Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Nét đẹp trì bình khất thực trên đất Thái Lan

Nét đẹp trì bình khất thực trên đất Thái Lan

Đăng lúc: 07:27 - 08/03/2017

Có thể khẳng định, vấn nạn giả sư đã cướp đi cơ hội - phương tiện để mang hình ảnh đẹp của những nhà sư lặng lẽ xếp thành hàng trì bình vào những buổi sáng: bước vào cuộc đời, vào từng ngõ ngách xóm làng để tạo duyên cho người gieo duyên với Tam bảo ngay trên chính trên quê hương Việt Nam mình.
tribinh.jpg
Nét đẹp trì bình và gieo duyên với Tam bảo của người dân nước Phật giáo - Ảnh: Pixabay

Tôi đã trì bình khất thực ở Thái Lan...

Tôi đã từng yêu quý chiếc y và hình ảnh của một nhà sư ôm bát trì bình ngang qua nhà mình khi còn rất nhỏ, đó như là hình ảnh đánh thức hạt giống lành trong tiềm thức rồi sau đó phát tâm xuất gia để được trở thành hình ảnh đó. Thực sự không còn niềm hạnh phúc nào bằng khi tự mình đắp y mang bát đi khất thực trì bình vào những buổi sớm mai một cách tự do và không sợ bị dòm ngó thật-giả, đúng-sai như một sự thực tập đức hạnh khiêm cung cần có và tự nhắc mình là Khất sĩ - xin ăn tu học, lấy phẩm thực để nuôi thân, pháp hành để nuôi trí.

Với cơ duyên du học tại Thái Lan, ngoài những ngày học chính thức tại trường, vào những ngày cuối tuần hoặc ngày Phật nhật (4 ngày trong tháng - như ngày rằm tại VN) thì tôi có nhiều cơ hội để tiếp xúc và thực tập truyền thống tốt đẹp này ngay tại thủ đô Bangkok - một thành phố hiện đại bậc nhất của Thái Lan.

Khi trời vừa hừng sáng, đúng 5 giờ sáng là tôi thức dậy vệ sinh cá nhân, lấy y, ôm bát - bát ở đây được làm bằng bạc hoặc nhôm và được bao bọc bên ngoài bởi chiếc thẩu mây và có dây đeo ngang bên vai phải để đỡ mỏi tay khi ôm bát đi đường dài quanh khu vực chùa nơi mình cư trú hoặc xa hơn.

Vừa bước ra khỏi cổng là đã thấy người dân trải những chiếc chiếu nhỏ, quỳ bên lề đường, đặt một mâm thức ăn trước mặt để đợi Tăng đoàn đi ngang qua mà dâng cúng. Điều đặc biệt là họ phải thức dậy thật sớm, sớm hơn các nhà sư để chuẩn bị thức ăn cúng dường, thường là cơm, xôi, trái cây và vài cái bánh để thể hiện tấm lòng tôn kính cũng như sự chuẩn bị chu đáo cho phẩm thực cúng dường của mình. Đôi khi những Phật tử này phải thức cả đêm để gói bánh và ngồi canh nồi cơm chín.

Khi thấy các sư đi ngang qua, lần lượt người dân không ai bảo ai, tự lấy thức ăn bỏ vào trong bát dâng lên cúng dường và nhờ các sư chú nguyện.

Khi ấy, mọi người vừa thấy tôi bước đến thì nở nụ cười như ra hiệu muốn cúng dường, và thế là tôi nhẹ nhàng đứng lại để họ quỳ xuống chắp tay trang nghiêm theo nghi thức truyền thống cúng dường của người Thái. Sau khi bỏ thức ăn vào bát cho chư Tăng và mỗi tín chủ sẽ thọ nhận lại lời kinh cầu nguyện sớm mai từ sự gia tâm chú nguyện của Tăng đoàn (riêng tôi thì những ngày đầu còn nhiều bỡ ngỡ nên chưa thể tụng kinh bằng tiếng Pali, khi ấy tôi nhẹ nhàng tụng phẩm hồi hướng công đức bằng tiếng Việt để gửi trao năng lượng bình an đến họ - NV), cứ thế tôi lại thấy họ cười và hoan hỷ vô cùng như để bắt đầu một ngày mới ngập tràn niềm tin.

Sau khi nhận đủ thức ăn, tôi quay người trở lại con đường cũ để trở về chùa thọ dụng phần thực phẩm mà mình đã nhận được và phần nào còn dư lại tôi để dùng chung với thức ăn độ ngọ được nấu vào buổi trưa. Riêng, vào những ngày lễ lớn, thức ăn cúng dường hơi nhiều thì các vị cư sĩ hay còn gọi là hộ bát xách giỏ đi theo bên cạnh nhà sư trong lúc trì bình để hỗ trợ chư Tăng xách đồ, sau khi được chú nguyện xong thì họ mang chuỗi thức ăn dư về lại cho những người nghèo khó trong xóm hoặc gửi đến các trung tâm nuôi trẻ mồ côi - phúc lợi xã hội gần chùa như một sự cho - nhận tiếp nối, đầy nhân văn.

Xong buổi sáng khất thực vào ngày cuối tuần tại đất nước Thái Lan, tôi lại lên đường tiếp tục đi dạy tiếng Anh miễn phí cho trẻ em nghèo trong vùng. Lớp học được bắt đầu vào lúc 7 giờ sáng cuối tuần, hôm nào các em cũng tập trung lại từ rất sớm tại phòng học trong khu ký túc xá mà mình đang ở. Thấy tôi đến, các em vội đứng lên chắp tay chào và quỳ xuống làm lễ (lạy) theo truyền thống. Theo đó, sẽ có hai em đại diện dùng thau nước sạch và khăn để lau chân cho nhà sư mà cũng vừa là thầy giáo của mình để thể hiện niềm tôn kính.

Sở dĩ có truyền thống đó vì tại Thái Lan, Tăng sĩ đóng vai trò hết sức quan trọng trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước, tạo nên một mối liên hệ mật thiết lâu đời giữa các Tăng sĩ và quần chúng nơi mình đang ở. Các ngôi chùa sẽ là những trung tâm văn hóa, học thuật và giáo dục, trong đó các nhà sư luôn được coi là thầy giáo về mặt tâm linh lẫn học thức ở đời - để hướng dẫn, dìu dắt, nuôi dưỡng những thế hệ tiếp nối, phụng sự đất nước mình trên tinh thần đạo đức nhà Phật. Ngoài ra, Tăng sĩ còn được xem như “thẩm phán” để khuyên nhủ, giải quyết và giúp đỡ những mối quan hệ bất hòa trong gia đình và xã hội khi chưa thật sự cần đến sự can thiệp của pháp luật.

Mong ước đơn sơ của một Khất sĩ

Phải chăng, trăm vạn ngôn từ có khi không bằng một hình ảnh thảnh thơi bình dị thật sự chín muồi của một Tăng sĩ nhẹ nhàng, tươi mát, thật tu, thật học, đắp y - mang bát bước đi trên những cung đường đầy tấp nập của chợ-đời để trao truyền, tiếp nối và thức tỉnh cái duyên của đạo cho những ai đã gieo trồng từ vô thủy vô chung?

Thực ra, sự bình dị, khiêm cung từ lời nói đến hành động là bản chất vốn có của người xuất gia học Phật, khi luôn thấy mình nhỏ bé, cầu học và biết dừng lại đúng lúc - đó là những yếu tố trọng yếu cần có ở những người tu trẻ như tôi, thấy rằng phép khất thực là cách tự dạy, tự học, tự nhắc mình hữu hiệu nhất bằng thân giáo để yểm trợ và dưỡng nuôi chính mình từ bài học không lời mà mình phải ôn, phải luyện mỗi ngày từ các bậc tiền nhân đi trước. Khi ấy các ngài cũng đã từng mang đạo vào đời bằng chính đôi chân, bằng mảnh y, bằng chiếc bát của Phật để vân du trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này.

Mơ rằng, một ngày nào đó tôi và những huynh đệ có thể lại được tiếp tục thực hiện phép khất thực ngay trên chính quê hương mình chứ không phải thực hiện ở một nơi nào khác hay tại một đất nước nào đó như đã kể trên. Biết rằng vẫn còn nhiều những bất cập, những khó khăn nhưng đừng vì sự lợi dụng của những người giả sư để rồi “thỏa hiệp”, đánh mất đi hình ảnh thiêng liêng, bài học đạo-đời giá trị mà đã ít nhiều làm bừng tỉnh biết bao con tim khi có duyên lành được hội ngộ, được nhìn thấy và đem lòng kính phục, tiếp nối - trở thành những “thạch trụ tòng lâm” mai sau.

Và rằng đừng để phép khất thực được xem là điều tế nhị nữa, khi đấy là món ăn thực dưỡng tâm linh hết sức quan trọng và rất cần thiết cho những người xuất gia trẻ, chuyên chở bài học khiêm cung, bình dị và tập nhận diện chính mình giữa một xã hội ngày càng thêm trăm điều cám dỗ...

Làm phước không bao giờ đủ

Làm phước không bao giờ đủ

Đăng lúc: 07:25 - 04/01/2017

Làm phước không bao giờ đủ

GN - Làm phước hay vun bồi phước đức là một trong những hạnh tu căn bản của người đệ tử Phật. Nhất là với hàng Phật tử tại gia thì việc tu phước có vai trò rất quan trọng vì tương đối dễ làm, và nhờ phước đức nâng đỡ nên mọi phương diện cuộc sống trở nên thuận lợi, tốt đẹp hơn. Trong các việc phước thì bố thí, cúng dường, hộ trì Tam bảo mang đến phước báo thù thắng nhất.
a cung dang.jpg
Cúng dường chư Tăng

“Một thời Đức Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ vua Ba-tư-nặc… đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết thâm pháp cho vua, khuyến khích, làm cho hoan hỷ. Vua Ba-tư-nặc nghe thuyết pháp xong, bạch Thế Tôn: Cúi mong Thế Tôn nhận lời con thỉnh trong ba tháng, cùng Tỳ-kheo Tăng, chớ đi nơi khác.

Thế Tôn làm thinh nhận lời thỉnh của vua Ba-tư-nặc. Vua Ba-tư-nặc thấy Thế Tôn yên lặng nhận lời mời, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi lui đi. Về đến thành Xá-vệ, vua ra lệnh cho các quần thần: Ta muốn cúng dường thức ăn cho Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng trong ba tháng, cung cấp các thức cần dùng như y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men khi bệnh tật. Các ông cũng nên phát tâm hoan hỷ. Quần thần đáp: Xin vâng.

Vua Ba-tư-nặc liền cất đại giảng đường ngoài cửa cung cấm hết sức đẹp đẽ, treo giăng phướn, lọng, kỹ nhạc xướng lên vô kể, bày các ao tắm, chưng các đèn dầu, dọn các thức ăn trăm vị.

Bấy giờ Thế Tôn thấy đã đến giờ, đắp y, ôm bát, cùng các Tỳ-kheo Tăng, vây quanh trước sau vào thành Xá-vệ, đến giảng đường kia. Đến rồi Ngài lại tòa ngồi, các Tỳ-kheo mỗi vị ngồi theo thứ tự. Khi ấy, vua Ba-tư-nặc cùng các cung nhân tự tay đem thức ăn cung cấp chỗ cần dùng; suốt ba tháng không chút thiếu sót, cung cấp y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men khi bệnh tật. Thấy Thế Tôn ăn xong, vua đem các thứ hoa rải lên Thế Tôn và các Tỳ-kheo Tăng rồi lấy một ghế nhỏ đến trước Như Lai ngồi, bạch Thế Tôn:

Con từng theo Phật nghe: do gốc nhân duyên bố thí thức ăn cho súc sanh được phước trăm lần, cho người phạm giới ăn được phước ngàn lần, cho người trì giới ăn được phước vạn lần, cho tiên nhân đoạn dục ăn được phước ức lần, cho bậc hướng Tu-đà-hoàn ăn được phước chẳng thể kể, huống lại Thánh quả Tu-đà-hoàn, huống là bậc hướng Tư-đà-hàm, đắc đạo Tư-đà-hàm, huống bậc hướng A-na-hàm, đắc đạo A-na-hàm, huống bậc hướng A-la-hán, đắc đạo A-la-hán, huống bậc hướng Bích-chi Phật, đắc Bích-chi Phật, huống bậc hướng Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, huống bậc thành Phật và Tỳ-kheo Tăng, phước đó công đức không thể tính kể. Hôm nay con tạo công đức đã xong.

Thế Tôn bảo: Đại vương! Chớ có nói thế! Làm phước không nhàm chán, hôm nay cớ sao nói đã làm xong? Vì sao thế? Vì sanh tử dài lâu không thể kể…”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 23. Địa chủ [trích],
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.401)

Căn bản của tinh thần bố thí, cúng dường theo lời Phật dạy là bình đẳng, phổ cập, không phân biệt. Nhưng được gieo duyên cúng dường với những bậc giới đức, trí tuệ, giải thoát như Đức Phật, chư vị Thánh Tăng thì phước báo vô lượng.

Trong pháp thoại này, vua Ba-tư-nặc đã hội đủ duyên lành, được cúng dường Thế Tôn và chư Thánh Tăng suốt ba tháng, dĩ nhiên phước báo của vua không thể nghĩ bàn. Tuy vậy, khi vua có ý tự mãn, xem việc làm phước của mình đã đủ, tạo công đức đã xong thì Đức Phật liền quở “Đại vương! Chớ có nói thế!”. Vì nói như thế là chưa đúng, làm phước không bao giờ đủ cả.

Sở dĩ Thế Tôn khuyến cáo đức vua không nên tự mãn “vì sanh tử dài lâu không thể kể…”. Khi chưa thành tựu giải thoát tối hậu, chúng ta vẫn tiếp tục trôi lăn trong sinh tử, nguy cơ vương vào ác nghiệp, làm tổn giảm phước đức rất cao. Nên người chưa tạo phước thì hãy cố gắng gây tạo, người đã biết làm phước thì tinh tấn làm thêm. Người đệ tử Phật nguyện làm phước không nhàm chán, không bao giờ nói đã làm xong, cho đến ngày phước trí nhị nghiêm, công viên quả mãn.
Quảng Tánh

Con gà trong góc nhìn Phật giáo

Con gà trong góc nhìn Phật giáo

Đăng lúc: 08:06 - 03/01/2017

Tết Nguyên đán bước sang năm mới 2017 theo chu kỳ can chi là tết Đinh Dậu, Tết con gà. Trong đời thường lẫn văn học nghệ thuật dân gian, hình tượng con gà gắn bó mật thiết với hình ảnh của sự chăm chỉ, dũng mãnh “gà trống gọi mặt trời”, tình mẫu tử “gà mẹ xù lông bảo vệ con” hay như một lời chúc cho cho gia đình con cháu đề huề, vợ chồng mới cưới sớm có con qua bức tranh “Đàn gà mẹ con” của dòng tranh Đông Hồ nổi tiếng…

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Việt Nam cũng là đất nước gắn bó mật thiết với Phật giáo với hơn hai nghìn năm hình thành và phát triển của đạo Phật. Vậy thì con gà có vai trò gì từ góc nhìn Phật giáo hay không? Đây là câu hỏi được nhiều người đặt ra và nhất là thời điểm này, Tết con gà Đinh Dậu 2017 đang đến rất gần…

Gà trống – biểu tượng của tham?

Nhằm trả lời câu hỏi này, tháng 2/2016 tác giả Nguyễn Kim Sơn đã có một bài viết về hình tượng con gà trong kinh điển Phật giáo. Có thể đây chỉ là quan điểm cá nhân, nhưng những thông tin cung cấp trong bài viết cũng khá thú vị, đáng để tham khảo.

Theo đó, tác giả Nguyễn Kim Sơn cho rằng, có ba con vật mà kinh điển Phật giáo nói tới nhiều lần và được xem như những biểu tượng quan trọng, đó là con gà trống, rắn độc và con lợn. Ba con vật này là biểu tượng của Tam độc, đó là Tham – Sân - Si (贪、瞋、痴 - tham dục, oán hận và ngu độn). Gọi là Tam độc vì nó là độc tố của tâm, hủy hoại tinh thần và thể xác, ngăn cản con người ngộ đạo. Tam độc là nguồn gốc của khổ đau và phiền não.

Cụ thể, gà trống – biểu tượng của lòng tham. Con gà trống thích một mình quản lãnh đàn gà mái đông như phi tần trong cung vua. Để bảo vệ quyền sở hữu đám gà mái, nó sẵn sàng xù lông dương cựa đánh đuổi bất kỳ con gà trống nào khác xâm nhập lãnh thổ của nó. Đó là tham ái, tham dục.

Gà trống mổ thức ăn nó nhìn thấy như một sự đánh dấu sở hữu, dẫu nó đã no không thể ăn được nữa. Đó là sự tham luyến vật dục không giới hạn. Phật giáo quan niệm “tham” là động cơ gốc, là căn cội của sự thất vọng, không thỏa mãn, bất hạnh, là nguyên nhân của chiến tranh, tàn ác, cướp bóc tranh giành và những thói xấu. Tham tức là khổ. Giảm lòng tham là phép giải độc tố cho tâm, khiến cho nó trong trẻo an lạc.

Rắn độc – biểu tượng của sân hận, giận giữ, oán thù và sự nguy hiểm. Con rắn độc mang sẵn trong mình nó nọc độc. Nó dùng nọc độc để hạ gục con mồi, hạ gục đối phương. Nó dùng độc để tự vệ, dùng độc để đối đãi với kẻ khác và đặc biệt hơn nữa là nó đem độc để đối đãi đời, đối đãi với đời bằng răng nanh và túi nọc độc.

Con rắn độc sẽ có con khác độc hơn trị nó. Thấy rắn độc người ta xa lánh hay tìm cách tiêu diệt nó. Bản thân nó tồn tại với tư cách một nguy cơ nên bất an và không chung sống an hòa, với muôn loài. Lòng sân hận và oán thù trong tâm người là một loại độc tố. Nó thiêu đốt tâm người ta khiến người ta không yên, nó gây ra sự bất hòa, thậm chí là tội ác.

Bản thân kẻ ôm ấp thù hận và sự giận giữ trong lòng cũng tự hủy hoại tâm mình. Đem oán thù mà đáp trả oán thù thì oán thù chỉ càng thêm chồng chất. Người ta thường nói có ba thứ nên quên, đó là tuổi tác, bệnh tật và oán thù. Buông bỏ oán thù, hỷ xả với giận giữ, tha thứ cho lỗi lầm của người khác vừa tốt cho người vừa thải độc được cho tâm ta.

Con lợn – biểu tượng của sự ngu si tăm tối. Người đời đã tổng kết “ngu như lợn”, biểu tượng sinh động của sự ngu. Nó ăn tích mỡ tích thịt và đợi tới ngày bị người ta mổ thịt. Phật giáo không nhấn mạnh sự ngu ở chỗ thiểu năng trí tuệ hay sự kém cỏi có tính di truyền của tính loài. Bản thân sự ngu cũng không phải là tội.

Phật giáo muốn lưu ý tới việc con người chìm đắm trong bến mê mà không tự biết, ở trong sự nguy mà không biết nguy. Người đời chạy theo vật dục mà không biết nó là nguy hiểm, ngày ngày sân hận mà không biết đó là độc nhiễm. Đáng dừng mà không biết dừng.

Cứ yên trong mê mà lầm là sáng suốt khôn ngoan, có năng lực tự thức ngộ mà không biết khởi phát để nhận thức thấu triệt được bản chân của tồn tại nghĩa là si.

Si là nhầm lẫn, u tối, tưởng thỏa được vật dục là sung sướng, tưởng tranh cạnh hơn người là thông minh. Cái trí tuệ mà đẩy con người dài theo tham sân thì đó vẫn là si. Chỉ một trí tuệ bát nhã, thứ trí tuệ giúp người ta giải được độc của tham ái, của sân hận, của u tối lầm lẫn mới là trí tuệ đích thực.

Có hay không sự quả báo cho những người sát sinh gà?

Trong giáo lý của mình, đạo Phật khuyên không nên sát sinh quả báo của việc sát sinh là vô cùng đau khổ, đó cũng chính là lý do tại sao, sát sinh là một trong năm giới cấm mà người Phật tử tại gia khi quy y Tam bảo phải quyết tâm thực hiện. Lý thuyết của Phật giáo sau này khoa học đã chứng minh khi các nghiên cứu cho rằng hầu hết súc vật đều có bộ não và hệ thần kinh như con người.

Chúng cũng có cảm giác, biết nóng lạnh, sợ hãi, tham sống và sợ chết. Khi sợ hãi, nhịp tim của chúng đập mạnh, áp suất máu lên cao, hơi thở hổn hển, thậm chí nhiều con còn chảy nước mắt. Thế nên, tước bỏ mạng sống của một con vật là việc làm không nên và quả báo của việc sát sinh sẽ vô cùng nặng nề.

Quay trở lại với chuyện con gà, cư sĩ Trịnh Tùng trong quyển sách “Nhân quả báo ứng những điều mắt thấy tai nghe” đã viết về sự quả báo cho những người sát sinh gà.

Theo đó, tại Thiên Thai – Đông Bắc có một vị bác sĩ mới ra nghề nhưng rất giỏi. Một ngày nọ, có người phụ nữ hơn 40 tuổi tìm đến khám bệnh. Cô ta bảo bị đau trong yết hầu, nhờ bác sĩ chữa trị.

Bác sĩ xem kỹ bộ dáng của cô, người bệnh nhân này có tiếng nói “Oát, oát” giống như tiếng gà kêu, đồng thời thân thể run run, còn hai tay thì cứ với với như hai cánh của con gà đang đập. Bác sĩ lại khám trong yết hầu của cô, nhưng phía trong yết hầu lại không có bệnh gì cả, việc này khiến vị bác sĩ vô cùng khó hiểu.

Bác sĩ là người Nùng Vĩ, hơn nữa lại là một Phật tử thuần thành. Anh có một gia đình rất hạnh phúc. Mọi người trong gia đình anh từ lớn đến nhỏ đều quy y Tam Bảo, giữ giới tu hành. Anh thấy căn bệnh của người phụ nữ rất giống trạng thái con gà khi bị cắt tiết nên anh đoán ra cô ta đã ăn thịt gà quá nhiều, hai là cô có thể là người buôn bán gà.

Sau khi hỏi kỹ, quả nhiên đúng như những gì anh đã tiên đoán, cô là chủ của một tiệm bán gà ở gần đó. Vì vậy anh nói: “Theo tôi khám thì thấy cô không bệnh về thân, mà đây là bệnh nghiệp, nên có lẽ tôi không có cách để chữa trị cho cô được”. Nghe xong, người phụ nữ này vẫy vẫy hai tay giống như hai cánh gà, miệng thì kêu “oát, oát” giống y như hình trạng con gà đang giẫy chết. Vừa về tới nhà thì cô ngã ngửa ra tắt thở.

Bên cầu Nhật Bản mọc lên tiệm bán gà, lúc mới mở tiệm này do hai người hùn vốn lại làm ăn, nhưng một thời gian sau đó thì tách ra riêng. Khi người chủ được 50 tuổi thì người vợ qua đời, không bao lâu thì đứa con gái đầu và con gái thứ đều lần lượt chết, ông chủ cũng mắc phải căn bệnh quái ác.

Ông đi đủ thầy, tìm đủ thuốc, tốn rất nhiều tiền của nên bệnh mới dần dần bình phục. Bảy năm sau, bệnh ông bỗng nhiên tái phát dữ dội, càng ngày bệnh càng trầm trọng hơn, thuốc bao nhiêu cũng không còn tác dụng nữa. Ông gọi con trai cả cùng con dâu đến bên cạnh và nói: “Ba đau quá! Mau lên, mau lên, các con hãy đuổi những con gà ở xung quanh ba đi!”.

Ông vừa nói vừa tỏ ra rất đau đớn. Con cháu hỏi lý do vì sao ông lại nói như thế, ông nén cơn đau bảo: “ Các con không thấy sao? Do trước kia ba giết gà, nên bây giờ những con gà bị giết nó xúm lại quanh ba. Có con còn dùng chân cào lên mình ba, có con mổ khắp người ba. Đau nhức quá! Các con ơi, làm ơn đuổi những con gà giùm ba đi. Đau quá, sợ quá! Kiếm tiền nhiều để làm gì mà không trị được bệnh đây trời ơi. Không, không nên làm cái nghề này nữa”. Nói xong thì tắt thở, từ đó con cháu ông sợ nên bỏ nghề, không còn dám bán gà nữa.

Những câu chuyện trên có thể có thật hoặc chỉ là một sự đúc kết để hướng tới một thông điệp: Không nên sát sinh! Nhưng dù thế nào thì cũng có thể thấy cho dù bạn là ai, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, có tin nhân quả hay không tin thì bạn vẫn phải chịu sự chi phối của định luật nhân quả.

Gieo nhân thiện gặt quả thiện, gieo nhân ác nhất định sẽ gặt ác báo, không sớm thì muộn. Luật nhân quả không bỏ sót một mảy lông, một bụi trần. Tin sâu và luật nhân quả, ngăn ngừa ý nghĩ ác, lời nói ác và việc làm ác thì cuộc sống của mỗi người mới được an vui trên cõi trần ngắn như chớp mắt này.

Linh Thụy

Phương tiện lễ nhạc

Phương tiện lễ nhạc

Đăng lúc: 21:39 - 10/11/2016

HỎI: Tôi tụng Lương hoàng sám pháp, có đoạn nguyện“tai không nghe tiếng chuông, linh, ốc, trống, cầm, sắc, không hầu, lâm, lang, ngọc bội làm mê hoặc chúng sanh”. Vậy tại sao trong các nghi lễ thuộc Phật giáo Bắc tông tôi lại thấy có dùng chuông, linh, ốc, trống, kèn, đàn, tán tụng…? Như vậy có làm mê hoặc chúng sanh? Mong quý Báo giải thích cho tôi rõ hơn về vấn đề này.

(ĐỨC TRUNG, trungphanc@yahoo.com.vn)

ĐÁP:

Bạn Đức Trung thân mến!

Ai cũng biết rõ về những tác dụng đa chiều của âm nhạc đối với đời sống con người. Âm nhạc chân chính sẽ khiến thăng hoa tinh thần, thư giãn, giải tỏa những cảm xúc tiêu cực, giúp người nghe phấn chấn, tin tưởng, yêu đời và vui sống hơn. Ngược lại, một số loại hình âm nhạc có tính kích động làm cho cuồng loạn, hoặc khiến người nghe sầu thảm, u mê, muốn tự sát. Trong nhiều tôn giáo và tín ngưỡng, âm nhạc có vai trò kết nối con người với thần linh, giúp con người hòa nhập làm một với các đấng thiêng liêng.

Đạo Phật tuy không phủ định các giá trị tích cực của âm nhạc nhưng có giới luật Không ca hát và cố ý xem nghe. Bởi âm nhạc luôn “mê hoặc chúng sanh”, chìm đắm hoặc vướng mắc vào thanh trần đều trở ngại cho chánh niệm. Người đệ tử Phật nguyện “tai không nghe tiếng chuông, linh, ốc, trống, cầm, sắc, không hầu, lâm, lang, ngọc bội…” nhằm giữ tâm chánh niệm, không để cho tham ái thanh trần xâm chiếm, chế ngự tâm mình.

Ngoài việc bảo lưu giới luật Không ca hát và cố ý xem nghe, Phật giáo Bắc tông có quan niệm dùng âm nhạc để cúng dường Tam bảo, lấy âm nhạc làm phương tiện để hướng chúng sinh vào đạo. Chúng sinh vốn mê âm nhạc, nên lễ nhạc Phật giáo Bắc tông mượn phương tiện này để thức tỉnh và trao truyền đạo lý cho người sơ cơ gọi là “dĩ huyễn độ chơn”. Tuy nhiên, sử dụng phương tiện thì linh động “tùy duyên” mà luôn “bất biến”, phải làm chủ phương tiện vì nó là con dao hai lưỡi. Nếu không hiểu rõ phương tiện, sử dụng lâu ngày rồi nhầm là cứu cánh khiến mình và người đều bị mê hoặc thì thật không nên.

Chúc bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN

Đạo Phật & trí thức trong thời đại mới

Đạo Phật & trí thức trong thời đại mới

Đăng lúc: 08:51 - 31/10/2016

Bài viết này đề cập đến vai trò của đạo Phật đối với trí thức trong thời đại mới, thời đại phát triển của khoa học công nghệ và một xã hội tiêu thụ tiện nghi vật chất nhưng cũng đầy áp lực, bế tắc (tình trạng tự tử rất cao tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Mỹ…). Điều đó đặt ra vai trò của đời sống tâm linh để cân bằng giữa đời sống vật chất hưởng thụ và những bế tắc, căng thẳng trong đời sống tâm lý.

Vai trò của đạo Phật trong đời sống gia đình, xã hội

Đạo Phật không chỉ là một tôn giáo, đạo Phật còn là một nguồn tuệ giác vô cùng to lớn cũng như là một phương pháp thực tập về thân và tâm để đạt tới trạng thái an lạc, hạnh phúc, vượt qua những chuẩn mực hạnh phúc thông thường của con người như đầy đủ về vật chất, địa vị xã hội hay thành công trong sự nghiệp và gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà nhà bác học lỗi lạc Albert Eisntein đã phát biểu rằng: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó”. Nhưng sẽ rất xa vời và lý thuyết nếu không hiểu đạo Phật dưới góc độ thực tập và thực chứng, áp dụng vào đời sống gia đình, xã hội như một phương thuốc chữa trị các căn bệnh về tâm, ảnh hưởng lên sức khỏe về thân.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một vị thiền sư nổi tiếng trong nước và trên thế giới đã áp dụng đạo Phật dưới góc độ trị liệu các vấn đề về tâm thức. Ngài đưa ra những khái niệm về ái ngữ và lắng nghe, thiết lập truyền thông, hóa giải những nội kết trong tâm để hòa giải những mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng, cha mẹ đối với con cái, đồng nghiệp với nhau… Đó là sự áp dụng một phần trong Bát Chánh đạo về thực tập chánh ngữ (giới thứ 4). Ngoài ra những phương pháp về chánh niệm, thực tập nhận diện khổ đau, ôm ấp và hóa giải khổ đau được thực hiện qua các phương pháp thiền trà, quán niệm hơi thở và lắng nghe cũng được thực tập để làm giảm những căng thẳng trong xã hội hiện đại. Dù những phương pháp này (ngoài lời Phật dạy, có sáng tạo thêm) nhưng nó lại rất phù hợp với xã hội hiện đại, đặc biệt là các nước Tây phương và Mỹ có truyền thống tôn giáo thờ đấng sáng tạo lâu đời.

Với những người trí thức, việc áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong đời sống hàng ngày dựa trên nguyên tắc hiểu biết rõ nguyên nhân của đau khổ là do sự tham vọng, mong cầu mà không đạt được sẽ dẫn đến tâm trạng thất vọng chán nản và tuyệt vọng. Tôi đã chứng kiến rất nhiều bạn bè, đồng nghiệp là những nghiên cứu sinh đang nghiên cứu các chương trình tiến sĩ. Bản chất của nghiên cứu tiến sĩ là những vấn đề mới, khó và không dễ dàng đạt được trong một thời gian ngắn. Những áp lực, kỳ vọng và sự mong cầu đã làm cho những nhà nghiên cứu rất mệt mỏi và chán nản đôi khi muốn bỏ cuộc.

Nhưng với những người có sự hiểu biết căn bản giáo lý đạo Phật và có sự hành trì trong đời sống hàng ngày thì họ quán xét mọi việc trên phương diện nhân duyên quả. Những nghiên cứu hay kết quả này cần một thời gian nhất định mới ra kết quả (trổ quả), cần những yếu tố (nhân duyên) hội đủ cần thiết như số liệu, phương pháp nghiên cứu… Và những góp ý của giáo sư hướng dẫn hay đồng nghiệp sẽ đưa lại kết quả mong muốn. Ở một khía cạnh khác, những trí thức và những người nghiên cứu luôn đặt ra cho mình đích đến và mục tiêu của nghiên cứu hay kết quả dự án mà đôi khi kết quả không như mong muốn hoặc có thể tốt hơn ngoài dự kiến. Điều đó cho thấy nếu có cái nhìn trung dung, quân bình hay tùy duyên thì người nghiên cứu sẽ nỗ lực trong sự bình thản và hiểu rõ đường đi của nó mà không khởi lên sự đau khổ hay thất vọng, bế tắc. Đó là lợi ích của đạo Phật cung cấp cho ta cái nhìn Trung đạo xa lìa hai cực đoan về thế giới quan và nhân sinh quan trong mọi việc.

Hơn thế nữa, có những vấn đề mà người trí thức hay bất kể là ai đều gặp phải trong đời sống như vợ chồng không hạnh phúc, con cái hư hỏng, đổ vỡ trong sự nghiệp, kinh doanh thất bại hay những vấn đề về sức khỏe, sinh tử. Chính những lúc đó thì những kiến thức khoa học chuyên sâu lại không giúp ích được trong việc giải quyết khổ đau, tuyệt vọng. Đây là một câu chuyện có thật, có một luật sư người Đức rất giỏi và giàu có nhưng ông ta đã tuyệt vọng và tự tử trên chiếc giường mà ông và tình nhân đã ngủ suốt bao nhiêu năm tháng. Ông đã phải lòng và yêu cô thư ký trong văn phòng luật sư, và ông ta đã bỏ lại vợ con. Cái chết của ông ta là kết quả của sự bế tắc và tuyệt vọng khi mất tình nhân vì cô ta đi theo một người trẻ khác.

Qua câu chuyện này cho thấy, ông ta là luật sư giỏi, không thể nói ông ta là người thiếu hiểu biết về tri thức căn bản trong xã hội. Nhưng có những vấn đề thuộc về tâm lý mà không có sự tu tập chuyển hóa sẽ không hóa giải được đành chọn cái chết để kết thúc mọi việc. Còn đối với trí thức Phật tử, người đó hiểu rằng mọi thứ đều có nguyên nhân của nó, và hôm nay là kết quả nhận được. Hơn nữa người Phật tử thấy rõ mọi thứ trên thế gian đều vô thường, biến đổi, không có gì là vĩnh viễn trường tồn, bất biến. Cho nên hãy chấp nhận nó bởi đơn giản đó là sự thật, và để chấp nhận nó là cả một quá trình tu tập, chiến đấu với chính mình đầy gian khổ và khó khăn.

Đóng góp và lợi ích của Tứ diệu đế, Bát Chánh đạo đối với trí thức

Đức Phật là một con người, nhưng Ngài đã giác ngộ và chứng đạt những quy luật của sự sống như khổ và nguyên nhân của khổ và con đường thoát khổ. Ngài ra đời là “Vì an lạc của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của chư thiên và loài người” (Kinh Tăng chi I). Ngài đã thấy rõ đường đi của sinh tử qua Mười hai nhân duyên, và Ngài đã nói lên rất nhiều bài pháp để các hành giả vượt thoát khổ đau nhờ sự tu tập, buông xả, thấy rõ thực tướng của vạn pháp.

Con đường của Đức Phật không nhằm mục đích lý luận, giải quyết các vấn đề triết học hay nguồn gốc của vũ trụ, loài người. Ngài chủ trương đưa ra một phương pháp thực tập một cách khoa học, logic tuần tự từ thấp đến cao cho nhiều đối tượng khác nhau từ người Phật tử tại gia cho đến những tu sĩ chuyên sâu tu tập. Con đường của Ngài không gì khác hơn là Giới, Định, Tuệ (giữ giới, thiền định và quán chiếu) dựa trên nền tảng của Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo cùng với sự hỗ trợ của 37 phẩm trợ đạo giúp hành giả vượt thoát khổ đau thuộc về tâm, từ sơ quả (Tu-đà-hoàn) đến an lạc Niết-bàn (A-la-hán).

Vậy người trí thức sẽ áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo thế nào trong đời sống, công việc, học tập và kinh doanh? Đối với những trí thức và những người trẻ thì việc áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo vào đời sống sẽ đưa đến nhiều lợi ích thiết thực bằng tuệ quán và sự tư duy quán xét trên từng sự việc. Thật vậy, điều này đã được xác chứng trong lịch sử Phật giáo cách đây gần 26 thế kỷ, đó là rất nhiều người xuất thân từ vua chúa, trí thức, thương gia cho đến các tầng lớp thấp như tướng cướp, kỹ nữ hay nông dân nghèo khổ đã từ bỏ và đi theo con đường của Đức Phật để chứng an lạc, giải thoát, Niết-bàn như vua Tịnh Phạn, anh em Da Xá, ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Angulimala, kỹ nữ Ambapàlì….

Trong công việc học tập, người trí thức hiểu rõ nhân quả nên nỗ lực lao động, học tập và làm việc, nhờ đó mà đạt được những thành tựu mong muốn. Tránh xa hai cực đoan của sự cầu xin, cúng bái dựa vào các thế lực siêu nhiên vô hình hay chủ quan cho rằng tất cả đều chỉ dựa vào nỗ lực cá nhân là đủ mà quên đi vai trò của sự hỗ trợ, các yếu tố bên ngoài tác động vào. Người xưa từng nói “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên (duyên)” hay “người tính không bằng trời tính” - là sự đúc rút kinh nghiệm thực tiễn đời sống. Nhưng dưới cái nhìn tuệ giác của Phật giáo, Đức Phật chỉ rõ đường đi của nhân-duyên-quả, vì sao lại thu được kết quả như thế. Điều này phù hợp với khoa học hiện đại bởi những phát minh, tìm kiếm nguyên nhân hình thành của vô số các hiện tượng về vật lý hay hóa học.

Người trí thức còn có thể sử dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong chính sách nghề nghiệp như việc áp dụng triệt để chánh kiến và chánh tư duy trong việc định hướng và dự báo chiến lược của công ty hay tập đoàn. Áp dụng chánh ngữ và chánh nghiệp trong việc giao tiếp với nhân viên, đồng nghiệp tạo ra sự đồng thuận, ủng hộ góp phần thành công trong một chiến lược cụ thể nào đó. Người trí thức Phật tử luôn dùng chánh niệm để lắng nghe những đề xuất, đóng góp, bình luận hay gợi ý làm cho sản phẩm hay chiến lược trở nên tốt đẹp hơn. Đó cũng là những lợi ích rất lớn trong việc thực tập Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong công việc và đời sống hàng ngày. Ngoài ra nhờ sự quán chiếu, tu tập và hành trì trong mọi công việc và sự kiện hàng ngày mang lại cho họ cái nhìn chân thực, chính xác mà không chứa đựng quan điểm cá nhân (bản ngã) để ra quyết định một cách chính xác chứa đựng trí tuệ và nhân văn sâu sắc là thuộc tính của một thiện tri thức.

Tóm lại, hiểu biết và ứng dụng đạo Phật trong công việc và đời sống hàng ngày đối với tầng lớp trí thức mang lại lợi ích rất lớn và thiết thực, vượt qua giới hạn về tôn giáo, thờ cúng hay một loại tín ngưỡng mà đa phần những người chưa hiểu biết về đạo Phật thường quan niệm như vậy. Xin kết thúc bài viết này bằng một nhận định của một học giả về Phật giáo: “Là Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát Chánh đạo và Tứ diệu đế của Đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó” (Giáo sư Rhys Davids).
ThS.Trần Ánh Dương

Đức vua Phật tử Thái Lan Bhumibol Adulyadej băng hà

Đức vua Phật tử Thái Lan Bhumibol Adulyadej băng hà

Đăng lúc: 10:43 - 14/10/2016

Theo thông báo của Hoàng gia Thái Lan chiều tối 13-10, Đức vua Thái Lan Bhumibol Adulyadej (Rama IX) đã băng hà lúc 15 giờ 52 phút hôm nay 13-10 sau thời gian bệnh nặng phải điều trị ở bệnh viện Sirijai.

IMG_0361.JPG
Đức vua Thái Lan là một Phật tử thuần thành

"Quốc vương phải điều trị ở bệnh viện Siriraj kể từ ngày 3-10-2014 đến nay. Dù được các bác sĩ nỗ lực chăm sóc nhưng bệnh tình quốc vương trở nặng và ngài đã băng hà trong yên bình lúc 15 giờ 52 phút chiều 13-10, hưởng thọ 89 tuổi, trị vì 70 năm", báo chí dẫn thông tin từ Hoàng gia Thái Lan đưa tin.
Vị vua Bhumibol có thời gian ở ngôi lâu dài nhất trong lịch sử Thái Lan, hơn 70 năm, ngài là một Phật tử thuần thành, từng xuất gia trở thành tu sĩ có thời hạn theo truyền thống văn hóa Thái Lan, ngài được nhân dân kính ngưỡng, yêu quý bởi đời sống gần gũi, đạo đức, trí tuệ và công bằng.

2td.jpg
Ngài có thời gian xuất gia theo truyền thống văn hóa Thái Lan

Trong biến cố chính trị trước đây ở Thái Lan đưa đến việc dân chúng biểu tình đòi thủ tướng Thaksin Shinawatra từ chức, ông Thaksin Shinawatra đã tố cáo những người chống ông là "chỉ trích vua". Liền sau đó, Đức vua Bhumibol Adulyadej đã phản ứng, ngài xác quyết: "Nói rằng không được chỉ trích vua là nhục mạ nền quân chủ. Chính vua mong muốn nghe nhiều hơn nữa những lời chỉ trích." Câu nói nổi tiếng ấy được báo chí đưa tin khắp thế giới. (Francis Deron, Roi et citoyen, Le Monde 7-6-2006).

Đức vua Bhumibol Adulyadej có một vai trò rất lớn đối với đất nước Thái Lan, cũng chính bởi thái độ đó nên ngài luôn được nhân dân Thái yêu quý.

Đức vua Bhumibol Adulyadej sinh ngày 5-12-1927 tại Cambridge, bang Massachusetts (Mỹ) khi thân phụ ngài đang theo học ngành y tại Đại học Harvard. Sau đó, ngài trải qua tuổi thơ ấu và giai đoạn trưởng thành đầu tiên ở Thụy Sĩ, học tập và lấy bằng cử nhân Luật và Khoa học Chính trị của Đại học Lausanne.

s3.reutersmedia.net.jpg
Ngài là một vị vua được mọi tầng lớp nhân dân thái yêu kính

Quốc vương Bhumibol Adulyadej lên ngôi ngày 9-6-1946, kế vị anh trai là vua Ananda Mahidol và tại vì từ đó đến nay.

Đức vua Bhumibol Adulyadej cùng Hoàng hậu Sirikit Kityakara hạ sinh được 4 người con, trong đó có một hoàng tử. Đối với người dân Thái Lan, Quốc vương Bhumibol Adulyadej là vị vua đáng kính, người đã cống hiến trọn đời mình cho nhân dân và dân tộc Thái. Trong suốt 70 năm tại vị, ngài đã đi khắp đất nước, đặc biệt quan tâm những vùng nghèo xa xôi nơi người dân sống trong đói khổ.

vua-4_ztaa_jpg_width_485_amp;encoder_wic_amp;subsampling_444.jpg
Suốt 70 ở ngôi, ngài luôn quan tâm tới đời sống của người dân nghèo
Ngài đồng thời chủ trương hơn 2.000 dự án về lương thực, dinh dưỡng đã làm thay đổi chất lượng sống của nông dân nghèo. Ở Thái Lan, đi đâu cũng thấy hình ảnh của ngài, nhà nào hầu như cũng treo hình ngài như một biểu tượng của đạo đức và lòng nhân ái, từ bi rộng lớn của một vị thánh.

Giác Ngộ online xin trân trọng giới thiệu một số hình ảnh về Đức vua lúc ngài xuất gia trở thành tu sĩ theo truyền thống văn hóa Vương quốc Thái Lan.

thailandnews_201310269271970_ARNuvFQEfAOTfCuiUtZeVRYtWHHPUofiDSAsZiUc_jpeg.jpg

1308582679.jpg

IMG_2372.JPG

monk-king-bhumibol.jpg

Princess_Sri_Sangwal_and_Monk-King_Bhumibol_)1.JPG

Diệu Nghiêm tổng hợp

Thủ tướng Ấn Độ giao lưu với tăng, ni Học viện Phật giáo Việt Nam

Thủ tướng Ấn Độ giao lưu với tăng, ni Học viện Phật giáo Việt Nam

Đăng lúc: 07:23 - 03/09/2016

Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã đến thăm chùa Quán Sứ (Hà Nội), Trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam chiều 3/9 và giao lưu với các tăng, ni là học viên của Học viện Phật giáo Việt Nam.

Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi gặp gỡ các phật tử. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Tham dự có Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam; Hòa thượng, Tiến sỹ Thích Thiện Nhân, Chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Đại sứ Ấn Độ tại Hà Nội và Đại sứ Việt Nam tại New Dehli cùng đông đảo tăng, ni Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Phát biểu tại buổi giao lưu, Hòa thượng Thích Thiện Nhân thay mặt hơn 50 nghìn tăng, ni và hàng chục triệu phật tử khắp Việt Nam chào đón Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã đến thăm Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhấn mạnh đây là sự kiện vô cùng đặc biệt, qua đó khẳng định vai trò của Phật giáo ở Việt Nam từ lịch sử quá khứ hơn hai nghìn năm trước cho đến ngày nay, Hòa thượng Thích Thiện Nhân cho rằng, Phật giáo luôn luôn là cầu nối quan trọng trong tình hữu nghị bền chắc giữa nhân dân Ấn Độ và nhân dân Việt Nam.


Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi nói chuyện với các tăng ni, phật tử. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Nhắc lại lịch sử ra đời và quá trình phát triển của Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng Thích Thiện Nhân khẳng định, các nhà sư Ấn Độ là những nhà truyền giáo đầu tiên đem Phật giáo vào Việt Nam thông qua con đường thương mại biển, tạo nên sự liên kết giữa văn hóa Ấn Độ và văn hóa bản địa Việt Nam, trở thành thành tố văn hóa không thể thiếu trong văn hóa Việt Nam. Phật giáo đóng vai trò khơi nguồn trong mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Mối quan hệ đó được thắt chặt trên nền tảng tình hữu nghị giữa Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ Jawaharlal Nehru và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hòa thượng Thích Thiện Nhân tin tưởng, nhân dân và đất nước Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Nerandra Modi, sẽ phát triển phồn vinh, thịnh vượng. Ấn Độ sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng môi trường hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và thế giới.

Giao lưu với các tăng, ni, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi khẳng định: “Thế gian cần hòa bình. Đi trên con đường hòa bình sẽ mang đến hạnh phúc cho muôn loài. Chiến tranh chỉ mang lại tàn phá, độc ác, chết chóc. Đạo Phật mang lại niềm hy vọng, ánh sáng, niềm tin, hòa bình”.


Thủ tướng Modi thăm chùa Quán Sứ, trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Thủ tướng Narendra Modi bày tỏ mong muốn ngày càng nhiều tăng, ni Việt Nam tiếp tục sang Ấn Độ học Phật giáo. Tại Varanasi, một địa phương của Ấn Độ cũng có chùa của Việt Nam . Thủ tướng bày tỏ hy vọng sẽ được đón tiếp các tăng, ni Việt Nam khi sang Ấn Độ học Phật giáo; mời các tăng, ni Việt Nam ngồi thiền tại cây bồ đề và suy ngẫm về Đạo Phật.

Thu Phương (TTXVN

Phật giáo Nghệ An long trọng tổ chức Lễ Mãn Hạ và Vu lan báo hiếu

Phật giáo Nghệ An long trọng tổ chức Lễ Mãn Hạ và Vu lan báo hiếu

Đăng lúc: 10:42 - 29/08/2016

Sáng 29/8, tại Chùa Đại Tuệ (Nam Đàn) BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An đã long trọng tổ chức lễ Mãn hạ kết thúc 3 tháng An cư Kiết hạ và đại lễ Vu lan báo hiếu. Năm nay khóa an cư kiết hạ dành cho Chư Tăng được đưa lên non thiêng Chùa Đại Tuệ đánh dấu một mốc quan trọng, cũng là nơi để Chư Tăng có một thời gian tĩnh tu một cách tốt đẹp nhất . Trải qua 90 ngày được thực hiện nhiệm vụ của hàng xuất gia đầu Phật đến nay đã kết thúc khóa an cư kiết hạ, Chư Tăng được cộng thêm 1 tuổi Đạo đánh dấu sự tu hành vững chắc trên con đường " Hoằng Pháp Lợi Sanh " .
Về tham dự và chứng minh có : Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu, phó Chủ tịch Thường trực HĐTS TWGHPGVN kiêm trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An. Thượng tọa Thích Thọ Lạc, UVTTHĐTS phó trưởng ban TTBVHTW, phó trưởng ban TTBTS GHPGVN tỉnh Nghệ An. Cùng các Chư Tôn Đức trong Ban Trị sự GHPGVN tỉnh , Chư Tôn Đức Tăng Ni hai hạ trường Chùa Đại Tuệ, Chùa Cần Linh
Về phía chính quyền có : Ông Võ Văn Tiến , phó chủ tịch UBMTTQ Việt Nam tỉnh Nghệ An. Bà Hoàng Thị Quỳnh Anh , phó Giám đốc Sở thể thao và du lịch tỉnh Nghệ An. Ông Nguyễn Văn Long , phó ban tôn giáo sở Nội vụ tỉnh Nghệ An.
Đại diện lãnh đạo các sở, ban ngành, UBMTTQVN tỉnh, công an tỉnh, Ban Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ cùng đại diện lãnh đạo chính quyền huyện Nam Đàn và địa phương cùng đông đảo bà con phật tử gần xa.
Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS TWGHPGVN kiêm trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An chủ trì buổi lễ .



Lễ Mãn hạ nhằm đánh giá công tác tu tập của Tăng, Ni trong 3 tháng An cư Kiết hạ (tháng tư đến tháng 7 âm lịch) theo truyền thống của Phật giáo. Mùa An cư Kiết hạ năm nay tại Nghệ An có 31 hành giả (30 Tỷ khiêu, 1 Sa di) tại trường hạ chùa Đại Tuệ và 12 vị Chư Ni tại trường hạ chùa Cần Linh. Ban TSGHPGVN Tỉnh đã tạo điều kiện cho các Tăng, Ni tu tập và đã cấp giấy chứng nhận cho Tăng, Ni tham gia tu tập trong lễ Mãn hạ này. Ý nghĩa của truyền thống tu tập trong 3 tháng an cư kiết hạ của người xuất gia, trong đó nhấn mạnh Giới luật là trọng tâm của lời Phật dạy cần phải giữ gìn. Sau khi hoàn thành khóa hạ, chư hành giả được trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản về Kinh, Luật, Luận và cũng được nghiên cứu về chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến tôn giáo - từ đó phát huy hiệu quả cao hơn vai trò của Phật giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong khuôn khổ của chương trình, Ban Trị sự GHPG tỉnh đã tổ chức đại lễ Vu lan báo hiếu, với thời khóa tụng kinh Vu Lan và nghi thức cài hoa hồng. Đây là một nghi lễ bày tỏ lòng hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ. Lễ vu lan ngày càng được biết đến như một dịp đền đáp công đức sinh thành . Nhân dịp này Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu ban đạo từ về ý nghĩa Vu Lan báo hiếu công ơn Cha Mẹ .
Vu Lan thắng Hội năm nay với nhiều chương trình phong phú nhằm dâng lên Hai Đấng sinh thành và báo đền ân nghĩa Tổ Tiên Từ ngàn xưa ,truyền thống hiếu thảo đối với Cha Mẹ đã trỡ thành một nét đẹp văn hóa của dân tộc VN ,Sau lễ Vu Lan hàng Phật tử tại gia đã dâng cúng tịnh tài, tịnh vật lên Chư Tôn Đức Tăng, Ni trong ý nghĩa hộ trì Tam bảo trên bước đường truyền trì mạng mạch, thắp sáng đèn thiền, truyền đăng tục diệm, tiếp dẫn hậu lai, giúp cho giới cư sĩ tu tập ngày càng tinh tấn.
Sau đây là một số hình ảnh :





































































Thượng Tọa Thích Thọ Lạc đọc diễn văn khai mạc buổi Lễ

Đại Đức Thích Minh Hải đọc báo cáo tổng kết 3 tháng An Cư Kiết Hạ



Đại diện hàng Phật Tử đọc lời cảm niệm về Cha Mẹ



lễ cài hoa hồng lên Chư Tôn Đức Tăng Ni































Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu bao Đạo Từ




































Chụo ảnh lưu niệm.







Chụp ảnh lưu niệm




Tác giả bài viết: Hữu Tình- Hồng Nga

Thấy nhân duyên là thấy Pháp, thấy Pháp là Như Lai

Thấy nhân duyên là thấy Pháp, thấy Pháp là Như Lai

Đăng lúc: 03:15 - 12/07/2016

Khóa bồi dưỡng trụ trì năm nay tại tổ đình Kim Cang vắng bóng Hòa thượng Đạt Đồng, Hòa thượng Tắc Ngộ và gần đây là Hòa thượng Thiện Thanh.
Tuy các ngài không hiện hữu trên cuộc đời, nhưng với tâm nguyện vì đạo, vị tha, vô ngã, tôi tin tưởng các ngài luôn gia hộ cho khóa học này được thành công. Sau đây, tôi có một số ý kiến xin chia sẻ với Tăng Ni.

Trước hết, nói về tông môn hệ phái, đó là việc tốt, nhưng nếu cố chấp vào đó cũng trở ngại lớn cho chúng ta. Kinh nghiệm của tôi thấy như vậy từ 50, 60 năm trước.

Thật vậy, đầu tiên tôi xuất gia ở Phật giáo Cổ truyền nằm trong sơn môn thuộc Lâm Tế gia phổ. Lúc đó, tôi gặp khó khăn, thầy này ở Lâm Tế gia phổ, thầy kia ở Lâm Tế Chúc Thánh, thầy nọ ở Lâm Tế chánh tông… Chỉ riêng dòng Lâm Tế đã tự phân chia như vậy, tạo thành bức tường ngăn cách giữa những người tu đạo Phật.

Lúc đó, Hòa thượng Thiện Hòa nói rằng chúng ta nên cắt bỏ tông môn hệ phái, vì tất cả chúng ta đều là đệ tử Phật. Ai xuất gia trước, người đó lớn. Người thọ giới sau thì nhỏ hơn. Dù thọ giới sau một đàn cũng là sau.

dhamma_wheel_fine.jpg

Nếu kẹt tông môn hệ phái, tôi thuộc đời Lâm Tế thứ 41, mang chữ Nhật. Hòa thượng Trí Tịnh cũng mang chữ Nhật. Như vậy, giữa tôi và Hòa thượng là huynh đệ, tức cùng trong một hệ phái đã như vậy.

Khi Phật học đường Nam Việt ra đời, tất cả chúng tôi thuộc hệ phái khác nhau, nhưng học chung một trường, có cùng một thầy thì trong học đường này, tất cả đồng là huynh đệ, ai thọ giới trước là lớn. Nhưng điều này cũng không giữ được lâu, cũng nảy sinh tư tưởng hệ phái.

Và hệ phái bấy giờ lại chia ra Phật giáo Cổ sơn môn, Phật giáo Tổng hội. Riêng thành phố Hồ Chí Minh đã chia ra mười mấy hệ phái chống phá nhau, tự tiêu diệt nhau. Như vậy, chúng ta đã lọt vào cái bẫy ngoại đạo.

Năm 1963, nhiều người nghĩ rằng Phật giáo bị xé thành nhiều mảnh vụn, nên dễ bị tiêu diệt. Nhưng lắng lòng coi lại ai tiêu diệt mình, phải chăng các sơn môn hệ phái tự tiêu diệt nhau. May mắn, các vị lãnh đạo thức tỉnh. Các Hòa thượng đã thành lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, dù thuộc hệ phái nào, nhưng tất cả chúng ta đều vì sự tồn vong của Phật giáo, chỉ có một điểm chung là Phật giáo, nên hãy quên đi hệ phái.

Vì vậy, có 11 hệ phái ký tên thành lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo và năm 1964, trở thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Tuy nhiên, trong thâm tâm tôi, lúc đó còn có hai hệ phái không ký tên vào, nhưng cũng đóng vai trò quan trọng. Đó là một hệ phái ở trong vùng giải phóng, đứng đầu là cố Hòa thượng Thiện Hào. Tuy ngài không ra ký tên, nhưng ngài đã làm việc quan trọng là đi các nước xã hội chủ nghĩa tuyên bố cho mọi người biết rằng Phật giáo tồn tại ở đất nước chúng ta. Ngoài ra, các nước thuộc khối tư bản, hay khối không liên kết đều ủng hộ Ủy ban Liên phái. Như vậy, rõ ràng Phật giáo chúng ta đoàn kết rất có lợi.

Một hệ phái nữa là Hội Phật giáo Thống nhất ở miền Bắc không ký tên, nhưng chính Phật giáo miền Bắc cũng tổ chức biểu tình, ra kiến nghị kêu gọi ủng hộ Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo.

Vì vậy, tôi nghĩ rằng có tất cả 13 hệ phái trong Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, không phải chỉ có 11 hệ phái. Thể hiện ý nghĩa hợp nhất 13 hệ phái, khi xây Việt Nam Quốc Tự, Giáo hội thành phố chúng ta đã xây tháp cao 13 tầng tiêu biểu cho 13 hệ phái đoàn kết tạo thành sức mạnh của Phật giáo.

Vì sự quan trọng vô cùng của sự đoàn kết, hòa hợp, khi Phật Niết-bàn, Ngài nói rằng ngày nào chư Tăng còn hòa hợp trong Chánh pháp của Phật là khi đó Phật giáo tồn tại vững mạnh, không có ngoại đạo thiên ma nào có thể phá hại chúng ta được.

Thể hiện tinh thần Phật dạy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời năm 1981, khẳng định lập trường rằng chúng ta thống nhất tổ chức, thống nhất ý chí và thống nhất hành động, nhưng pháp tu biệt truyền vẫn được tôn trọng. Tất cả mọi người có pháp hành riêng, miễn là ở trong Chánh pháp Phật; nói theo ngày nay là đa năng, đa dạng.

Thật vậy, chúng ta nhìn kỹ thấy rõ mỗi người một việc, một người không thể làm tất cả việc. Tổ chức chúng ta có sự tôn trọng lẫn nhau và chính cốt lõi này giúp Phật giáo chúng ta tồn tại. Nhưng muốn như vậy, chúng ta phải thấy theo Chánh pháp và sống đúng Chánh pháp. Nếu tu lệch ra ngoài Chánh pháp, sẽ đưa đến nhiều bất đồng, tranh chấp, cho đến tan hoại.

Không lệch ra ngoài là gì. Khi chúng ta còn ở trong vòng an toàn giống như Tề Thiên vẽ cho Tam Tạng phải ở yên trong vòng tròn an toàn, nếu lọt ra ngoài vòng an toàn này là bị yêu tinh bắt liền. Chúng ta tu, đừng bước ra khỏi vòng này. Vòng này là gì.

Trước nhất, Phật quy định chúng ta phải an cư kiết hạ ba tháng. Chúng ta có tuân thủ hay không. Thầy nào không tuân thủ pháp hành này, không phải đệ tử Phật và đã ra ngoài vòng an toàn rồi, phải bị ma bắt thôi.

Theo kinh nghiệm riêng tôi, từ năm 1961 đến 1962, 1963, trong mùa hạ ba năm liền, tôi không ra khỏi chùa Ấn Quang. Đó là quy định dành cho chư Tăng giúp chúng ta tìm được giải thoát trong vòng đai an toàn. Vì vậy, việc cấm túc an cư rất quan trọng đối với đời sống người tu.

Về sau, Hòa thượng Thiện Hòa mở rộng thêm, không đi ra ngoài trong ba tháng an cư, trừ khi có Phật sự do Tăng sai. Khi sống khép kín có lợi cho việc tu học, nhưng không lợi cho việc hoằng hóa. Như vậy, mở ra cho quý thầy đi giảng dạy, làm lợi cho đạo.

Tôi nhờ sống khép kín như vậy, nên dư thì giờ đọc sách, đọc kinh và lạy Hồng danh Phật. Lần lần đời sống tôi thâm nhập vào dòng thác trí tuệ Như Lai, gọi là Dự lưu. Không phải tôi bị bắt buộc, nhưng hạnh phúc được ở yên tu hành, không bị phiền não quấy rầy. Ở yên một chỗ, dư thì giờ tụng kinh, sám hối, tham thiền, dễ dàng dẫn chúng ta vào con đường giải thoát mà Phật vẽ ra cho mình.

Kinh nghiệm tu của tôi, phải giữ mình trong ba tháng an cư được Phật quy định. Thầy nào, chùa nào giữ đúng luật này, thì Phật nói có Thiên long giữ gìn. Tụng kinh Pháp hoa, thấy rõ điều này. Phật khẳng định rằng người nào tuân thủ pháp này, Ngài khiến Bát bộ Thiên long giữ gìn, người nào sống trong Thiền định, Ngài sai hóa nhân cúng dường đầy đủ và được thấy Phật, nghe Phật thuyết pháp. Đó là lộ trình mà Phật đã vẽ ra cho chúng ta. Còn đi hay không là ở ta.

Trong một năm, suốt chín tháng chúng ta bận nhiều việc, thì ba tháng an cư, cần nỗ lực thể nghiệm pháp Phật để thấy hằng sa Phật.

Làm đạo, thầy có công đức dễ làm đạo hơn. Nhưng thiếu công đức, chắc chắn gặp khó khăn vô cùng. Tu theo Phật, tất yếu phải ép vào khuôn tu hành.

Sáng nay, tôi giảng ở trường hạ Học viện Phật giáo TP.HCM, đây là năm đầu tiên, tôi ép Tăng Ni sinh viên vào khuôn tu hành, có học thì phải có tu. Người không ở trong nội giới tu hành ba tháng an cư, dù học giỏi cũng không được ra trường, vì có học nhưng không có hạnh.

Vì vậy, quy định của Học viện, ít nhất có hai năm nội trú, tức có tu, thể hiện được hạnh tu, sau này mới có thể ra làm đạo. Mới “có thể” thôi, chứ cũng chưa chắc, vì ra làm đạo, thiên ma ngoại đạo có vô số bẫy. Cho nên, chúng ta thấy có nhiều người tu học, nhưng được việc không nhiều.

Cần nhớ rằng người tu không an cư không phải đệ tử Phật, không được Thiên long Bát bộ giữ gìn, không được Phật phóng quang gia hộ. Tu như vậy, một thời gian sẽ rớt vào ngoại đạo, làm nô lệ cho ngoại đạo.

Điều thứ hai, Phật dạy rằng hành Bồ-tát đạo đáng quý, nhưng phải đắc Thánh quả A-la-hán mới có đủ đạo lực để hành Bồ-tát đạo. Chưa đắc A-la-hán, thì chưa tin được tâm mình, cứ nghĩ mình tốt, nhưng chắc gì mình tốt.

Tôi quan sát có người hành Bồ-tát đạo để mau thành Phật, nhưng muốn mau thì lại càng lâu. Vì vậy, Phật quy định phải đắc Thánh quả, chưa đắc Thánh quả mà muốn độ người, rất nguy hiểm.

Thầy chưa đắc Thánh quả muốn độ người xuất gia, nên bỏ ý này. Chưa đắc Thánh quả, độ người là gánh nặng vô cùng, vì đi một mình không nổi, còn đeo mang thêm, làm sao đi. Thật vậy, chúng ta xuất gia, từ bỏ tất cả để ra khỏi sinh tử, bản thân không đi nổi, còn gồng gánh thêm bà con nữa chỉ có nước ngã quỵ.

Phải tạm gác việc hành Bồ-tát đạo sang một bên. Tu Pháp hoa gọi điều này là thệ nguyện an lạc. Nói như vậy là lấy ý của Phật. Khi Phật đi xuất gia, Ngài hẹn khi nào được giải thoát sẽ quay lại hoàng cung độ quyến thuộc. Chưa đắc đạo thì Ngài không trở về nhà.

Thực tế chúng ta thấy thầy xuất gia mà còn kẹt gia đình, cha mẹ, anh em, bạn bè, khó đi xa, không giải thoát.

Phải một mạch đi tới để đạt giải thoát. Vì vậy, Phật quy định muốn đắc La-hán, phải theo lộ trình này, trừ trường hợp người có cha mẹ già không ai nuôi dưỡng, Ngài cho phép lo cho cha mẹ.

Tôi thấy có Tỳ-kheo tìm đất cất chùa, đất chưa tìm được đã chết, hay tìm được rồi, trả tiền chưa xong thì chết, hoặc ráng hơn, cất chùa xong cũng chết. Vì ráng quá sức, nên chết nhưng không biết về đâu.

Phải tìm đường giải thoát cho mình trước, hẹn người thân khi nào mình thành Vô thượng Chánh đẳng giác sẽ quay trở lại.

Có thầy bỏ được gánh nặng gia đình, nhưng nặng gánh chùa, nặng gánh bổn đạo, rồi than rằng làm trụ trì là làm dâu trăm họ.

Thiết nghĩ ta xuất gia không cần làm vừa lòng bất cứ ai. Người thật tu không lệ thuộc tình cảm, không lệ thuộc xã hội, không lệ thuộc thiên nhiên. Còn lệ thuộc những thứ này, chắc chắn còn trong sinh tử. Còn lệ thuộc vui buồn, vinh nhục, còn tiếp tục gánh sinh tử, dù mặc áo tu.

Phải làm sao không lệ thuộc xã hội, không lệ thuộc thiên nhiên, mình mới giải thoát. Thử hỏi các thầy cần bổn đạo, cần tiền bạc, cần chùa hay không.

Riêng tôi, sợ bổn đạo đông, sợ chùa lớn, sợ chùa nhiều, gánh không nổi. Sợ chức vụ mà Giáo hội giao phó, không gánh được, không phải đi tìm.

Tôi luôn suy nghĩ lúc nào mình phải buông. Vì Tăng sai, mình phải làm mọi việc với tất cả tấm lòng. Buông được phần nào, mình nhẹ phần đó.

Được Giáo hội giao phó, gọi là Tăng sai, chúng ta làm những chức danh Trưởng ban, Phó ban Ban này Ban kia. Tuy nhiên, lại có thầy ưa danh, lãnh chức nhưng không làm việc, như vậy xấu hổ hay không. Người hiểu đạo thì sợ danh, sợ đại chúng tin tưởng, giao phó mà không làm được. Nói như vậy không có nghĩa là thầy cô từ chối việc Tăng sai. Vì con mắt của Tăng thấy mình làm được mới giao việc, mình phải nỗ lực làm.

Trên bước đường tu, tôi nhờ Tăng sai, hết lòng làm, nên chư Tăng hộ niệm, hợp tác với mình. Còn chư Tăng không muốn mình làm, có làm cũng không thành công, nên phải từ chức, hay không được ai hợp tác phải từ chức. Thậm chí bị chống đối cũng phải từ chức.

Thí dụ Ban Trị sự thấy thầy có khả năng, nên bổ nhiệm trụ trì, thì phải dốc toàn lực phụng sự chùa, gọi đó là làm tôi cho Phật. Làm hết sức mình mà được Phật hộ niệm, chắc chắn việc thành tựu. Trái lại, nếu Phật bỏ, không hộ niệm, thì nên từ chức. Phật hộ niệm, việc khó mấy chúng ta cũng làm. Quyết tâm như vậy mới thành công.

Tôi có kinh nghiệm khi gặp khó, khổ, nhưng tôi không sợ, chắc chắn Phật thương mình, hộ niệm cho mình vượt qua khó, khổ. Phật hộ niệm, mình không thấy, nhưng quần chúng thương mình, hợp tác thì thấy. Đến nơi nào hành đạo, bà con hết lòng giúp đỡ, ta làm việc dễ dàng.

Xưa kia, các vị Tổ lập lều cỏ tu hành, không mua đất cất chùa, nhưng hành đạo, sức cảm hóa của các Ngài khiến quần chúng kính mến, nên họ hợp lực cùng nhau xây dựng chùa.

Chùa Kim Cang cũng vậy. Tổ đến đây không mua đất cất chùa, nhưng Ngài quán nhân duyên thấy dân chúng vùng này và Ngài có mối quan hệ vô hình, mới cất am tranh tu. Nghĩa là Tổ quán nhân duyên giữa Ngài và quần chúng xem Ngài làm được gì cho họ. Ngồi yên lặng, quán sát dân tình, thấy người bệnh nặng, thiền sư giỏi, biết đúng bệnh và làm thuốc cứu người. Kinh Dược Sư nói làm thuốc cứu người thì phước nhiều vô lượng, hiện đời được người kính trọng… sẽ thành Vô thượng Chánh giác. Người tu ngồi yên quán sát coi nhân dân cần gì, tìm cách giúp đỡ, nên được dân thương, kính quý và họ xây thêm nhà cho người đến tu học.

Ta chỉ lo tu giải thoát, người thương muốn làm theo ta để được thanh thản như ta thì họ tìm đến và ta dạy họ, họ tự tạo điều kiện sống. Ngày xưa, Tổ Huệ Đăng tu trong hang hổ, nhưng Ngài đắc đạo, các Hòa thượng ở khắp Nam Kỳ muốn học đạo, ra Bà Rịa ở với Tổ, rất đông, thì làm sao có chỗ cho các thầy ở. Các thầy phải lên núi che nhà ở, hái măng rừng ăn. Tổ chỉ tu. Nói rằng Ngài làm, nhưng thật ra là chư Tăng làm để sống, để tu. Vì vậy, chư Tăng đến đông, thì chùa lớn, mở rộng thêm.

Kinh nghiệm tôi thấy làm trụ trì phải quán sát nhân duyên giữa mình và dân chúng. Nếu ta thương họ, họ quý ta là chỗ đó ta hành đạo được. Như ngài Linh Hựu lên Quy Sơn dựng nghiệp, mở rộng tông môn, vì với huệ nhãn của người đắc đạo, vùng đất đó là nơi hành đạo của ngài. Nếu không thấy bằng mắt huệ, nhưng dùng tâm phàm tục hành đạo, là biến Phật đạo thành tà đạo, sớm muộn cũng thọ quả báo.

Tóm lại, giáo lý Phật tuy nhiều, nhưng chung quy gom lại một câu chính yếu rằng người thấy nhân duyên là thấy pháp. Người thấy pháp là thấy Như Lai. Các thầy suy nghĩ yếu lý của câu này trên đường hành đạo và áp dụng đúng đắn sẽ gặt hái được tiến bộ.

Cầu Phật gia hộ tất cả hành giả an cư luôn an lành trong Chánh pháp.

HT.Thích Trí Quảng

Dấu ấn những ngôi chùa linh thiêng ở Luang Prabang

Dấu ấn những ngôi chùa linh thiêng ở Luang Prabang

Đăng lúc: 19:30 - 29/06/2016

Ảnh: DulichVTV
Dấu ấn của Phật giáo để lại rõ nét nhất chính là những mái chùa làng linh thiêng có mặt khắp nơi trên đất nước Triệu Voi.
Kỳ 1: Đường đến đất nước Triệu voi và cánh đồng chum bí ẩn

Kỳ 2: Động Phật Pak Ou linh thiêng và kỳ bí

Cũng giống như một số quốc gia lân bang, Phật giáo được du nhập vào Lào từ rất sớm.

Lịch sử ghi lại rằng, vào khoảng thế kỷ thứ VIII sau Công Nguyên, một nhóm người Môn, một tộc người có xuất nguồn ở khu vực biên giới Thái Lan và Myanmar, đã di cư xuống vùng đất Tây Lào.

Ngoài kinh Phật và những vật phẩm liên quan đến Phật giáo ra, trong hành trình di dân lịch sử này, những người Môn còn mang theo những tu sĩ am hiểu Phật giáo từ Srilanka và tại đây họ đã truyền bá Phật pháp Tiểu thừa Theravada cho cư dân bản địa. Đến thế kỷ XIII, công việc truyền bá Phật giáo đến vùng đất này cơ bản đã hoàn tất.

Sau hơn 1.500 năm tồn tại song hành cùng lịch sử dân tộc, Phật giáo với tinh thần bao dung, quảng độ đã từng bước thẩm thấu và trở thành một phần không thể thiếu trong tiến trình phát triển của dân tộc Lào. Cho đến ngay nay, dấu ấn mà Phật giáo để lại rõ nét nhất chính là những mái chùa làng có mặt khắp nơi trên đất nước này.
Skip in 6...Ad finishes in 15 seconds

Theo con số thống kê, hiện nay ở Lào có khoảng 6.300 ngôi chùa lớn nhỏ nằm rải rát trên khắp đất nước. Và mỗi ngôi chùa, tùy theo vị trí tọa lạc, đặc điểm dân cư mà nó mang trong mình một trọng trách, một chức năng rất riêng.

Tọa lạc trên đại lộ Si - Sa- Vang -Vong, cạnh tòa nhà bảo tàng hoàng gia Luang Prabang, nơi xưa kia là cung điện, là trung tâm kinh tế- văn hóa của quốc gia này trong một thời gian dài nên chùa Wat Mai Suwannaphumaham có một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của cổ thành này.

Được xây dựng vào năm 1780 bởi vua A-Na-Rút của Vương quốc Luang Prabang, chùa Wat Mai Suwannaphumaham một thời được xem như là ngôi chùa dành riêng cho Hoàng Gia và giới quý tộc, các thương gia giàu có.

Trong khi nhiều ngôi chùa khác bị phá hủy trong cuộc chiến giữa vương quốc Luang Prabang và đội quân cờ đen, một nhóm vũ trang được bị triều đình phong kiến Trung Quốc thời bấy giờ xếp vào dạng phản loạn, vào năm 1887, thì chùa Wat Mai Suwannaphumaham hầu như vẫn giữ được nét kiến trúc nguyên thủy vốn có và đó chính là lý do mà ngôi chùa này trở nên thiêng liêng đối với người dân cố đô.


Wat Mai Suwannaphumaham, ngôi chùa linh thiêng của những người dân buôn bán - Ảnh: wikipedia
Như đã nói, do nằm ngay vị trí trung tâm của cố đô xưa, nên chùa Wat Mai Suwannaphumaham bao đời nay được xem như là điểm tựa tâm linh dành riêng cho những người buôn bán.

Bao thăng trầm của lịch sử đã đến rồi đi, song dấu tích về vai trò dẫn dắt thương mại của ngôi chùa Wat Mai Suwannaphumaham dường như vẫn còn đó thông qua hàng loạt những bức tranh được các họa sĩ Phật giáo cẩn thận khắc in vào tường.

Và có lẽ, đó cũng chính là lý do mà ngôi chợ Luang Prabang bao đời nay vẫn tồn tại một cách lặng lẽ dưới bóng ngôi cổ tự linh thiêng mặc cho biến thiên của thời gian và thời cuộc.

Người dân địa phương cho biết, trước đây chợ chỉ họp ban ngày.

Tuy nhiên, khi mà cố đô Luang Prabang được Unesco công nhận là thành phố di sản, ngành công nghiệp du lịch phát triển thì ngôi chợ này chuyển sang họp vào ban đêm để phục vụ cho khách du lịch.


Kiến trúc bên trong chùa

Tượng Phật - Ảnh: wikipedia
Mặc dù có sự thay đổi về thời gian, song không gian của ngôi chợ vẫn không hề thay đổi, vẫn lặng lẽ thu mình bên mái chùa làng linh thiêng của các thế hệ tiểu thương bản địa.

Và cũng giống như những ngôi chợ mà chúng tôi có dịp tiếp cận trong hành trình khám phá đất nước Triệu Voi, cung cách buôn bán ở ngôi chợ đêm này diễn ra trong một không gian khá bình lặng, giống như lối sống thường nhật của đại bộ phận người dân trên mảnh đất này.

Bân cạnh chùa chùa Wat Mai Suwannaphumaham ra, ở cố đô Luang Prabang còn có một ngôi chùa khác cũng có vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của của thành phố, đó là chùa Wat Xieng Thong.

Nếu như chùa Wat Mai Suwannaphumaham được ví như là biểu tượng dành cho giới tiểu thương thì Wat Xiêng Thong được xem như một bảo tàng nghệ thuật, nơi lưu giữ những tinh hoa kiến trúc, nghệ thuật hội họa của Phật giáo nói riêng và của dân tộc Lào nói chung.

Nằm ở cuối đường Sakkarin, gần với ngã ba tiếp giáp giữa sông Mê Kông và sông Nam Khan, chùa Wat Xiêng Thông được xây dựng năm 1560 dưới thời vua Setthathirat.

Cùng với chùa Wat Mai Suwannaphumaham, chùa Wat Xieng Thong là một trong hai ngôi cổ tự được Đội quân cờ đen không cho phá hủy vào năm 1887.


Chùa Wat Xieng Thong
Tương truyền, sở dĩ ngôi chùa Wat Xieng Thong không bị phá hủy là do một trong những thủ lĩnh của đội quân này có một thời gian tu tập ở đây trước khi gia nhập lực lượng này.

Chùa Wat Xieng Thong có khuôn viên khá rộng với nhiều hạng mục lớn nhỏ, bao gồm một chánh điện mang phong cách kiến trúc đặc trưng của Luang Prabang cổ với mái lợp ba tầng hạ sâu hướng về mặt đất.


Ngoài cổng chùa
Bên ngoài khu vực chánh điện, người xưa cho xây dựng một số nguyện đường nhỏ, mang phong cách kiến trúc pha lẫn giữa lối kiến trúc đặc trưng của dân tộc Lào và kiến trúc Phật giáo tiểu thừa Theravada và là nơi khi xưa, các nhà sư dùng làm nơi tịnh tâm nghĩ về đạo pháp trong mùa an cư kiết hạ.

Bên cạnh kiến trúc độc đáo trường tồn qua hàng thế kỷ ra, chùa Wat Xiêng Thông còn khiến nhiều người ngạc nhiên với hàng loạt bức tranh đa sắc màu về lịch sử Phật giáo và lịch sử dân tộc. Tất cả đều được các họa sĩ cẩn thận dùng miễng sành, sứ lắp ghép lại với nhau hoặc trực tiếp vẽ lên tường. Đây được xem như là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo vào loại bậc nhất trên đất nước Triệu Voi.


Tượng phật bên trong chùa - Ảnh: Visit Laos
Cũng giống như nhiều dân tộc sống trên ban đảo Đông Dương, trước khi đạo Phật xuất hiện, cư dân cổ có khuynh hướng đa thần. Và khuynh hướng ấy vẫn âm thầm tồn tại bên cạnh đạo Phật cho đến ngày nay.

Và đó là lý do mà trong ngôi nhà này, người ta cho lưu giữ rất nhiều bức tượng, tranh vẽ về các vị thần trong truyền thuyết của các dân tộc Lào bên cạnh những bức tượng Phật có tuổi đời hàng trăm năm tuổi.

Thời gian trôi qua, lịch sử dân tộc Lào trải qua nhiều biến động, song tính cách hiền hòa của người dân Lào dường như không thay đổi. Đây là một minh chứng rõ nét cho thấy giá trị của đạo Pháp dường như đã trở thành thành tố quan trọng hình thành nên giá trị con người ở đất nước này, cho dù họ là ai, làm nghề gì.

Và trong quá trình hình thành nên giá trị con người Lào hàng ngàn năm qua có vai trò của những mái chùa làng. Lưu giữ ký ức của những ngôi chùa mang trên mình nét đặc trưng riêng như chùa Wat Mai Suwannaphumaham và chùa Wat Xiêng Thong là một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân trên đất nước Triệu Voi.

Nguyễn Minh

Tọa đàm 'Định hướng phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An

Tọa đàm 'Định hướng phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An

Đăng lúc: 19:14 - 07/05/2016

sáng nay, ngày 07/05/2016, Tọa đàm 'Định hướng phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An, tại Vinh Plazza, Trong khuôn khổ Lễ hội Phật giáo hương sen Xứ Nghệ năm 2016. Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An sẽ tổ chức Tọa đàm : “Định hướng Phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An” Nội dung Tọa đàm sẽ tập trung các chuyên đề: 1. Phương pháp quản lý Tăng Ni Tự Viện; 2. Phương pháp Nâng cao nhận thức Phật học cho Tăng Ni, Phật tử; 3. Bảo tồn-kế thừa-phát huy văn hóa và nghi lễ Phật giáo Việt Nam.
Đúng 8h.00, Buổi tọa đàm sẽ diển ra, BBT sẽ cập nhật hình ảnh và nội dung buổi tọa đàm này:

Chuyên Đề 1: Phương Pháp quản lý Tăng ni, Tự viện:
- Các vấn đề cần quan tâm và thảo luận cho chuyên đề này như sau:
+ Thực trạng về Tăng Ni Tự viện tại Nghệ An?
+ Vấn đề Tăng ni ngoài tỉnh đến hoạt động tại Nghệ An?
+ Vấn đề giả sư?
+ Vấn đề thụ giới?
+ Vấn đề an cư kết hạ?
+ Vấn đề bổ nhiệm trụ trì?
+ Vấn đề Phục hồi chùa?
+ Vấn đề xây dựng chùa?
+ Vấn đề cải gia vi tự?
+ Vấn đề danh xưng tự viện
+ Vấn đề ban hộ tự?
+ Vấn đề khen thưởng và xử phạt?
+Vấn đề kiện toàn nhân sự và tổ chức Ban trị sự?
+ Vấn đề thờ hinh tượng Phật, bồ tát các nơi đình, đền, miếu thuộc tín ngưỡng dân gian?
+ Công tác quản lý các chùa là di tích lịch sử, văn hóa; các chùa trong khuôn viên có các công trình, di tích, các hoạt động tín ngưỡng dân gian.

Chuyên đề 2: Phương pháp nâng cao nhân thức Phật học cho Tăng ni - Phật tử:
- Các vấn đề cần quan tâm và thảo luận cho chuyên đề này như sau:
+ Thực trạng nhận thức của Tăng Ni, Phật tử về Phật học và thế học?
+ Vấn đề giảng đường và giảng sư?
+ Lựa chọn băng đĩa, website, sách báo, kinh điển sao cho phù hợp?
+ Vấn đề Phật hóa Gia đình?
+ Phương pháp hoằng pháp cho giới trẻ?
+ Phương pháp ứng xử của tổ chức Giáo hội Phật giáo, của tăng, ni và phật tử khi phát hiện các đạo lạ
+. Phương pháp ứng xử của tổ chức Giáo hội Phật giáo, của tăng, ni và phật tử đối với các tư tưởng, cách thức hoạt động không chính thống trong Giáo hội Phật giáo hoặc các tư tưởng, cách thức hoạt động mang màu sắc Phật giáo.
+ Phát huy tư tưởng triết học và khoa học của Phật giáo để truyền bá Phật giáo trong tầng lớp trí thức và thanh niên.
+ Phương pháp thống kê và quản lý tín đồ, Phật tử?
+ Định hướng Phát triển Phật giáo miền núi như thế nào?
+ Vấn đề mở trường đào tạo Tăng Ni và Phật tử?
Chuyên đề 3: Bảo tồn – Kế thừa – Phát huy Văn hóa và Nghi lễ Phật giáo Việt Nam:
- Các vấn đề cần quan tâm và thảo luận cho chuyên đề này như sau:
+ Thực trạng về văn hóa và nghi lễ tại Nghệ An.
+ Nên sử dụng ngôn ngữ, loại linh vật và họa tiết văn hoa như thế nào để phù hợp với cảnh quan, tinh thần Phật giáo và văn hóa Việt?
+ Quy hoạch kiến trúc tự viện và tính ứng dụng của nó theo xu thế hiện đại?
+ Phương pháp ứng xử với chùa di tích lịch sử và di tích kiến trúc văn hóa như thế nào?
+ Vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của ban quản lý và Sư trụ trì tại các ngôi chùa di tích lịch sử?
+ Vấn đề pháp phục cho Tăng Ni và Phật tử?
+ Phối hợp quản lý giữa cơ quan quản lý nhà nước và giáo hội?
+ Thực hiện nghi lễ như thế nào để tiết kiệm và phù hợp với thời đại?
+ Phân biệt lễ vật và lễ nghi giữa Phật giáo với tín ngưỡng nhân gian? Như vàng mã, lẽ mạn, rượu bia,…
+ Vấn đề việt hóa và thống nhất nghi lễ như: nghi thức tụng niệm hàng ngày, cầu an, cầu siêu, đám tang, cúng tuần, khoa giáo, sớ sách… trên địa bàn Nghệ An như thế nào?
+ Phương thức bài trí, thờ tự tại tư gia như thế nào cho đúng?.

Tọa Đàm bắt đầu:






Quang lâm chứng minh và tham dự có: HT.Thích Thanh Đàm, UV HĐCM GHPGVN, HT.Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch TT HĐTS, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An; HT.Thích Chơn Không, Phó ban kiêm Chánh thư ký Ban HDPT T.Ư GHPGVN; TT.Thích Thanh Huân, UV TT HĐTS, Phó Chánh VP I GHPGVN; TT.Thích Thọ Lạc, UV TT HĐTS, Phó ban TT Ban Văn hóa T.Ư GHPGVN, Phó ban TT BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An; chư tôn đức Tăng ni và đông đảo quý Phật tử cùng về tham dự.






Về phía đại biểu khác mời có: TS Bùi Thanh Hà, Phó Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ; ông Lê Đình Nghĩa, Vụ trưởng vụ Tôn giáo, ban Dân vận Trung ương; TS Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam); ông Lê Minh Thông, Ủy viên ban thường vụ Tỉnh ủy, Phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An; ông Lưu Công Vinh, Phó giám đốc Sở Nội vụ, Trưởng ban Tôn giáo tỉnh Nghệ An; cùng đại diện lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trung ương và địa phương.






HT Thích Thanh Nhiễu phát biểu khai mạc buổi Tọa Đàm

GSTS Nguyễn Quốc Tuấn, viện nghiên cứu Tôn giáo viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam phát biểu đề dẫn


TT Thích Thọ Lạc, Phó ban Văn Hóa TW GHPGVN, Phó Trưởng Ban BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An


ĐĐ Thích Châu Phong, trưởng ban Pháp Chế, GHPGVN tỉnh Nghệ An


Ban Thư Kí




ĐĐ Thích Đồng Tựu, Ủy Viên Ban Pháp Chế BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An phát biểu về vấn đề giả sư tại địa bàn tỉnh


Ông Nguyễn Văn Long, Phó ban tôn giáo tỉnh phát biểu về nội dung phục hồi và xây dựng chùa, thành lập ban hộ tự, v.v...



ĐĐ Thích Nhuận Hiển

Hội nghị chuyển sang chuyên đề 2


TT Thích Thông Kiên, Trưởng Ban Hướng Dẫn Phật Tử phát biểu về những kinh nghiệm tổ chức khóa tu cho tuổi trẻ và định hướng cho các khóa tu trong tương lai



TT Thích Nhuận Tâm phát biểu về các vấn đề hoằng pháp trong thời đại toàn cầu hóa đa phương tiện.



TT Huệ Vinh, phó ban trị sự, trưởng ban hoằng pháp tp Đà Nẵng, phát biểu về kinh nghiệm hoằng pháp đối với một ngôi chùa trong dòng phát triển mới



Cô Thúy Hồng, Giảng viên trường Đại Học Vinh phát biểu về vấn đề Tuổi trẻ với Phật giáo trong tỉnh Nghệ An



Bà Hoàng Thị Quỳnh Anh, Phó Giám đốc Sở VHTT&DL tỉnh Nghệ An phát biểu



HT.Thích Chơn Không, Phó ban kiêm Chánh thư ký Ban HDPT T.Ư GHPGVN



Đại Đức Thích Quảng Nguyên, Phó Ban Trị Sự Phật Giáo tỉnh Hà Tỉnh




Đại Đức Thích Tâm Hiếu



Đại Đức Thích Quảng Văn



TT Thích Thọ Lạc phát biểu kết luận bế mạc hội nghị



Chụp hình lưu niệm


Tác giả bài viết: BTT

Lắng nghe để hiểu & thương

Lắng nghe để hiểu & thương

Đăng lúc: 23:58 - 27/03/2016

Một con cú già khôn ngoan sống ở cây đa. Nó càng nhìn thấy sự đời thì càng ít nói. Mà nó càng ít nói thì lại lắng nghe nhiều. Tại sao mình lại không như con cú già khôn ngoan kia? (Khuyết danh).
bo-tat-QTa.jpg
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian...

Khi còn bé thơ, chúng ta được dạy ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Và càng nói nhiều thì đó là dấu hiệu phát triển bình thường. Nhưng ít khi nào chúng ta được dạy phải biết lắng nghe. Và phần nhiều, cha mẹ, thầy cô, các bậc phụ huynh, v.v… không để tâm nhiều đến chuyện dạy dỗ cách biết lắng nghe. Tất nhiên, cha mẹ hay các thầy cô có dạy mình phải biết nghe lời. Nhưng ít khi chúng ta được dạy cách biết lắng nghe cho đúng.

Thường khi trong một cuộc đối thoại, chúng ta muốn người đối diện nghe ý kiến của mình muốn phát biểu, hay diễn đạt hơn là mình nên lắng nghe ý tưởng của họ. Nếu đã là vậy, rõ ràng không có sự lắng nghe xảy ra. Mà hễ không có sự lắng nghe, hiểu và cảm thông sẽ không bao giờ được thiết lập. Vợ chồng thường hay gặp phải tình cảnh này, nên có câu nói chọc cười: ‘Ngày xưa chồng nói vợ nghe. Bây giờ chồng nói vợ chê lắm mồm’. Cho nên, biết lắng nghe là nhịp cầu nối đầu tiên cho sự hiểu biết, cảm thông.

Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, sở dĩ Ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp, nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ-tát, Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.

Nhiều kinh điển nói về công hạnh của Bồ-tát, về sức uy thần diệu dụng của Ngài, thường hiện thân khắp nơi cứu giúp người đang đau khổ trên trần gian. Nhưng để tu tập theo hạnh nguyện từ bi, cứu khổ của Ngài, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu thêm một số chi tiết về những hạnh nguyện đó.

Trong kinh Pháp hoa nói Ngài thường thị hiện 33 hóa thân. Nhưng theo thiển ý, chắc đây là con số tượng trưng. Ngài được mô tả là một vị Bồ-tát luôn hóa thân cứu khổ mọi loài chúng sinh. Ngài hóa thân là một hiện tượng đặc thù theo tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’, biểu lộ tấm lòng đại từ bi, không phân biệt kẻ thân, người sơ, kẻ thâm tín, người hoài nghi, thậm chí người vô thần, ngoại đạo.

Hiện tượng hóa thân nói lên sự thấu hiểu và cảm thông thật sâu sắc nỗi sợ hãi, mối ưu lo của chúng sinh trong thế giới đảo điên, mộng tưởng. Để được tiếp cận với một chúng sinh đang đau khổ, Ngài hiểu rõ rằng một người xa lạ, dù là một Bồ-tát, sẽ khó có thể đến gần để chúng sinh kia được giãi bày nguồn cơn nỗi khổ của mình.

Theo kinh nghiệm đời thường cho thấy, khi chúng ta đang đau khổ hoặc phiền não mình chỉ muốn chia sẻ với ai biết lắng nghe, thông cảm, và không có ý phê phán, bình phẩm về những điều mình đã làm sai, hay tâm tình mình đang giãi bày, thổ lộ. Và thường mình muốn chia sẻ với người quen biết, dễ thương, hoặc người nào tôn trọng ý tưởng và tình cảnh của mình. Nếu hiểu được điều này, chúng ta có thể đóng vai sứ giả của Đức Quán Thế Âm, lắng nghe mà không phê bình, chỉ trích để giúp làm vơi nỗi khổ của người.

Thật ra, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng làm sứ giả Quán Âm, và muốn thành tựu vai trò này đòi hỏi mình phải biết lắng nghe.

Nhưng biết lắng nghe là một nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải quên mình đi mà chỉ biết nghe người kia đang nói gì. Biết lắng nghe đòi hỏi mình phải biết lắng đọng tâm tư để nghe rõ thông điệp của người mình đang đối diện. Cái bi kịch thường hay xảy ra cho chúng ta là khi mình muốn học hạnh lắng nghe nhưng cứ mỗi khi nghe xong câu chuyện mình lại diễn dịch nó qua lăng kính kinh nghiệm của bản thân, giống như mình nhìn thấy một sự kiện qua cặp kính màu của mình, nên thay vì hiểu và cảm thông, chúng ta lại chỉ trích hay phê phán người đối diện là dở cái này, thiếu cái nọ.

Do đó, hành động lắng nghe của mình bị thất bại. Nếu chúng ta biết lắng nghe qua tâm hạnh từ bi như Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta biết tôn trọng ý tưởng của người nói và lắng nghe cho kỹ những nỗi khổ đau mà họ đang trải nghiệm, thì công sức lắng nghe của mình sẽ chắc chắn mang lại một kết quả tốt và có thể sẽ làm vơi đi nỗi khổ của người.

Ngoài việc hóa hiện các thân để cứu độ, Ngài còn có khả năng làm cho chúng sinh hết lo sợ (vô úy thí). Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn có nêu lên 14 hoàn cảnh, những trường hợp tượng trưng, mà Ngài đã vận dụng năng lực vô úy để cứu độ. Năng lực vô úy là một khả năng đặc thù mà chỉ có những ai thật định tĩnh, tự tin, và từ bi vô hạn mới có thể làm được. Như một bà mẹ thương con vô cùng mới có thể làm con mình yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm. Sở dĩ chúng ta cảm thấy an lòng, không hoảng sợ, kinh hoàng trước sự hiện diện của Bồ-tát Quán Thế Âm vì Ngài sẵn lòng hy sinh bản thân để cứu độ mọi người.

Chúng ta cũng đã từng nghe qua năng lực vô úy này được các thiền sư thể hiện, như trong câu chuyện sau: Trong thời nội chiến ở Triều Tiên, một vị tướng soái dẫn quân đánh chiếm hết vùng này đến vùng kia, hủy diệt hết những gì cản trở bước tiến của ông ta. Dân chúng trong thành biết đoàn quân của vị tướng đang đánh tới, và nghe tiếng tàn bạo của ông ta nên mọi người đều trốn lánh vào vùng núi cao.

Vị tướng tiến chiếm thành không người và ra lệnh quân lính tìm kiếm dân trong thành khắp nơi. Vài người lính trở về báo cáo chỉ có một thiền sư còn ở lại. Vị tướng quân liền vội vã đến chùa, đi thẳng vào bên trong, rút gươm ra, và nói: “Lão thầy chùa kia, ông không biết ta là ai sao? Ta là người có thể thản nhiên lấy mạng của ông không chớp mắt”. Vị thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông tướng soái và bình thản trả lời: “Và tôi, thưa ngài, là người có thể để ngài lấy đầu mà cũng không chớp mắt”. Vị tướng quân nghe xong, liền cúi đầu và bỏ đi.

Sợ hãi là bản năng của con người, ai sinh ra cũng có. Nhưng các bậc thánh, hay như người căn tính yếu kém như chúng ta, nếu biết tu tập tinh chuyên và có lòng từ bi vô lượng, đều có khả năng, không những vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, mà còn khéo giúp người khác an tâm, không lo sợ. Tu tập hạnh từ bi có khả năng giúp mình vượt qua khổ hải và cũng giúp được người vơi bớt khổ đau. Vậy muốn có được năng lực vô úy thì chúng ta không thể thiếu hạnh từ bi.

Tuệ giác của pháp môn lắng nghe, không chỉ nằm trong việc lắng nghe âm thanh, lời nói, ngôn ngữ của người đối diện, mà còn vận dụng hết cả thân tâm mình từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và cả ý căn, để hiểu thấu và thấy rõ từ cử chỉ, hành vi, và sắc diện của họ đang nói lên những gì, mà lời nói, ngôn ngữ chưa diễn đạt, trình bày được hết ý của câu chuyện.

Chỉ cần vận dụng một phần ba (1/3) năng lượng của tuệ giác lắng nghe là chúng ta đã có thể giúp vơi đi nỗi khổ của người khác nhiều lắm rồi. Nhưng tiếc thay, đa số chúng ta thích nói hơn là thích nghe nên năng lượng của tuệ giác lắng nghe ít khi được sử dụng. Sở dĩ, mình thích nói hơn lắng nghe vì bản ngã, hay cái ta, đóng vai trò lớn trong việc thể hiện tầm quan trọng của bản thân, con người mình. Không ai muốn đóng vai trò ‘thấp cổ, bé miệng bao giờ!’. Hiểu rõ được điều này và phải vận dụng nhiều công phu tu tập mới có được chút khả năng lắng nghe vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Nhân ngày lễ vía của Đức Bồ-tát, chúng ta hãy cùng nhau vận dụng hết năng lực của mình để nhất tâm tu tập nguyện noi theo công hạnh của Ngài và để xứng đáng làm một sứ giả của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Tháng 10-2015
Tuệ Nghiệp

Trao đổi về bài: Sau khi chết xác thân chỉ là “Đất"

Trao đổi về bài: Sau khi chết xác thân chỉ là “Đất"

Đăng lúc: 10:04 - 17/12/2015

Ông bà tổ tiên sau khi chết thì tùy nghiệp tái sinh vào lục đạo, các vị ấy không ở trên bàn thờ...

HỎI: Tôi không đồng ý với câu trả lời của Tổ Tư vấn (TTV) về bài Sau khi chết xác thân chỉ là “đất”, đăng trên Giác Ngộ số 822, với 2 vấn đề dưới đây:

1. Còn việc bạn “mơ thấy cha hiện về, ông có điều gì đó phản ứng rất dữ dội” chỉ là biểu hiện của chính tâm thức bạn. Vì bạn suy nghĩ quá nhiều về điều ấy nên tâm bạn tự “nhào nặn” thành giấc mơ, hoàn toàn không phải là cha của bạn về báo mộng hay chưa tái sinh. Xin hỏi TTV dựa vào đâu mà phát biểu như vậy? Nếu đó chỉ là suy luận thì tôi nghĩ là không nên, vì từ suy luận đến thực tế khác xa lắm. Hơn nữa giác quan và tri thức của con người rất hữu hạn so với thực tại của vũ trụ.

2. Kinh Phật dạy rằng, một người chết đi lập tức tái sanh nếu sinh thời tạo nghiệp cực thiện hoặc cực ác. Còn nếu tạo nghiệp thiện ác lẫn lộn có thể trải qua thân trung gian, tối đa 49 ngày là tái sinh. Cha của bạn mất đã 29 năm, dĩ nhiên đã theo nghiệp tái sinh, không hề có chuyện “ông vẫn còn tham dự vào chuyện gia đình”. Vậy thì cúng Mông Sơn thí thực là để làm gì? Có phải vì lòng từ bi của nhà Phật mà đem thức ăn cho những chúng sanh đang đói khát hay không? Theo tôi biết, những chúng sanh đang đói khát đó chính là những người đã chết mà họ không đủ duyên để đi đầu thai. Trong kinh sách nhà Phật cũng nói rất nhiều về điều này. Thiết nghĩ, TTV nên trả lời những gì mình biết chứ không nên tùy tiện suy diễn.

(QUỲNH, quynhuyenvo@gmail.com)


Ảnh minh họa

ĐÁP: Bạn Quỳnh thân mến!

Trước hết, chúng tôi xin chân thành tri ân sự phản hồi của bạn. Trong quá trình học tập giáo pháp, sự thành tâm trao đổi, luận bàn có vai trò rất quan trọng giúp chúng ta soi sáng lẫn nhau để tin hiểu Chánh pháp sâu sắc hơn.

Vấn đề 1, bạn hỏi, dựa vào đâu mà phát biểu như vậy? Xin trả lời, chúng tôi đã dựa vào Chánh pháp. Theo một số kinh, luận (A-tỳ-đàm), cái gọi là giấc mơ hay chiêm bao có thể được tạo ra do nhiều nguyên nhân: Một giấc mơ có thể hình thành do những tác động sinh lý trong cơ thể, do sự tồn đọng của những hồi ức lúc thức, do sự tác động của một ngoại nhân có thần lực, hoặc chiêm bao cũng có thể là một điềm báo được tạo ra do sự chiêu cảm của nghiệp lực cá nhân hay tập thể.

Nói chung, hầu hết các giấc mơ đều là sản phẩm của tâm thức, là biểu hiện của chính tâm thức chúng ta. Tất cả các ý niệm, nhận thức, kinh nghiệm… của con người được lưu trữ trong tâm (tàng thức), tùy theo nhân duyên và hoàn cảnh mà biểu hiện thành những giấc mơ với nội dung khác nhau.

Chúng tôi tán đồng nhận định “giác quan và tri thức của con người rất hữu hạn so với thực tại của vũ trụ” của bạn, nhưng tin vào báo mộng của người chết là chuyện hoàn toàn khác. Chúng tôi không suy luận hay suy diễn mà hiểu rõ, giáo lý của đạo Phật không chủ trương tin vào báo mộng của người chết.

Nói rõ hơn, báo mộng là tín niệm dân gian. Tín niệm này vốn ăn sâu vào nhận thức của nhiều người ở khắp nơi trên thế giới. Tin vào báo mộng của người chết hay không là quyền của mỗi người, nhưng dưới ánh sáng chánh kiến của Phật giáo, mộng mị vốn là huyễn, không thực. Vì thế, Đức Phật không khuyến khích học tập các dị thuật như chiêm tinh, đoán mộng v.v…, thậm chí còn ngăn cấm.

Vấn đề 2, bạn hỏi, vậy cúng Mông Sơn thí thực để làm gì? Xin trả lời, cúng Mông Sơn thí thực nhằm bố thí thức ăn cho loài Ngạ quỷ đói khát được no đủ. Kinh điển nhà Phật nói rõ các chúng sanh trong lục đạo (thuộc Dục giới) bao gồm: Trời, người, a-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Những chúng sinh nào tập nghiệp tham lam, bỏn sẻn nặng nề sau khi chết sẽ tái sinh (đầu thai) vào loài Ngạ quỷ.

Cần xác định “những chúng sanh đang đói khát” ấy chính là loài Ngạ quỷ, một số ít khác thuộc chúng quỷ thần, chứ không phải là “những người chết mà họ không đủ duyên để đi đầu thai”.

Cụ thể hơn, Phật giáo Nam truyền không chủ trương có thân trung ấm, chết là tái sinh tức khắc. Phật giáo Bắc truyền chủ trương con người chết đi có thọ thân trung ấm, trong thời gian thọ thân trung ấm vẫn có thể thọ dụng thực phẩm (mùi hương) do người thân hiến cúng, nhưng tối đa khoảng 49 ngày là tái sinh. Phật giáo Tạng truyền (Mật tông Tây Tạng) cho biết, một số rất ít các thân trung ấm có thể kéo dài hơn 49 ngày, nhưng đó là những trường hợp cá biệt.

Vì vậy, chúng ta thờ cúng ông bà tổ tiên nhằm thể hiện lòng hiếu kính và tri ân. Ông bà tổ tiên sau khi chết thì tùy nghiệp tái sinh vào lục đạo, các vị ấy không ở trên bàn thờ, và do nghiệp duyên nơi loài mà các vị ấy đã tái sinh vào cũng khác biệt nên không dễ hội đủ nhân duyên để can thiệp vào đời sống của chúng ta.

Mặt khác, không nên xem loài Ngạ quỷ (đã đầu thai), phần lớn cộng cư với loài người, thường được loài người cúng thí thực phẩm là “những người chết mà họ không đủ duyên để đi đầu thai”.

Chúc bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN

Thân trung ấm vô ngã

Thân trung ấm vô ngã

Đăng lúc: 06:41 - 10/12/2015

Thân trung ấm cũng là một dạng sống có thân tâm tiếp nối giữa các thân, và hoàn toàn vô ngã.

HỎI: Theo giáo lý vô ngã thì con người sau khi chết đi ngũ uẩn tan rã, chỉ có nghiệp làm động lực dẫn dắt tái sinh. Truyền thống Phật giáo Bắc truyền có khái niệm thân trung ấm. Nếu chiếu theo giáo lý vô ngã, con người sau khi chết đâu còn lại gì nữa, như vậy bản chất của thân trung ấm là gì? Theo tôi, thuyết “thân trung ấm” không phù hợp lắm với giáo lý vô ngã nhưng xem ra gần gũi với thực tế cuộc sống. Nhiều người thấy người thân mới mất về trong đêm khuya, có người kể thấy họ về rất rõ ràng đang lúc tỉnh táo. Trường hợp người mới mất về “thăm nhà” phải chăng đây là trạng thái thân trung ấm?

(NGỌC LINH, nguyenkhiem_ngoc@yahoo.com.vn)

ĐÁP: Bạn Ngọc Linh thân mến!

Thân trung ấm hiện là quan niệm của Phật giáo Bắc truyền, khởi nguyên từ thời Phật giáo bộ phái rất xa xưa (không phải do Phật giáo Trung Quốc đặt ra). Phật giáo Nam truyền hiện không có quan niệm này.

Thân trung ấm tuy có vai trò như một thân trung gian chờ tìm cảnh giới tương ứng để tái sinh trong lục đạo nhưng nó không phải linh hồn (tự ngã, thuần nhất, bất biến). Do đó, bản chất của thân trung ấm cũng không khác gì với thân ngũ ấm (uẩn) hiện tiền của chúng ta đây, thân trung ấm vô ngã.

Nếu xem “thuyết thân trung ấm không phù hợp lắm với giáo lý vô ngã” là hiểu chưa tường tận về thân trung ấm. Đúng là “con người sau khi chết đi ngũ uẩn tan rã, chỉ có nghiệp làm động lực dẫn dắt tái sinh”, thân trung ấm là kết quả đầu tiên của sự tái sinh ấy. Sau khi hết tuổi thọ (dưới 7 ngày), các thân trung ấm sẽ chết đi tái sinh làm một thân trung ấm mới, tối đa là 7 lần (49 ngày) thì bỏ thân trung ấm cuối cùng để tái sinh vào lục đạo. Nói một cách dễ hiểu, trong dòng luân hồi vô tận, chúng ta khi thọ thân này, lúc thọ thân khác, thân trung ấm cũng vậy, là một dạng sống có thân tâm tiếp nối giữa các thân, và hoàn toàn vô ngã.

Theo Phật giáo Tạng truyền (thuộc Bắc truyền) thì thân trung ấm có khả năng biết rõ, thấy rõ toàn bộ đời sống của chúng ta, nhưng ngược lại, chúng ta không thể thấy biết gì về thân trung ấm. Dĩ nhiên phần lớn các thân trung ấm hay ở gần khu vực tang lễ của chính họ hoặc nơi có người thân, nhưng như đã nói, người phàm chúng ta không thể thấy họ.

Hiện tượng “nhiều người thấy người thân mới mất về trong đêm khuya, có người kể thấy họ về rất rõ ràng đang lúc tỉnh táo” phần lớn là do chúng ta thương nhớ người mất quá nhiều, do tâm luyến ái của thân trung ấm tác động vào, nên tâm mình tự huyễn ra thấy rõ người thân đã mất đang về.

Chúc bạn tinh tấn!

Phật giáo Trúc Lâm - hội tụ và lan tỏa

Phật giáo Trúc Lâm - hội tụ và lan tỏa

Đăng lúc: 06:39 - 10/12/2015

Là tên hội thảo khoa học vừa được khai mạc sáng nay 10-12, tại chùa Trình (TP.Uông Bí, tỉnh Quang Ninh) do Ban Hoằng pháp T.Ư phối hợp Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Ninh tổ chức.
HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS; chư tôn giáo phẩm HĐTS, Ban Hoằng pháp T.Ư cùng các tỉnh, thành; Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Ninh và đông đảo các nhà khoa học đến tham dự hội thảo.


Toàn cảnh khai mạc Hội thảo

Phát biểu đề dẫn hội thảo, TT.Thích Thanh Quyết, Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quang Ninh cho biết, hội thảo sẽ tập trung vào 2 phần. Phần thứ nhất đề cập đến vai trò, vị trí của thời Trần, Phật giáo Trúc Lâm và Phật giáo Trúc Lâm thời Trần cũng như thân thế, sự nghiệp, hành trạng của những nhân vật, danh Tăng, di tích thời đại này.

Theo Thượng tọa, những nội dung này đã được nói đến trong nhiều hội thảo trước đây và trong các công trình khoa học nhưng vẫn còn tản mạn và chưa thấu đáo, thuyết phục như việc tìm hiểu những vận động nội tại, khách quan của Phật giáo trong mối quan hệ với tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo và thể chế chính trị.

Liên quan đến phần thứ hai, Thượng tọa thể hiện mong muốn nhận được câu trả lời của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về đặc điểm, nội dung, phương pháp hoằng pháp của Phật giáo Trúc Lâm. Đâu là cội nguồn tạo nên sự hấp dẫn và sức sống mãnh liệt vượt không gian, thời gian của Phật giáo Trúc Lâm? Và những gì của quá khứ có thể áp dụng cho công cuộc hoằng pháp ngày nay?

Qua đó, Thượng tọa tin tưởng rằng, bằng trí tuệ tập thể, hội thảo sẽ đi đến đích cuối cùng nhằm giải quyết những yêu cầu, mong đợi khi tiến hành tổ chức.


TT.Thích Thanh Quyết phát biểu đề dẫn hội thảo

Được biết, hội thảo là một trong các nội dung thuộc lễ hội hoằng pháp toàn quốc 2015 diễn ra tại khu danh thắng Yên Tử nhân kỷ niệm 707 ngày Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết-bàn. Có hơn 40 bài tham luận của chư tôn đức Tăng Ni và các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã gởi đến hội thảo và hoạt động này dự kiến sẽ kết thúc vào cuối ngày hôm nay.






Chư tôn đức và các nhà nghiên cứu tham dự hội thảo

Bảo Thiên

Ảo nhưng không ảo

Ảo nhưng không ảo

Đăng lúc: 09:23 - 06/12/2015

Cách đây chừng 15 năm, internet chưa phổ biến lắm ở Việt Nam, và dĩ nhiên còn khá xa lạ đối với Phật giáo. Nhưng bây giờ, sau giai đoạn “bùng nổ thông tin”, internet và những ứng dụng của nó đã trở nên quá “thân thiết” với mọi người.
Chỉ với chiếc điện thoại “thông minh”, một máy tính bảng hay chiếc máy tính…, cùng các ứng dụng 3G, wifi…, bất kỳ một ai cũng có thể xâm nhập thế giới với cả hai mặt tốt và xấu mà dường như không hề có sự trở ngại nào.

>> Triển khai đường dây nóng tố cáo sư giả
>> Một kiểu "giả trang thiền tướng"


Chúng ta thường quan niệm rằng internet là thế giới ảo. Ảo nhưng tác động thì rất thực

Mọi người, trong đó có tu sĩ Phật giáo, có thể tham dự và góp phần tạo thông tin qua những ứng dụng của các mạng xã hội sử dụng miễn phí và không hạn chế, như facebook, zalo… Chúng ta quá dễ dàng lên mạng và gặp ngẫu nhiên rất nhiều trang cá nhân như thế. Từ những hình ảnh sinh hoạt đời thường, những suy nghĩ dạng nhật ký, đến việc đăng tải các hình ảnh về các sự kiện Phật giáo, bày tỏ quan điểm, chia sẻ kiến thức, hoặc chỉ đơn giản là kết nối bạn bè, tán gẫu… liên quan đến tu sĩ Phật giáo trên các mạng xã hội.

Bên cạnh những tiện ích tích cực, còn rất nhiều hệ lụy, tác động xấu tới đạo Phật nói chung, khi các cá nhân tạo lập, cung cấp thông tin thiếu hoặc không nhận thức đầy đủ về những ảnh hưởng khó lường của các mạng xã hội. Nhiều vụ việc rất xấu, phản cảm liên quan đặc biệt đến cá nhân một vài tu sĩ Phật giáo đã được báo chí khai thác một cách triệt để trong thời gian qua có thể xem là sự cảnh báo rất đáng được quan tâm.

Như người viết đã có lần đề cập, người tu sĩ Phật giáo mặc nhiên trở thành biểu tượng của đạo đức hướng thượng, mẫu người đã vượt lên các nhu cầu tầm thường của đời sống để phụng sự cho lý tưởng cao đẹp, đem lại lợi lạc cho số đông. Chính vì thế, mọi hành vi, lời nói của họ đều được dư luận để ý, bình phẩm. Khi khoác lên chiếc áo tu sĩ, họ mặc nhiên trở thành hình ảnh đại diện cho Phật giáo. Nên những hình ảnh, lời nói liên quan đến người tu sĩ ở nơi công cộng, qua các trang mạng xã hội… cũng được dư luận đặc biệt chú ý. Và đôi khi, do thiếu ý thức nên những nội dung của người tu sĩ được đăng tải trên thế giới ảo không còn là chuyện riêng tư nữa. Điều đó đã từng xảy ra ở Thái Lan, và ngay cả ở Việt Nam chúng ta, và hậu quả của nó để lại đôi khi nghiêm trọng.

Chúng ta chỉ cần vào các công cụ tìm kiếm internet, gõ những chữ tìm kiếm có chủ đích trên sẽ dễ dàng thấy được điều đó.

Chúng ta thường quan niệm rằng internet là thế giới ảo. Ảo nhưng tác động thì rất thực. Internet cũng đã có vai trò rất lớn trong việc hoằng pháp, nhưng đồng thời cũng để lại nhiều phiền toái liên quan đến nếp sống của thiền môn, mà trung tâm là giới xuất gia, tu sĩ.

Hiện vẫn chưa có một kết quả khảo sát đầy đủ về điều đó để các ban ngành chức năng của Giáo hội có những quy định, hướng dẫn Tăng Ni sử dụng tốt phương tiện truyền thông của thời đại, đồng thời có những ứng xử phù hợp trong thế giới ảo này. Đây là vấn đề quan trọng và thiết thực, thiết nghĩ cần được các ban ngành Giáo hội như Ban Tăng sự, Ban Giáo dục Tăng Ni quan tâm đúng mức, tránh tối đa trình trạng tự phát, cá nhân, tùy tiện... dẫn đến hậu quả xấu như đã diễn ra và nếu không có sự điều chỉnh phù hợp thì sẽ còn tiếp diễn sau này.

Thích Tâm Hải

Giới thiệu Hội thảo “Phật giáo vùng Mê-Kông: Lịch sử và phát triển”

Giới thiệu Hội thảo “Phật giáo vùng Mê-Kông: Lịch sử và phát triển”

Đăng lúc: 07:25 - 09/11/2015

Ngày 9-11, tại TP Hồ Chí Minh, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam phối hợp Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) tổ chức họp báo giới thiệu Hội thảo khoa học quốc tế “Phật giáo vùng Mê-Kông: Lịch sử và phát triển”.


Quang cảnh buổi họp báo.

Theo đó, hội thảo sẽ diễn ra vào ngày 13 và 14-11 tại TP Hồ Chí Minh, với gần 150 tham luận của các nhà khoa học, nhà quản lý về công tác tôn giáo, giới nghiên cứu Phật học trong nước và quốc tế. Các tham luận tập trung vào nhóm chủ đề Phật giáo vùng Mê-Kông: Quá trình du nhập và phát triển, quá trình giao lưu và hội nhập, di sản và văn hoá, vấn đề bảo vệ môi trường...

Đây là hội thảo khoa học quốc tế về Phật giáo vùng Mê-Kông được tổ chức với quy mô lớn nhất từ trước đến nay. Đáng chú ý là có sự tham dự của hơn 40 học giả đến từ Hoa Kỳ, Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Ấn Độ, Thái Lan, Cam-pu-chia, Lào...

Theo Ban tổ chức, hội thảo được tổ chức nhằm tạo cầu nối học thuật cho Phật giáo tại các quốc gia tiểu vùng Mê-Kông, cùng cam kết tạo ý thức toàn cầu về hoà bình, an ninh môi trường và phát triển bền vững vùng Mê-Kông; đồng thời góp phần vào hợp tác kinh tế, văn hoá, bảo vệ môi trường, giữ gìn các di sản văn hoá của các quốc gia theo mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc.

Hội thảo cũng góp phần làm rõ vai trò của Phật giáo vùng Mê-Kông trong việc duy trì hoà bình, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển bền vững đối với các quốc gia trong và ngoài vùng Mê-Kông, cũng như trao đổi những giải pháp bảo vệ môi trường sinh thái…

Tin, ảnh: HÙNG KHOA – VŨ GIANG

Đạo Phật - một tôn giáo bạn nên tìm hiểu

Đạo Phật - một tôn giáo bạn nên tìm hiểu

Đăng lúc: 22:21 - 31/10/2015

Mọi người đều nên có một tôn giáo và tôn giáo này biểu lộ tư tưởng của họ. Không có tôn giáo, con người sẽ trở thành mối nguy hiểm cho xã hội. Các nhà khoa học và tâm lý học có thể giúp ta mở mang kiến thức sâu rộng, nhưng họ không đem lại cho ta mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Chỉ có tôn giáo mới có thể làm được điều đó. Mọi người phải chọn cho mình một tôn giáo hợp lý và khoa học tùy theo ý muốn của mình. Không ai có quyền cưỡng bách người khác phải chấp nhận một tôn giáo nào, đồng thời cũng không thể lợi dụng sự nghèo túng, sự thiếu học cũng như tình cảm để khiến kẻ khác chấp nhận một tôn giáo nào đó.


Mọi người đều có quyền tự do lựa chọn tôn giáo của mình tùy theo sở thích và khả năng trí tuệ của mình. Tin theo tôn giáo một cách mù quáng sẽ đánh mất giá trị tinh thần của tôn giáo. Con người không phải thú vật. Họ có trí thông minh và lương tri để phân biệt phải, trái. Họ có thể thích ứng với hoàn cảnh chung quanh. Cho nên, họ phải chọn một tôn giáo hợp lý và làm tăng trưởng sự hiểu biết của họ.

Trung Đạo

Tôn giáo mà chúng tôi sắp giới thiệu cùng các bạn trong bài này là một hệ thống giáo dục khoa học đã được một đấng Đại Bi Đại Giác truyền bá trên thế giới hơn hai mươi lăm thế kỷ qua. Tôn giáo này được mệnh danh là con đường Trung Đạo hay Chính Đạo hoặc lối sống đứng đắn. Đây là một hệ thống đạo đức và triết lý, vừa là tôn giáo của Tự Do và Lý Trí. Tôn giáo này dạy cho chúng ta những điều sau đây:

“Không làm điều ác, làm mọi điều lành và giữ tâm trong sạch bằng cách loại bỏ những điều xấu xa trong tâm hồn”.

Đức hạnh của con người đóng vai trò rất quan trọng trong tôn giáo này. Vị thầy vĩ đại của tôn giáo này đã nói:

“Ta không dạy ai đến để tin, nhưng đến để thấy và thực hành”.

Điều này đã khích lệ mọi người nghiên cứu kỹ càng những lời dạy của Ngài và để cho họ tự do có nên chấp nhận những điều dạy dỗ đó không. Ngài không bảo ai đến và chấp nhận tôn giáo này nếu họ chưa hiểu những lời dạy của Ngài.

Những nghi thức vô bổ cùng những hình thức lễ bái bề ngoài không phải là giá trị và ý nghĩa thực sự của tôn giáo. Không có sự tin tưởng và thực hành một cách mù quáng, mê tín cũng không có những lý thuyết kỳ lạ và bí hiểm trong tôn giáo này. Mọi vật đều được trình bày và mở ra để người tín đồ tự do lựa chọn và phán đoán. Họ được tự do nghiên cứu và tìm hiểu những lời dạy dỗ của vị thầy đồng thời họ cũng được tự do hỏi để hiểu thấu đáo những điều gì họ nghi ngờ.

Theo vị sáng lập tôn giáo vĩ đại này thì chúng ta không nên tin một điều gì chỉ vì điều đó đã được một bậc đáng kính và đại thông thái nói ra hay đã được chấp nhận theo truyền thống từ xưa để lại. Nhưng chúng ta phải dùng lý trí và sự thông minh của chúng ta để xét đoán; và chỉ chấp nhận điều gì khi đem ra thực hành sẽ đem lại lợi ích và giá trị.

Tôn giáo này dạy rằng: Bát chánh đạo (gồm sự hiểu biết đúng, suy nghĩ đúng, lời nói đúng, hành động đúng, đời sống đúng, cố gắng đúng, sự ghi nhớ đúng và sự tập trung tư tưởng đúng) là con đường trung dung độc nhất giúp ta thoát khỏi những cá biệt trầm kha của cuộc sống.

Trong vòng luân lưu bất định của đời sống mỗi chúng sanh đều nhận chịu những căn bệnh trầm kha này.

Con đường Trung đạo này không phải là con đường siêu hình hay nghi thức, không phải giáo điều chủ nghĩa hay hoài nghi thuyết, không phải tự phóng túng hay khổ hạnh, không phải chủ nghĩa Vĩnh Cửu hay Hư Vô, không bi quan và cũng không lạc quan, đó là con đường giác ngộ, thoát khỏi sự đau khổ. Tôn giáo này không bao giờ dạy rằng, con người chịu đau khổ trong thế giới hiện tại là do tội lỗi của ông bà tổ tông để lại. Ngược lại mỗi người mang theo mình phước báu hay lỗi lầm của chính mình. Mọi người chịu trách nhiệm về những đau đớn và lạc thú của họ, về những việc làm xấu hay tốt của họ.

Người nào đi theo con đường Trung Đạo của tôn giáo này giới thiệu, chắc chắn sẽ tìm thấy an bình và hạnh phúc thật sự.

Gặt hái những gì bạn đã gieo

Tôn giáo này thỏa đáng nguyện vọng cao cả của con người, đồng thời giúp cho họ khắc phục được những nổi đau khổ và phiền muộn trong cuộc sống; hướng dẫn họ cách đối xử với nhau. Ngoài ra, còn mang lại cho họ ý nghĩa và mục đích của đời sống. Tôn giáo này không gieo truyền đến con người, không rót vào đầu óc họ những tư tưởng sợ hãi. Sự sợ hãi và khiếp nhược vắng bóng trong tôn giáo này.

“Nhân tốt sinh ra quả tốt, nhân xấu sinh ra quả xấu”.

Mọi hành động đều mang lại hậu quả của nó. Đó là quy luật tự nhiên của vũ trụ. Tôn giáo này chấp nhận hoàn toàn qui luật tự nhiên ấy, đã là con người phải “Gặt hái những gì họ gieo”. Những hành động xấu xa, những tội lỗi của con người phát xuất từ sự ham muốn, lòng sân hận và sự ngu muội. Những điều yếu kém này chỉ có thể được khắc phục nhờ ở sự hiểu biết của chính chúng ta, nghĩa là chính chúng ta phải tự giác ngộ. An vui và đau khổ con người gặp phải trên cõi đời này không phải do ảnh hưởng từ bên ngoài đem lại mà do những hành động và lời nói tốt hay xấu họ đã làm trong hiện tại hoặc trong những kiếp sống trước đây. Bởi lý do đó, tôn giáo này đã nói:

“Chúng ta là kết quả của những gì chúng ta đã làm và chúng ta sẽ là kết quả của những gì chúng ta đang làm”.

Tôn giáo này dạy rằng: Nguyên nhân và hậu quả đóng vai trò quan trọng trong mọi kiếp sống của con người. Trong vòng luân lưu nhân quả này, khó có thể nhận biết đâu là nguyên nhân đầu tiên, vì nhân và quả hỗ tương chuyển biến; nguyên nhân trở thành hậu quả và hậu quả biến thành nguyên nhân.

Vị Thầy vĩ đại

Sáng lập ra tôn giáo độc đáo này không phải là một nhân vật thần thoại mà là một bậc thầy vĩ đại, thực sự sống trên thế giới này, Ngài không bao giờ tự xưng mình là đấng siêu nhân, là đấng tạo hóa hay Thượng Đế v.v… mà chỉ là con người đã thấy rõ chân lý, thấy rõ những bí ẩn của cuộc đời; hiểu thấu đáo những nguyên nhân thật sự của khổ đau và hạnh phúc.

Ngày nay, vị thầy này không những được hàng trăm triệu tín đồ trên thế giới tán dương, tôn thờ mà còn được những nhà văn hóa và trí thức hết lòng tôn kính, ngưỡng mộ.

Đấng cao thượng, đấng giải phóng, nhà dân chủ, nhà cải cách xã hội, người hướng dẫn và khuyến khích nhân loại đến nẻo thiện đã vắng bóng vào năm tám mươi tuổi. Ngài để lại cho nhân loại thông điệp của tình thương, để lại cho nhân loại những lời chỉ đạo hữu ích, hướng dẫn họ đến an vui, hạnh phúc. An vui hạnh phúc ngay trong cuộc sống hiện tại cũng như các đời sống sau và cuối cùng đạt đến an bình và hạnh phúc vĩnh cửu.

Vị đại đạo sư đã an ủi kẻ đau thương, đã giúp đỡ kẻ nghèo khó bị ruồng rẫy, nâng phẩm giá người bị khinh khi, đưa kẻ trộm cướp trở lại đường lương thiện. Ngài khích lệ kẻ yếu, đoàn kết những kẻ phân tán, giải trừ những điều huyền bí, soi sáng cho người ngu muội, nâng cao người hạ tiện, tán dương người cao thượng. Người giàu hay kẻ nghèo, thánh nhân hoặc tội phạm đều thương yêu Ngài. Từ những vị vua tàn bạo cho đến những vị minh quân, từ những bậc vương tử, đến hàng quý tộc, hữu danh hay vô danh; từ những bậc phú hào giàu lòng từ thiện đến những nhà triệu phú keo kiệt; từ những học giả khiêm cung hay hống hách, tự phụ đến những người nghèo nàn, đói khổ, thất học; từ những bậc hiền nhân quân tử đến những tên sát nhân đầy tội; những cô gái mãi dâm bị miệt thị… Tất cả đều tìm thấy an vui, thấy lợi ích bởi những lời dạy đầy trí tuệ và đầy tình thương của Ngài.

Những đức tính cao thượng điển hình của Ngài là nguồn cảm thông và hứng cảm vô hạn của tất cả mọi người. Dung mạo trầm tỉnh và an bình của Ngài là dấu hiệu an ủi dịu dàng dưới mắt của những tín đồ nhiệt thành.

Thông điệp hòa bình và từ ái của Ngài đã được mọi người hân hoan đón nhận và đã đem lại lợi ích lâu dài cho những ai có cơ hội nghe và thực hành theo. Ý chí sắt đá, trí tuệ cao thâm, tình thương vô biên, phục vụ bất vụ lợi, xuất thế cao cả, hoàn toàn trong sạch, nhân cách cao thượng, những phương pháp điển hình tuyệt diệu để truyền bá giáo pháp cùng sự thành tựu cuối cùng của Ngài, tất cả những yếu tố ấy đã khiến cho một phần năm nhân loại trên thế giới tôn Ngài là bậc Thầy vĩ đại. Vì nhân loại còn đau khổ nên vị đạo sư đã hy sinh mọi lạc thú của cuộc đời để kiếm tìm chân lý và chỉ cho nhân loại con đường giải thoát mọi đau khổ. Ngài viếng thăm an ủi kẻ nghèo khó trong khi các vị vua chúa hay đạo sĩ phải đích thân đến hội kiến cùng Ngài. Trong bốn mươi năm trời sau ngày thành đạo, Ngài đã dành hết thì giờ và tâm trí thuyết pháp độ sinh, giúp nhân loại thoát khỏi vòng đau khổ.

Vị thầy vĩ đại này chẳng bao giờ khiếp sợ điều gì và cũng chẳng gieo vào đầu ai nỗi lo sợ. Đó là một trong những nguyên tắc cần được bồi đắp và truyền bá trong cái thế giới ưa chuộng chiến tranh hiện tại, thế giới mà trong đó ngay cả mạng sống con người cũng bị hy sinh cho bạo lực, và vũ khí giết người đang gieo rắc sợ hãi, nghi ngờ và oán giận.

Ngài là một nhà khoa học lỗi lạc trong sinh hoạt con người, và cũng vì vậy mà những lời Ngài thuyết dạy thường được chấp nhận như là một lý thuyết của một tôn giáo độc nhất có tính cách khoa học và hợp lý. Ngài soi xét tường tận con người trên cả hai phương diện Danh và Sắc và cho thấy một cách rõ ràng tiềm năng thật sự bên trong của mỗi chúng ta. Ngài đã phá tan sự u minh tăm tối bằng cách rọi vào đó ngọn đèn giác ngộ.

Đối với các nhà đạo đức, Ngài đã đặt ra một bộ luật đạo đức có giá trị nhất và Ngài là biểu tượng của sự toàn hảo. “Ngài có đầy đủ những đức hạnh quý báu mà Ngài thường khuyên chúng ta thực hành, Ngài là bậc hoàn toàn trong sạch”.

Trong số các đạo sĩ, Ngài là một trong những vị có tài thuyết phục mạnh nhất, nhưng chẳng bao giờ Ngài xử dụng phương tiện này để bắt buộc người khác theo Ngài. Bình thản trước những lời khen chê, Ngài chỉ cố gắng đem hết sức mình phục vụ nhân loại thoát khỏi vòng đau khổ.

Bình an trong tâm hồn, hạnh phúc và giải thoát

Vị đại đạo sư đã dạy cho con người con đường đi đến sự bình thản trong tâm hồn, hạnh phúc và sự giải thoát. Phương pháp đạt đến sự giải thoát vừa có tính chất phóng khoáng, khoa học hợp lý vừa dễ hiểu cho mọi hàng chúng sanh.

Thông điệp hòa bình của Ngài càng trở nên quan trọng hơn vì hiện tại nhân loại đang bị đầu độc bởi thù hận, tham lam ganh tỵ và kiêu hãnh.

Ngài được sinh ra trong thế giới này để đánh tan bóng tối của sự u minh và cứu con người ra khỏi những tội ác của họ. Còn có rất nhiều người vẫn chưa tin hay thực hành theo một tôn giáo nào cả. Tuy nhiên, nếu họ chịu khó nghiên cứu và tìm hiểu những gì mà bậc đại đạo sư đã dạy, họ sẽ thấy những nghi ngờ của họ được giải đáp và cuối cùng họ sẽ chấp nhận rằng đây là một tôn giáo đã đóng góp rất nhiều cho hạnh phúc của nhân loại.

Dù cho người ta tin hay không, những lời Ngài dạy có ảnh hưởng đối với họ. Trong lịch sử truyền bá của tôn giáo này chưa hề có một giọt máu nào đổ dưới danh nghĩa này.

Những lời Ngài dạy đã soi sáng bước đường của nhân loại, giúp con người vượt qua những điều không vừa lòng toại ý để đến một nơi đầy tình thương an bình và hạnh phúc.

Mặc dù đã trải qua hai mươi lăm thế kỷ, những lời dạy của Ngài vẫn còn đủ sức mạnh để đương đầu với mọi thử thách mà không cần phải có một sự sửa đổi hay sự giải thích mới mẻ nào về những lời dạy đó. Những lời dạy của Ngài không hề mâu thuẫn với thành quả và sự khám phá của khoa học tân tiến.

Đạo đức rất cần thiết để đạt đến sự giải thoát, nhưng một mình nó chưa đủ. Đạo đức phải được phối hợp với trí tuệ. Đạo đức và trí tuệ như đôi cánh của một con chim. Trí tuệ là đôi mắt của con người và đạo đức là đôi chân. Đạo đức có thể ví như một chiếc xe đưa con người đến cửa ngõ của thiên đường nhưng chìa khóa để mở cửa đó là trí tuệ.

Thiên đàng hạnh phúc

Tín đồ của tôn giáo này không bao giờ cho rằng chỉ chính họ mới được ban ân phước và chính họ mới đến được thiên đàng hạnh phúc. Tùy theo cách sống, mọi người tự tạo cho chính mình thiên đàng hay địa ngục.

Theo lời dạy của tôn giáo này thì mọi người đều có thể hưởng hạnh phúc và thiên đàng nếu họ sống một đời sống đạo đức, lương thiện dù cho họ có tin vào tôn giáo nào đi nữa. Thiên đàng không dành riêng hay độc quyền cho một đạo giáo hay một cộng đồng tôn giáo nào mà mở cửa cho tất cả mọi người.

Sự khoan dung và hiểu biết

Khoan dung, hiểu biết và tôn trọng ý kiến của kẻ khác là những hạnh lành đáng quí mà tín đồ của tôn giáo này cố gắng thực hành theo. Lòng từ ái và tình thương yêu kẻ khác không phải chỉ giới hạn đối với con người mà còn bao trùm khắp mọi chúng sanh.

Đạo sống

Nhờ đặc tính rõ ràng và hợp lý tôn giáo này đã giải đáp một cách thỏa đáng những hoài nghi, hướng dẫn và giúp nhân loại cải thiện phương thức sống tốt đẹp.

Tôn giáo này không chia con người ra làm hai nhóm: một nhóm được cứu rỗi và nhóm kia bị bỏ rơi, mà là một sức mạnh khai hóa, biến những kẻ man rợ thành người thuần thục, và những kẻ đã thuần thục thành người tốt đẹp hơn. Tín đồ của tôn giáo này không tin vào những lời cầu nguyện khấn vái. Họ tin một cách chắc chắn vào sự cố gắng của chính bản thân mình, tin ở hiệu năng và sức mạnh của phương pháp thiền có thể dẫn dắt con người đến việc tự chinh phục chính mình; tự kiểm soát lấy mình, trong sạch hóa bản thân, diệt khổ và giải thoát. Thiền là phương thuốc vừa bổ óc vừa trợ tim.

Con người có thể thay đổi cuộc đời của mình

Những ai theo tôn giáo này đều tin rằng trí óc con người có sức mạnh vạn năng. Nó tạo ra con người, nhưng cũng chính nó hủy diệt con người. Số mạng con người tùy thuộc vào nó. Vì vậy, con người có khả năng làm được tất cả mọi chuyện nếu biết sử dụng trí óc của mình. Trong thực tế, tôn giáo này đã là ngọn hải đăng quí giá hướng dẫn nhân loại đến hòa bình, hạnh phúc và an vui vĩnh cửu. Thế giới này phải đối đầu với những ngộ nhận giữa các giống dân, trên bình diện quốc tế cũng như địa phương, ngộ nhận trên phương diện kinh tế cũng như ý thức hệ. Để giải quyết những vấn đề phức tạp này con người phải sống với nhau trong tinh thần vị tha và khoan dung. Điều này có thể thực hiện được một cách tốt đẹp dưới sự hướng dẫn của tôn giáo này vì tôn giáo này chủ trương một sự hợp tác trên căn bản đạo đức vì ích lợi của quần sanh.

Hạnh phúc và an nguy của nhân loại chỉ có được khi con người ý thức được rằng sự phát huy và bành trướng những giá trị đạo đức quan trọng hơn những tiến bộ vật chất. Con người phải thực hiện công bằng chân lý, phải rải rác tình thương, lòng bác ái và sự tương thân tương trợ. Có như vậy, thế giới này mới trở thành một nơi đáng sống.

Tôn giáo thật sự

Không có gì tốt đẹp và cao thượng hơn sự vun bồi một tình thương bao la rộng rãi. Không có lạc thú nào ngọt ngào hơn sự bình thản của tâm hồn, không có chân lý nào rõ ràng hơn sự hiểu thấu những hiện tượng tự nhiên, không có tôn giáo nào cao siêu hơn sự phát huy những giá trị đạo đức tinh thần và không có một triết lý nào sâu sắc hơn cái triết lý mang lại kết quả tức thì và dễ nhận cho tất cả mọi người.

Tôn giáo tự do

Tôn giáo này không ngăn cản hay cấm đoán tín đồ đọc hay tìm hiểu các tôn giáo khác, vì việc làm này biểu lộ sự cuồng tín. Một người cuồng tín không bao giờ tự cho phép mình được hướng dẫn bởi sự hợp lý và tệ hơn nữa, bởi các phương pháp phân tích và quan sát một cách khoa học. Vì vậy, tín đồ của tôn giáo này là những người hoàn toàn tự do, tinh thần phóng khoáng, không phải thờ phụng một vị thần linh nào cả (để tiến hóa trong bước đường tu tập). Nếu bạn chịu khó đọc kỹ những lời thuyết giảng về tôn giáo này, bạn sẽ đánh tan được những ngộ nhận mà bạn đã có từ trước về nó. Không ai có thể xét đoán một cách đứng đắn một tôn giáo nếu chỉ nhìn cách thức lễ bái cầu nguyện do các tín đồ chưa hiểu đạo của tôn giáo đó làm. Trái lại, phải cố gắng tìm hiểu các giáo điều căn bản, mới có một nhận xét rõ ràng về một tôn giáo.

Con người và Thượng Đế

Thay vì đặt con người và số mạng của y dưới sự kiểm soát độc đoán của một đấng thần linh xa lạ, bắt y phải tuân hành tuyệt đối những quyền năng của vị đó, tôn giáo này nâng cao giá trị của con người, tôn trọng và tin tưởng vào trí tuệ của họ.

Tôn giáo này dạy chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác một cách bất vụ lợi, không cần nghĩ đến sự đền ơn. Tín đồ của tôn giáo này không làm những điều tội lỗi chẳng phải vì sợ Thượng Đế trừng phạt mà vì họ ý thức được nguyên nhân sâu xa đã làm cho mọi chúng sanh đau khổ. Động lực thúc đẩy làm điều lành không phải để làm vui lòng Thượng Đế hay được đền ơn mà do lòng yêu thương đối với kẻ khác.

Tôn giáo này dạy con đường đi đến sự toàn thiện và trí tuệ mà không nhờ vào một đấng tối cao nào. Kiến thức thâm sâu của bạn cũng không phải do ơn trên mà có được. Trật tự đạo đức thế giới cũng như những hành động và kết quả mà bạn gặt hái được đều diễn biến và thuận hành theo một qui luật tự nhiên. Sự hiện hữu liên tục của con người từ kiếp này qua kiếp khác không dựa vào một linh hồn bất tử. Hạnh phúc vĩnh cửu vượt lên trên ý niệm thiên đàng do con người đặt ra, không cần nhờ đến đấng cứu thế mới được cứu chuộc. Ngay trong cuộc sống hiện tại của chúng ta trên thế giới này chúng ta có thể được giải thoát do năng lực của chính mình.

Không có sự hưởng thụ những thú vui nhục thể, đời sống của con người có kéo dài được không?

Không cầu khấn thượng đế con người có thể trở thành chính trực không?

“Được chứ!” vị sáng lập ra tôn giáo này đã nói như vậy. Những điều trên đều có thể đạt được do ở sự phục vụ, sự trong sạch, giới hạnh và trí tuệ. Những đức tính tốt đẹp và cao thượng này đem lại cho đời sống của con người sự thanh tịnh, bình an hạnh phúc và giải thoát.

Luật tự nhiên của vũ trụ

Luật tự nhiên của vũ trụ được giải thích trong tôn giáo này có thể giải quyết những vấn đề về sự đau khổ, bí mật của số mạng, thuyết tiền định của một vài tôn giáo, vấn đề thần đồng và nhất là sự bất bình đẳng của nhân loại. Hiểu biết những định luật thiên nhiên này mang lại cho chúng ta sự an vui, niềm hy vọng, lòng tự tin và sự khích lệ tinh thần; giúp chúng ta trở nên tinh tấn, từ ái, nhiệt tâm, độ lượng, khoan dung, cảm thông và vị tha. Chúng ta có được những đức tính này nhờ chúng ta ý thức được rằng không có gì hoàn toàn xấu, chỉ có sự tương đối mà thôi.

Tôn giáo tiến bộ mới mẻ

Đây không phải lý thuyết mà là một lối sống thực tế. Đây là một tôn giáo cổ xưa nhất, đồng thời cũng là một tôn giáo tân tiến mà mọi người đều tôn trọng. Tôn giáo này giúp cho con người không phải bị nô lệ vào thượng đế hay một quyền lực ngoại lai nào mà phải phát triển những tiềm lực bên trong của chúng ta bằng cách xử dụng nỗ lực và trí thông minh của mình để vượt qua những trở ngại mà chúng ta gặp phải trong đời sống.

Đây là tôn giáo có đầy đủ những đặc tính mà một tôn giáo hợp lý đòi hỏi. Đó là tôn giáo thích ứng với thế giới tương lai, là một tôn giáo khoa học, hợp lý và tiến bộ, là niềm tự hào cho những ai là tín đồ của tôn giáo này trong thế giới tân tiến. Thật vậy, về phương diện tinh thần tôn giáo này còn khoa học hơn cả khoa học và tiến bộ hơn cả mọi tiến bộ.

Không có sự kỳ thị

Đây là tôn giáo đầu tiên trong lịch sử đã chống lại hệ thống giai cấp và dạy cho nhân loại biết sự bình đẳng đồng thời mang lại cho mọi giai cấp cơ hội bình đẳng để phát triển. Chính tôn giáo này đã đem lại tự do thực sự cho phụ nư, để cho họ có cơ hội học hỏi và nghiên cứu tôn giáo, cũng là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại họ có sự bình đẳng xã hội.

Vị đại đạo sư đã nói rằng cửa ngõ của thành công và thịnh vượng được mở ra cho tất cả mọi người không phân biệt điều kiện sống của họ, dầu họ thuộc giai cấp cao hay thấp, thánh nhân hay tội phạm họ cũng có thể cải thiện và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn. Ngài không bắt buộc những tín đồ của Ngài nô lệ vào Ngài hay những lời dạy dỗ của Ngài nhưng tạo cơ hội cho họ được hoàn toàn tự do tư tưởng.

Sự tạm bợ đời sống

Tôn giáo này đã phân tích cho con người thấy rõ vật chất và tinh thần là hai yếu tố luôn luôn biến đổi, từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc nọ, từ giây phút này sang giây phút kia sự vật đã biến dạng rồi. Toàn thể hiện tượng tâm sinh lý này vẫn luôn luôn giữ mãi tính chất biến đổi của chúng. Nó xuất hiện rồi biến mất và chu trình đó vẫn tiếp diễn mãi không ngừng, vì vậy không có gì trường tồn vĩnh cửu trong thế giới này hay trong thế giới khác. Tôn giáo này cũng tin rằng trong vũ trụ này còn có những thế giới khác và trong những thế giới ấy cũng có những sinh vật đang sống.

Giáo điều và giới luật

Tôn giáo này không có những giáo điều mà mọi người phải tuân theo một cách mù quáng, thay vào đó là những giới luật được hành giữ một cách tự nguyện. Giữ giới là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.

Nhờ tuân hành những giới này con người có thể trở nên trong sạch để giúp đỡ kẻ khác sống trong sự an lành. Cho phổ biến bài này, chúng tôi không nhằm mục đích thay đổi lòng tin của người khác mà giúp cho họ tìm thấy được một cách đúng đắn sự bình an hạnh phúc, đồng thời giúp cho họ có được sự sáng suốt khi thực hành tôn giáo mà họ đã nhận thức đứng đắn, chứ không tin theo một cách mù quáng.

Chúng tôi khuyến khích mọi người hãy thực hành tôn giáo của họ một cách đứng đắn nếu thực sự họ đã tìm thấy trong tôn giáo họ chân lý, bình an hạnh phúc và giải thoát.

Tôn giáo này có thể đem lại một lối giải đáp thỏa đáng cho nhiều vấn đề thuộc lãnh vực tinh thần, đồng thời có thể cung ứng cho bạn một chiều hướng mới mẻ trong việc tìm hiểu nghiên cứu tôn giáo và triết học. Tôn giáo này cũng có thể giúp bạn hiểu biết về đời sống văn hóa Á Châu. Bạn có thể tìm thấy trong đó sự hướng dẫn tinh thần mà thế giới tân tiến đang đòi hỏi hay cần đến, đồng thời giúp cho bạn xa lánh được những điều ác.

Tôn giáo này đã đem lại cho thế giới một tinh thần mới, niềm hy vọng mới, hướng đi mới. Những tính chất chân thật và trọng yếu này từ trước đến nay đã được mọi người nhận thấy một cách rõ ràng.

Dù mục đích của bạn là thế nào chăng nữa, chúng tôi cũng xin mời bạn hãy tìm hiểu nhiều hơn và rõ ràng hơn, tôn giáo và lý tưởng của vị sáng lập ra tôn giáo này.

Tôn giáo cao thượng được bàn đến trong bài này là PHẬT GIÁO và vị sáng lập đạo này không ai khác hơn là ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI.

Kính chúc các bạn thân tâm an lạc.

Pháp môn niệm Phật - Từ triết lý đến tín ngưỡng

Pháp môn niệm Phật - Từ triết lý đến tín ngưỡng

Đăng lúc: 20:48 - 10/07/2015

Niệm Phật là hàng phục phiền não, chuyển thức thành trí, hiển lộ tự tánh Di Đà.
Khái lược về triết lý kinh điển của pháp môn Niệm Phật
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đều thuyết minh tổng quát về pháp môn Niệm Phật. Việc hình thành pháp môn Tịnh độ chủ yếu từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như kinh Bát chu tam muội (Ban châu tam muội), kinh A Di Đà, kinh Quán vô lượng thọ, kinhVô lượng thọ, kinh Hoa nghiêm, kinh Thủ lăng nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng 18 thế kỷ qua (tính từ khi kinh Bát chu tam muội được dịch tại Trung Quốc năm 179), và pháp môn Niệm Phật được hình thành và phát triển thời Sơ tổ Tịnh tông Huệ Viễn (334-416) cho đến ngày nay.
Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn Niệm Phật đã đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan pháp môn Niệm Phật, trên căn bản thì Thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời Tổ sư Liên Trì (1532-1612) về sau, phổ biến phương pháp niệm danh hiệu Phật A Di Đà.
phat hoc.jpg
Nam-mô A Di Đà Phật
Đối chiếu với các kinh điển Nguyên thủy thì thấy có những điểm khác nhau giữa pháp niệm Phật trong Phật giáo Nguyên thủy và Tịnh Độ tông. Đó là sự thực. Lý do là Phật giáo Nguyên thủy lấy thiền Tứ niệm xứ làm pháp môn chủ đạo cho sự chứng đắc và giác ngộ. Niệm Phật theo Kinh tạng Nikaya là pháp quán niệm chứ không phải là xưng niệm danh hiệu như thời kỳ về sau của Tịnh Độ tông. Vấn đề chú ý là Tịnh Độ tông lấy pháp niệm Phật làm pháp môn chủ đạo cho mục đích vãng sanh và chứng đắc Niết-bàn. Nói niệm Phật vãng sanh là y cứ từ kinh luận Đại thừa. Nhưng niệm Phật chứng ngộ Niết-bàn được đề cập trong kinh điển Nguyên thủy thì Đại thừa chưa phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
Từ hiện thực đó, niệm Phật vốn là một phương thức điều phục tâm, pháp tuyệt diệu đi vào thiền định và chứng đắc tuệ giác bị chôn vùi đằng sau lớp rào cản tín ngưỡng làm phát sinh nhiều quan niệm sai biệt về pháp tu này. Tín ngưỡng đây là từ ngữ tạm dùng vì chưa thể hiện trọn vẹn ý nghĩa niệm Phật từ phương diện triết lý. Tín ngưỡng niệm Phật là mặt nổi với niềm tin Phật A Di Đà ở cõi Cực lạc được phổ biến trong nhân gian, nhưng trong đó tiềm ẩn tư tưởng Phật-đà quan của Phật giáo Đại thừa. Niềm tin và triết lý của pháp Niệm Phật đã từng hòa quyện vào nhau trở thành pháp tu với hai phương diện niệm Phật vãng sanh và niệm Phật chứng ngộ Niết-bàn là vấn đề mà bài viết này đề cập.
A Di Đà, phiên âm từ chữ Phạn Amita, có nghĩa là Vô lượng; A Di Đà là Vô lượng thọ (Amitāyus) và Vô lượng quang (Amitābha). Tại sao từ A Di Đà chuyển đến ý nghĩa Vô lượng thọ và Vô lượng quang? Các nhà dịch thuật đều căn cứ vào ý nghĩa và nội dung kinh văn để nhận thức phẩm đức của Phật A Di Đà. Theo Từ điển Bách khoa Phật giáo Việt Nam giải nghĩa: “A Di Đà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc qua bộ kinh Ban châu tam muội do Chi-lâu-ca-sấm dịch năm 179, kinh Đại A Di Đà do Chi Khiêm dịch vào đầu thế kỷ thứ III và kinh A Di Đà do La Thập dịch vào đầu thế kỷ thứ V”1. Điều chúng ta thấy rõ là có nhiều kinh luận Đại thừa xuất hiện giới thiệu Phật A Di Đà. Theo tinh thần các kinh Đại thừa nói chung thì A Di Đà có nghĩa rút gọn tên Vô lượng thọ và Vô lượng quang. Đặc biệt trong kinh điển Mật giáo, A Di Đà còn có tên là Cam lồ đại minh vương hay Kim cương cam lồ thân2.
Một vài học giả đối chiếu tư tưởng các tôn giáo khác có sự suy luận sai biệt, như có người cho rằng: “A Di Đà là sự phát triển của thần thoại mặt trời trong tư tưởng tôn giáo Iran, hay có thể xuất phát từ tín ngưỡng Vishnu trong thời Veda của Ấn Độ”3. Nhưng chúng ta phải hiểu là đó sự suy luận theo tinh thần khảo cứu của các học giả. Còn đối với các nhà Phật học thì căn cứ nội dung các kinh điển Đại thừa và Nguyên thủy để phát huy tác dụng giáo lý Tịnh độ trong quá trình tu tập và hoằng pháp.
Ai đã từng đọc kinh văn Nguyên thủy, đều biết niệm Phật là phương pháp quán tưởng, quán niệm về mười phẩm hạnh của Đức Phật trong pháp Lục niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên. Niệm Phật ở đây là tư duy, nhớ nghĩ về phẩm đức Phật chứ không phải là xưng danh hiệu Phật. Khi thuyết pháp cho các đệ tử cư sĩ, Đức Phật dạy như sau: “Các ông sắp vào nơi hoang mạc, sẽ gặp nhiều khủng bố, tâm kinh hoàng dựng đứng cả lông, lúc ấy nên niệm Như Lai: Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác… Phật, Thế Tôn. Niệm như vậy thì mọi khủng bố đều tiêu trừ"4. Kinh Trung A-hàm, Đức Phật dạy về tác dụng pháp quán niệm mười phẩm đức của Phật: “Người ấy sau khi niệm tưởng Như Lai như vậy, ác tham nếu có liền bị tiêu diệt. Những pháp tạp uế, ác bất thiện, nếu có cũng bị diệt”5. Niệm Phật trong thiền môn của Tổ sư Thiền tông Hoằng Nhẫn có chủ trương: “Niệm Phật tịnh tâm”6 (Niệm Phật để tịnh tâm). Niệm Phật ở đây là phương tiện nhiếp tâm và quán tâm. Cho nên Thiền sư Thần Tú định nghĩa: Niệm Phật tức là tu chánh niệm (Phù niệm Phật giả, đương tu chánh niệm)7, chánh niệm để quán nguồn tâm, “quán sát tâm nguyên”. Tịnh độ tại tâm là cứu cánh của pháp môn Niệm Phật. Tư tưởng này cũng là quan niệm về Tịnh độ của Phật giáo Việt Nam thời Trần. Thiền sư Trần Nhân Tông có bài kệ khai thị như sau: “Tịnh độ là lòng trong sạch/Chớ còn hỏi đến Tây phương/Di Đà là tính sáng soi/ Mựa phải nhọc tìm Cực lạc”8.
Một khi đạt đến cấp độ niệm Phật đoạn trừ phiền não, dứt sạch tham ái thì Niết-bàn xuất hiện và Cực lạc Tây phương hiện tiền, đâu còn tìm cầu. Chứng ngộ Niết-bàn là thể nhập được tánh giác thanh tịnh, đầy đủ vô lượng công đức, ý nghĩa ấy được gọi “Duy tâm Tịnh độ” hay “Tự tánh Di Đà”, đó là cụ thể hóa ý nghĩa “Thực tướng niệm Phật” trong giáo nghĩa Tịnh độ. Đây là điểm then chốt mà các tông phái thường quan niệm về tính hợp nhất của Thiền và Tịnh.
Đức Phật Thích Ca rõ ràng là vị Phật lịch sử. Có vài học giả cho rằng Phật A Di Đà là vị Phật tôn giáo. Đây là quan điểm thuộc lĩnh vực nghiên cứu. Chúng ta cần hiểu rằng: Mục đích Phật nói kinh, không phải xây dựng hình ảnh Phật theo ý nghĩa tôn giáo. Phật tôn giáo là khái niệm các học giả thiết lập để tìm hiểu về Phật giáo. Kinh văn Đại thừa nhắc đến Phật A Di Đà là vị Phật quá khứ. Đứng về phương diện Phật-đà quan mà luận, nếu Phật giáo Nguyên thủy chấp niệm quan điểm bảy vị Phật theo kinhTrường bộ9, thì đương nhiên chấp nhận có quá khứ Phật, hiện tại Phật và vị lai Phật. Phật A Di Đà hay mười phương chư Phật đều là Phật quá khứ. Phật dạy mọi chúng sanh có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Từ triết lý nhân quả mà luận thì tu theo hạnh Phật sẽ thành Phật, tu theo hạnh Bồ-tát sẽ thành Bồ-tát. Phật Thích Ca hay Phật A Di Đà và vô số Phật trên phương diện Pháp thân, trí tánh giác ngộ đều bình đẳng, tu là để khôi phục tánh giác ngộ ấy.
Các pháp môn căn bản đều thiết lập trên ba môn Giới-Định-Tuệ để loại bỏ Tham-Sân-Si. Pháp niệm Phật cần được hiểu như thế. Chúng sanh khổ đau do tâm tạo, do tâm hằng tư niệm ác pháp điều động thân miệng ý khởi hạnh ác, nay trở về niệm Phật, giúp tâm thanh tịnh. Tất cả các phương pháp Phật dạy đều là phương tiện, không nên dùng kiến giải chủ quan làm chìa khóa phân tích và so sánh pháp từ góc độ chân đế. Nếu lập luận như thế dễ lầm chiếc bè và bờ sông là một, thật đáng tiếc trong phương pháp luận!
Vấn đề Tịnh độ quan, chúng ta suy nghiệm từ Kinh tạng Nikaya, qua kinh Đại Thiện Kiến vương10, Đức Phật thuật lại cho ngài A Nan nghe quốc gia hưng thịnh của vua Thiện Kiến làm Chuyển luân Thánh vương trong thời quá khứ, ngôn từ diễn tả môi trường của cảnh giới ấy căn bản có nhiều điểm giống như thế giới Tây phương Cực lạc trong kinh A Di Đà. Hơn nữa từ thực tế, Đức Thích Ca trước khi thành Phật ở cõi Ta-bà là Bồ-tát Hộ Minh trú tại cõi trời Đâu suất, Phật Di Lặc tương lai thành Phật cũng đang trú tại cõi trời Đâu suất. Cảnh giới đó chúng ta có thể gọi là thiên quốc tịnh độ. Đứng về phạm trù tâm mà luận, Phật hay Bồ-tát luôn có tịnh độ hiện hữu, vì có cái tâm trong sạch thì có cảnh giới trong sạch là tịnh độ. Nếu Phật và Bồ-tát có tâm giải thoát khi thị hiện trong nhân gian này, thì thế giới chúng ta có thể gọi là Phàm thánh đồng cư độ.
Do vậy, người tu niệm Phật xem Đức Phật là đấng Giác ngộ vẹn toàn, bậc Giác ngộ giải thoát có năng lực từ bi và trí tuệ siêu việt, tin cõi Tịnh độ trang nghiêm không thể nghĩ bàn. Đức Phật xuất hiện, thế gian không ai bằng Phật được nhấn mạnh trong kinh Nguyên thủy như sau: “Ta là bậc tối thượng ở trên đời. Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời”11. Kinh điển Nguyên thủy ghi lại Đức Thích Ca cũng xuất hiện trong đời với nhiều năng lực siêu phàm, công đức thù thắng siêu việt thế gian, người phàm phu không có được. Trong giáo lý Tịnh độ, các kinh điển Đại thừa đều đề cập Đức Phật A Di Đà phóng quang tiếp độ chúng sanh phát nguyện vãng sanh là điều sự thực chứ không phải yếu tố thần thoại của người đời sau. Kinh Nguyên thủy cũng có xác nhận về sự kiện Đức Phật hiện hào quang như sau: “Anan nên biết, Ta có hai nhân duyên mà phóng hào quang lớn: Một là khi ở bên gốc cây bồ-đề sắp thành đạo, liền phóng hào quang. Hai là khi sắp vào Niết-bàn cũng phóng hào quang lớn”12.
Như thế, từ quan điểm tu niệm Phật của Phật giáo Nguyên thủy, Tịnh Độ tông phát huy yếu tố niệm Phật với tín ngưỡng tích cực, kinh luận Đại thừa cho là chánh tín trong pháp môn tu. Niệm Phật nhập vào cảnh giới Tam muội (Chánh định), phát huy sự quán chiếu và chứng ngộ Niết-bàn được nhấn mạnh trong kinh Bát chu tam muội, kinh Lăng nghiêm, hay kinh Văn Thù thuyết Bát-nhã hoàn toàn phù hợp với quan điểm niệm Phật chứng đắc Niết-bàn trong kinh Nguyên thủy. Đức Phật đã dạy như sau: “Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là Niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”13. Ý nghĩa niệm Phật như vậy thì Nguyên thủy và Đại thừa đều chấp nhận.
Bước chuyển từ triết lý niệm Phật đến tín ngưỡng niệm Phật
Theo lịch sử Phật giáo thì từ thời Tổ Huệ Viễn đến thời Tổ Thiện Đạo có ba tư tưởng chính thực hành pháp môn Tịnh độ gọi là “Tịnh độ tam lưu”. Trong tác phẩm Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập14 của ngài Pháp Nhiên, một Tăng sĩ Nhật Bản chép rằng, có bốn nhân vật quan trọng trong sự phát triển tư tưởng niệm Phật. Phái thứ nhất là ngài Huệ Viễn (334-416) chủ trương quán tưởng niệm Phật, lấy kinh Bát chu tam muội làm y cứ tu học. Thực hành quán tưởng niệm Phật, chuyên chú niệm Phật để đạt Tam muội (Chánh định), thấy Phật vãng sanh. Phái thứ hai có ngài Đạo Xước và Thiện Đạo, nhưng chỉ gọi là phái Thiện Đạo (613-681), tiếp nối tư tưởng của Đàm Loan chủ trương nương vào tha lực bổn nguyện của Phật, niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tịnh độ. Phái thứ ba có ngài Từ Mẫn (680-748), còn gọi là Pháp sư Huệ Nhật, chủ trương: Giáo -Thiền-Mật-Tịnh kiêm tu, thực hành tất cả pháp lành, chuyên tâm niệm Phật nguyện sanh Tịnh độ.
Kinh văn Đại thừa có quan niệm về yếu tố tha lực trong giáo nghĩa niệm Phật. Tha lực có phải là năng lực và bổn nguyện của Phật hay là kỳ vọng được thiết lập từ tính chủ quan của đệ tử Phật? Trong giáo lý Nguyên thủy hàm chứa yếu tố tha lực như là công đức phát sanh từ lòng kính trọng Đức Phật, kính trọng Tam bảo, hay là từ công đức bố thí. Kinh Lâu đài của nàng Chiên-đà-la (Candàlì -Vimàna)15 kể câu chuyện một phụ nữ nghèo, hạnh nghiệp xấu nhưng một lần lễ Phật với lòng thành kính, sau đó bị tại nạn lâm chung mà được sanh lên cõi trời. Hay câu chuyện Lâu đài do cúng mè16, kể về một người phụ nữ nghèo khổ, từ lâu sống với nghiệp xấu đáng đọa địa ngục, nhưng nhờ một lần cúng dường mè cho Đức Phật mà được phước sanh thiên. Trong giáo lý Tịnh độ tin tưởng rằng người thường niệm, lễ Phật và tu các thiện pháp sẽ được Phật tiếp độ vãng sanh. Đây là yếu tố quan trọng phát huy quan niệm tha lực và tự lực hợp nhất trong giáo lý Tịnh độ.
Nguyên thủy Phật giáo, bậc thánh từ A-na-hàm trở lên mới thực sự không còn bị tái sanh vào thế giới Ta-bà, sẽ sanh vào cõi trời và sau cùng đắc quả A-la-hán tại đó. “Sau khi viên tịch ở đây, Ngài tái sanh vào cảnh giới Vô phiền thiên (Suddhavasa, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết), một cảnh giới thích hợp với các vị A-na-hàm. Ngài sẽ chứng đắc đạo quả A-la-hán và sống hết tuổi thọ trong cảnh giới này”17. Chúng ta có thể nói rằng từ bậc A-na-hàm mới được an trú trong cảnh Thiên quốc Tịnh độ.
Theo giáo lý Tịnh độ, Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng chiếu soi thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh. Đại thừa triển khai chân lý Phật dạy với quan niệm Thế giới quan và Phật-đà quan hoàn toàn không bị đóng khung trong quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Niềm tin trọn vẹn về một bậc thầy giác ngộ viên mãn, đầy đủ oai lực từ bi và trí tuệ. Năng lực của Phật có từ tác động rất mạnh đối với tâm thức người quán niệm. Người tu Tịnh độ, cũng có niềm tin rằng bên ngoài có Phật A Di Đà, bên trong tâm mình có tánh Phật A Di Đà. Khi chưa giác ngộ thì còn bị phiền não che lấp tự tánh Di Đà, nay niệm Phật là phương tiện tuyệt vời để khôi phục tâm tánh ấy.
Có thể nói niệm Phật theo Kinh tạng Nikaya là quán tưởng công đức Phật. Tịnh Độ tông phát huy yếu tố tha lực và tín ngưỡng một cách toàn triệt để truyền bá rộng rãi trong quần chúng. Nhưng phải ghi nhận rằng, yếu tố triết lý trong giáo nghĩa Tịnh độ vẫn nhấn mạnh vai trò pháp niệm Phật hướng đến chứng ngộ Niết-bàn như giáo lý Phật giáo Nguyên thủy. Điều này thể hiện rõ trong các kinh Bát chu tam muội, kinh Văn Thù thuyết Bát-nhã, kinh Lăng nghiêm và nhiều kinh khác.
Phái của ngài Huệ Viễn thể hiện pháp niệm Phật tam muội, thiên về phép quán tưởng niệm Phật, ít phổ biến rộng rãi, nhưng bậc trí tu hành pháp này rất đắc dụng. Phái của ngài Thiện Đạo khuyên niệm Phật y cứ vào kinh A Di Đà, kinh Vô lượng thọ và kinh Quán Vô lượng thọ, với tín ngưỡng là người niệm Phật được tất cả chư Phật hộ niệm, “Nhất thiết chư Phật hộ niệm”. Phái của ngài Từ Mẫn thì mang tính chất quân bình trong đời sống niệm Phật, vận dụng giáo nghĩa Phật dạy các tông phái Giáo-Thiền-Mật-Tịnh. Về sau, Thiền sư Vĩnh Minh (904-975) có công khởi xướng tư tưởng Thiền-Tịnh song tu, điều hòa tư tưởng Thiền và Tịnh thông qua triển khai rộng phương diện triết lý của pháp môn Niệm Phật, thể hiện rõ trong tác phẩm Vạn thiện đồng quy tập. Các nhà hoằng pháp xưa nay, tùy theo đối tượng và hoàn cảnh đúc kết tinh hoa pháp môn Tịnh độ để tu học, nhất quán với lập trường giáo lý Đại thừa.
Vãng sanh và chứng ngộ là tinh hoa của pháp môn Niệm Phật
Vãng sanh có nhiều chánh nhân, nhưng căn bản kinh Quán Vô lượng thọ dạy rằng: “Này Vi Ðề Hi! Người muốn sang nước Cực lạc ấy nên tu ba phước. Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực sư trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành. Hai là thọ trì tam quy y, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi. Ba là phát tâm Bồ-đề, sâu tin nhơn quả, đọc tụng kinh điển Ðại thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành. Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp”18. Đó là hạnh tu thiết thực trong đời sống mang ý nghĩa đạo đức, luân lý, giới luật và trí tuệ. Vãng sanh theo kinh A Di Đà dạy là phải đạt “nhất tâm bất loạn”, một khi đạt nhất tâm tức là thành tựu về thiền định và trí tuệ. Thành tựu tuệ giác thì mới có đầy đủ công đức giải thoát. Vãng sanh theo kinh Hoa nghiêm được đúc kết trong quá trình thực hành mười nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền, đây là lộ trình tu học tích cực, có chí nguyện lớn trong tinh thần tự lợi và lợi tha, sau cùng đem hết thảy công đức nguyện sanh về cõi Tây phương Tịnh độ. “Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi/Phước lớn vô biên đều hồi hướng/Khắp nguyện chúng sanh đang chìm đắm/Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang”19. Theo kinh Lăng nghiêm, muốn sanh Tịnh độ cần niệm Phật đắc Vô sanh pháp nhẫn, tức thuộc bậc Bồ-tát mới thông đạt pháp vô sanh hay bất thối địa. Đây là hạnh tu của Bồ-tát Đại Thế Chí, dùng câu niệm Phật để thâu nhiếp sáu căn, tịnh tâm để nhập vào chánh định, khi có chánh định thì có tuệ giác ngộ và thành tựu vãng sanh. “Pháp tu nhân địa của con là chuyên tâm niệm Phật, chứng nhập pháp Vô sanh nhẫn. Nay ở cõi Ta-bà này, rộng độ những người niệm Phật, vãng sanh về Tịnh độ. Phật hỏi về chứng đắc viên thông, con không lựa chọn, đều nhiếp lục căn, tịnh niệm kế tiếp, được vào Tam-ma-địa, đó là thù thắng nhất”20.
Kinh Bát chu tam muội dạy pháp quán tưởng niệm Phật. Đây là một phương pháp tưởng nhớ và quán sát hình ảnh Phật A Di Đà đến chuyên chú và nhập thiền định. Do sức tưởng niệm mà thấy Phật A Di Đà, thấy Phật là đồng nghĩa được vãng sanh. Nhưng muốn thấy Phật A Di Đà phải vào tam muội, tức nhập vào chánh định. Kinh chép: “Như Ta vừa nghe danh hiệu Đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác hiện nay Ngài ngự ở thế giới chư Phật. Thế giới của Ngài tên là Cực lạc, Ngài thường ngự vào pháp hội của các Bồ-tát để nói pháp và giáo hóa. Rồi người nghe y theo chỗ nghe được chuyên tin tưởng nhớ quán sát không ngừng nghỉ cho đến khi hình ảnh trên hiện rõ ràng trong trí sau cùng được thấy Đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác”21. Và kinh này giải thích rõ phương pháp khởi tâm quán sát, biện tâm để đắc trí tuệ giải thoát Niết-bàn như sau: “Tâm có tưởng niệm tức thành sanh tử, tâm không tưởng niệm tức là Niết-bàn. Các pháp không chơn thật chỉ do tư tưởng duyên khởi, đối tượng bị nghĩ liền diệt, chủ thể năng tưởng cũng không. Hiền Hộ! Ông nên biết các Bồ-tát nhơn tam muội này chứng được trí giác vĩ đại”22.
Niệm Phật như thế nào để phù hợp với tông chỉ của giáo lý Phật dạy? A Di Đà chính là bản tánh của chúng ta, niệm Phật là hàng phục phiền não để hiển lộ tánh giác A Di Đà. Niệm Phật để chuyển thức thành trí, hiển lộ tự tánh Di Đà. Niệm Phật đạt nhất tâm bất loạn, không còn tướng người niệm và đối tượng niệm; siêu việt đối đãi năng sở. Niệm Phật quán tưởng Cực lạc tại tâm, cho nên không còn khái niệm đây là Ta-bà và kia là Tịnh độ; siêu việt không gian. Niệm Phật an trú ngay trong mỗi niệm, không mong cầu tương lai, không truy tìm quá khứ; siêu việt thời gian. Niệm Phật như thế, không lạc vào có và không, không chấp trước, tâm tánh rỗng lặng; khế hợp trung đạo thật tướng. Công phu như vậy thì Thiền, Tịnh và Mật hay các phương pháp tu học khác cùng điểm chung là hướng về Niết-bàn giải thoát, như nước trăm sông đều đổ vào biển cả mênh mông.
Lời kết
Trên phương diện tu học, thực tập bất cứ một pháp môn nào cũng có những phương tiện nhất định để điều phục và chuyển hóa tâm. Tịnh độ đã từng phát triển mạnh mẽ trong quần chúng qua nhiều thế kỷ tại các nước Phật giáo Đại thừa. Liên quan vấn đề tín ngưỡng và triết lý trong pháp niệm Phật chúng ta có thể đi đến một vài nhận xét sau:
Thứ nhất: Tín ngưỡng và triết lý trong pháp niệm Phật là điều kiện căn bản của vãng sanh và thành tựu tuệ giác. Bồ-tát Long Thọ xem pháp môn Niệm Phật dễ thành tựu đạo quả Vô thượng một cách mau chóng, gọi là “dị hành đạo”(dễ tu hành). “Phật pháp có vô lượng môn, như những con đường ở thế gian có khó có dễ, đi bộ thì khó ngồi thuyền bè thì dễ. Muốn dễ đi, mau đến phải nên niệm Phật, phải nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà thì mau được đạo giác ngộ Chân chánh Vô thượng”23.
Thứ hai: Niệm Phật là phương pháp rất thù thắng để điều phục phiền não và thể nhập chánh định, đó là tiềm năng của sự quán tâm để chứng ngộ Niết-bàn. Vấn đề đặt ra là phương pháp niệm và quán tưởng theo đúng kinh điển Nguyên thủy và kinh điển Đại thừa hướng dẫn.
Thứ ba: Trên phương diện triết lý thì Thực tướng niệm Phật là nội dung căn bản của pháp môn Niệm Phật, vạn pháp không ngoài tâm, mười pháp giới không ngoài tâm, vũ trụ không ngoài tâm, Tây phương Tịnh độ không ngoài tâm và Niết-bàn cũng không ngoài tâm. Tâm ấy là bản thể vạn pháp, chính là “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”. Dù tu bất cứ pháp môn nào, sau cùng cũng chứng ngộ tâm tánh ấy. Đó là tinh hoa của pháp môn Niệm Phật. Cho nên các vị Tổ sư xem pháp niệm Phật là phương tiện thiết thực trong sự tu học và truyền bá Phật pháp.
Thích Đức Trí

Chế ngự sân hận

Chế ngự sân hận

Đăng lúc: 21:03 - 23/06/2015

Bạn đang thực hiện một công việc, rất chăm chú, rồi một cô bạn đồng nghiệp đi ngang qua và bảo bạn là đồ kém cỏi. Cô ấy nói đã từng giao cho bạn một công việc quan trọng và bạn đã thực hiện rất tồi. Nghe qua những lời trái tai đó, cơn giận dữ từ từ bốc lên trong thân tâm bạn, thật dữ dội. Bạn không kiềm chế được nữa và đáp trả rằng cô ta không có quyền nói với bạn những lời như vậy. Bị khống chế hoàn toàn bởi cơn giận, bạn tuôn ra bất kỳ điều gì chợt nghĩ ra được trong đầu, ngay cả khi bạn biết là không đúng thật. Cô ấy quát trả lại ầm ĩ, và không bao lâu sau thì mọi người quanh đó đều biết chuyện.
Chuyển hóa sợ hãi và căm ghét


Bạn đang thực hiện một công việc, rất chăm chú, rồi một cô bạn đồng nghiệp đi ngang qua và bảo bạn là đồ kém cỏi. Cô ấy nói đã từng giao cho bạn một công việc quan trọng và bạn đã thực hiện rất tồi. Nghe qua những lời trái tai đó, cơn giận dữ từ từ bốc lên trong thân tâm bạn, thật dữ dội. Bạn không kiềm chế được nữa và đáp trả rằng cô ta không có quyền nói với bạn những lời như vậy. Bị khống chế hoàn toàn bởi cơn giận, bạn tuôn ra bất kỳ điều gì chợt nghĩ ra được trong đầu, ngay cả khi bạn biết là không đúng thật. Cô ấy quát trả lại ầm ĩ, và không bao lâu sau thì mọi người quanh đó đều biết chuyện.

Nói chung, khi ta tức giận hay bị tổn thương, ta cảm thấy như mình là nạn nhân của những hành động ác hại từ người khác. Ta thấy mình là người vô tội, đang phải hứng chịu một cách bất công những hành vi của người khác. Chúng ta nổi giận hay cảm thấy bị tổn thương vì ta nghĩ rằng những người kia là sai trái hay xấu ác,. Cả cơn giận và sự tổn thương đó đều [khiến cho ta] không chịu thừa nhận những gì đã xảy ra.

Nhiều người sống trong tâm trạng của những “nạn nhân”, thường xuyên cảm thấy vô vọng, thấy mình bị ngược đãi và luôn lo lắng sợ sệt. Tuy nhiên, càng thấu hiểu được hoạt động của tâm thức và sự vận hành của nhân quả trong dòng tâm thức tương tục của mình, ta sẽ càng nhận biết rõ hơn rằng cách nhận hiểu vấn đề của ta trong hiện tại, cũng như những hành động trong quá khứ, đóng vai trò quyết định trongsự tiến triển của những gì ta đang trải nghiệm. Bằng cách nào đó, chúng ta là người chịu trách nhiệm về những gì đang xảy ra với ta. Hiểu được điều này, chúng ta phải có trách nhiệm bắt tay vào việc cải thiện tình trạng của bản thân mình.

Để hiểu rõ được những trường hợp bất như ý và làm dịu đi lòng sân hận đối với những trường hợp đó, chúng ta có thể tự đặt ra một số câu hỏi mấu chốt. Để suy xét lại cách nhận hiểu của mình, ta có thể tự hỏi: “Liệu tôi nhận hiểu về tình trạng đó có chính xác không? Liệu sự nổi giận có phải là một phản ứng thích hợp?” Bằng cách suy xét sự vận hành của nhân quả, ta có thể đặt câu hỏi: “Tại sao điều này xảy đến với tôi? Liệu tôi có từng gặp phải những tình trạng tương tự như thế này nhiều lần trước đây? Và nếu như vậy thì tại sao?” Chúng ta hãy tìm hiểu sâu hơn về cả hai khía cạnh này.

Suy xét sự nhận hiểu vấn đề

Liệu ta có nhận hiểu được sự việc một cách chính xác? Cơn giận đã khởi sinh trong ta như thế nào? Khi có ai đó chỉ ra lỗi lầm của mình, ta liền cảm thấy như thể là sự tổn thương ta đang chịu đựng đó đã được chuyển từ người kia sang cho ta. Dường như trong lời lẽ của người kia tự nó đã hàm chứa tính chất gây thương tổn, và về phía mình thì ta chỉ đơn thuần tiếp nhận sự tổn thương sẵn có trong những lời lẽ đó mà thôi.

Nếu điều đó là đúng thì hẳn là chúng ta có thể xác định được sự thương tổn nằm ở đâu trong những lời lẽ đó. Cô ấy nói: “Bạn là đồ kém cỏi!” Vậy thì cảm giác khó chịu nằm ở đâu? Sự thương tổn nằm ở đâu? Có phải nó ở trong từ “bạn”, trong từ “là” hay trong cụm từ “đồ kém cỏi”? Câu nói “Bạn là đồ kém cỏi” mà cô ấy phát ra chỉ là những sóng âm. Cảm giác khó chịu nằm ở đâu trong những sóng âm rung động truyền qua không khí? Giả sử bạn đang ngủ say [không nghe thấy gì] khi cô ấy lên tiếng xúc phạm bạn, liệu bạn có thấy tức tối không? Hoặc giả cô ấy nói ra bằng tiếng Mông Cổ (và bạn không hiểu được thứ tiếng đó!), liệu bạn có cảm thấy bị tổn thương không?

Sự tổn thương đã khởi lên như thế nào từ những lời lẽ nặng nề kia? Đó không phải do tai ta nhận được những sóng âm của lời lẽ đó. Chúng ta cũng hiểu được ý nghĩa của những lời ấy, nhưng ý nghĩa đó tự nó không hàm chứa sự tổn thương, vì nếu nó nhằm vào một người nào đó mà mà ta không thích, thì những từ ngữ “bạn là đồ kém cỏi” hẳn không có gì là khó chịu khi lọt vào tai ta.

Sự tổn thương kia xuất phát từ chính suy nghĩ của chúng ta: “Cô ấy đang nói về tôi! Chính tôi! Sao cô ấy dám nói về tôi như thế?” Chúng ta càng nghĩ đến những gì đã xảy ra thì ý niệm về cái “tôi” càng trở nên lớn mạnh hơn. Chúng ta nhìn nhận sự việc chỉ từ một phía - phía của riêng ta - và rồi nghĩ rằng sự việc đã diễn ra đúng thực như thế. Chúng ta tin vào quan điểm phiến diện của mình và cho đó là hoàn toàn khách quan.

Bất kỳ tình huống nào cũng có nhiều khía cạnh khác nhau để xem xét. Khi ta nhìn một cái tách từ bên trên thì hình dạng của nó có vẻ như khác với khi ta nhìn theo chiều ngang. Thật khó để chứng minh rằng những quan điểm xuất phát từ tâm chấp ngã lại là những quan điểm duy nhất đúng đắn! Suy xét như thế sẽ làm lắng dịu cơn giận của ta.

Một cách khác để chế ngự cơn giận là hãy nhớ rằng, có thể có một chuyện gì khác đã xảy ra khiến cho người kia nặng lời. Có thể anh ta đang gặp khó khăn trong một phương diện khác của đời sống, và ta chỉ tình cờ trở thành đối tượng để anh ta trút giận. [Trong trường hợp đó,] chẳng có gì [thực sự] nhắm vào ta cả, nên chẳng có lý do gì để ta xem đó là xúc phạm rồi nổi giận.

Liệu việc nổi giận có phải là một phản ứng thích đáng? Người đã xúc phạm chúng ta cũng là một chúng sinh luôn mong cầu hạnh phúc và né tránh khổ đau, cũng giống như chúng ta. Phương thức mà anh ta đang sử dụng có thể là sai lầm, nhưng mong muốn của anh ta cũng giống như ta: muốn được hạnh phúc. Bằng việc mở rộng nhiều khía cạnh nhận thức và quên đi chính mình trong chốc lát, ta sẽ nhìn thấy được một con người đang đau khổ, giận dữ và mất bình tĩnh. Chúng ta biết rõ cảm giác khổ đau là như thế nào. Chúng ta biết rõ là ngay lúc này người ấy đang cảm thấy khổ sở như thế nào. Sao lại nổi giận với một người đang đau khổ? Người đó lẽ ra phải được ta khởi lòng bi mẫn, thương xót.

Còn nếu chúng ta quả thật đã mắc sai lầm và có ai đó chỉ ra điều ấy thì sao lại nổi giận? Nếu có người bảo ta rằng trên khuôn mặt ta có cái mũi, ta sẽ không bực tức, vì đó là sự thật hiển nhiên. Cũng vậy, nếu ai đó nhận ra lỗi lầm của ta, những gì người ấy nói là sự thật. Ta thực sự có lỗi, ta nợ người ấy một lời cảm ơn. Người ấy đã chỉ cho ta phương cách để hoàn thiện bản thân mình. Trái lại, nếu người ấy đỗ lổi cho ta một cách không đúng, ta cũng không cần nổi giận. Nếu có người nói rằng trên đầu ta có sừng, ta không nổi giận vì biết rõ đó là chuyện không đúng thật.

Chúng ta thường giận dữ khi xảy ra một điều gì đó mà ta cho là không đúng như ý ta. Nhưng sự giận dữ đó liệu có ích gì? Nếu chúng ta có thể làm thay đổi tình thế thì hãy tiến hành ngay việc đó. Không cần gì phải giận dữ. Cách suy nghĩ như vậy rất hữu ích đối với các vấn đề xã hội và bất công. Đó là những vấn đề có thể làm thay đổi, nên thay vì nổi giận thì việc giữ bình tĩnh và nỗ lực cải thiện xã hội sẽ là khôn ngoan hơn.

Trái lại, nếu tình trạng đó là không thể thay đổi, thì sự giận giữ cũng là vô ích. Một khi chân ta bị gãy, ta không thể thay đổi điều đó! Tất cả những suy đồi trên toàn thế giới không thể giải quyết chỉ trong một năm. Việc giận dữ với những điều ta không thể thay đổi được sẽ khiến ta đau khổ. Lo lắng hay sợ sệt về những điều chưa xảy ra sẽ khiến ta trì trệ. Trong tác phẩm Nhập Bồ Tát Hạnh, ngài Tịch Thiên (Shantideva) đã dạy:

Việc có thể cứu vãn,
Thì giận dữ làm gì?
Bằng như không giải pháp,
Buồn giận cũng vô ích!

Suy xét về nhân quả

Sự vận hành của nhân quả là tư tưởng trọng tâm trong Phật giáo. Điều này sẽ được giải thích đầy đủ hơn ở một chương sau nữa; tuy nhiên, ý nghĩa cơ bản là hành động của ta sẽ mang lại nghiệp quả. Ta không thể biết ngay tất cả nghiệp quả của một hành động, vì cũng giống như việc phải mất một thời gian để hạt mầm đâm chồi rồi phát triển thành cây, những hành động của chúng ta cũng cần có thời gian để tạo thành nghiệp quả.

Khi hiểu được sự vận hành của nhân quả, chúng ta sẽ hiểu được rằng những hoàn cảnh mà ta gặp phải trong cuộc sống không phải là do sự ngẫu nhiên. Chúng là kết quả của những hành động ta đã làm trong quá khứ. Giống như những cái vòng bu-mơ-rang [của thổ dân Úc], khi ném ra bay theo vòng tròn rồi sẽ trở về đúng chỗ người ném. Cũng vậy, ta đối xử với người khác như thế nào thì ta sẽ nhận lãnh như thế ấy. Sự giải thích của đạo Phật về nhân quả cũng tương tự như ý tưởng của đạo Thiên Chúa: “Vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy.”

Nếu xem xét lối hành xử của mình với người khác, ta sẽ thấy được rằng thái độ và cách ứng xử của ta không phải lúc nào cũng mẫu mực. Chúng ta đã từng cắt đứt tình thân hữu, xúc phạm, lạm dụng hoặc nói xấu người khác hay trộm cắp tài sản của họ. Vậy thì có gì lạ khi chúng ta phải tự mình nhận lấy những điều tổn hại? Có thể gần đây ta không hề xử tệ với người hiện đang gây tổn hại cho ta, nhưng trong quá khứ chúng ta đã từng làm tổn hại những người khác. Khi nghiệp quả từ những hành động của chính ta đã chín muồi, chẳng có ích gì trong việc than trách hay oán giận, vì suy cho cùng thì chính bản thân ta đã hành động để đặt ta vào tình trạng đó. Như bậc thánh vĩ đại của Ấn Độ, ngài Tịch Thiên (Shantideva) đã nói:

Xưa kia ta tạo nghiệp,
Nay phải chịu quả báo.
Mọi sự do ta cả,
Sạo lại oán hận người?

Điều này không có nghĩa là ta nên vui vẻ trong sự đau khổ hoặc quy lỗi cho bản thân mình. Đúng hơn, ta nhận biết vai trò [trách nhiệm] của mình và học được bài học từ đó. Nếu ta muốn tránh quả báo khổ đau mà hiện giờ mình đang thọ nhận, ta sẽ phát khởi tâm nguyện mạnh mẽ là chấm dứt mọi hành động có thể đưa đến quả báo tương tự trong tương lai. Điều này sẽ khiến ta luôn ghi nhớ không gây hại cho người khác. Từ nay, bất kỳ lúc nào sắp mất đi sự bình tĩnh, ta sẽ biết dừng lại để suy xét kỹ. Rút ra bài học từ những tình cảnh bất như ý, ta sẽ phát tâm dõng mãnh tu tập để hoàn thiện bản thân mình. Bằng cách đó, ta sẽ chuyển hóa nghịch cảnh khó khăn thành một tình huống có lợi.

Chúng ta có thường nhận ra chính mình trong những tình huống tương tự, liên tục phản ứng theo cách tương tự? Nếu có, thì tại sao? Chúng ta có thể xét mình để thấy, liệu ta có thói quen bất cẩn, buộc người khác phải sửa lỗi cho ta hay không. Nếu là như vậy, thì người ấy trong thực tế đã thật tốt bụng khi chỉ ra lỗi lầm cho ta, vì điều này giúp ta có cơ hội để hoàn thiện. Việc người ấy có thể đã to tiếng khi chỉ lỗi cho ta lại là một việc hoàn toàn khác. Điểm chính ở đây là, chúng ta cần tỉnh giác hơn về việc những hành vi của ta ảnh hưởng đến người khác như thế nào. Và người này đang giúp ta phát triển một sự tỉnh giác như thế.

Chúng ta cũng có thể theo dõi xem liệu ta có thói quen cảm thấy bị tổn thương hoặc giận dữ khi bị chỉ trích hay không. Đôi khi chúng ta quá nhạy cảm và dễ dàng cảm thấy bị xúc phạm. Nếu ai đó hành động theo cách mà chúng ta đặc biệt không thích, ta cường điệu hóa tầm quan trọng của việc ấy, làm cho nó trở thành cụ thể và không sao quên được. Rồi chúng ta ôm giữ mối hiềm hận đó qua nhiều năm. Đây là nguồn gốc của rất nhiều sự oán hận trong gia đình.

Việc ta ôm giữ mối hiềm hận đó trong lòng không gây tổn thương gì đến người kia, vì họ có thể đã quên đi sự việc từ rất lâu. Nhưng mối hiềm hận ấy làm chúng ta đau khổ trong nhiều năm. Người kia chỉ nói ra những lời ấy có một lần, nhưng ta thì cứ nhắc lại chúng nhiều lần trong nhiều năm, và mỗi lần đều làm cho chính ta đau khổ. Vì sự lợi lạc của chính mình cũng như sự hòa hợp với người khác, tốt hơn là chúng ta bớt đi sự nhạy cảm và buông bỏ mọi việc.

Cứng rắn hay thụ động?

Phải chăng điều đó có nghĩa là ta để mặc cho người khác áp chế? Hoặc ta sẽ để cho ai đó làm hại chính bản thân họ hoặc người khác, chỉ vì việc ngăn cản người ấy cần phải to tiếng hay dùng đến vũ lực? Hoàn toàn không. Nhẫn nhục không có nghĩa là cầu an. Người nhẫn nhục luôn giữ tâm an định, nhưng hành vi phát khởi từ tâm nhẫn nhục có thể là mạnh mẽ hoặc ôn hòa.

Trước hết, chúng ta phải từ bỏ tâm sân hận. Khi biết mình đang nhận thức tình huống thông qua cái nhìn hẹp hòi của sự chấp ngã, chúng ta sẽ dừng lại và dành đôi chút thời gian để nhìn nhận vấn đề một cách cởi mở hơn. Chúng ta sẽ suy xét xem vấn đề được nhìn nhận như thế nào từ phía người kia, và điều gì là quan trọng đối với người ấy. Chúng ta sẽ tự xét lại xem những hành vi đã qua cũng như hiện nay đã lôi kéo ta vào tình huống này như thế nào.

Khi cơn giận đã lắng dịu, sẽ nhường chỗ cho từ bi và nhẫn nhục. Một tâm thức sáng suốt, không còn sự nóng giận hung hăng và thiển cận, sẽ có khả năng xem xét một cách thực tiễn những giải pháp khác nhau và chọn ra được giải pháp nào là tối ưu cho mọi người trong cuộc.

Đôi khi chúng ta cần phải nói năng mạnh mẽ để đạt hiệu quả trong giao tiếp. Nói năng cứng rắn với một thái độ bi mẫn khi tình huống đòi hỏi là một kỹ năng quan trọng. Điều này hoàn toàn khác biệt với sự quát tháo trong cơn giận không kiềm chế, khi mà việc giữ im lặng hay nhận lỗi, hoặc giải thích tình huống của mình với sự tôn trọng, sẽ là khôn ngoan hơn. Động cơ [của hành vi], vốn là trạng thái bên trong tâm thức chúng ta, không nên nhầm lẫn với những hành động và lời nói mà ta sử dụng để ứng xử với người khác.

Bất kỳ khi nào có thể được, ta nên tránh những hành vi bạo lực. Nếu như sử dụng vũ lực là cách duy nhất để ngăn cản không cho một người nào đó làm hại bản thân hoặc người khác, thì với lòng bi mẫn đối với cả người bị hại lẫn người gây hại, chúng ta sẽ thực hiện đúng mức những gì cần thiết để ngăn cản. Vì thế, điều quan trọng là phải giữ tâm an hòa trước khi hành động. Nếu ta hành động dưới ảnh hưởng của sân hận, ta rất có thể sẽ dùng đến những lời nói hay việc làm cứng rắn khi không cần thiết, hoặc khi cần thiết thì lại sử dụng quá đáng.

Vì mục đích giao tiếp, đôi khi chúng ta buộc phải nói năng cứng rắn - để nói lên hiểu biết của ta về những gì là đúng hoặc không đúng, có lợi hoặc không có lợi. Điều này có thể được làm với tâm không sân hận. Nếu người kia đã nói năng sai trái hay giận dữ, và chúng ta cũng làm như vậy thì ai đúng, ai sai? Sự giận dữ phá hỏng đi những gì ta nói và làm. Một tâm thức an định có thể giải quyết tình huống theo cách lợi lạc nhất.


Ni sư Thubten Chodron
Hoàng Nguyên và Nguyễn Minh Tiến dịch

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 14
  • Hôm nay 2,862
  • Tháng hiện tại 39,317
  • Tổng lượt truy cập 23,445,566