Đăng lúc: 20:41 - 06/04/2017
Lòng yêu nước là một tình cảm tự nhiên và rất đỗi thiêng liêng của con người. Được tẩm ướp từ tình cảm gia đình, làng xã đến quốc gia xã hội, mỗi người lớn lên đều mang trong mình “tinh chất” của quê hương xứ sở. Tinh chất đó góp phần quy định nên tính cách của một con người, phân biệt với con người của một quốc gia khác. Đất nước, do đó, không đơn thuần chỉ là đất và nước, mà nó là hồn thiêng của dân tộc. Hồn thiêng được góp nên từ những mảnh tình gần gụi, từ những điệu hát ru, từ tiếng sáo diều, từ tấm áo nâu của mẹ, từ hình ảnh chân lấm tay bùn của bác nông phu…
gioto.jpg
Dâng hương Quốc Tổ Hùng Vương trong lễ giỗ sáng nay, 6-4 tại đền Hùng (Phú Thọ) - Ảnh: Dân Trí
Trong Tình ca (1952), Phạm Duy đã cụ thể hóa tình yêu đất nước thành tiếng nói, thành những con người…, tha thiết một cách tài tình: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi / Mẹ hiền ru những câu xa vời / À à ơi ! Tiếng ru muôn đời / Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui / Khóc cười theo vận nước nổi trôi, nước ơi / Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi / Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi…”. Và: “Tôi yêu biết bao người / Lý, Lê, Trần... và còn ai nữa / Những anh hùng của ngày xa xưa / Những anh hùng của một ngày mai…”. Cùng với dãy Trường Sơn, cùng với sông Cửu Long, sông Hương, sông Hồng, ông đã vẽ nên một dải đất nước nối liền. Với mỗi con người bình thường, quê hương đất nước gần gụi và giản dị thế ấy, nhưng nó là một phần của máu thịt, đi đâu cũng phải thương yêu, nhớ về.
Nỗi nhớ, hẳn nhiên gắn với nỗi tự hào. Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui ấy, khởi từ Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế Thần nông, kết hôn với Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục (Kinh Dương Vương); Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình Quân, sinh ra Sùng Lãm (Lạc Long Quân); Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm con; 50 người con theo mẹ lên núi, người con trưởng làm vua, xưng hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Các vua Hùng đã dựng nước như thế, tiếp nối qua 18 đời. Biết bao con người “mình đồng da sắt” đã vừa cấy cày, vừa giữ gìn “non sông gấm vóc”…
Dưới mái Đền Hùng, trên sườn Nghĩa Lĩnh, ngày 18-9-1954, Hồ Chủ tịch đã nói với các chiến sĩ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Ấy chính là lời “hịch”, nhắc nhở về niềm tự hào dân tộc, về lòng yêu nước, giữ nước và cũng là một lời tri ân sâu sắc đối với các bậc tiền nhân.
Yêu nước không chỉ đơn thuần thể hiện tình cảm đối với giống nòi, tổ tiên; không phải chỉ giữ nước khỏi sự tham tàn của ngoại xâm, mà phải dựng xây đất nước ngày thêm hùng mạnh. Nó là hành động. Hành động đó phải được cụ thể hóa qua những việc làm thiết thực để một quốc gia hùng mạnh thật sự cả “chất” lẫn “lượng”.
Điều này đã được Đức Phật khái quát qua 7 yếu tố: một quốc gia mà người dân thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau; tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc trong niệm đoàn kết; người cầm quyền không ban hành những luật lệ không nên ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân tộc; người dân biết tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão (tức những bậc đạo đức, trí tuệ) và nghe theo lời dạy của những vị này; không bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ phải sống với mình; tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp; bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán (các vị hiền thánh), khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc (theo kinh Đại Bát Niết-bàn, Trường Bộ kinh). Một quốc gia nào làm được như thế, quốc gia đó ắt sẽ hùng mạnh.
Cần phải nói rằng, Phật giáo đã có mặt ở nước ta từ thời Hùng Vương cùng với các vị Tăng và thương nhân Ấn Độ. Truyện “Nhất dạ trạch” trong Lĩnh Nam chích quái kể vào thời Hùng Vương đời thứ 3, vua Hùng có con gái là Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử là một chàng trai nghèo không một mảnh khố che thân. Tiên Dung và Chử Đồng Tử đã được một vị Tăng tên Ngưỡng Quang dạy cho phép Phật, cả hai đều ngộ đạo. Chử Đồng Tử, “người Phật tử đầu tiên” của ta ấy, đã góp phần đem đạo vào đời; dân ta hơn hai ngàn năm qua đã thấm nhuần lời Phật dạy. Lời dạy của Phật không chỉ hướng đến giải thoát giác ngộ, mà giúp con người sống hiền lương, yêu nước, giữ nước và xây dựng quốc gia hùng mạnh. Trong bốn ơn nặng mà bất kỳ người con Phật nào cũng phải tâm niệm, ơn quốc gia xã hội được đặt lên hàng đầu.
Theo Phật giáo, mỗi con người sống trong đời này đều gắn với hai thứ quả báo, đó là chánh báo và y báo. Chánh báo chính là nghiệp quả tạo nên con người họ, và y báo chính là hoàn cảnh chung quanh họ. Hoàn cảnh ấy đâu xa lạ, chính là quốc gia, xã hội. Chánh báo và y báo ràng buộc chặt chẽ với nhau. Chánh báo cũng là mình và y báo cũng là mình. Cho nên, quốc gia xã hội cũng chính là một phần của mình, và chúng ta chia sẻ y báo đó cùng với dân tộc mình, tất cả đều là một phần của nhau.
Giáo lý này đã dạy cho chúng ta biết yêu giống, thương nòi, dạy cho chúng ta biết yêu và bảo vệ giang san, tổ quốc. Tổ quốc lâm nguy, chúng ta đều có một phần trách nhiệm. Thay vì tủi hổ bởi sự yếu kém của quốc gia, dân tộc, chúng ta phải cùng nhau xây dựng đất nước, kiên quyết chống lại những cái “bất thiện”, bảo vệ cái thiện, tức bảo vệ những điều mang lại lợi ích cho mình và cho người. Đó mới là tinh thần yêu nước đúng nghĩa.
Được sinh ra là con người Việt Nam, mang dòng giống con Lạc cháu Hồng, có một ông Tổ chung là các vua Hùng, chúng ta cần phải thương yêu nhau và cùng nhau bảo vệ tổ quốc, cùng tri ân những bậc tiền hiền để Việt Nam vẫn là Việt Nam hùng mạnh ngàn năm:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng Ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.
Quảng Kiến
Đăng lúc: 21:14 - 01/07/2016
Có lẽ, chưa bao giờ chúng ta dễ dàng tiếp cận thông tin, kết nối với “thế giới mênh mông” như hiện nay, chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh, wifi miễn phí hay 3G (mà những thứ này thì quá rẻ), mỗi người có thể tiếp xúc nhanh chóng, hàng giờ, hàng phút các thông tin, hình ảnh trên các trang báo chuyên nghiệp đến những trang “trời ơi”, chuyên đăng tin giật gân, câu view, câu like và cả mạng xã hội cập nhật từng giây...
Anh Van hoa, Phong Chau.jpg
Con người có thể “giết nhau”, đầu độc tâm hồn nhau trên mạng xã hội - Tranh minh họa
Bạn có bối rối giữa... rừng thông tin, bình luận?
Có người nói, đây là “kỷ nguyên chọt chọt” vì liên tưởng tới việc ai cũng cắm cúi vào thế giới rộng lớn ấy thông qua những ngón tay lướt và chỉ chỉ để thao tác các nút like, các câu bình luận - đôi khi ngồi với nhau, là người quen của nhau mà xa cách nghìn trùng vì ai cũng bận lướt Facebook, tám chuyện qua mạng. Ngay cả khi ăn, khi ngủ hay bất kỳ động tĩnh nào trong đời sống riêng tư, trong tâm hồn cũng phải “cúng Facebook”, cũng phải rào rào đưa lên Zalo...
Và một khi có một vụ việc nào đó, như những vụ việc về diễn biến môi sinh đó đây hay những thông tin của giới nghệ sĩ chẳng hạn, dù chưa có một kết luận nào chính thức nhưng các “thánh Facebook” đã ồ ạt có những... kết luận của riêng mình, bàn luận, nổi điên, chuyển tải đủ kiểu thông tin thật giả khiến mỗi ngày mỗi rối rắm (trước tiên cho chính mình). Nhiều vụ khác cũng thế, cư dân mạng sẵn sàng chặt chém vù vù một ai đó, một việc gì đó mà mình chưa biết đầy đủ, nghe ai nói sao thì nói theo vậy (là chính) bởi trong nội dung bàn, bình luận (hay... bình loạn) ấy đã cho thấy sự chưa có hiểu sâu sắc câu chuyện.
Thời đại này, ai không tham gia mạng xã hội có thể nói là... tụt hậu, là bảo thủ, thiếu thông tin, nhưng kỳ thực, khi tham gia lại khiến mình rối hơn, bất an nhiều hơn. Không thể phủ nhận, nhiều nguồn tin quý được nhặt từ mạng xã hội, nhiều bài viết hay, câu chuyện giá trị, tình bạn cao đẹp, thậm chí tình yêu được tìm thấy, nẩy nở, nuôi dưỡng, bước lên đỉnh cao từ chính “thế giới ảo”. Song, những mặt trái, chứa màu đen tối trên thế giới mênh mông này không phải là không có, nhất là giữa đám đông người tham gia - ai cũng muốn nói mà ít người muốn lắng nghe, ai cũng muốn thể hiện bản thân mà ít người có những chia sẻ chân thành, ai cũng manh động và ít có sự bình tĩnh để thấy đa chiều một câu chuyện nào đó.
Thực tế, mạng không là ảo khi nó có tác động tới đời thực của mỗi người. Có những người đã phải chết vì quá xấu hổ do có ai đó tiết lộ bí mật cá nhân, đời tư hay chốn phòng riêng lên mạng. Có những người phải vào tù, bị khởi tố cũng chính vì hành vi thiếu kiểm soát trên chốn “xô bồ” này. Và, có thể chắc chắn một điều rằng, khi bạn lập một trang cá nhân với nickname hoàn toàn xa lạ với lý lịch của mình, mượn ảnh ai đó làm avatar... thì việc bạn phát ngôn đầy tính kích động, xả láng ngôn từ trên chốn công cộng này - nó vẫn tác động tới con người thực của bạn, mỗi ngày và mỗi lần bạn thực hiện hành vi (tưởng không ai biết ấy).
Con người ta thường sống bản năng, buông thả khi họ nghĩ rằng, không ai biết về việc mình làm, cách mình đang sống hoặc nghĩ mình có thể che giấu được chúng bằng những “khuôn mặt khác”, nhất là trong thế giới ảo. Tuy nhiên, hành vi của mỗi người đâu phải chỉ lưu lại trên mạng, hay sẽ bị xóa sổ hoàn toàn nếu không có camera quay lại, không có người thứ hai nào nhìn thấy.
Hành vi bản năng, xấu xí của chúng ta, dù được giấu giếm rất kỹ bằng những tài khoản khác nhau, lạ lẫm trên mạng thì nó vẫn được lưu lại trong tâm hồn mình và ít nhiều gây xáo trộn đời sống của ta. Nó sẽ làm ta phải loay hoay che giấu và dần đi xa con người thật vốn giản đơn, biết giữ mình trong sáng, hay ít nhất cũng biết sợ sự lên án để không làm càng, làm quấy.
Bản thân chúng ta, ai cũng muốn bình yên, tốt đẹp, nhưng rất tiếc, đôi khi vì không kiềm giữ nổi mình trước cám dỗ, nhất là khi được sự “tạo điều kiện” của thế giới ảo - cho phép bản thân ẩn mình an toàn bằng những nickname nào đó, nên ta đã sống bừa bãi hơn, xô bồ hơn, và nghĩ thoáng đến mức đi xa lắc giá trị nhân văn, trong sáng mà mỗi người cần phải giữ, bởi đó là điều kiện tất yếu để có bình yên, để được tôn trọng.
Biến mình thành người dễ dãi trên mỗi bức ảnh, dòng tin, bình luận, chửi bới... trên dòng thời gian là một trong những cách làm cho mình bối rối trước thực tại cuộc sống. Vì, chúng ta không còn bình tĩnh để nhìn sâu sắc, để tìm ra cách giải quyết vấn đề, để cảm thông và thấy được mình cần làm gì để đóng góp; thay vào đó, suốt ngày mình chỉ hoài trách móc số phận, thất vọng với mọi thứ, mất niềm tin với tất cả... (bởi trước đó, đã quá buông thả suy nghĩ của mình trên thế giới mênh mông tuy nhiều người đó nhưng hầu như ai cũng cô đơn với những ốc đảo do mình tự bồi đắp).
Giữa chốn thị phi...
Thời nào cũng có thị phi, cũng có những tin đồn... và con người bị chi phối, bị khổ sở bởi những thứ ấy. Nhưng, có lẽ chưa thời nào bằng thời này, khi công nghệ phát triển, nhà nhà, người người tham gia mạng xã hội, cập nhật tin tức hàng giờ, hàng phút trên internet (như đã nói ở trên), càng khiến cho chốn thị phi nhộn nhịp, rộng mở xuyên biên giới.
Ở đó, có những tin thất thiệt mà cũng khiến người ta... tin sái cổ, như là chuyện bắt cóc trẻ con mới đây chẳng hạn, đã khiến các cơ quan chức năng phải “nói cho rõ” nhằm trấn an dư luận. Rồi những chuyện này nọ hàng ngày, chỉ cần báo đăng (tin chính thức trên báo chính thống) thì sau đó không lâu, cõi “ảo” lại rầm rầm rộ rộ, soi, chiếu, đem kính lúp, kính hiển vi ra để tìm kiếm nhằm bày biện đủ kiểu quan điểm, chủ yếu là “vạch lá tìm sâu”, chê là chính.
Đã không ít lần, tôi đọc được những dòng chia sẻ đầy chán ngán của bạn, rồi của anh, chị, của em... rằng, bây giờ không xài Facebook thì lạc hậu, bị cho là bảo thủ, nhưng chơi rồi mới hay, ở trên đó, người ta làm “thánh” nhiều quá, suốt ngày chỉ trích, xoi mói đời tư, tìm lỗi để ném đá, chứng tỏ mình giỏi, mình lương thiện, trong khi đời thực của họ chưa chắc hay ho gì...
Nhiều người có suy tư về vấn đề (hay vấn nạn) này đã phải đặt dấu hỏi: hình như con người ta ngày càng độc ác hơn, ít biết nhìn cái hay, cái tốt của người khác, của cuộc sống xung quanh, ít biết tha thứ khi cứ muốn kiếm lỗi người khác để làm niềm vui...
Đại ý là như thế. Có một nỗi buồn, sự thất vọng bao trùm trong những dòng ngắn ấy, phản ánh một sự thật là: con người ta kêu gọi sống tốt nhưng ngay cách họ truyền tin, phản ứng với những cái chưa tốt, việc tồn tại của cuộc sống đã cho thấy họ... đang sống xấu rồi. Suy nghĩ tiêu cực và đưa ra những góc nhìn xấu về một con người mà ở đó có chứa phần tốt, điểm đẹp, cái được... là một sự thiếu công bằng, một cách nhìn ác ý.
Đó là chưa nói, có nhiều người trong đầu có tư tưởng “sính ngoại” nên dễ dàng chê bai người trong nước với những lời lẽ thậm tệ, chỉ chờ đợi những tin xấu về người trong nước là đem ra bàn luận, đưa lên “tuyên truyền” như thể cuộc sống chỉ có bấy nhiêu chuyện, và toàn là chuyện xấu. Còn biết bao cái tốt, biểu hiện đẹp sao không đưa lên? Sao lại tự làm cho mình trở nên tiêu cực bằng cách chằm chằm nhìn vào những góc tối và truyền góc tối ấy mà thôi? Trong khi ấy, giả sử cũng với những biểu hiện tương tự, nhưng do người ngoại quốc làm thì có thể dễ dàng được cho qua, thậm chí có cái nhìn ngược lại!
Tôi thấy giữa chốn thị phi mà ở đó, sự giả danh của cái tốt bắt đầu bằng chuyện chửi bới cái xấu chỉ khiến cho đời sống tinh thần mình bị ảnh hưởng không tốt. Do vậy, thiết nghĩ cần cẩn trọng khi bước vào xa lộ thông tin trên mạng xã hội khi có quá nhiều người lạm dụng chốn ấy để xả rác, để bới móc, để khơi gợi những ý niệm không mấy tốt đẹp.
Cần biết bao những lời đẹp từ cuộc sống, những lời thật mà chân thành chớ không phải là những chỉ trích để làm cho xấu mặt người khác, làm cho nhiều người nhìn vào cuộc sống, vào đất nước mình đang sống và thấy chỉ toàn “mặt trái” và thấy “gà nhà bôi mặt đá nhau”.
Nghĩ thế nên tôi tiếp xúc với “chốn thị phi” ấy với sự bình tĩnh, để biết và lướt qua, để còn tập trung vào những điểm sáng khác, để khuyến khích cái tốt được tốt thêm thay vì chỉ là chỉ trích cái xấu, làm cho nó không những không tốt lên mà còn xấu thêm, gây ra hiệu ứng xấu trong suy nghĩ của người khác về cuộc sống, khiến nhiều ngươi rơi rớt niềm tin vào điều tốt đẹp vốn tồn tại song hành bên ta, trong mỗi chúng ta...
An Lạc
Đăng lúc: 20:37 - 29/05/2016
Mọi đau khổ hay sung sướng của con người suy cho cùng đều tại tâm. Vì thế, muốn hạnh phúc và có vận mệnh tốt đẹp, nên thay đổi ngay những điều này.
Bởi thay đổi bản thân chính là cách tốt nhất để cải biến vận mệnh của mình.
Dục vọng không cần quá cao
Dục vọng không nên quá cao, bởi một khi nó không được sự thỏa mãn thì sẽ gây ra những bức bối, tâm thái sẽ mất đi sự cân bằng.
Suy tính ganh đua không thể quá nặng
Nếu một người cứ mải mê suy tính ganh đua với người này người kia thì sẽ “triệt tiêu” sự khoái hoạt của cuộc đời. Ganh đua không chỉ đánh mất đi sự vui vẻ mà còn làm mất đi vận may của một đời người.
Phải học được cách quên
Đừng canh cánh trong lòng những chuyện quá khứ không đáng nhớ. Những chuyện quá khứ là những chuyện đã xảy ra, không thể thay đổi được, hãy để nó qua đi, như vậy mới có thể giảm thiểu được rất nhiều sự phiền não, trong lòng mới có thể nhẹ nhàng, thoải mái.
Tha thứ để hạnh phúc đến gần ta hơn
Con người từ khi sinh ra đến khi về già và ngay cả là lúc cận kề sinh tử, chúng ta phải đối diện biết bao nhiêu là thị phi, oan ức, những khúc mắc giữa các mối quan hệ vợ chồng, con cái, bạn bè, người thân và cả những người xa lạ. Có nhiều người vì hận người chồng mình vì ông ta lỡ sai lầm một lần mà ôm hận cả đời đến lúc nhắm mắt xuôi tay, có người vì bị người khác gièm pha, nói xấu hay tranh quyền đoạt lợi mà nỗi oán ghét kẻ đó cứ chất chứa trong lòng. Tất nhiên, trong nhiều trường hợp vì kẻ khác có lỗi với ta nên ta mới sanh tâm phiền trách nhưng nếu có thể, chúng ta hãy tập tha thứ.
Mô tả ảnh.
Ảnh minh họa
Hạnh phúc không có nghĩa là giẫm đạp lên người khác
Hạnh phúc không phải là vơ vào cho mình thật nhiều mà ngược lại, bạn nên ban tặng, san sẻ những gì mình có cho người khác. Đó mới là hạnh phúc. Bản thân hạnh phúc tất vận mệnh sẽ tươi đẹp.
Đừng so sánh bản thân với người khác
Trong cuộc sống, đừng so sánh bản thân với người khác, cũng đừng có ước ao được như họ. Ai cũng có ưu điểm riêng của bản thân mình, ai cũng có nỗi khổ riêng mà người khác không biết.
Một khi so sánh, người ta thường hay lấy điểm yếu của bản thân để so sánh với điểm mạnh của đối phương, từ đó sinh ra chán ghét, điều đó chỉ làm tổn hại chính tâm thái của bản thân mình mà thôi!
Yêu thương, trân quý bản thân nhiều hơn
Chỉ có yêu thương, trân quý bản thân mình mới có năng lượng để yêu thương trân quý người khác. Nếu có đủ năng lực, hãy thường xuyên giúp đỡ người khác, như vậy bạn sẽ nhận được niềm vui, có nhiều niềm vui là cách giảm sức ép của cuộc sống.
Biết thế nào là đủ
Chúng ta hay cho rằng mình khổ đau và kém may mắn vì chúng ta luôn tham lam và không biết thế nào là đủ cả. Người có lòng tham cầu càng nhiều thì nỗi khổ càng lớn. Con người cứ nhìn cuộc sống này bằng ánh mắt bi quan, tiêu cực mà không nhìn lại những gì mà chúng ta đang có. Việc ham mê và cầu toàn quá chỉ khiến bản thân thêm bất hạnh mà thôi.
Đừng nói lời tổn thương người khác
Đừng tạo khẩu nghiệp, nói những lời tổn thương người khác ắt có ngày nhận quả bảo cho mình.
Dụng tâm đối mặt
Chỉ có dùng thật tâm, dùng tình yêu thương, dùng nhân cách để đối mặt với cuộc sống thì cuộc sống của bạn mới trở nên đặc sắc hơn!
Mỗi ngày cần bảo trì một tâm thái vui vẻ, lạc quan! Nếu như gặp những sự tình phiền lòng, hãy học cách vỗ về chính mình, tấm lòng rộng mở sẽ khiến bạn mạnh mẽ tự tin hơn để vượt qua.
Muốn có một tâm thái tốt, hãy dùng “lòng biết ơn” để nhìn thế giới, dùng “trái tim” để nhìn thế giới, không tính toán được mất, cảm động trước hết thảy việc làm của người khác. Khi ấy vận mệnh của bạn nhất định cũng trở nên tốt hơn!
Đăng lúc: 10:58 - 28/03/2016
Một con cú già khôn ngoan sống ở cây đa. Nó càng nhìn thấy sự đời thì càng ít nói. Mà nó càng ít nói thì lại lắng nghe nhiều. Tại sao mình lại không như con cú già khôn ngoan kia? (Khuyết danh).
bo-tat-QTa.jpg
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian...
Khi còn bé thơ, chúng ta được dạy ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Và càng nói nhiều thì đó là dấu hiệu phát triển bình thường. Nhưng ít khi nào chúng ta được dạy phải biết lắng nghe. Và phần nhiều, cha mẹ, thầy cô, các bậc phụ huynh, v.v… không để tâm nhiều đến chuyện dạy dỗ cách biết lắng nghe. Tất nhiên, cha mẹ hay các thầy cô có dạy mình phải biết nghe lời. Nhưng ít khi chúng ta được dạy cách biết lắng nghe cho đúng.
Thường khi trong một cuộc đối thoại, chúng ta muốn người đối diện nghe ý kiến của mình muốn phát biểu, hay diễn đạt hơn là mình nên lắng nghe ý tưởng của họ. Nếu đã là vậy, rõ ràng không có sự lắng nghe xảy ra. Mà hễ không có sự lắng nghe, hiểu và cảm thông sẽ không bao giờ được thiết lập. Vợ chồng thường hay gặp phải tình cảnh này, nên có câu nói chọc cười: ‘Ngày xưa chồng nói vợ nghe. Bây giờ chồng nói vợ chê lắm mồm’. Cho nên, biết lắng nghe là nhịp cầu nối đầu tiên cho sự hiểu biết, cảm thông.
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, sở dĩ Ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp, nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ-tát, Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.
Nhiều kinh điển nói về công hạnh của Bồ-tát, về sức uy thần diệu dụng của Ngài, thường hiện thân khắp nơi cứu giúp người đang đau khổ trên trần gian. Nhưng để tu tập theo hạnh nguyện từ bi, cứu khổ của Ngài, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu thêm một số chi tiết về những hạnh nguyện đó.
Trong kinh Pháp hoa nói Ngài thường thị hiện 33 hóa thân. Nhưng theo thiển ý, chắc đây là con số tượng trưng. Ngài được mô tả là một vị Bồ-tát luôn hóa thân cứu khổ mọi loài chúng sinh. Ngài hóa thân là một hiện tượng đặc thù theo tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’, biểu lộ tấm lòng đại từ bi, không phân biệt kẻ thân, người sơ, kẻ thâm tín, người hoài nghi, thậm chí người vô thần, ngoại đạo.
Hiện tượng hóa thân nói lên sự thấu hiểu và cảm thông thật sâu sắc nỗi sợ hãi, mối ưu lo của chúng sinh trong thế giới đảo điên, mộng tưởng. Để được tiếp cận với một chúng sinh đang đau khổ, Ngài hiểu rõ rằng một người xa lạ, dù là một Bồ-tát, sẽ khó có thể đến gần để chúng sinh kia được giãi bày nguồn cơn nỗi khổ của mình.
Theo kinh nghiệm đời thường cho thấy, khi chúng ta đang đau khổ hoặc phiền não mình chỉ muốn chia sẻ với ai biết lắng nghe, thông cảm, và không có ý phê phán, bình phẩm về những điều mình đã làm sai, hay tâm tình mình đang giãi bày, thổ lộ. Và thường mình muốn chia sẻ với người quen biết, dễ thương, hoặc người nào tôn trọng ý tưởng và tình cảnh của mình. Nếu hiểu được điều này, chúng ta có thể đóng vai sứ giả của Đức Quán Thế Âm, lắng nghe mà không phê bình, chỉ trích để giúp làm vơi nỗi khổ của người.
Thật ra, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng làm sứ giả Quán Âm, và muốn thành tựu vai trò này đòi hỏi mình phải biết lắng nghe.
Nhưng biết lắng nghe là một nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải quên mình đi mà chỉ biết nghe người kia đang nói gì. Biết lắng nghe đòi hỏi mình phải biết lắng đọng tâm tư để nghe rõ thông điệp của người mình đang đối diện. Cái bi kịch thường hay xảy ra cho chúng ta là khi mình muốn học hạnh lắng nghe nhưng cứ mỗi khi nghe xong câu chuyện mình lại diễn dịch nó qua lăng kính kinh nghiệm của bản thân, giống như mình nhìn thấy một sự kiện qua cặp kính màu của mình, nên thay vì hiểu và cảm thông, chúng ta lại chỉ trích hay phê phán người đối diện là dở cái này, thiếu cái nọ.
Do đó, hành động lắng nghe của mình bị thất bại. Nếu chúng ta biết lắng nghe qua tâm hạnh từ bi như Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta biết tôn trọng ý tưởng của người nói và lắng nghe cho kỹ những nỗi khổ đau mà họ đang trải nghiệm, thì công sức lắng nghe của mình sẽ chắc chắn mang lại một kết quả tốt và có thể sẽ làm vơi đi nỗi khổ của người.
Ngoài việc hóa hiện các thân để cứu độ, Ngài còn có khả năng làm cho chúng sinh hết lo sợ (vô úy thí). Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn có nêu lên 14 hoàn cảnh, những trường hợp tượng trưng, mà Ngài đã vận dụng năng lực vô úy để cứu độ. Năng lực vô úy là một khả năng đặc thù mà chỉ có những ai thật định tĩnh, tự tin, và từ bi vô hạn mới có thể làm được. Như một bà mẹ thương con vô cùng mới có thể làm con mình yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm. Sở dĩ chúng ta cảm thấy an lòng, không hoảng sợ, kinh hoàng trước sự hiện diện của Bồ-tát Quán Thế Âm vì Ngài sẵn lòng hy sinh bản thân để cứu độ mọi người.
Chúng ta cũng đã từng nghe qua năng lực vô úy này được các thiền sư thể hiện, như trong câu chuyện sau: Trong thời nội chiến ở Triều Tiên, một vị tướng soái dẫn quân đánh chiếm hết vùng này đến vùng kia, hủy diệt hết những gì cản trở bước tiến của ông ta. Dân chúng trong thành biết đoàn quân của vị tướng đang đánh tới, và nghe tiếng tàn bạo của ông ta nên mọi người đều trốn lánh vào vùng núi cao.
Vị tướng tiến chiếm thành không người và ra lệnh quân lính tìm kiếm dân trong thành khắp nơi. Vài người lính trở về báo cáo chỉ có một thiền sư còn ở lại. Vị tướng quân liền vội vã đến chùa, đi thẳng vào bên trong, rút gươm ra, và nói: “Lão thầy chùa kia, ông không biết ta là ai sao? Ta là người có thể thản nhiên lấy mạng của ông không chớp mắt”. Vị thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông tướng soái và bình thản trả lời: “Và tôi, thưa ngài, là người có thể để ngài lấy đầu mà cũng không chớp mắt”. Vị tướng quân nghe xong, liền cúi đầu và bỏ đi.
Sợ hãi là bản năng của con người, ai sinh ra cũng có. Nhưng các bậc thánh, hay như người căn tính yếu kém như chúng ta, nếu biết tu tập tinh chuyên và có lòng từ bi vô lượng, đều có khả năng, không những vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, mà còn khéo giúp người khác an tâm, không lo sợ. Tu tập hạnh từ bi có khả năng giúp mình vượt qua khổ hải và cũng giúp được người vơi bớt khổ đau. Vậy muốn có được năng lực vô úy thì chúng ta không thể thiếu hạnh từ bi.
Tuệ giác của pháp môn lắng nghe, không chỉ nằm trong việc lắng nghe âm thanh, lời nói, ngôn ngữ của người đối diện, mà còn vận dụng hết cả thân tâm mình từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và cả ý căn, để hiểu thấu và thấy rõ từ cử chỉ, hành vi, và sắc diện của họ đang nói lên những gì, mà lời nói, ngôn ngữ chưa diễn đạt, trình bày được hết ý của câu chuyện.
Chỉ cần vận dụng một phần ba (1/3) năng lượng của tuệ giác lắng nghe là chúng ta đã có thể giúp vơi đi nỗi khổ của người khác nhiều lắm rồi. Nhưng tiếc thay, đa số chúng ta thích nói hơn là thích nghe nên năng lượng của tuệ giác lắng nghe ít khi được sử dụng. Sở dĩ, mình thích nói hơn lắng nghe vì bản ngã, hay cái ta, đóng vai trò lớn trong việc thể hiện tầm quan trọng của bản thân, con người mình. Không ai muốn đóng vai trò ‘thấp cổ, bé miệng bao giờ!’. Hiểu rõ được điều này và phải vận dụng nhiều công phu tu tập mới có được chút khả năng lắng nghe vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Nhân ngày lễ vía của Đức Bồ-tát, chúng ta hãy cùng nhau vận dụng hết năng lực của mình để nhất tâm tu tập nguyện noi theo công hạnh của Ngài và để xứng đáng làm một sứ giả của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Tháng 10-2015
Tuệ Nghiệp
Đăng lúc: 21:23 - 06/12/2015
Cách đây chừng 15 năm, internet chưa phổ biến lắm ở Việt Nam, và dĩ nhiên còn khá xa lạ đối với Phật giáo. Nhưng bây giờ, sau giai đoạn “bùng nổ thông tin”, internet và những ứng dụng của nó đã trở nên quá “thân thiết” với mọi người.
Chỉ với chiếc điện thoại “thông minh”, một máy tính bảng hay chiếc máy tính…, cùng các ứng dụng 3G, wifi…, bất kỳ một ai cũng có thể xâm nhập thế giới với cả hai mặt tốt và xấu mà dường như không hề có sự trở ngại nào.
>> Triển khai đường dây nóng tố cáo sư giả
>> Một kiểu "giả trang thiền tướng"
Chúng ta thường quan niệm rằng internet là thế giới ảo. Ảo nhưng tác động thì rất thực
Mọi người, trong đó có tu sĩ Phật giáo, có thể tham dự và góp phần tạo thông tin qua những ứng dụng của các mạng xã hội sử dụng miễn phí và không hạn chế, như facebook, zalo… Chúng ta quá dễ dàng lên mạng và gặp ngẫu nhiên rất nhiều trang cá nhân như thế. Từ những hình ảnh sinh hoạt đời thường, những suy nghĩ dạng nhật ký, đến việc đăng tải các hình ảnh về các sự kiện Phật giáo, bày tỏ quan điểm, chia sẻ kiến thức, hoặc chỉ đơn giản là kết nối bạn bè, tán gẫu… liên quan đến tu sĩ Phật giáo trên các mạng xã hội.
Bên cạnh những tiện ích tích cực, còn rất nhiều hệ lụy, tác động xấu tới đạo Phật nói chung, khi các cá nhân tạo lập, cung cấp thông tin thiếu hoặc không nhận thức đầy đủ về những ảnh hưởng khó lường của các mạng xã hội. Nhiều vụ việc rất xấu, phản cảm liên quan đặc biệt đến cá nhân một vài tu sĩ Phật giáo đã được báo chí khai thác một cách triệt để trong thời gian qua có thể xem là sự cảnh báo rất đáng được quan tâm.
Như người viết đã có lần đề cập, người tu sĩ Phật giáo mặc nhiên trở thành biểu tượng của đạo đức hướng thượng, mẫu người đã vượt lên các nhu cầu tầm thường của đời sống để phụng sự cho lý tưởng cao đẹp, đem lại lợi lạc cho số đông. Chính vì thế, mọi hành vi, lời nói của họ đều được dư luận để ý, bình phẩm. Khi khoác lên chiếc áo tu sĩ, họ mặc nhiên trở thành hình ảnh đại diện cho Phật giáo. Nên những hình ảnh, lời nói liên quan đến người tu sĩ ở nơi công cộng, qua các trang mạng xã hội… cũng được dư luận đặc biệt chú ý. Và đôi khi, do thiếu ý thức nên những nội dung của người tu sĩ được đăng tải trên thế giới ảo không còn là chuyện riêng tư nữa. Điều đó đã từng xảy ra ở Thái Lan, và ngay cả ở Việt Nam chúng ta, và hậu quả của nó để lại đôi khi nghiêm trọng.
Chúng ta chỉ cần vào các công cụ tìm kiếm internet, gõ những chữ tìm kiếm có chủ đích trên sẽ dễ dàng thấy được điều đó.
Chúng ta thường quan niệm rằng internet là thế giới ảo. Ảo nhưng tác động thì rất thực. Internet cũng đã có vai trò rất lớn trong việc hoằng pháp, nhưng đồng thời cũng để lại nhiều phiền toái liên quan đến nếp sống của thiền môn, mà trung tâm là giới xuất gia, tu sĩ.
Hiện vẫn chưa có một kết quả khảo sát đầy đủ về điều đó để các ban ngành chức năng của Giáo hội có những quy định, hướng dẫn Tăng Ni sử dụng tốt phương tiện truyền thông của thời đại, đồng thời có những ứng xử phù hợp trong thế giới ảo này. Đây là vấn đề quan trọng và thiết thực, thiết nghĩ cần được các ban ngành Giáo hội như Ban Tăng sự, Ban Giáo dục Tăng Ni quan tâm đúng mức, tránh tối đa trình trạng tự phát, cá nhân, tùy tiện... dẫn đến hậu quả xấu như đã diễn ra và nếu không có sự điều chỉnh phù hợp thì sẽ còn tiếp diễn sau này.
Thích Tâm Hải
Đăng lúc: 16:58 - 16/11/2015
Trong tuần qua, cả thế giới dõi theo diễn biến của cuộc tổng tuyển cử ở Myanmar, với gương mặt không còn xa lạ - bà Aung San Suu Kyi, được trao giải Nobel Hòa bình (1991), một nữ Phật tử gương mẫu trong nhận thức và hành động, thể hiện qua phong trào đấu tranh bất bạo động bền bỉ và trung thực nhiều năm qua.
Đăng lúc: 18:59 - 28/10/2015
Tại vùng lõi của Khu Di tích Quốc gia đặc biệt- Kinh đô Phật giáo của cả nước mà chưa đầy 2 năm đã có nhiều hạng mục xây dựng mới không phép. Trách nhiệm này thuộc về ai?
Cục di sản chưa biết di tích Yên Tử đang bị xâm hại
Khu Danh thắng Yên Tử bị xâm hại nghiêm trọng
"Bọn anh chỉ biết xây dựng thôi"?!
Khi những lình xình về dự án trùng tu các hạng mục như: Mắt rồng, tháp Tổ, am Dược... tại Khu danh thắng Yên Tử còn đang nóng trên mặt báo thì mới đây dư luận lại bức xúc về việc công ty Tùng Lâm tự ý tháo dỡ điểm thờ tự tại chân ga cáp treo để xây mới nhà văn hóa của Cty ngay trong vùng 1 (vùng bảo vệ đặc biệt của Di tích).
Lý do được phía Cty Tùng Lâm đưa ra là để vào ngày đầu tháng hôm rằm có chỗ làm lễ vái Tam tổ Trúc Lâm. Trước diện tích chỉ đủ cho khoảng mấy chục người, công ty lại hơn trăm người, mỗi một lần làm lễ vẫn phải ngồi hết ra ngoài”.
VietNamNet, Yên Tử, Tùng Lâm
Lực lượng liên ngành kiểm tra, lập biên bản tại hiện trường vào chiều 23/10.
Có ý kiến cho rằng, Cty Tùng Lâm cũng chỉ có mong muốn sửa sang lại cho khu vực sân ga cáp treo đẹp đẽ và hiện đại hơn chứ không có mục đích gì. Với mục đích kinh doanh, việc thu hút khách du lịch là yếu tố sống còn của Cty này. Có thể, họ không hiểu đó là vùng cần được bảo vệ như ông Lê Trọng Thanh, Phó Giám đốc Cty Tùng Lâm trả lời phóng viên VietNamNet: "Bọn anh chỉ biết xây dựng thôi".
Để làm cho kịp, Cty Tùng Lâm đã phớt lờ các quy định của pháp luật, các phê duyệt, sự đồng ý của lãnh đạo Bộ VHTT&DL, của UBND tỉnh Quảng Ninh về di sản. Dù trước đó Phó Chủ tịch UBND TP Uông Bí đã có Công văn số 2082/UBND-QLĐT yêu cầu Cty Tùng Lâm báo cáo xin phép UBND tỉnh Quảng Ninh theo quy định hiện hành và phải nghiêm túc thực hiện.
Phá dỡ trước, làm công văn sau
Điều đáng nói là, ngày 12/9 Cty Tùng Lâm phá dỡ điểm thờ tự cũ tại chân ga cáp treo mà đến ngày 5/10 Cty mới có Văn bản số 212CV-TL xin UBND TP Uông Bí sửa chữa Nhà Văn hóa Cty. Nghĩa là, xây dựng công trình trước cả tháng rồi mới làm thủ tục?
VietNamNet, Yên Tử, Tùng Lâm
VietNamNet, Yên Tử, Tùng Lâm
Công trình tại vùng lõi di sản nhưng lại đang vừa xây dựng vừa xin phép.
Được biết, Ban Quản lý Rừng và Danh thắng Yên Tử cùng chính quyền phường Thượng Yên Công, UBND TP Uông Bí và các phòng, ban chức năng: Phòng Văn hóa, Tài nguyên-Môi trường, Quản lý đô thị, Thanh tra xây dựng là những đơn vị quản lý nhà nước trên địa bàn. Câu hỏi đặt ra là Hàng tuần, hàng quý đều tổ chức các cuộc họp giao ban giữa Cty Tùng Lâm và chính quyền địa phương nhưng một công trình đồ sộ được xây dựng không phép ngay tại vùng lõi của Danh thắng Yên Tử lại dễ dàng bị bỏ qua?
Ông Vũ Đức Yêm, Trưởng ban Quản lý di tích và rừng quốc gia Yên Tử phân trần rằng đơn vị quản lý Nhà nước, Ban quản lý Rừng Yên Tử chỉ có nhiệm vụ là hướng dẫn Cty chứ không có trách nhiệm làm hộ
Là đơn vị trực tiếp quản lý trên địa bàn, người đứng đầu Ban quản lý Rừng Yên Tử thừa nhận không biết kiến trúc mới mà Cty Tùng Lâm xin phép sửa chữa là kiến trúc gì; diện tích bao nhiêu... Thậm chí, trong văn bản xin giấy phép, Cty chỉ đề xuất được sửa chữa nhà chờ ga cáp treo 1. Nhưng khi triển khai, họ đập hết để xây dựng một công trình mới hoành tráng, hiện đại, mang dáng dấp hoàn toàn xa lạ với công trình cũ. Sự việc như vậy nhưng Ban Quản lý cũng như chính quyền các cấp không hề nhắc nhở hoặc có động thái gì để công trình được xây dựng một cách ồ ạt, gấp rút.
Liên tục xây dựng không phép
Cách đây hơn 6 năm, theo thống kê của Sở VH-TT-DL Quảng Ninh, Cty Tùng Lâm đã tiến hành xây dựng tới 9 điểm thi công ở Yên Tử không phép. Suối Giải Oan cũng bị dựng cầu, kè đá không phép. Thậm chí, vào thời điểm đó, cơ quan chức năng cho biết còn chưa nhận được bản quy hoạch, thiết kế nào do Tùng Lâm báo cáo.
Công ty giải thích việc dựng ki ốt, cầu, kè đá để khu vực này đỡ lụp xụp hơn, phục vụ khách tham quan thuận lợi hơn. Trong khi công ty cho biết đã xin phép địa phương thì Chủ tịch UBND thị xã Uông Bí khi đó khẳng định chỉ cho phép công ty dựng tay vịn tại các khúc cua nguy hiểm. UBND cũng đã có yêu cầu hoàn trả nguyên trạng nhưng hiện cầu đá này vẫn còn.
Vì sao một công trình xây dựng sai phép ngay trong lòng Di tích quốc gia đặc biệt, dù đã có quyết định phá bỏ nhưng vẫn tồn tại đến bây giờ?
Sự yếu kém trong quản lý được đặt trong bối cảnh hiện địa phương đang dần dần hiện thực hóa việc làm hồ sơ di sản văn hóa thế giới cho Yên Tử. Ngày 23/9/2014, website của Trung tâm di sản thế giới UNESCO đã đưa hồ sơ Yên Tử vào danh mục dự kiến xây dựng hồ sơ di sản thế giới.
Anh Thư
Đăng lúc: 22:59 - 16/10/2015
Cuộc đời có giới hạn, vậy thì tại sao chúng ta phải mang vác cái tôi nặng nề mà không cởi bỏ nó, để làm một người tự do, ung dung, tự tại và được là chính mình trong cuộc đời này?
Con người từ khi ra đời đã tồn tại cái tôi. Tự điển Thesaurus định nghĩa về cái tôi (hay ngã kiến - egoismism/the selfness) là sự tự nhận thức của một người về tư cách, nhân phẩm hoặc giá trị của chính mình, đặc biệt là để phân biệt mình với thế giới bên ngoài và các cá nhân khác.
Cái tôi trong mỗi người phát triển theo thời gian trong quá trình sống của con người... Khi còn nhỏ người ta ít bị các yếu tố xã hội tác động vào nhận thức về chính mình, nói cách khác, cái tôi được phát triển tương đối độc lập. Một em bé sẽ ít bị tổn thương hay bị chạm tự ái như người lớn khi bị phê bình hay khiển trách. Trẻ em thường quên rất mau và ít khi “để bụng” những chuyện buồn phiền. Trong khi đó người lớn có thể tức giận rất lâu và phản ứng rất nặng nề nếu bị chạm tự ái.
Quan niệm về cái tôi thường được hiểu theo hai khía cạnh: (1) Tích cực: sự hãnh diện phù hợp về những giá trị, nhân phẩm của chính bản thân; (2) Tiêu cực: sự nhận định sai về những giá trị, nhân phẩm của mình đưa đến sự tự ti hay tự tôn.
Ở đây không bàn đến trường hợp của một người hay nhún nhường hoặc thường khoe khoang vì lý do nào đó trong giao tiếp xã hội. Nếu một người không nhìn thấy được giá trị của chính mình sẽ cảm thấy bi quan và dễ bị tổn thương. “Mình thật chẳng làm nên trò trống gì là vô tích sự”, “Tôi thật là xấu xí, “Chẳng ai ưa tôi cả”… đó là một số những suy nghĩ thường có của một số những người luôn hoài nghi về giá trị thực sự của mình.
Khi bị chìm đắm trong sự tự ti, mặc cảm, người ta thường suy diễn, so sánh mọi thứ, mọi việc để cuối cùng tự cho mình là kẻ thua cuộc dẫn đến thái độ bi quan hoặc chán ghét mọi thứ xung quanh mình, đặc biệt là có ác cảm với những người mà họ cho là ba hoa, phô trương và kiêu ngạo... Không hài lòng với chính mình, ta cũng chẳng vui vẻ, cởi mở với ai. Tự ti có xu hướng sinh ra tự tôn. Khi bị đè nén, cái tôi bị bóp méo và khi chính chủ nhân thổi phồng nó lên (sau khi đã đè nén nó), thì cái tôi đó nó lại là sản phẩm của trạng thái tâm lý không tự chủ và giả tạo.
Tôi rất tâm đắc với một câu chuyện kể về Đức Đạt Lai Lạt Ma, người có một quan điểm đơn giản nhưng rất thiết thực về cách làm sao để tìm thấy sự tự tin cho mình. Khi được hỏi: làm sao Ngài có thể tự tin thuyết giảng trước đám đông hàng ngàn người, hoặc không e dè ngại ngần khi bắt chuyện với một người hoàn toàn xa lạ? Ngài trả lời: “Hãy thành thật với chính mình”.
Sự chân thành cộng với việc đánh giá đúng mức khả năng và những giá trị thực có của chính mình sẽ giúp chúng ta mạnh dạn hơn, cởi mở hơn với thế giới quanh ta cũng như sẵn sàng đón nhận để vượt qua các chướng ngại trong cuộc sống. Qua đó, nếu bạn cảm thấy thiếu hụt về một lĩnh vực nào đó, bạn không nên mất tự tin, bởi vì bạn biết rằng bạn còn có những giá trị khác. Cũng giống như một đứa bé gái khi bị trêu chọc là sún răng, nó liền hỏi lại: “Còn đôi mắt con thì sao?”. Nghĩ rằng mình có đôi mắt đẹp, cô bé đó muốn được nhìn nhận ưu điểm này của nó. Nó làm điều đó một cách tự nhiên, chân thành, không mặc cảm, không sợ bị đánh giá. Nếu “chịu khó” và chân thành (nghĩa là công bằng với chính mình) trong cuộc tìm kiếm, chắc chắn mỗi người sẽ tìm thấy những giá trị riêng của chính mình.
Thế thì một người phụ nữ nội trợ sẽ không thấy mất tự tin vì nghĩ rằng mình không tạo ra đuợc thu nhập và có vị trí xã hội như những người khác. Là một người vợ và một người mẹ tốt, giá trị của họ vô cùng to lớn đối với gia đình của họ và do đó họ tất nhiên là những người rất cần thiết trong xã hội. Một người không có diện mạo xinh đẹp vẫn có thể gây thiện cảm với mọi người xung quanh họ nếu người ấy thân thiện và vui tính.
Không những chỉ dừng lại ở việc tìm thấy và trân trọng những giá trị sẵn có của mình, con người còn có thể phát triển thêm những giá trị mới cho chính mình. Điều này cũng tương tự như việc các công ty trong quá trình phát triển giá trị thương hiệu đã không ngừng phát triển những dịch vụ cộng thêm (value adding service) cho khách hàng của mình. Ví dụ như các đại lý bán vé máy bay phát triển thêm dịch vụ giao vé tận nhà, hướng dẫn lộ trình bay, tư vấn cách chọn chuyến bay…
Mỗi người chúng ta cũng vậy, ai cũng có thể tạo thêm giá trị cho “thương hiệu” của chính mình bằng những việc làm đơn giản nhưng thiết thực, ví dụ như thể hiện sự quan tâm với những người xung quanh, sống vui vẻ, hòa nhã với mọi người, xây dựng những mối quan hệ tốt với người thân, bạn bè… Mọi nỗ lực dù nhỏ nhoi nhưng đều mang lại những kết quả đáng kể.
Khi tạo cho mình được nhiều giá trị, làm cho “cái tôi” của mình đẹp hơn, người ta sẽ cảm thấy tự tin, cởi mở và tìm thấy cũng như tạo ra được nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống. Thấy hiểu được giá trị thật về cái tôi của mình, người ta có thể “là chính mình” và sống thật với mình hơn. Họ sẽ không bị môi trường chung quanh chi phối cách nhìn về “cái tôi” của họ, không mặc cảm tự ti, không dễ bị tổn thương hay “chạm tự ái” với những câu nói, hành vi và thái độ dù vô tình hay cố ý của những người khác.
Tuy nhiên, ranh giới giữa việc nhận thức cái tôi tích cực và cái tôi tiêu cực là rất mong manh. Cái tôi một khi bị thổi phồng lại thường gây ra nhiều đổ vỡ, trở ngại… vì hình như cái tôi lại thường hay phát triển và được phóng đại cùng với cái tài. Cho nên căn bệnh “cái tôi quá to” cố hữu về sự kiêu ngạo và cố chấp trầm kha thường lại rơi vào những người có những thành công nhất định trong xã hội.
Một người leo lên nấc thang danh vọng, địa vị càng cao, thì cái tôi mà họ vác trên vai dường như càng nặng. Vì thế nếu khi một người bình thường đón nhận sự bất đồng về ý kiến của người khác một cách cởi mở, thì các “sếp” có thể xem đó là “không thể chấp nhận được”. Chính cái tôi quá lớn đã giam cầm một số người trong nhà tù của sự tự mãn và kiêu căng của chính mình. Mà đã là tù nhân thì làm sao có hạnh phúc?
Vậy làm sao cởi bỏ được cái gánh nặng cái tôi đó ra? Làm thế nào để kiểm soát được trạng thái tâm lý tự ti mặc cảm, hay ngược lại, tâm lý tự cao tự đại của mình? Làm sao để có thể vượt ra khỏi cái tôi tiêu cực, cái bản ngã nghiệp chướng của chính mình để có thể là một người tự do, được sống hồn nhiên yêu đời và hạnh phúc?
Khi chê ai đó có cái tôi quá lớn, người ta thường nói “cái tôi của hắn to bằng quả núi”, hoặc “anh ta tưởng anh ta là cái rốn của vũ trụ”, là “trung tâm của thế giới”… Như vậy, vô hình trung, chúng ta đã thừa nhận mình chỉ là những cá thể rất nhỏ trong một vũ trụ rộng lớn. So với vũ trụ và thế giới chung quanh, quả thật mỗi cá nhân chúng ta chỉ là những hạt nhân nhỏ bé. Những hạt nhân này khi di chuyển va đụng vào nhau, giao tiếp, hỗ tương với nhau, sau đó lại di chuyển tiếp trong quỹ đạo của riêng mình trong vũ trụ.
Đã không phải là vũ trụ mà chỉ là “cái rốn” của vũ trụ, thì tại sao lại dám xem mình là cả vũ trụ? Bên cạnh đó, mỗi cá nhân là một thực thể tồn tại, phát triển, sinh ra và mất đi, có sự hình thành và cấu tạo rất riêng biệt, với những giá trị nhất định riêng trong thế giới này. Mỗi hạt nhân tuy nhỏ bé nhưng đều có một chỗ đứng nhất định trong mối tương quan với vũ trụ và các hạt nhân khác, và không tồn tại vĩnh viễn trong một thực thể nhất định.
Cuộc đời có giới hạn, vậy thì tại sao chúng ta phải mang vác cái tôi nặng nề mà không cởi bỏ nó, để làm một người tự do, ung dung, tự tại và được là chính mình trong cuộc đời này?
Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA PHẬt GIÁO
Đăng lúc: 07:10 - 29/06/2015
Bạn bè thân thiết, kể cả một số quý thầy, thỉnh thoảng vẫn hỏi tôi: Đi qua đi về mấy mươi năm, đi ngang đi dọc nhiều lĩnh vực, nhiều bộ môn, đi xuôi đi ngược nhiều con đường trên thế giới…, liệu có cái gì đúc kết, tổng hợp được không?
Nhiều năm qua đã nhiều lần tôi muốn “đúc kết”, nói “ngắn gọn” thử xem. Nhưng thực là khó. Hình như biết càng nhiều thì kiến thức càng bung ra, càng phân kỳ. Thế nhưng, cũng có cái lạ là càng phân kỳ, càng biết nhiều, ta lại càng khám phá nhiều tương đồng hội tụ. Vật chất trong khoa học đối với sắc thể trong Phật học; tâm lý học của phương Tây đối với Duy thức trong Phật giáo…, các kiến giải có khác nhau bao nhiêu những cái đồng quy của những lĩnh vực đó càng tàm ta kinh ngạc, kính sợ vể một thế giới mà ta đang sống.
Tâm hồn bé nhỏ của tôi cũng chỉ là một trái banh bị những kiến giải vô tận và khác biệt x đó đá tung đi khắp các hướng. Thường thì con người sẽ bị lạc hướng. Nhưng tôi còn chút may mắn. Trước những tri kiến và thông tin vô cùng khác biệt đó, tôi nhớ những lời của Phật, vốn nghe được từ hồi nhỏ. Thí dụ nghe những khoảng cách của không gian và thời gian cực bé của Max Planck, tôi nhớ đến “sát-na” của kinh Phật. Các hạt được mệnh danh là “hạt giả” trong thế giới hạ nguyên tử làm tôi nhớ đến thuyết “Vô ngã”. Thậm chí, nhìn trái banh bi-da chạm nhau chạy trên bàn tôi cũng liên tưởng đến nguyên lý duyên khởi, cái này có thì cái kia có.
Nhờ “cố thủ” trong các nguyên lý của Phật pháp, tôi bớt đi được chút hoang mang và hỗn loạn trong tâm. Nhờ đó tôi tự giải thích đôi chút tri kiến trong các ngành khoa học hiện đại, các pháp môn xa lạ, thậm chí hiểu được giáo lý của các tôn giáo khác. Thế nhưng, để “đúc kết tổng hợp” được một điều gì sâu xa và do chính mình thực chứng thì thực là đáng phân vân.
Thế nhưng, cũng có ngày ta phải về lại cố quốc, trải lòng tâm sự với bạn bè chứ, tôi tự nhủ. Tôi bỗng nhớ hình ảnh của Ôn Châu Lâm nửa thế kỷ trước trong căn phòng mờ tối trên chùa, của Ôn Thiện Siêu mà mình có dịp được dùng cơm riêng, một điều mà về sau tôi mới biết là vô cùng hiếm có. Mình phải về và trình pháp với quý Ôn, quý thầy, đã viên tịch hay còn hiện tiền những gì mình học hỏi, sau 45 năm đi qua đi về.
Thế nên hôm nay tôi liều chọn một đề tài khá bao quát, đầu đề của nó là “Những nẻo đường nhận thức”. Đầu đề nghe quá to tát, nhưng thực ra tôi chỉ nó về những kinh nghiệm và nhận thức của riêng mình. Nó sẽ có tính chất chủ quan và có thể khác lạ, hoặc hơi kỳ cục so với thông thường. Tôi không có một chút ý định nào thuyết phục người nghe vì phần lớn là các trải nghiệm trong tâm. Tôi cũng thấy thật là khó khăn khi diễn bày những cảm nhận trong tâm bằng ngôn ngữ.
Nhận thức là hoạt động suốt cả cuộc đời chúng ta, tôi thấy có nhiều chiều kích, hay nhiều nẻo nhận thức.
1. Nhận thức bằng cách nghe.
Nghe là cách học vấn và nhận thức cổ điển nhất của loài người. Trong thời kỳ mà chữ viết chưa hình thành, người ta chỉ học bằng cách nghe. Khoảng hai ba ngàn năm trước, tại phương Đông, kinh Vệ Đà hay các bài giảng của Phật Thích- ca tại Ấn Độ đều là những bài thuyết giảng cho người đến nghe. Tại Hy Lạp phương Tây thì những nhà hiền triết như Platon, Aristotl đều thuyết giảng cho người tìm đến nghe chuyện.
Thế nên, “nghe” là cách nhận thức cổ điển và xem ra hiệu quả nhất của con người. ở đây ta hiểu “nghe” là trực tiếp nghe lời nói của vị thầy, thông qua ngôn ngữ mà lĩnh hội những điều vị ấy nói. Không cần dài lời, cách học hiệu quả nhất là trực tiếp đến với thầy, nghe giảng vả thảo luận với vị đó.
Nghe là nghe âm thanh, tiếng nói từ bên ngoài. Qua tai, âm thanh, tiếng nói từ bên ngoài vào tâm ta rồi ý thức dựa trên đó mà nhận thức vật ở bên ngoài. Đó là quá trình thông thường của nghe. Nhưng cũng có khi ta nghe bên trong, nghe ‘vận động bên trong tâm”.
“Rong chơi râu tóc bạc phơ
Còn nghe đắm đuối vần thơ yêu người
Người đi ở cuối chân trời
Có nghe tình mộng nửa đời dằng dai…”
(Bùi Giáng)
Nghe của Bùi Giáng là tâm nghe tâm. Thế nên, “nghe” không chỉ là lỗ tai nghe âm thanh. Tâm nghe tâm là tâm tự lắng nghe chính mình, hay chính xác hơn là nghe những diễn biến trong mình. Nói vậy chứ không phải đơn giản, vì “diễn biến trong tâm” thường kéo dẫn chúng ta đi theo mà ta không hề biết. “Diễn biến trong tâm” chính là tâm chúng ta. Hình ảnh trong gương chính là tấm gương. Tâm nghe tâm là tự tách mình đứng bên dòng chảy của tâm và lắng nghe nó. Thế nên Bùi Giáng không hề điên mà rất tỉnh, vì tỉnh táo mới nghe được diễn biến trong tâm mình.
Thế nhưng, còn một dạng khác nữa của nghe. Đó là một dạng thụ động của nghe. Nghe một cách thụ động, không dụng công nghiêng tai nghe cái này hay cái khác, bên trong hay bên ngoài. Không dụng công nhưng chú ý, chú ý nhưng không dụng công. Chú ý trống rỗng. “Trống rỗng ở đây tức là thụ động, chú ý nhưng không có đối tượng chú ý. Thụ động để cho cái gì đến thì cứ đến, không phân biệt trong ngoài, không phán đoán đúng sai thiện ác, không để lôi kéo dẫn dắt, chỉ giữ chú í thuần túy. Nghe nhưng không trụ vào đối tượng nghe, chỉ thuần túy ghi nhận.
Thực sự có dạng đó của nghe. Khi đó thì hầu như cũng không có người nghe, chỉ có một cái nghe đang vận hành. Khi đó thì tính nghe đồng nghĩa với tính biết. Khi đó thì những cái được nghe, hay chính xác hơn là những cái được biết dường như “bóc tách” khỏi tâm ra và lơ lửng trong không gian trống rỗng.
2. Nhận thức bằng cái thấy
Các bạn hãy thử xém, cáo mà chúng ta thấy là cái gì của sự vật?
Hãy quan sát một cái quạt máy. Quạt máy khi đứng yên chỉ có 3 cánh quạt, ở giữa các cánh quạt là không gian trống rỗng. Khi quạt quay nhanh thì không còn ba cái cánh nữa mà chúng biến thành một cái đĩa tròn dày đặc liên tục. Do quạt quay quá nhanh nên đĩa tròn xuất hiện. Không những đĩa tròn xuất hiện mà nó còn có tác dụng như một cái đĩa thật, tức là không thể đút ngón tay xuyên qua nó. Ném trái bóng bàn vào quạt, bóng sẽ dội ra thật.
Nguyên tử của vật chất cũng vậy. Nguyên tử thì trống rỗng hơn trăm vạn lần cât quạt ba cánh của chúng ta. Nguyên tử có nhân và âm điện tử quay quanh. Kích thước nguyên tử gấp 100.000 lần so với hạt nhân, ở giữa trống rỗng. Nó trống rỗng đến nỗi nếu hạt nhân lớn gần bằng trái bóng đá thì nguyên tử lớn hơn cả sân vận động. Khi đó thì hạt nhân là trái bóng nằm ở giữa sân, còn âm điện tử chỉ như vài chục khán giả loe ngoe ngồi trên khán đài xa lắc trong một trận cầu tẻ nhạt. Nguyên tử trống rỗng và buồn tẻ như vậy nhưng nó xây dựng nên toàn thế giới vật chất.
Nguyên tử trống rỗng như thế sao ta không đi xuyên qua được cánh cửa? Sao chiếc ghế ta ngồi chật cứng? Sao khắp nơi đều hiện lên vật thể chắc nịch? Lý do là âm điện tử, một trong các hạt cơ bản không chịu đứng yên, chúng quay và quay rất nhanh làm ba cánh biến thành cái đĩa tròn, có tác dụng như chiếc đĩa tròn. Còn do các hạt của nguyên tử quay nhanh mà hiện thành thế giới thiên hình vạn trang, cứng chắc, dày đặc. Do đó chúng ta mới ngồi đây mà không lọt tõm xuống tầng dưới.
Nghĩ thế nên thú thật tôi không bỏ được ý tưởng cho rằng thế giới này là ảo. Về chiếc quạt máy, hỏi có đĩa tròn thật không, tôi sẽ nói có nhưng không thực có. Không có nhưng “coi như” có. Cúp điện thì đĩa biến mất. Lại nữa, đĩa chỉ có với tôi nhưng không có đối với một cái máy chụp ảnh vận tốc nhanh. Cái camera sẽ nói đâu có đĩa tròn, chỉ có ba cánh. Cũng như thế, những gì mà ta thấy trong thiên nhiên chỉ là sự vật hiện tướng lên thế thôi. Chưa hết, chúng không chỉ hiện tướng lên một cách mờ ảo, mà chúng tác dụng cũng rất mạnh mẽ. Đó là cái “dụng” của sự vật. Quạt không chỉ hiện tướng đĩa tròn, nó còn ngăn vật lọt qua, cho gió mát.
“Dụng” của đất nước gió lửa mạnh mẽ thế nào ai cũng biết. Toàn thể tiến bộ khoa học kỹ thuật là sử dụng cái “dụng” của sự vật. Nước dâng được thuyền lên qua đó người ta chế tạo ra tàu bè. Nước cũng có sức nặng đáng lể làm đắm tàu bè nên nhờ đó người ta chế tạo tàu ngầm. Nhưng “dụng” của nước không bất biến, khi nước sôi lên thành hơi thì nước vô dụng trong chuyện tàu bè, nhưng người ta lại dùng nó làm tuốc – bin sản xuất điện.
Nếu hỏi thế thì cài “thể” đích thực của đĩa tròn là gì, tôi trả lời nhanh là ba cánh. Nhưng hỏi cái “thể tính” đích thực của thiên nhiên đất nước gió lửa là gì thì hầu như không ai trả lời được. Ta không thể biết được thể tính sự vật.
Vật chất chỉ hiện tướng thế thôi. Nhưng điều này còn có một cái lắt léo nữa: nó hiện tướng không phải cho ai cũng như nhau, nó không hề khách quan mà nó hiện tướng tùy theo “trình độ” của người nhìn nó. Đối với người điếc thì thế giới toàn màu sắc và sự lặng yên; đối với người mù thì thế giới đầy âm thanh và màu đen; đối với người mù màu thì thế giới chỉ có hai màu đen trắng; đối với loài có khứu giác nhạy bén thì thế giới nhấp nhô toàn cả mùi; đối với chiếc camera thì đĩa tròn là ba cnahs quạt. Thậm chí khi ta di chuyển nhanh thì không gian thời gian đã khác, ta bay thật nhanh thì thế giới hiện ra méo xẹo, cô hoa hậu sẽ không còn là hoa hậu nữa.
Thế thì thế giới hiện lên với ta tùy theo khả năng mức độ của ta. Heisenberg, nhà vật lý lượng tử cũng nói đại ý “thiên nhiên là câu trả lời trước sự vấn hỏi của con người”. Ta thắc mắc thế nào thì thiên nhiên đáp lại theo cách hỏi của ta. Thế nên cái thấy của ta có hai điều đáng nhớ, một là điều ta thấy chỉ là tướng trạng của sự vật, không phải thể tính thực của nó; hai là nó mang tính chất, mang chữ ký của người ngắm nhìn nó.
Chúng ta ít khi nhớ đến hai tính chất đó, tin rằng thế giới bên ngoài là khách quan và là thực như thế. Hầu như tất cả chúng ta là nhà “duy thực”.
Nếu có ai ngồi xuống lặng yên, chú ý quan sát sự vật với tâm rỗng rang không dụng ý, không ép uổng hoàn toàn thụ động trong sự chú ý trống rỗng, không trụ vào đối tượng như đã nói trên trong phần nghe, người đó sẽ tiến đến một trạng thái lạ. Đó là một tình trạng không có người thấy mà một cái thấy chiếu hiện, cái thấy đó bao gồm cả người thấy lẫn vật bị thấy. Người đó vẫn thấy sự vật như trướ, nhưng trong tâm sinh ra một cảm nhận. Đó là cái thấy hiện lên như một sự tương tác của vật bên ngoài và tâm bên trong. Sự tương tác này sinh ra một cái thấy, cái thấy đó chiếu lên thành cảnh, bao gồm cả người thấy và vật bị thấy. Như một giấc chiêm bao chiếu lên thành cảnh, gồm cả người và vật như trên sân khấu của tâm.
3. Nhận thức bằng cách quan sát (thân và tâm)
Nhận thức bằng cách nghe, nhận thức bằng cách thấy chính là “mở” hai giác quan tai và mắt, cho hai cái nghe và cái thấy vận hành. Quan “nghe” và “thấy” hầu như toàn thể thế giới hiện ra quanh ta.
Bên trên, tôi có nói thế giới hiện lên theo mức độ của người thấy. Thế thì bây giờ hãy thử quan sát chính mình, quan sát chính thân tâm mình.
Thân tâm chúng ta là gì? Là một tập hợp to lớn vận hành một cách tự động, không cần chúng ta lưu tâm đến. Thân chúng ta trung bình trong 30 giây thực hiện những thao tác sau đây: tim đập 36 lần, thở ra vào 8 lần, sản xuất 72 triệu hồng huyết câu, máu chảy một đoạn đường 7km, sản xuất 100w năng lượng. Thân của chúng ta quả đang vận hành và đang vận hành với một công xuất kinh khủng. Chúng ta tưởng mình là chủ nhân nhưng thật ra rất hạn chế. Đúng ra là, các bộ phận của thân tự mình thao tác, trong một chương trình nhất định.
Còn tâm chúng ta vận hành như thế nào? Muốn biết cũng không đơn giản. Cái “nghe” của Bùi Giáng là tâm nghe tâm, không phải việc dễ làm.
Thế nhưng hãy ngồi xuống, thật lòng xem điều gì xảy ra trong tâm, không chờ đợi mong cầu bất cứ điều gì, nhất là đừng mong một phép lạ, hình ảnh hay quyền năng gì sẽ xảy ra. Đừng ép uổng tâm mình phải yên lặng, rỗng rang, vô niệm hay bất cứ điều gì. Đừng nghĩ đến thành công hay thất bại. Cứ tỉnh táo quan sát xem sao.
Đầu tiên hầu như ai cũng rơi vào một sự lộn xộn, hỗ loạn trong tâm. Thường là hình ảnh của quá khứ gần, của tối hôm qua, sáng hôm kia trở về lộn xộn. Chúng lôi kéo ta đi cả phút, cả chục phút. Ta giật mình thấy ra mình chỉ ngồi suy nghĩ mông lung. Lát sau nữa thì lưng bắt đầu đau, chân bắt đầu nhức và ta sẽ sớm chấm dứt các bài quan sát tâm.
Thế nhưng, nếu kiên trì, tỉnh táo và chú ý, thường thì phải sau vài tháng hay vài năm, ta sẽ nhận ra một điều đơn giản trong tâm. Đó là một dòng hoạt động tâm lý cứ trôi chảy liên tục trong ta. Ban đầu có lẫn vui buồn thương nhớ, về sau cảm xúc ít đi nhưng tâm luôn luôn có hình ảnh, có âm thanh. Đặc biệt, trong âm ta luôn luôn có lời, khi thì đối qua, đáp lại. Luôn luôn có lời nói thầm trong tâm, tôi tạm gọi là “Tâm ngôn”.
Nếu một người luôn luôn nói lảm nhảm, ta gọi hắn là điên. Nhưng thực tế chúng ta cũng luôn nói lảm nhận, chỉ khác với người điên là không nói ra thành tiếng. Các hình ảnh, âm thanh đó trôi chảy như một dòng không bao giờ dứt. Đặc biệt nó không nằm dưới sự điều khiển của ta, nó “tự động” vận hành, như tim phổi chúng ta tự vận hành không cần ta lưu tâm đến. Ai không tin tâm tự vận hành thì hãy nhớ những đêm mất ngủ, ta chỉ mong tâm đừng nói nữa những nó vẫn cứ nói. Và nếu may ta rơi vào giấc ngủ, tâm vẫn tiếp tục nói, sinh ra những giấc mơ.
Thế là tâm nói 24/24. Đừng nghĩ tâm chỉ nói những điều tào lao. Nó cũng rất hây nói những điều cao đẹp, thánh thiện. Tâm ngôn là một tên gọi khác của tư tưởng.. Dù là tư tưởng cao đẹp hay tiếng đối đáp liên tục thường tình của nội tâm, ta nhận ra một điều giản đơn, đó là “cái tôi” không điều khiển được tâm mình, kể cả khi ngồi thiền. Tâm dặn tâm những điều cao đẹp cũng là tâm ngôn. Khi ngồi xuống tự nhủ “hãy lặng yên” thì lời đó cũng chính là tâm ngôn.
Nếu tỉnh táo, kiên trì quan sát thêm vài năm nữa, lúc này thì 10 người đã bỏ cuộc hết 8, 9, ta thấy một điều lạ. Đó là phát hiện ra rằng những điều trong tâm, vui buồn thương nhớ, hình ảnh âm thanh, chúng đến và đi không để lại dấu vết nào cả. Ví như đốt một cây diêm. Một ngọn lửa phát ra. Chục giây sau ngọn lửa tàn. Trước khi ngọn lửa phát ra thì không có lửa, sau đó khi tàn cũng không còn lửa. Không thể nói lửa từ đâu đến và đi về đâu. Lửa chỉ là một hiện tượng nhất thời, đủ điều kiện thì hiện ta. Cũng như thế, đám nây trên bầu trời cũng là một hiện tượng nhất thời. Toàn thể các hình ảnh và âm thanh trong tâm cũng là những hình ảnh nhất thờ. Chúng không đến từ đâu và đi về đâu. Có vị thiền sư nào đó đã nói: “chim hạc bay qua, bầu trời lại yên tĩnh không có dấu vết”. Câu nói nghe thô sơ vậy mà mô tả tuyệt diệu trạng thái của tâm. Trước đó là không, sau đó là không. Đây chính là yếu tính của Tính Không.
Thêm vài năm nữa, lúc này đã gần chục năm trôi qua, lúc tâm đã quen tỉnh giác, ta có thể bắt gặp từng khoảnh khắc của cái tức thời thì có cái lạ nữa sinh ta. Khi đó có tâm nữa, không có tâm ngôn, không có tư tưởng, không có độc thoại hay đối qua đáp lại mà kinh sách gọi là “Không tầm không tứ”, thù chỉ còn ánh sáng, âm thanh và hình ảnh. Cảm nhận của thân cũng biến mấ, như người vô hình. Cái trống rỗng trong tâm tâm như khoảng trống giữa hai đồ vật kê trong phòng. NHư một gian phòng vốn trống rỗng nhưng ta quá nhiều đồ đạc kê chật trong phòng, cái này sát cái kia. Nhưng khi lất đồ đi thì khoảng trống xuất hiện. Khi vắng bặt tâm ngôn thì tâm rỗng rang xuất hiện.
Chắc các bạn hiểu tôi nói gì rồi. Đó là tâm nguyên thủy của ta trống rỗng. Âm thanh, hình ảnh, tâm ngôn trong tâm ví như mây kéo đầy trời, che bầu trời xanh. Mây kéo suốt đời ta. Mây tạo hình thành cái vui cái buồn, cái thiện cái ác, ta chạy theo chúng. Mây còn tạo ra một cái đặc biệt, cái tôi. Cái tôi này cũng như mây được tạo tác ra thôi, nhưng nó tự hào đứng lên và nói ta là chủ các đám mây, cho rằng tất cả các đám mây thuộc cả về hắn.
Thực hành thêm vài năm nữa, và nếu may mắn, trong tâm xuất hiện một tình trạng lạ. Đó là tâm tự biết mình xưa nay vẫn có , nhưng mình hoàn toàn không có tính chất gì cả. Vừa có vừa không có. Có những trống rỗng. Trống rỗng nhưng sẵn sàng hiện tướng. Còn những thứ âm thanh, hình ảnh, tư tưởng, ký ức, cảm xúc… trong tâm đều là những thứ tạm thời xuất hiện. Chúng xem ra có vẻ ghê gớm, chắc nịch, có tác động to lớn khủng khiếp, nhưng khi hết hơi thì chúng không để lại dấu vết gì cả. Chúng chỉ hiện tướng và phát tác dụng, như quạt quay nhanh thì sinh chiếc đĩa tròn và cho gió mát. Lửa sinh ra thì phát sáng và sinh nhiệt, nhưng cúp điện thì đĩa tròn biến mất, hết củi thì ngọn lửa tàn. Sau đó là không có gì.
Tình trạng rỗng rang này của tầm đòi hỏi hành giả chú ý vào cái tích tắc tức thời, quan sát ngay tại đó. Nhưng hành động quan sát này là một hành động vô cùng thụ động. Chú ý nhưng thụ động, thụ động nhưng chú ý. Ta gọi là chú ý trống rỗng, chú ý nhưng không có đối tượng. Ngay từ “chú ý” cũng làm ta sinh lòng chủ động, nên gọi “ghi nhận” một cách thụ động thì đúng hơn. Nếu ta chủ động, dụng công ta sẽ vỡ cái đang là. Cũng sánh như trong vật lý lượng tử, khi ta chủ động đo lường, ta đã phá vỡ dạng sóng của thực tại để hạt sinh ra.
Thế nên vừa giữ thụ động, vừa chú ý, nói gọn là chú ý trống rỗng, là bí quyết của sự quan sát. Ta không lạ khi Phật giáo Tây Tạng hay nêu rõ Trí tuệ là thụ động, là nữ tính. Trong lúc đó phương tiện là chủ động, là nam tính. “Phương tiện” hay “phương tiện thiện xảo là chủ động, là dụng công can thiệp vào cái đang là, trong một tình trạng giác ngộ của tâm hoàn toàn tỉnh giác, sáng tỏ. Trong tình trạng giác ngộ của tâm thì tâm hoàn toàn thụ động nhưng lại hoàn toàn sẵn sàng sử dụng phương tiện. Khi đó Trí tuệ và phương tiện thống nhất với nhau làm một.
4. Nhận thức bằng suy luận tư duy
Tới bây giờ, tổng kết lại thì ta thất thế giới bên ngoài “chỉ” là trướng trạng khi vật chất đang vận động. Còn bên trong, thân cũng như tâm là một tập hợp to lớn hầu như không ai làm chủ. Nhất là tâm lại càng biến đổi nhanh chóng, liên tục, chớp nhoáng, khi có khi không. Cho nên khi ta ngắm nhìn thiên nhiên thì đó là một cái đang vận động nhìn một cái đang vận động khác.
Tư suy suy luận cũng là một hoạt động của tâm. Có hành giả coi nhẹ hoạt động của tâm. Có hành giả co nhẹ hoạt động của tư duy, nhưng thực ra tư tưởng, suy luận vô cùng quan trọng. Ý thức luôn luôn lập công đầu, “công vi thủ”. Thế thì, ta hãy xem tri kiến khoa học và đạo học nói gì về thế giới và liệu ta có chứng thực được không.
Những phát hiện của ngành vật lý hạt nhân cho thấy trong mức độ nhỏ nhất của vật chất, trong mức độ hạ nguyên tử, các hạt cơ bản tồn tại rất ngắn ngủi, khi có khi không, xem như hoán chuyển được với cái mà ta gọi là năng lượng. Thực tại vật lý có thể xem là trống rỗng, nhưng không phải là không có gì mà lại là một trường năng lượng rất lớn, khi đủ điều kiện thì sẵn sáng chuyển hóa trở thành hạt cơ bản. Hiện tại khoa học vật lý còn phát triển mạnh nhưng ta có thể tạm thời kết luận như thế.
Thế thì các vị thánh hiền phương Đông quan niệm thế nào? Trước hết có một điều vô cùng đáng ngạc nhiên, đó là các vị thánh nhân Phật giáo khái quát mọi hiện tượng cả tâm lẫn vật trong một khái niệm mệnh danh là “Pháp hữu vi”. Họ tóm chung hiện tượng tâm vật, xác định tính chất chung nhất của chúng là những “hiện tượng được tạo thành” (hữu vi – composed things). Tất cả những gì được tạo thành, dù là do nhiều phần tử khác hợp lại, hay do các điều kiện khác sinh ra, được gọi là pháp hữu vi. Như thế thì từ mỗi hạt nhân nguyên tử đến cả các thiên hà vĩ đại, đều là pháp hữu vi cả. Thân chúng ta và các cơ quan trong thân từ hơi thở cho đến các bộ phận cũng đều là pháp hữu vi. Chưa hết, cả mọi hiện tượng tâm lý cũng pháp hữu vi, vì tất cả đều sinh ra từ các điều kiện khác. Về triết học, đây là sự khái quát hóa cao nhất. Thế là mọi hiện tượng tâm vật trong thế gian đều là pháp hữu vi.
Như trên có nói, chúng ta đa số là nhà duy thực, ta xem các hiện tượng thế gian, nhất là cật chất và thiên nhiên đều có thực, chúng thực là như ta thấy chúng. CÒn các vị đó nói sao về “pháp hữu vi”, về tất cả hiện tượng thế gian? Họ nói như sau:
Tất cả các pháo hữu vi
Như cơn mộng, như ảo ảnh, như bọt nước, như bóng
Như sương mai, như ánh chớp
Nên quán chúng như thế
(Kinh Kim Cương, dịch bản chữ Hán của Cưu Ma La Thập)
Trong đoạn kinh trên, các vị nêu 6 ẩn dụ để mô tả thực tại tâm vật: cơn mộng, ảo ảnh, bọt nước, bóng, sương mai, ánh chớp.
Ta không rõ vì lý do gì mà dịch giả Cưu Ma La Thập không dịch hết các ẩn dụ trong bản Phạn ngữ. Trong bản Phạn ngữ có đến 9 ẩn dụ nư sau: “Như sao đêm, như mắt loạn, như ngọn đèn, như huyễn thuật, như sương mai, như bọt nước, như cơn mộng, như ánh chớp, như đám mây – những gì hữu vin nên được quán chiếu như vậy”.
Hãy bó qua con số 6 hay con số 9 của các dụ. Dù 6 hay 9, số lượng của các ẩn dụ này cho thấy một điều quan trọng. Đó là không có ẩn dụ, mô hình nào đúng hẳn cả, vì nếu có mô hình nào là thực tại thực sự thì hẳn các vị đã nói lên một cái duy nhất rồi. Ta có thể suy đoán là các vị thánh nhân thấy thực tại không thể dùng ngôn từ để diễn bày nen đành dùng lấy ẩn dụ, mô hình cho ta dễ hiểu. Cũng thế, trong vật lý lượng tử, ngôn ngữ thông thường hầu như không diễn tả được thực tại đầy “nghịch lý” của nó.
Thế thì ta có thể suy luận gì từ 9 mô hình, 9 ẩn dụ nói trên? Tính chất của các hiện tượng đó, thông qua các mô hình ẩn dụ, là ngắn ngủi, là tạm thời, biến đổi liên tục, có nhưng không thực có, trống rỗng, chỉ là mặt ngoài, thấy vậy nhưng không phải vậy.
Các tri kiến đó đối với ta đều là cái biết gián tiếp. Nhưng những ai đã từng ngồi xuống, lặng lẽ, thụ động, thực hành chú ý trống rỗng, nhắm nhìn quan sát và ghi nhận tâm mình và vật thể xung quanh đều có thể trải nghiệm lại một số các mô hình mà các vị thánh hiền đã nêu lên, đồng thời tự thấy thêm những hình ảnh khác. Thậm chí trong thế giới ngày nay ta có thể tự nêu lên những ẩn dụ mới mẻ, không cần dựa vào ẩn dụ kiểu cũ. Chiếc quạt máy theo tôi là một ẩn dụ dễ áp dụng.
Suy luận từ các ẩn dụ mô hình là vô cùng quan trọng vì là bảng chỉ đường trực tiếp nhất. Nhưng vì là bảng chỉ đường nên ta nhìn xong là đi tiếp, không dừng lại. Nếu dừng lại lập tức nó trở thành trướng ngại.
5. Nhận thức bằng cách buông bỏ
Đi tiếp nhưng đi đâu? Thật ra chẳng có đường sá gì cả. Cuối cùng “đi tiếp” là buông bỏ cho các pháp hữu vi tự vận hành. Thế nào là buông bỏ, buông bỏ cái gì?
Tới nay ta thường nghĩ, nhạn thức là một quá trình làm giàu thêm cho tâm. Nhận thức là thêm, thêm kiến thức, thêm kinh nghiệm, thêm phán đoán. Nhận thức chỉ có một chiều “thêm”.
Thế nhưng nếu khéo quan sát, ta sẽ thấy kiến thức và kinh nghiệm là một con dao hai lưỡi. Kiến thức giúp ta hiểu thấu sự vật nhưng đến mức nào đó nó hình thành chướng ngại. Cái thấy sinh cái biết, đến phiên nó cái biết lại ngăn cản cái thấy.
Đóa hoa vừa xuất hiện trước mắt. Ta chưa kịp thưởng thức nó thì khái niệm về hoa và kinh nghiệm trong ta liền lên tiếng: “Đây là loại hoa hồng gai mềm hay trồng tại Đà Lạt. Có nhiều màu đẹp hơn nhiều”. Ta không thấy thực tại mà chỉ nghe lời nói của chính ta. Cacis biết cũ xưa về hoa đã ngăn ta thấy đóa hoa tinh khôi.
Nếu so sánh kiến thức như những viên gạch nằm trong kho chứa khổng lồ của tâm thì kiến thức và kinh nghiệm thường rất hay có khuynh hướng tự mình xây nên một lâu đài và giam giữ ta trong đó. Có ai nói: “Có thể xây địa ngục bằng những viên đá của thiện chí” thì ở đây ta có thể nói nhại rằng: “Có thể xây lâu đài trú ẩn bằng những viên đá của kiên thức và kinh nghiệm”.
Có lẽ chúng ta từng thấy rất nhiều người, phần lớn là lớn tuổi và nhiều kiến thức tự xây cho mình một lâu đài của thành kiến, kinh nghiệm, khái niệm, thang giá trị thiện các, đúng sai… và ẩn trú trong đó. Họ bít cả các cửa sổ lớn, bản thân họ không ra ngoài và cũng không cho những gì mới mẻ lọt vào. Ánh sáng mặt trời cũng không vào, họ tự đốt đèn bằng chất dầu mang tên “từng biết – well known” và vui sống trong đó.
Có thể chúng ta cũng đang ở trong góc sâu kín nhất của lâu đài. Thế nhưng nhìn quanh lờ mờ có vài bảng chỉ đường của thánh hiền. Nếu theo bảng chỉ đường đó đi vào ba bước ta thấy một chút ánh snags lạ. Nếu tâm mở rộng và thử đi theo ánh sáng đó thì xa xa là những cửa sổ, cửa lớn lấp lánh ánh sáng. Mạnh dạn mở toang những cánh cửa đo, tức là hai cửa của Nghe và Nhìn. “Mở toang” là buông bỏ những gì đã biết, giữ tâm chú ý, rỗng rang, không chủ động, không dụng công, không mong chờ, chỉ chú ý trống rỗng. Ta sẽ thấy ánh sáng mặt trời luôn luôn có ở đó.
Nói “ra ngoài” là nói ẩn dụ. Tâm không có trong ngoài. Tóa lây đài nọ xây dựng bằng những viên gạch của tâm. Buông bỏ nó, phá hủy nó cũng là hoạt động của tâm. Chỉ cần thấy xuyên suốt tự tính của nó là đã phá hủy nó rồi, rất dễ. Nhưng cũng vô cùng khó, vì như Arbert Einstein nói, phá bỏ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ một hạt nhân nguyên tử. Rất dễ nên nhà Thiền mới buông dao quay đầu là thành Phật. Rất khó nên không mấy ai thành tựu, trước khi thành tựu, Phật cũng phải tu vô lượng kiếp. Về phần tôi, tôi cũng thấy rất khó vì phải bơi ngược dòng tất cả mọi thói quen.
“Bên ngoài” ra sao? Bên ngoài những lâu đài kín cửa là một không gian vô cùng thanh tịnh. Huệ Năng đã từng thốt lên: “Ai dè tự tánh vốn sắc thanh tịnh”. Lục tổ mà thốt lên “ai dè” thì chúng ta khó mà ngờ đến. Phía trên ta nói “giữ tâm rỗng rang” là nói cho người trong nhà đi lần ra cửa lâu đài, chứ ở bên ngoài rồi chỉ cần để tự nhiên, tâm vốn rỗng rang, tâm vẫn luôn luôn chú ý, tâm vốn luôn luôn tỉnh thức. Cho nên ra ngoài thì cũng bỏ luôn sự chú ý vì lúc đó chính ta là sự chú ý.
Có thể các bạn hỏ tôi chứng nghiệm được cái gì. Lòng tôi vẫn còn đầy ngập các đám mây. Nhưng mây thỉnh thoảng vén ra cho thấy chút trời xanh. Tôi chỉ ghi nhận được rất ngắn là: Thực tại chính là toàn thể pháp hữu vi đang vận hành chớp nhoáng, vô chủ, cái này sinh ra cái kia, làm điều kiện lẫn nhau để sinh ra và diệt đi. Sinh diệt vô tận.
Không ai điều hành sự vận hành các pháp, chúng tự vận hành. Không có Thượng đế, không có quan tà thưởng phạt.
Còn chúng ta là ai? Mỗi cá nhân chúng ta là một tiêu điểm của sự ghi nhận. Tiêu điểm để các pháp hiện lên chứ tiêu điểm không phải là chủ nhân các pháp. Bạn ngồi đó và ghi nhận các pháp như tim đập, hơi thở ra vào, hơi nóng trong thân, tiếng chim hót, tiếng chó sủa, ánh sáng, hình ảnh… Tất cả chúng là pháp và chúng vận hành vô chủ. Vô chủ nhưng vận hành hoàn hảo. Thỉnh thoảng có tư tưởng, ý niệm, ký ức hiện ra , nhưng các pháp đó lại biến mất. Tiêu điểm chỉ ghi nhận, không chạy theo chúng, không nạp cho chúng thêm năng lượng nên chúng diệt mất, như hết củi lửa tan. Để có khái niệm về “tiêu điểm” này, các bạn hãy nhớ đến khái niệm ảnh toàn ký (Holographie), trong đó một điểm trong ảnh chứa toàn bộ chi tiết của cái tất cả.
Các pháp vận hành nhanh chóng, chớp nhoáng, nhanh hơn cả máy vi tính. Trong sự vận hành đó hiện ra thế giới và con người.
Nhưng cũng không phải ta ngồi đó hoàn toàn bất lực trước các pháp xảy ra. Có khi có một pháp hiện lên, muốn “can thiệp” vào thực tại thì pháp đó thông qua tiêu điểm đó để can thiệp vào thực tại. Trong tình trạng giác ngộ thì sự can thiệp đó gọi là “phương tiện thiện xảo”. Còn chúng ta cũng luôn can thiệp vào thực tại nhưng trong tâm vô minh cái đó là hành động thông thường.
“Can thiệp vào thực tại” nghe có vẻ to tát nhưng thật ra rất bình thường. Thí dụ thông thường: Đang ngồi thiền, cảm giác ngứa nổi lên, ví dụ tịa mũi. Bạn chủ động đưa tay gãi mũi. Lúc đó bạn đã can thiệp vào thực tại. Và hành động gãi rất hoàn hảo. Pháp trong dạng tự nhiên hoạt động luôn luôn hoàn hảo.
Tất cả các pháp hiện lên tại tiêu điểm cá thể, tất cả các pháp tác động vào thực tại cũng thông qua tiêu điểm cá thể. Mỗi chúng ta là một điểm của bức ảnh toàn ký vĩ đại mà ta gọi là Tâm. Tất cả hiện ra trong một Từ một (tiêu điểm) tác dụng lên tất cả. Chắc có ai trong bạn đang nhớ đến tư tưởng kinh Hoa Nghiêm: “Tất cả trong một, một trong tất cả”. “Tất cả trong một” là nội dung Trí tuệ, “Một trong tất cả” là nội dung của phương tiện thiện xảo.
Lặp lại tư tưởng Hoa Nghiêm, tôi cảm nhận run sợ vì cừa chạm đến những điều mình không biết, mình không trải nghiệm. Tôi chỉ là kẻ sơ cơ, còn trú trong lâu đài nọ, mới mò đến bên cửa sổ nhìn ra bên ngoài, thấy chút trời xanh. Nhưng vừa thấy trời xanh thì tâm tôi quen thói đưa khái niệm vào giải thích, lập tức bị ném ngược trở lại. làm sao tôi biết được tri kiến của những ai đã an trú trong trời xanh được?
Hẳn có bạn tò mò hỏi: “Thế thì làm sao ra bên ngoài, làm sao bỏ lại đằng sau tòa lâu đài?” . Tôi chỉ lặp lại lời kinh làm Huệ Năng bừng tỉnh: “Đừng nên dựa vào đâu cả”, ưng cô sở trụ nhi sinh kỳ tâm (Vô sở trụ: you must be Nonlocal; Sinh kỳ tâm: for the appearing of this mind).
Tức là không dựa vào đâu, buông bỏ tất cả, buông cả lời kinh, bỏ luôn sự buông bỏ. Tất cả kinh sách đều là bảng chỉ đường và năm tron lâu đài. Kinh sách là ngón tay chỉ mặt trăng. Phải quên tay mới thấy trăng.
“Nói ra nghe thử”. Nếu quý bạn muốn nghe một lời thổ lộ chân thành thì vừa rồi là một sự chân thành. Tôi không loại bỏ mình sau lầm, phiến diện, hời hợt, không đầy đủ. Tôi không có chút tham vọng thuyết phục ai về luận giải, triết lý gì cả. Tôi cũng không dám khuyên ai bơi ngược dòng, ngồi xuống bồ đoàn, thực hành chú ý trống rỗng, thụ động ghi nhận. Tất cả chỉ là lời tâm sự.
TS.Nguyễn Tường Bách
Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 03/2015
Đăng lúc: 07:10 - 11/06/2015
Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại giảng đường có nóc nhọn.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến trú xứ của gia chủ Ugga, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Gia chủ Ugga đi đến đảnh lễ, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:
Bạch Thế Tôn, con nghe như sau từ miệng Thế Tôn: “Ai cho vật khả ý thì nhận được điều khả ý”. Vì thế, con có nấu cháo từ hoa cây sàla và rất nhiều loại món ăn thật là khả ý; con có nhiều loại vải dệt từ Kàsi thật là khả ý. Mong Thế Tôn hãy nhận lấy vì lòng từ ái đối với chúng con.
Thế Tôn nhận lời và nói với Ugga bài kệ tùy hỷ này: “Ai cho vật khả ý, nhận được điều khả ý, đối với bậc Chánh trực, vui lòng đem bố thí, vải mặc và giường nằm, ăn uống các vật dụng, biết được bậc La hán, được ví là phước điền, nên các bậc Chân nhân, thí những vật khó thí, được từ bỏ giải thoát, không làm tâm đắm trước, người thí vật khả ý, nhận được điều khả ý”.
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Vua Munda,
phần Cho các vật khả ý, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.382)
LỜI BÀN:
Cho người thực ra đó là cho mình là một nhận thức quen thuộc của những người con Phật. Vì thế, ngoài tấm lòng từ bi bao dung, độ lượng đối với tha nhân, người Phật tử thực hành bố thí với mục đích nhằm vun bồi phước báo cho chính mình.
Thi ân, sẵn sàng cho đi mà không cầu đền đáp là một phạm trù vốn rất xa lạ và khó làm đối với những người vị kỷ, keo kiệt. Càng khó khăn hơn đối với họ khi phải cho những vật khả ý, tức những vật mà mình yêu thích. Đa phần, những đồ vật đem cho thường là những vật thừa thãi, vô dụng nhưng “xả” được như vậy đối với họ cũng là quý hóa lắm rồi.
Người Phật tử thì không như vậy, cho người là một nhiệm vụ, một nghĩa cử thiêng liêng. Vì thế, họ sẵn sàng ban tặng những gì mà chúng sanh cần, kể cả những vật khả ý thậm chí dâng hiến cả thân mạng vốn là một tài sản bất khả xâm phạm. Cho những gì mình thích, mình trân quý mới thực sự là cách cho trọn vẹn và khó làm nhất.
Để đạt được cách cho cao cả như vậy không phải người nào cũng làm được mà phải có trí tuệ, thấu hiểu bản chất của cuộc đời là vô thường và vô ngã. Chính tuệ giác vô ngã đã soi sáng cho hành động bố thí thông thường tiến dần đến Bố thí Ba la mật, một sự ban tặng mà vô cầu, vô điều kiện và vô phân biệt.
Tuy vô cầu, vô điều kiện và vô phân biệt trong khi cho nhưng phước báo của người cho vẫn tròn đủ. Nhân quả trong bố thí rất bình đẳng và đạt đến đỉnh cao nếu người tu tập bố thí đạt đến trình độ Bố thí Ba la mật. Vì vậy, hãy cho tất cả để có được tất cả là lý tưởng, phương châm sống của người con Phật.
Quảng Tánh