Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Con gà trong góc nhìn Phật giáo

Con gà trong góc nhìn Phật giáo

Đăng lúc: 08:06 - 03/01/2017

Tết Nguyên đán bước sang năm mới 2017 theo chu kỳ can chi là tết Đinh Dậu, Tết con gà. Trong đời thường lẫn văn học nghệ thuật dân gian, hình tượng con gà gắn bó mật thiết với hình ảnh của sự chăm chỉ, dũng mãnh “gà trống gọi mặt trời”, tình mẫu tử “gà mẹ xù lông bảo vệ con” hay như một lời chúc cho cho gia đình con cháu đề huề, vợ chồng mới cưới sớm có con qua bức tranh “Đàn gà mẹ con” của dòng tranh Đông Hồ nổi tiếng…

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Việt Nam cũng là đất nước gắn bó mật thiết với Phật giáo với hơn hai nghìn năm hình thành và phát triển của đạo Phật. Vậy thì con gà có vai trò gì từ góc nhìn Phật giáo hay không? Đây là câu hỏi được nhiều người đặt ra và nhất là thời điểm này, Tết con gà Đinh Dậu 2017 đang đến rất gần…

Gà trống – biểu tượng của tham?

Nhằm trả lời câu hỏi này, tháng 2/2016 tác giả Nguyễn Kim Sơn đã có một bài viết về hình tượng con gà trong kinh điển Phật giáo. Có thể đây chỉ là quan điểm cá nhân, nhưng những thông tin cung cấp trong bài viết cũng khá thú vị, đáng để tham khảo.

Theo đó, tác giả Nguyễn Kim Sơn cho rằng, có ba con vật mà kinh điển Phật giáo nói tới nhiều lần và được xem như những biểu tượng quan trọng, đó là con gà trống, rắn độc và con lợn. Ba con vật này là biểu tượng của Tam độc, đó là Tham – Sân - Si (贪、瞋、痴 - tham dục, oán hận và ngu độn). Gọi là Tam độc vì nó là độc tố của tâm, hủy hoại tinh thần và thể xác, ngăn cản con người ngộ đạo. Tam độc là nguồn gốc của khổ đau và phiền não.

Cụ thể, gà trống – biểu tượng của lòng tham. Con gà trống thích một mình quản lãnh đàn gà mái đông như phi tần trong cung vua. Để bảo vệ quyền sở hữu đám gà mái, nó sẵn sàng xù lông dương cựa đánh đuổi bất kỳ con gà trống nào khác xâm nhập lãnh thổ của nó. Đó là tham ái, tham dục.

Gà trống mổ thức ăn nó nhìn thấy như một sự đánh dấu sở hữu, dẫu nó đã no không thể ăn được nữa. Đó là sự tham luyến vật dục không giới hạn. Phật giáo quan niệm “tham” là động cơ gốc, là căn cội của sự thất vọng, không thỏa mãn, bất hạnh, là nguyên nhân của chiến tranh, tàn ác, cướp bóc tranh giành và những thói xấu. Tham tức là khổ. Giảm lòng tham là phép giải độc tố cho tâm, khiến cho nó trong trẻo an lạc.

Rắn độc – biểu tượng của sân hận, giận giữ, oán thù và sự nguy hiểm. Con rắn độc mang sẵn trong mình nó nọc độc. Nó dùng nọc độc để hạ gục con mồi, hạ gục đối phương. Nó dùng độc để tự vệ, dùng độc để đối đãi với kẻ khác và đặc biệt hơn nữa là nó đem độc để đối đãi đời, đối đãi với đời bằng răng nanh và túi nọc độc.

Con rắn độc sẽ có con khác độc hơn trị nó. Thấy rắn độc người ta xa lánh hay tìm cách tiêu diệt nó. Bản thân nó tồn tại với tư cách một nguy cơ nên bất an và không chung sống an hòa, với muôn loài. Lòng sân hận và oán thù trong tâm người là một loại độc tố. Nó thiêu đốt tâm người ta khiến người ta không yên, nó gây ra sự bất hòa, thậm chí là tội ác.

Bản thân kẻ ôm ấp thù hận và sự giận giữ trong lòng cũng tự hủy hoại tâm mình. Đem oán thù mà đáp trả oán thù thì oán thù chỉ càng thêm chồng chất. Người ta thường nói có ba thứ nên quên, đó là tuổi tác, bệnh tật và oán thù. Buông bỏ oán thù, hỷ xả với giận giữ, tha thứ cho lỗi lầm của người khác vừa tốt cho người vừa thải độc được cho tâm ta.

Con lợn – biểu tượng của sự ngu si tăm tối. Người đời đã tổng kết “ngu như lợn”, biểu tượng sinh động của sự ngu. Nó ăn tích mỡ tích thịt và đợi tới ngày bị người ta mổ thịt. Phật giáo không nhấn mạnh sự ngu ở chỗ thiểu năng trí tuệ hay sự kém cỏi có tính di truyền của tính loài. Bản thân sự ngu cũng không phải là tội.

Phật giáo muốn lưu ý tới việc con người chìm đắm trong bến mê mà không tự biết, ở trong sự nguy mà không biết nguy. Người đời chạy theo vật dục mà không biết nó là nguy hiểm, ngày ngày sân hận mà không biết đó là độc nhiễm. Đáng dừng mà không biết dừng.

Cứ yên trong mê mà lầm là sáng suốt khôn ngoan, có năng lực tự thức ngộ mà không biết khởi phát để nhận thức thấu triệt được bản chân của tồn tại nghĩa là si.

Si là nhầm lẫn, u tối, tưởng thỏa được vật dục là sung sướng, tưởng tranh cạnh hơn người là thông minh. Cái trí tuệ mà đẩy con người dài theo tham sân thì đó vẫn là si. Chỉ một trí tuệ bát nhã, thứ trí tuệ giúp người ta giải được độc của tham ái, của sân hận, của u tối lầm lẫn mới là trí tuệ đích thực.

Có hay không sự quả báo cho những người sát sinh gà?

Trong giáo lý của mình, đạo Phật khuyên không nên sát sinh quả báo của việc sát sinh là vô cùng đau khổ, đó cũng chính là lý do tại sao, sát sinh là một trong năm giới cấm mà người Phật tử tại gia khi quy y Tam bảo phải quyết tâm thực hiện. Lý thuyết của Phật giáo sau này khoa học đã chứng minh khi các nghiên cứu cho rằng hầu hết súc vật đều có bộ não và hệ thần kinh như con người.

Chúng cũng có cảm giác, biết nóng lạnh, sợ hãi, tham sống và sợ chết. Khi sợ hãi, nhịp tim của chúng đập mạnh, áp suất máu lên cao, hơi thở hổn hển, thậm chí nhiều con còn chảy nước mắt. Thế nên, tước bỏ mạng sống của một con vật là việc làm không nên và quả báo của việc sát sinh sẽ vô cùng nặng nề.

Quay trở lại với chuyện con gà, cư sĩ Trịnh Tùng trong quyển sách “Nhân quả báo ứng những điều mắt thấy tai nghe” đã viết về sự quả báo cho những người sát sinh gà.

Theo đó, tại Thiên Thai – Đông Bắc có một vị bác sĩ mới ra nghề nhưng rất giỏi. Một ngày nọ, có người phụ nữ hơn 40 tuổi tìm đến khám bệnh. Cô ta bảo bị đau trong yết hầu, nhờ bác sĩ chữa trị.

Bác sĩ xem kỹ bộ dáng của cô, người bệnh nhân này có tiếng nói “Oát, oát” giống như tiếng gà kêu, đồng thời thân thể run run, còn hai tay thì cứ với với như hai cánh của con gà đang đập. Bác sĩ lại khám trong yết hầu của cô, nhưng phía trong yết hầu lại không có bệnh gì cả, việc này khiến vị bác sĩ vô cùng khó hiểu.

Bác sĩ là người Nùng Vĩ, hơn nữa lại là một Phật tử thuần thành. Anh có một gia đình rất hạnh phúc. Mọi người trong gia đình anh từ lớn đến nhỏ đều quy y Tam Bảo, giữ giới tu hành. Anh thấy căn bệnh của người phụ nữ rất giống trạng thái con gà khi bị cắt tiết nên anh đoán ra cô ta đã ăn thịt gà quá nhiều, hai là cô có thể là người buôn bán gà.

Sau khi hỏi kỹ, quả nhiên đúng như những gì anh đã tiên đoán, cô là chủ của một tiệm bán gà ở gần đó. Vì vậy anh nói: “Theo tôi khám thì thấy cô không bệnh về thân, mà đây là bệnh nghiệp, nên có lẽ tôi không có cách để chữa trị cho cô được”. Nghe xong, người phụ nữ này vẫy vẫy hai tay giống như hai cánh gà, miệng thì kêu “oát, oát” giống y như hình trạng con gà đang giẫy chết. Vừa về tới nhà thì cô ngã ngửa ra tắt thở.

Bên cầu Nhật Bản mọc lên tiệm bán gà, lúc mới mở tiệm này do hai người hùn vốn lại làm ăn, nhưng một thời gian sau đó thì tách ra riêng. Khi người chủ được 50 tuổi thì người vợ qua đời, không bao lâu thì đứa con gái đầu và con gái thứ đều lần lượt chết, ông chủ cũng mắc phải căn bệnh quái ác.

Ông đi đủ thầy, tìm đủ thuốc, tốn rất nhiều tiền của nên bệnh mới dần dần bình phục. Bảy năm sau, bệnh ông bỗng nhiên tái phát dữ dội, càng ngày bệnh càng trầm trọng hơn, thuốc bao nhiêu cũng không còn tác dụng nữa. Ông gọi con trai cả cùng con dâu đến bên cạnh và nói: “Ba đau quá! Mau lên, mau lên, các con hãy đuổi những con gà ở xung quanh ba đi!”.

Ông vừa nói vừa tỏ ra rất đau đớn. Con cháu hỏi lý do vì sao ông lại nói như thế, ông nén cơn đau bảo: “ Các con không thấy sao? Do trước kia ba giết gà, nên bây giờ những con gà bị giết nó xúm lại quanh ba. Có con còn dùng chân cào lên mình ba, có con mổ khắp người ba. Đau nhức quá! Các con ơi, làm ơn đuổi những con gà giùm ba đi. Đau quá, sợ quá! Kiếm tiền nhiều để làm gì mà không trị được bệnh đây trời ơi. Không, không nên làm cái nghề này nữa”. Nói xong thì tắt thở, từ đó con cháu ông sợ nên bỏ nghề, không còn dám bán gà nữa.

Những câu chuyện trên có thể có thật hoặc chỉ là một sự đúc kết để hướng tới một thông điệp: Không nên sát sinh! Nhưng dù thế nào thì cũng có thể thấy cho dù bạn là ai, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, có tin nhân quả hay không tin thì bạn vẫn phải chịu sự chi phối của định luật nhân quả.

Gieo nhân thiện gặt quả thiện, gieo nhân ác nhất định sẽ gặt ác báo, không sớm thì muộn. Luật nhân quả không bỏ sót một mảy lông, một bụi trần. Tin sâu và luật nhân quả, ngăn ngừa ý nghĩ ác, lời nói ác và việc làm ác thì cuộc sống của mỗi người mới được an vui trên cõi trần ngắn như chớp mắt này.

Linh Thụy

Tôn trọng sự sống của thai nhi

Tôn trọng sự sống của thai nhi

Đăng lúc: 21:35 - 02/08/2016

Chưa bao giờ nạn phá thai xảy ra hàng ngày, rất nhiều và đơn giản như chuyện chơi. Mạng sống của thai nhi rất mong manh và đáng sợ hơn nữa, trong nhiều trường hợp thai nhi không được chào đời, chỉ vì mẹ nó, hay cha mẹ nó không thích, không muốn. Chỉ với một ý niệm vô cùng giản đơn như thế là kết thúc một mầm sống một cách dễ dàng.
Có người cho rằng thai nhi chưa hình thành đầy đủ hình hài con người thì hủy diệt nó là việc bình thường, không tội lỗi. Thậm chí kể cả bào thai đã tượng hình người, họ vẫn giết nó, dù có bị nguy hiểm đến tính mạng họ, chỉ với lý do là đứa con ngoài ý muốn thì không thể nào được đón chào.

anh nsgn.jpg

Theo Phật, bào thai được hình thành khi có sự giao hợp giữa cha mẹ trong thời kỳ người mẹ có thể thụ thai và yếu tố quyết định là sự có mặt của thần thức, hay còn gọi là hương ấm xâm nhập vào. Vì vậy, sinh mạng của thai nhi, tức mầm sống của con người đã được tạo thành ngay từ phút giây đầu tiên mà thần thức đi vào cơ thể người mẹ, khi cha mẹ giao hợp.

Đức Phật khẳng định rằng con người là tối tôn trọng các loài sinh vật, vì phải trải qua quá trình chuyển hóa thân tâm lâu dài, con người mới có bộ não và trái tim có thể suy nghĩ và thực hiện được những việc làm thăng tiến đến những cảnh giới cao quý, trong khi các loài sinh vật thấp kém hơn chỉ sống với bản năng mà không thể thăng hoa cuộc sống đạo đức, tri thức như loài người. Và tất nhiên, chỉ có con người mới có thể chuyển hóa tâm thức thăng tiến đến quả vị tối thượng là Phật. Chư Thiên, hay A-tu-la tuy có phước báo hơn loài người, nhưng họ không thể tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Muốn đạt được quả Toàn giác, chư Thiên, hay A-tu-la, hoặc các loài sinh thể khác đều phải tái sanh làm người để từ đó, trải qua nhiều kiếp sống, mới có trí thông minh và tình cảm hướng thượng.

Trong sáu đường sinh tử, muốn có được thân người là việc khó khăn vô cùng. Đức Phật nói rằng được thân người khó gấp vạn lần con rùa một mắt lênh đênh trên đại dương hàng ngàn năm mới vớ được khúc cây nổi có một lỗ nhỏ cho nó chui vào.

Thân người vô cùng quý báu, nên trong các giới cấm Phật dạy hàng đệ tử phải tuyệt đối tuân thủ trước nhất là giới không sát sinh hại mạng.

Như trên đã nói, thai nhi mang mầm sống của con người, ngay từ khi người mẹ thụ thai, cần phải được bảo vệ một cách kỹ lưỡng. Thiết nghĩ không có gì ác độc hơn là tiêu diệt bào thai, vì giết hại một sinh linh ở trong giai đoạn yếu ớt nhất mà mạng sống hoàn toàn lệ thuộc vào người mẹ. Đại luận sư Buddhagosa nói rằng nghiệp quả của sự phá thai tệ hại hơn là giết một tên côn đồ, vì tự vệ.

Thể hiện tâm từ bi và trí tuệ theo Phật dạy, bảo vệ sự sống cho muôn loài nói chung và loài người nói riêng là điều tiên quyết mà hàng đệ tử Phật phải tuân thủ. Vì cùng sống trên trái đất này, mọi người, mọi loài đều có mối tương quan cộng tồn mật thiết, nên không thể thỏa mãn ý muốn riêng tư mà bất chấp mạng sống của thai nhi lại là núm ruột của mình. Và khi đã tin sâu luật nhân quả, việc ác dù nhỏ nhoi còn không làm, huống chi là phá thai, giết hại sinh linh vô tội cần nương vào bụng mẹ để có mặt trên cuộc đời này nhằm thực hiện điều gì còn dang dở trong tiền kiếp.

Tuy nhiên, chúng ta đều biết giáo pháp của Phật không có tính cố định, cứng nhắc. Kinh thường nói Đức Phật có đến 84.000 pháp để tương ưng với vô số phiền não, trần lao, nghiệp chướng của chúng sanh và giải quyết được vấn nạn cho họ. Vì vậy, sự tôn trọng mạng sống của thai nhi cũng có một mặt khác cần xét đến.

Trong trường hợp nếu thai nhi được sanh ra sẽ bị dị dạng, bị bệnh tật nguy hiểm, chắc chắn tạo nên cuộc sống đầy đau khổ cho chính nó và cho gia đình, hơn là được hạnh phúc. Trong trường hợp bất khả kháng như vậy, gia đình có thể quyết định không cho đứa bé ra đời. Hoặc trường hợp để cứu tính mạng của người mẹ, người ta không còn cách gì khác hơn là đành hy sinh sự sống của thai nhi.

Tóm lại, thể hiện lòng từ bi theo Phật, cần phải tôn trọng triệt để giới cấm sát hại sinh mạng con người cho đến phải tôn trọng mạng sống của muôn loài, tất nhiên cần bảo hộ sự sống của thai nhi.

Vì vậy, theo đạo Phật, không chấp nhận việc phá thai. Và càng thấm nhuần quy luật nhân quả, chẳng thể nào giết hại mạng sống của sinh linh có mối quan hệ chặt chẽ, mới tái sinh làm con mình.

Thiết nghĩ phá thai chỉ là giải quyết vấn đề ở ngọn. Nếu không muốn có con, đừng tạo ra cái duyên cho thần thức đi tái sanh vào thân thể mình. Điều đó quá hiển nhiên. Nếu cứ sống buông thả, bừa bãi, sống theo bản năng như loài vật, để rồi phá thai, khiến cho sinh linh uất hận và cũng làm hại cho sức khỏe của chính mình. Và tạo nhân ác rồi, quả báo ác sẽ đến kề cận, mong gì có cuộc sống an vui.

Người có suy nghĩ, biết sống tỉnh táo, biết khắc phục bản năng nhục dục, biết phải làm gì cho cuộc sống được an vui thực sự và lâu dài, họ sẽ không bao giờ để mang thai ngoài ý muốn.

Thế giới càng có nhiều oan hồn uổng tử lang thang uất hận, khổ đau, tạo thành thế giới âm không siêu thoát, thì thế giới của người sống khó mà yên ổn, nói chi là hạnh phúc. Chính vì vậy mà hàng ngày, đệ tử Phật đều cầu nguyện cho âm siêu, dương thới và tất cả mọi người đều trọn thành Phật đạo, đó chính là thế giới hạnh phúc tuyệt đối vĩnh viễn.
HT.Thích Trí Quảng

Giải mã bí mật hạnh phúc của người dân Bhutan

Giải mã bí mật hạnh phúc của người dân Bhutan

Đăng lúc: 08:58 - 13/05/2016

Nhiều người gọi Bhutan là “vương quốc bị bỏ quên” vì ít người lui tới, nhưng nơi đây lại chứa đựng chiếc chìa khóa quan trọng về hạnh phúc của con người.

Bhutan được thế giới mệnh danh là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Điều này làm cả thế giới muốn biết bí mật hạnh phúc của người dân đất nước này là gì. Hai tác giả Barry Petersen và T. Sean Herbert đã có chuyến đi đến Bhutan để khám phá bí mật này, với bài viết được đăng trên trang tin CBS News giữa tháng 4 vừa qua.
Mot vong xoay tai thanh pho Thimphu, khong co den giao thong.jpg
Một vòng xoay tại thành phố Thimphu không có đèn giao thông

Hòa nhập và gìn giữ bản sắc riêng

Nằm giữa hai quốc gia lớn là Trung Quốc và Ấn Độ, kinh tế Bhutan chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Theo Hiến pháp của Bhutan, diện tích rừng phủ xanh phải chiếm 60%, nhưng trên thực tế mức độ phủ xanh hiện tại là đến 72%.

“Rời máy bay, hít một hơi thật sâu những làn khí trong lành thuần khiết, bạn sẽ có cảm giác hơi thở của quá khứ ngay trong hiện tại này”, tác giả bài viết chia sẻ.

Khắp nơi trên đất nước Bhutan, bạn sẽ thấy rất nhiều hình ảnh những vị tu sĩ và lá cờ Phật giáo. Theo quy định của hoàng gia, kể cả những tòa nhà mới được kiến tạo cũng phải được trang trí với điêu khắc truyền thống và các tạo vật linh thiêng của quốc gia.

Tại đây, số lượng khách sạn có trang bị thang máy không nhiều nhưng công nghệ đã “xâm nhập” vào nơi này hiệu quả và mạnh mẽ hơn bất kỳ “kẻ xâm lấn” nào khác. Điện thoại di động có mặt nơi nơi. “Tôi dùng điện thoại mỗi ngày để sắp xếp các cuộc hẹn, kiểm tra email và hoàn thành các bài báo khi thời gian gấp rút”, Tshering Choeki - một nhà báo tự do cho biết.

Tuy nhiên, khi tiếp xúc với một người anh em của đương kim quốc vương, hoàng tử Dasho Jigyel - người từng học tập tại Trường Đại học Oxford (Anh quốc) và tại Hoa Kỳ về những thay đổi tác động đến văn hóa và các mặt khác của đời sống ở Bhutan, ngài cho biết: “Giống như hai thái cực cùng tồn tại, với sự toàn cầu hóa, chúng tôi mở cửa hội nhập vì chúng tôi không thể bơi ngược con sóng. Quay lại những năm tháng trước đây, chúng tôi còn không có cả giày và vớ nhưng hiện tại thật sự là một cuộc cách mạng”.

Cuộc cách mạng này diễn ra nhiều thế kỷ nhưng với đất nước Bhutan, không có gì là vội vã. Ở đây, không có đèn giao thông, không có McDonalds, Burger Kings hay Starbucks gì cả.

Karen Beardsley, Giáo sư Fulbright dạy tại Đại học Hoàng gia Thimphu cho rằng: Bhutan “từ chối” việc đánh mất “nhân dạng” của quốc gia mình. Đó là lý do họ không chào đón các thương hiệu toàn cầu của Hoa Kỳ. “Tôi cho rằng, giữ gìn đặc trưng văn hóa của mình là điều rất quan trọng và người Bhutan nhất tâm với điều này, rằng sự nhan nhản các cửa hiệu nói trên có thể làm bạn cảm giác như bạn đang ở Hoa Kỳ”; và tất nhiên người Bhutan cũng không mong muốn điều này.

Nơi chứa đựng chiếc chìa khóa của cuộc sống hạnh phúc

Khi được hỏi về sự khác biệt trong sinh hoạt và dạy học giữa Hoa Kỳ và Bhutan, Beardsley chia sẻ: Không như sự vội vã và bám chặt vào thời gian, cuộc sống nơi này rất thư thái và bình yên. Con người ở đây cũng thật tuyệt vời.

Hiện tại, Bhutan giới hạn số lượng du khách quốc tế đến quốc gia mình. Năm ngoái chỉ có 57.000 du khách đến đây, con số này chỉ nhỉnh hơn số người đến Disney World trong một ngày.

Thap nen trong cac tu vien Phat giao o Bhutan.jpg
Nến thắp trong các tu viện Phật giáo ở Bhutan

Vào những năm 70 của thế kỷ XX, nhà nước Bhutan đã bắt đầu thay thế chỉ số tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bằng chỉ số “tổng hạnh phúc quốc gia” (gross national happiness).

“Tại Hoa Kỳ, người ta phải áp lực mua nhà đẹp, sắm xe sang, còn ở Bhutan, người ta hài lòng và hạnh phúc với những gì họ có. Họ ít chú trọng đến khía cạnh vật chất nhưng lại tận hưởng cuộc sống và thiên nhiên xung quanh nhiều hơn”, chia sẻ của hai du khách Hoa Kỳ (có tên là Brendan Madden and Tatiana Gregorek) đang du lịch tại Bhutan khi Petersen hỏi họ học được gì từ chỉ số “tổng hạnh phúc quốc gia” của Bhutan.

Để thúc đẩy chỉ số “tổng hạnh phúc quốc gia”, hoàng tử Dasho khẳng định: “Là em trai của quốc vương, tôi luôn cố gắng đại diện cho con người và đất nước mình bằng hết khả năng của mình. Và với cương vị Chủ tịch Ủy ban Olympic, tôi phải đảm bảo rằng nhiều thanh niên của Bhutan nhận được lợi ích tích cực từ các môn thể thao được tổ chức”.

“Vậy xin hỏi, điều gì làm hoàng tử thấy hạnh phúc?” - “À, hạnh phúc là một khái niệm tương đối nhưng với tôi, có được những nguồn năng lượng tích cực xung quanh tôi và cảm thấy hài lòng với bản thân mình là hạnh phúc”.

Karma Tshiteem, người có sứ mệnh đảm bảo chỉ số hạnh phúc quốc gia khi được hỏi: “Ông thấy dành thời gian cho gia đình, cho hạnh phúc của mình quan trọng như thế nào?”, đã trả lời: “Rất quan trọng và đây là những điều ưu tiên hàng đầu. Có những điều quan trọng giúp mang lại hạnh phúc cho mỗi người và chúng ta cần đầu tư nhiều thời gian vào đó hơn là tiền bạc”.

“Vậy ông nghĩ giá trị quan trọng nhất của hạnh phúc là gì?” - “Đó là yêu thương, lòng từ bi và sự quan tâm dành cho người khác”.

Và một điều đáng ghi nhận là mỗi trường học ở Bhutan mỗi ngày đều dành ra 2 phút để thực hành thiền định.

Và bạn sẽ thấy những bảng chữ thế này tại khắp các con đường, các ngọn đồi ở Bhutan: Chúng ta hãy sống xanh và giữ cho địa cầu sạch đẹp. Tự nhiên là tấm gương phản ánh nội tâm bên trong của bạn. Ngay cả các graffiti cũng thể hiện tính đạo đức trong đó, như Con người cần nhiều thứ để đáp ứng nhu cầu của mình, chứ không phải để thỏa mãn lòng tham…

Và ở đây, con người thật sự hạnh phúc và “hạnh phúc một cách nghiêm túc”.

Với một vị Lama, hạnh phúc là sống ở một quốc gia hòa bình. Với một phụ nữ Bhutan, hạnh phúc là được sống ở một nơi mà tự nhiên và núi non được bảo vệ.

tuvien.jpg
Tu viện Tiger's Nest - nơi thu hút du lịch số một ở Bhutan

Theo Sonam Tshering, nền văn hóa của Bhutan vẫn còn nguyên vẹn. Nền văn hóa đó biểu hiện qua cuộc sống thường nhật của người dân nơi đây. Và, “chúng tôi là văn hóa”.

Có lẽ, đây chính là bài học từ quốc gia Phật giáo nhỏ bé và hiền hòa này. Ở đó, hạnh phúc không phải là sống vội vội vàng vàng, không phải là thoải mái đến các trung tâm thương mại, không phải là tậu sắm chiếc xe hơi mới. Hạnh phúc chính là hài lòng với những gì cuộc sống mỗi ngày dâng tặng cho ta, mỗi ngày.

Cấu trúc khổng lồ được phát hiện tại Angkor Wat

Cấu trúc khổng lồ được phát hiện tại Angkor Wat

Đăng lúc: 07:26 - 13/12/2015

Angkor Wat, di tích tôn giáo lớn nhất trên thế giới, phức tạp hơn nhiều so với những gì mà các nhà nghiên cứu ban đầu đã nghĩ.

Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra một cấu trúc rất lớn ở phía nam của ngôi chùa Phật giáo, cũng như một loạt các nhà dân và các cấu trúc pháo đài bằng gỗ.

Các nhà nghiên cứu đến từ Đại học Sydney đã sử dụng radar xâm nhập mặt đất, công nghệ quét laser trong không khí (LiDAR), và khai quật có mục tiêu để khám phá sự thật về Angkor Wat ở Campuchia.


Một góc Angkor Wat

Là một phần của Dự án Angkor Vĩ đại hơn, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra rằng các khoảng sân chùa lớn hơn nhiều so với tưởng tượng đầu tiên, và họ phát hiện ra một cấu trúc rộng lớn dài 1.500m ở phía nam của khu phức hợp. Nó thực sự là gì, hay mục đích của nó, vẫn chưa được phát hiện.

"Cấu trúc này, có kích thước hơn 1.500m x 600m, là phát hiện gây ấn tượng nhất liên quan đến Angkor Wat cho đến nay", Roland Fletcher, một trong những người đứng đầu của nhóm nghiên cứu cho biết. "Chức năng của nó vẫn chưa được biết và cho đến nay, không có gì tương đương với nó được biết đến trong thế giới Angkor".

Cấu trúc pháo đài cũng đã được tìm thấy. Các cấu trúc bằng gỗ bao quanh khu phức hợp Angkor Wat cung cấp những đầu mối cách thức mà ngôi chùa trong nỗ lực đối phó với người láng giềng Autthaya.

"Angkor Wat là điển hình đầu tiên và duy nhất được biết đến của một ngôi đền Angkor được sửa đổi một cách hệ thống để sử dụng trong một khả năng phòng thủ", Fletcher nói. Ông nói thêm: "Các bằng chứng cho thấy nó là một sự kiện muộn trong lịch sử của Angkor, hoặc giữa năm 1297 và 1585, hoặc có lẽ giữa 1585 và những năm 1630. Hoặc đây là công trình xây dựng lớn cuối cùng thuộc hệ thống phòng thủ của Angkor Wat hay có lẽ là biểu hiện của sự kết thúc của nó".

Những khám phá mới, được công bố trong Antiquity, nêu chi tiết các kết quả của những ngôi nhà nhỏ xung quanh các khu vực lân cận, cũng như một mạng lưới đường bộ và ao hồ. Các nhà nghiên cứu tin rằng đây có thể đã là nơi sinh sống cho những người làm việc trong ngôi đền.

Fletcher cho biết: "Điều này thách thức sự hiểu biết truyền thống của chúng ta về hệ thống cấp bậc xã hội của cộng đồng Angkor Wat và cho thấy rằng khuôn viên ngôi đền, bao quanh bởi hào nước và tường, có thể không có được độc quyền bảo quản bởi những người giàu có hay tầng lớp tăng lữ".

Người ta cho rằng vua Suryavarman II đã xây dựng ngôi đền trong thế kỷ 12, và nó đã được xây dựng cho tang lễ của ông. Ngôi đền quay mặt về phía tây biểu thị cho ánh mặt trời và cái chết.

Văn Công Hưng

Ảo nhưng không ảo

Ảo nhưng không ảo

Đăng lúc: 09:23 - 06/12/2015

Cách đây chừng 15 năm, internet chưa phổ biến lắm ở Việt Nam, và dĩ nhiên còn khá xa lạ đối với Phật giáo. Nhưng bây giờ, sau giai đoạn “bùng nổ thông tin”, internet và những ứng dụng của nó đã trở nên quá “thân thiết” với mọi người.
Chỉ với chiếc điện thoại “thông minh”, một máy tính bảng hay chiếc máy tính…, cùng các ứng dụng 3G, wifi…, bất kỳ một ai cũng có thể xâm nhập thế giới với cả hai mặt tốt và xấu mà dường như không hề có sự trở ngại nào.

>> Triển khai đường dây nóng tố cáo sư giả
>> Một kiểu "giả trang thiền tướng"


Chúng ta thường quan niệm rằng internet là thế giới ảo. Ảo nhưng tác động thì rất thực

Mọi người, trong đó có tu sĩ Phật giáo, có thể tham dự và góp phần tạo thông tin qua những ứng dụng của các mạng xã hội sử dụng miễn phí và không hạn chế, như facebook, zalo… Chúng ta quá dễ dàng lên mạng và gặp ngẫu nhiên rất nhiều trang cá nhân như thế. Từ những hình ảnh sinh hoạt đời thường, những suy nghĩ dạng nhật ký, đến việc đăng tải các hình ảnh về các sự kiện Phật giáo, bày tỏ quan điểm, chia sẻ kiến thức, hoặc chỉ đơn giản là kết nối bạn bè, tán gẫu… liên quan đến tu sĩ Phật giáo trên các mạng xã hội.

Bên cạnh những tiện ích tích cực, còn rất nhiều hệ lụy, tác động xấu tới đạo Phật nói chung, khi các cá nhân tạo lập, cung cấp thông tin thiếu hoặc không nhận thức đầy đủ về những ảnh hưởng khó lường của các mạng xã hội. Nhiều vụ việc rất xấu, phản cảm liên quan đặc biệt đến cá nhân một vài tu sĩ Phật giáo đã được báo chí khai thác một cách triệt để trong thời gian qua có thể xem là sự cảnh báo rất đáng được quan tâm.

Như người viết đã có lần đề cập, người tu sĩ Phật giáo mặc nhiên trở thành biểu tượng của đạo đức hướng thượng, mẫu người đã vượt lên các nhu cầu tầm thường của đời sống để phụng sự cho lý tưởng cao đẹp, đem lại lợi lạc cho số đông. Chính vì thế, mọi hành vi, lời nói của họ đều được dư luận để ý, bình phẩm. Khi khoác lên chiếc áo tu sĩ, họ mặc nhiên trở thành hình ảnh đại diện cho Phật giáo. Nên những hình ảnh, lời nói liên quan đến người tu sĩ ở nơi công cộng, qua các trang mạng xã hội… cũng được dư luận đặc biệt chú ý. Và đôi khi, do thiếu ý thức nên những nội dung của người tu sĩ được đăng tải trên thế giới ảo không còn là chuyện riêng tư nữa. Điều đó đã từng xảy ra ở Thái Lan, và ngay cả ở Việt Nam chúng ta, và hậu quả của nó để lại đôi khi nghiêm trọng.

Chúng ta chỉ cần vào các công cụ tìm kiếm internet, gõ những chữ tìm kiếm có chủ đích trên sẽ dễ dàng thấy được điều đó.

Chúng ta thường quan niệm rằng internet là thế giới ảo. Ảo nhưng tác động thì rất thực. Internet cũng đã có vai trò rất lớn trong việc hoằng pháp, nhưng đồng thời cũng để lại nhiều phiền toái liên quan đến nếp sống của thiền môn, mà trung tâm là giới xuất gia, tu sĩ.

Hiện vẫn chưa có một kết quả khảo sát đầy đủ về điều đó để các ban ngành chức năng của Giáo hội có những quy định, hướng dẫn Tăng Ni sử dụng tốt phương tiện truyền thông của thời đại, đồng thời có những ứng xử phù hợp trong thế giới ảo này. Đây là vấn đề quan trọng và thiết thực, thiết nghĩ cần được các ban ngành Giáo hội như Ban Tăng sự, Ban Giáo dục Tăng Ni quan tâm đúng mức, tránh tối đa trình trạng tự phát, cá nhân, tùy tiện... dẫn đến hậu quả xấu như đã diễn ra và nếu không có sự điều chỉnh phù hợp thì sẽ còn tiếp diễn sau này.

Thích Tâm Hải

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 92
  • Hôm nay 2,648
  • Tháng hiện tại 60,033
  • Tổng lượt truy cập 23,466,282