Tuy nhiên, ngài Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên), dầu đã là một A-la-hán, vẫn bị kẻ cướp giết và tán xương ngài ra tro, do nghiệp xấu trong quá khứ. Chúng ta khó thể thiết lập một thống kê tương ưng giữa nghiệp thiện với các tình huống có thể xảy ra, vì ta không có quyền hạn gì đối với người sẽ kế thừa nghiệp mà ta đã làm trong kiếp sống này. Nhưng hiện tại làm việc thiện, sẽ mang đến kết quả ngay, đó là hạnh phúc và niềm vui trong tâm, và thường cũng là hạnh phúc cho người. Nếu ta có thể mang hạnh phúc đến cho người, thì đó cũng là nhân để ta được có niềm vui.

Không ích lợi gì để nghĩ về nghiệp trong quá khứ hay nghiệp sẽ tạo trong đời sống tương lai. Không ai biết được gì về kiếp sống tới, hay nhớ được gì từ kiếp đã qua. Vậy thì lo lắng về chúng để làm gì? Chỉ có giây phút này, ngay đây, là quan trọng. Quá khứ thì giống như một giấc mộng và tương lai thì chưa tới. Khi tương lai thực sự xảy ra, thì nó luôn là hiện tại. Ngày mai sẽ không bao giờ đến; khi nó đến, nó được gọi là hôm nay. Ta không thể sống trong tương lai hay quá khứ. Ta chỉ có thể sống ngay trong giây phút này. Nếu ta thực sự chú tâm đến từng giây phút một, ta sẽ có thể hành thiền tốt. Ta sẽ không nghi ngờ gì về vô thường. Thực ra ta còn có thể nhìn thấy điều đó thật rõ ràng, nhờ vậy ta có thể buông bỏ tất cả mọi bám víu, chấp chứa.

Chúng ta có thể quán chiếu như thế này: “Tôi có sử dụng mỗi giây phút sống một cách tốt nhất không?”. Nếu đã tạo ra nghiệp xấu trong quá khứ, ta có thể nhanh chóng thực hiện một số việc thiện. Đó có thể là điều đáng giá duy nhất mà quá khứ có thể mang đến cho ta. Nếu không, tính chất nhanh chóng, hiệu quả của vô thường sẽ khiến ta tách rời khỏi các ý nghĩ, lời nói và hành động một cách nhanh chóng đến nỗi ta không thể nhớ chúng, nói gì đến chuyện giữ chúng lại.

Vậy mà ta lại cố giữ người khác lại, chấp vào sự suy nghĩ, quan điểm và ý kiến của ta; chúng ta bám víu vào thân này, vào các thân hành, tâm hành sai lạc, và cố biến chúng thành thường hằng. Điều đó là không tưởng, không thể thực hiện, vì chỉ có từng giây phút này. Với đồng hồ kỹ thuật số, ta có thể dễ dàng thấy từng giây phút đến rồi đi như thế nào. Thử quan sát đồng hồ trong năm phút để cảm nhận rằng năm phút giây quý báu của cuộc đời bạn đã qua đi. Quá khứ bị lãng quên, chỉ trừ một vài sự kiện nổi bật, bằng không nó đã qua mất rồi. Điều đó cho ta thấy rõ ràng rằng chúng ta chỉ là những dòng chảy, không có thực thể. Do nhận xét sai lầm về thực tại một cách hoàn toàn vô căn cứ, ta cho là nó có thực thể và sống dựa vào đó. Giống như nhà hát tuồng, một sáng tạo của chúng ta, nơi các nghệ sĩ vận xiêm áo, nói lời thoại và tin rằng đó là cuộc sống thực. Chúng ta muốn nhà hát mãi sáng đèn, nhưng không thể được, vì mỗi người đều có nỗi khổ không thể diệt trừ bằng sự bất cần hay vô minh. Ta chỉ có thể làm điều đó bằng cách thay đổi quan điểm, ý thức.

Sự tạo nghiệp phát khởi từ trong tâm. Các tâm hành tạo ra nghiệp của ta. Nếu không thể làm chủ tâm, ta khó tránh khỏi việc tạo ra các nghiệp xấu. Tâm luôn có nguy cơ nghĩ đến những điều bất thiện. Các trạng thái tâm tiêu cực không thể kể xiết: “Tôi không thích, không thể chịu đựng nổi; tôi sợ, tôi chán…”. Tất cả đều là những trạng thái của tâm sân. “Tôi muốn mua, muốn giữ, muốn làm mới”, cũng là nghiệp xấu, liên quan đến tâm tham. Tất cả đều từ tâm phát khởi.

Rất ít người chịu quan sát tâm. Họ nghĩ rằng điều đó khó làm, khá mệt. Nhưng tạo ra nghiệp xấu còn mệt mỏi hơn, vì quả sẽ nặng nề, khó chịu. Rất ít người có được sự sôi nổi bên trong, dấu hiệu của niềm vui tự thân. Đa số nản lòng do tâm tiêu cực gây ra, chứ không phải do hoàn cảnh bên ngoài. Hãy quan sát tâm bạn. Hãy đoan chắc rằng bạn luôn thực hành Tứ chánh cần. Đó là điều tốt nhất mà bạn có thể làm cho bản thân, để đạt được nghiệp lành.

Từ ý phát sinh ra lời nói và hành động. Ta không thể nói mà không có nghĩ trước, không thể hành động mà không có rắp tâm để làm điều đó. Dầu đôi khi dường như ta nói hay hành động một cách bản năng đến nỗi ta không ý thức rằng ý nghĩ đó đã chạy qua đầu. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng không có mặt trong tâm trước. Nó chỉ có nghĩa là ta thiếu chánh niệm và hiểu biết rõ ràng. Tâm là tài sản quý báu nhất mà ta được sở hữu. Không có vàng bạc, châu báu nào có thể so sánh với nó, vì tâm chứa đựng hạt giống giác ngộ. Nếu ta không sử dụng nó đúng mục đích là ta đã dại khờ đem chôn châu báu dưới đất đen. Tuy nhiên, chúng sanh thường làm thế, chính vì họ không được khuyên bảo ngược lại.

Khi nhận thức được rằng ta sở hữu tâm châu báu quý giá này, ta sẽ gìn giữ để nó không bị trầy rụa, lấm láp, đạp dẫm, làm mất sự sáng chói của nó. Ngược lại ta gìn giữ sao cho nó mãi được thanh khiết, chiếu sáng để tạo ra các nghiệp thiện lành. Đức Phật dạy rằng, hành động không phải là yếu tố quan trọng nhất, mà chính là sự chủ tâm đằng sau đó. Ngay cả sự độ lượng cũng có thể phát xuất từ một động lực xấu. Thí dụ, nếu chủ tâm làm việc thiện để tích lũy công đức cho tương lai, thì điều đó khá ích kỷ. Nếu hành động đó được thực hiện vì lòng bi mẫn đối với những người thiếu thốn, thì mới là lý tưởng. Tuy nhiên, dầu có hành động với chủ tâm không thiện lành, thì bố thí vẫn tốt hơn là không. Vẫn có nghiệp lành trong hành động đó, vì người bố thí đã buông bỏ vật sở hữu của mình.

Người bảo vệ tâm cho ta, người đảm bảo rằng tất cả mọi việc ta làm đều với chủ tâm tốt đẹp là Chánh tư duy (chi thứ hai trong Bát chánh đạo), kim chỉ nam của ta. Nghiệp được tạo ra tùy vào tâm, và tâm thanh tịnh tùy vào thiền định. Nếu chúng ta hành thiền đều đặn, tinh tấn, dần dần ta sẽ nhìn thấy những gì diễn ra trong tâm một cách rõ ràng. Một số người hoàn toàn mãn nguyện nếu chỉ đạt được chút an lạc, dẫu thế đó cũng đã là một sự thuận lợi và tiến bộ. Nếu ta quan sát được tâm khi thiền tập, ta cũng sẽ tập được cách quan sát tâm trong đời sống hàng ngày. Rồi thì ta sẽ có nhiều cơ hội để tạo ra các nghiệp thiện lành.

Nếu ta đã nhàm chán với cái vòng luẩn quẩn của được, mất, khen, chê, thành công, thất bại, hạnh phúc và khổ đau (tám pháp thế gian), thì ta cần phải hạ quyết tâm nỗ lực buông bỏ tham ái, bám víu. Nỗ lực này được thiền tập hỗ trợ, nhưng không chỉ có thế. Thiền là phương tiện để giúp ta có khả năng loại trừ các chủng tử tham, sân trong ta. Quy trình thiền tập đem lại cho tâm sự sáng suốt để nhận ra các hạt giống này trong ta, để ta có thể có cách đối trị chúng.

Bổn phận của chúng ta trong kiếp sống này với tư cách là một chúng sanh có đầy đủ giác quan, thân không khiếm khuyết, có duyên lành được nghe Chánh pháp, là bảo vệ tâm và chứng nghiệm được chân tánh của tâm là thuần khiết, chói sáng, nhu nhuyến. Với tâm như thế ta có thể tiến sâu vào đạo, nơi ta sẽ thấy không có ai làm chủ tâm này.

Ni sư Ayya Khema
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển ngữ theo Karma Is Intention

Chuyện con cá

Chuyện con cá

Đăng lúc: 21:33 - 02/08/2016

Hóa ra trong những góc chợ nhỏ nhoi, dơ bẩn, đều có những số phận và tấm lòng.
Tôi rất thích phóng sanh. Nhưng tôi thường ra chợ bất cứ lúc nào thuận tiện thời gian, và mua những con cá, con ếch nằm trong những cái thau, rổ mà tôi biết chắc một lát nữa thôi chúng nó sẽ bị người ta mua về cho vô nồi, vô chảo. Có khi tôi vừa mua thì một bà xách giỏ trờ tới. Chị bán cá trả lời: “Cô này mua hết rồi, thím Ba ơi!”. Tôi thở phào nhìn lũ cá trườn trườn trong thau: “Hú vía nghen con. Hí hí chậm 5 phút thôi là tụi bây vô giỏ của bả rồi!”.

Tôi mua cá xong chạy xe thật nhanh lên dốc cầu gần đó, vừa chạy vừa niệm Phật và thì thầm với lũ cá: “Tụi con nghe má Hai niệm Phật nè, rồi nhớ kiếp sau nếu được đầu thai làm người thì tìm về với Tam bảo nghe hôn. Vô chùa quy y, tụng kinh, lạy Phật, làm công quả, làm từ thiện, sống tử tế nghe hôn! Nam-mô A Di Đà Phật, Nam-mô A Di Đà Phật…”. Tới dốc cầu, tôi dừng xe, mở miệng túi ni-lông trút cá xuống dòng sông nước đầy ăm ắp, miệng vẫn niệm Phật và mắt vui sướng nhìn lũ cá tung tăng trong dòng chảy mát rượi. Nhiều con ngoi đầu lên thở, loanh quanh rất lâu mới chịu đi. Tôi tưởng tượng chúng đang chào tôi. Tôi vẫy tay: “Bơi lẹ đi con. Bye bye. A Di Đà Phật!”. Tiếng Tây tiếng ta gì cũng nói tùm lum vì lòng vui quá.

Nhưng còn một niềm vui và ngạc nhiên nữa. Mấy chị trong chợ khi biết tôi mua cá phóng sanh liền bán với giá cực kỳ rẻ. Có lần tôi thấy hai con cá lóc nằm chơ vơ trong thau, tội quá nên hỏi mua luôn, thì chị nói: “Bảy chục ngàn”. Nhưng khi biết mục đích của tôi, thì chị hạ xuống ngay 35.000đ, khỏi cần tôi trả giá. Chị còn cười tươi: “Em không lời một cắc. Sau này cô có lên cực lạc thiên đường thì cho em đu theo cô nghen. Em biết làm nghề này tội lắm cô ơi! Nhưng hình như là cái nghiệp, bỏ không được. Mà điều, ai mua phóng sanh là em mừng lắm, cho em bớt tội”.

Một chị khác bán rau củ (đồ la-ghim) trong chợ, một bữa vui miệng tâm sự: “Cô biết hồi trước em bán cái gì không? Bán cá đó. Bên quận 1. Bán đắt dữ lắm, nhưng không biết tại sao bao nhiêu tiền cứ bị người ta gạt mất, mỗi lần mấy chục triệu chứ đâu có ít. Em nghĩ chắc là tại bán cá gây nghiệp? Em quyết định chuyển nghề, về Nhà Bè bán đồ la-ghim nè. Hồi mới chưa có khách, bán ế lắm, có lúc em thối chí muốn trở lại bán cá. Nhưng ráng, ráng chút nữa… và cầu xin Trời Phật phù hộ cho con… Giờ khỏe rồi. Em mừng mình thoát khỏi cái nghiệp sát sanh”. Tôi thật bất ngờ. Và cảm thương một con người quyết tâm chuyển nghiệp. Chẳng những vậy, nghe tôi nói nấu cơm từ thiện là chị bán thiệt rẻ, và còn thức khuya gọt củ, lặt rau giùm tôi, rồi mới đem giao hàng tận nhà. Nhờ thế, tôi không mất nhiều thời gian và sức khỏe trong chế biến. Tôi cảm động lắm. Và quyết định mua hàng của chị thường xuyên hơn nữa để giúp chị yên tâm chuyển nghiệp.

Hóa ra trong những góc chợ nhỏ nhoi, dơ bẩn, đều có những số phận và tấm lòng. Họ sống bình dị, ít ăn học, đôi khi lăn lóc như chính những con cá mà họ bán, họ giết hàng ngày. Nhưng trong tận cùng sâu thẳm của tuệ giác, vẫn lóe lên những tia sáng nhận thức. Biết. Và sợ nữa. Nhưng chuyển nghiệp được hay không thì tùy điều kiện và nghị lực mỗi người. Tuy nhiên, cứ BIẾT cái đã. Cái BIẾT ấy sớm muộn cũng sẽ kéo họ ra khỏi vũng lầy. Chỉ sợ không biết thôi, chứ đã biết rồi thì có hy vọng.
Diệu Kim

6 điều đừng bao giờ hiểu sai về đạo Phật kẻo mất hết phúc báo

6 điều đừng bao giờ hiểu sai về đạo Phật kẻo mất hết phúc báo

Đăng lúc: 02:40 - 04/07/2016

Dưới đây là 6 điều đừng bao giờ hiểu lầm về đạo Phật tránh mất hết phúc báo

Đức Phật không có thật

Trong tâm thức tâm linh của nhiều người Việt, Đức Phật giống như các vị thần thánh khác, là đấng siêu nhiên không tồn tại hữu hình. Nhưng nếu tìm hiểu Phật giáo, là một tín đồ của Phật giáo, thì chắc hẳn không thể không biết, Đức Phật vốn xuất thân là một người trần mắt thịt.

Trải qua quá trình tu luyện, Người trở thành Phật và đi truyền đạo khắp nơi, cứu khổ chúng sinh. Đời sau để tưởng nhớ công đức và tôn vinh những giá trị nhân sinh tốt đẹp mà Ngài mang lại nên thờ cúng.

Cầu Phật xin thứ nọ, thứ kia

Vẫn tồn tại trong một cộng đồng người quan điểm Phật là đấng tối cao ban phước lành cho nhân loại. Những người không đi chùa có những suy nghĩ này là có thể chấp nhận được, tuy nhiên với những người đi chùa thường xuyên vẫn tồn tại quan điểm này thì thực sự rất khó hiểu. Họ đi chùa và cầu xin đủ thứ . Họ cầu sức khỏe, cầu giàu sang, cầu gia đình ấm êm hạnh phúc, cầu con cái công thành danh toại. Họ cúng vài trái cam, đôi nải chuối, vài trăm nghìn…và tự cho rằng mình đã đủ thành tâm để trời Phật phù hộ cho nhiều điều.

Cũng rất nhiều người khác, muốn có đời sống bình an, năng đi chùa lễ Phật, lập bàn thờ Phật tại nhà và nghĩ rằng như thế sẽ được thần Phật phù hộ suốt đời, đến khi thác đi chắc chắn sẽ về cõi cực lạc. Họ bỏ qua những trần trụi của cuộc đời, bỏ qua những giáo lý nhân quả của Phật để rồi kiến tạo nên một kiểu sống lệch lạc sai lầm, tự cho mình cái quyền sống ung dung tự tại với tất cả, coi thường tất cả vì đã có Phật “chống đỡ” đằng sau. Tuy nhiên, nên nhớ rằng Phật dạy muốn có quả ngọt lành thì gieo nhân hạt thơm tho. Đừng mong gieo hạt ớt mà gặt trái chanh. Cuộc sống vô thường nhưng nhân quả báo ứng liên hồi, tiền kiếp hậu kiếp xấu tốt nhục vinh cơ bản cũng bởi cách sống mỗi người mà ra.

Điều này có nghĩa là, phước lành của chúng ta do chính chúng ta tạo nên, không phải do Phật ban phước mà chính từ những nhân mà chúng ta gieo ở đời, họa hay phước sẽ từ đó mà ra vậy.

Niệm Phật là đọc danh hiệu Phật

Tụng kinh, niệm Phật không phải để cầu cúng hay học thuộc lòng, đọc lên là sẽ được Phật chứng cho. Mục đích lớn nhất của việc này là để chúng đệ tử ghi nhớ lời Phật dạy, soi sáng bản thân, giác ngộ Phật pháp và hành động theo. Vừa tụng niệm, vừa thấm nhuần và ghi nhớ, làm theo, ấy mới là niệm Phật chân chính.

Mô tả ảnh.
Ảnh minh họa
Đi tu là phải ăn chay

Đây là một trong nhiều ám ảnh của những người bước đầu tìm hiểu về Phật giáo. Họ không cưỡng lại được ham muốn ăn mặn của mình và cảm thấy ăn chay khi đi tu thật sự là một điều kinh khủng. Tuy nhiên, Phật giáo không bắt buộc con người ta ăn chay. Ăn được là tốt, nhưng nếu không ăn chay được thì nên hạn chế sát sinh.

Còn nhớ, ngày xưa khi chưa có điều kiện ăn chay, Phật đi khất thực và ăn những gì được cho, đôi khi vẫn ăn mặn vì dân chúng cho đồ mặn và đó không phải là điều tội lỗi. Ăn chay nhưng không hành thiện, ăn chay nhưng vẫn giữ những sân hận trong lòng, đối đãi với người trên bằng sự bất kính, đối đãi với người dưới bằng sự thị uy khinh miệt, thì đó cũng không bằng ăn mặn mà nhân từ hiền hậu, sống thiện tâm hiền lành.

Phật có toàn quyền quyết định số phận con người

Quan niệm này lý giải cho những việc hành mê tín dị đoan trong cộng đồng người Việt hiện nay. Họ cho rằng số phận của mình được quyết định bởi những đấng thần linh tối cao như Chúa, Thượng đế, Phật…chính vì vậy họ luôn sống trong một niềm nghi ngờ về tất cả những biến cố đến với mình, coi như đó là sự an bài và có thế nào cũng không thoát được số kiếp đó. Từ đó, một đại bộ phận người đã lợi dụng tâm lý này để hành nghề mê tín dị đoan, khiến cho đạo Phật có những hình thức biến thể không giống như giáo lý chính thống.

Đạo Phật chỉ dành cho người già

Tâm linh thì không có tuổi, tôn giáo thì không phân biệt người. Phật giáo là chỗ dựa về tinh thần cho tất cả những ai đang muốn đi tìm hạnh phúc đích thực của cuộc sống. Dù đang còn trẻ hay tuổi đã xế chiều thì Phật giáo cũng đều mang đến cho bạn những kiến thức, những bài học, những kinh nghiệm và triết lý sống đơn giản nhưng ý nghĩa.

Anh Van hoa, Phong Chau

Bình tĩnh sống giữa “kỷ nguyên chọt chọt”

Đăng lúc: 10:14 - 01/07/2016

Có lẽ, chưa bao giờ chúng ta dễ dàng tiếp cận thông tin, kết nối với “thế giới mênh mông” như hiện nay, chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh, wifi miễn phí hay 3G (mà những thứ này thì quá rẻ), mỗi người có thể tiếp xúc nhanh chóng, hàng giờ, hàng phút các thông tin, hình ảnh trên các trang báo chuyên nghiệp đến những trang “trời ơi”, chuyên đăng tin giật gân, câu view, câu like và cả mạng xã hội cập nhật từng giây...

Anh Van hoa, Phong Chau.jpg
Con người có thể “giết nhau”, đầu độc tâm hồn nhau trên mạng xã hội - Tranh minh họa

Bạn có bối rối giữa... rừng thông tin, bình luận?

Có người nói, đây là “kỷ nguyên chọt chọt” vì liên tưởng tới việc ai cũng cắm cúi vào thế giới rộng lớn ấy thông qua những ngón tay lướt và chỉ chỉ để thao tác các nút like, các câu bình luận - đôi khi ngồi với nhau, là người quen của nhau mà xa cách nghìn trùng vì ai cũng bận lướt Facebook, tám chuyện qua mạng. Ngay cả khi ăn, khi ngủ hay bất kỳ động tĩnh nào trong đời sống riêng tư, trong tâm hồn cũng phải “cúng Facebook”, cũng phải rào rào đưa lên Zalo...

Và một khi có một vụ việc nào đó, như những vụ việc về diễn biến môi sinh đó đây hay những thông tin của giới nghệ sĩ chẳng hạn, dù chưa có một kết luận nào chính thức nhưng các “thánh Facebook” đã ồ ạt có những... kết luận của riêng mình, bàn luận, nổi điên, chuyển tải đủ kiểu thông tin thật giả khiến mỗi ngày mỗi rối rắm (trước tiên cho chính mình). Nhiều vụ khác cũng thế, cư dân mạng sẵn sàng chặt chém vù vù một ai đó, một việc gì đó mà mình chưa biết đầy đủ, nghe ai nói sao thì nói theo vậy (là chính) bởi trong nội dung bàn, bình luận (hay... bình loạn) ấy đã cho thấy sự chưa có hiểu sâu sắc câu chuyện.

Thời đại này, ai không tham gia mạng xã hội có thể nói là... tụt hậu, là bảo thủ, thiếu thông tin, nhưng kỳ thực, khi tham gia lại khiến mình rối hơn, bất an nhiều hơn. Không thể phủ nhận, nhiều nguồn tin quý được nhặt từ mạng xã hội, nhiều bài viết hay, câu chuyện giá trị, tình bạn cao đẹp, thậm chí tình yêu được tìm thấy, nẩy nở, nuôi dưỡng, bước lên đỉnh cao từ chính “thế giới ảo”. Song, những mặt trái, chứa màu đen tối trên thế giới mênh mông này không phải là không có, nhất là giữa đám đông người tham gia - ai cũng muốn nói mà ít người muốn lắng nghe, ai cũng muốn thể hiện bản thân mà ít người có những chia sẻ chân thành, ai cũng manh động và ít có sự bình tĩnh để thấy đa chiều một câu chuyện nào đó.

Thực tế, mạng không là ảo khi nó có tác động tới đời thực của mỗi người. Có những người đã phải chết vì quá xấu hổ do có ai đó tiết lộ bí mật cá nhân, đời tư hay chốn phòng riêng lên mạng. Có những người phải vào tù, bị khởi tố cũng chính vì hành vi thiếu kiểm soát trên chốn “xô bồ” này. Và, có thể chắc chắn một điều rằng, khi bạn lập một trang cá nhân với nickname hoàn toàn xa lạ với lý lịch của mình, mượn ảnh ai đó làm avatar... thì việc bạn phát ngôn đầy tính kích động, xả láng ngôn từ trên chốn công cộng này - nó vẫn tác động tới con người thực của bạn, mỗi ngày và mỗi lần bạn thực hiện hành vi (tưởng không ai biết ấy).

Con người ta thường sống bản năng, buông thả khi họ nghĩ rằng, không ai biết về việc mình làm, cách mình đang sống hoặc nghĩ mình có thể che giấu được chúng bằng những “khuôn mặt khác”, nhất là trong thế giới ảo. Tuy nhiên, hành vi của mỗi người đâu phải chỉ lưu lại trên mạng, hay sẽ bị xóa sổ hoàn toàn nếu không có camera quay lại, không có người thứ hai nào nhìn thấy.

Hành vi bản năng, xấu xí của chúng ta, dù được giấu giếm rất kỹ bằng những tài khoản khác nhau, lạ lẫm trên mạng thì nó vẫn được lưu lại trong tâm hồn mình và ít nhiều gây xáo trộn đời sống của ta. Nó sẽ làm ta phải loay hoay che giấu và dần đi xa con người thật vốn giản đơn, biết giữ mình trong sáng, hay ít nhất cũng biết sợ sự lên án để không làm càng, làm quấy.

Bản thân chúng ta, ai cũng muốn bình yên, tốt đẹp, nhưng rất tiếc, đôi khi vì không kiềm giữ nổi mình trước cám dỗ, nhất là khi được sự “tạo điều kiện” của thế giới ảo - cho phép bản thân ẩn mình an toàn bằng những nickname nào đó, nên ta đã sống bừa bãi hơn, xô bồ hơn, và nghĩ thoáng đến mức đi xa lắc giá trị nhân văn, trong sáng mà mỗi người cần phải giữ, bởi đó là điều kiện tất yếu để có bình yên, để được tôn trọng.

Biến mình thành người dễ dãi trên mỗi bức ảnh, dòng tin, bình luận, chửi bới... trên dòng thời gian là một trong những cách làm cho mình bối rối trước thực tại cuộc sống. Vì, chúng ta không còn bình tĩnh để nhìn sâu sắc, để tìm ra cách giải quyết vấn đề, để cảm thông và thấy được mình cần làm gì để đóng góp; thay vào đó, suốt ngày mình chỉ hoài trách móc số phận, thất vọng với mọi thứ, mất niềm tin với tất cả... (bởi trước đó, đã quá buông thả suy nghĩ của mình trên thế giới mênh mông tuy nhiều người đó nhưng hầu như ai cũng cô đơn với những ốc đảo do mình tự bồi đắp).

Giữa chốn thị phi...

Thời nào cũng có thị phi, cũng có những tin đồn... và con người bị chi phối, bị khổ sở bởi những thứ ấy. Nhưng, có lẽ chưa thời nào bằng thời này, khi công nghệ phát triển, nhà nhà, người người tham gia mạng xã hội, cập nhật tin tức hàng giờ, hàng phút trên internet (như đã nói ở trên), càng khiến cho chốn thị phi nhộn nhịp, rộng mở xuyên biên giới.

Ở đó, có những tin thất thiệt mà cũng khiến người ta... tin sái cổ, như là chuyện bắt cóc trẻ con mới đây chẳng hạn, đã khiến các cơ quan chức năng phải “nói cho rõ” nhằm trấn an dư luận. Rồi những chuyện này nọ hàng ngày, chỉ cần báo đăng (tin chính thức trên báo chính thống) thì sau đó không lâu, cõi “ảo” lại rầm rầm rộ rộ, soi, chiếu, đem kính lúp, kính hiển vi ra để tìm kiếm nhằm bày biện đủ kiểu quan điểm, chủ yếu là “vạch lá tìm sâu”, chê là chính.

Đã không ít lần, tôi đọc được những dòng chia sẻ đầy chán ngán của bạn, rồi của anh, chị, của em... rằng, bây giờ không xài Facebook thì lạc hậu, bị cho là bảo thủ, nhưng chơi rồi mới hay, ở trên đó, người ta làm “thánh” nhiều quá, suốt ngày chỉ trích, xoi mói đời tư, tìm lỗi để ném đá, chứng tỏ mình giỏi, mình lương thiện, trong khi đời thực của họ chưa chắc hay ho gì...

Nhiều người có suy tư về vấn đề (hay vấn nạn) này đã phải đặt dấu hỏi: hình như con người ta ngày càng độc ác hơn, ít biết nhìn cái hay, cái tốt của người khác, của cuộc sống xung quanh, ít biết tha thứ khi cứ muốn kiếm lỗi người khác để làm niềm vui...

Đại ý là như thế. Có một nỗi buồn, sự thất vọng bao trùm trong những dòng ngắn ấy, phản ánh một sự thật là: con người ta kêu gọi sống tốt nhưng ngay cách họ truyền tin, phản ứng với những cái chưa tốt, việc tồn tại của cuộc sống đã cho thấy họ... đang sống xấu rồi. Suy nghĩ tiêu cực và đưa ra những góc nhìn xấu về một con người mà ở đó có chứa phần tốt, điểm đẹp, cái được... là một sự thiếu công bằng, một cách nhìn ác ý.

Đó là chưa nói, có nhiều người trong đầu có tư tưởng “sính ngoại” nên dễ dàng chê bai người trong nước với những lời lẽ thậm tệ, chỉ chờ đợi những tin xấu về người trong nước là đem ra bàn luận, đưa lên “tuyên truyền” như thể cuộc sống chỉ có bấy nhiêu chuyện, và toàn là chuyện xấu. Còn biết bao cái tốt, biểu hiện đẹp sao không đưa lên? Sao lại tự làm cho mình trở nên tiêu cực bằng cách chằm chằm nhìn vào những góc tối và truyền góc tối ấy mà thôi? Trong khi ấy, giả sử cũng với những biểu hiện tương tự, nhưng do người ngoại quốc làm thì có thể dễ dàng được cho qua, thậm chí có cái nhìn ngược lại!

Tôi thấy giữa chốn thị phi mà ở đó, sự giả danh của cái tốt bắt đầu bằng chuyện chửi bới cái xấu chỉ khiến cho đời sống tinh thần mình bị ảnh hưởng không tốt. Do vậy, thiết nghĩ cần cẩn trọng khi bước vào xa lộ thông tin trên mạng xã hội khi có quá nhiều người lạm dụng chốn ấy để xả rác, để bới móc, để khơi gợi những ý niệm không mấy tốt đẹp.

Cần biết bao những lời đẹp từ cuộc sống, những lời thật mà chân thành chớ không phải là những chỉ trích để làm cho xấu mặt người khác, làm cho nhiều người nhìn vào cuộc sống, vào đất nước mình đang sống và thấy chỉ toàn “mặt trái” và thấy “gà nhà bôi mặt đá nhau”.

Nghĩ thế nên tôi tiếp xúc với “chốn thị phi” ấy với sự bình tĩnh, để biết và lướt qua, để còn tập trung vào những điểm sáng khác, để khuyến khích cái tốt được tốt thêm thay vì chỉ là chỉ trích cái xấu, làm cho nó không những không tốt lên mà còn xấu thêm, gây ra hiệu ứng xấu trong suy nghĩ của người khác về cuộc sống, khiến nhiều ngươi rơi rớt niềm tin vào điều tốt đẹp vốn tồn tại song hành bên ta, trong mỗi chúng ta...

An Lạc

thien su phunutodayvn(1)

Thiền sư Thích Nhất Hạnh và 20 câu nói khiến bạn phải thay đổi

Đăng lúc: 10:14 - 30/06/2016

Dưới đây là 20 câu nói của Thiền sư Thích Nhất Hạnh khiến suy nghĩ của bạn thay đổi.

1. "Không ai có thể trao cho ta tự do. Ta phải tự mình nuôi dưỡng nó. Đó là một công việc hàng ngày".

2. "Con người luôn gặp khó khăn trong việc buông bỏ đau khổ. Với nỗi sợ hãi về những điều bất định, họ chọn chịu đau khổ trong những thứ quen thuộc".

3. "Giác ngộ luôn luôn hiện hữu. Sự giác ngộ nhỏ bé sẽ mang tới giác ngộ lớn lao. Nếu bạn hít thở và nhận ra rằng mình vẫn đang sống, đó là lúc bạn chạm tay vào điều kỳ diệu của việc được sống. Đó cũng là một loại giác ngộ".

4. "Con người đau khổ vì họ bị mắc kẹt trong quan điểm. Chỉ khi nào chúng ta giải phóng được những quan điểm đó, chúng ta mới tự do và không còn đau khổ".

5. "Cuộc sống chỉ hiện hữu ở thực tại. Đó là lý do mà chúng ta nên đi theo cách mà mỗi bước đều mang ta đến thực tại".

6. “Nếu ta tin ngày mai sẽ tốt đẹp hơn thì hôm nay ta có thể chịu đựng mọi khó khăn”.

7. “Biết bỏ qua sẽ đem cho ta sự tự do, và tự do chính là điều kiện duy nhất của hạnh phúc”.

8. “Cuộc sống chỉ hiện hữu ở thực tại. Đó là lý do mà chúng ta nên đi theo cách mà mỗi bước đều mang ta đến thực tại”.

9. “Thấu hiểu nỗi đau của người khác là món quà to lớn nhất mà bạn có thể trao tặng họ. Thấu hiểu là tên gọi khác của yêu thương. Nếu bạn không thể thấu hiểu, thì bạn chẳng thể yêu thương”.

Mô tả ảnh.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
10. “Nói “Tôi yêu bạn” có nghĩa là “Tôi có thể mang tới cho bạn sự bình yên và hạnh phúc”. Để làm được điều đó, trước tiên, chính bạn phải là người có được những điều đó đã”.

11. “Một người tức giận là do không giải quyết được những đau buồn của mình. Họ là nạn nhân đầu tiên của sự đau buồn đó, còn bạn là người thứ hai. Hiểu được điều này, lòng từ bi sẽ nảy nở trong tim và sự tức giận sẽ tan biến. Đừng trừng phạt họ, thay vào đó, hãy nói gì đó, làm gì đó để vơi bớt nỗi đau buồn”.

12. “Đôi khi niềm vui mang tới nụ cười. Nhưng cũng đôi khi, chính nụ cười mang tới niềm vui”.

13. “Hạnh phúc là được là chính mình. Bạn không cần phải được thừa nhận bởi người khác. Chỉ cần chính bạn thừa nhận mình là được rồi”.

14. "Hãy cười, thở và bước đi thật chậm."

15. "Mỗi sáng thức dậy, tôi lại mỉm cười. Hai mươi tư tiếng mới mẻ đang ở trước mắt tôi. Tôi nguyện sống trọn cho từng phút giây và xem xét mọi thứ bằng ánh nhìn từ bi.”

16. "Những mầm mống khổ đau trong bạn có thể thật mạnh mẽ, nhưng đừng đợi cho đến khi mọi khổ đau đi hết rồi mới cho phép mình được hạnh phúc."

17. "Nhiều người cho rằng sự náo nhiệt là hạnh phúc. Nhưng khi quá náo nhiệt, sẽ không có bình yên. Hạnh phúc thật sự dựa trên sự bình yên."

18. "Hành động của tôi nói lên tôi là ai."

19. "Niềm hi vọng là điều rất quan trọng. Nó giúp cho hiện tại bớt khắc nghiệt. Nếu ta hi vọng rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn, ta sẽ chịu đựng được khó khăn của hôm nay."

20. "Nếu bạn yêu ai đó nhưng hiếm khi dành thời gian cho họ thì đó không phải tình yêu thật sự."

Tám nạn

Tám nạn

Đăng lúc: 09:04 - 19/06/2016

Là đệ tử Phật, được tu hành trong giáo pháp của Như Lai, đôi khi chúng ta nghĩ đó là bình thường nhưng kỳ thực, được nương tựa Tam bảo là có phước duyên lớn. Vì nếu thiếu duyên, chúng ta sẽ rơi vào tám trường hợp “không được nghe pháp, không biết tu hành”.

Tám nạn
Khi Thế Tôn thuyết pháp ở đời thì mình đang bị đày ải, trầm luân nơi địa ngục (1), ngạ quỷ (2), súc sanh (3), hoặc tiêu diêu nơi cõi trời Trường Thọ (4), hoặc sống nơi biên giới (5), hoặc sống ở trung tâm đất nước mà bị tật nguyền (6), hoặc bị tà kiến chướng ngại (7); hoặc gặp thời không có Chánh pháp (8) nên không thấy nghe Phật pháp. Rơi vào tám trường hợp ấy Thế Tôn gọi là tám nạn.

“Một thời Phật ở một nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Người phàm phu không nghe, không biết thời tiết thuyết pháp. Tỳ-kheo nên biết! Có tám thời không được nghe pháp, người không được tu hành. Thế nào là tám?

- Nếu lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi được đến Niết-bàn, là việc làm của Như Lai, nhưng chúng sanh này ở trong địa ngục, không nghe, không thấy. Đó là nạn đầu tiên.

- Lại nếu lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi, mà chúng sanh này ở trong loài súc sanh không nghe, không thấy. Đó là nạn thứ hai.

- Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi, nhưng chúng sanh này ở trong ngạ quỷ, không nghe, không thấy. Đấy là nạn thứ ba.

- Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi, nhưng chúng sanh này ở cõi trời Trường Thọ không nghe, không thấy. Đó là nạn thứ tư.

- Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi, nhưng chúng sanh này sống ở biên địa, phỉ báng Hiền Thánh, tạo các tà nghiệp. Đó là nạn thứ năm.

- Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi đến được Niết-bàn, nhưng chúng sanh này tuy sống ở trung tâm của nước, nhưng sáu căn không đầy đủ, lại cũng không phân biệt được pháp thiện ác. Đó là nạn thứ sáu.

- Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi đến được Niết-bàn, nhưng chúng sanh này tuy sống ở trung tâm của nước, sáu căn đầy đủ không có khuyết tật, mà tâm thức tà kiến; cho rằng người không thí, người không thọ, cũng không có quả báo thiện ác, không đời này, đời sau, cũng không cha mẹ, đời không có Sa-môn, Bà-la-môn v.v... có thành tựu quả A-la-hán, tự thân chứng được để tự an lạc. Đó là nạn thứ bảy.

- Lại nữa, lúc Như Lai không xuất hiện ở đời, Như Lai cũng không thuyết pháp đưa đến Niết-bàn, tuy chúng sanh này sống ở trung tâm nước, sáu căn đầy đủ, kham nhẫn thọ pháp, thông minh tài cao, nghe pháp hiểu liền, tu hành chánh kiến, biết có vật, có thí, có người thọ, có quả báo thiện ác, có đời này, đời sau, ở đời có Sa-môn, Bà-la-môn v.v... tu chánh kiến chứng được A-la-hán. Đó là nạn thứ tám, chẳng được tu hành Phạm hạnh. Này Tỳ-kheo, đó gọi là tám nạn chẳng được tu hành Phạm hạnh.

Ở đây, này Tỳ-kheo! Có một thời tiết cho người tu hành phạm hạnh. Thế nào là một? Đó là lúc Như Lai xuất hiện ở đời, rộng nói giáo pháp được đến Niết-bàn, và người này sinh ở trung tâm của nước, thế trí biện thông, thấy vật đều rõ biết, tu hành chánh kiến, cũng hay phân biệt các pháp thiện ác, biết có đời này, đời sau, đời có bậc Sa môn, Bà-la-môn tu chánh kiến chứng được A-la-hán. Đó là người phạm hạnh tu hành một pháp được Niết-bàn.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm 42, Bát nạn 1 [trích],

VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.82)

Thế mới biết, hàng đệ tử Phật chúng ta vẫn còn nhiều phước duyên. Dẫu Thế Tôn không còn ở đời nhưng Chánh pháp vẫn lưu truyền, chư Tăng Ni vẫn đang miệt mài hoằng hóa. Nếu biết phát huy chánh kiến, tin sâu nhân duyên quả, thâm tín với các bậc chân tu thành tựu giải thoát để nỗ lực thực hành giáo pháp thì chúng ta sẽ có cơ hội thành tựu phạm hạnh, đạt đến Niết-bàn.

Quảng Tánh

Hóa giải nghiệp báo

Hóa giải nghiệp báo

Đăng lúc: 21:10 - 22/04/2016

Để hóa giải những nghiệp báo xấu, ngoài việc cầu siêu bạn và anh ấy cần hướng thiện và làm phước.

HỎI: Tôi và chồng sắp cưới đã chung sống như vợ chồng. Từ khi sống chung thì có rất nhiều điều xui xẻo, thất bại xảy ra cho chúng tôi. Đôi khi nằm ngủ, tôi cảm thấy có ai đó đụng vào người, cảm giác rất thật, làm tôi sợ hãi giật mình.

Và tình cờ, tôi biết được trước đây, chồng tôi và bạn gái cũ đã từng có song thai nhưng vì hoàn cảnh nên phá đi, sau đó họ cũng không thờ cúng hay là cầu siêu, ăn năn hối lỗi gì cả. Tôi biết việc phá thai là tội lỗi, gây nghiệp báo. Không biết có phải vì lỗi lầm ấy của anh mà bây giờ hôn nhân của chúng tôi phải chịu hậu quả? Ngay cả công việc làm ăn của anh ấy cũng không mấy thuận lợi. Anh thì không tin nhưng tôi vẫn cảm thấy rất ray rứt. Dù tôi không gây ra chuyện gì nhưng chồng sắp cưới của tôi là cha của hai đứa bé, là người có lỗi.

Tôi muốn hỏi quý Báo rằng, vợ chồng tôi muốn hóa giải nghiệp báo, cầu nguyện cho hương linh các bé ấy siêu thoát, không quấy rầy nữa thì làm cách nào?

(ZEE, zee.hehe@yahoo.com)

ĐÁP:

Bạn Zee thân mến!

Trong tín niệm dân gian của phần đông người Việt, nếu người chồng hoặc vợ từng có con (thai nhi) nhưng bị phá bỏ hoặc do sút sảo mà không thờ tự, cúng kiếng, cầu siêu thì đứa con này không siêu thoát, sẽ bám theo cha mẹ chúng để quấy phá. Cụ thể gần như bạn nghĩ, chồng bạn và người yêu cũ trước đây đã từng phá bỏ hai đứa con (song thai), vì tội lỗi ấy của chồng mà giờ đây hương linh của hai bé theo cha quấy phá khiến cho hôn nhân của bạn gặp nhiều điều bất lợi.

Hầu hết những người rơi vào hoàn cảnh đã từng phá thai, cả cha và mẹ đều ăn năn sám hối tội lỗi, thờ tự và cầu siêu cho con, mong con tha thứ và siêu thoát. Làm được điều này, tâm tư của cha và mẹ cũng bớt phần ray rứt và hương linh con cái của họ cũng được lợi ích. Hiện nay một số chùa tổ chức cầu siêu cho thai nhi sút sảo hay bị phá bỏ và tạo duyên cho các bậc cha mẹ của thai nhi sám hối tội lỗi đã thu hút khá đông người tham dự.

Theo quan điểm của đạo Phật, phá thai là tội lỗi, nhưng hoàn cảnh không như ý của gia đình bạn hiện nay là kết quả của nhiều nghiệp nhân trong quá khứ, chứ không chỉ vì nguyên nhân vong linh của các con người chồng với người yêu cũ quấy phá. Tuy vậy, trước mắt, bạn nên khuyên chồng lên chùa làm lễ cầu siêu cho các con và sám hối nghiệp chướng của mình. Tùy theo sự thành tâm cầu nguyện và tạo phước để hồi hướng của hai vợ chồng bạn, đồng thời nhờ Tam bảo gia hộ mà hương linh các cháu sẽ được nhiều lợi lạc.

Để chuyển hóa hoàn cảnh hiện tại, hóa giải những nghiệp báo xấu, ngoài việc cầu siêu cho các con riêng của chồng, bạn và anh ấy cần hướng thiện và làm phước. Hướng thiện là phát tâm quy y Tam bảo, sống theo các chuẩn mực đạo đức Phật giáo (tuân giữ năm giới), tránh xa các điều ác. Làm phước là luôn cố gắng giúp người trong khả năng có thể (như bố thí, cúng dường, giúp sức, che chở, động viên tinh thần, thấy ai làm điều tốt thì khen ngợi…). Trong dân gian thường nói “Có phước có đức thì mặc sức mà hưởng”, nên gia đình bạn hãy gieo trồng và vun bồi phước đức, khi phước đức tăng trưởng thì cuộc sống mới thuận lợi và hanh thông.

Chúc bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN

Ảo nhưng không ảo

Ảo nhưng không ảo

Đăng lúc: 09:23 - 06/12/2015

Cách đây chừng 15 năm, internet chưa phổ biến lắm ở Việt Nam, và dĩ nhiên còn khá xa lạ đối với Phật giáo. Nhưng bây giờ, sau giai đoạn “bùng nổ thông tin”, internet và những ứng dụng của nó đã trở nên quá “thân thiết” với mọi người.
Chỉ với chiếc điện thoại “thông minh”, một máy tính bảng hay chiếc máy tính…, cùng các ứng dụng 3G, wifi…, bất kỳ một ai cũng có thể xâm nhập thế giới với cả hai mặt tốt và xấu mà dường như không hề có sự trở ngại nào.

>> Triển khai đường dây nóng tố cáo sư giả
>> Một kiểu "giả trang thiền tướng"


Chúng ta thường quan niệm rằng internet là thế giới ảo. Ảo nhưng tác động thì rất thực

Mọi người, trong đó có tu sĩ Phật giáo, có thể tham dự và góp phần tạo thông tin qua những ứng dụng của các mạng xã hội sử dụng miễn phí và không hạn chế, như facebook, zalo… Chúng ta quá dễ dàng lên mạng và gặp ngẫu nhiên rất nhiều trang cá nhân như thế. Từ những hình ảnh sinh hoạt đời thường, những suy nghĩ dạng nhật ký, đến việc đăng tải các hình ảnh về các sự kiện Phật giáo, bày tỏ quan điểm, chia sẻ kiến thức, hoặc chỉ đơn giản là kết nối bạn bè, tán gẫu… liên quan đến tu sĩ Phật giáo trên các mạng xã hội.

Bên cạnh những tiện ích tích cực, còn rất nhiều hệ lụy, tác động xấu tới đạo Phật nói chung, khi các cá nhân tạo lập, cung cấp thông tin thiếu hoặc không nhận thức đầy đủ về những ảnh hưởng khó lường của các mạng xã hội. Nhiều vụ việc rất xấu, phản cảm liên quan đặc biệt đến cá nhân một vài tu sĩ Phật giáo đã được báo chí khai thác một cách triệt để trong thời gian qua có thể xem là sự cảnh báo rất đáng được quan tâm.

Như người viết đã có lần đề cập, người tu sĩ Phật giáo mặc nhiên trở thành biểu tượng của đạo đức hướng thượng, mẫu người đã vượt lên các nhu cầu tầm thường của đời sống để phụng sự cho lý tưởng cao đẹp, đem lại lợi lạc cho số đông. Chính vì thế, mọi hành vi, lời nói của họ đều được dư luận để ý, bình phẩm. Khi khoác lên chiếc áo tu sĩ, họ mặc nhiên trở thành hình ảnh đại diện cho Phật giáo. Nên những hình ảnh, lời nói liên quan đến người tu sĩ ở nơi công cộng, qua các trang mạng xã hội… cũng được dư luận đặc biệt chú ý. Và đôi khi, do thiếu ý thức nên những nội dung của người tu sĩ được đăng tải trên thế giới ảo không còn là chuyện riêng tư nữa. Điều đó đã từng xảy ra ở Thái Lan, và ngay cả ở Việt Nam chúng ta, và hậu quả của nó để lại đôi khi nghiêm trọng.

Chúng ta chỉ cần vào các công cụ tìm kiếm internet, gõ những chữ tìm kiếm có chủ đích trên sẽ dễ dàng thấy được điều đó.

Chúng ta thường quan niệm rằng internet là thế giới ảo. Ảo nhưng tác động thì rất thực. Internet cũng đã có vai trò rất lớn trong việc hoằng pháp, nhưng đồng thời cũng để lại nhiều phiền toái liên quan đến nếp sống của thiền môn, mà trung tâm là giới xuất gia, tu sĩ.

Hiện vẫn chưa có một kết quả khảo sát đầy đủ về điều đó để các ban ngành chức năng của Giáo hội có những quy định, hướng dẫn Tăng Ni sử dụng tốt phương tiện truyền thông của thời đại, đồng thời có những ứng xử phù hợp trong thế giới ảo này. Đây là vấn đề quan trọng và thiết thực, thiết nghĩ cần được các ban ngành Giáo hội như Ban Tăng sự, Ban Giáo dục Tăng Ni quan tâm đúng mức, tránh tối đa trình trạng tự phát, cá nhân, tùy tiện... dẫn đến hậu quả xấu như đã diễn ra và nếu không có sự điều chỉnh phù hợp thì sẽ còn tiếp diễn sau này.

Thích Tâm Hải

30 câu nói muôn đời giá trị của thiền sư Thích Nhất Hạnh

30 câu nói muôn đời giá trị của thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đăng lúc: 07:34 - 26/11/2015

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Những lời dạy của thầy đầy tính chiêm nghiệm, rất gần gũi, thiết thực.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh dành thời gian cả cuộc đời mình cho Phật giáo, với mong muốn mang lại hạnh phúc cho mọi người. Hãy cùng đọc những lời thầy dạy để khiến bạn sống hạnh phúc hơn:


Thiền sư Thích Nhất Hạnh

1. Thấu hiểu nỗi đau của người khác là món quà to lớn nhất mà bạn có thể trao tặng họ. Thấu hiểu là tên gọi khác của yêu thương. Nếu bạn không thể thấu hiểu, thì bạn chẳng thể yêu thương.

2. Cũng như một người làm vườn biết cách dùng phân bón để cho ra những bông hoa tươi đẹp, người tu tập biết tận dụng nỗi đau khổ để tạo ra hạnh phúc.

3. Tự do có được nhờ tu tập và thói quen. Bạn phải rèn luyện mình cách bước đi như một người tự do, ngồi như một người tự do và ăn như một người tự do. Chúng ta phải rèn luyện bản thân về cách sống như thế nào.

4. Nói “Tôi yêu bạn” có nghĩa là “Tôi có thể mang tới cho bạn sự bình yên và hạnh phúc”. Để làm được điều đó, trước tiên, chính bạn phải là người có được những điều đó đã.

5. Một người tức giận là do không giải quyết được những đau buồn của mình. Họ là nạn nhân đầu tiên của sự đau buồn đó, còn bạn là người thứ hai. Hiểu được điều này, lòng tư bi sẽ nảy nở trong tim và sự tức giận sẽ tan biến. Đừng trừng phạt họ, thay vào đó, hãy nói gì đó, làm gì đó để vơi bớt nỗi đau buồn.

6. Chúng ta được tạo ra từ ánh sáng. Chúng ta là những đứa trẻ của ánh sáng. Chúng ta là con cái của thần mặt trời.

7. Mỗi người chúng ta nên tự hỏi mình: Tôi thật sự muốn gì? Trở thành người thành công số 1? Hay đơn giản là người hạnh phúc? Để thành công, bạn có thể phải hi sinh hạnh phúc của mình. Bạn có thể trở thành nạn nhân của thành công, nhưng bạn không bao giờ là nạn nhân của hạnh phúc.

8. Hãy bước đi như thể bạn đang hôn trái đất bằng bàn chân của mình.

9. Khi một người làm bạn đau khổ, ấy là vì ẩn sâu bên trong, nỗi đau khổ của anh ta đang tràn trề. Anh ta không đáng bị trừng phạt. Anh ta cần sự giúp đỡ.

10. Đôi khi niềm vui mang tới nụ cười. Nhưng cũng đôi khi, chính nụ cười mang tới niềm vui.

11. Hạnh phúc là được là chính mình. Bạn không cần phải được thừa nhận bởi người khác. Chỉ cần chính bạn thừa nhận mình là được rồi.

12. Bởi vì bạn đang sống nên mọi thứ đều có thể thành sự thật.

13. Hãy cười, thở và bước đi thật chậm.

14. Mỗi sáng thức dậy, tôi lại mỉm cười. Hai mươi tư tiếng mới mẻ đang ở trước mắt tôi. Tôi nguyện sống trọn cho từng phút giây và xem xét mọi thứ bằng ánh nhìn từ bi.

15. Những mầm mống khổ đau trong bạn có thể thật mạnh mẽ, nhưng đừng đợi cho đến khi mọi khổ đau đi hết rồi mới cho phép mình được hạnh phúc.

Một lò sát sinh ở Pháp bị đóng cửa vì một phóng sự video thật khiếp đảm

Một lò sát sinh ở Pháp bị đóng cửa vì một phóng sự video thật khiếp đảm

Đăng lúc: 10:34 - 17/10/2015

Nhật báo Figaro ngày 14 tháng 10, 2015 có một bài báo tố cáo một lò sát sinh tại một quận lỵ ở Pháp vi phạm các quy tắc y tế về việc giết mổ súc vật. Độc giả có thể xem hình ảnh vô cùng hung bạo và độc ác của lò sát sinh này trên Youtube. Đối với những người Phật giáo thì sau khi xem cũng nên liên tưởng đến những miếng ăn ngon của mình...
Một cuốn phim vidéo được tiết lộ đã cho thấy các con ngựa còn sống bị xẻ thịt, các con bò chưa bị gây mê bị treo lủng lẳng bằng một chân, các con heo bị giết bằng hơi ngạt và đã hồi tỉnh trước khi bị đưa vào dây chuyền xẻ thịt... Phóng sự này đã được hiệp hội L.214 thực hiện nhằm tố cáo những phương pháp giết mổ thú vật trong các lò sát sinh. Vị thị trưởng của quận lỵ đã kịp thời phản ứng.

Các hình ảnh đưa ra khiến người ta phải buồn nôn. Sébastien Arsac người thay mặt cho hiệp hội L214 cảnh báo mọi người rằng: "Tôi chưa từng thấy những hình ảnh kinh hoàng đến thế". Hiệp hôi bảo vệ thú vật L.214 đã tìm cách gắn các máy quay phim bên trong lò sát sinh của quận Alès thuộc tỉnh Gard (miền nam nước Pháp). Trong suốt 10 ngày, hiệp hội này đã quay được tất cả 50 giờ phim vidéo, nêu lên những cảnh tượng không sao chịu đựng nổi. Hiệp hội liền phổ biến các hình ảnh vidéo này trên mạng và đã gây nhiều xúc động mạnh.



Các hình ảnh vidéo cho thấy một nhân viên của lò sát sinh cắt chân một con ngựa còn sống, và còn cho biết là lò sát sinh này thuộc quyền quản lý của chính quyền quận lỵ và hàng năm xẻ thịt 3.000 con ngựa, 20.000 con heo, 40.000 con cừu và 6.000 con bò nhằm cung cấp cho các tiệm thịt tại địa phương, các trường trung học đệ nhất và đệ nhị cấp (để làm cơm trưa cho học sinh), các bệnh viện và một đường dây phân phối thực phẩm sạch.

Ngườì ta còn thấy các con ngựa khác chưa được gây mê đúng mức và đã hồi tỉnh trước khi được đưa vào dây chuyền xẻ thịt. Nhiều con ngựa khác kháng cự lại không chịu chui vào lò gây mê, một số bị nhân viên dùng gậy để đập chết, một số khác bị đẩy vào các lò giết, đầu đập vào vách chuồng bằng sắt khi nhân viên dập cửa. Hiệp hội bảy tỏ sự bất nhẫn của mình như sau: "Các con ngựa cho thấy đã tỉnh lại trong khi đang bị treo lủng lẳng bằng một chân trên dây chuyền mổ xẻ và đang bị thọc huyết. Không thấy một nhân viên nào nghĩ đến việc gây mê trở lại các con vật có dấu hiệu đã tỉnh lại".


nguoiphattu.com_sat sinh00.jpg

Lò hơi ngạt


Cuốn phim cho thấy cảnh tượng thật tàn ác của các con heo trong hố hơi ngạt chứa thán khí CO2. Người thay mặt cho hiệp hội L.214 là Sébastien Arsac cho biết: "Cách xông hơi ngạt không đủ mạnh khiến các con heo không bị hôn mê trước khi chết", và ông còn cho biết thêm: "Dù phương pháp giết heo bằng hơi ngạt CO2 là hợp pháp, thế nhưng phương pháp này cũng dự trù là phải nhốt heo vào lò hơi ngạt ít nhất là 120 giây. Thế nhưng tại lò sát sinh này thì đôi khi chỉ giữ heo trong lò 30 giây". Một số heo đã tỉnh lại trong khi đang bị thọc huyết. Giáo sư thú y Moutlon, chuyên gia về luật pháp tại Tòa Án Hành Chánh và Kháng Cáo của hai thành phố Paris và Versailles có nêu lên trong phúc trình của ông như sau: "Trong 30 giây đầu tiên khi bị xông hơi ngạt thì heo phản ứng rất mãnh liệt và 85 giây sau đó thì dường như heo bắt đầu bị hôn mê. [...] Hình ảnh trong phim còn cho thấy là các con heo đã hồi tỉnh lại khi được đưa vào phòng thọc huyết, nhất là đối với các con heo cùng một lô và bị thọc huyết sau cùng.


nguoiphattu.com_sat sinh01.jpg



Dây chuyền xẻ thịt: các con vât còn đang giãy dụa


Các con bò cũng không tránh khỏi những cảnh ác độc đó. Hiệp hội L214 cho biết: "Các con bò không hoàn toàn bị hôn mê nhưng không hề được gây mê thêm lần thứ hai đúng theo luật pháp đã quy định. Chúng bị thọc huyết trong khi còn đứng trên mặt đất hoặc bị treo bằng một chân. Các con bò còn tỉnh bị thọc huyết bằng dao và giẫy chết thật lâu. Các con cừu thì bị nhốt vào các lồng sắt quay tròn và bị thọc huyết sống, trong cùng một gian phòng và trước mặt chúng là các con trừu khác đang bị xẻ thịt. Chúng được lôi ra khỏi lồng nhưng vẫn còn sống, nhiều con cố gắng đứng lên dù cổ họng đã bị cắt đứt".

Video giết hại động vật một cách dã man.






Hiệp hội L214 còn bày tỏ sự bất nhẫn của mình như sau: "Chỉ vì những sự khiếm khuyết trên đây mà hầu hết các con thú trong lò sát sinh này phải gánh chịu cảnh hấp hối kéo dài và một cái chết vô cùng hung bạo trước những đôi mắt vô tình của các nhân viên giết mổ. Họ không tuân thủ các thể lệ y tế sơ đẳng nhất và bất chấp sự khổ đau của thú vật. Do đó hiệp hội L214 đã yêu cầu "phải tức khắc rút giấy phép của lò sát sinh này, ít nhất là với tư cách tạm thời".



Trong khi đó thì hiệp hội làm thủ tục đưa lò sát sinh này ra Toà Án Tối Cao của quận Alès vì các hành vi độc ác đối với súc vật. Hiệp hội này còn đưa ra một bản thỉnh cầu trên trang mạng Change.org để làm hậu thuẫn cho đơn xin đóng cửa lò sát sinh.

Tòa thị sảnh của quận Alès phản ứng nhanh chóng và cho biết là sau khi các hình ảnh trên đây được phổ biến thì vị thị trưởng của quận lỵ là Max Roustan cho biết là mình "rất xúc động trước các hình ảnh đó và quyết định tạm đóng cửa ngay lò sát sinh này với lý do là để bảo quản, và đồng thời cho tổ chức một cuộc điều tra nội bộ về mặt hành chánh, liên quan đến sự kiện có thể là lò sát sinh đã không tôn trọng các tiêu chuẩn giết mổ súc vật". Vị thị trưởng cho biết thêm: "Nếu cuộc điều tra nội bộ xác nhận các lỗi lầm thật sự đã xảy ra thì sau đó sẽ quyết định về các biện pháp trừng phạt, có thể đưa đến việc đóng cửa vĩnh viễn lò sát sinh Alès".

Tòa báo Figaro có tiếp xúc với lò sát sinh này, thế nhưng chỉ nhận được một câu phát biểu cụt ngủn: "Chúng tôi không muốn bình phẩm gì cả về các cuốn vidéo đó".


Bures-Sur-Yvette, 15.10.15

Mathilde Golla

Hoang Phong chuyển ngữ

w620h405f1c1 files articles 2014 1085265 1(1)

Thành công thất bại trong kinh doanh và chữ tín trong cuộc sống hàng ngày

Đăng lúc: 19:50 - 28/07/2015

Có một bài pháp Phật nói trong kinh do ngài Xá lợi phất thưa hỏi, “nguyên nhân nào dẫn đến một người mua bán thành công và thất bại?
” Phật dạy, “này Xá lợi phất, ông nên biết có người cư sĩ đi đến chỗ các thầy Tỳ kheo và hứa hẹn như sau: Dạ thưa các thầy, các thầy còn thiếu nhu cầu gì con sẽ đóng góp, ủng hộ cho. Sau khi hứa hẹn người này không làm như lời đã hứa. Do nhân duyên đó người ấy về sau có mua bán, làm ăn gì cũng đều thất bại. Nếu người ấy đóng góp, ủng hộ như đã hứa, sau này nếu có mua bán, làm ăn gì cũng đều thành công như ý muốn. Nếu người ấy đóng góp, ủng hộ nhiều hơn những gì đã hứa, nếu mua bán, làm ăn gì cũng đều thành công ngoài sức tưởng tượng.” Khi ai đó được hứa hẹn giúp đỡ một điều gì, họ sẽ hy vọng, trông chờ ân nhân của mình như một vị cứu tinh. Bao nhiêu niềm tin họ mong đợi, khắc khoải, nhất là những người đang gặp hoàn cảnh khó khăn, họ mong mỏi mừng thầm và cảm thấy rất hạnh phúc; nhưng người hứa lại nuốt lời khiến họ phải chờ đợi rồi thất vọng, buồn bã, khổ đau. Con người ở đời sống có nghĩa tình với nhau thường không bao giờ thất hứa với ai dù chỉ là việc nhỏ. Sự hứa hẹn là điều tự nguyện không ai bắt buộc, vì thế mỗi người hãy nên tập thói quen giữ đúng lời hứa. Không ai bắt buộc chúng ta hứa hẹn hay giúp đỡ ai vấn đề nào đó, nếu đã hứa thì phải cố gắng làm cho vuông tròn; bởi người được hứa họ đang hy vọng, mong mỏi, trông chờ và sẽ trở nên tuyệt vọng khi bị người hứa hẹn không thực hiện đúng.

Trong cuộc sống đôi khi có những chuyện rất vô lý, nhiều người làm chơi mà ăn thiệt, họ không phải nhọc nhằn ra công tốn sức mà hiệu quả thu về rất cao. Nhiều người cứ nghĩ có sự bất công trong xã hội, thực tế mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân sâu xa của nó, không có chuyện ngẫu nhiên hoặc một đấng quyền năng nào sắp đặt. Tất cả đều do luật nhân quả tác động và âm thầm chi phối bởi hành vi giúp đỡ người khác trong quá khứ quá nhiều. Hiện tại chúng ta không biết bố thí, cúng dường, làm những điều thiện ích để giúp đỡ nhân loại tuỳ theo khả năng thì bất hạnh, khổ đau sẽ luôn có mặt trong hiện tại và mai sau. Những ai tin sâu nhân quả sẽ sống đạo đức hơn, mở rộng tấm lòng từ bi hơn, họ sống đơn giản hơn, giảm bớt các nhu cầu không cần thiết để có đủ điều kiện san sẻ nhiều hơn. Một người hàng xóm vừa bị tai nạn cháy nhà đang sống cảnh màn trời chiếu đất, vì động lòng thương xót nên ta đã hứa sẽ đem số tiền tích lũy bấy lâu để giúp người ấy có mái nhà che mưa che nắng. Cả gia đình họ sẽ trông chờ, hy vọng vào ta như con trẻ chờ mẹ đi chợ về cho quà ăn, bao nhiêu niềm tin họ trông vào đấy, nếu mình thất hứa sẽ làm họ đau khổ nhiều hơn. Cho nên, trước khi hứa hẹn với ai điều gì, chúng ta hãy nên xem xét kỹ lưỡng coi mình có đủ khả năng thực hiện lời hứa ấy hay không? Đừng hứa giựt le trước mặt mọi người làm như vẻ ta đây giàu có mà làm người được hứa thất vọng. Chính lời hứa suông đó sẽ làm họ mất niềm tin, đau khổ, tuyệt vọng, do đó trong hiện tại và mai sau chúng ta mua bán, làm ăn gì cũng đều bị thất bại.
Ngược lại, hứa giúp người khác như đã hứa hoặc giúp nhiều hơn như đã hứa sẽ làm người được hứa vui mừng, hạnh phúc; nhờ vậy sau này họ sẽ biết ơn và đền ơn người hứa bằng cách sẵn sàng giúp đỡ, san sẻ khi họ gặp hoạn nạn, khó khăn. Do việc làm tốt đẹp đó nên hiện đời làm ăn, mua bán gì cũng đều thành công ngoài sức tưởng tượng hay làm chơi mà ăn thiệt. Nếu chúng ta hiện tại hay bố thí, cúng dường hoặc thường xuyên giúp đỡ tài vật cho người bất hạnh để họ có cái ăn cái mặc, san sẻ những hiểu biết về chân lý cuộc đời giúp họ tin sâu nhân quả; trong tương lai người này thường xuyên gặp nhiều may mắn một cách kỳ lạ mà không phải hao hơi tốn sức nhiều như trúng số, kinh doanh làm ăn gì cũng đều thuận lợi cả và có thể kế thừa gia tài của người khác. Vô số trường hợp đặc biệt không làm mà vẫn hưởng các chế độ ưu đãi là nhờ quả báo của việc biết gieo trồng phước đức, giúp đỡ nhiều cho nhân loại trong quá khứ. Số đông mọi người đều phải làm việc nhọc nhằn, lao nhọc mới có cái ăn cái mặc, nhưng chưa hẳn đã được cơm no áo ấm. Người thời nay sở dĩ thành công ngoài khả năng và dự tính không phải bỗng dưng khi không mà có, tất cả đều có nguyên nhân sâu xa, làm phước được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, nhân quả tốt xấu khi đã gieo chỉ đến sớm hay muộn mà thôi khi hội đủ nhân duyên. Cúng dường hay giúp đỡ, chia sẻ là một việc làm thánh thiện, chỉ có những ai có tấm lòng từ bi cao cả mới dám làm những việc lợi ích như thế.
Tóm lại, bài kinh này Phật nhắc nhở và khuyên nhủ mọi người “chữ tín” rất quan trọng trong đời sống hằng ngày. Con người vì tham đắm, mê muội nên mới tìm cách gian dối, lường gạt để đem về lợi dưỡng cho mình, đó là tâm niệm của đa số chúng sinh. Chúng ta là người Phật tử chân chính, khi đã hứa hẹn giúp đỡ ai điều gì thì phải phát xuất từ lòng từ bi, đâu có ai bắt buộc mình phải làm vậy nên khi đã hứa thì phải giữ lời, đừng để người hy vọng, mong mỏi rồi thất vọng, nhất là những người có hoàn cảnh bất hạnh, khó khăn. Như gia đình anh Hai vừa bị hỏa hoạn thiêu rụi hết căn nhà, mọi người đều đang sống cảnh màn trời chiếu đất. Chúng ta vì lòng thương xót muốn giúp đỡ nên đã hứa cho anh mượn tiền để xây lại căn nhà rồi thất lời, không giúp như đã hứa. Vì ta hứa suông chỉ để giựt le mà làm cho gia đình anh thất vọng, buồn phiền, khổ đau. Đó là nhân dẫn đến mai sau nếu có mua bán, làm ăn gì cũng đều thất bại. Ngược lại, nếu chúng ta giúp như đã hứa hay giúp nhiều hơn lời hứa làm mọi người được an vui, hạnh phúc thì sau này chúng ta làm chơi mà ăn thiệt. Nhân quả rất công bằng là một sự thật, làm phước thì được phước, hưởng lộc thì hết lộc. Người khôn ngoan phải biết gieo trồng, tích lũy phước đức mãi mãi, giống như người có tiền gửi ngân hàng, khi cần thì rút ra xài lúc nào cũng được.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

grab1438043622Duc Phat Thich Ca 550x371

Gian lao không làm ta nhụt chí

Đăng lúc: 20:56 - 27/07/2015

Bạn với tôi là cùng màu áo, chung thờ một lý tưởng. Ðã lâu chúng ta không gặp nhau, hoặc đã gặp mà không có dịp trao đổi ý kiến cùng nhau. Hôm nay ngày hoan hỉ đã về, lòng tôi thấy nao nao, nhớ đến bạn và cần nhủ đôi lời cùng bạn, gọi là thực hiện phần nào điều “KIẾN HÒA ÐỒNG GIẢI” của đức Từ Phụ đã dạy chúng ta.
Duc_Phat_Thich_Ca
Bạn ạ! Trên đường học đạo thật xa diệu vợi, chúng ta tiến bước đã dẫm phải bao mũi gai nhọn cản trở, và hiện thăm thẳm những hố sâu, sừng sững những vách đá chơi vơi chặn lối đi của chúng ta.
Ở trường hợp này, bạn xử trí thế nào? Lùi lại chăng? Hay hăng hái tiến tới? Chắc bạn sẽ đồng thanh với tôi, chúng ta không thể lùi lại, mà vẫn anh dũng tiến lên, vì đó là hướng ta nhắm. Bảo thành đã hiện trước mắt ta rồi, dù phải tan thân mất mạng, chúng ta cũng được hài lòng, vì cái chết đó làm tăng thêm giá trị ta và đưa ta vượt lên một nấc khá cao trên cây thang đạo hạnh.
Bạn thử nghĩ! Những học sinh trung học, sinh viên đại học chịu biết bao khổ sở do những cuộc thi hành phạt. Có đôi khi, họ phải gạt nước mắt, cho đến muốn tự tử là khác. Như vậy người bày ra cuộc thi, phải chăng vì muốn ngăn bước tiến của họ? – Nhất định là không. Ðó là những cuộc thử thách để khuyến khích họ cố gắng thêm, là cây thước để đo trình độ và khả năng của họ, cũng là làm tăng giá trị của họ vậy. Nếu một sinh viên đủ lý trí, có sợ thi khó mà bỏ học chăng? Có cưu lòng oán hận người khảo hạch mình không? – Chắc là không, họ sẽ mang ơn những người khảo hạch, vì nhờ đó mà họ tiến thêm.
Lại nữa, một chiến sĩ, vì bảo vệ non sông tổ quốc và rạng danh cho giống nòi, nên xem thường chết sống, lăn mình vào rừng bom đạn. Nếu một chiến sĩ mặc bộ nhung phục bóng láng, cỡi con bạch mã thật xinh, mỗi khi ngồi trên lưng ngựa xem rất oai vệ, nhưng suốt đời chỉ ăn với ngủ, thì còn gọi được là “chiến sĩ” chăng? Cố nhiên, người chiến sĩ muốn được ngày khải hoàn rực rỡ: mỗi nhịp ngựa là hằng vạn tiếng hoan hô, hoa bội tinh bừng nở trên ngực, trước muôn triệu cặp mắt nhìn quên nháy và ước mơ, thì phải lăn mình trong ngàn tên muôn giáo, xem cái chết nhẹ hơn làn gió thoảng. Như vậy, những nguy hiểm gian lao đối với người chiến sĩ anh dũng sẽ không thấy gian lao mà chỉ thấy là công danh sự nghiệp.
Bạn ạ! Chúng ta là người chèo thuyền ngược dòng đời, thì làm gì có sự dễ dàng bình thản. Giả sử có, thì mục đích chúng ta nhắm đâu còn cao quí, vì mọi người đều có thể đến được. Bạn thử tưởng tượng, nếu một tu sĩ ăn no, ngủ kỹ, đầy đủ mọi nhu cầu, mãi sống trong cảnh nhàn hạ, mà được thành Phật, thì ông Phật ấy còn ai chịu lạy chăng? – Chắc là không! Vì dễ làm quá, có gì khó khăn mà phải kính phục. Sở dĩ chúng ta và mọi người đều tôn sùng kính lạy đức Phật, vì Ngài làm những điều mà chúng ta chưa làm được. Như vậy, giá trị người tu có là do vượt qua mọi hiểm trở khó khăn, ở chỗ ô trọc, mà tâm vẫn thanh bạch cao khiết.
Bạn đang tu hạnh nhẫn nhục chăng? Nếu bạn tu hạnh nhẫn nhục, mà không có người mạ nhục, đánh đập để thử lòng bạn có phiền, có giận chăng? Thì cái nhẫn nhục ấy chỉ là nhẫn nhục ở đầu môi. Muốn chứng thật hạnh nhẫn nhục của bạn, phải có người mạ nhục, đánh đập: ấy là lửa thử vàng nhẫn nhục của bạn vậy. Ðức Thích-ca khi còn làm vị tiên tu nhẫn nhục, nhờ có vua Ca-lợi cắt tay, thẻo mũi… Ngài mới chứng được nhẫn nhục Ba-la-mật.
Bạn đang tu hạnh bố thí chăng? – Thế là những kẻ đến xin đều là ân nhân của bạn. Nếu thiếu họ, bạn sẽ không viên mãn công hạnh. Mặc dù trong số người xin cũng có một hai kẻ đèo bòng, xin những điều không thể cho được. Nhưng bạn đừng vội phiền họ, mà bạn phải tự trách mình hạnh bố thí chưa cứu kính. Người Bà-la-môn xin con Thái tử Tu-đại-noa, chính là người đã giúp Ngài thành tựu hạnh bố thí Ba-la-mật, các hạnh khác cũng thế.
Tất cả cuộc thử thách đều là sự chứng thật hạnh tu hành của mình. Người hay hoàn cảnh để thử thách ta đều là ân nhân, là cảnh tốt nâng đỡ ta lên từng lầu thánh nhân. Vì thế trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đã nói: “Ðề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức bậc nhất của ta, nhờ Ðề-bà-đạt-đa mà ta mau chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Như trên bạn đã thấy, cái “khó” không phải là điều làm nhụt chí ta, mà là sự nghiệp, là chứng thật đời tu của ta. Càng gian lao, càng khó khổ, chiến thắng được nó thì giá trị ta càng cao, sự nghiệp ta càng lớn. Vì thế, các vị Bồ-tát hy sinh cảnh Niết-bàn để vào địa ngục cứu độ chúng sanh.
Chúng ta đã là người tu, người sẵn sàng chịu khó khổ, mọi thử thách để rèn luyện lòng mình, để thay khổ cho chúng sanh, thì bao giờ có thở dài khi gian lao, chau mày khi nguy hiểm… mà nhất định tươi tỉnh hăng hái tiến thẳng đến mục đích tuyệt vời của mình đã nhắm. Ấy là con đường mà tôi và bạn cùng đi, cùng hướng. Vậy chúng ta sẽ hẹn ngày để gặp nhau ở điểm cứu kính này.

Theo Phật học

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 11
  • Hôm nay 3,242
  • Tháng hiện tại 60,627
  • Tổng lượt truy cập 23,466,876