Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Suy nghiệm lời Phật: Chẳng thể chữa trị

Suy nghiệm lời Phật: Chẳng thể chữa trị

Đăng lúc: 21:47 - 22/06/2017

Trong đường tu ai cũng biết rằng, buông bỏ hết để vượt qua các dục mới dự phần vào Thánh quả. Thế nhưng, buông bỏ là một quá trình vốn không dễ dàng vì tập khí nắm giữ quá sâu dày. Đã bao lần chúng ta thất bại, trầy trật rồi lại cố gắng vươn lên. Những tưởng buông xả những chấp thủ vi tế sâu xa của tự ngã mới khó, ai dè các món dục thô phù như danh và lợi lại cứ đeo đẳng, khiến ta thật khó dứt trừ.
ducphatday.jpg
Học Phật ai cũng hiểu, buông bỏ hết để vượt qua các dục mới dự phần vào Thánh quả

Thuở sơ cơ nhập đạo, tâm Bồ-đề dũng mãnh nên ta xem danh lợi thật phù du, hư huyễn. Rồi dần dà tháng lại ngày qua, không biết tự khi nào tâm ta thay đổi, ta bị chính mình đánh lừa. Tự huyễn danh lợi là phương tiện để hành đạo tốt hơn, phụng sự đạo pháp và chúng sinh đắc lực hơn rồi quyết nắm giữ, không hề có ý buông xả. Vướng vào căn bệnh trầm kha này, Thế Tôn nói là ‘chẳng thể chữa trị’. Hiện trạng này không phải thời mạt pháp mới có, mà ngay thời Chánh pháp của Thế Tôn cũng khá nhiều. Đề-bà-đạt-đa là một trong những trường hợp điển hình.

“Một thời Phật ở thành La-duyệt, tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng đại chúng năm trăm Tỳ-kheo. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các thầy có thể thấy pháp của Đề-bà-đạt-đa thanh tịnh chăng? Ngược lại, Đề-bà-đạt-đa tạo ác sâu nặng, sẽ chịu tội nhiều kiếp không thể chữa trị. Đối với pháp của Ta, chẳng thấy được một ngày mảy may điều lành có thể kể ra được. Nay Ta nói đầu mối các tội của Đề-bà-đạt-đa chẳng thể chữa trị. Ví như có người rơi vào cầu tiêu sâu, thân hình chìm lỉm, không một chỗ sạch. Có người muốn đến cứu vớt vị ấy lên chỗ sạch, họ xem khắp bờ xí và thân người đó xem có chỗ nào sạch, liền nghĩ: ‘Ta muốn nắm vị ấy kéo lên’. Họ nhìn kỹ không một chỗ sạch để có thể nắm được, liền bỏ mà đi. Như vậy, này các Tỳ-kheo, Ta xem Đề-bà-đạt-đa là người ngu si, chẳng thấy chút gì đáng nhớ, sẽ chịu tội nhiều kiếp chẳng thể chữa trị. Sở dĩ như thế vì Đề-bà-đạt-đa một mực ngu si, thiên về lợi dưỡng, tạo tội ngũ nghịch, thân hoại mạng chung sẽ sanh trong đường ác. Như vậy, này các Tỳ-kheo, lợi dưỡng sâu nặng khiến người chẳng đến được chỗ an ổn. Thế nên, này các Tỳ-kheo, đã sanh tâm lợi dưỡng hãy nên lìa bỏ. Nếu người chưa sanh, chớ khởi lòng nhiễm trước. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm11.Bất đãi,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.126)

Thì ra, cội nguồn của vấn đề là do vô minh, tâm không sạch sáng, ngôn ngữ của Thế Tôn là ‘một mực ngu si’. Liệu Thế Tôn quở trách có quá lời chăng? Chúng ta có thật si mê như Đề-bà-đạt-đa thiên về lợi dưỡng không? Bấy giờ hẳn Đề-bà-đạt-đa không chấp nhận. Hiện chúng ta cũng khó thừa nhận bởi mình học cao hiểu rộng, bằng cấp chức vụ đầy mình, có tài tổ chức lãnh đạo, chùa to Phật lớn, đệ tử và tín đồ đông… Sự thật là nếu tất cả chỉ dừng lại ở thức tri, tưởng tri, lấy trí thế gian để hành đạo thì công nghiệp của chúng ta dẫu có to lớn dường mấy cũng chỉ đem đến phước báo hữu lậu. Đó là chưa nói đến thành công càng nhiều thì tự mãn càng lớn, dính mắc danh lợi càng tăng, không khéo bỏ buông thì ‘thân hoại mạng chung sẽ sanh trong đường ác’.

Vấn đề then chốt là cần thành tựu tuệ tri và thắng tri, hằng sống với tuệ giác thiền quán để thấu rõ sự thật dukkha, ‘chiếu kiến ngũ uẩn giai không’ để vượt qua dục, xả buông danh lợi. Thế Tôn thường cảnh tỉnh người học đạo phải thấy rõ sự nguy hiểm ‘lợi dưỡng sâu nặng khiến người chẳng đến được chỗ an ổn’ đồng thời phát khởi tinh cần ‘đã sanh tâm lợi dưỡng hãy nên lìa bỏ, nếu người chưa sanh chớ khởi lòng nhiễm trước’. Trong bối cảnh vật dục danh lợi đoanh vây đời sống tu hành, để tiến đạo thì người con Phật cần nương theo kinh nghiệm của Thế Tôn: Phát huy tuệ giác để thấy rõ sự thật, phá tan vô minh si ám để thôi tự huyễn mình, thấy rõ sự nguy hiểm của lợi danh mà tinh cần buông bỏ. Buông thật sự mới bình an, đến bờ kia.
Quảng Tánh

Sa-môn Thích tử

Sa-môn Thích tử

Đăng lúc: 15:39 - 03/04/2017

Sa-môn là danh xưng của người xuất gia, cạo bỏ râu tóc, dứt trừ các điều ác, siêng làm các việc lành, tu tập thiền định để thú hướng Niết-bàn. Trước thời Đức Phật, các vị đạo sĩ sống đời xuất thế đã được gọi là Sa-môn (Bà-la-môn). Khi Đức Phật ra đời, các đệ tử xuất gia của Ngài cũng gọi là Sa-môn nhưng để phân biệt với ngoại đạo nên gọi thêm là Sa-môn Thích tử (Sa-môn con dòng họ Thích, Sa-môn đệ tử của Phật Thích Ca).
Như nước của trăm sông, khi về xuôi thì hòa nhập thành một là biển cả mênh mông rộng lớn. Nước của các sông kia cũng trở nên thuần một vị mặn mà. Cũng vậy, người trong thiên hạ tuy xuất thân từ những dòng tộc, hoàn cảnh, giai cấp khác nhau nhưng khi đã quy Phật xuất gia thì rũ bỏ hết mọi khác biệt, trở thành Sa-môn Thích tử, tất cả đều chung một mục tiêu duy nhất là thú hướng giải thoát, Niết-bàn.

samon.jpg
Tất cả đều chung một mục tiêu duy nhất là thú hướng giải thoát, Niết-bàn - Ảnh minh họa

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay có bốn dòng sông lớn từ suối A-nậu-đạt chảy ra. Những gì là bốn? Đó là Hằng-già, Tân-đầu, Bà-xoa, Tư-đà. Nước sông Hằng-già từ miệng trâu chảy ra về hướng Đông. Nước Tân-đầu từ miệng sư tử chảy về hướng Nam. Nước Tư-đà từ miệng voi chảy về hướng Tây. Nước Bà-xoa từ miệng ngựa chảy về hướng Bắc. Bốn dòng sông lớn nhiễu quanh hồ A-nậu-đạt, Hằng-già vào biển Đông, Tân-đầu và biển Nam, Bà-xoa vào biển Tây, Tư-đà vào biển Bắc. Bốn sông lớn vào biển rồi, không còn tên cũ, chỉ gọi là biển.

Đây cũng như thế, có bốn dòng họ. Những gì là bốn? Dòng Sát-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Ở chỗ Như Lai cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, không còn dòng họ cũ, chỉ gọi là Sa-môn Thích tử. Vì cớ sao? Chúng của Như Lai ví như biển lớn. Bốn dòng họ như bốn sông lớn, trừ bỏ kiết sử vào thành Niết-bàn Vô úy. Thế nên, các Tỳ-kheo! Có các vị thuộc bốn dòng cạo bỏ râu tóc, do niềm tin kiên cố, xuất gia học đạo, họ sẽ bỏ tên cũ, tự xưng Thích tử. Vì sao thế? Nay Ta chính là Thích tử, từ trong dòng họ Thích xuất gia học đạo.

Tỳ-kheo nên biết! Muốn luận nghĩa sanh con, nên gọi là Sa-môn con dòng họ Thích. Vì sao thế? Sanh đều do Ta sanh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu. Thế nên Tỳ-kheo! Nên cầu phương tiện được làm con dòng họ Thích. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 29.Khổ lạc,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.102)

Ngày nay mỗi người xuất gia đều được vinh hạnh mang dòng họ Thích cao quý của Đức Phật, nguyện làm con của Ngài, là “Sa-môn con dòng họ Thích”. Về hình thức, người xuất gia chính là Sa-môn Thích tử nhưng trong nội dung chúng ta thực sự có “cầu phương tiện được làm con dòng họ Thích” hay không, mới là chỗ đáng bàn.

Có câu “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Khi tự nhận là Thích tử, làm con của Đức Phật, thiết nghĩ chúng ta cũng nên tự soi xét lại mình có chút gì tương ưng với bậc Cha hiền (Từ phụ) của mình hay không? Bởi Thế Tôn đã từng căn dặn: “Muốn luận nghĩa sanh con, nên gọi là Sa-môn con dòng họ Thích. Vì sao thế? Sanh đều do Ta sanh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu”.

Thế nên, từ bỏ dòng họ thế tục để mang dòng họ Thích là điều không khó. Đích thực là con dòng họ Thích, “do Đức Phật sinh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu” mới là điều khó. Khó mà làm được mới đáng gọi là Sa-môn Thích tử.
Quảng Tánh

Không có gì bền chắc

Không có gì bền chắc

Đăng lúc: 19:26 - 24/03/2017

Đức Phật nói nhứt thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ, diệc như điển, nghĩa là các pháp hữu vi như chiêm bao, như giọt sương, như làn chớp. Người tu phải quán như thế. Nhiều người hiểu sai ý này. Phải xác định rằng pháp vô vi đối lập với pháp hữu vi. Người hiểu được pháp vô vi mới là người tu thực sự.
tuongphat.jpg
Đức Phật nói nhứt thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ, diệc như điển - Ảnh: Pixabay

Pháp hữu vi là những gì chúng ta nắm bắt được, hiểu được đều nằm trong sanh diệt pháp. Kinh Niết-bàn nói chư hạnh vô thường thị sanh diệt pháp, tức cái gì chúng ta nắm bắt, hiểu được là vô thường, là pháp hữu vi sanh diệt. Nhưng, còn mặt sau phải biết rằng sanh diệt diệt thời tịch diệt vi lạc. Phật dạy lý này để chúng ta chấm dứt sanh diệt mới chứng Vô sanh.

Cũng ý này, Hòa thượng Thiện Hoa dạy rằng sơn cùng thủy tận, hay tuyệt mạng tuyệt thể. Nghĩa là người tu phải đi ngược dốc, lên tận đỉnh núi, hay đi ngược về tận nguồn sông, tức về nguồn chơn tâm.

Trong dòng chảy sinh tử luân hồi, chúng ta từ nguồn chơn tâm theo vọng tưởng điên đảo mà xuất hiện trên cuộc đời này, kinh Hoa nghiêm gọi là vô minh duyên khởi. Thật vậy, từ nguồn nước trong, chúng ta theo vọng tình trôi ra dòng sông mê sẽ dẫn ra biển khổ, đó là con đường mà chúng ta đã trải qua nhiều đời nhiều kiếp luân hồi do mê mờ dẫn chúng ta đến cuộc sống hiện tại khổ đau không có lối thoát gọi là biển khổ, hay địa ngục.

Và trong biển khổ này, chúng ta gặp được Phật pháp ví như con rùa mù gặp bộng cây nổi trên biển cả mà chui vào, là chúng ta nương vào Phật pháp, trở về nguồn thì bớt khổ, cho đến hết khổ. Như vậy là cắt được hữu vi pháp.

Pháp hữu vi sanh từ vô minh, mới khởi lên nghiệp. Nghiệp có thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, Ý nghiệp là chính. Vô minh phát xuất từ ý là tham lam, bực tức, sai lầm dẫn đến quả khổ và từ quả này lại tạo nhân khác khổ hơn. Thí dụ người mới trưởng thành do vô minh sanh nghiệp ái là nghiệp đáng sợ nhất trong tất cả các nghiệp. Chàng trai hay cô gái khởi ái nghiệp dẫn họ vào mê hồn trận, nên nhìn không chính xác. Người Việt thường nói thương thì trái ấu cũng tròn, thiệt nó méo nhưng si mê thấy nó tròn, tốt. Đến khi đeo bám nó, mới thấy nó không còn tốt. Thầy có người bạn, anh này mê cô bán hàng đến trốn học, đứng gốc cây me để ngắm cô ta. Nhưng cưới được cô rồi, anh ta lại nói bây giờ con thấy bả con sợ! Mê thấy khác, tỉnh thấy khác, cứ như vậy mà người ta lún sâu vào vũng bùn nghiệp. Thấy cô gái họ cưới được đáng sợ, nên lại nghĩ đến cô khác rồi mê cô khác, làm gia đình tan nát. Đó là biển khổ mênh mông sóng ngập trời.

Tất cả pháp hữu vi không có gì bền chắc. Chúng ta thấy toàn ảo giác, vì mê nên ta thấy sai, rồi chạy theo nó; nhưng Phật dạy nó không thực bền chắc. Như Ma Đăng Già mê A Nan, dùng bùa để mê hoặc A Nan. Phật dùng thần chú Lăng Nghiêm cứu A Nan. A Nan tỉnh lại, chạy về chùa. Ma Đăng Già đuổi theo, gặp Phật, bảo Phật trả A Nan cho bà. Phật hỏi Ma Đăng Già mê A Nan cái gì. Bà nói ổng có con mắt đẹp quá. Phật dùng thần lực biến mắt A Nan đỏ chảy máu khiến bà thấy khiếp sợ.

Phật thấy sự thật, nói rằng thân người là cái túi da đựng đồ hôi thối. Nhìn bằng tuệ giác thấy chẳng những không có gì bền chắc mà còn gớm ghiếc. Với người mê sắc, Phật dạy ra thi lâm nhìn xác chết mà ghê sợ và đoạn được ái dục. Nghĩa là tu đi ngược về nguồn, chuyển cái thấy si mê thành thấy theo thật trí. Không phải thấy không bền chắc làm chúng ta chán đời, buông bỏ tất cả là sai.

Biết các pháp hữu vi không bền chắc thì hướng suy nghĩ và việc làm của mình theo con đường đúng đắn của Phật. Những gì không bền chắc chúng ta sẵn lòng buông bỏ, vì biết không giữ được, cuối cùng sinh mạng của chúng ta là nghiệp thân cũng phải bỏ. Có thân vì do nghiệp tạo, nhưng ta lại chấp thân là ta, nên phải khổ.

Huệ Tư thiền sư có thân xấu xí, ai cũng ghét và chê ngài. Nếu là phàm phu bị người chê, ghét, thì ức lắm và nói tại nghèo, nên bị khi dể, tại xấu nên bị chê. Ngài Huệ Tư nhận thấy rõ xấu xí, nghèo nàn, ngu dốt là cái nghiệp của mình. Nên ngài nói rằng người ta khinh chê, ghét bỏ là khinh chê, ghét bỏ cái nghiệp của mình, không phải khinh chê, ghét bỏ mình. Nhờ người chê mà biết được nghiệp của mình, từ đó, tu hành phải phá nghiệp, còn chấp nghiệp là mình thì cứ khổ thêm.

Biết nghèo bị khi dể thì cũng biết nghèo là do nghiệp, Phật dạy do nhiều đời gian tham trộm cắp, nên đời này làm gì cũng thất bại. Cải tạo nghiệp này, không gian tham, trộm cắp, mới thoát được cái nghèo. Vì vậy, Phật tử phải tập sống chân thật, nhờ đó lần lần có uy tín. Chính tâm chân thật, không gian tham, trộm cắp, người ta mới chấp nhận hợp tác với mình. Thực tế nhìn tướng, nghe giọng nói, hay thấy nét mặt cũng biết họ tham. Tuy muốn giúp, nhưng sợ cho vô nhà thì họ ăn cắp, thương muốn cho họ vô ở chung, nhưng sợ họ quậy phá. Khắc phục nghiệp này là tập tánh nghèo không tham.

Tướng trung thực, lời nói trung thực, hiền lành, người ta cho vô ở nhà, nhưng biết thân phận không dám vô là kinh Pháp hoa nói gã cùng tử làm công cho trưởng giả vẫn ở am tranh. Riêng thầy, tự biết thân phận nghèo, nên không dám gần ai, vì gần người có nhiều tiền, không khéo họ nghi mình làm thân để nhờ vả, hay ăn cắp. Vì vậy, thời thầy đi tu, giữ kỹ điều này lắm, tức không tới nhà giàu, vì làm thân với người giàu, họ xem thường mình. Phật cũng dạy vị Sa-môn điều này, gần người giàu, họ sợ mình ăn cắp. Trên bước đường tu, tránh gần người giàu, người quyền thế, chỉ lo tu và gạn lọc tâm cho đến tâm và lời nói mình trong sạch thì họ không sợ mình ăn cắp.

Huệ Tư dạy rằng họ chê, hay nói xấu là chê cái nghiệp, nói xấu cái nghiệp của mình. Hiểu như vậy, chúng ta tu, cám ơn người nói xấu ta, cám ơn người hại ta. Ta này là nghiệp và tu hành, biết ta từ chân tánh, hay ta và Phật đồng nhau theo kinh Hoa nghiêm. Tuy nhiên, trên thực tế, ta khác với Phật vì bị vô minh vọng tưởng bao bọc tầm nhìn, khiến mình thấy sai lầm, mới tạo vô số nghiệp ác.

Con người trong sáu đường sinh tử đều do nghiệp tạo. Nếu tạo thiện nghiệp sẽ có thân người tốt đẹp, cuộc sống sung sướng. Và tạo được cùng tột điều thiện sẽ có thân chư Thiên tốt đẹp nhất. Tạo cùng tột việc ác là ác ma. Vì vậy, Phật nói địa ngục hay thiên đường cũng do nghiệp tạo.

Chư hạnh vô thường do nghiệp và nghiệp là ảo. Vì vậy, nghiệp mất là đáng mừng, vì chúng ta cũng muốn bỏ nghiệp. Thi hào Nguyễn Du nói dễ thương rằng đã mang lấy nghiệp vào thân thì đừng trách trời, trách đất.

Mang nghiệp vô thì phải bỏ nghiệp được. Phật dạy xả uẩn, hay xả chấp. Bỏ được, nhưng vì chúng ta không chịu bỏ, sợ khổ, nhưng cứ ôm cái khổ. Bỏ nghiệp hết khổ liền. Thực tế có anh bị vợ bỏ, nếu không biết tu thì thấy khổ; nhưng anh biết tu, thấy nhẹ quá, khỏi lo nữa, được tự do làm công quả. Biết được nghiệp, mình chấp nhận thực tế này sẽ cắt được lòng tham ái, tham dục, hết khổ. Và kế tiếp, cắt luôn tham tài, tham danh. Phải biết nghiệp mình chỗ nào để cắt. Phước đến đâu hưởng đến đó. Theo thầy, Phật tử nên hưởng dưới mức mình có thì càng được an lạc hơn.

Người thương mình, mình thương họ là tình bạn đạo, nhưng mình thương mà họ không thương là nghiệp, là duyên hợp tan mà Phật nói vô thường, không bền chắc, thấy đó rồi mất. Thầy thấy biết bao người bạn mình quý trọng, nhưng nhìn lại không còn ai, đó là vô thường.

Tuy nhiên, nhìn xa trong vô thường có chơn thường là con người thực và thấy điều thực này thì mình và bạn đang hiện hữu trong thế giới tâm linh là Tịch Quang chơn cảnh. Như vậy, thầy mình và bạn mình đang ở thế giới này và khi mình mãn duyên trần sẽ đi vô đây.

Còn mình tiếc thân tứ đại mỗi ngày già yếu, bệnh hoạn, hoàn cảnh khó khăn hơn là khổ chồng chất khổ, nhưng chúng ta theo Phật, sống với chân tánh của chúng ta thì không có tướng già, không có tướng bệnh, không có tướng chết.

Từ kinh Nguyên thủy đến kinh Đại thừa, kinh nào cũng chỉ vô thường sanh diệt để chúng ta hướng đến bất sanh bất diệt là thế giới của Phật, Bồ-tát. Trong kinh Hoa nghiêm, Đức Phật dạy từ khởi thủy đến chung cuộc. Khởi thủy là gì. Người tu đi tìm nguồn gốc coi mình từ đâu tới đây và tương lai chết về đâu.
Tu Hoa nghiêm cứ đi ngược về nhiều kiếp trước để chứng Túc mạng minh. Nhờ đi ngược về quá khứ, mình mới thấy hiện tại. Nói rõ hơn, nếu quá khứ chúng ta trồng căn lành ở Phật pháp, thì hiện tại mới gặp thầy hiền bạn tốt. Vì vậy, thầy tâm đắc câu kinh trong Phổ Hiền hạnh nguyện rằng: “Những người cùng tôi đồng một hạnh. Cầu được sanh chung các cõi nước. Thân khẩu ý nghiệp đều đồng nhau. Tất cả hạnh mầu cùng tu tập…” Đây là thiện tri thức quá khứ của chúng ta tái sanh gặp lại thành bạn tâm giao, hiểu nhau, quý nhau, giúp nhau.

Thầy gặp Hòa thượng Ito. Ông đón thầy và nói rất dễ thương: Xin chào bạn. Hỏi bạn hồi nào. Nói bạn ở hội Linh Sơn. Lúc đó thầy trẻ, còn ông là Hòa thượng lớn tuổi. Như vậy, quý vị có dám nhận là bạn hay không. Bạn này là bạn tâm linh, bạn tâm giao, nên gặp là tự nhiên thương, quý trọng liền. Họ nói gì mình cũng dễ chấp nhận. Đây là thầy, là bạn quá khứ gặp lại, tự quý trọng nhau. Còn người mà mình nói gì, họ liền nói ngược lại. Thầy gặp người như vậy là thầy chấm dứt câu chuyện, không nói nữa. Phật cho biết Đề Bà Đạt Đa nhiều đời trước đã là bạn luôn chống đối Ngài.

Trên bước đường tu, quán chiếu quá khứ để biết hiện tại. Thấy người ghét mình, tự biết đó là oan gia đời trước gặp lại. Thấy người thương mình, tự biết họ đã từng là thiện tri thức đời trước. Thầy thường nói đường đi của mình đến quả vị Phật còn xa, việc làm còn nhiều, nên tránh phiền phức để đi cho nhanh. Không phải là Bà-la-môn mà ở đó tranh cãi. Còn nghe, còn cãi, còn góp ý chi cho khổ.

Nhờ thấy hiện tại mà biết quá khứ, biết ai làm bạn đồng tu, đồng hạnh, đồng nguyện. Ai nghịch hạnh thì tránh. Như vậy, mình tu nhẹ nhàng, không hơn thua tranh cãi, miễn sao sống an lạc, giải thoát. Đạo Phật là đạo tìm ra sự thật và sống với sự thật, biết nó cố cãi để hơn mình, thì mình chịu thua để cho mình được nhẹ.

Nhìn kỹ người làm đạo được nhờ duyên quá khứ là người bạn trong quá khứ tái sanh gặp lại, hỗ trợ nhau, như Khương Tăng Hội xuất gia ở Luy Lâu (Hà Nội), nhưng ngài qua Thượng Hải xây chùa Kim Sơn. Ngài nói sang Trung Hoa để gặp Ngô Tôn Quyền. Lúc đó Trung Hoa chưa có đạo Phật, dù kinh từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa rồi, nhưng người Trung Hoa chưa tin đạo Phật, nên đạo Phật không phát triển được.

Khương Tăng Hội sang Trung Hoa truyền đạo vì ngài biết có bạn ở đó và ngài cũng biết rằng bạn ngài sanh lại làm vua, ngài làm sư, hai người kết hợp để phát triển đạo Phật. Khương Tăng Hội là nhà sư đầu tiên đến Thượng Hải. Ngài không đi bình thường, nhưng đi trên chiếc nón lá. Mọi người thấy hình tướng của ngài kỳ lạ, nên tâu với vua Ngô Tôn Quyền. Ông nghĩ phải chăng Hán Minh Đế mơ thấy bạn là người này chăng.

Vua cho mời ngài tới. Ngài trả lời vua bằng tiếng Trung Hoa thông thạo như người Trung Hoa, làm vua nể phục. Vua hỏi Khương Tăng Hội khi Phật Niết-bàn, có gì để lại để thấy sự linh nghiệm. Ngài nói Phật Niết-bàn còn để lại xá-lợi là kết tinh công đức tu hành của Phật. Vua nói muốn xem công đức tu hành của Phật như thế nào mà kết tinh thành xá-lợi.

Khương Tăng Hội nói vì là công đức tu hành, người thụ đắc xá-lợi cũng phải do công đức tu hành mới được, không phải ai cũng có được. Và người có công đức mới thấy xá-lợi Phật, không phải ai cũng thấy xá-lợi hay giữ được xá-lợi.

Vua hỏi trẫm có thể thấy xá-lợi không. Khương Tăng Hội nói rằng làm vua là có phước thì thấy được xá-lợi, nhưng phải có niềm tin. Thực tế vua Ngô Tôn Quyền được coi là vua hiền đức, nhưng ông vua con là Tôn Hạo rất dữ.

Bệ hạ có phước nên thấy được xá-lợi, còn bần tăng phải nỗ lực tu mới có công đức, nhưng ngài cũng không dám nói mình có xá-lợi. Ngài bảo vua dựng thảo am để ngài tu một tuần nhằm hồi phục công đức thì mới thụ đắc xá-lợi. Nhưng thực sự ngài đã có bình xá-lợi rồi.

Trong một tuần ngài tu miên mật Thiền quán, không ăn ngủ. Qua một tuần, Ngô Tôn Quyền hỏi xá-lợi đâu. Ngài nói cho thêm một tuần tiếp tục Thiền quán. Sau đó, ngài lại xin thêm một tuần nữa. Vua nói nếu lần này không có xá-lợi thì là yêu ma, sẽ bị giết.

Tới đúng 21 ngày, am tranh ngài tỏa hào quang ngũ sắc rực sáng. Ngài bưng xá-lợi vào triều. Ngô Tôn Quyền hỏi ngoài hào quang như thế, xá-lợi còn gì linh nghiệm không. Ngài nói xá-lợi thật cứng đến chày kim cương giã không bể. Ngô Tôn Quyền bảo giã thử xem và để xá-lợi lên khối sắt cho lực sĩ giã. Xá-lợi không bể, mà lực sĩ dội té và cái cối lún xuống. Vua sụp lạy, cho xây chùa Kiến Sơ để thờ xá-lợi.

Tất cả vật là vô thường, không bền chắc, nhưng xá-lợi Phật là công đức tu của Phật thì bền chắc đến chày kim cương của Bát bộ chúng đánh không bể, tiêu biểu cho công đức tu của Phật trường tồn miên viễn.

Tu theo Phật đúng như pháp, khi xả huyễn thân, chân thân tức phước đức và trí tuệ của hành giả bền chắc. Ý thức như vậy, chúng ta bỏ giả thân không bền chắc để được cái không hư hoại, bỏ sinh mạng ngắn ngủi này để có sinh mạng vô cùng. Đó là ý Phật dạy trong kinh Hoa nghiêm rằng chúng ta tu ngược về nguồn để gạn lọc vọng tâm tham đắm mà nhiều kiếp bám chặt mình. Cần sám hối cho tiêu nghiệp mới đem Phật pháp vào tâm. Tu đúng từng bước đi lên. Tu hình thức mà thực chất không có sẽ dễ bỏ cuộc.

Tóm lại, trên bước đường tu, ban đầu chúng ta chấp chặt thân vô thường sanh diệt nên khổ với nó. Trải qua quá trình tu Thanh văn, cởi bỏ được pháp sanh diệt, tức trần lao nghiệp chướng, được giải thoát và tiến lên hành Bồ-tát đạo. Lần lần Pháp thân Bồ-tát của chúng ta hiện ra và lớn lần theo mỗi kiếp tu hành, thì tái sanh, phước đức, trí tuệ chúng ta tăng trưởng, cho đến khi đầy đủ 32 tướng tốt, trí giác và tâm đại bi viên mãn, thành tựu quả vị Phật.
HT.Thích Trí Quảng

Đặt tâm đúng hướng

Đặt tâm đúng hướng

Đăng lúc: 20:46 - 24/09/2016

Nhiều người nghĩ rằng tu hành là do nơi tự tâm, nói cách khác là tu tâm. Nhưng tâm của con người thì muôn hình vạn trạng “công cũng đứng đầu mà tội cũng đứng nhất” nên biết tu tâm nào? Theo kinh nghiệm của Thế Tôn, tuy là tu tâm nhưng tâm phải đặt đúng hướng thì mới có thể xuyên thủng vô minh, thành tựu tuệ giác, chứng đắc Niết-bàn.


đặt tâm đúng hướng
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy các Tỷ-kheo:

- Ví như, này các Tỷ-kheo, sợi râu của lúa mì, hay sợi râu của lúa mạch bị đặt sai hướng, khi tay hay chân đè vào, có thể đâm thủng tay hay chân, hay có thể làm đổ máu; sự tình này không xảy ra. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì sợi râu bị đặt sai hướng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo với tâm bị đặt sai hướng, có thể đâm thủng vô minh, làm minh sinh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn; sự tình này không xảy ra. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì tâm bị đặt sai hướng.

- Này các Tỷ-kheo, ví như các sợi râu của lúa mì, hay sợi râu của lúa mạch được đặt đúng hướng, khi tay hay chân đè vào, có thể đâm thủng tay hay chân, hay có thể làm cho đổ máu; sự tình này có xảy ra. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì sợi râu được đặt đúng hướng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo với tâm được đặt đúng hướng, có thể đâm thủng vô minh, làm minh sinh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn; sự tình này có thể xảy ra. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì tâm được đặt đúng hướng.

- Ở đây, này các Tỷ-kheo, với tâm của Ta biết tâm một người là uế nhiễm, Ta rõ biết: “Nếu trong thời gian này, người này mệnh chung, người ấy bị rơi vào địa ngục như vậy tương xứng”. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì rằng tâm người ấy uế nhiễm.

Cũng do tâm uế nhiễm làm nhân như vậy, này các Tỷ-kheo, một số loài hữu tình ở đời, sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

- Ở đây, này các Tỷ-kheo, với tâm của Ta biết tâm một người là thanh tịnh, Ta biết rõ: “Nếu trong thời gian này, người này mệnh chung, người ấy được sinh lên Thiên giới như vậy tương xứng”. Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì rằng tâm người ấy thanh tịnh.

Cũng do tâm thanh tịnh làm nhân như vậy, này các Tỷ-kheo, một số loài hữu tình ở đời này, sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này.

(Kinh Tăng Chi Bộ I, chương 1, phẩm Đặt hướng và trong sáng, phần Tâm đặt sai hướng [trích])

LỜI BÀN

Nhiều người nghĩ rằng tu hành là do nơi tự tâm, nói cách khác là tu tâm. Nhưng tâm của con người thì muôn hình vạn trạng “công cũng đứng đầu mà tội cũng đứng nhất” nên biết tu tâm nào? Theo kinh nghiệm của Thế Tôn, tuy là tu tâm nhưng tâm phải đặt đúng hướng thì mới có thể xuyên thủng vô minh, thành tựu tuệ giác, chứng đắc Niết-bàn.

Một trong những đặc điểm của tâm là dịch chuyển, thay đổi rất mau lẹ như vượn chuyền cành, như ngựa phi ngoài đồng cỏ. Tâm thay đổi, sinh diệt trong từng sát-na nên việc hướng tâm, giữ tâm an trú vào thiện pháp là điều chẳng dễ dàng. Thường thì ban đầu ai cũng tinh tấn, hăng hái tu tập nhưng về sau cứ giải đãi, biếng nhác dần và không ít người thối thất.

Như cây lớn, cành lá nghiêng về hướng nào thì khi bị cưa chắc chắn nó sẽ ngã về hướng đó. Như râu của hạt lúa mì, lúa mạch, nếu đặt đúng hướng mới có thể đâm thủng bàn chân. Cũng vậy, tâm của chúng ta phải nghiêng về giải thoát mới hướng cuộc đời về tịnh lạc. Tâm của chúng ta phải hướng về Giới-Định-Tuệ, vì chỉ có tuệ giác mới có thể chọc thủng vô minh. Do đó, tâm người tu phải luôn hướng về và an trụ trong Chánh pháp mới mong thành đạo nghiệp.

Ngày nay, người tu tuy nhiều nhưng người thành tựu đạo nghiệp Thánh hiền thì không nhiều. Vậy nên “đặt tâm đúng hướng” cũng là một trong những vấn đề quan trọng mà mỗi người con Phật cần suy ngẫm và điều chỉnh để vượt thoát phiền não, thăng hoa tâm linh, thành tựu giải thoát, Niết-bàn.

Quảng Tánh

Tụng quyển 7, kinh Pháp Hoa

Tụng quyển 7, kinh Pháp Hoa

Đăng lúc: 18:56 - 10/09/2016

Phật dạy sanh làm người là điều khó, được gặp Phật pháp khó hơn và hiểu, ứng dụng Phật pháp vào đời sống tu hành cho đạt kết quả tốt đẹp càng khó hơn nữa.

Ngày nay trên thế giới có hơn sáu tỷ người, nhưng số người gặp được Phật pháp chưa tới 10%. Nhưng trong 10% số người gặp Phật pháp mà tin được thì không nhiều; vì gặp Phật pháp và tin Phật pháp do căn lành nhiều đời trước, nên sanh đời này, chúng ta mới gặp Phật pháp và tự nhiên tin Phật.
kinh-ph.png
Kinh Pháp hoa

Vào thời thơ ấu, lúc 6, 7 tuổi, tôi thấy bên cạnh nhà có người qua đời. Tôi nghĩ làm người sanh ra và chết thì uổng một kiếp người. Tôi biết suy nghĩ như vậy từ thuở nhỏ, thì may mắn tôi đọc báo Từ Bi Âm do thân phụ tôi mua. Phần lớn trong báo này nói về tiền thân của Đức Phật. Đó là tôi có duyên với Phật pháp, từ đó, tôi nghĩ về Phật, tin Phật và theo niềm tin đó, tôi đi tìm đạo.

Vào thời đó, người có căn lành tìm thầy dìu dắt tu hành đã khó, mà học đạo được càng khó hơn. Riêng tôi, nhờ căn lành đời trước, tự nhiên từ trong sâu kín tâm hồn, thường nghĩ đến Phật và tin Phật. Tuy nhiên, tin Phật và lạy Phật, ai cũng làm, nhưng đạt được kết quả không nhiều.

Người có căn lành và niềm tin ở Phật, siêng năng lạy Phật, tụng kinh, cũng tìm được sự an lành trong lòng, nhưng gặp thầy khai ngộ thì khó nữa. Vì vậy, học kinh, tụng kinh có phước, nhưng áp dụng được trong cuộc sống thì khó hơn.

Tôi may mắn có duyên với kinh Pháp hoa, vì từ 12 tuổi mà đã ra tới Tân An, gặp Hòa thượng Đạt Vương cho bộ kinh Pháp hoa bằng chữ Nho, tuy không đọc được, nhưng rất quý và phát tâm xuất gia, luôn ôm bộ kinh này theo. Vì không đọc được, không hiểu, nhưng nhờ căn lành làm tôi tin tưởng đây là vật quý giá.

Tới với Phật pháp, tin Phật và quan trọng là bước đầu tôi tìm đạo. Đầu tiên, tôi cũng tới tổ đình Giác Lâm, gặp Hòa thượng Viện chủ, sau đó qua Giác Viên gặp Hòa thượng Giáo thọ, đó là hai ngôi chùa duy nhất ở thành phố này vào thời đó có tụng kinh Pháp hoa chữ Hán.

Và thấy tôi ôm bộ kinh Pháp hoa, Hòa thượng nói chú có duyên với kinh này. Tôi nhắc Tăng Ni, Phật tử, ai có duyên với kinh Pháp hoa, tự nhiên quý trọng kinh và tin tưởng kinh, người đó sẽ được Phật hộ niệm, được Hộ pháp long thiên giữ gìn và Hộ pháp chỉ đường cho mình đi tầm sư học đạo.

Thật vậy, trong thời gian đó, tôi gặp một vị sư không biết tên, nhưng nói giọng miền Trung, nên được gọi là thầy Huế. Gặp tôi, ông nói chú đi ra chùa Phước Tường, gặp Hòa thượng Bửu Ngọc, có duyên học được. Chùa Phước Tường cũng thuộc tông môn của Giác Lâm chúng ta.

Và ở Phước Tường mấy tháng, ông thầy này trở lại chùa nói với tôi rằng chú có duyên với Hòa thượng Huê Nghiêm hơn. Trên bước đường tu có Bồ-tát chỉ đường là vậy.

Ở chùa Huê Nghiêm một năm, ông lại chỉ tôi muốn đi xa con đường đạo, nên vào Phật học đường Nam Việt. Và khi tôi tốt nghiệp xong, ông đến nói chú nên sang Nhật học.

Vì vậy, tôi có cảm giác Phật đã khiến vị thầy này đến chỉ đường cho tôi đi học đạo trong sự bình yên và thăng hoa. Nếu không có minh sư chỉ đường, lại gặp thầy tà, bạn ác thì thật khó tu.

Theo tôi, có niềm tin vững, được Phật hộ niệm, nên mình và Phật có sự gắn bó vô hình không nói được. Chính vì vậy, chúng ta thấy ai cũng tu, nhưng kết quả tốt thì không phải ai cũng được và kết quả của mỗi người cũng không giống nhau.

Và tôi gặp Hòa thượng Trí Tịnh dạy tôi kinh Pháp hoa. Ngài nói học kinh, nhưng phải hiểu nghĩa kinh. Tôi rất thích thú nghe ngài giảng kinh Pháp hoa và hiểu được nghĩa kinh là bước thứ hai, tôi có duyên với kinh Pháp hoa.

Phật tử tụng kinh Pháp hoa đòi hỏi chúng ta phải hiểu nghĩa lý trong kinh. Riêng tôi, hiểu được nghĩa kinh Pháp hoa và vào chùa Ấn Quang tu học, gặp cố Hòa thượng Trí Hữu là vị chân tu có niềm tin sâu sắc với kinh Pháp hoa. Mỗi ngày, Hòa thượng tụng một bộ kinh Pháp hoa xong, thì đốt một liều hương trên đầu để cúng dường Phật. Hết chỗ đốt trên đầu, Hòa thượng đốt hương lên hai cánh tay, hết chỗ đốt ở cánh tay, Ngài lại phát nguyện đốt bứt ngón tay. Ngài đã thể hiện niềm tin vững mạnh trong cuộc đời tu hành. Tôi hỏi ngài đốt như vậy có nóng không. Ngài nói nóng thì làm sao đốt được.

Có thể hiểu tu hành được Phật hộ niệm ở độ cao, mình bắt đầu vào định của kinh Pháp hoa, thì không bị sự chi phối của thân tứ đại, của xã hội và thiên nhiên. Thực tế cho thấy nhiều người tu, say mê tụng kinh, quên ăn, quên ngủ, không bị đói khát, nóng lạnh chi phối.

Người tu theo Nguyên thủy đạt đến sở đắc này, gọi là Dự lưu, tức vào dòng Thánh. Người tu Pháp hoa đến đây cũng vậy, sống ngoài khen chê, không ăn ngủ cũng không sao. Hòa thượng Thanh Kiểm nói lúc đói, không có gì ăn, thì uống nước quên đói. Ai có căn lành, có niềm tin cảm nhận được ý này. Riêng tôi, khi say mê nghiên cứu Phật pháp, thấy được điều lạ là suốt ngày không ăn, cũng không nghĩ đến ăn, nhưng không thấy đói.

Người tụng kinh không đói, vì thâm nhập pháp Phật, nên Pháp thân hiện ra, khiến cho người khác nhìn thấy pháp Phật ẩn bên trong con người bằng xương thịt của họ. Còn mình cũng tu và nghĩ rằng mình phải làm việc nào đó để cho người quý trọng, nhưng không được quý trọng thì buồn.

Thực tu, không cần ai nghĩ đến mình, không cần ai quý trọng mình. Nhưng một ngày mình sống với pháp là ngày đó, Pháp thân Phật đã hiện ra, thì kinh Pháp hoa, Đức Phật nói rằng người đó đã đến đạo tràng, trong thân của họ có sẵn Đức Phật. Ông bảo trời người phải nên cúng dường như cúng chư Phật.

Điển hình cho ý này, đó là Phật Thích Ca, Ngài là thái tử, nhưng trong tâm thái tử đã có Phật, nên Ngài hiện tướng Phật. Vì Ngài là Phật thiệt, nên hiện tướng Phật suốt 49 năm giáo hóa độ sanh, không thay đổi. Còn chúng ta chỉ có một niệm tâm thanh tịnh, hay một ngày thanh tịnh mà thôi, thì niệm tâm đó có Phật, ngày đó có Phật. Và sau đó, nếu nghĩ đến ăn, Phật biến mất và mình trở thành ngạ quỷ.

Hòa thượng Thiện Tường khi còn sanh tiền, chuyên tụng kinh Pháp hoa. Ngài nói rằng không cần gì, chỉ muốn tu, nhưng người ta đem cúng tiền, gạch ngói, bắt buộc phải làm. Nhưng đến khi Hòa thượng dấn thân làm thì thiếu trước hụt sau.

Tôi phát hiện những gì mà mình khởi tâm vọng niệm, Phật liền biến mất, giữ tâm thanh tịnh, Phật xuất hiện. Vì vậy, giữ được Phật trong lòng, không có cảm giác đói, khát, nóng, lạnh. Người tụng kinh Pháp hoa có kết quả, thâm nhập ý kinh, tụng suốt ngày, không khát nước, nhưng có cảm giác có nước ngọt trong cổ và âm thanh còn tốt hơn. Còn người vừa tụng kinh vừa uống nước, hoặc tụng kinh thấy đói, vì chỉ tụng trên đầu môi chót lưỡi bộ kinh bằng giấy trắng mực đen thôi.

Và tụng kinh, dù trời nóng 40 độ, nhưng không thấy nóng, đó là đã vào cửa đạo. Bình thường, ngồi một chút thấy nóng và thấy nóng rồi lại thấy nóng hơn. Người tu ngồi yên trong chánh niệm, không cảm giác nóng lạnh. Tôi gặp nhà sư Ấn Độ ở Ý. Vào mùa đông, tôi phải mặc hai, ba lớp áo vẫn lạnh. Ông này chỉ mặc một áo. Tu hơn nhau ở điểm đó.

Người thâm nhập đạo, gọi là Nhập lưu, tức vào dòng thác trí tuệ, nên không kẹt vào xã hội, không bị thiên nhiên chi phối, là xuất thế. Thực tu sẽ đạt được kết quả này. Nếu không tới chỗ này, mà cứ nghĩ theo vọng tưởng những cách khác, cuộc đời tu cũng chẳng được gì. Cần nỗ lực thực tập pháp Phật miên mật, đúng đắn, chắc chắn gặt hái được sở đắc, sở chứng mà kinh thường ví như người uống nước mới biết nước nóng lạnh thế nào.

Hòa thượng Huê Nghiêm nói Tổ Huệ Đăng dạy không cần tụng hết bộ kinh Pháp hoa, chỉ tụng quyển thứ 7 của bộ kinh này. Thiết nghĩ người đi trước chứng ngộ, thấy được điều mà người phàm không thấy, nên họ dự vào hàng Thánh, tức họ cũng là người, nhưng được quý trọng như Thánh. Tu hành khác nhau ở điểm đó.

Tôi suy nghĩ tại sao Tổ dạy tụng quyển 7 kinh Pháp hoa và phát hiện những điều kỳ vĩ mà Phật đã dạy trong quyển 7. Ai có nhân duyên căn lành sẽ nhận ra.

Quyển 7 kinh Pháp hoa đầu tiên nói về tiền thân của Bồ-tát Dược Vương, gọi là Dược Vương Bồ-tát Bổn sự. Bổn sự là việc làm của Bồ-tát ở kiếp trước mà tạo nên thành quả trong kiếp này, vì tất cả việc của quá khứ đều hiện ra trong hiện tại. Thí dụ đọc kinh Bản sanh thấy rõ do nhiều đời hành Bồ-tát đạo mà Phật Thích Ca thành tựu quả vị Phật. Và Đức Phật đã dạy Bồ-tát pháp hành này, mở đầu là Bồ-tát Dược Vương.

Kiếp trước Ngài Dược Vương được tôn danh là Nhứt thiết chúng sanh Hỷ kiến Bồ-tát, nghĩa là tất cả chúng sanh đều muốn thấy vị Bồ-tát này và thấy Ngài, họ vui mừng.

Trên thực tế, có người mà mình muốn thấy, có người mình không muốn thấy. Có người mình thấy thì được an lạc. Kinh Pháp hoa nói rõ lý này rằng ai thấy người này, tâm được an. Vì vậy, ai gặp mình mà khó chịu, phiền não thì mình chưa phải là hành giả Pháp hoa.

Tại sao mọi người muốn thấy Bồ-tát Dược Vương. Hiểu sâu là Ngài có ba nghiệp hoàn toàn thanh tịnh, không làm việc ác, không nghĩ điều ác, không nói lời ác.

Người mà thân nghiệp không thanh tịnh, phạm tội sát, đạo, dâm; khẩu nghiệp phạm tội nói không đúng sự thật, nói lời hung ác, nói lời gây chia rẽ, nói thêm bớt, bịa đặt. Chắc chắn chẳng ai muốn giao lưu với người như vậy. Và ý nghiệp thanh tịnh, không tham, sân, si.

Thể hiện cốt lõi này, Phật khuyên người tu Pháp hoa phải giữ ba nghiệp thanh tịnh. Nếu không giữ ba nghiệp thanh tịnh, dù có tụng kinh nhiều, chưa chắc đạt được kết quả tốt.

Trong ba nghiệp thân, khẩu, ý, quan trọng là ý chỉ đạo hành động. Tôi thấy điều này rõ, khi tâm mình thanh tịnh, thương người mới có lời nói dễ thương. Tâm mình không thích, nói gì cũng không tốt như viên thuốc đắng bọc đường.

Phát xuất từ tâm thanh tịnh, nên họ nói, hay rầy la, mình vẫn thấy tốt. Điển hình là Phật, không phải lúc nào Ngài cũng nói ngọt với Tỳ-kheo, nhưng lời giáo huấn của Phật toát ra tâm từ bi vô lượng chỉ muốn cứu độ mọi người, nên đại chúng cảm động, thành tâm tiếp nhận lời Phật dạy.

Tu Pháp hoa, đầu tiên phải giữ ba nghiệp thanh tịnh. Cốt lõi này được thể hiện qua hình thức pháp y trong ruột màu trắng tiêu biểu cho sự thanh tịnh và bên ngoài màu vàng là Phật pháp. Lấy Phật pháp, lấy kinh bọc tâm mình lại. Hễ tâm còn thanh tịnh, Phật còn hộ niệm. Nếu quên Phật pháp, muốn làm gì là việc của mình, Phật không hộ niệm.

Tâm đặt trong Phật pháp, trong kinh Pháp hoa là ngày đó tâm còn trong sạch nhờ lấy Phật pháp rửa tâm. Tôi tụng kinh là lấy pháp rửa sạch lòng trần thì sẽ hiện tướng giải thoát và lời nói trong sạch.

Tu hành, nghĩ đến Bồ-tát Dược Vương là nghĩ làm sao người thương và chấp nhận ta, đó chính là hành Bồ-tát đạo. Việc khởi tu của tôi, bước đầu cố gắng tối đa không làm mất lòng người, lời nói và hành động không mất lòng người. Còn Phật tử tu mà dụm lại nói chuyện, gây ra phiền não, thì Phật không hộ niệm. Phải nhớ lúc nào cũng lấy Phật pháp rửa lòng mình.

Trên Pháp y lần đầu có hoa sen 8 cánh tiêu biểu cho Bát Chánh đạo, vì trong Phật pháp căn bản là 37 Trợ đạo phẩm, kết thúc là Bát Chánh đạo chủ yếu gồm có lời nói đúng, thấy đúng, suy nghĩ đúng, việc làm đúng và việc làm lợi ích cho người.

Về sau, Pháp y có 7 hạt tiêu biểu cho Liên hoàn Thủ hộ. Số 7 là con số lý tưởng của Phật giáo. Hình thành vũ trụ và con người cũng từ con số 7 tiêu biểu cho Pháp giới. Khi kiết thất cũng 7 ngày và tụng kinh cầu siêu cho người qua đời cũng 7 ngày, 7 tuần.

7 hạt xếp thành hình vòng tròn cách đều nhau nói lên ý nghĩa tu hành trong đại chúng, tất cả mọi người là bạn đồng tu tương thân tương trợ, không chống phá nhau. Mình đứng giữa có 6 người xung quanh đứng cách đều nhau, ai cũng có khoảng cách trống, thì dễ tụng kinh và lễ lạy không đụng nhau. Cách sắp xếp vị trí hành lễ như vậy dễ làm mình thanh tịnh, vì hoàn cảnh thanh tịnh sẽ giúp tâm mình thanh tịnh. Ngày xưa, các chùa ở rừng núi, nên cảnh hoàn toàn thanh tịnh, tâm dễ dàng thanh tịnh theo. Cảnh động, con người dễ động tâm.

Vùng chùa Huê Nghiêm sình lầy, xây dựng chùa phải đóng cừ sâu tới 30m để chân móng được vững chắc và vùng này cũng không có đá. Tôi phải lên núi Thị Vải chở đá về. Nhìn đá gan lì, chịu được nắng mưa, tiêu biểu cho ý chí tu hành vững như đá. Tu mà không gan dạ để chịu đựng mọi chướng duyên, chắc chắn không thể ra khỏi sinh tử. Vì vậy, tôi chở đá về chùa Huê Nghiêm để nhìn đá mà lập chí tu hành.

Xung quanh chùa Giác Lâm có cây xanh tiêu biểu cho sức sống. Ở trong rừng cây mà tụng kinh, tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Vì vậy, cần tìm chỗ thích hợp để tu thì đạt kết quả dễ hơn. Đương nhiên người đắc đạo ở đâu cũng được, nhưng lúc đầu phải có chỗ đặt tâm vô. Cho nên chúng ta thấy chư Tổ thường lên núi rừng sâu, tránh xa người, tâm dễ thanh tịnh.

Tôi có thời gian ẩn cư ở núi không có người, chỉ có một mình, khỏi phải đối đãi, tính toán làm cái này cái kia, khiến cho tâm mình dễ thanh tịnh. Ở chốn phồn hoa đô thị, ta phải tùy thuộc xã hội và tùy thuộc người, tâm dễ bị rối.

Phẩm Dược Vương Bồ-tát nói Bồ-tát này được như ngày nay, vì Ngài không làm mất lòng người, chỉ làm vừa lòng người và giúp đỡ người, nên Dược Vương thành tựu pháp Nhứt thiết chúng sanh Hỷ kiến.

Vì vậy, pháp Bồ-tát, hay tu Pháp hoa, không làm mất lòng người, nhưng giúp đỡ người, nếu có điều kiện. Nếu không làm cũng được, nhưng kết quả không cao.

Tiến lên bước nữa, theo phẩm Diệu Âm Bồ-tát. Ngài không ở Ta-bà, nhưng khi Phật Thích Ca phóng hai hào quang từ vô kiến đảnh tướng và bạch hào tướng chiếu thẳng đến Diệu Âm, Ngài liền từ thế giới của Ngài qua Ta-bà. Kinh diễn tả là chúng hội không thấy Ngài, nhưng thấy hoa sen. Điều này thể hiện ý nghĩa Bồ-tát vào đời giáo hóa chúng sanh được ví như hoa sen tỏa hương thơm cho người. Cảm nhận hạnh cao quý của Bồ-tát khi đọc phẩm này, tôi cảm tác bốn câu thơ:

Bồ-tát đi vào đời

Sen nở khắp muôn nơi

Trang nghiêm cho cuộc sống

Ôi thật đẹp tuyệt vời.

Nghĩa là Bồ-tát xuất hiện bất cứ chỗ nào cũng trong sạch như hoa sen ở trong bùn. Nói cách khác, Phật pháp muốn hưng thạnh, dù cuộc đời có tệ hại, nhưng ta không tệ, giống như Diệu Âm đến Ta-bà hoàn toàn thanh tịnh.

Thể hiện ý này, Tổ Thiên Thai khuyên chúng ta không nên vào đời như bùn nhơ tội lỗi, nhưng tại sao chúng ta vào đời. Rõ ràng vì để thể hiện hạnh cứu khổ độ sanh theo Phật dạy mà chư Bồ-tát hiện thân trên cuộc đời này.

Đức Phật muốn mời Diệu Âm đến Ta-bà, Ngài phóng hào quang từ vô kiến đảnh tướng, nghĩa là muốn mời khách quý, lòng chúng ta phải cung kính. Dù Phật lớn hơn Diệu Âm, nhưng Ngài cũng mời Bồ-tát này với tâm cung kính. Xem thường người, làm sao họ tới được.

Diệu Âm nói rằng ai mời không đi cũng được, nhưng Phật Thích Ca mời, nhất định phải đi, dù cực khổ. Điều này cho chúng Ta-bài học rằng trên bước đường hành đạo, phải có bạn sống chết với mình. Muốn như vậy, phải cung kính người, dù họ nhỏ hơn mình.

Phật Thích Ca có vô kiến đảnh tướng, vì trải qua vô lượng kiếp tu hành, Ngài không xem thường ai. Điển hình như trong một kiếp quá khứ, Ngài là Thường Bất Khinh Bồ-tát, dù người tệ ác thô lỗ với Ngài, nhưng Ngài cũng một lòng kính trọng họ, nghĩa là kính trọng ông Phật trong tâm họ. Nhờ tâm kính trọng mọi người như vậy trải qua nhiều đời mà Phật Thích Ca có được vô kiến đảnh tướng. Trong khi thực tế, chúng ta thường thấy người giỏi hay xem thường người khác, nên họ chẳng được tôn kính và không ai muốn hợp tác.

Ngoài ra, Đức Phật phải phóng hào quang thứ hai từ bạch hào tướng tiêu biểu cho trí tuệ. Thật vậy, dù mình kính trọng người, mời họ, nhưng họ nghĩ mình không hiểu biết thì họ cũng không đến.

Vì vậy, hành Bồ-tát đạo, phải phát huy hiểu biết và tâm quý trọng người, vì có đủ hai điều này, người mới hợp tác với ta.

Tụng kinh, hiểu nghĩa lý kinh và phải làm theo Bồ-tát là điều quan trọng.

Vị Bồ-tát thứ ba là Quan Âm rất dễ thương. Ở hoàn cảnh nào, Ngài cũng tùy thuận được. Học hạnh Quan Âm, ở đâu mình cũng chịu lép và sống hòa thuận thì ai cũng thương.

Tổ Huệ Đăng khuyên chúng ta tụng một quyển thứ 7 kinh Pháp hoa là làm theo các Bồ-tát Dược Vương, Diệu Âm, Quan Âm, chúng ta mới được yên ổn trong cuộc sống.

Cao hơn nữa, ta theo Bồ-tát Phổ Hiền, nhưng chúng ta không thể giống Phổ Hiền, vì Ngài Phổ Hiền quá siêu việt. Quyến thuộc Bồ-đề của Ngài quá đông, quá tốt và làm được rất nhiều việc lớn.

Thật vậy, Phổ Hiền đến đâu, rải của báu đến đó. Kinh diễn tả rằng Phổ Hiền dùng sức thần thông tự tại, oai đức vô song, cùng chúng Bồ-tát, Bát bộ, Thiên long vượt qua các cõi, đến Kỳ Xà Quật…

Muốn được như Phổ Hiền, phải tu mười hạnh nguyện Phổ Hiền. Bồ-tát Phổ Hiền trong kinh Hoa nghiêm là nhân và Phổ Hiền trong kinh Pháp hoa là quả.

Tóm lại, chúng ta tu, đọc kinh, xem Bồ-tát làm gì mà được gọi là Bồ-tát, để từng bước chúng ta làm theo và được giống như các Ngài. Các Ngài hỗ trợ ta, vì ta làm thay các Ngài. Các Ngài không có thân tứ đại, nên không làm được, nên Ngài hợp tác cho ta làm.

Theo kinh nghiệm của tôi, thành tựu được việc khó là nhờ Bồ-tát gia hộ. Mong quý vị phát tâm tu Pháp hoa, đọc kinh, suy nghĩ và áp dụng đúng pháp để nhận được kết quả tốt đẹp. Cầu Phật gia hộ cho mọi người được an lành trên bước đường tu.
HT.Thích Trí Quảng

Dấu ấn những ngôi chùa linh thiêng ở Luang Prabang

Dấu ấn những ngôi chùa linh thiêng ở Luang Prabang

Đăng lúc: 06:30 - 30/06/2016

Ảnh: DulichVTV
Dấu ấn của Phật giáo để lại rõ nét nhất chính là những mái chùa làng linh thiêng có mặt khắp nơi trên đất nước Triệu Voi.
Kỳ 1: Đường đến đất nước Triệu voi và cánh đồng chum bí ẩn

Kỳ 2: Động Phật Pak Ou linh thiêng và kỳ bí

Cũng giống như một số quốc gia lân bang, Phật giáo được du nhập vào Lào từ rất sớm.

Lịch sử ghi lại rằng, vào khoảng thế kỷ thứ VIII sau Công Nguyên, một nhóm người Môn, một tộc người có xuất nguồn ở khu vực biên giới Thái Lan và Myanmar, đã di cư xuống vùng đất Tây Lào.

Ngoài kinh Phật và những vật phẩm liên quan đến Phật giáo ra, trong hành trình di dân lịch sử này, những người Môn còn mang theo những tu sĩ am hiểu Phật giáo từ Srilanka và tại đây họ đã truyền bá Phật pháp Tiểu thừa Theravada cho cư dân bản địa. Đến thế kỷ XIII, công việc truyền bá Phật giáo đến vùng đất này cơ bản đã hoàn tất.

Sau hơn 1.500 năm tồn tại song hành cùng lịch sử dân tộc, Phật giáo với tinh thần bao dung, quảng độ đã từng bước thẩm thấu và trở thành một phần không thể thiếu trong tiến trình phát triển của dân tộc Lào. Cho đến ngay nay, dấu ấn mà Phật giáo để lại rõ nét nhất chính là những mái chùa làng có mặt khắp nơi trên đất nước này.
Skip in 6...Ad finishes in 15 seconds

Theo con số thống kê, hiện nay ở Lào có khoảng 6.300 ngôi chùa lớn nhỏ nằm rải rát trên khắp đất nước. Và mỗi ngôi chùa, tùy theo vị trí tọa lạc, đặc điểm dân cư mà nó mang trong mình một trọng trách, một chức năng rất riêng.

Tọa lạc trên đại lộ Si - Sa- Vang -Vong, cạnh tòa nhà bảo tàng hoàng gia Luang Prabang, nơi xưa kia là cung điện, là trung tâm kinh tế- văn hóa của quốc gia này trong một thời gian dài nên chùa Wat Mai Suwannaphumaham có một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của cổ thành này.

Được xây dựng vào năm 1780 bởi vua A-Na-Rút của Vương quốc Luang Prabang, chùa Wat Mai Suwannaphumaham một thời được xem như là ngôi chùa dành riêng cho Hoàng Gia và giới quý tộc, các thương gia giàu có.

Trong khi nhiều ngôi chùa khác bị phá hủy trong cuộc chiến giữa vương quốc Luang Prabang và đội quân cờ đen, một nhóm vũ trang được bị triều đình phong kiến Trung Quốc thời bấy giờ xếp vào dạng phản loạn, vào năm 1887, thì chùa Wat Mai Suwannaphumaham hầu như vẫn giữ được nét kiến trúc nguyên thủy vốn có và đó chính là lý do mà ngôi chùa này trở nên thiêng liêng đối với người dân cố đô.


Wat Mai Suwannaphumaham, ngôi chùa linh thiêng của những người dân buôn bán - Ảnh: wikipedia
Như đã nói, do nằm ngay vị trí trung tâm của cố đô xưa, nên chùa Wat Mai Suwannaphumaham bao đời nay được xem như là điểm tựa tâm linh dành riêng cho những người buôn bán.

Bao thăng trầm của lịch sử đã đến rồi đi, song dấu tích về vai trò dẫn dắt thương mại của ngôi chùa Wat Mai Suwannaphumaham dường như vẫn còn đó thông qua hàng loạt những bức tranh được các họa sĩ Phật giáo cẩn thận khắc in vào tường.

Và có lẽ, đó cũng chính là lý do mà ngôi chợ Luang Prabang bao đời nay vẫn tồn tại một cách lặng lẽ dưới bóng ngôi cổ tự linh thiêng mặc cho biến thiên của thời gian và thời cuộc.

Người dân địa phương cho biết, trước đây chợ chỉ họp ban ngày.

Tuy nhiên, khi mà cố đô Luang Prabang được Unesco công nhận là thành phố di sản, ngành công nghiệp du lịch phát triển thì ngôi chợ này chuyển sang họp vào ban đêm để phục vụ cho khách du lịch.


Kiến trúc bên trong chùa

Tượng Phật - Ảnh: wikipedia
Mặc dù có sự thay đổi về thời gian, song không gian của ngôi chợ vẫn không hề thay đổi, vẫn lặng lẽ thu mình bên mái chùa làng linh thiêng của các thế hệ tiểu thương bản địa.

Và cũng giống như những ngôi chợ mà chúng tôi có dịp tiếp cận trong hành trình khám phá đất nước Triệu Voi, cung cách buôn bán ở ngôi chợ đêm này diễn ra trong một không gian khá bình lặng, giống như lối sống thường nhật của đại bộ phận người dân trên mảnh đất này.

Bân cạnh chùa chùa Wat Mai Suwannaphumaham ra, ở cố đô Luang Prabang còn có một ngôi chùa khác cũng có vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của của thành phố, đó là chùa Wat Xieng Thong.

Nếu như chùa Wat Mai Suwannaphumaham được ví như là biểu tượng dành cho giới tiểu thương thì Wat Xiêng Thong được xem như một bảo tàng nghệ thuật, nơi lưu giữ những tinh hoa kiến trúc, nghệ thuật hội họa của Phật giáo nói riêng và của dân tộc Lào nói chung.

Nằm ở cuối đường Sakkarin, gần với ngã ba tiếp giáp giữa sông Mê Kông và sông Nam Khan, chùa Wat Xiêng Thông được xây dựng năm 1560 dưới thời vua Setthathirat.

Cùng với chùa Wat Mai Suwannaphumaham, chùa Wat Xieng Thong là một trong hai ngôi cổ tự được Đội quân cờ đen không cho phá hủy vào năm 1887.


Chùa Wat Xieng Thong
Tương truyền, sở dĩ ngôi chùa Wat Xieng Thong không bị phá hủy là do một trong những thủ lĩnh của đội quân này có một thời gian tu tập ở đây trước khi gia nhập lực lượng này.

Chùa Wat Xieng Thong có khuôn viên khá rộng với nhiều hạng mục lớn nhỏ, bao gồm một chánh điện mang phong cách kiến trúc đặc trưng của Luang Prabang cổ với mái lợp ba tầng hạ sâu hướng về mặt đất.


Ngoài cổng chùa
Bên ngoài khu vực chánh điện, người xưa cho xây dựng một số nguyện đường nhỏ, mang phong cách kiến trúc pha lẫn giữa lối kiến trúc đặc trưng của dân tộc Lào và kiến trúc Phật giáo tiểu thừa Theravada và là nơi khi xưa, các nhà sư dùng làm nơi tịnh tâm nghĩ về đạo pháp trong mùa an cư kiết hạ.

Bên cạnh kiến trúc độc đáo trường tồn qua hàng thế kỷ ra, chùa Wat Xiêng Thông còn khiến nhiều người ngạc nhiên với hàng loạt bức tranh đa sắc màu về lịch sử Phật giáo và lịch sử dân tộc. Tất cả đều được các họa sĩ cẩn thận dùng miễng sành, sứ lắp ghép lại với nhau hoặc trực tiếp vẽ lên tường. Đây được xem như là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo vào loại bậc nhất trên đất nước Triệu Voi.


Tượng phật bên trong chùa - Ảnh: Visit Laos
Cũng giống như nhiều dân tộc sống trên ban đảo Đông Dương, trước khi đạo Phật xuất hiện, cư dân cổ có khuynh hướng đa thần. Và khuynh hướng ấy vẫn âm thầm tồn tại bên cạnh đạo Phật cho đến ngày nay.

Và đó là lý do mà trong ngôi nhà này, người ta cho lưu giữ rất nhiều bức tượng, tranh vẽ về các vị thần trong truyền thuyết của các dân tộc Lào bên cạnh những bức tượng Phật có tuổi đời hàng trăm năm tuổi.

Thời gian trôi qua, lịch sử dân tộc Lào trải qua nhiều biến động, song tính cách hiền hòa của người dân Lào dường như không thay đổi. Đây là một minh chứng rõ nét cho thấy giá trị của đạo Pháp dường như đã trở thành thành tố quan trọng hình thành nên giá trị con người ở đất nước này, cho dù họ là ai, làm nghề gì.

Và trong quá trình hình thành nên giá trị con người Lào hàng ngàn năm qua có vai trò của những mái chùa làng. Lưu giữ ký ức của những ngôi chùa mang trên mình nét đặc trưng riêng như chùa Wat Mai Suwannaphumaham và chùa Wat Xiêng Thong là một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân trên đất nước Triệu Voi.

Nguyễn Minh

Buông bỏ - Thành tựu pháp Không - Hành Bồ-tát đạo

Buông bỏ - Thành tựu pháp Không - Hành Bồ-tát đạo

Đăng lúc: 20:18 - 13/06/2016

Phật tu, buông bỏ tất cả, chỉ có một bình bát, một ca-sa, nhưng mọi người kính trọng Phật.
GN - Đức Phật là vị đại lương y, chỗ chứng ngộ của Phật, hiểu biết của Phật không thể đem dạy người. Ý này Phật khẳng định trong kinh Pháp hoa rằng Ngài không thể nói chân lý, vì chúng sanh không hiểu được, sẽ sanh tâm hủy báng.
Có thể chia mọi người trên cuộc đời này thành ba bậc. Bậc một là chúng sanh ở trong sáu đường sinh tử luân hồi, Phật nói họ như người mù, đương nhiên không làm được gì. Vì vậy, họ phải lo chữa bệnh trước, ví như người bị trúng tên độc, phải nhổ mũi tên và chữa lành vết thương, còn lo tìm nguyên nhân ai bắn tên, có mục đích gì, thì chưa nghĩ ra được đã chết.
Đối với chúng sanh trong sáu đường sinh tử, Phật chữa cho họ thoát khỏi bệnh nghiệp, nên Ngài nói Đạo đế, đó là phương thuốc chữa bệnh cho tất cả mọi người ra khỏi sinh tử luân hồi. Vì vậy, dù tu pháp môn nào cũng phải kiểm chứng xem chúng ta có được thành quả này hay không.
Tại sao chúng ta khổ, phải có phương pháp trị liệu là Đạo đế, Khổ đế là nghiệp bệnh của chúng ta. Kết hợp Khổ đế và Đạo đế để chúng ta tu. Phật nói có 84.000 pháp môn tu, bệnh nào có thuốc đó.
Đầu tiên, Phật dạy người tu phải buông bỏ. Không buông bỏ, dù tu pháp gì cũng sẽ bị đọa. Phật tử sai lầm nghĩ mình tu Pháp hoa, hay tu Thiền cao siêu, nhưng cố chấp, không buông bỏ, thì cố chấp nhiều sẽ khổ nhiều, rồi than tại sao tu mà khổ, đó là uống lầm thuốc, nguy hiểm. Thí dụ người bị cảm phải giải độc trước, dùng thuốc tẩy độc trong cơ thể, nhưng không đẩy được chất độc ra, mà cho thuốc bổ vào là chết. Cũng vậy, tu sai, cuối cùng bị đọa.
Thầy có người bạn khoe rằng đã tụng một trăm bộ kinh Pháp hoa, nghĩ rằng mọi việc sẽ tốt, nhưng không tốt, làm không được tiền, không có nhà ở, tìm nhà trọ cũng không ra. Ông hỏi tại sao tụng một trăm bộ kinh Pháp hoa mà còn khổ hơn lúc chưa tụng kinh. Thầy nói anh đã uống lầm thuốc, thấm vào tim, gan, não rồi. Phải lo giải quyết bệnh tim, gan, não trước.
Phật biết chúng sanh mắc bệnh chấp là nghiệp nhiều, nên Phật dạy phải phá chấp, làm sao lòng chúng ta trống hết. Nghĩa là đầu tiên, chúng ta phải nghĩ rằng mình không là gì hết, dù tụng một ngàn bộ kinh cũng chưa được gì khi còn ôm một khối nghiệp chấp.
Điều chính yếu là pháp Phật dạy chúng ta giải thoát. Nếu tu lâu mà cố chấp nặng, thực tế là tuổi lớn, ở chùa lâu, gặp người nhỏ tuổi xem thường, mình dễ buồn giận. Thầy thường kiểm chứng khi người xúc phạm, mình có thanh thản không, phải trở về pháp căn bản là quán không. Không này từ trí giác của Phật mà ra. Sống với bản giác, hay chơn tâm, mới trụ pháp không, thấy mình không là gì.
Kinh nghiệm của Phật cho chúng ta thấy, Ngài giàu nhất, thông minh nhất, hảo tướng nhất, khỏe mạnh nhất… Tất cả cái gì Phật cũng nhất, nhưng Ngài ôm bình đi khất thực, sống chung với Sa-môn nghèo đói, lang thang. Có thời gian thầy tu cũng tập hạnh đầu-đà để xả ly. Khi mới đi khất thực, thầy cũng cảm thấy xấu hổ, tự ái, liền cắt bỏ cảm nghĩ phiền não này. Trên bước đường tu, trải qua năm năm, mười năm, không buồn giận, lo sợ, an trú pháp Không. Đụng chạm nhiều tất yếu sanh phiền não, nhưng mình cắt bỏ lần, cho đến không còn gì tác hại được tâm mình.
Năm 1975, có người nói thầy chết đến nơi mà không lo. Lúc đó, thầy đang thể nghiệm pháp tu Thiền, đang quán pháp Không, coi sống chết bình thường. Bạn thầy lo sợ quá, vượt biên, chết trên biển. Người khác vượt biên được, nhưng ở nước ngoài rồi cũng chết. Đến lúc chết thì lo cũng chết, nhưng lo sợ mà chết dễ bị đọa. Tâm hồn sợ hãi, hốt hoảng là cửa địa ngục mở ra. Lo tính đủ cách, nhưng không thoát, đọa ngạ quỷ. Tim cách đối phó, nhưng không được, đọa A-tu-la.
Tu pháp Không là không buồn, giận, lo, sợ, đó là nguyên tắc đầu tiên mà Phật dạy ra khỏi sinh tử. Chỉ giữ tâm thanh tịnh, nếu chết, ta về Phật được. Nói cách khác, thầy chuẩn bị chết nhiều hơn sống, nhưng không chết. Bây giờ, thầy cũng chuẩn bị sẵn để chết, vì Phật dạy thở ra mà không hít vào là chết. Chuẩn bị là giữ tâm thanh tịnh, lúc nào cũng có Phật, thì chết chắc chắn về Phật.
Pháp căn bản là Tứ niệm xứ, vì vậy, không đạt được thành quả từ pháp tu này, tất cả việc khác đều trở nên vô ích. Chất độc trong người phải giải. Độc phát xuất từ lòng tham, tham muốn ngũ dục, ham tiền, ham sắc, ham danh, ham ăn, ham ngủ. Càng ham nhiều thì khổ nhiều, không ham không khổ, dứt khoát như vậy.
Phật bỏ ngai vàng, danh lợi, tài sản…, coi có tiếc không. Bỏ hết, không bị những thứ này chi phối là quá trình tu của Phật và Ngài dạy mình cuối cùng bỏ luôn khen chê bên ngoài của thiên hạ để xem lòng mình có bị tác hại không, tâm phải thanh thản. Mình không làm việc xấu, nhưng họ dán lên mình thì “tức chết”. Phải bỏ cái “tức chết”.
Phật dạy nếu mình kiểm chứng thấy họ nói đúng, thì phải coi họ là thầy chỉ lỗi cho mình, nên phải sửa đổi. Còn tu, cứ nghĩ rằng mình đúng, họ nhỏ nhưng chỉ thẳng nghiệp mình, phải cám ơn họ, nhờ họ mà mình không tái phạm lỗi đó nữa.
Theo Phật giáo Nguyên thủy, Đề Bà Đạt Đa hại Phật đủ cách, nhưng trong kinh Pháp hoa, Phật nói Đề Bà Đạt Đa là ân nhân của Phật, vì có Đề Bà Đạt Đa làm đối tượng để Ngài tự rèn luyện tâm hoàn toàn trong sạch. Nếu không có thử thách làm sao biết mình trong sạch hay không.
Trong cuộc đời hành đạo của Đức Phật, người ngoại đạo chê trách Phật, sau này họ trở thành đệ tử Phật và trung thành với Phật, vì cảm thấy hối hận đã nói xấu để hại Phật.
Theo thầy, người nói lỗi mình không đúng, buộc lòng họ phải nói lại. Thực tế cho thấy, khi nghe nói sai về mình, người ta thường tìm đến coi thực hư ra sao, nhưng thấy mình tốt thì họ cũng theo mình.
Ngoại đạo nói xấu Phật, người tìm đến Phật, rồi quy y Phật. Như vậy, nói xấu cũng như quảng cáo cho mình. Chỉ sợ mình xấu, nhưng người ta lại nghĩ mình tốt. Phải sợ phạm lỗi lầm mà biết sửa mình. Họ nói mình tốt, nhưng chưa tốt thì phải ráng sao cho mình tốt.
Phật ví thân tứ đại ngũ uẩn như chiếc áo dơ bẩn có chứa viên ngọc quý bên trong, nghĩa là chân tâm mình bị ngũ uẩn bao che, làm mình không sáng suốt. Tất cả người tu sám hối là chữa bệnh, tức giặt áo dơ thì thân tâm mình sạch. Nhưng làm sao biết đã sạch. Muốn biết, Phật nói lấy xã hội làm tấm gương soi bóng. Nếu mình tốt thiệt, người ta sẽ cư xử tốt với mình. Cứ xem phán đoán của người mà biết mình thế nào.
Phật bảo tu hành phải nhìn vô, đừng nhìn ra. Vì vậy, tu phải thấy lỗi mình, không thấy lỗi người, vì thấy lỗi người, mình sẽ khi dễ họ là tâm ác mình sanh ra, thì về sau mình cũng sẽ phạm lỗi như họ vậy. Nhiều lúc, thầy nghĩ lắng lòng xuống để nhận xét, thấy người nói đúng, mình phải sửa cho mình đúng, thì người sẽ không nói được, hay có nói cũng không ai nghe.
Làm sao giặt giũ thân và tâm cho sạch và tâm sạch, Phật nói sẽ hiện hảo tướng. Đức Phật có 32 tướng tốt. Ai cũng là người, nhưng người hiện hảo tướng là do giữ giới, tức những gì mà người không thích thì mình không làm, điều gì người quý, mình cố gắng làm.
Nhiều người hiểu lầm hảo tướng là tướng tốt thiệt, nhưng hảo tướng luôn biến đổi, làm tốt thì người kính trọng, mai kia làm dở, họ không kính nữa. Hảo tướng không cố định, do tu tạo mà được, biết vậy, phải cố gắng giữ, không cho mất.
Tu đúng, hảo tướng hiện là thân được kết hợp bằng phước đức. Muốn thấy hảo tướng, thầy dùng pháp tu Sám hối Hồng danh là lạy Phật, đem Phật vào lòng, lúc nào tâm mình cũng thấy Phật là thấy hảo tướng và khi thể nghiệm pháp này thuần thục, thầy thấy ai cũng là Phật. Có người nói rằng người này không tốt, nhưng ai đối với thầy cũng tốt, vì lòng thầy đang nghĩ Phật, nên thấy Phật và Phật này ở trong lòng người khác. Vì vậy, thầy nghĩ họ tốt, nên họ tốt với thầy. Mình nghĩ người xấu, chắc chắn họ không thể tốt với mình. Dù họ không tốt, nhưng mình nghĩ tốt, họ cũng có cảm tình với mình.
Thể hiện lý này, Phật dạy Địa Tạng Bồ-tát rằng vào địa ngục mà không thấy ai tốt, thì không nên vào địa ngục. Sợ nhất bị lây nhiễm là thấy điều không tốt đem vào lòng mình, mai mốt mình cũng không tốt. Phật khuyên Địa Tạng vào địa ngục cố tìm điểm tốt nhất của người, dù họ có một ngàn điều xấu cũng không nghĩ đến, chỉ thấy một điểm tốt của họ thôi.
Địa Tạng hỏi một ngàn điều xấu bao vây điểm tốt nhỏ thì làm sao thấy cái tốt. Phật nói hạt châu của ông để đâu. Chúng ta thấy tượng Địa Tạng cầm hạt châu. Tâm chúng ta thanh tịnh, sáng suốt, ví như hạt châu thấy được thật tướng các pháp, tất nhiên thấy được một điểm tốt nhỏ là nhờ hạt châu.
Phật tử vào đời cứu chúng sanh, nhớ cầm hạt châu trên tay mà nhìn. Kinh Pháp hoa nói hạt châu để trong chéo áo, trong thân tứ đại, nhưng cùng tử không bao giờ dùng mà đi làm thuê mướn, đói khát. Phật dạy chỉ giữ hạt châu, còn tất cả thứ khác thì buông bỏ. Thầy thường nói trên bước đường tu, thầy nhường quyền lợi, danh vọng, địa vị… nhường tất cả cho thiên hạ, còn học và tu thì không nhường, hạt châu không cho ai. Sử dụng được hạt châu rất quan trọng.
Có chỗ, Phật nói hạt châu trong búi tóc trên đầu. Đầu chúng ta nghĩ lung tung phải khổ. Bao giờ lấy hạt châu cầm trong tay, thấy được mọi việc đúng như thật, thấy được điểm tốt của người thì mọi việc sẽ trở nên nhẹ nhàng và thanh thản. Theo kinh nghiệm của thầy, nếu thầy không thấy điều tốt của người, chắc chắn không ai theo thầy. Đơn giản là Phật tử còn về chùa tụng kinh, niệm Phật, nghe pháp là tốt rồi, cái khác không kể. Còn quyên góp làm người sợ là tâm mình tham, muốn người làm, nhưng người chưa phát tâm, không làm thì mình lại nghĩ họ xấu.
Có Tỳ-kheo hỏi Phật rằng ông đang tu quán pháp không, có con rồng tới, ông cảm thấy bị phiền hà. Rồng làm mưa làm gió, tiêu biểu cho người có quyền thế, ngày xưa chỉ cho vua. Người tu đắc đạo có sức thu hút người, vua cũng tới.
Phật bảo ông muốn nó không tới thì xin hạt châu của nó. Có hạt châu mới làm rồng, không có hạt châu thành rắn. Còn phước đức, trí tuệ thì còn làm mưa làm gió, mất phước đức, trí tuệ trở thành người thường.
Trước rồng hỏi thầy Tỳ-kheo cần gì, nó sẽ cúng dường. Ông nói không cần gì thì nó lại tới. Nhưng nghe lời Phật dạy, ông nói cần hạt châu của long vương, nghe vậy, long vương vội vàng rút lui.
Khi chúng ta không cần, tất cả mọi việc tốt tự nhiên tới theo phước đức, nhưng cần là tham vọng, tất cả mất hết.
Nhìn người qua hạt châu, thấy rõ người và về sau, không cần nữa, đem hạt châu để trên búi tóc, là Bồ-tát Địa Tạng làm như vậy, thì khi Ngài suy nghĩ điều gì, cái đó hiện ra, gọi là Phật hộ niệm. Theo kinh nghiệm hành đạo, khi khó khăn, thầy lắng lòng, nhận được trí tuệ Phật rọi vô lòng, thấy được lối thoát, thấy được hướng đi.
Giai đoạn một, tu hành, xả tục, xuất gia, tập bỏ hết. Đức Phật bỏ tất cả, Ngài làm Sa-môn, coi tâm có vắng lặng không. Chúng ta theo Phật tu, nếu không thực tập như vậy, thì nghĩ ở nhà mình được đầy đủ, nhưng tu buồn quá, cảm thấy tiếc, muốn trở về là hỏng.
Thầy nhớ thuở nhỏ, đi học về, không có thức ăn ngon, là giả bệnh. Bà ngoại rất thương thầy, sờ đầu thầy coi có bị sốt không, rồi làm đồ ăn ngon cho thầy, mà thầy cũng không ăn. Nhưng tu, vô chùa, mình bệnh thiệt, không lên quả đường được. Thầy khác bưng cháo trắng và muối cho thầy. Thấy vậy, thầy nhớ lúc chưa đi tu được bà ngoại chìu chuộng, săn sóc, nên tủi thân, không muốn ăn cháo trắng với muối. Hết giờ, không ăn thì người ta dẹp cháo, lúc đó, thầy vội nói tôi chưa ăn mà!
Đức Phật nói người giàu đi tu, khó vượt được tự ái này. Cha mẹ giàu có, sống sung sướng, tu khổ hạnh khó lắm. Điều quan trọng, phải vượt qua cửa ải này mới vào đạo được.
Về sau, khá hơn, thầy được làm thị giả Hòa thượng Thiện Hoa. Một hôm có bát cháo nấm chỉ cúng dường Hòa thượng Giám đốc (HT.Thiện Hòa) và Hòa thượng Trưởng ban (HT.Thiện Hoa). Thầy bưng cháo lên, Hòa thượng Thiện Hoa nói cho con. Thầy bưng ra, gặp thầy khác mở nắp cháo coi, ngửi mùi cháo rồi nói cháo này ngon lắm. Thầy nhớ Phật dạy rằng bần cùng bố thí nan, nghĩa là người nghèo bố thí khó. Món ngon nhất mình được thầy cho mà người khác muốn ăn, thầy liền nghĩ mình theo Phật tu phải thực tập điều Phật dạy, nên thầy nói tôi không ăn cháo, huynh ăn đi. Thiệt mình cũng muốn ăn, nhưng phải cắt cái tâm muốn ăn để bố thí, là vượt được cửa ải này.
Người giàu đi tu, thường nhớ việc sang trọng của quá khứ. Nghèo khổ thì bố thí cũng khó. Phải vượt qua hai cửa ải này, một lần vượt được một cửa ải thì người sẽ thương mình, đó là hảo tướng, đức tướng trang bị cho mình. Không phải khuôn mặt đẹp là hảo tướng. Đức Phật trải qua vô số kiếp cứu độ chúng sanh, tạo thành một hảo tướng do người khác nhìn thấy Ngài là ân nhân của họ, nên có cảm tình với Ngài.
Qua pháp Tứ chánh cần, làm sao gieo vào lòng chúng sanh ý niệm tốt nhiều chừng nào thì tốt chừng đó.
tuong but.jpg
Trong Sám hối Hồng danh, Phật dạy rằng phải sám hối tất cả tội lỗi quá khứ như trộm của người, của mười phương Tăng, hay của thường trụ, tất cả các tội có che giấu, hoặc không che giấu đáng đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nơi chốn biên địa, nghèo khổ, đọa đày…
Phải tự kiểm lại xem mình có phạm tội như vậy không. Thầy sanh vùng biên địa, nghèo khổ, nên nhớ Phật dạy, nhiều kiếp trộm của người, nợ người thì sanh kiếp này nghèo đói, khổ sở. Hơn thế nữa, trộm của thường trụ thì tu vẫn nghèo đói. Nhiều người nghĩ tu thì không bị nghèo đói, nhưng thực tế cho thấy có vị tu được cúng dường, có vị tu bị chửi mắng, hay bị nghèo đói, vì đã phạm tội trộm của Tăng, của thường trụ. Vì vậy, chí thành sám hối, cầu Phật chứng minh, hết tội thì không còn ai ghét, rồi mới làm việc khác là hành bố thí, tu tịnh hạnh làm gương cho đời.
Phật tu, buông bỏ tất cả, chỉ có một bình bát, một ca-sa, nhưng mọi người kính trọng Phật. Phật nói không phải quyền thế, tiền bạc, hay mua chuộc mà được, nhưng là đức hạnh do tịnh hạnh nhiều đời đã thực hiện, nên đã gieo hạt giống lành vào tâm chúng sanh từ kiếp xa xưa, thì kiếp này, họ tự phát tâm và quý trọng Phật. Đó là pháp tu Phật đã trải qua và dạy chúng ta. Nếu mình thực hành đúng theo Phật dạy, sẽ đạt kết quả tốt.
Trước khi làm như vậy, phải giặt áo dơ tứ đại cho sạch, người thương và quý trọng mới làm được. Họ chưa thương, làm gì cũng không ai nghe theo. Vì vậy, từ phàm phu ở giai đoạn một cho đến chứng quả A-la-hán, phải tu pháp không. Chứng A-la-hán, thực tế là nhìn đời của chúng ta không còn sai lầm. Phật nói một vị A-la-hán biết được 500 kiếp trước. Là phàm phu, trong đời này việc đã qua, chúng ta còn quên. Nhưng A-la-hán thấy rõ đến 500 kiếp, nên tất cả những người quan hệ tốt, xấu với họ, họ đều biết rõ. Không biết như vậy, dễ chuốc họa vào thân và biết chỗ nên tới, chỗ không nên tới mà tới, chắc chắn bị hại.
Vua Tần Bà Sa La đã thọ ơn Phật đời trước. Ngài đã cứu ông, nên kiếp này, khi thấy Phật, ông liền có thiện cảm. Chúng ta dù chưa khám phá được minh châu, chưa để minh châu trên búi tóc, nhưng nếu đắc quả A-la-hán, vẫn thấy không sai lầm là thành tựu Chánh kiến trong Bát chánh đạo, nên thấy rõ ai có nhân duyên làm bạn, hay có duyên đến độ, không có duyên thì nên tránh, đáng độ nhưng không đến độ là bỏ mất cơ hội.
Nhiều thầy nghĩ làm sao độ đệ tử đông, nhưng chưa đắc Thánh quả, không đáng độ mà độ là kết bè đảng với người ác xấu, rất nguy hiểm, vì tập hợp đám ô hợp, hậu quả khó lường. Vị Thánh thấy duyên chưa tới, ẩn tu. Một La-hán đắc đạo chỉ độ được một người đến ba người. Điển hình như Tổ Bồ Đề Đạt Ma độ một Huệ Khả, Huệ Khả độ Tăng Xán, Tăng Xán độ Đạo Tín, Đạo Tín độ Hoằng Nhẫn, Hoằng Nhẫn độ Lục tổ Huệ Năng. Đó là các vị Thánh.
Chúng ta nhìn các bậc chân tu đắc đạo có những điểm mà chúng ta cần học. Chưa ra Nhà lửa tam giới, chưa trụ pháp không, nguy hiểm. Ra bên ngoài, tâm trống không, trí sáng suốt, thấy chính xác, mới hành Bồ-tát đạo.
Ở giai đoạn hai là cứu đời, giúp người, nhưng không phải liều mạng làm hại mình mà không cứu được ai. Ra cứu người là hành sáu pháp Ba-la-mật, đó là đạo của Bồ-tát, nhưng Bồ-tát theo kinh Bát-nhã, kinh Hoa nghiêm, kinh Pháp hoa, hành đạo khác nhau.
Bồ-tát theo kinh Pháp hoa là đã thành Vô thượng Chánh đẳng giác rồi. Bồ-tát theo kinh Hoa nghiêm từ thập trụ đến thập hạnh, thập hồi hướng là Hiền vị. Thập địa là Thánh vị. Bồ-tát Hiền vị phải nương Bồ-tát lớn mới làm được. Mình biết nhưng phải nhờ người khác làm, mình làm theo.
Và lên Thánh vị theo kinh Hoa nghiêm, Bồ-tát Sơ địa tu bố thí là chính và ở vị trí là vua mới làm được. Mình không phải là vua, nhưng muốn làm, phải hợp tác với vua có đạo đức, hợp tác với ác vương dễ chuốc họa vào thân.
Bồ-tát hiện thân Sơ địa làm tiểu vương, giữ vững biên cương, nhân dân an lạc, nói đạo giải thoát, dạy chúng tu Thiền, đất nước bình yên thì Ngài thoái vị. Thầy nghĩ Phật hoàng Trần Nhân Tông hành Bồ-tát đạo với tư cách là tiểu vương, vì lúc đó, Việt Nam là nước nhỏ chỉ từ Quảng Bình trở ra. Ngài nói một câu đơn giản nhưng rất có ý nghĩa, rằng Ngài xem ngai vàng như chiếc giày rách. Ngài nói được, làm được, là bỏ ngai vàng đi tu lúc Ngài chưa tròn 40 tuổi, vì đã thành tựu mục tiêu đánh đuổi được quân Mông Nguyên. Có người hỏi nếu giặc trở lại phải làm cách nào. Ngài nói nó không trở lại, mới đi tu. Theo thầy, vua Trần Nhân Tông là Bồ-tát sơ địa, thành tựu việc làm của tiểu vương theo tinh thần Hoa nghiêm.
Còn người kiếm được năm trăm triệu đi bố thí, quay phim, coi là nhất, nhưng thực sự đó chỉ là làm từ thiện xã hội cỏn con. Phải có trí tuệ thấu suốt năm trăm kiếp mới có thể phát tâm làm việc cứu đời và biết rõ lúc nào nên làm, làm ở đâu.
Tóm lại, trước khi cứu người, giúp đời, phải giặt giũ thân tâm cho trong sạch, thanh tịnh, qua thể nghiệm pháp tu buông xả, thành tựu pháp không và có được hiểu biết chính xác, thấy việc nên làm, người đáng độ, từ đó mới hành Bồ-tát đạo làm lợi ích cho người.

Vì sao tu thiền định?

Vì sao tu thiền định?

Đăng lúc: 20:21 - 10/06/2016

Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy Bát chánh đạo, trong Bát chánh đạo từ Chánh kiến cho tới cuối cùng là Chánh định. Theo kinh Đại thừa Phật dạy Lục độ, thứ nhất là bố thí tới thứ năm là thiền định, thứ sáu là trí tuệ.

HT Thanh Tu.JPG
HT.Thích Thanh Từ

Chúng ta tu thiền định là tu thế nào? Nhiều vị không hiểu nói người mới tu thiền phải quán hơi thở tức là sổ tức. Sổ tức là đếm số, hít vô cùng đếm một, thở ra sạch đếm hai, đếm tới mười bỏ, rồi đếm trở lại một. Cứ như vậy đếm hoài cả buổi có lợi ích gì đâu, mầu nhiệm gì đâu?

Chúng ta thử đặt lại vấn đề, tại sao đếm hơi thở? Vì muốn dừng tâm lăng xăng. Hít vô nhớ mình hít vô tới đâu, thở ra nhớ mình thở ra tới đâu, rồi nhớ số nữa. Bắt nhớ như thế để tâm quên chạy theo vọng tưởng. Dừng được tâm này là định nên nói thiền định. Thiền định là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Tĩnh lự, nghĩa là lặng cái suy nghĩ lăng xăng, chớ không gì lạ.
Qua giai đoạn đếm hơi thở rồi đến giai đoạn theo hơi thở. Khi ta chú tâm đếm hơi thở, tâm không chạy bậy, lần lần thuần thục ta bỏ đếm, chỉ theo hơi thở thôi. Nghĩa là hít vô tới đâu biết, thở ra tới đâu biết. Theo dõi như người thiếu nợ trốn chủ, bất thần chủ nợ tìm gặp, nên theo sát lưng không bỏ. Tu cũng vậy, ban đầu đếm hơi thở, sau đó theo hơi thở thật khít khao để tâm không tán loạn. Đó là phương tiện buổi đầu của người tập tu thiền.

Kế đến chúng tôi hướng dẫn hành giả tu thiền, khi niệm dấy khởi lên biết nó là hư dối, bỏ. Bởi vì khởi nghĩ không thật, mà mê theo nó thì thành thật. Như giận người A, khi dấy niệm giận mình theo niệm đó phát nổi hung hăng, muốn chửi đánh người ta, thành ra tạo nghiệp. Nếu vừa nhớ tới A liền bỏ không nghĩ, thì đâu còn tức mà muốn đánh chửi người ta. Manh mối ban đầu vừa mọc mầm liền thấy, chỉ mặt nó thì nó dừng lại nhẹ nhàng.

Tọa thiền dùng trí thấy thẳng để dẹp vọng tưởng. Đó là thấy ngay lẽ thật, không mượn phương tiện. Thiền tông dạy trực chỉ nhân tâm tức chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật là nhận ra bản tánh của mình thì thành Phật. Chỉ thẳng tâm người là tâm lăng xăng, tâm điên đảo đó. Nó vừa dấy lên, chỉ mặt rầy thì nó lặng. Cho tới bao giờ tâm ấy hoàn toàn lặng hết thì tánh Phật hiện ra. Tánh Phật là Pháp thân. Người tu thiền đặt trí tuệ lên hàng đầu. Nhìn thẳng thấy rõ ràng, không để vọng tưởng lừa gạt. Nó rủ đi đâu là chặn liền, không cho nó dụ dỗ.

Phật tử bây giờ có bệnh, mình tu thích hợp với pháp này liền chê pháp của người khác, khen pháp của mình. Do đó tâm lăng xăng càng tăng trưởng chớ không giảm. Như vậy đâu phải tu. Tu là để giảm suy nghĩ lăng xăng, rối bời, mà mình tu càng ngày càng tăng là không đúng rồi. Cho nên thấy người tu niệm Phật, ta hoan hỷ nói “Chị tu niệm Phật tốt. Ráng niệm cho nhất tâm”. Thấy người tu trì chú, nói “Anh tu trì chú tốt. Ráng trì cho tới tam mật”. Thấy người tu thiền, nói “Anh tu thiền tốt. Ráng ngồi thiền cho được định”. Như vậy ai cũng tốt hết.

Người biết tu phải hiểu cho thấu đáo để không hờn phiền những người đồng đạo. Nếu không khéo sẽ dẫn tới tình trạng người này trách người kia, người kia phiền người nọ. Chính huynh đệ trong đạo chỉ trích nhau hoài, không hòa thuận nói gì tu hành. Bởi vậy tất cả chúng ta phải hiểu rõ điều này.

Tại sao Phật dạy chúng ta phải dẹp cái nghĩ lăng xăng lộn xộn của mình? Những ý nghĩ quấy dẹp thì phải, nhưng ý nghĩ phải tại sao cũng dẹp? Nếu nghĩ xấu sai, ta sẽ nói làm theo nghiệp ác. Nếu nghĩ tốt dĩ nhiên ta nói làm theo nghiệp lành. Như vậy nghiệp lành, nghiệp ác từ ý nghĩ mà ra. Nghiệp ác thì đọa vào đường dữ, nghiệp lành thì sanh về cõi lành. Nhưng dù lành hay dữ cũng còn trong dòng trầm luân sanh tử, còn trở đi trở lại mãi trong ba cõi là còn khổ.

Tại sao nghiệp lành vẫn không giải thoát? Vì nghiệp lành thì sanh cõi lành, như được làm người sung sướng. Nhưng mấy chục năm hưởng hết phước rồi cũng chết. Hoặc sanh lên cõi Trời, ở cảnh cao sang muốn gì được nấy, nhưng hết phước cũng đọa xuống trở lại. Lên lên xuống xuống không có ngày cùng. Chỉ có ra khỏi dòng sanh tử mới được giải thoát, hết khổ đau. Bây giờ nếu chúng ta tu tới nhất tâm, không còn nghĩ thiện nghĩ ác thì đi đâu? Hết nghĩ thì hết nghiệp, hết nghiệp là hết sanh tử, đó là giải thoát. Chỗ cứu kính chân thật Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy là cái sáng suốt, bất sanh bất diệt nên gọi là Niết-bàn, vô sanh. Không có sanh lấy gì có tử.

Đức Phật vì thương chúng sanh mê lầm đuổi theo hư ảo cho là mình, rồi cả ngày sống trong cái hư ảo đó, chịu vô lượng khổ đau. Đã sống trong hư ảo thì dù làm việc tốt cũng chưa hẳn là tốt. Ví như có hai nhóm đi làm từ thiện. Nhóm A được nhiều người hoan nghênh, nhóm B cũng làm từ thiện nhưng lại bị nhiều người chỉ trích. Vậy nhóm B có vui nhìn nhóm A không? Bị thua thì giận rồi, mặc dù giận vì làm việc thiện.

Bởi vậy nói tâm của chúng ta không chân thật. Vì nó hư ảo nên biến chuyển luôn. Do đó nhiều người lúc nhỏ rất hiền lành, nhưng lớn lên bị ngoại duyên không tốt tác động lâu ngày trở thành hung dữ. Ngược lại, người lúc nhỏ hung dữ nhưng lớn lên nhờ gần gũi duyên tốt nên trở lại hiền lành. Tâm ta luôn đổi thay, không đứng một chỗ. Gặp môi trường tốt, thầy tốt, bạn tốt thì tốt theo, gặp môi trường xấu, thầy xấu, bạn xấu thì xấu theo. Tâm đó tùy thuộc ngoại cảnh chớ không tự làm chủ được. Vậy mà tất cả chúng ta đều đuổi theo nhận nó là mình, thử hỏi có đáng buồn không?

Nếu chúng ta không nhận những suy nghĩ lăng xăng lộn xộn đó là tâm mình, thì dù ở chung cả trăm ngàn người cũng không có chuyện cãi vã, nói gì đánh đập nhau. Sở dĩ chúng ta ở chung có chuyện này, chuyện kia là vì không đồng ý nhau. Mỗi người đều cho cái suy nghĩ là đúng, là tâm mình nên rồi hơn thua, phải quấy, oán thù đủ chuyện. Nuôi tâm ấy như nuôi kẻ cướp trong nhà, do đó Phật nói “Nhận giặc làm con”. Vì nhận giặc làm con nên nghe lời nó, không chịu bỏ nó. Đã vậy thì đời ta cứ đi trong trầm luân đau khổ không có ngày cùng.

Muốn ra khỏi dòng sanh tử không gì hơn là lặng được chú tạo nghiệp đó. Nghĩa là đừng nhận nó làm con nữa, đuổi nó ra khỏi nhà. Dễ quá, nó không phải là con mình thì đuổi đi. Nhưng khổ nỗi ta lại thương nó, không chịu đuổi. Khi thấy chúng sanh mê lầm như vậy, Đức Phật có thương không? Có. Chúng sanh đang lặn hụp giữa biển cả mênh mông, Ngài đưa tay xuống chờ mình ngóc đầu dậy thì kéo liền. Nhưng chúng sanh cứ mải miết lặn hụp không chịu đưa tay cho Ngài kéo.

Mỗi một ngày hết mười hai tiếng chúng ta chạy theo cái hư giả, chỉ còn một hai tiếng trở về cái thật, nên ráng buông xả cho các vọng tưởng lặng xuống, giành quyền làm chủ phần nào. Nếu không mình cứ bị nó làm chủ hoài. Ngày nào ta giảm bớt được hơn thua, phải quấy thì ngày đó an vui. Ngược lại, nếu cứ để nó lôi dẫn chạy ngược chạy xuôi, khi nhắm mắt chắc chắn phải luân hồi sanh tử.

Phật tử tu mà không hiểu, cứ ỷ lại vào thầy. Tháng nào cũng đi chùa cúng thầy một ít, chừng nào nhắm mắt mời thầy tới độ cho về Cực Lạc, khỏe ru. Tu như vậy thì oan cho đạo Phật quá. Quý vị phải nhớ chúng ta lo cho Tam bảo, để việc giáo hóa mọi người thức tỉnh được trường tồn, được phát triển. Muốn thế bản thân mình phải tu, rồi tạo điều kiện hỗ trợ Tam bảo tồn tại lâu dài nơi thế gian, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Hôm nay tôi nhắc những điều thiết yếu cho tất cả quý Phật tử biết, ứng dụng tu đúng pháp Phật dạy. Mong tất cả thực hành đúng Chánh pháp, đừng vì sự tu mà tạo phân biệt, nuôi lớn phải quấy đối đãi, trái xa với bản ý Phật dạy, cũng là tự vùi lấp sự giác ngộ của mình. Hiểu vậy trên đường tu tôi tin chắc quý vị sẽ tiến, sẽ đạt được kết quả tốt đẹp.
HT.Thích Thanh Từ

Câu chuyện Phật giáo: Tại sao làm việc ác lại không bị ác báo?

Câu chuyện Phật giáo: Tại sao làm việc ác lại không bị ác báo?

Đăng lúc: 19:36 - 25/04/2016

Có nhiều người không hiểu rõ rằng tại sao làm việc ác lại không bị ác báo, thậm chí họ còn kiếm được rất nhiều tiền. Ví dụ, làm những nghề sát sinh như: đồ tể…

Đệ tử hỏi Phật

Phật Đà từng có lần đi tới một nơi mà ở đó chỉ toàn là bụi đất, không có một cây cối nào sinh sống. Ông kể với vị đệ tử đi theo mình rằng, nơi đây trước kia rất giàu có, nhưng quốc vương là một người vô đạo. Một hôm, ông ta đã giết một vị chứng đắc quả vị A La Hán. Sau khi ông ta giết vị A La Hán rồi, trên trời đã thả xuống rất nhiều vàng bạc châu báu liên tiếp trong bảy ngày liền. Tất cả dân chúng đất nước đều như điên cuồng. Nhưng sau 7 ngày thì trên trời liền thả xuống toàn là bùn đất khiến cho cả đất nước đều bị vùi lấp.

Nguyên lai lúc đầu trên trời cho thả xuống vàng bạc châu báu là bởi vì vị quốc vương này có phúc báo. Bởi vì ông ta có phúc báo che chở cho nên ác nghiệp kia không có cách nào hiện ra trước. Trời thả vàng bạc châu báu xuống là để cho ông ta hưởng hết phúc báo. Sau khi đã không còn phúc báo che chở nữa, ác nghiệp liền lập tức hiện ra chính là lúc trời thả bùn đất xuống.

Người làm việc ác chưa bị báo ứng là vì còn chưa hưởng hết phúc báo, một khi phúc báo đã hưởng hết thì nghiệp báo lập tức xuất hiện.



Có người kinh doanh ngành nghề sát sinh mà kiếm tiền, số tiền này kỳ thực là phúc báo ở trong mệnh của họ. Dù họ cũng có thể thông qua các cách khác để kiếm tiền, ví như gửi tiền ngân hàng để lấy lãi…, nhưng họ đã dùng sai phương pháp kiếm tiền. Số tiền đã kiếm được kia đợi hưởng thụ xong rồi thì ác báo của giết nghiệp kia sẽ tới.

Người xưa giảng “có phúc báo không thể hưởng thụ hết”, lúc có phúc báo càng phải làm việc thiện, làm việc có đức, dùng âm đức để đền bù cho những việc làm sai trái trong quá khứ, chứ không phải là chỉ biết hưởng thụ phúc báo. Nếu như phúc báo kia một khi hưởng hết rồi, bị rớt xuống rồi thì mong muốn bồi đắp phúc báo là việc không hề dễ dàng.

Trong “địa tạng kinh” có giảng, con người một khi đã rơi vào “tam ác đạo” (ba đường là địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ) rồi, thì sẽ ở trong tam ác đạo mà luân chuyển, vào địa ngục làm quỷ đói, sau khi làm quỷ đói rồi lại làm súc sinh, sau khi làm súc sinh mới được làm người. Vậy sau khi làm người rồi, không có phúc báo, nghèo khó thấp hèn, không có cách nào bồi dưỡng phúc báo, rồi lại rớt xuống, điều này rất đáng thương.

Chúng ta mong muốn bồi đắp thêm phúc báo thì ban đầu cũng cần phải là có phúc báo, có phúc báo làm nền tảng, mới có thể bồi đắp phúc báo được.

Ác hữu ác báo, chỉ là thời điểm chưa tới mà thôi! Những lời này bạn có tin không?

Theo Đại Kỷ Nguyên

Nên thức & nên ngủ

Nên thức & nên ngủ

Đăng lúc: 18:46 - 16/04/2016

Đức Phật thành tựu giác ngộ cũng nhờ nương theo tinh thần trung đạo, tránh xa hai cực đoan dục lạc và khổ hạnh. Về sau, trung đạo là một trong những đặc điểm căn bản của giáo pháp Thế Tôn.

Trong pháp thoại dưới đây, lúc Tôn giả A-na-luật ngủ gục thì Ngài quở trách nặng nề. Ấy vậy mà khi Tôn giả A-na-luật nguyện không ngủ nữa thì Phật lại khuyên “thầy nên ngủ”.

“Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số trăm ngàn vạn chúng. Lúc đó Tôn giả A-na-luật đang ngồi trong chúng ngủ gục. Đức Phật thấy A-na-luật ngủ gục, liền nói kệ rằng:

Thọ pháp thích ngủ nghỉ/ Ý không có lầm lẫn/ Chỗ Hiền Thánh thuyết pháp/ Điều người trí ưa thích/ Ví như nước vực sâu/ Lóng trong không tì vết/ Người nghe pháp như thế/ Thanh tịnh tâm lạc thọ/ Cũng như đá vuông lớn/ Gió thổi không thể động/ Như thể bị chê khen/ Tâm không có lay động.

Khi ấy Thế Tôn bảo Tôn giả A-na-luật:

- Thầy sợ phép vua và sợ giặc cướp mà hành đạo chăng?

A-na-luật đáp:

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Phật bảo A-na-luật:

- Vì sao thầy xuất gia học đạo?

A-na-luật bạch Phật:

- Con chán ngán sanh, lão, bịnh, tử, sầu lo khổ não nên muốn bỏ nó; vì thế xuất gia học đạo.

Thế Tôn bảo:

- Nay thầy là con nhà quý tộc, có lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo. Hôm nay Thế Tôn đích thân thuyết pháp, tại sao thầy ngồi trong đây mà ngủ gục.

Tôn giả A-na-luật liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo phải, quỳ xuống chắp tay bạch Thế Tôn:

- Từ nay về sau dù thân hình tan nát, con trọn không ở trước Như Lai mà ngủ gục.

Bấy giờ Tôn giả A-na-luật suốt đêm đến sáng chẳng ngủ, nhưng không thể trừ khử được thùy miên, mắt bèn hư. Khi ấy, Thế Tôn bảo A-na-luật:

- Người chuyên cần tinh tấn thì cùng trạo cử tương ưng. Còn nếu giải đãi lại cùng kiết sử tương ưng. Nay thầy nên hành vừa chừng ở giữa.

A-na-luật bạch Phật:

- Khi trước, con đã ở trước Như Lai phát thệ, nay không thể làm trái bổn nguyện mình.

Lúc đó Thế Tôn bảo Kỳ-vực:

- Ông hãy trị liệu mắt cho A-na-luật!

Kỳ-vực thưa:

- Nếu A-na-luật chịu ngủ một chút, con sẽ trị mắt được.

Thế Tôn bảo A-na-luật:

- Thầy nên ngủ. Vì sao thế? Tất cả các pháp do ăn mà được tồn tại, không ăn thì không còn. Con mắt lấy ngủ làm thức ăn, tai lấy âm thinh làm thức ăn, mũi lấy hương làm thức ăn, lưỡi lấy mùi vị làm thức ăn, thân lấy xúc chạm làm thức ăn, ý lấy pháp làm thức ăn. Nay ta cũng nói Niết-bàn cũng có thức ăn.

A-na-luật bạch Phật:

- Niết-bàn lấy những gì làm thức ăn?

Phật bảo A-na-luật:

- Niết-bàn lấy không phóng dật làm thức ăn, nương không phóng dật được đến vô vi.

A-na-luật bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tuy nói ngủ là thức ăn của mắt, nhưng con chẳng kham ngủ nghỉ”.



(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 38.Lực [1-trích],
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.490)

Điều đáng để cho chúng ta học hỏi là sự phát nguyện dũng mãnh, ý chí thật phi thường của Tôn giả A-na-luật. Nếu hàng hậu học chúng ta được chúng Tăng soi sáng mà lập thệ nguyện dứt bỏ phiền não tham sân một cách triệt để như thế thì quý hóa biết bao.

Ở một phương diện khác, Tôn giả A-na-luật đã cố gắng thái quá nên khiến cho đôi mắt bị mù. Cũng may là Tôn giả đã chứng đắc Niết-bàn, thành tựu giải thoát và có thiên nhãn.

Pháp thoại này cho thấy, sự tu tập điều thân, theo Thế Tôn thật giản dị và điều hòa, như khi đói thì ôm bát đi khất thực, cần ăn để sống, đủ sức khỏe để thiền định. Không ăn dĩ nhiên sẽ bệnh, mà bệnh và chết trong khi chưa đắc đạo thì cũng chẳng khác nào chưa qua sông mà đã bỏ bè. Nên khi cần thức thì hãy thức và khi cần ngủ thì hãy ngủ.
Quảng Tánh

Diệt trừ phiền giận

Diệt trừ phiền giận

Đăng lúc: 07:29 - 12/03/2016

Trong một bài kinh, Đức Phật dạy:
Ở đây, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo:

- Này các Hiền giả Tỷ-kheo.

- Thưa Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như sau:

Này các Hiền giả, có năm trừ khử hiềm hận này, ở đây, hiềm hận khởi lên cho Tỷ-kheo cần phải được trừ khử một cách hoàn toàn. Thế nào là năm?

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người khẩu hành không thanh tịnh, thân hành thanh tịnh, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành không thanh tịnh, nhưng thỉnh thoảng tâm được mở rộng, tâm được tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành không thanh tịnh, và thỉnh thoảng không được tâm rộng mở, không được tâm tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, và thỉnh thoảng tâm được rộng mở, tâm được tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải được trừ khử.

(Tăng chi bộ kinh, chương Năm, phẩm XVII, kinh số 162: Trừ khử hiềm hận (Aghatavinaya sutta); Kinh tương đương trong tạng A-hàm: Trung A-hàm, kinh thứ 25: Kinh Thủy dụ)

2buddha.jpg

Tiếp đó, Đức Phật giải thích thêm và đưa ra các ví dụ minh họa cho từng trường hợp thật ấn tượng và sinh động như sau:

Người với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành thanh tịnh. Ví như có một vị tu hạnh đầu đà thấy một miếng vải còn lành lặn nằm trong đống rác bẩn, bị lấm dơ, vị ấy liền nhặt miếng vải xếp lại, cất lấy, đem về nhà để giặt sạch và may chung với các mảnh vải khác làm y phấn tảo.Cũng như thế, khi có một người mà hành động không dễ thương nhưng lời nói còn dễ thương thì Đức Phật khuyên ta đừng bận tâm nghĩ tới hành động của người ấy mà chỉ nên chú ý tới lời nói dễ thương của người ấy để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với khẩu hành không thanh tịnh, với thân hành thanh tịnh. Ví như một hồ nước đầy bùn và cây lau. Rồi một người đi đến bị nóng bức, mệt mỏi, khát nướcvà muốn uống nước. Người ấy cần lấy hai tay gạt ra ngoài bùn và lá cây để có thể lấy nước uống. Cũng như thế, khi có một người mà lời nói không dễ thương nhưng hành động lại dễ thương thì ta đừng để tâm nghĩ tới lời nói của người ấy mà chỉ nên chú ý tới hành động dễ thương của người ấy thôi để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành không thanh tịnh, thỉnh thoảng tâm được rộng mở, tâm được tịnh tín. Ví như ít nước còn đọng lại trong dấu chân của con bò. Rồi một người đến, bị nóng bức, mệt mỏi, khát nước, muốn uống nước. Người ấy không thể lấy tay hay với cái chén mà có thể uống được nước trong trường hợp này, mà chỉ có thể quỳ sụp mình xuống, tay và đầu gối áp sát đất, dùng miệng mà uống nước trực tiếp mới không làm nước ấy bị khuấy động và dậy bùn. Khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương và lời nói cũng không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút ít sự dễ thương, thì ta hãy đừng nên để tâm nghĩ tới hành động và lời nói không dễ thương của người ấy mà hãy nên chú ý tới cái chút ít sự dễ thương còn đọng lại trong tâm người ấy thôi, hiếm hoi như chút nước đọng trong dấu chân bò, để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành không thanh tịnh, và thỉnh thoảng tâm không được rộng mở và tịnh tín.Ta nghĩ họ như có một kẻ đi xa, trên con đường dài, nửa đường bị bệnh. Khốn đốn, héo hắt, cô độc, không bạn đồng hành, thôn xóm phía sau đã lìa bỏ lâu rồi mà thôn xóm phía trước cũng còn cách đó rất xa. Người đó đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng, biết mình sẽ chết ở dọc đường nếu không có người giúp. Trong lúc ấy, có một người khác đi tới, thấy được tình trạng này, liền ra tay cứu giúp. Người ấy dìu người kia tới được thôn ấp phía trước, chăm sóc, chữa trị và chu cấp thuốc thang và thực phẩm. Nhờ sự giúp đỡ ấy mà người kia thoát nạn. Sở dĩ người kia thoát nạn, đó là nhờ ở lòng thương xót và lân mẫn của người này.

Cũng như thế, khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà trong tâm cũng không có một chút gì có thể gọi là dễ thương hết, thì ta phải phát khởi tâm niệm này: “Một người mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà tâm ý cũng không dễ thương là một người rất đau khổ, người này chắc chắn đang đi về những nẻo đường xấu ác cực kỳ, nếu không gặp được thiện tri thức thì người ấy sẽ không có cơ hội chuyển hóa và đi về các nẻo đường hạnh phúc.” Nghĩ như thế, ta mở được lòng thương xót và lân mẫn họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, lại thỉnh thoảng tâm được rộng mở và tịnh tín. Ví như, một hồ sen có nước trong, có nước ngọt, có nước mát, có nước trong sáng, có bờ hồ khéo sắp đặt đẹp đẽ và được nhiều loại cây che bóng. Rồi một người đi đến bị nóng nhiệt não, bị nóng bức bách, mệt mỏi, khát nước, muốn uống nước. Người ấy sau khi lặn xuống trong hồ sen ấy, sau khi tắm rửa, uống nước, bước ra khỏi hồ, liền qua ngồi hay nằm dưới bóng cây. Cũng vậy, khi thấy một người mà hành động dễ thương, lời nói dễ thương mà tâm ý cũng dễ thương thì ta hãy nên nhận diện tất cả những cái dễ thương của người ấy về cả ba mặt thân, khẩu và ý mà đừng để sự phiền giận hoặc ganh ghét xâm chiếm ta. Nếu không biết sống hạnh phúc với một người tươi mát như thế thì mình thực không phải là một người có trí tuệ.

Trong tất cả năm trường hợp giao tiếp với người, Đức Phật dạy chúng ta đều khởi tâm từ đối với tất cả các hạng người mình gặp mà không sanh tâm phiền giận. Điều này nhắc chúng ta nhận thức tình huống theo hướng tích cực và hướng thượng, điều cần thiết để tâm từ bảo hộ mình khỏi các nghiệp xấu. Việc thực hành pháp đem lại lợi ích thiết thực cho cá nhân mỗi người, và cuộc sống trở nên ý nghĩa và lợi ích nhiều hơn nếu chúng ta tự đặt mình vào quỹ đạo sống thấm nhuần giáo pháp mà không đi chệch hướng dưới bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài. Vì lẽ đó, không nên vì sự chưa thanh tịnh về thân, miệng, ý của người khác mà chúng ta mất đi phần lợi lạc trong quá trình tu tập.

Nội dung bài kinh này khuyến khích chúng ta cách nuôi dưỡng tâm từ, một yếu tố quan trọng trên lộ trình tu tập, không lệ thuộc vào thái độ và hành vi của người khác. Như lời ngài Dalai Lama dạy rằng “đừng để hành vi của người khác phá hủy sự an lạc trong tâm bạn” hoàn toàn phù hợp với lời Phật dạy ở bài kinh này.

Trở lại nội dung bài kinh, với hai trường hợp đầu, Đức Phật dạy chúng ta nên chú ý đến điểm tốt của người khác mà quên đi những vụng về của người ấy để có thể khởi tâm từ với họ dễ dàng hơn. Trong cuộc sống, thường chúng ta hay thấy lỗi người mà quên đi những điểm sáng nơi người ấy. Với cách nhìn này, chúng ta khó có được an lạc trong tâm và không thể hoan hỷ với những người xung quanh. Do đó, ta nên chọn cách nhìn con người và vạn vật xung quanh ở phương diện tích cực hơn để có được sự an lạc nội tâm và thái độ sống tích cực với mọi người. Đức Phật dạy rất cụ thể ở bài kinh trên rằng, nếu người nào dễ thương về lời nói, nhưng có hành động chưa dễ thương, thì khi tiếp xúc với họ, ta chỉ chú tâm đến lời nói dễ thương và quên đi những hành động chưa dễ thương ấy.

Ngược lại, nếu người nào có hành động dễ thương mà lời nói chưa được dễ thương thì khi tiếp xúc với họ, chúng ta nên để tâm vào hành động dễ thương mà quên đi những lời nói vụng về ấy, chắc chắn chúng ta sẽ an lạc và lòng ngập tràn yêu thương với mọi đối tượng quanh mình. Đây là nghệ thuật sống để mình được an lạc: không vì hành vi của người ngoài mà làm tổn thương đến tâm thiện của mình, tự gây trở ngại trong cuộc sống và trên con đường thực hành pháp.

Với trường hợp thứ ba, khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương và lời nói cũng không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút ít sự dễ thương, thì ta hãy đừng nên để tâm nghĩ tới hành động và lời nói không dễ thương của người ấy mà hãy nhìn sâu vào cái chút ít sự dễ thương ít ỏi, hiếm hoi có được trong tâm người ấy thôi để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận. Đến đây, chúng ta càng hiểu hơn chủ ý của Đức Phật khi khuyên chúng ta chọn góc nhìn nào đẹp, tích cực và nhất là hỗ trợ tâm thiện lành, nuôi dưỡng tâm lành của mình phát triển thì ta nên chọn, đừng bận tâm vào đúng sai hay dở của người ngoài. Đừng để những yếu tố bên ngoài chi phối sự thực hành pháp của bản thân mà mất đi phần lợi ích. Điều này không phải dễ làm chút nào, ngay cả việc hiểu và chấp nhận điều tưởng chừng đơn giản này cũng cần một thời gian nhất định để trải nghiệm và thẩm thấu.

Đức Phật đưa ra ví dụ mang tính hình ảnh hơn trong trường hợp này. Trong nhiều cái chưa dễ thương, ta còn thấy được chút ít dễ thương trong tâm người ấy, ví như người đi giữa sa mạc nắng cháy đang rất khát nước tìm được chút ít nước trong lỗ chân bò. Chúng ta làm gì bây giờ? Chúng ta không thể dùng tay vốc nước vì làm như vậy bùn đất sẽ khuấy động làm cáu bẩn nước; mà nước dậy cáu bẩn rồi thì không sử dụng được. Do đó, chúng ta cần quỳ thấp xuống, rất cẩn thận để có thể uống được chút ít nước hiếm hoi đó. Hãy chú ý đến tư thế của mình trong hình ảnh này. Dường như ta làm mất đi giá trị của mình khi mọp người xuống, kề miệng mình dưới đất như thế, nhưng nên nhớ rằng, chúng ta đang khát run. Chúng ta cần nước.

Tương tự như vậy, nếu chúng ta thấy người nào đó dùng lời nói hay hành động thô ác đối với mình, thì người ấy cũng có những giây phút chân thật và tốt bụng. Nếu chỉ chú ý đến những điểm xấu của người khác, chúng ta sẽ cảm thấy ngột ngạt, bức bách, căng thẳng, cay đắng hơn khi nhìn về loài người và thấy không nhất thiết phải đối xử tốt với họ. Thế nhưng nếu chúng ta có thể nhận thấy những điều tốt đẹp ở người khác, dù chút ít, chúng ta dễ dàng đối xử tốt với họ hơn và lòng ta thanh thản hơn nhiều. Những điểm tốt hiếm hoi của họ giống như chút ít nước tưới tẩm tâm mình. Chúng ta cần phải cẩn trọng, mọp người xuống mới có thể chạm đến chút ít thiện lành nơi tâm người ấy. Làm như vậy, ta biết trân quý những điểm tốt của người để nuôi dưỡng tâm từ trong ta ngay trong hiện tại và tương lai.

Với trường hợp thứ tư, giả như người ta tiếp cận không có phẩm chất gì tốt đẹp về hành động, lời nói và tâm ý, Đức Phật đề nghị một hướng suy nghĩ khác, nghĩ về người ấy như là một người xa lạ đang bệnh mà chúng ta tình cờ gặp bên đường, không có người giúp đỡ, chỉ có ta và người ấy trên chặng đường vắng vẻ ấy. Nếu chúng ta không giúp họ, ai sẽ là người giúp đây? Chúng ta cần trải tâm bi mẫn đến người ấy và làm tất cả những gì có thể, tạo các nghiệp thiện về thân, về lời nói và về ý nghĩ, để giúp người ấy được an toàn và quan trọng hơn, để tâm từ của ta không bị tổn thương, lại còn có cơ hội phát triển. Không cần quan tâm đến đối tượng chúng ta giúp đỡ là ai, có tốt hay không, có xứng đáng nhận sự quan tâm giúp đỡ của mình hay không, cứ mở lòng vô điều kiện. Ta đối với những người này như thể đang làm từ thiện, cốt yếu là cơ hội để nuôi dưỡng tâm lành của chính mình. Ai chưa tốt, người ấy sẽ chịu trách nhiệm nhân quả. Ai sống tốt, sẽ có quà từ cuộc sống này! Đừng bao giờ nghĩ có một số người “đáng” nhận sự tử tế của mình, còn số khác thì không. Biết thế nào là “đáng” hay “không đáng”? Họ đang khổ, cũng như chúng ta đang khổ, không ở phương diện này thì ở phương diện khác. Người mà cả hành động, lời nói và tâm ý đều không dễ thương là người đang tạo nghiệp không lành để rồi phải đi vào các cảnh giới khổ đau, là người rất đáng thương.

Do vậy, nếu vẫn chưa thoát ra khỏi suy nghĩ lối mòn rằng “đáng” hay “không đáng” nhận tấm lòng tử tế từ mình, ta vẫn có lý do chính đáng để nghĩ rằng, hơn ai hết, họ “đáng” nhận sự giúp đỡ của người khác. Cũng rất có thể đến một thời điểm nào đó, nhân duyên chín muồi, sự bao dung và tử tế của chúng ta có tác dụng như một cú hích vào tâm thức, giúp người ấy biết thay đổi nhận thức, thay đổi thái độ sống, thay đổi hành vi cho nỗi khổ niềm đau vơi đi thì đáng quý biết dường nào.

Trường hợp cuối cùng, Đức Phật đưa ra hình ảnh một cái nước thật đẹp, nước hồ đã trong veo lại ngọt ngào, mát mẻ, đáy hồ sâu mà bằng phẳng, bờ hồ đầy đặn, cỏ xanh mọc sát quanh hồ, bốn phía cây cối xanh tươi cho nhiều bóng mát. Nếu ta gặp một hồ nước với cảnh trí nên thơ như vậy, việc cần thiết là thưởng thức tất cả những gì có thể từ hồ nước và phong cảnh này đem lại. Cũng vậy, khi thấy một người mà hành động dễ thương, lời nói dễ thương mà tâm tánh cũng dễ thương thì ta hãy nên nhận diện tất cả những cái dễ thương của người ấy về cả ba mặt thân, khẩu và ý mà đừng để sự phiền giận hoặc ganh ghét xâm chiếm ta. Người như vậy mà ta không thương được, chắc hẳn tình thương trong ta đã chết tự bao giờ! Điều ngăn cách ta với người dễ thương trọn vẹn ở cả ba phương diện lời nói, hành động và tâm tánh chính là lòng đố kỵ, ganh ghét chứ không có gì khác. Nếu ta mang trong người “độc tố” này, ta tự đóng cửa cách ly mình với thế giới sinh động này và chẳng học hỏi được gì để cuộc đời ý nghĩa hơn. Khi thấy người khác tốt hơn, hoàn thiện hơn, nếu với tâm ganh ghét rồi sanh bực tức, hiềm hận thì tâm ta hư lại càng hư hơn khi tự xây bức tường thành ngăn cách ta với cái tốt, cái đẹp của người khác. Ngược lại, với một thái độ cởi mở, sẵn lòng học hỏi, ta trân trọng những cái tốt đẹp hơn nơi người khác và lấy đó làm gương để học hỏi thì đó là tinh thần đúng của người học và thực hành Chánh pháp, biết mở lối cho pháp lành tăng trưởng.

Đức Phật dạy, với tất cả các hạng người ở đời, nếu tiếp cận với thái độ tích cực, chúng ta đều có thể trải tâm từ đến tất cả, dù người ấy còn nhiều vụng về, chưa dễ thương về hành động, lời nói hay tâm ý, ta vẫn có thể thương được. Bằng cách này, ta có thể diệt trừ được những hiềm hận trong tâm, nuôi lớn tâm từ của mình trên con đường tu tập, đóng góp tích cực vào quy trình vận hành nhân quả của cá nhân mình. Không những thế, chúng ta còn góp phần cảm hóa người khác với cách sống đầy lòng yêu thương và thông cảm của mình, góp phần kiến tạo cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn trong mối quan hệ tương duyên nhau trùng trùng này.

Qua bài kinh này, chúng ta cần nhận rõ thâm ý của Đức Phật khuyến khích mỗi cá nhân tự nỗ lực hành trì tâm linh. Trên suốt cuộc hành trình, ta phải tự lực làm lấy phần việc của mình: tự chế tác hạnh phúc an lạc, hạnh phúc của bình an, tự tại vô ngại. Đây là mục tiêu duy nhất của mỗi người, không ai có thể làm thay mình. Khi nhận ra điều này, tất cả hoàn cảnh, môi trường, con người bên ngoài chỉ là duyên để chúng ta thực hiện công việc đời mình. Nếu hoàn cảnh thuận lợi cùng hướng ta đi, ta nhận được trợ lực để sự thực hành của mình hiệu quả hơn trong việc nuôi dưỡng các tâm lành. Nếu hoàn cảnh có vẻ không cùng ta trên “xa lộ một chiều”, đừng vội nản lòng mà chúng ta nên xem đây là duyên để ta trau luyện tâm kiên nhẫn, ý chí, nghị lực, bao dung và buông xả. Đây là dịp để nâng cao “chỉ số vượt khó” của mình mà thôi. Trên đường đi không có chướng ngại, chỉ có thử thách và rèn luyện. Những tích cách được trui rèn trong thử thách khó khăn rất đáng quý và có thể hỗ trợ thiết thực trong cuộc sống ở mọi lúc, mọi nơi. Trên biển động, vững tay chèo mới là tay lái thiện nghệ đáng trân trọng, còn trên biển lặng, ai cũng có thể làm hoa tiêu được cả.

Nếu phải đi trong trời mưa, đừng điên tiết nguyền rủa đất trời, đừng bực bội căng thẳng tạo áp lực vô lý. Dù có làm gì, trời vẫn cứ “vô tình” mưa mà không “bận tâm” đến cảm giác của bạn. Điều cần thiết lúc này là tự sắm cho mình một phương tiện đi mưa để tự tại, thong thả không phụ thuộc vào những yếu tố khách quan bên ngoài. Nếu ai cũng ý thức dọn tuyết trước cửa nhà mình mà không phải bận tâm với những móc sương trên nóc nhà người như lời chư Tổ đã dạy “các nhân tự tảo môn tiền tuyết; mạc quản tha môn ốc thượng sương” thì không gì có thể làm vướng gót trên trường dài ngàn dặm. Với tâm thế này, ta thấy khắp đất trời, ai cũng dễ thương và cuộc sống này thật đáng yêu, đáng sống biết dường nào!
Liên Trí

Thử hỏi lại mình

Thử hỏi lại mình

Đăng lúc: 21:19 - 24/11/2015

Có khi ngồi một nơi yên tĩnh nhìn lại chính mình, cuộc đời cứ trôi qua mang theo đó bao nhiêu vui buồn thương ghét. Chúng không mất mà nằm lại trong tàng thức, chẳng phân biệt sai đúng, tốt xấu, khổ vui, sanh tử hay Niết-bàn.

Chỉ ở chỗ, vui nhiều hơn buồn, thiện nhiều hơn ác, để rồi trong quá trình huân tập mà thọ nhận được cảnh an vui căn nghiệp của chính mình. Thấy người cứ loanh quanh khổ do chính mình tạo ra mà mình thấy khổ lây, như hiệu ứng dây chuyền, nhìn người ăn me chua mà miệng ứa nước miếng, trông thấy họ cắn đá lạnh mà mình thấy ê răng! Từ lục căn đến lục trần rồi đến lục thức. Cuộc sống cứ bám riết vào hiện tượng bên ngoài vốn vô thường nên khổ miết.


Là Phật tử, cần sống theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm
Sống trong sân si, hơn thua lừa lọc, ăn miếng trả miếng, chỉ làm khổ mình khổ người ngay cả trong hiện tại cho đến tương lai. Chấp chứa chi trong lòng mà không buông bỏ, vất cái đau khổ đó đi?

Nói chung là chưa chịu xả.

Muốn xả được thì phải lắng nghe và thấu hiểu. Lắng nghe với một cái tâm không thành kiến và tỉnh thức phân biệt đúng sai trong chánh niệm để biết thương nhau hơn.

Trong kinh Tăng chi bộ (kinh Sáu pháp vô thượng), Đức Phật dạy:

“Thầy Tỳ-kheo phải tu sáu pháp vô thượng. Những gì là sáu?

1. Mắt thấy sắc, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

2. Tai nghe tiếng, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

3. Mũi ngửi mùi, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

4. Lưỡi nếm vị, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

5. Thân chạm xúc, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

6. Ý đối với pháp, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

Ai được sáu pháp này là bậc vô thượng, là phước điền của chúng sinh, xứng đáng cho trời, người tôn trọng, cung kính, cúng dàng”.

Chỉ vì không lắng nghe mà sinh ra hiểu lầm nghi kỵ, sinh ra thù hận. Chỉ vì không lắng nghe nên vườn hoa biến thành vũng lầy, từ đồng xanh biến thành hoang địa!

Không dừng lại ở cái “tiểu ngã” trong tôi mà còn phải nghe thấy cả tiếng gọi quanh đây của trời đất bạt ngàn “đại ngã” kia để có sự quán chiếu mà cảm thông gìn giữ cứu hộ bảo bọc sống cùng nhau trong cảnh hạnh hòa.

“Thương người như thể thương thân”, câu tục ngữ Việt Nam đầy tính nhân văn đã gắn liền trong tâm thức con người trong cộng đồng, là lời nhắc nhở phải biết yêu thương trân trọng người khác như chính bản thân mình.

Sống trong thế giới chấp thủ thường khiến mình đau khổ vì phân biệt nhị nguyên đúng sai giả thật, khi đã chấp ngã rồi thì lọt vào thế giới vô minh nên chẳng hiểu mình hiểu người, ví như làm cha mẹ không hiểu tánh tình con cái, đã vợ chồng lại chẳng thấu lòng nhau.

Không dừng lại ở đó, sự lắng nghe trong nhẫn nhịn, trong chịu đựng, chấp nhận và thấu hiểu như Đức Phật đã dạy cõi Ta-bà này biết bao nhiêu thống khổ cần sự bao bọc chở che đầy vị tha với tinh thần vô úy mới tìm đến an lạc.

Vậy, tại sao mình không đem nụ cười cảm thông đến với người cho cuộc đời thanh thản dễ chịu hơn? Bởi cái lẽ thật cuộc đời là thấy rõ cái bản chất của mình, cái chủng tử có từ muôn ngàn kiếp trước mắc lên thân người, mà thân người có gì bất biến để tâm phân biệt bao che buộc người khác làm theo ý mình để rồi tâm cứ chấp mãi chất chồng?

Nhà Phật có câu “người tu hành thì giận không quá một đêm”, đó cũng là một cách thấu hiểu và cảm thông trong cuộc sống vốn đầy trắc ẩn bộn bề sinh tử này.

Là Phật tử, sống theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm, hàng ngày tụng niệm “Thề trọn đời giữ đạo, Theo tự tánh làm lành, Cùng pháp giới chúng sinh, Cầu Phật từ gia hộ”. Thế đã lắng nghe từ tự tánh thì nhận ra cái tâm vốn chẳng sanh chẳng diệt, chấp nhận cái “phiền toái” kia mà lấy làm tánh bồ-đề.

Biết lắng nghe cũng là một nghệ thuật như người mẹ hiểu con mình, như bác sĩ biết con bệnh, như Bá Nha gặp bạn tri âm Tử Kỳ. Thử hỏi, làm sao không hạnh phúc khi được người khác hiểu mình? Và, có những điều không thể nói, không thể hiểu thì “sự lắng nghe” kia cũng đã làm vơi bớt khổ đau của người khác rồi.
Thục Đ

Học Phật Bằng Cách Nào?

Học Phật Bằng Cách Nào?

Đăng lúc: 20:06 - 08/11/2015

Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp học Phật. Ở thế gian môn học nào cũng có phương pháp riêng của nó. Ví như môn toán học, người học trò trước phải biết số, kế học thuộc cửu chương, học cách cộng trừ nhân chia, lên nữa phải học công thức, phương trình v.v... Môn văn chương, trước phải biết chữ cái, học ráp vần, viết chánh tả, học văn phạm, tập cách làm văn v.v... Phương chi Phật pháp là môn học giác ngộ, mà không có phương pháp riêng của nó hay sao?


Phương pháp học Phật tức là ba môn Huệ học: Văn huệ, Tư huệ, và Tu huệ. Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ không trí huệ thì không sao vào được. Phật pháp là chân lý, là những sự thật, nếu không có ngọn đuốc trí huệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chung quanh, không cần trí huệ, chỉ dùng lòng tin đến với đạo Phật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao. Đây là chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để ba môn huệ học vào công trình tu học Phật pháp.

Thế nào là Văn huệ?
Văn là nghe, do nghe giáo lý Phật pháp, trí huệ mở sáng, gọi là Văn huệ. Chúng ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chư tăng, của thiện hữu tri thức đã tu học trước ta. Những lời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trong đó chứa toàn lời lẽ chân chánh, chỉ bày mọi sự thật cho chúng sanh. Càng nghe, trí huệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúng ta trực tiếp đọc kinh sách Phật, khiến mở mang trí huệ cũng thuộc Văn huệ. Chịu khó nghe giảng dạy, chịu khó nghiên cứu kinh sách Phật, đó là người biết từ cửa Văn huệ tiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.

Thế nào là Tư huệ?
Tư là suy xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạy trong Phật pháp, trí huệ càng tăng trưởng. Chúng ta được nghe lời chỉ dạy của thầy bạn, dẫn từ trong kinh Phật ra, song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học Phật. Buộc chúng ta phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếu quả thật đúng, từ đó chúng ta mới tin. Có thế mới thực hành đúng câu "các người phải tự thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc lên với chánh pháp" trong kinh Pháp Cú. Chúng ta muốn mở mang trí huệ, song tự mình làm sao mở được, phải mồi ngọn đuốc trí huệ của mình với ngọn đuốc chánh pháp của Phật, trí huệ mới phát sáng.

Mồi bằng cách nào?
Ví như chúng ta nghe vị Sư giảng rằng: "Tất cả thế gian đều là vô thường." Sau đó phải dùng trí huệ của mình phán đoán xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt câu hỏi: tất cả thế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát ngoài luật lệ ấy chăng? Nếu có, câu nói này chưa phải chân lý. Bằng không, mới thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàn tin. Thế rồi, ta tự khảo sát :

Con người có phải vô thường không? Từ ông bà đến cha mẹ chúng ta đều có sanh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu rồi chết. Kể luôn cả ta, khi nào còn nhỏ bé, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình thân tộc chúng ta đã thế, ngoài xã hội cũng thế, cả nhân loại trên thế giới cũng thế; ngàn xưa là thế, mãi sau này cũng thế. Quả là con người vô thường.

Đến những sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... có bị vô thường không? Chính cái nhà của mình, khi mới cất thì tốt đẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần, đến năm mười năm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng, xem bóng loáng tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơn khờn mặt, rồi đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạp khi mới mua đem về mới toanh, chạy được một năm vỏ đã rách, cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ hư. Thế là, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... những vật cần dùng bên cạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trăm ngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy đồng một số phận như nhau.

Chúng ta có thể kết luận rằng: "tất cả thế gian là vô thường", quả thật là chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khác đi, cũng không làm lay động được lòng tin của ta. Bởi lòng tin này đã được gạn lọc qua sàng lý trí, nên nó vững chắc không dễ gì làm lung lay.
Lại một thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lý luân hồi, bảo rằng: "Muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi." Ta tự đặt câu hỏi: Tại sao muôn vật đều luân hồi? Có vật nào không luân hồi chăng? Chúng ta bắt đầu xét từ thực vật:

Cây cối thành hình bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởng thành cây, nở hoa, kết trái; trái sanh hạt, hạt lại nẩy mầm... lộn đi đảo lại không cùng. Song đó là sự lộn đi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân cây ấy có đảo lộn vậy không? Cũng lộn đi đảo lại như thế. Thân cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất nước... nuôi dưỡng mới được sanh trưởng, dần dần thành đại thọ. Rễ hút đất nước nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng biến thành phân đất, cành gãy mục cũng thành phân đất, thân cây ngã mục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đất nước sanh trưởng, khi ngã mục lại trở về đất nước.

Nước do ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọng lại, rơi xuống thành nước; nước lại bốc hơi... mãi mãi không cùng.
To như quả địa cầu vẫn quay tròn quanh cái trục, sáng rồi tối, tối lại sáng. Căn cứ vào sự quay tròn của nó, người ta chia ra ngày giờ tháng năm, thời tiết xuân hạ thu đông, xoay vần thế mãi không cùng.

Do sự khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng "muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi", là sự thật không còn gì phải nghi ngờ.
Trên đây tạm cử vài thí dụ làm căn bản cho công cuộc suy xét phán đoán Phật pháp. Căn cứ vào đây, chúng ta phán xét những lời Phật dạy, hoặc chư tăng dạy trong những trường hợp khác. Có thế, mới phân biệt được chánh tà và mới đúng tinh thần người học Phật.

Thế nào là Tu huệ?
Sau khi phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày của mình, khiến chánh lý càng bày hiện sáng tỏ, là tu huệ. Ví như, đã biết rõ "tất cả thế gian là vô thường", chúng ta ứng dụng sự vô thường vào đời sống của mình, trong những trường hợp như sau:

Đã biết rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đến với bản thân, với gia đình ta, ta vẫn giữ bình tĩnh không hốt hoảng hãi sợ. Vì biết chắc điều đó ở thế gian không ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vô ích. Bởi không sợ nên tâm ta bình tĩnh sáng suốt, giải quyết mọi việc một cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốt để khuyên giải cho những người đồng cảnh ngộ bớt đau khổ.
Biết rõ thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tài sắc... lòng ta nguội lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợ ấy làm gì, để rồi chuốc khổ về mình, gây đau khổ cho người, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng. Lòng tham lam giành giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.

Do thấy rõ lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờ chết. Phải cố gắng làm mọi việc lành, nếu cơn vô thường đến, chúng ta có muốn làm cũng không sao làm được. Lại biết quý tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không tìm lại được, phải cấp bách nỗ lực làm lợi mình lợi người, không thể chần chờ.

Đó là ba trường hợp do biết "thế gian vô thường", chúng ta khéo ứng dụng tu hành trong cuộc sống hiện tại của mình. Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng trưởng. Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt, nên gọi là "Tu huệ".

Ví dụ khác, chúng ta nhận rõ "muôn vật luân hồi", liền ứng dụng lý luân hồi vào cuộc sống của mình. Nếu phải luân hồi, chúng ta chọn cái luân hồi nào tốt đẹp an ổn hơn. Ví như, biết các loài thảo mộc từ hạt nẩy mầm, sanh trưởng thành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... Chúng ta nên chọn lựa hạt tốt giống ngon đem ương, để sau này kết quả ngon, cho ta và mọi người được thưởng thức vị ngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta cũng không thoát khỏi, ta cần tạo những nhân tốt, nhân an vui, để mai kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.

Đã biết muôn vật luân hồi, chúng ta phải tìm xem nguyên nhân nào lôi cuốn vào trong ấy. Biết rõ nguyên nhân rồi, phải tìm cách thoát ra ngoài vòng luân hồi. Không đầu hàng khuất phục, để chịu lăn mãi trong luân hồi. Như các nhà khoa học nghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm cách chế phi thuyền đủ sức mạnh vượt ra ngoài vòng hút của quả đất, đi thẳng vào quĩ đạo v.v... Biết luân hồi để tìm cách thoát ra, chính là tinh thần "Tu huệ".

Văn huệ, Tư huệ rất cần thiết, song Tu huệ lại càng quan trọng hơn. Nếu có văn huệ, tư huệ mà thiếu tu huệ thì chỉ là huệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời sống con người. Nhờ tu huệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trên và giúp cho văn, tư được kết quả viên mãn.

Vì thế, đức Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặp Sư tăng, Sư ni, gặp Tăng ni rồi cần phải thưa hỏi Phật pháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần phán xét, phán xét rồi phải tiến tu. Được vậy mới đúng tinh thần Phật tử (Phỏng theo bài kinh Ma-ha-nam trong Tập A-hàm). Bồ-tát Quán Thế Âm cũng trình với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngài gặp Phật dạy tu phương pháp văn, tư, tu được vào chánh định và cho hiệu là Quán Thế Âm (Kinh Lăng Nghiêm). Chính trong giới Bồ-tát, Phật cũng dạy "dù ở xa trăm ngàn dặm, nghe có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ-tát cũng phải mang kinh luật đến đó học (Kinh Phạm Võng). Quả nhiên đức Phật không chấp nhận đệ tử tu hành tối dốt, phải đầy đủ ba môn huệ học, mới xứng là đệ tử của Ngài.

Ba môn huệ học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa học hiện nay. Bất luận môn học nào, trước tiên học lý thuyết, kế phê bình lý thuyết, sau thí nghiệm hay thực hành lý thuyết. Lý thuyết tức là văn huệ, phê bình tức là tư huệ, thí nghiệm tức là tu huệ. Có như vậy môn học mới tiến bộ và phát minh những điều mới lạ.

Tuy nhiên, về mục tiêu chánh yếu Phật học vẫn khác khoa học. Khoa học cốt phát minh mọi sự thật của ngoại giới, chinh phục giành quyền làm chủ thiên nhiên, bắt thiên nhiên làm theo ý muốn con người, để tạo vật chất dồi dào sung túc cho nhân loại. Phật học xoay lại ngự trị bản thân mình, gạn lọc đào thải những tâm thức nhơ xấu, kiến tạo một tâm hồn trong sáng an vui tự tại. Bởi khoa học gây tạo điều kiện vật chất dồi dào, nên con người dễ tranh đua giành giật kình chống lẫn nhau, Phật học cốt xây dựng tâm hồn trong sáng, nên người biết tu theo, lòng sẽ mở rộng thương yêu bảo bọc lẫn nhau.Vì thế, ba môn huệ học đều đặt căn cứ trên nguyên tắc "xem lại chính mình". Nắm vững nguyên tắc này, đọc kinh sách Phật, chúng ta nhận định phán xét không bị sai lẫn.
____________________________________
Được trích từ sách: BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT
HT. Thích Thanh Từ

Tại sao người làm việc ác không bị Báo Oán?

Tại sao người làm việc ác không bị Báo Oán?

Đăng lúc: 21:48 - 30/10/2015

Chúng ta mong muốn bồi đắp thêm phúc báo thì ban đầu cũng cần phải là có phúc báo, có phúc báo làm nền tảng, mới có thể bồi đắp phúc báo được.
Phật Đà từng có lần đi tới một nơi mà ở đó chỉ toàn là bụi đất, không có một cây cối nào sinh sống. Ông kể với vị đệ tử đi theo mình rằng, nơi đây trước kia rất giàu có, nhưng quốc vương là một người vô đạo. Một hôm, ông ta đã giết một vị chứng đắc quả vị A La Hán. Sau khi ông ta giết vị A La Hán rồi, trên trời đã thả xuống rất nhiều vàng bạc châu báu liên tiếp trong bảy ngày liền. Tất cả dân chúng đất nước đều như điên cuồng. Nhưng sau 7 ngày thì trên trời liền thả xuống toàn là bùn đất khiến cho cả đất nước đều bị vùi lấp.
Nguyên lai lúc đầu trên trời cho thả xuống vàng bạc châu báu là bởi vì vị quốc vương này có phúc báo. Bởi vì ông ta có phúc báo che chở cho nên ác nghiệp kia không có cách nào hiện ra trước. Trời thả vàng bạc châu báu xuống là để cho ông ta hưởng hết phúc báo. Sau khi đã không còn phúc báo che chở nữa, ác nghiệp liền lập tức hiện ra chính là lúc trời thả bùn đất xuống.



Người làm việc ác chưa bị báo ứng là vì còn chưa hưởng hết phúc báo, một khi phúc báo đã hưởng hết thì nghiệp báo lập tức xuất hiện. Có người kinh doanh ngành nghề sát sinh mà kiếm tiền, số tiền này kỳ thực là phúc báo ở trong mệnh của họ. Dù họ cũng có thể thông qua các cách khác để kiếm tiền, ví như gửi tiền ngân hàng để lấy lãi…, nhưng họ đã dùng sai phương pháp kiếm tiền. Sốtiền đã kiếm được kia đợi hưởng thụ xong rồi thì ác báo của giết nghiệp kia sẽ tới.
Người xưa giảng “có phúc báo không thể hưởng thụ hết”, lúc có phúc báo càng phải làm việc thiện, làm việc có đức, dùng âm đức để đền bù cho những việc làm sai trái trong quá khứ, chứ không phải là chỉ biết hưởng thụ phúc báo. Nếu như phúc báo kia một khi hưởng hết rồi, bị rớt xuống rồi thì mong muốn bồi đắp phúc báo là việc không hề dễ dàng.
Trong “địa tạng kinh” có giảng, con người một khi đã rơi vào “tam ác đạo” (ba đường là địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ) rồi, thì sẽ ở trong tam ác đạo mà luân chuyển, vào địa ngục làm quỷ đói, sau khi làm quỷ đói rồi lại làm súc sinh, sau khi làm súc sinh mới được làm người. Vậy sau khi làm người rồi, không có phúc báo, nghèo khó thấp hèn, không có cách nào bồi dưỡng phúc báo, rồi lại rớt xuống, điều này rất đáng thương.
Chúng ta mong muốn bồi đắp thêm phúc báo thì ban đầu cũng cần phải là có phúc báo, có phúc báo làm nền tảng, mới có thể bồi đắp phúc báo được.
Ác hữu ác báo, chỉ là thời điểm chưa tới mà thôi! Những lời này bạn có tin không


Theo Xuân Giao

Hiểu về hạnh tinh tấn

Hiểu về hạnh tinh tấn

Đăng lúc: 17:29 - 19/10/2015

Lời Phật dạy trong kinh Bồ Tát Bổn Hạnh: “Tánh biếng nhác đem lại hậu quả vô cùng tai hại. Nếu người ở đời mà biếng nhác thì cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, tài sản nghiệp nhà không phát triển. Nếu hàng xuất gia mà biếng nhác thì không thể vượt ra khỏi bể khổ sanh tử. Do đó biết rằng tất cả kết quả tốt đẹp đều phát sanh từ hạnh tinh tấn.”


Vậy tinh tấn là gì? Tinh là tinh chuyên, thuần nhất, không xen tạp; Tấn là đi tới không thối lui.

Tinh tấn là luôn luôn chuyên tâm nhất trí, cố gắng không ngừng để tiến tới một mục đích toàn thiện, tốt đẹp, sáng sủa, an vui. Còn theo nghĩa thông thường, tinh tấn nghĩa là siêng năng, chuyên cần. Nhưng trong chữ tinh tấn có hàm nghĩa chuyên cần, siêng năng để đạt một mục đích chân chính tốt đẹp chứ không phải siêng năng chuyên cần trong mục đích không tốt đẹp, hẹp hòi, ích kỷ. Ví như người triệu phú chăm lo làm giàu, để thu lợi về mình cho nhiều, như thế không được gọi là chánh tinh tấn; Chàng trai si tình, chuyên tâm trì chí làm những việc kinh thiên động địa để được lòng người yêu, như thế không phải là chánh tinh tấn; Người ham mê cờ bạc, ngồi liền mấy ngày đêm, mặc dù lưng đã mỏi, đầu đã nặng nhưng cố đánh thêm vài ván nữa, như thế cũng không được gọi là chánh tinh tấn. Tất cả những ví dụ trên được gọi là “Tà tinh tấn”.

Trong giáo lý đạo Phật tinh tấn thường có trong các phạm trù như: 01 tâm sở thiện trong 51 tâm sở; “Tứ như ý túc, Tứ chánh cần, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất thánh tài (Thất Bồ Đề Phần), Bát chánh đạo,”trong 37 phẩm trợ đạo;…

Như vậy, tinh tấn rất cần thiết không những cho người tu học Phật mà còn cho các hạng người trong các ngành nghề sĩ, nông, công, thương. Một học sinh không siêng năng, chăm chỉ học hành thì không có kiến thức cũng như trình độ hiểu biết dẫn đến trong cuộc sống gặp nhiều khó khăn, hơn thế nữa là góp phần tăng thêm những tệ nạn trong xã hội; Một người nông dân không chịu khó, siêng năng cày cấy, gieo hạt giống tốt, chăm sóc, bón phân, thường xuyên nhổ cỏ, tưới nước,… thì sẽ không có vụ mùa để thu hoạch; Một người công nhân không chịu khó, cần mẫn làm việc thì sẽ không có cơm ăn, áo mặc dễ dẫn đến mất việc và thất nghiệp lâu dài lâm vào những tệ nạn xã hội; Một người thương buôn không chịu khó đi đây, đi đó để học hỏi, không chịu khó tìm ra những chính sách, chiến lược kinh doanh,… thì dễ dẫn đến phá sản. Cũng vậy đối với một hành giả tu học Phật pháp mà biếng nhác thì sẽ mất pháp bảo. Bởi vì, một người phát tâm học Phật là để giải thoát khỏi sanh tử luân hồi hoặc ít nhất là thoát khỏi bốn đường ác (A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Muốn giải thoát thì phải tinh tấn đoạn trừ tham sân si. Tuy nhiên, tinh tấn ở đây phải được hiểu cho thật đúng nghĩa là không phải tinh tấn khổ hạnh ép xác, bởi vì nó có hại, không đưa đến yểm ly, ly tham, giác ngộ, niết-bàn. Sự hành thân hoại thể ấy chỉ đưa đến việc chấm dứt sự sống chứ không thể chấm dứt phiền não, giải thoát sinh tử khổ đau giống như trường hợp của Thái tử Tất-đạt-đa và 5 anh em ông Kiều Trần Như phải tu khổ hạnh 6 năm trong rừng chỉ uổng công chứ không đem lại kết quả tốt đẹp như mong muốn. Mặt khác chúng ta phải tinh tấn đoạn trừ phiền não bằng cách thường kiểm soát ba nghiệp trong sáu thời. Sớm tối mỗi ngày, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, từ tối đến sáng, cho đến một giờ một khắc, một niệm một sát-na, hành giả phải kiểm soát ba nghiệp. Ban đầu thực tập kiểm soát được trong một ngày đêm hành giả tạo tác bao nhiêu nghiệp thiện, ba nhiêu nghiệp bất thiện. Rồi từ đó dần dần kiểm soát đừng để tạo tác các nghiệp bất thiện bằng những lời Phật dạy như quán tứ niệm xứ, quán nhân duyên nghiệp báo, quán về quả khổ của ác nghiệp trong ba đường ác,… Sự thực tập kiểm soát cũng như các phương pháp đoạn trừ phiền não phải được áp dụng hằng ngày trong các công việc, thời khóa công phu, trong các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Được như vậy thì mới gọi là tinh tấn. Cũng ví như một người trồng lúa ngoài những việc cày cấy, gieo giống, tưới nước, bón phân,… còn phải thường xuyên dọn cho sạch cỏ thì cây lúa mới phát triển và cho hạt tốt được. Cỏ ở đây được ví như phiền não, thường xuyên dọn cỏ nghĩa là thường xuyên làm sạch phiền não trong tâm của mỗi hành giả vậy.

Nói tóm lại, người tu hành không có tinh tấn chẳng khác gì kẻ muốn vượt qua bể rộng mà không có thuyền bè. Do đó cần phải tinh tấn, vì tinh tấn là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy ta tiến mau trên đường thiện. Không có tinh tấn dù hành giả có sáng suốt bao nhiêu, có nhân từ đức hạnh bao nhiêu, hành giả cũng không làm được việc gì có lợi cho mình, cho xã hội. Cho nên,lời dặn cuối cùng của Đức Thế Tôn với các đệ tử trước khi Ngài từ giả cõi đời để nhập niết bàn là:

“Hỡi các đệ tử hãy tinh tấn lên để được giải thoát”.

Tâm Tri

Tự lực là con đường dẫn đến thành công

Tự lực là con đường dẫn đến thành công

Đăng lúc: 06:51 - 29/07/2015

Trong cuộc sống, chúng ta làm việc cũng giống như quả bóng bằng cao su, khi rơi xuống đất nó sẽ tưng lên. Chính vì thế, ta có thể thay đổi nghề nghiệp sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Gia đình, sức khỏe, bạn bè và tinh thần, lại được ví như những quả bóng bằng thủy tinh, nếu lỡ tay đánh rơi thì chúng sẽ trầy trụa, bị nứt, bị hư hoặc bị vỡ nát. Khi đó, ta khó mà hàn gắn và sửa chữa lại được.


Cũng vậy, khi ta không biết giữ gìn sức khỏe mà lao vào những thú chơi vô ích, thức suốt sáng thâu đêm để cờ bạc, rượu chè, hút chích, đàn điếm mà lãng phí thời gian một cách vô tích sự. Ai đã lỡ vướng vào vòng này thì thân tàn ma dại, sống thì làm khổ gia đình người thân, chết thì bị đọa lạc vào ba đường dữ, chịu khổ báo vô số kiếp không có ngày cùng.
Đến khi trở lại làm người thì thân thể xấu xí, đen đúa, bệnh tật, cô đơn, không người nuôi dưỡng. Gia đình là tổ ấm để chúng ta nương tựa, là nền tảng vững chắc nhằm phát triển một xã hội tốt đẹp.
Một con người tốt, một gia đình đạo đức, một xóm làng sống có nghĩa tình, biết thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, thì thế gian này sẽ là thiên đường hạnh phúc. Ngược lại, nếu ta sống không hiếu thuận với ông bà cha mẹ, không biết kính trên nhường dưới, vợ chồng không biết thông cảm và tha thứ cho nhau, không biết nuôi dạy con cái làm điều thiện lành tốt đẹp, không biết sống có chừng mực đạo đức, “muốn ít biết đủ”, thì ta sẽ dễ dàng bị tha hóa, sa đọa, mà bị dòng đời cuốn trôi.
Một khi con người đã sống thiếu hiểu biết thì rất nguy hại cho gia đình, xã hội, tình cha nghĩa mẹ không còn, tình chồng vợ cũng bị phôi phai, chia lìa, con cái cũng bị ảnh hưởng mà không có chỗ tựa nương. Nói chung, một con người hư hại làm khổ lụy bao nhiêu người thân và làm xã hội thêm nhiều gánh nặng.
Nhiều người dính vào tệ nạn xã hội dẫn đến trộm cướp, lường gạt, giết hại lẫn nhau. Có tệ nạn xã hội, có phạm pháp thì phải có chỗ dung chứa tội nhân, nên cứ thế con người mãi nghèo nàn, lạc hậu và trình trạng đạo đức, nhân phẩm con người càng bị xuống cấp trầm trọng. Đó là nỗi đau chung cả nhân loại phải gánh lấy, dần rồi tình người không còn nữa và con người dễ dàng sống trong vô cảm.
Chính chủ nghĩa tiêu thụ vật chất quá lừng lẫy làm con người mỗi lúc mỗi xa rời nhau, bởi thời gian ngồi lại bên nhau tâm tình, sẻ chia không có. Gia đình là nền tảng của xã hội, vậy mà ba thế hệ ông bà, cha mẹ, con cái không có cơ hội để sống yêu thương, hiểu biết. Xã hội càng nghèo nàn lạc hậu thì con người càng mê tín, mù mờ, càng sống theo chủ nghĩa tiêu thụ vật chất nên tình người dần rồi không còn nữa.
Chính vì vậy mà Phật dạy ta phải “muốn ít biết đủ” để có cơ hội cùng giúp đỡ sẻ chia, mà cùng cảm thông nỗi đau của người khác. Cái gì cần xài ta mới xài, để có dư chút đỉnh mà mở rộng tấm lòng, với tinh thần lá lành đùm lá rách. Khi đau yếu, bệnh hoạn, ta mới thấy sức khỏe là quý. Khi sa cơ, thất thế, ta mới thấy tình người là quan trọng. Vậy mà đa số con người chỉ biết sống vì tiền bạc, tài sản, vật chất mà đành lòng giết hại lẫn nhau.

Thế giới này là một vòng lẩn quẫn của sự hơn thua, phải quấy, tốt xấu, nên hư, thành bại. Ta cứ mãi tranh giành các thứ vật chất vô tri phù phiếm xa hoa, mà làm mất đi tình nghĩa của một con người. Vật chất là vô tri, con người là hiểu biết, là tri giác, con người là nền tảng của gia đình và xã hội. Do đó, ta cần sự yêu thương bằng trái tim hiểu biết, biết cảm thông và tha thứ, biết khoan dung và độ lượng, nhưng ta lại mặc tình làm ngơ, dửng dưng, lạnh lùng, vô cảm.
Cuộc sống này sở dĩ xây dựng mở mang phát triển cũng chỉ nhằm mục đích phục vụ lợi ích con người, ấy thế mà có mấy ai có được tấm lòng rộng mở vì tha nhân? Phật dạy, “trong bầu vũ trụ bao la này, từ con người cho đến muôn loài, muôn vật đều phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống”.
Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, kẻ thiếu phước thì phải cày sâu cuốc bẩm, phơi mình trong nắng mưa vậy mà đôi khi vẫn bị thiếu ăn. Ta không nuôi tằm, dệt vải, nhưng vẫn có áo quần và ta cứ như thế mà có đủ các thứ phục vụ nhu cầu cần thiết trong đời sống hằng ngày.
Sức khỏe của ta và những người thân yêu nếu để mất đi thì khó tìm lại được. Bạn bè cũng rất quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, nó là nhịp cầu nối kết để cùng nhau chia vui, sớt khổ. Có gia đình, có bè bạn, có sức khỏe, ta có thể sống vui, sống khỏe mà cùng nhau gầy dựng sự nghiệp giống nòi nhân loại.
Tinh thần lại càng quan trọng hơn hết, ta có hiểu biết, ta có nhận thức sáng suốt, nên biết tiếp nhận những thứ gì cần thiết. Nhờ vậy, ta sống có định tĩnh chừng mực nên khi được lợi lộc ta không vì nó mà tham đắm, mê mờ. Ngược lại, khi bị mất mát ta cũng không quá sầu bi, khổ não, do đó ít bị hai thứ được mất, hơn thua làm tổn hại tinh thần, nhờ ta thường xuyên biết quay lại chính mình mà thân tâm luôn được an ổn.
Tóm lại, ta muốn thành đạt trong cuộc sống thì trước tiên phải có ý chí và nghị lực, biết tranh thủ tận dụng hoàn cảnh sống của mình vì ta có hai bàn tay và khối óc. Như anh ăn mày cụt tay kia, nếu không được bà già cho một liều thuốc bổ tự lực cánh sinh, thì chắc có lẽ anh sẽ chịu chết chìm trong cuộc đời bần cùng, đói rách. Lần đầu tiên rinh gạch một tay gần hai tiếng đồng hồ, anh chắc phải chịu nhức mỏi, ê ẩm cả người. Nhờ vậy, anh học được cách thức làm người “sống phải có lòng tự trọng”.
Khi còn nhỏ dại, ta đương nhiên phải nương nhờ vào sự giúp đỡ của cha mẹ. Nhưng nếu bất hạnh, ta không có người thân thì sao? Ta vẫn phải chấp nhận một mình đơn độc, tự mình bươn chải, để làm sao có miếng ăn mà tồn tại với đời.
Cũng như có hai đứa bé một con nhà giàu, một con nhà nghèo. Đứa con nhà giàu khi bị té ngã sẽ khóc thét lên, chờ cha mẹ đỡ dậy. Cha mẹ vì thương con nên mọi cái đều đỡ đần chu đáo khiến đứa trẻ trở nên ỷ lại, cái gì cũng đều trông chờ người khác. Ngược lại, đứa trẻ con nhà nghèo khi bị té ngã không có ai nâng đỡ, nó không khóc ré như đứa con nhà giàu, mà tự đứng lên tiếp tục bước đi.
Cũng vậy, ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai mà vững vàng đi tới, không chịu khuất phục bởi một áp lực nào.
Người Phật tử chân chính khi đến với đạo pháp, ban đầu phải nhờ vào tha lực, nhờ sự hướng dẫn của quý Thầy Cô, đến khi hiểu biết rồi phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, hành trì theo chánh Pháp. Chính vì vậy, Lục Tổ Huệ Năng nói, “Khi mê thì Thầy độ - Khi ngộ thì tự độ”.
Nhiều người chỉ hiểu biết suông nên lúc nào cũng van xin cầu cạnh người khác, cứ nghĩ rằng trời Phật sẽ ban ơn hay gia hộ cho mình, nên đành chấp nhận cuộc sống như bèo dạt, mây trôi. Họ chẳng biết suy nghĩ, tìm tòi nghĩa lý sự thật của cuộc đời, thấy ai làm sao thì mình làm vậy mà không biết đúng sai, phải trái. Tuy nhiên, sự sống này ta vẫn cần “tha lực”. Khi chưa có hiểu biết hay đủ khả năng, ta vẫn cần sự trợ giúp của người khác. Khi đã biết rồi thì chính ta phải tự lực vươn lên.
Chính vì vậy mà Phật thường nói, “ta chỉ là người Thầy dẫn đường, còn có chịu tu hay không là do ý chí và nghị lực của mọi người”. Tha lực tuy rất cần thiết cho con người bước đầu vượt qua khó khăn, thử thách nhưng nếu muốn đạt được thành công viên mãn thì ta phải tự lực vươn lên bằng chính đôi bàn tay và khối óc của mình.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Trả nghiệp oan gia nhiều đời

Trả nghiệp oan gia nhiều đời

Đăng lúc: 06:45 - 27/07/2015

Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
Chúng ta phải nên biết: "trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu" là lẽ đương nhiên, đã gieo nhân xấu ác tất phải chịu quả khổ đau. Hiện đời làm ác mà vẫn hưởng phước, là do nhiều đời trước đã biết tích lũy phước báo nhưng không tu trí tuệ buông xả nên đời này vẫn tạo nghiệp ác. Ví như nhiều đứa con nhà giàu do ỷ lại cha mẹ, nên mặc tình ăn chơi bài bạc, nhưng không bị quả báo thiếu thốn, là do cha mẹ có quá nhiều của cải.

Trong cuộc sống thế gian thường nói có nợ mới có duyên, nhân quả vay trả để con người đến với nhau để trả nợ cho nhau bằng tờ giấy hợp đồng ở kiếp trước. Trong sự tái sinh luân hồi vô số kiếp, nhân quả tốt xấu đời trước sẽ theo duyên mà tiếp tục đến đời sau.
Người làm lành mà hay bị tai nạn, là do đời trước gieo nhân xấu nhiều giờ đủ duyên phải trả quả, nếu đời này không làm lành thì họa càng lớn hơn nữa. Chính vì vậy mà chúng ta phải tu ngay từ bây giờ để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui hạnh phúc. Tu là sửa, sửa xấu thành tốt, sửa sai thành đúng, sửa mê thành ngộ…

Chúng ta nên nhớ, tu là bỏ ác làm lành, nếu trong hiện đời có tai nạn xảy ra, biết đó là nghiệp quá khứ còn rơi rớt lại, không thối chí nản lòng mà kiên quyết vượt qua mọi trở ngại khó khăn. Chúng ta đừng nên nghĩ tu là mọi nghiệp xấu sẽ sạch hết, mọi chuyện đều được như ý muốn.
Khi chúng ta phát tâm tu, nếu gặp người làm chuyện khó dễ gây phiền hà, ta không nên buồn giận mà phải quán từ bi để lần hồi chuyển hóa họ. Nhất là những Phật tử có gia đình mà biết tu, khi bị gia đình người thân làm khó dễ, chớ nên buồn giận mà hãy tìm cách thuyết phục.
Chính Phật ngày xưa khi đi giáo hóa mà vẫn bị người đời dèm pha mắng chửi. Phật đi giáo hóa trong vùng Bà La Môn khiến nhiều người nhận ra chân lý mà phát tâm theo Phật, tức quá họ ra đón đường chửi Phật. Thấy Phật thản nhiên làm thinh, đi từng bước chân an nhàn họ chạy nhanh lên phía trước chận Phật lại và nói:
Này Cù Đàm ông có điếc không?
Dạ thưa quý ngài tôi không điếc ạ.
Nếu không điếc tại sao làm thinh?
Phật ôn tồn hỏi lại này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám giỗ, khi mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà đem tặng họ, nhưng họ không nhận thì quà ấy thuộc về ai?
Thì quà ấy thuộc về tôi, chứ còn ai nữa.
Cũng vậy, từ sáng đến giờ ông chửi ta, nhưng ta không nhận thì có lỗi gì với ông. Ông Bà La Môn nghe Phật nói thế liền cảm thấy xấu hổ và tự rút đi.
Người ta kêu tên Phật chửi mà Ngài cũng không buồn giận gì hết mà còn dùng nghĩa lý để chuyển hóa kẻ ghét bỏ mình. Còn chúng ta, khi bị ai nói động đến thì liền tìm cách trả trù, trả thù không được thì hẹn mười năm sau trả thù cũng chưa muộn, bởi vậy ta phải làm chúng sinh dài dài.
Chúng ta do si mê chấp ngã, nên ai chỉ nói một lời hơi nặng nề, thì ta ôm ấp mãi trong lòng mà tạo ra nỗi khổ niềm đau cho mình và người khác. Phật ví dụ người ác mắng chửi người có nhân cách đạo đức, giống như người ngậm máu phun người dơ miệng mình. Thế cho nên, ai chấp trước và dính mắc nhiều sẽ nhận quả khổ đau, mình chưa hại được ai mà đã hại chính mình.
Đa số chúng ta khi phát tâm tu thường cầu an suông, nếu không có người thử thách thì làm sao biết mình làm chủ được thân tâm nhiều hay ít. Chúng ta còn buồn giận nhiều về những việc bất như ý, đó là ta chưa tu tiến.
Tu là chuyển nghiệp để giảm bớt phiền não khổ đau mà được an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Người nào còn tham chấp nhiều thì sẽ khó mà chuyển nghiệp hết rầu chuyện này lại trách móc chuyện kia, tu như vậy không được lợi ích gì cả. Tu là biết cách làm chủ thân miệng ý, như đức Phật bị người chửi mắng, bị người vu oan giá họa mà Ngài vẫn bình tĩnh an nhiên trước những sóng gió của cuộc đời. Kính mong rằng ai cũng ý thức việc tu học của mình để chúng ta cùng sống bên nhau bằng tình người trong cuộc sống.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

“Chính mình là cây ngô đồng thì phượng hoàng mới đến đậu…

“Chính mình là cây ngô đồng thì phượng hoàng mới đến đậu…

Đăng lúc: 06:48 - 13/07/2015

“Dưới đây là 9 điều về nhân tình thế thái mà một người đã rút ra khi nhìn ngắm cuộc đời của mình và những người khác, những điều rất đáng để học hỏi:



1. Thường xét lỗi lầm của mình, sẽ từ từ quên đi lỗi lầm của người khác. Vốn không có ai đúng ai sai, chỉ là lập trường bất đồng, mỗi người tôn trọng lập trường của nhau.







2. Xin bạn đừng mạo muội đánh giá tôi, bạn chỉ biết tên họ của tôi, trái lại không biết câu chuyện của tôi; bạn chỉ nghe nói tôi đã làm cái gì mà không biết tôi đã trải qua những gì.



3. Một người chân chính mạnh mẽ sẽ không quá quan tâm đến chuyện làm vui lòng đẹp ý người khác. Đừng quá quan trọng cái gọi là giữ gìn quan hệ xã hội, điều quan trọng nhất là bạn phải nâng cao nội lực của chính mình, chỉ khi chính bạn rèn luyện tốt rồi, mới sẽ có người khác đến gần gũi bạn, chính mình là cây ngô đồng, phượng hoàng mới đến đậu, chính mình là biển lớn, trăm sông mới tụ hội, như hoa có hương ắt ong bướm tìm đến. Chỉ khi bạn đến được tầng bậc nhất định thì mới có được những quan hệ xã hội tương ứng, mà không phải là ngược lại.







4. Không có ai theo bạn cả một đời, cho nên bạn phải có năng lực vui sống ở nơi đang sống, vui với việc mình làm. Sẽ không có ai giúp bạn cả một đời, cho nên bạn phải kiến lập một cái tôi mạnh mẽ.



5. Đời người vốn là một loại cảm thụ. Lúc người bạn yêu vứt bỏ bạn, dù cho bạn kêu trời trách đất cũng không ích gì; lúc có người nói xấu bạn, dù lưỡi bạn như hoa sen, bạn cũng trăm miệng không biện bạch được, chuyện đời vốn là vậy. Lúc đắc ý, tâm thế như triều dâng, lúc thất chí, tâm tình như hoa rụng. Đừng quá xem trọng chính mình, những lúc bị khuất nhục, không còn cách gì, muốn rơi lệ, chính những giây phút đó là một bộ phận không thể thiếu trong đường đời.







6. Có người luôn ngưỡng mộ, ham thích hạnh phúc của người khác, bỗng có lúc quay đầu nhìn lại phát hiện cuộc sống của chính mình đang được người khác ngưỡng mộ. Kỳ thực mỗi một người đều đang hạnh phúc, chỉ là hạnh phúc của bạn thường đang ở trong mắt người khác. Ngọn núi hạnh phúc này vốn không có đỉnh, không có đầu, bạn phải học cách đi thật chậm, chiêm ngưỡng cảnh núi, thưởng thức cầu vồng, hóng gió mát vi vu, tâm trạng thư thả mới có thể cảm nhận cuộc sống thật sung túc.







7. Hạnh phúc không bỏ sót bất kỳ người nào, sớm muộn gì cũng có ngày nó tìm đến bạn.



8. Đời người là một quá trình vận động phát triển liên tục, bạn sẽ không bao giờ biết thời khắc kế tiếp sẽ phát sinh chuyện gì, cũng sẽ không rõ vì sao vận mệnh đối đãi với bạn như vậy. Chỉ sau khi bạn trải qua các loại biến cố trong đời sống, bạn mới rũ bỏ cái nhìn phù hoa ban đầu, nhìn nhận thế giới bằng tâm thái khiêm tốn.







9. Ví như bạn quét lá, dù hôm nay bạn dùng hết sức, thì lá khô ngày mai vẫn bị gió thổi đến. Trên đời có rất nhiều việc không cách gì mong gấp mong sớm được, chỉ có thể sống với giây phút hiện tại, không ngừng vươn lên.







Sưu tầm & Biên dịch : Minh Triết

Phật và chư Tăng, ai phước báu nhiều hơn?

Phật và chư Tăng, ai phước báu nhiều hơn?

Đăng lúc: 07:43 - 26/06/2015

Sau khi an vị nơi chỗ ngồi, đức vua Mi-lan-đà lại hỏi Đại đức Na-tiên tiếp:



- Thưa đại đức, Bà Pajàpati Gotàmì là di mẫu của Phật, có dâng cúng đến Đức Phật một bộ y quý giá, nhưng Đức Phật không thọ nhận, lại nói với bà rằng: "Hãy cúng dường bộ y này đến Chư Tăng, vì cúng dường đến Chư Tăng cũng như cúng dường đến Như Lai vậy." Chẳng hay điều ấy có đúng chăng?

- Thưa, quả có như thế.

- Như vậy chứng tỏ rằng Đức Phật không cao quý hơn Tăng, không cao thượng hơn Tăng, không phải là bậc thầy tối thượng của Tăng rồi! Đại đức nghĩ như thế nào? Bộ y kia đã được làm ra thật công phu, mất biết bao nhiêu là thì giờ cùng tâm huyết? Chính tự tay bà Pajàpati Gotàmì cán bông, bắn bông, quay sợi rồi tự dệt lấy. Thế mà Đức Thế Tôn đã cam tâm từ chối! Nếu Đức Thế Tôn quả đã tròn đủ các đức tánh cao thượng đặc biệt phi thường hơn Tăng thì ngài đã thọ nhận để cho bà di mẫu - vốn có ân đức nuôi dưỡng ngài từ nhỏ - được phước báu to lớn mới phải. Chuyện xảy ra như vậy làm cho trẫm có hai mối nghi, thưa đại đức. Mối nghi thứ nhất là phước báu của Phật không hơn phước báu của Tăng. Mối nghi thứ hai là Đức Thế Tôn quên nghĩ đến ân đức dưỡng dục đối với bà di mẫu của mình!

- Tâu đại vương, cả hai mối nghi của đại vương đều chính đáng, tuy nhiên, việc làm của Đức Phật chứng tỏ Đức Phật cao thượng hơn đại vương nghĩ rất nhiều.

- Xin đại đức hoan hỷ giải thích cho nghe.

- Bần Tăng muốn giải thích bằng ví dụ.

- Vâng, trẫm rất vui lòng.

- Ví như đại vương sắp truyền ngôi cho một vị hoàng tử vậy. Muốn cho hoàng tử sau này được mọi người tôn trọng, nể phục, khả dĩ có đủ uy tín để lãnh đạo quốc độ, có đủ uy tín với lân bang; nên trước mặt bá quan văn võ triều đình, trước mặt các sứ thần ngoại giao, đại vương thường ca ngợi tài đức, phẩm hạnh của hoàng tử. Đại vương làm như thế là nghĩ đến sơn hà xã tắc trong tương lai, hay làm như thế vì nghĩ rằng hoàng tử cao quý, cao thượng hơn đại vương?

- Dĩ nhiên là trẫm nghĩ đến quốc độ sau khi trẫm nhắm mắt.

- Việc ca ngợi phước báu của Tăng cũng y như thế. Đức Phật vì nghĩ đến tương lai của giáo pháp, muốn cho giáo pháp được thịnh mãn lâu dài nên Đức Phật mới ca tụng phước báu của Tăng. Dù sao, đến thời phải lẽ, Đức Phật sẽ nhập diệt; và kẻ kế thừa sự nghiệp hoằng truyền giáo pháp tồn tại năm ngàn năm là sứ mạng của Tăng. Tăng còn thì giáo pháp còn, cho nên Đức Phật khuyên bà di mẫu cúng dường đến Tăng cũng vì lẽ ấy. Đức Phật nghĩ đến Tăng cũng như đại vương nghĩ đến vị hoàng tử của đại vương vậy, đâu phải vì Tăng cao quý, cao thượng hơn Đức Phật! Đại vương hãy suy gẫm thử xem?

- Có lý lắm, trẫm đã suy gẫm rồi. Nhưng đại đức có ví dụ nào nữa chăng?

- Ví như cha mẹ vì thương con, lo lắng, chăm sóc con. Ngoài vấn đề lo cơm ăn áo mặc cho đầy đủ, đôi khi cha mẹ còn bóp tay, bóp chân tắm rửa, kỳ cọ, thoa dầu, trang điểm cho con nữa. Việc làm ấy của cha mẹ có phải là vì con cái cao quý, cao thượng hơn cha mẹ không, hở đại vương?

- Không phải thế. Mà vì cha mẹ nào cũng thương con, hằng lo cho con, mong cho con được sung sướng, được xóm làng nể trọng, để còn kế thừa sự nghiệp, đem lại danh thơm tiếng tốt cho gia đình, tổ tiên...

- Vâng, đúng là vì Đức Phật hằng chăm lo cho Tăng trong mai hậu được đầy đủ tứ sự cúng dường, được ngoại giáo và thế gian nể trọng, để thừa tự giáo pháp cho được xán lạn và vinh quang, tâu đại vương!

- Ngài còn ví dụ nào nữa chăng?

- Ví như một nước lân bang vốn quy phục đại vương, đem cống hiến cho đại vương những phẩm vật quý giá. Đại vương lại đem vật cống hiến ấy tặng cho vị quốc sư mà đại vương hằng kính trọng và thương mến. Người ta có vì lẽ đó mà bảo quốc sư ấy cao quý và cao thượng hơn đại vương chăng?

- Không thể bảo như thế được. Sở dĩ mà trẫm đem vật quý giá ấy ban tặng cho vị quốc sư là vì vị quốc sư xứng đáng được hưởng, ngoài ra, trẫm còn muốn văn võ bá quan trong triều đình tôn trọng danh dự và địa vị của vị quốc sư ấy nữa.

- Đức Thế Tôn là bậc thầy tối thượng của Tăng, là bậc thầy của chư thiên và nhân loại; ngài vĩ đại, cao thượng và cao quý hơn tất thảy chúng sanh trong tam giới, ân đức và phước báu của ngài ai nào dám so sánh được, tâu đại vương? Ở trong kinh Samyutta Nikàya (Tương ưng bộ) có kệ ngôn như sau: "Cao quý hơn tất cả các núi ở tuyết lãnh chỉ có Tuyết Sơn. Mặt trời là bá chủ, là cao quý hơn tất thảy các vật giữa hư không. Biển cả cao quý hơn tất cả sông hồ trên mặt đất. Mặt trăng cao quý hơn tất cả các vì tinh tú. Giữa tam giới, Đức Phật cao quý, cao thượng hơn tất cả chúng sanh." Lại nữa, Đức Pháp chủ Sàriputta có thuyết rằng: "Trên thế gian này chỉ có một người, một con người duy nhất, độc nhất, trải qua vô lượng kiếp tu tập các công hạnh, là kẻ tế độ chúng sanh; sanh ra trong thế gian là vì sự an vui, tiến hóa, sự lợi ích cho chư thiên và loài người. Vị độc nhất vô nhị ấy chính là Đức Chánh Đẳng Giác, bậc A-la-hán vô song, là Đức Phật Sakya Muni vậy." Tâu đại vương! Đức Phật cao quý và cao thượng như thế thì tâm bi mẫn của ngài đối với Chư Tăng mai hậu, đối với tiền đồ của giáp pháp cũng giống như đại vương đối với hoàng tử, như cha mẹ lo cho con, như đại vương ban tặng phẩm vật cho vị quốc sư vậy. Đại vương đã sáng tỏ chưa?

- Sáng tỏ rồi. Nhưng còn mối nghi thứ hai?

- Vậy đại vương nghĩ thế nào? Bà di mẫu cúng dường bộ y quý giá do tự tay mình làm đến Đức Phật là do động cơ nào thúc đẩy?

- Có lẽ là do động cơ mẹ con, nghĩa là nặng về tình cảm cá nhân hơn là bố thí cúng dường vì tâm ly tham, vì các trạng thái tâm cao thượng.

- Cúng dường, bố thí do tình cảm cá nhân, phước báu sẽ như thế nào so với sự cúng dường, bố thí bằng các trạng thái tâm cao thượng như xả, ly tham hoặc chỉ nghĩ đến Tăng cùng sự tồn tại lâu dài của giáo pháp?

- Dĩ nhiên bố thí cúng dường với các trạng thái tâm sau, phước báu sẽ thù thắng hơn nhiều.

- Đức Thế Tôn chính vì nghĩ đến ân đức to lớn của bà di mẫu nên ngài đã tạo duyên cho bà cúng dường bố thí đến Tăng, để bà hưởng được phước báu thù thắng trong mai hậu vậy. Điều lợi ích ấy chính đại vương đã tự nói ra.

- Vâng, hóa ra Đức Thập Lực Tuệ đã giúp cho bà di mẫu cúng dường cao thượng để bà hưởng được phước báu cao thượng. Trẫm đã rõ. Ôi! Hay vậy thay! thật là những ý nghĩa vàng ngọc, cao quý vậy thay!

(Trích trong Mi Tiên Vấn Đáp)

phat hoc(3)

Bi kịch đến từ tâm sân hận

Đăng lúc: 08:30 - 06/06/2015

Tâm bình yên giống như một ly nước tinh khiết, ngon ngọt. Một phút giận dữ giống như bỏ đất vào ly. Giận dữ làm cho bạn khốn khổ và làm cho người xung quanh cũng trở nên khốn khổ.
Tâm sân hận là tâm muốn gây tổn hại và hủy diệt. Ngược lại, kham nhẫn là tâm biết kiềm chế, không gây tổn hại và hủy diệt. Rất khó đối trị lòng sân hận; rất khó phát triển lòng kham nhẫn. Kham nhẫn là đức tính duy nhất thắng được sân hận.

Có người nói giận dữ không phải là quá xấu xa, đôi khi cũng nên nổi giận để xả bớt cơn đau trong lồng ngực. Một số bác sĩ trị liệu đôi khi còn khuyên nên nổi giận. Tôi không tranh cãi về vấn đề này vì tôi không phải là chuyên gia trị liệu. Sân hận, đố kỵ, và tự hào có thể đưa con người đến chỗ thành đạt các mục tiêu của mình ở trường học, chỗ làm, và trong mọi lĩnh vực khác của đời sống.

Mặc dầu nó đem đến sự thỏa mãn một dục vọng nào đó, bất kỳ thành công nào đạt được bằng các phương tiện như thế sẽ phải trả giá đắt. Mục tiêu không thể nào biện minh cho phương tiện, đó là điều cần nhớ. Sự bùng nổ cơn giận sẽ không đem lại lợi ích nào dài lâu, có chăng chỉ là một chút thỏa mãn ngắn ngủi.

Giá của cơn giận rất đắt, cực kỳ đắt. Nó không chỉ là “viện phí” mà bạn trả cho bác sĩ trị liệu; về tâm linh nó rất tổn hại; và trong đời sống hằng ngày, nó làm mất đi cái tâm trong sáng, yên bình. Tâm bình yên giống như một ly nước tinh khiết, ngon ngọt. Một phút giận dữ giống như bỏ đất vào ly. Giận dữ làm cho bạn khốn khổ và làm cho người xung quanh cũng trở nên khốn khổ – gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và cả xã hội cũng trở thành khốn khổ bởi cơn giận của bạn.

Hãy tưởng tượng đêm qua bạn có một giấc ngủ ngon. Bạn thức dậy, khỏe khoắn, thoải mái, phấn chấn. Bạn hy vọng một ngày tốt lành. Rồi bạn đi ra khỏi nhà và gặp phải một chuyện bực mình. Người nào đó đã đậu xe chắn ngang làm bạn không lấy xe mình ra được và bạn không tìm ra chủ xe để yêu cầu chuyển chỗ. Bạn tức tối. Bạn nghĩ, “Mình sẽ bị trễ việc mất. Mình sẽ thế này, thế nọ. Thật là bực cả mình”, hoặc nghĩ quẩn thế nào đó. Khi bực bội, hãy nhìn lại tâm trí mình. Tâm trạng phấn chấn không còn. Khuôn mặt bạn dài ra. Trong một lát, cơn giận có thể qua đi nhưng tâm trạng vui vẻ không còn. Bạn đâu có thường xuyên có được cảm giác tươi vui như thế. Lâu lâu nó mới đến một lần vậy mà bây giờ nó đã ra đi.



Cơn giận cướp đi của bạn sự thoải mái của cả thân và tâm. Và chừng nào mà bạn còn nuôi niềm sân hận, cơn giận sẽ bùng lên thiêu đốt và hành hạ bạn. Không có niềm vui mới nào sẽ sinh khởi và cả niềm vui đã có cũng tiêu tan. Bạn không thể nào cảm thấy được nghỉ ngơi bất cứ lúc nào trong ngày; thậm chí bạn không thể nào tập trung tư tưởng hay suy nghĩ. Bạn cảm thấy như có người đã bắn một mũi tên xuyên qua tim mình. Nếu trí óc bị xáo trộn thì có nghĩa rằng bạn còn phải trả giá bằng sức khỏe của mình.

Cơn giận ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống tương lai? Theo giáo pháp truyền thống, cơn giận được ví như lửa đốt cháy nhiều nhiên liệu – thứ nhiên liệu được tạo ra từ đức hạnh. Hãy tưởng tượng chỉ trong một phút giận dữ rất nhiều công đức tích luỹ từ bao lâu nay bị đốt cháy. Tạo ra nghiệp thiện thật là khó. Phải nỗ lực rất nhiều, suy nghĩ nhiều và hy sinh nhiều. Ấy thế mà một phút giận dữ có thể làm tiêu tan tất cả.

Giận dữ dễ trở thành thói quen

Cơn giận nổi lên thật dễ dàng giống như nướng bánh mì bằng lò nướng. Đó là một thói quen. Chúng ta có thể nghĩ rằng mình không muốn nổi giận, nhưng từ sâu trong lòng chúng ta ắt phải có một chút khoái trá nào đó khi làm như vậy. Cơn giận cho chúng ta một chút thoả mãn: “Mình đã trút hết nỗi bực bội. Mình đã cho người ta biết tay”.

Mặc dầu sau đó chúng ta có thể hối tiếc là đã la hét om sòm, sự hối tiếc này không đủ mạnh để kiềm giữ chúng ta. Chính sự thỏa mãn đang giữ chặt chúng ta. Điều này rất khó thấy. Hầu hết chúng ta đều phủ nhận nó. Nếu không có sự thỏa mãn đó thì chúng ta đâu có để mình mắc kẹt vào cơn giận và trở nên bất an. Chúng ta bị thúc đẩy phải lặp đi lặp lại hành vi đó. Nó trở thành một thứ mê hoặc.

Và khi bạn để mặc cơn giận tuôn trào nó sẽ trở lại thường xuyên hơn. Bạn trở nên cáu kỉnh, dễ nổi nóng và sự nóng giận trở thành một thói quen trước khi bạn ý thức về chuyện ấy. La hét, nổi trận lôi đình trở thành một thói quen. Bạn có thể có cảm giác mình chiếm thế thượng phong, đặc biệt là khi những người xung quanh không chống trả lại. Họ giữ im lặng có thể vì họ nghĩ chuyện không đáng phải đôi co, hay vì không thích lớn tiếng cãi vã, hoặc vì phép lịch sự hay ý thức về phẩm giá. Dù lý do nào đi nữa thì cũng không phải vì họ yếu và bạn mạnh. Nếu cơn giận cho bạn cảm giác về sức mạnh thì bạn đã bị cơn giận làm mê mờ tâm trí đi rồi.

Tôi không giận, nhưng mà…

Một người đàn ông đang lái xe trên đường cao tốc vừa mở radio. Thình lình có thông báo: “Trên đường cao tốc như thế như thế, có một người đang lái xe ngược chiều. Hãy cảnh giác tối đa”. Ông ta nhìn quanh rồi nói: “Chỉ một người lái xe ngược chiều thôi sao? Có đến hằng trăm người đang đi ngược chiều đấy chứ!”.

Làm sao chúng ta có thể tìm được tự do? Chúng ta phải nhận thức được các tình cảm bất thiện đang cầm tù chúng ta. Chúng ta có nhận diện cơn giận, có nhận ra lòng đố kỵ, chúng ta nhận ra chúng, nhưng chúng ta không thừa nhận – hãy chỉ tay vào mình – rằng đó là cơn giận của mình.

Chúng ta thường không thừa nhận mình đang nổi giận, không thừa nhận sự ngu dốt của mình. Chúng ta muốn phủ nhận chúng. Chúng ta muốn phủ nhận rằng mình đang giận, mình có lòng ganh ghét, mình ngu dốt. Nếu mình tiếp tục phủ nhận như thế thì làm sao mình nhận thức được nó?

Có người nghĩ, “Vâng, giận dữ là điều xấu; tôi không nên tỏ ra giận dữ”. Và thay vì để cho cơn giận bùng ra thì họ dồn nén nó. Thay vì loại bỏ nó thì người ta cất giữ nó. Bạn phải thừa nhận rằng nó vẫn còn đó. Một vài người, những người chân thật, sẽ nói cho bạn biết rằng, “Tôi đang giận”. Còn hầu hết mọi người thì nói, “Tôi không giận, nhưng…” Phải không? Và nhiều người sẽ sẽ nói, “Tôi không có vấn đề, nhưng… người khác thì có vấn đề”.

Bạn có vấn đề lớn bằng con voi ở bên trong, dù bạn có phủ nhận bao nhiêu đi nữa. Bằng cách phủ nhận bạn lại làm cơn giận tăng thêm một chút. Bạn có thể lôi kéo vài người nữa vào cuộc, tạo ra thêm một chút rắc rối, và thêm một chút nghiệp bất thiện. Đó là những gì chúng ta làm thay vì thừa nhận. Hãy thừa nhận. Nếu bạn có thể thừa nhận rằng mình đang giận và dành hai ba phút để nhìn vào tâm trí mình thì bạn sẽ cảm thấy hơi xấu hổ, hơi mềm yếu, hơi ngượng ngùng. Và khi trải qua cảm giác ấy, cơn giận dịu đi rất nhiều.

Có thể sẽ mất một tuần hay một tháng để thừa nhận, thậm chí là một năm. Một số trong chúng ta giận mẹ của mình, và nuôi mối hờn đó mãi. Chúng ta ôm chặt nỗi giận suốt nhiều năm. Nhưng dù có giận bao lâu đi nữa, hãy thừa nhận. Rồi lần kế tiếp cơn giận sẽ không kéo dài lâu như thế. Cơn giận càng lúc càng yếu, và sẽ có lúc bạn có thể nhận ra nó vào lúc nó nổi lên. Rồi bạn có thể nhận ra nó đang manh nha trước cả khi bạn thật sự nổi giận, và về sau hoàn toàn tránh được nó.

Bực bội là một dạng nhẹ hơn của sự giận dữ hay sân hận. Đó cũng là một loại giận tuy rằng không phải là loại muốn gây tổn hại. Sự bực bội chỉ là luồng gió nóng thổi qua. Chúng ta cảm nhận nó nhưng một sự nóng lên trong cơ thể. Nó làm chúng ta mất đi một chút sáng suốt, vì thế cho nên cũng không tốt. Một sự bực bội có thể sinh ra từ lòng nhân từ: tình thương của bạn đối với con cái, với học trò, hoặc là đối với cha mẹ già và bạn có thể la lối những người ấy. Nhưng nếu bạn tỏ ra bực bội thường xuyên, nó có thể dễ dàng bùng lên thành cơn giận khủng khiếp. Vì thế đừng làm cho nó trở thành một thói quen. Bạn đang chơi đùa với lửa đấy.

Câu chuyện về cơn giận dữ

Một bà cụ có tính tình cau có, thường xuyên nổi giận vì những sự việc nhỏ nhặt, hơn nữa, mỗi khi tức giận hay dùng lời lẽ ác độc, vô tình đã làm tổn thương nhiều người, vì thế bà ta giao tiếp với hàng xóm bạn bè đều không được hài hòa.

Bà ta cũng biết khuyết điểm của mình, mong muốn sửa lại lỗi lầm thành tật này. Nhưng mỗi khi tức lên thì chính bà ta cũng không thể khống chế được tâm mình.

Một hôm, một người đã nói với bà : “Chùa gần đây có một vị thiền sư, cũng là vị cao tăng, tại sao bà không đến xin lời chỉ dạy, biết đâu thiền sư có thể giúp được cho bà.”

Bà ta cũng cảm thấy có lý, đã đến tham vấn với thiền sư.

Khi bà ta thổ lộ tâm trạng của mình, bà ta có thái độ rất thành khẩn, rất mong muốn có được một vài lời khai thị từ vị thiền sư đó. Vị thiền sư im lặng nghe bà kể lể, chờ cho bà ấy nói hết, mới dẫn bà ta vào một thiền phòng, sau đó khóa cửa thiền phòng và rời khỏi đó.

Bà ta một lòng muốn có được lời chỉ dạy của thiền sư, nhưng không ngờ thiền sư đã nhốt bà ta vào trong một thiền phòng vừa lạnh vừa u tối. Bà ta tức tối hét lên, cũng như ngày thường, bà ta buông những lời nhục mạ quái ác. Nhưng cho dù bà ta có la hét cách nào, nhưng ở ngoài vẫn im lặng, thiền sư hình như không nghe thấy lời nào.

Khi không còn chịu đựng được nữa, thì bà ta thay đổi thái độ cầu xin thiền sư thả mình ra, nhưng thiền sư vẫn không động lòng thay đổi cách hành xử của mình, vẫn mặc kệ bà ta tiếp tục nói gì thì nói.

Qua một hồi rất lâu, cuối cùng trong thiền phòng cũng không còn tiếng la hét hay nói năng của bà ta nữa, thì lúc này, phía ngoài thiền phòng mới có tiếng nói của thiền sư hỏi : “Bà còn giận không ?”

Thế là bà ta giận dữ trả lời : “Tôi chỉ giận tôi, tôi hối hận sao phải nghe lời người khác, tìm đến cái nơi quỷ quái này để xin ý kiến của ngươi.”

Thiền sư ôn tồn nói : “Kể cả chính mình bà cũng không chịu buông tha, thì bà làm sao có thể tha lỗi cho người khác chứ ?” Nói xong thiền sư lại im lặng.

Sau một thời gian im lặng, thiền sư lại hỏi : “Bà còn giận không ?”

Bà ta trả lời : “Hết giận rồi !”

“Tại sao hết giận !”

“Tôi giận thì có ích gì ? không phải vẫn bị ông nhốt tôi trong cái phòng vừa u tối vừa lạnh lẽo này hay sao ?”

Thiền sư nói với vẻ lo lắng : “Bà xử sự kiểu này càng đáng sợ hơn đấy, bà đã đè nén cơn tức giận của mình vào một chỗ, một khi nó bộc phát ra thì càng mãnh liệt hơn.” Nói xong, thiền sư lại quay đi.

Lần thứ 3 thiền sư quay lại hỏi bà ta, bà ta trả lời : “Tôi không giận nữa, ông không xứng đáng để tôi giận !”

Thiền sư nói : “Cái gốc tức giận của bà vẫn còn, bà cần phải thoáng ra khỏi vòng xoáy của tức giận trước đã.”

Sau một hồi lâu, bà ta đã chủ động hỏi thiền sư : “Bạch thiền sư, ngài có thể nói cho con biết tức giận là cái gì không ?”

Thiền sư bước vào, vẫn không nói chuyện, chỉ có động tác như vô tình đổ đi ly nước trong cái ly trên tay.

Lúc này thì bà ta hình như đã hiểu.

Thì ra mình không bực tức, thì làm gì có tức tối giận hờn ? Tâm địa trống không, không có một vật gì, thì làm gì có tức tối ?

Trong lòng không có bực tức, thì làm sao có cơn giận ?

Thật ra tức tối không những tự làm cho mình khổ đau, và những người xung quanh cũng theo đó mà buồn lòng. Lúc tức tối tức giận, không gì ngăn cản cái miệng, buông lời quái ác, một số lời lẽ trong đó có thể làm đau lòng người nghe, thậm chí có cả những người yêu thương quan tâm mình.

" Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai “, chỉ một niệm khởi sân mà kết quả là muôn ngàn chướng ngại nẩy sanh.

Cho nên đừng nên vì sự việc nhỏ nhặt mà gây ra chuyện hại người hại mình, tức tối la hét là hành vi của kẻ ngu muội.

Tuy chúng ta chưa thể là một người thông minh, nhưng tối thiểu chúng ta cũng đủ trí tuệ ngăn cản mình làm một con người ngu dại. Xem nhẹ hơn mọi sự việc không như ý, đồng thời tìm thấy ich lợi trong im lặng, giác ngộ ý thiền trong cuộc sống. Từ đó chúng ta sẽ cảm nhận cuộc sống không cần phải mệt mỏi như ta tưởng, cũng không phài khốn khó như ta đã gặp.

Những sự việc nhỏ nhặt cũng giống như những hạt cát trong đôi giày đã làm cho bạn khó chịu.

Thế thì bạn lựa chọn cách giũ bỏ hạt cát hay vứt bỏ đôi giày ? Chúng ta không thể không mang giày, vì còn con đường dài phía trước, thế thì tại sao chúng ta không chịu giũ bỏ hạt cát !



Theo Tịnh Độ

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 14
  • Hôm nay 245
  • Tháng hiện tại 61,999
  • Tổng lượt truy cập 23,468,248