Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
IMG 9664

Chùa Đức Hậu : " Trao gửi yêu thương mùa Vu Lan 2017 "

Đăng lúc: 16:35 - 06/09/2017

Nhân mùa mùa Vu Lan Báo Hiếu, 8 giờ sáng hôm nay ngày 6/9/2017 ( 16/7 AL) , Đại Đức Thích Định Tuệ trụ trì chùa Đức Hậu đã tổ chức chương trình " Trao gửi yêu thương mùa Vu Lan 2017" tới các bệnh nhân có trường hợp đặc biệt ở Bệnh viện Tâm Thần, Bệnh viện Ung Bướu, Bệnh viện Nhi và một số gia đình khó khăn ở xã Nghi Đức. Ban Từ Thiện chùa Đức Hậu đã trao 43 suất quà và những lời động viên đến các bệnh nhân; chia sẻ chút lòng thành đến những mảnh đời bất hạnh. Nhìn những nỗi đau họ phải chịu về thể xác mà lòng trĩu nặng.

Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu

Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu

Đăng lúc: 08:08 - 23/08/2017

Nói đến Lễ Vu Lan, thì mỗi người trong chúng ta, ai cũng biết và cũng đã từng đến chùa tham dự đại lễ này. Lễ Vu Lan là một lễ lớn đối với tăng ni. Hầu hết các chùa hay tự viện đều tổ chức Lễ Vu Lan hằng năm.


Trong thời pháp đón mừng đại Lễ Vu Lan, chúng tôi xin chia sẻ cùng quý vị đề tài: "Ý Nghĩa Ngày Lễ Vu Lan". Lễ Vu Lan diễn ra vào ngày Rằm tháng Bảy Âm lịch hằng năm. Năm nay lễ rơi vào ngày thứ Ba 05/9/2017 đúng vào ngày Rằm tháng Bảy Âm lịch. Các chùa khắp nơi trên thế giới đều long trọng tổ chức đại lễ Vu Lan, tạo cơ hội cho các Phật tử về chùa dâng hương cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được khoẻ mạnh bình yên và cha mẹ bảy đời quá khứ được thoát khổ địa ngục, sanh về cõi Trời an vui. Cho nên hễ nói đến Lễ Vu Lan là người ta nghĩ ngay đó là ngày Lễ Báo Hiếu Cha Mẹ.



2) Lễ Vu Lan-Báo Hiếu

Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu
Bồ tát Mục Kiền Liên, đại đệ tử của Đức Phật
Không phải tự dưng cứ đến ngày Rằm tháng Bảy Âm lịch hằng năm, Phật giáo long trọng tổ chức "đại lễ Vu Lan-Báo Hiếu" thật trang nghiêm, từ hình thức cho đến nội dung nhằm mang ý nghĩa nhân văn trên bình diện tâm linh và văn hoá của con người. Lễ hội này phát xuất từ sự tích Phật giáo được ghi lại trong kinh Vu Lan Bồn.

- Vu Lan: Danh từ gọi tắt của "Vu Lan Bồn", tiếng Phạn là "Ullambana". Ullam: dịch là "treo ngược" (đảo huyền), ví cho sự thống khổ của người chết như bị treo ngược. Chữ "bồn" tiếng Phạn là "bana" tạm dịch là "cứu giúp". Như vậy chúng ta có thể hiểu từ "Vu Lan Bồn" có nghĩa là giải cứu người bị tội treo ngược.

- Báo hiếu: Nghĩa là sự báo đáp, đền đáp công đức sinh thành dưỡng dục của người con đối với cha mẹ hiện tiền và cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp.

Theo trong kinh thì Lễ Vu Lan của Phật giáo phát xuất từ thời Đức Phật. Ngài đã dạy phương thức báo hiếu cho cha mẹ ở đời này và nhiều đời khác. Người đầu tiên tiếp nhận chính là Tôn giả Mục Kiền Liên, Ngài là một trong 10 vị đệ tử xuất chúng của Đức Thế Tôn.



3) Bồ Tát MỤC KIỀN LIÊN cứu Mẹ thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.

Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu
Bồ tát Mục Kiền Liên muốn cứu mẹ là bà Thanh Đề khỏi địa ngục

Theo kinh "Vu Lan Bồn" thì ngày xưa, khi Bồ Tát Mục Kiền Liên tu thành chánh quả, lúc tưởng nhớ mẫu thân, đã dùng tuệ nhãn kiếm tìm khắp nơi trong trời đất, liền thấy mẹ mình đang ở trong loài ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ rất khổ sở. Thương mẹ, Ngài đã vận thần thông xuống cõi ngạ quỷ dâng bát cơm đầy cho mẹ. Rất tiếc, bà Thanh Đề hãy còn quá sân tham và bởi ác nghiệp thọ báo còn quá nặng nên khi bốc cơm đưa vào miệng thì cơm biến thành lửa. Tôn giả Mục Liên không có cách nào cứu được mẹ nên Ngài liền quay về hỏi Đức Thế Tôn.

Đức Phật dạy rằng: "Dù ông có thần thông quảng đại như thế nào cũng không đủ sức cứu mẹ ông, chỉ có một cách là nhờ sự hợp lực của chư tăng khắp nơi, sau 3 tháng an cư kiết hạ cùng tập trung chú nguyện mới có thể chuyển hoá được nghiệp lực giúp mẹ ông thoát khỏi cảnh khổ".

- Nhưng Bạch Thế Tôn, làm sao con thỉnh được chư Tăng khắp mười phương về để cúng dường cùng một lúc như vậy được?

Đức Phật dạy: "Ngày Rằm tháng Bảy là ngày Tự Tứ của chư Tăng. Ngày đó dù các vị ở trong thiền định hay thọ hạ kinh hành, hay hoá độ nhân gian, cũng tập trung lại để cùng Tự Tứ. Đây là ngày thích hợp để cung thỉnh chư Tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó."

Tôn giả Mục Kiền Liên y theo lời Phật mà làm. Sau đó mẹ của Ngài được giải thoát. Trong dịp này Đức Phật cũng dạy: Chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu-Lan-Bồn Pháp) mà làm". Từ đó, ngày Lễ Vu Lan ra đời.

Kể từ những năm tháng đầu tiên, khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, các chùa đã tổ chức Lễ Vu Lan. Ngày nay, Lễ Vu Lan không còn đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng ca ngợi lòng hiếu thảo đối với mẹ không thôi mà đã trở thành "lễ hội" mang tính cách nhân văn nói lên lòng hiếu kính của tất cả mọi người đối với cả mẹ lẫn cha hiện tiền, hay ông bà cha mẹ đã quá vãng nhiều đời nhiều kiếp. Lòng trân trọng hiếu kính mẹ cha, phụng thờ tổ tiên ông bà, chính là sợi dây liên kết giữa người còn kẻ mất, là truyền thống cao đẹp nêu cao tình người của dân tộc Việt.



4) Ý Nghĩa bông hồng cài trên ngực áo

Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu
Kẻ mất cha hoa hồng trắng, người còn Mẹ hoa hồng đỏ
Một nét đẹp trong ngày Vu Lan sau này là trong buổi lễ, có kèm theo chương trình "bông hồng cài áo". Trong buổi lễ thiêng liêng ấy, ai còn cha mẹ sẽ được cài lên ngực áo một đoá hoa hồng, ai mất cha mẹ được cài lên ngực đoá hồng trắng. Ý nghĩa thì hay, nhưng nếu nhận xét một cách sâu sắc thì chúng ta thấy có chỗ lấn cấn. Nếu trường hợp người tham dự buổi lễ còn cha mà mất mẹ, hay còn mẹ mà mất cha, thì ban tổ chức gắn hoa màu gì cho những vị này? Chúng tôi đề nghị ban tổ chức nên gắn lên ngực mỗi người hai đoá hoa nhỏ. Ai còn đủ cha mẹ thì cài lên ngực hai đoá hoa hồng. Nếu mất cha còn mẹ, hay mất mẹ còn cha, thì gắn một hoa hồng và một hoa trắng, để người được gắn hoa được an ủi phần nào.

5) Tại sao làm con phải có hiếu?

Mỗi người chúng ta có mặt trên cõi đời này là nhờ vào tinh cha huyết mẹ. Mẹ cưu mang chín tháng mười ngày, nặng nhọc như đội núi, ngày đêm như bệnh nặng. Khi sanh nở thì gan ruột như bị xé rách đau đớn mê man, nên ơn sanh thành của cha mẹ kể sao cho xiết.

Người ta thường nói trong cuộc sống, không có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc còn cha mẹ, và không có bất hạnh nào lớn hơn bất hạnh của kẻ mồ côi. Điều này khi ai đã trải qua mới thấy thấm thía. Không có mẹ bên cạnh ai lo bú mớm tắm rửa ẳm bồng chăm sóc chúng ta? Không có cha bên cạnh ai lo tảo tần làm việc kiếm tiền nuôi nấng dạy dỗ chúng ta? Lúc còn nhỏ chúng ta cần cha mẹ mỗi phút mỗi giây ngay lúc khoẻ mạnh cũng như lúc trái gió trở trời đau ốm. Khi lớn lên, ra đời, chúng ta chạy đua theo đời, mê say sự nghiệp, bận lo lắng tô bồi cho hạnh phúc lứa đôi, hay bận lo chăm sóc cho con cái của riêng mình quên bẳng đi cha mẹ. Vì bận rộn nên chúng ta không cảm nhận rõ sự cần thiết cha mẹ bên cạnh chúng ta. Chỉ khi nào gặp cảnh ngộ không may, làm ăn thất bại, vợ bỏ, chồng bỏ, con hư, khi tám ngọn gió đời quật chúng ta nghiêng ngã, vùi dập chúng ta đến nỗi chúng ta không còn niềm tin đối với người xung quanh. Lúc đó chúng ta mới chợt tỉnh ra rằng, chúng ta còn cha mẹ. Cha mẹ lúc nào cũng vẫn là chiếc nôi ấm áp cho chúng ta quay về nương tựa. Cha mẹ đón nhận chúng ta vô điều kiện dù chúng ta thành công hay thất bại, dù chúng ta hạnh phúc hay khổ đau. Ân sủng thiêng liêng ấy, tình cảm cho đi bao la bất tận ấy, ta có thể tìm được nơi đâu, ngoài cha mẹ của chúng ta?

Cho nên việc phụng dưỡng cha mẹ không phải chỉ là trách nhiệm và bổn phận của người làm con, mà đó là một sứ mệnh thiêng liêng. Dù nỗ lực để tận hiếu nhưng công ơn cha mẹ thật rất khó mà đáp đền. Trong kinh Tăng Chi I, Đức Phật dạy: "Có 2 hạng người, này các Tỷ kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt 100 năm cho đến khi các người 100 tuổi. Nếu đấm bóp, tắm rửa, và dẫu tại đấy họ có đại tiểu tiện, như vậy cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha!"

Hiếu đạo theo Phật giáo, không phải chỉ cung kính cha mẹ và phụng dưỡng cha mẹ về mặt vật chất là đủ, mà chúng ta còn cần phải khuyến hoá cha mẹ trở về Chánh pháp để giúp cha mẹ thoát khỏi cảnh bị đọa lạc sau khi lìa đời. Đó mới là cách báo hiếu trọn vẹn, bởi vì trong Kinh Hiếu Tử có nói: "Cúng dường tiền bạc vật chất cho cha mẹ không bằng khuyên cha mẹ làm việc lành, bỏ việc ác. Nếu không thể cải hoá cha mẹ phụng trì Tam Bảo thời tuy có hiếu dưỡng cha mẹ cũng gọi là bất hiếu. Cha mẹ hung ngược, dâm dật, tà ngụy, trái đạo... người con phải hết sức ngăn cản mới gọi là con có hiếu"

Con cái sống hiếu đạo với cha mẹ tạo phước đức vô lượng chừng nào thì tội bất hiếu là tội lớn chừng đó. Đức Phật xác định: "Điều ác nhất không gì hơn bất hiếu" (Kinh Nhẫn Nhục).

Tóm lại, Vu Lan Bồn là ngày Lễ báo hiếu vô cùng cao đẹp của Phật giáo nói riêng và là ngày lễ hội báo hiếu nói chung của mọi người con hiếu trên thế gian này. Lễ Vu Lan mang một ý nghĩa thật thiêng liêng cao cả, giúp cho con cái nghĩ nhớ đến công ơn cha mẹ, khơi dậy trong lòng họ tinh thần báo hiếu đáng quý, đang trân trọng. Riêng chúng ta là người con Phật nhận thức sâu sắc lời Phật dạy, đối với cha mẹ ngày nào cũng là ngày Vu Lan, vì cuộc đời vô thường, ai biết được một ngày nào đó chúng ta mồ côi cha mẹ, hay chính chúng ta lại là người ra đi trước cha mẹ. Cho nên báo hiếu mẹ cha chúng ta báo hiếu hằng ngày chứ không chờ đến ngày Lễ Vu Lan. Tuy nhiên hôm nay mùa Vu Lan lại về, thời gian này ghi đậm trong tâm chúng ta là mùa báo hiếu vì thế chúng ta cùng nhau nỗ lực tinh tấn thực hành hạnh hiếu, để báo đáp thâm ân của cha mẹ vậy./.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

Nhất-xiển-đề & sơ tâm

Nhất-xiển-đề & sơ tâm

Đăng lúc: 19:21 - 01/07/2017

“Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”
(Trịnh Công Sơn)

Khi mới bước chân vào đạo, mình thành kính, thiết tha muốn được thấy rõ phương pháp nào dẫn mình đến sự chứng ngộ nhanh nhất. Như một tờ giấy trắng, chúng ta từ từ được nhuộm theo những gì mình tiếp xúc về đạo Phật. Nên có câu ‘Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên, tam niên bất kiến Phật’. Ngày đầu đến chùa thấy tu theo Phật sao dễ quá, nhưng sau ba năm thì thấy Phật cũng mất luôn!

Điều đáng buồn là, lẽ ra, nếu tu tập mà không thấy tiến bộ thì bỏ công tìm minh sư hay đường tu khác, đằng này, lại trở nên nghi ngờ Tam bảo, nghi ngờ luôn cả bản thân, rồi xem thường chuyện tu hành. Và cuối cùng, trở thành một kẻ nhất-xiển-đề!

shutterstock435140692.jpg
Sơ tâm là nói về cái tâm lành, tâm tốt, tâm luôn hướng thượng - Ảnh minh họa

Nhất-xiển-đề, Phạn ngữ Icchantika, là một khái niệm nói về một hạng người ‘đặc biệt nguy hiểm’ trong đạo Phật, mà hạng người này cũng tồn tại trong các tôn giáo khác. Theo dịch nghĩa chữ Hán, nhất-xiển-đề là bất tín hay tín bất cụ, nghĩa là không có lòng tin, không đủ lòng tin. Lòng tin ở đây được hiểu là tin vào Tam bảo, vào lý nhân quả - duyên sinh, và nghiệp báo.

Trong kinh Tăng chi (chương Ba pháp, phẩm Ba hạng người), hạng người gọi là ‘không hy vọng’, được mô tả như sau: ‘Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người không hy vọng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người ác giới, tánh tình độc ác, sở hành bất tịnh, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn, nhưng hiện tướng là Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng hiện tướng có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh’. Như vậy, tất cả đều là sống hình tướng, bề ngoài dù trên danh nghĩa là người tu theo Phật pháp.

Cũng theo kinh Tăng chi (chương Bốn pháp, phẩm Kesi), Đức Phật mô tả hạng người này như sau: ‘Bị giết hại, này Kesi, là con người này, trong giới luật của bậc Thánh, bị Như Lai nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới’. Rõ ràng, họ không còn coi trọng giới luật, nên không còn xứng đáng được thọ giới. Và tất nhiên, họ cũng chẳng màng đến chuyện họ có được xem là Phật tử hay không! Theo kinh Đại bát Niết-bàn (quyển 1): ‘Nhất-xiển-đề là kẻ dứt tuyệt gốc rễ của mọi điều lành, lòng không nương theo bất cứ pháp lành nào, thậm chí chẳng sanh được một niệm lành”.

Làm người, ai cũng từng có lỗi lầm. Nên Phật có nói về hai hạng người tốt: Một là người chưa bao giờ lầm lỗi. Còn hạng thứ hai, là người có lỗi mà biết ăn năn, hối quá, sửa sai. Tuy nhiên, kẻ gọi là nhất-xiển-đề đã không còn biết tàm, biết quý. Họ đã trở thành một chuyên gia lừa đảo (con artist), không sợ nhân quả, không tin đạo thánh; chỉ nghĩ lợi về mình và dùng mọi thủ đoạn, lợi dụng danh nghĩa Phật pháp để thành công.

Dù người có hám danh, như ngài Cầu Danh Bồ-tát (tiền thân Phật Di Lặc) được mô tả trong kinh Pháp hoa, nhưng biết hổ thẹn và sợ nhân quả cũng vẫn có cơ hội tu tập giải thoát. Đây là điểm chính yếu mà Phật đã dạy trong kinh Trung Bộ (kinh số 27): ‘Phật lấy hình ảnh người thợ rừng theo dấu một con voi lớn để giải thích làm cách nào đệ tử đạt đến sự xác tín hoàn toàn đối với chân lý Ngài dạy’ (Ni sư Trí Hải dịch). Tu tập thành tựu theo những điều Phật dạy, như là thợ rừng theo dấu chân voi, là mục đích tối hậu mà Đức Phật đã truyền trao giáo pháp cho chúng ta. Nên có nhiều mẩu chuyện rất cụ thể trong đời thường để chúng ta rút kinh nghiệm: Câu chuyện về một nhà tâm lý dạy cách nào để có hạnh phúc nhưng chính mình, khi bị hỏi, rất lúng túng vì ít khi có hạnh phúc. Hay, một vị sư có một người đệ tử nhờ sư khuyên bảo con của người này bỏ hút thuốc, nghiện rượu… nhưng oái oăm thay chính vị sư kia cũng đang hút thuốc và uống rượu. Hoặc, một bác sĩ chuyên giúp trị bệnh cho người, nhưng bản thân thì mệt mỏi, hay đau bệnh v.v…

Trên đây là những trường hợp điển hình cụ thể đang xảy ra nhan nhản khắp nơi. Nên người tu Phật phải biết ứng dụng lời Phật dạy cho chính mình và thận trọng, gìn giữ tâm Bồ-đề của mình, không để bị rạn nứt. Giác Ngộ online ngày 29-5-2017 đã nêu lên ‘ba nhóm vấn nạn tiêu biểu’ hiện đang xảy ra nơi các tự viện, chùa chiền: Đó là (1) Phát triển khuynh hướng tư hữu cá nhân; (2) Không có khả năng quản trị ngôi đạo tràng của mình, có xu hướng sống tà mạng, nặng về cơ sở vật chất; và (3) Tình trạng lạm dụng các tiện ích công nghệ thông tin’. Đây là những tín hiệu cho thấy khuynh hướng nhất-xiển-đề đang ngày lan rộng mạnh.

Thiền sư Ðạo Nguyên (Dogen, 1200-1253) rất tâm đắc về pháp môn thiền Sơ tâm và pháp môn này được truyền thừa cho đến ngày nay. Ngài dạy rằng: Người tu học Phật pháp phải luôn giữ gìn cái tâm ban đầu (sơ tâm) vì nếu không, sơ tâm sẽ bị các pháp thế gian làm điên đảo, mộng tưởng. Khi sơ tâm bị bể vỡ, con đường để trở thành một người nhất-xiển-đề sẽ không xa vì lòng tin vào Phật pháp đang bị bào mòn, sút giảm, khô kiệt dần.

Đỗ Đình Đồng dịch Tâm Ban sơ, nguyên tác Zen Mind, Beginner’s Mind của Shunryu Suzuki: ‘Giả sử quý vị tụng Tâm kinh Bát-nhã chỉ một lần. Đó có thể là một sự tụng rất tốt. Nhưng điều gì sẽ xảy ra đối với quý vị khi quý vị tụng nó hai lần, ba lần, bốn lần, hay nhiều hơn nữa? Có thể quý vị mất đi thái độ ban đầu một cách dễ dàng. Điều tương tự sẽ xảy ra trong những cách tu Thiền khác của quý vị. Quý vị sẽ giữ được tâm ban đầu của mình trong một lúc, nhưng nếu quý vị tiếp tục tu tập một, hai, ba năm hay nhiều hơn nữa, mặc dù quý vị có thể tiến bộ chút ít, quý vị bị mất ý nghĩa vô hạn của bản tâm’.

Sơ tâm như người mới biết đạo, đi chùa nên thấy ‘nhất niên Phật tại tiền’. Nếu chúng ta có thể giữ cho sơ tâm của mình giống như ngày mình mới biết đạo, háo hức muốn học hỏi, tu tập, thành kính, thiết tha thì dù mình có tu học bao nhiêu năm, cái sơ tâm vẫn trinh nguyên như ngày nào!

Sơ tâm là làm mọi việc, cho dù nhỏ hay lớn, đều xem như lần đầu, và làm hết mình, không so đo, tính toán lợi hại. Sơ tâm không bị mắc kẹt vào kinh nghiệm của những lần trước mà luôn mở lòng đón nhận những ý kiến mới. Tất nhiên, sơ tâm là nói về cái tâm lành, tâm tốt, tâm luôn hướng thượng.

Nhờ tính cách rỗng không của sơ tâm nên nó luôn giúp mình sẵn sàng mở lòng đón nhận mọi cái mới, luôn trung lập, và không có khái niệm về phe phái, hay chiều hướng. Chính nhờ vậy mà người giữ được sơ tâm trong sáng, luôn tỉnh giác với mọi hoàn cảnh và không bị mắc kẹt vào một pháp nào nên các thiền sư Nhật Bản gọi là ‘vô tâm’. Thiền Sơ tâm cho rằng mọi hành động là cơ hội hiển bày Phật tánh của ta - ‘bản lai diện mục’, cho nên mới nói: đói thì ăn, mệt thì ngủ đó là thiền.

Pháp môn thiền Sơ tâm là một phương pháp giúp giữ cái sơ tâm luôn trong sáng, giúp mình trở về cái tâm ban sơ, nguyên thủy thật sáng chói của chính mình. Chúng ta thấy tâm mình như gương sáng phản chiếu trung thực mọi sự vật, không tình cảm, không thiên vị, không bị dính mắc. Sơ tâm giúp mình sống thật với chính mình và với người khác.

Theo trên cho thấy, mối liên hệ mật thiết giữa sơ tâm và nhất-xiển-đề thật rõ ràng. Khi mình đánh mất sơ tâm, chúng ta trở nên chai cứng với giáo pháp, không còn sợ nhân quả, không còn biết hổ thẹn, chỉ biết hưởng thụ dục lạc. Cái đáng tiếc nhất là mình đã đánh mất chính mình, một con người háo hức muốn học Phật, thích tu, ham làm điều lành, sợ hãi điều ác lúc ban đầu nay bỗng dưng trở thành một người lão luyện về sự dối trá, gian xảo, ngụy tạo những hình thức tu tập mê tín, yêu ma để lợi dụng tình cảm, tiền tài. Hy vọng, đây là hồi chuông báo động cho tất cả chúng ta đang chao đảo niềm tin với Phật pháp, và là tiếng chuông cảnh tỉnh ai đó đang biến mình theo xu hướng nhất-xiển-đề sớm quay về tìm lại cái sơ tâm của mình.

Tháng 6 năm 2017
Thiện Ý

Suy nghiệm lời Phật: Chẳng thể chữa trị

Suy nghiệm lời Phật: Chẳng thể chữa trị

Đăng lúc: 21:47 - 22/06/2017

Trong đường tu ai cũng biết rằng, buông bỏ hết để vượt qua các dục mới dự phần vào Thánh quả. Thế nhưng, buông bỏ là một quá trình vốn không dễ dàng vì tập khí nắm giữ quá sâu dày. Đã bao lần chúng ta thất bại, trầy trật rồi lại cố gắng vươn lên. Những tưởng buông xả những chấp thủ vi tế sâu xa của tự ngã mới khó, ai dè các món dục thô phù như danh và lợi lại cứ đeo đẳng, khiến ta thật khó dứt trừ.
ducphatday.jpg
Học Phật ai cũng hiểu, buông bỏ hết để vượt qua các dục mới dự phần vào Thánh quả

Thuở sơ cơ nhập đạo, tâm Bồ-đề dũng mãnh nên ta xem danh lợi thật phù du, hư huyễn. Rồi dần dà tháng lại ngày qua, không biết tự khi nào tâm ta thay đổi, ta bị chính mình đánh lừa. Tự huyễn danh lợi là phương tiện để hành đạo tốt hơn, phụng sự đạo pháp và chúng sinh đắc lực hơn rồi quyết nắm giữ, không hề có ý buông xả. Vướng vào căn bệnh trầm kha này, Thế Tôn nói là ‘chẳng thể chữa trị’. Hiện trạng này không phải thời mạt pháp mới có, mà ngay thời Chánh pháp của Thế Tôn cũng khá nhiều. Đề-bà-đạt-đa là một trong những trường hợp điển hình.

“Một thời Phật ở thành La-duyệt, tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng đại chúng năm trăm Tỳ-kheo. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các thầy có thể thấy pháp của Đề-bà-đạt-đa thanh tịnh chăng? Ngược lại, Đề-bà-đạt-đa tạo ác sâu nặng, sẽ chịu tội nhiều kiếp không thể chữa trị. Đối với pháp của Ta, chẳng thấy được một ngày mảy may điều lành có thể kể ra được. Nay Ta nói đầu mối các tội của Đề-bà-đạt-đa chẳng thể chữa trị. Ví như có người rơi vào cầu tiêu sâu, thân hình chìm lỉm, không một chỗ sạch. Có người muốn đến cứu vớt vị ấy lên chỗ sạch, họ xem khắp bờ xí và thân người đó xem có chỗ nào sạch, liền nghĩ: ‘Ta muốn nắm vị ấy kéo lên’. Họ nhìn kỹ không một chỗ sạch để có thể nắm được, liền bỏ mà đi. Như vậy, này các Tỳ-kheo, Ta xem Đề-bà-đạt-đa là người ngu si, chẳng thấy chút gì đáng nhớ, sẽ chịu tội nhiều kiếp chẳng thể chữa trị. Sở dĩ như thế vì Đề-bà-đạt-đa một mực ngu si, thiên về lợi dưỡng, tạo tội ngũ nghịch, thân hoại mạng chung sẽ sanh trong đường ác. Như vậy, này các Tỳ-kheo, lợi dưỡng sâu nặng khiến người chẳng đến được chỗ an ổn. Thế nên, này các Tỳ-kheo, đã sanh tâm lợi dưỡng hãy nên lìa bỏ. Nếu người chưa sanh, chớ khởi lòng nhiễm trước. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm11.Bất đãi,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.126)

Thì ra, cội nguồn của vấn đề là do vô minh, tâm không sạch sáng, ngôn ngữ của Thế Tôn là ‘một mực ngu si’. Liệu Thế Tôn quở trách có quá lời chăng? Chúng ta có thật si mê như Đề-bà-đạt-đa thiên về lợi dưỡng không? Bấy giờ hẳn Đề-bà-đạt-đa không chấp nhận. Hiện chúng ta cũng khó thừa nhận bởi mình học cao hiểu rộng, bằng cấp chức vụ đầy mình, có tài tổ chức lãnh đạo, chùa to Phật lớn, đệ tử và tín đồ đông… Sự thật là nếu tất cả chỉ dừng lại ở thức tri, tưởng tri, lấy trí thế gian để hành đạo thì công nghiệp của chúng ta dẫu có to lớn dường mấy cũng chỉ đem đến phước báo hữu lậu. Đó là chưa nói đến thành công càng nhiều thì tự mãn càng lớn, dính mắc danh lợi càng tăng, không khéo bỏ buông thì ‘thân hoại mạng chung sẽ sanh trong đường ác’.

Vấn đề then chốt là cần thành tựu tuệ tri và thắng tri, hằng sống với tuệ giác thiền quán để thấu rõ sự thật dukkha, ‘chiếu kiến ngũ uẩn giai không’ để vượt qua dục, xả buông danh lợi. Thế Tôn thường cảnh tỉnh người học đạo phải thấy rõ sự nguy hiểm ‘lợi dưỡng sâu nặng khiến người chẳng đến được chỗ an ổn’ đồng thời phát khởi tinh cần ‘đã sanh tâm lợi dưỡng hãy nên lìa bỏ, nếu người chưa sanh chớ khởi lòng nhiễm trước’. Trong bối cảnh vật dục danh lợi đoanh vây đời sống tu hành, để tiến đạo thì người con Phật cần nương theo kinh nghiệm của Thế Tôn: Phát huy tuệ giác để thấy rõ sự thật, phá tan vô minh si ám để thôi tự huyễn mình, thấy rõ sự nguy hiểm của lợi danh mà tinh cần buông bỏ. Buông thật sự mới bình an, đến bờ kia.
Quảng Tánh

Khổ hạnh, canh chừng thân tâm

Khổ hạnh, canh chừng thân tâm

Đăng lúc: 19:08 - 16/06/2017

Ăn chay trường là tốt nhưng ăn theo kiểu khổ hạnh khiến thân tâm đều kẹt thì cần điều chỉnh. Có một thời gian Đức Phật Thích Ca đi theo con đường tu tập khổ hạnh, có ngày chỉ ăn một hạt mè, nhưng không hề thấy kết quả tốt đẹp. Thế là Ngài thay đổi, xuống suối tắm gội sạch sẽ, và uống bát sữa của cô thôn nữ dâng cúng, rồi ngồi thiền 49 ngày đêm, đắc đạo. Bài học khổ hạnh ấy đáng cho chúng ta suy gẫm.

longbieton.jpg
Tu tập là làm cho bên trong mình sáng hơn chứ không phải làm cho bên ngoài mình cằn cỗi đi
Thân tâm đều kẹt

Hình như trong chúng ta, không ít người đã từng đi theo con đường khổ hạnh. Một số có thể thành công, nhưng một số lại sinh ra kẹt. Kẹt là vầy, cái thân thì suy kiệt, bệnh hoạn, còn cái tâm thì ngã mạn, kiêu căng. Chuyện đời khó mà lường hết được, cái tâm lại càng khó lường khi nó chuyển động…

Tôi cũng từng phát tâm ăn chay trường, và ăn được hai năm. Cái thuở mới biết đạo, tâm mình hùng dũng vô cùng, quyết đạp bằng mọi chướng ngại, bất kể quy luật của cuộc sống. Tôi làm cái nghề cứ phải đi công tác liên miên, có khi đi cả tuần mới về nhà, rồi lại đi tiếp. Mà cách đây 30 năm, ở tỉnh, ở huyện, ở các xã vùng sâu, làm gì có nhiều quán chay, thậm chí nhiều vùng không có quán chay nào. Cho nên tôi ăn chay theo kiểu khổ hạnh toàn ăn cơm với nước tương, muối tiêu. Hồi đó càng không có khái niệm ăn trứng. Nhưng tôi rất tự hào với sự kiên định của mình.

Ăn kiểu đó mà lặn lội mưa nắng, thức đêm thức hôm viết bài, chẳng mấy chốc tôi từ một phụ nữ mơn mởn đã biến thành một người má hóp, thân gầy, cao 1,6m mà nặng 32kg. Tệ nhất là, từ chỗ xông xáo vác ba-lô đi khắp nơi, tôi bỗng yếu xìu, leo lên tầng một ngôi nhà thôi đã chóng mặt, hoa mắt, thở hổn hển, thậm chí có lần suýt xỉu giữa đường. Coi như… mất sức chiến đấu.

Thế rồi… tôi sực tỉnh. Tôi nghĩ, phải chăng mình đang đi theo con đường khổ hạnh? Và nó có kết quả giải thoát hay không chưa biết, chứ biết chắc là mình sẽ chết. Tôi biết rõ cơ địa, nghiệp duyên và công việc của mình chưa đủ duyên để trường chay nên đành quay lại ăn chay kỳ mỗi tháng 10-15 ngày tùy theo tình hình đi công tác. Tôi hồi phục sức khỏe dần, năng động trở lại. Và tôi có sức để làm thêm công tác từ thiện, viết sách Phật, hoằng pháp.

Còn thêm một vấn đề nữa ngoài chuyện suy kiệt cơ thể do ăn chay kham khổ, mà tôi cho rằng vấn đề này mới thật sự quan trọng. Đó là cái tâm của tôi, khi ăn chay trường một cách kiên quyết và khổ hạnh như thế, tình cờ nó lại sinh ra ngã mạn. Từ chỗ tự hào bước qua kiêu căng, ngã mạn chỉ có một sợi tóc. Bởi vì mình thấy mình “hay” hơn người, mình thấy mình “tu” hơn người, mình nhìn mọi người chung quanh một cách coi thường, như là họ chẳng có sức tu như mình. Chưa hết, khi ăn chay trường thì tôi ngồi vô bàn tiệc với bạn bè khách khứa bằng gương mặt “cách biệt” lắm, làm như có một lằn ranh với họ, thậm chí sẵn sàng tranh luận về chuyện chay mặn, khiến nhiều lần mích lòng. Nhưng tôi chỉ thấy tôi đúng, tôi hay, còn lại mọi người là… đọa hết.

Chọn cách sống trung dung, cách ăn chay phù hợp

Vậy đó, cái tâm nó chuyển động lúc nào chúng ta không biết đâu. Và khi nó chuyển động có thể mình chẳng nhận ra. Rốt cuộc, tu cũng có nghĩa là nhận diện được tâm mình. Và tôi nhận ra, tu là càng tiến tới vô ngã, nhưng sao mình càng tu thì cái ngã của mình càng bự chảng? Vậy mình đi sai đường rồi. Tóm lại, tu kiểu này cái thân thì suy, cái tâm cũng tệ, vậy thôi… tu bình thường trở lại! Bình thường là chọn cách ăn chay phù hợp với cuộc sống người Phật tử, nhất là phù hợp với cơ thể, với công việc, là nhìn mọi người một cách dung dị, không cao thấp hơn thua. Tôi trở lại là người dễ gần, dễ cảm thông, và người ta thích tiếp xúc với tôi hơn trước.

Đó là một kinh nghiệm xương máu trên đường khổ hạnh của tôi. Sau đó tôi có quan sát thì thấy hình như một số người cũng mắc vào căn bệnh y như tôi. Vì vậy nói ra để chúng ta cùng tự điều chỉnh thân tâm.

Sinh hoạt ngoài đời cũng có những chuyện khổ hạnh. Nhiều bà mẹ, bà vợ cả đời chắt mót dành dụm lo hết cho chồng cho con, không hề nghĩ tới bản thân. Rất đáng ca ngợi. Tuy nhiên, có một số người do sống khắc nghiệt với bản thân nên tự nhiên sinh ra khắc nghiệt với người khác lúc nào không hay. Họ không dám ăn dám mặc dám chơi, cho nên khó chịu khi thấy người khác ăn mặc đi chơi thoải mái. Khó chịu, ganh tị, nói thị phi, ghét bỏ, thậm chí nổi sân, là những tâm lý có thật. Ngay cả bà mẹ chồng, sẽ thấy khó chịu khi nàng dâu ăn ngon mặc đẹp. Như vậy sự khổ hạnh vừa có ích lại có thể có hại. Chúng ta cần giải phóng bản thân khỏi sự ràng buộc này, nếu không, sẽ cứ quẩn quanh trong cái khổ của thân và tâm.

Có lần tôi mạnh dạn khuyên các bà mẹ và bà vợ rằng, trừ những trường hợp gia đình quá khổ, chứ nếu có chút ít điều kiện, thì hãy thương lấy bản thân chứ không cần khổ hạnh và khắc nghiệt. Thương bản thân thì có gì sai? Bản thân mình có đẹp, có khỏe, có năng lượng, có vui vẻ, thì mình mới đủ sức lo cho người khác. Mình như ngọn đèn muốn tỏa sáng ra chung quanh thì bản thân mình phải có năng lượng, phải nạp năng lượng.

Năng lượng từ đâu ra? Từ nhiều nguồn lắm. Ở đây, ngoài chuyện vô chùa tu hành, niệm Phật, áp dụng những phương pháp Phật dạy, thì tôi đề cập thêm chuyện Tục đế đời thường, bởi đa số ai cũng sống ngoài đời, mình nên nói những gì thực tế. Năng lượng mà một bà mẹ bà vợ có thể tìm là ăn ngon chút xíu, mặc đẹp chút xíu, thỉnh thoảng đi xem phim, xem hát, du lịch, gặp gỡ bạn bè, thậm chí thích đeo dây chuyền, cà rá thì cứ mua mà đeo cho vui, cho xinh, vì đó là đồng tiền do mình làm ra chính đáng. Một người phụ nữ tươi tắn như vậy chắc chắn ai cũng muốn gần. Bà vui, bà khỏe là người khác đỡ phiền rồi. Bà bố thí nụ cười cho chung quanh là tốt lắm rồi. Mà người như thế chắc chắn tấm lòng sẽ dễ chịu hơn, rộng mở hơn, sẽ giúp đỡ mọi người chứ không hề ích kỷ. Ở đây, tôi không nói bà phải sống xa hoa, chỉ cần bà sống cân đối thôi là được. Cân đối giữa thương mình và thương người, cân đối giữa tiết kiệm và chi xài, cân đối giữa khắc nghiệt và hưởng thụ… Cuộc sống đời thường cần sự cân đối hơn là cực đoan.

Tóm lại, khổ hạnh như ngài Ca Diếp là tuyệt vời, kính phục. Nhưng chúng ta chưa đạt tới trình độ đó, đẳng cấp đó, thì coi chừng… Thà tu, thà sống một cách bình thường, cân đối, thân tâm thăng bằng, trung đạo.
Diệu Kim

Đức Phật dạy các đệ tử những vấn đề cần phải trả lời và không nên trả lời

Đức Phật dạy các đệ tử những vấn đề cần phải trả lời và không nên trả lời

Đăng lúc: 20:47 - 30/12/2016

Kinh Trung Bộ, Kinh Vương Tử Abhaya, đức Phật có khuyên các để tử của Ngài có những vấn đề cần phải trả lời, nhưng có những vấn đề không nên trả lời:


“Lời nói nào Như Lai biết lời nói ấy không đúng với sự thật, không liên hệ đến mục đích của người tu tập, lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, NHƯ LAI KHÔNG NÓI LỜI NÓI ẤY.
Đức Phật và năm anh em Kiều Trần Như
Đức Phật và năm anh em Kiều Trần Như
Lời nói nào Như Lai biết lời nói ấy đúng sự thật, nhưng không liên hệ đến mục đích của người tu tập, lời nói ấy lại làm cho người khác không ưa, không thích, NHƯ LAI KHÔNG NÓI LỜI NÓI ẤY.
Lời nói nào Như Lai biết lời nói ấy đúng sự thật, lại liên hệ đến mục đích của người tu tập, nhưng lời nói ấy khiến những người khác không thích, ở đây NHƯ LAI PHẢI BIẾT THỜI GIAN NÀO THÍCH HỢP GIẢI THÍCH LỜI NÓI ẤY.
Lời nói nào Như Lai biết là lời nói không đúng sự thật, không liên hệ với mục đích của người tu tập, nhưng lời nói ấy lại được mọi người ưa thích, NHƯ LAI KHÔNG NÓI LỜI NÓI ẤY.
Lời nói nào Như Lai biết lời nói ấy là đúng sự thật, nhưng không liên hệ với mục đích người tu tập, lời nói ấy lại làm cho người khác ưa thích, NHƯ LAI KHÔNG NÓI LỜI NÓI ẤY.
Lời nói nào Như Lai biết lời nói ấy đúng như sự thật, lại liên hệ đến mục đích của người tu tập, lời nói ấy khiến những người khác ưa thích, ở đây, NHƯ LAI SẼ NÓI LỜI NÓI ẤY”.
Qua đó cho thấy, khi Như Lai muốn nói vấn đề gì, vấn đề ấy phải đắn đo suy nghĩ dựa trên 3 yếu tố: 1. Đúng sự thật; 2. Liên hệ đến giác ngộ giải thoát; 3. Người nghe có thích hay không. Trong ấy yếu tố thứ 2, có liên hệ đến giác ngộ giải thoát được xem là quan trọng. Đó chính là lý do tại sao trong 6 trường hợp chỉ có hai trường hợp (3 và 6) Như Lai mới nói, trong đó trường hợp thứ 3 mặc dù có liên hệ đến giác ngộ giải thoát, nhưng Như Lai còn phải lựa lời, chờ thời gian thích hợp mới nói. Đây là điểm mà người Phật tử chúng ta cần phải học tập, không thể phát ngôn theo sở thích với mình.

TT. Thích Hạnh Bình

Quả báo kinh hãi mang đến cho tội tà dâm

Quả báo kinh hãi mang đến cho tội tà dâm

Đăng lúc: 11:30 - 08/12/2016

Sự lạc thú từ tội tà dâm chỉ là nhất thời, nhưng tội nghiệp mang lại thì thật to như núi. Đối với những người phạm tội tà dâm, một số thì bị mất mạng, một số thì bị mất chức vị, một số hủy hoại gia đình và một số thì bị tuyệt tự. Một người có thể có mệnh phú quý, nhưng nếu phạm tội tà dâm, anh ta có thể trở nên khốn khổ lao đao suốt cuộc đời.





Quan hệ tình dục ngoài hôn nhân chính là tội tà dâm. Hành vi này trời đất không dung, quỷ thần phẫn nộ. Ngay khi một ý niệm dâm dục khởi phát, thậm chí trước khi hành vi nào đó xảy ra, đã là phạm tội lỗi lớn (tạo nghiệp to lớn). Nếu phạm lỗi, không chỉ người đó đã gây ra tai họa lớn cho chính mình, mà còn mang tới bất hạnh cho con cái họ.

pham_toi_ta_dam.jpg

Sự lạc thú từ tội tà dâm chỉ là nhất thời, nhưng tội nghiệp mang lại thì thật to như núi. Đối với những người phạm tội tà dâm, một số thì bị mất mạng, một số thì bị mất chức vị, một số hủy hoại gia đình và một số thì bị tuyệt tự. Một người có thể có mệnh phú quý, nhưng nếu phạm tội tà dâm, anh ta có thể trở nên khốn khổ lao đao suốt cuộc đời. Một người có thể có mệnh được hưởng phúc và thọ, nhưng nếu phạm tội tà dâm, anh ta có thể bị tật nguyền hay chết yểu. Một người có thể có vợ hiền thục và tiết hạnh, nhưng nếu phạm tội tà dâm, bạn đời của anh ta có thể trở nên lẳng lơ và phóng đãng.

Trong quá khứ, một số người có công năng có thể nhìn thấy rằng quả báo với tội tà dâm là nghiêm trọng nhất.

Lấy ví dụ, thông dâm với vợ người khác, hay làm ô uế con gái nhà người ta sẽ bị đày đọa dưới địa ngục trong 500 năm. Sau đó, anh ta có thể phải mang thân trâu ngựa trong 500 năm nữa, trước khi được chuyển sinh thành người. Thậm chí khi thành người, anh ta có thể phải làm nghề kỹ nữ. Nếu ai đó bày mưu thông dâm với một góa phụ hay ni cô, làm bại hoại nhân luân, người đó sẽ phải chịu khổ dưới địa ngục trong 800 năm. Sau đó, anh ta có thể đầu thai thành lợn hoặc dê để bị mổ lấy thịt trong 800 năm tiếp theo. Đến khi lại được mang thân người, anh ta có thể bị đau khổ vì tàn tật. Quyến rũ người có địa vị cao hay trẻ nhỏ, làm bại hoại cương thường, sẽ khiến người đó chịu khổ dưới địa ngục trong 1.500 năm. Đến khi lại được mang thân người, người đó có thể bị chết trong bụng mẹ hay chết non, tức là có một đời sống cực ngắn.nguoiphattu.com

Tất nhiên, những quả báo này không phải là toàn bộ, mà có thể khác nhau tùy theo trường hợp. Tuy nhiên, điều này cho thấy mức độ nghiêm trọng của tội tà dâm.

Mặc dù quả báo với tội tà dâm là cực kỳ nghiêm trọng, nó thậm chí còn nghiêm trọng hơn với những người xúi giục người khác. Sự đau khổ trong địa ngục là ngoài sức mô tả. Một khi vào ngục vô gián, thì sẽ không còn đường ra nữa. Sự hưởng lạc và phóng túng nơi nhân gian chỉ là rất ngắn ngủi, vì thế chúng ta không nên làm ngơ với những gì sẽ chờ đợi chúng ta sau khi chết. Một người khôn ngoan nên hiểu rõ điều này.

Theo: http://chanhkien.org/

Sự tà dâm là sự hành dâm, sự quan hệ tình dục với người khác mà không phải là vợ, là chồng của nhau. Sự tà dâm là một hành vi xấu xa, bất chính, thấp hèn mà chư thiện trí chê trách; tà dâm là ác nghiệp, do đó gọi là ác nghiệp tà dâm. Nếu người đàn ông và người đàn bà là vợ chồng của nhau, đúng theo phong tục tập quán, được hai bên cha mẹ, bà con dòng họ công nhận, được chính quyền chấp thuận đúng theo luật, được mọi người đều công nhận… thì sự hành dâm, sự quan hệ tình dục giữa vợ chồng của nhau không gọi là tà dâm, bởi vì đó là việc bình thường của những người tại gia, cũng không bị mọi người chê trách.

Người nào tạo ác nghiệp tà dâm với vợ, chồng, con người khác; nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp tà dâm ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp ấy mới thoát được khỏi cõi ác giới.nguoiphattu.com

Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, nếu trường hợp thiện nghiệp nào khác cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau làm người; và trường hợp, nếu người nào tạo ác nghiệp tà dâm có tội nhẹ, sau khi người ấy chết, ác nghiệp tà dâm ấy không có khả năng cho quả tái sinh kiếp sau, mà thiện nghiệp nào khác cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 20 quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ như sau:

1- Là người có nhiều người oan trái.

2- Là người có nhiều người thù ghét.

3- Là người nghèo khổ, thiếu thốn.

4- Là người ngủ không được an lạc.

5- Là người thức không được an lạc.

6- Là người không tránh khỏi 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

7- Là người ái nam, ái nữ (không phải đàn ông, cũng không phải đàn bà).

8- Là người có tính hay nóng giận.

9- Là người sinh vào dòng họ thấp hèn, hạng người thấp hèn.

10- Là người có tính không minh bạch, hay che giấu tội lỗi.

11- Là người có thân hình tật nguyền, xấu xí.

12- Là người có sắc diện mặt mày sầu não, khổ tâm.

13- Là người bị mọi người coi thường khinh bỉ, không tin tưởng.

14- Là người khuyết tật: Đui mù, câm điếc,...

15- Sinh làm người đàn bà (tiền kiếp là người đàn ông).

16- Là người có nhiều chứng bệnh đáng ghê sợ.

17- Là người không biết đủ, sống khổ cực.

18- Là người sống nơi nào cũng không được an lạc.

19- Là người gặp nhiều tai hại, oan trái với mọi người.

20- Là người sống xa người thân yêu, hay bị ruồng bỏ.

Đó là 20 quả xấu của ác nghiệp tà dâm từ kiếp quá khứ.


(Tỳ Khưu Hộ Pháp)

Biết ơn - nền tảng của hướng thiện

Biết ơn - nền tảng của hướng thiện

Đăng lúc: 21:38 - 03/12/2016

Biết ơn, tiếng Pāli là kataññutā và thường đi đôi với từ katavedi. Kataññutā nghĩa là khởi tâm biết ơn khi mình có được lợi ích từ việc thọ nhận vật gì hay sự tử tế nào đó từ người khác, còn katavedi nghĩa là thể hiện sự biết ơn đó qua lời nói hay hành động. Kataññutā khi đứng một mình bao hàm cả nghĩa của từ katavedi.

Biết ơn, tiếng Anh là gratitude, xuất phát từ gốc La-tinh là gratia, nghĩa là ơn huệ, biết ơn. Theo Pruyser (1976), tất cả những từ xuất phát từ gốc gratia đều có nghĩa là “Phải làm tất cả mọi điều với lòng tốt, tâm lượng rộng rãi, như là một món quà, cao đẹp trong việc cho và nhận một cái gì đó một cách không vụ lợi” (tr.69).

Emmons và Shelton (2002) định nghĩa biết ơn là “cảm giác kỳ diệu, cảm giác mang ơn và ghi nhận giá trị cuộc sống” (tr.460). Trên phương diện đạo đức, biết ơn là cơ sở để hình thành và nuôi dưỡng các tâm niệm lành, các hành động thiện và những suy nghĩ tích cực trên con đường hướng thiện được cụ thể hóa qua các nội dung sau:
Biết ơn giúp chúng ta đối xử tốt với mọi người

Trong Phật giáo, biết ơn là khái niệm dùng để chỉ cảm giác mang ơn và có ý muốn đền ơn khi chúng ta thọ nhận một hành vi tốt từ một người nào đó. Tachibana giải thích rằng, hình thức đền ơn căn bản và quan trọng nhất liên hệ đến việc chu toàn bổn phận của người con đối với cha mẹ; trái lại, bất hiếu với cha mẹ là một trong những tội ác lớn nhất của con người (tr.235). Do đó, người biết ơn là người thực hiện hành vi đền ơn với tất cả như một người con làm tròn bổn phận đối với cha mẹ, hay ít ra là xem tất cả như người thân của mình. Cách đền ơn toàn tâm toàn ý như vậy đáng được thực hành và nhân rộng trong cộng đồng xã hội. Mỗi người đều nên khởi tâm biết ơn người khác như một bổn phận báo đền công ơn thọ nhận trong cuộc sống. Do đó, trong các mối quan hệ xã hội, quá trình cho-nhận được thiết lập và thường xuyên diễn ra thì sự thương yêu, tôn trọng và sẵn lòng làm tất cả những gì tốt đẹp cho người khác là việc làm tất nhiên của những con người biết suy nghĩ và quán chiếu.

nsgn.jpg

Cuộc sống là một mạng lưới mà mỗi người là một mắt xích. Do vậy, chúng ta thọ ơn không chỉ với những người thân hay những người mình trực tiếp có được lợi ích về vật chất hay phi vật chất. Trong hàng ngàn các mối quan hệ chằng chịt và phức tạp, trực tiếp cũng như gián tiếp, chúng ta thọ ơn ngay cả những người xa xôi mà chúng ta chưa hề quen biết. Chúng ta không chỉ thọ ơn những người cùng thời đại với mình mà còn chịu ơn những người của bao thế hệ trước nữa. Theo tinh thần Phật giáo, “Khoảng cách về không gian và thời gian không làm ngăn ngại các mối quan hệ. Giáo lý luân hồi của các tôn giáo Ấn Độ, đặc biệt là Phật giáo, dạy chúng ta hiểu rằng, trên thực tế, chúng ta không chỉ có quan hệ với con người mà còn với tất cả chúng sanh” (Tachibana, tr.228).

Một sự thật rằng, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi nói lời cảm ơn ai đó, hoặc đón nhận lời cảm ơn từ người khác. Chúng ta sẽ phấn chấn khi có ai đó nói rằng, chính mình làm cho họ thay đổi theo hướng tích cực và họ biết ơn về điều này. Chúng ta cũng xúc động không kém khi mình đang gặp việc rắc rối, có người tự nguyện tạm gác lại việc của họ để lăn xả vào cuộc giúp mình mà không tính toán so đo. Cảm giác phấn chấn ấy có mặt vì chúng ta thấy việc mình làm đem lại lợi ích thiết thực cho người khác. Cảm giác xúc động ấy là biểu hiện lòng biết ơn của chúng ta dành cho người trải lòng chia sẻ trong lúc mình cần nhất. Trong cả hai trường hợp, biết ơn và được biết ơn đều đem đến cho chúng ta niềm vui, tâm lý an ổn và có cảm xúc cân bằng hơn. Khi chúng ta nhận được lợi ích từ công sức và thiện chí của người khác dành cho mình, tâm niệm biết ơn có mặt, và khi ấy, chúng ta trở nên tử tế hơn, vì hiểu rằng, không lúc này thì lúc khác, không cách này thì cách khác, chúng ta đã, đang hoặc sẽ mang ơn mọi người. Ý niệm này giúp chúng ta sống tử tế hơn với tất cả mọi người.

Biết ơn giúp chúng ta tận tụy hơn trong công việc

Tấm gương sinh động nhất về sự tận tụy trong công việc là Đức Phật. Sau khi thành đạo, việc đầu tiên của Đức Phật là thể hiện lòng biết ơn đối với cây bồ-đề đã che mưa chắn nắng cho Ngài trong suốt thời gian Ngài tu tập cho đến khi chứng nghiệm đạo quả giác ngộ. Nhiều sử liệu kể lại rằng, sau khi hưởng pháp lạc giải thoát, Ngài dành một tuần để đứng trước cây bồ-đề, nhìn về gốc cây với ánh mắt tri ân. Ngài thể hiện lòng biết ơn giáo pháp Ngài vừa tìm được một cách thiết thực nhất là tìm phương pháp để chuyển tải pháp giải thoát đến số đông dân chúng vốn nhiều tầng lớp với đủ các trình độ khác nhau. Khi đã tận tâm tận lực tìm được phương pháp truyền đạt hiệu quả, Ngài bắt đầu cuộc hành trình hoằng truyền giáo pháp, một hành trình đền ơn không có điểm dừng!

Đối tượng đầu tiên Ngài nghĩ đến để trao gởi thông điệp giải thoát là hai vị thầy tâm linh đầu tiên Ngài đã theo học trên con đường tìm cầu chân lý, đó là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Mặc dù Ngài không chứng đạt giác ngộ khi theo học giáo lý từ hai vị này, nhưng họ là những vị ân nhân trợ duyên không nhỏ trên lộ trình tâm linh của Ngài. Sau khi quán chiếu và biết cả hai vị đều đã mất, Ngài liền nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước đó. Đây cũng là những người Ngài từng chịu ơn bởi lẽ nhờ họ mà Ngài biết đến các hình thức khổ hạnh để Ngài tự chiêm nghiệm trong lúc hành trì. Cho dù đây chưa phải là con đường rốt ráo đưa đến giác ngộ giải thoát, nhưng những trải nghiệm này là động cơ giúp Ngài toàn tâm toàn trí để tìm ra lối đi riêng cho mình.

Một thời gian sau, Ngài bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp trong tinh thần biết ơn đến những đối tượng khác. Đó là Ngài trở về hoàng cung hóa độ người thân của mình cũng trong tinh thần biết ơn. Ngài độ các vị vua đương thời cũng trong tinh thần báo đáp. Suốt một cuộc đời tận tâm tận lực không mệt mỏi, Ngài thực hiện cuộc hành trình độ sinh trong tinh thần tri ân vô hạn. Thế nhưng, chúng ta quen nhìn Đức Phật là một bậc Đại giác ngộ, Đại từ bi, Đại công đức mà mấy ai thấy Ngài là bậc Đại tri ân đáng cho chúng ta học hỏi trọn đời. Không chỉ thể hiện hành vi giáo dục người khác qua hành động của chính mình, Đức Phật còn thể hiện tinh thần tri ân trong nhiều bài kinh. Trong kinh Điềm lành tối thượng (Mangala sutta - kinh số 4, phẩm Nhỏ, kinh Tập), Đức Phật dạy, biết ơn là một trong các điềm lành tối thượng để tiến bộ trên lộ trình tâm linh.

Lòng biết ơn lại được thể hiện rõ nét qua tấm gương của Tôn giả Sāriputta (Xá Lợi Phất), một trong các vị đệ tử lớn của của Đức Phật. Sau khi gặp Tôn giả Assaji (Ác Bệ), Tôn giả Sāriputta hiểu được lý nhân duyên và tỏ ngộ chân lý. Từ đó, Tôn giả Sāriputta cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình trong sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp để đền đáp ơn lành được gặp Chánh pháp. Tôn giả có trí tuệ siêu tuyệt và phương pháp giảng dạy giáo pháp của Tôn giả thật là đặc biệt. Tôn giả là một trong số ít các đệ tử của Đức Phật có thể thay Đức Phật thuyết pháp cho đại chúng, giảng giải chi tiết, phân tích cụ thể các vấn đề giáo pháp sau khi được Đức Thế Tôn tuyên thuyết một cách vắn tắt và các bài pháp thoại ấy đều được ghi lại trong một số kinh Nikāya (điển hình như Trung bộ kinh số 5: kinh Không uế nhiễm; Trung bộ kinh số 144: kinh Giáo giới Chanda; Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương X, kinh Sāriputta-Kotthika; Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm IV, kinh số 5: Đất; Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm III, kinh số 21: Chứng thực với thân; chương III, phẩm XIII, kinh số 128: Anuruddha; chương III, phẩm XVI, kinh số 158: Thối đọa; chương IV, phẩm XVIII, kinh số 173: Phân tích). Tôn giả là cánh tay đắc lực của Đức Phật trong quá trình truyền bá Chánh pháp. Tấm gương tri ân và báo ân của Ngài thật đáng để chúng ta ngưỡng mộ và noi theo.

Như vậy, biết ơn và dốc lòng tận tụy sống một cuộc đời đem lại lợi ích cho mọi người để đền ơn là đặc tính tự nhiên của bậc trí, tựa như chúng ta hít thở khí trời. Người trí thực hành lòng biết ơn và đền ơn trong tinh thần phục vụ như một bản năng, một bổn phận. Với trí tuệ siêu phàm và tâm từ rộng lớn, người trí rõ biết và cảm nhận được những lợi ích có được từ con người và cuộc sống xung quanh. Nếu không cảm nhận được điều này từ bản chất, việc phát khởi tâm biết ơn là một điều không phải dễ dàng, và càng khó hơn là thể hiện tâm biết ơn đó bằng sự tận tụy và hết lòng trong công việc.

Biết ơn giúp chúng ta thực hành pháp bố thí tốt hơn

Chính vì muốn nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn các thành phần xã hội trong cộng đồng để tiến bộ và từng bước hoàn thiện nhân cách của mình, Đức Phật dạy các đệ tử của Ngài cần phải bố thí như là biểu hiện của lòng biết ơn. Mình biết nhận từ người khác và có được lợi ích từ sự thọ lãnh này thì cần phải khởi tâm ban tặng như một quy luật của cuộc sống. Ngài dạy “Có hai loại bố thí, đó là bố thí tài vật và bố thí pháp. Trong hai loại bố thí này, pháp thí tối thắng hơn” (Pháp cú, câu 354; Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm XIII: Bố thí). Người đệ tử xuất gia của Ngài chuyên tâm học pháp và hành pháp, thì sẽ có pháp làm món quà tối thượng để chia sẻ với mọi người. Do đó, cả cuộc đời của người xuất gia là tận tụy, chuyên tâm tu học để thể hiện lòng biết ơn và đền ơn đối với mọi người, mọi loài trong vòng duyên sinh kết nối rộng lớn này qua cách thức cho đi và nhận lại.

Theo truyền thống, Đức Phật dạy, người xuất gia không trực tiếp làm một nghề nào như người cư sĩ để nuôi sống bản thân (kinh Di giáo) mà sống tùy vào sự phát tâm cúng dường của hàng cư sĩ tại gia để nuôi dưỡng tâm niệm tri ân thông qua việc chuyên tâm bố thí món quà tâm linh đến hàng cư sĩ ngoại hộ. Trong khi đó, người cư sĩ còn phải làm nhiều bổn phận ở đời, phải làm các nghề để kiếm kế sinh nhai, nên chưa thể toàn tâm dành hết thời gian trong ngày để học pháp và hành pháp. Họ mong được hiểu giáo pháp Đức Phật được truyền đạt từ người xuất gia và đáp lại, họ có điều kiện để cúng dường tài vật đến các bậc thầy tâm linh. Những lời Đức Phật dạy được ghi lại trong nhiều kinh rằng, người xuất gia là ruộng phước tối thượng để người cư sĩ gieo trồng công đức (Tăng chi bộ kinh, tập 1, chương III, phẩm 7, mục 70: Các lễ Uposatha; mục 75: Cần phải khích lệ; phẩm 10: phẩm Hạt muối; mục 94: Con ngựa thuần thục; phẩm 14: Kẻ chiến sĩ, mục 131: Kẻ chiến sĩ).

Do đó, người xuất gia bố thí pháp, người cư sĩ tại gia cúng dường tài vật là việc làm nhằm tạo cho đôi bên ý thức được cuộc sống do duyên nhau mà tồn tại trong quan hệ cho-nhận trực tiếp giữa người xuất gia và tại gia, qua đó thể hiện và nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn. Mỗi người nương vào pháp bố thí này như một bài thực hành căn bản để khởi niệm biết ơn dễ dàng hơn đến với những người không tham gia vào vòng cho-nhận trực tiếp. Từ ý niệm biết ơn trong quan hệ cho-nhận, chúng ta tự nhắc nhở mình - phải biết cho đi để xứng đáng với những gì mình đang nhận lại từ cuộc đời này. Với tâm niệm biết ơn như vậy, mỗi người nên có trách nhiệm với nhau hơn, mở rộng khối óc và đôi tay, sẵn sàng thực hành bố thí trong tinh thần “món vay món trả phải đồng”.

Biết ơn giúp chúng ta hài lòng với cuộc sống thực tại

Khi thấy mình là kẻ thọ ơn, chúng ta dễ dàng có cảm giác hoan hỷ chấp nhận và có tâm lý hài lòng, bằng lòng với những gì mình đang có hay vị trí mình đang là. Cảm giác này hoàn toàn chủ quan và mang tính tương đối. Cùng trong một điều kiện sống, người hài lòng thì cảm nhận được hạnh phúc, an lạc, nhưng người không hài lòng thì cảm nhận sự đau khổ, bất an. Cùng trong một môi trường, không gian sống, khi này chúng ta hài lòng, lúc khác chúng ta lại không vừa ý. Với vật chất thế gian, con người chỉ có được trạng thái hài lòng tạm thời mà thôi. Tâm chao đảo, mất cân bằng do tham đắm và bám víu vào những gì chúng ta ưa thích, từ chối và đẩy ra những gì chúng ta không ưa thích khiến chúng ta khó có được sự hài lòng lâu bền. Chỉ khi nào biết trân quý những gì chúng ta đang có, đang sử dụng với ý niệm biết ơn, biết đủ, chúng ta mới dừng tâm đòi hỏi và tìm cầu để sống một cuộc đời trọn vẹn với thực tại.

Thường xuyên thực hành hạnh biết ơn sẽ giúp chúng ta có cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ và an lành. Người không hài lòng với những gì mình đang có thì không thể ý thức được rằng mình đang thọ ơn người khác. Do vậy, thay vì khởi niệm biết ơn, họ chỉ có thể khởi tâm phàn nàn. Biết ơn, đơn giản là có cảm giác mình là người thọ lãnh và ghi nhận giá trị của những gì mình nhận được từ con người và cuộc sống. Ý niệm biết ơn là mạch máu làm tươi nhuận con tim, nuôi dưỡng khối óc và tưới tẩm tâm hồn chúng ta. Có rất nhiều cơ hội để chúng ta có thể khởi tâm cảm ơn người khác. Với cảm nhận đầy đủ về những gì mình đang có và những gì mình đang trải qua đủ để chúng ta khởi niệm biết ơn. Thân thể, vóc hình, trí tuệ, sắc đẹp, sức khỏe, tài sản, tình cảm chúng ta sở hữu trong kiếp sống này đủ để nhắc chúng ta khởi niệm cảm ơn những gì cuộc đời ban tặng. Từ trong ý niệm biết ơn, chúng ta biết cách sử dụng những gì chúng ta đang có để đem lại lợi ích cho mình, cho người, sống một cuộc đời đáng sống. Đây là cách thể hiện tinh thần biết ơn và đền ơn một cách thiết thực nhất.

Chúng ta có thể làm cho cuộc sống trở nên phong phú và giàu có với tâm niệm biết ơn. Bằng cách ghi nhận thân và tâm này vốn đã được vay mượn từ cha mẹ thuở mới sinh ra, ghi nhận những gì chúng ta đã, đang và tiếp tục thọ nhận từ người khác trong cuộc sống hàng ngày, ghi nhận giá trị ấy để luôn nhắc nhở mình sống trong tinh thần biết ơn. Chúng ta có trọn quyền và có đủ khả năng điều khiển ý tưởng của mình để đạt được hạnh phúc và bình an trong cuộc sống trên nền tảng của tâm niệm biết ơn. An lạc hay đau khổ, thật ra phần lớn đều do mình chọn lựa hơn là do hoàn cảnh hay từ những thứ bên ngoài đem lại, và tinh thần tri ân và báo ân sẽ giúp ta trong việc này.

Khởi niệm biết ơn không có nghĩa chúng ta phủ nhận - những buồn đau, thất vọng xảy ra với mình như một phần trong cuộc sống. Biết ơn là nhận ra mình còn được nhiều thứ từ cuộc đời này và hãy lấy những cái có được ấy làm toa thuốc trị bệnh đau buồn. Một khi chúng ta phàn nàn, nghĩa là chúng ta cảm thấy thiếu thốn hay không hài lòng với cuộc sống hiện tại thì chúng ta có thể khởi lên ý niệm biết ơn chăng? Cứ quay lại nhìn mình, nhìn lại những gì mình đang có, đủ để chúng ta khởi niệm cảm ơn, để tâm hồn bình an và cảm thấy hài lòng với cuộc sống còn nhiều điều bất toàn này. Vấn đề là khi biết khởi tâm biết ơn, chúng ta có đủ khả năng vượt trên những đau buồn như một cơ hội để trưởng thành. Người khôn ngoan biết lấy nghịch cảnh làm cơ hội để học hỏi và tự thân biết cách vươn lên từ trong bĩ cực nhằm hóa giải và thăng hoa nỗi đau thành niềm vui. Rác rưởi có thể sử dụng thành dưỡng chất cho cây lá tươi xanh đâm chồi nảy lộc, cho hoa trái khoe hương tỏa sắc giữa đất trời.

Khi chúng ta chú ý đến điều gì, cái đó trở nên quan trọng và chiếm vị trí trung tâm trong tất cả suy nghĩ, ý tưởng của mình. Hơn thế nữa, bao nhiêu ý tưởng liên quan đến từ khóa ấy cũng lần lượt xuất hiện. Ví như khi chúng ta gõ một từ khóa nào đó vào hệ thống tìm kiếm trên mạng, như Google chẳng hạn, thì lần lượt từng trang một, bao nội dung liên quan đến từ khóa ấy đều xuất hiện, chúng ta dễ dàng tìm tiếp và tìm tiếp nữa. Cũng như vậy, khi có một ‘từ khóa’ nào đó xuất hiện trong ý tưởng, ví dụ đó là một điều chúng ta ước muốn. Thế là biết bao ý tưởng đều từ đó phát sinh. Tương tự chim bay theo đàn, ý tưởng cuộn theo từng mảng chứ không tồn tại riêng lẻ bao giờ. Một sự thật rằng, chúng ta không nhận được những gì mình mong muốn, nên chúng ta không hài lòng với cuộc sống hiện tại. Nếu mỗi ngày chúng ta dành 5 phút để ước muốn thì thời gian 1.435 phút còn lại (24 tiếng đồng hồ là 1.440 phút) trong ngày chỉ để lo lắng, suy nghĩ. Vậy liệu những mong muốn của mình có thành tựu hay không? Ham muốn chỉ đến với người không hài lòng thực tại và không biết cách khởi niệm biết ơn.

Do đó, người không biết ơn thì tâm luôn lăng xăng bận rộn mà không thể hướng thượng và hướng thiện. Nếu chúng ta bình tâm quan sát bản thân mình với tất cả năng lực mình đang có, những gì mình đang sở hữu thì chúng ta sẽ đi đúng hướng trong việc dự đoán, chứ không phải mong cầu cho thỏa mãn lòng tham. Làm được thế này, tâm chúng ta sẽ trú trong “ngưỡng an toàn” và không quá bận rộn vô ích với những điều xa rời thực tế với tâm lý mệt mỏi, nhọc nhằn vì mong cầu mà không đạt được. Thay vì lao tâm khổ trí vì những ý tưởng tiêu cực do lo lắng, sợ hãi tạo ra, ý niệm biết ơn sẽ giúp chúng ta trở nên an ổn và thanh thản hơn trong cuộc sống.

Biết ơn giúp chúng ta bớt đi ý tưởng chấp ngã, mở rộng tâm hồn

Một lợi ích nữa là khi chúng ta biết khởi niệm biết ơn thì ý niệm chấp ngã của chúng ta vơi dần. Bằng cách thực hành biết ơn, chúng ta ý thức rõ ràng rằng, chúng ta đơn giản chỉ là một phần không thể tách rời của một bộ phận lớn hơn. Càng ý thức rõ ràng về mối quan hệ duyên sinh giữa mình và thế giới lớn hơn bên ngoài, chúng ta càng trở nên khiêm tốn hơn, thấy mình bé nhỏ lại và phụ thuộc nhiều vào thế giới chúng ta đang sống. Bớt đi ý niệm chấp ngã không có nghĩa là chúng ta đánh mất mình mà là biểu hiện về sự trưởng thành của nhận thức, là sự trưởng thành về khả năng giữ tâm thăng bằng và an lạc nhờ vào tâm niệm biết ơn.

Sống trên đời này, chúng ta không thể tồn tại, đó là chưa nói đến thành công, nếu không có cha mẹ, thầy, bạn và nhiều người thân hay không thân khác nữa. Hẳn là ít nhất chúng ta không thể không mang ơn những người này. Ý tưởng “những gì tôi có được ngày hôm nay là do bản thân tôi, không ai giúp cả” chỉ phản ánh cái nhìn thiển cận của người vô ơn và chấp ngã mà thôi. Chính tâm niệm biết ơn giúp chúng ta hạnh phúc trong vòng tay của người thân như cha mẹ, thầy tổ, bạn bè. Đây là động cơ để mở lòng sống tốt với mọi người và là cách hướng đến con đường thánh thiện trong mọi tình huống. Khi bắt đầu cảm nhận được lợi ích và ý nghĩa với những gì mình trải nghiệm, chúng ta dễ dàng thấy điều hay, lẽ đẹp nơi người khác. Biết ơn giúp cho chúng ta có niềm tin nhiều hơn trong các mối quan hệ. Biết ơn giúp chúng ta cảm nhận được những gì mình thọ nhận từ người khác để dễ dàng khởi niệm đền ơn. Lưu tâm đến cái tốt, cái đẹp thì những tâm niệm và hành động tốt đẹp dễ dàng phát sinh và chúng ta có thể nhân rộng những điều thiện lành trong cuộc sống và rộng dần ra từ nơi chúng ta sinh sống.

Với tâm rộng mở trong tinh thần biết ơn, chúng ta dễ tha thứ hơn, nhờ đó các vết đau tâm lý dễ chữa lành hơn. Tha thứ là chìa khóa để chữa lành vết thương tâm lý và cảm xúc, đồng thời, tha thứ chỉ có thể làm được khi khởi lên ý niệm biết ơn. Trong đau buồn mà vẫn thấy mình “được” chứ không mất, chúng ta mới có thể khởi niệm biết ơn và dễ dàng tha thứ. Tha thứ có thể thuần túy diễn ra từ trong ý niệm thông qua trị liệu, thiền định, thực hành tâm từ bi và sẵn lòng cảm thông đối với tất cả mọi người. Tha thứ cho chính mình hay người nào đó là chất liệu nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành hơn và chữa lành vết thương lòng nhanh hơn.

Biết ơn giúp chúng ta vững vàng hơn trong cuộc sống

Trong những tình huống khó khăn nhất, tâm chúng ta chùn xuống và các tâm lý tiêu cực đua nhau xuất hiện trên bề mặt ý thức. Điều này làm cho nỗi đau trương phồng thêm lên một cách không cần thiết. Trong những tình huống như vậy, nếu chúng ta bình tâm nhìn lại để kịp nhận ra rằng, những gì chúng ta đang có, kể cả nỗi khổ niềm đau vừa lưu dấu trong tâm, là món quà vô giá để chúng ta khởi tâm cảm ơn tất cả. Sự mất mát để lại niềm đau, nhưng đáng giá hơn là bài học vô thường sinh động mà cuộc đời ban tặng. Chúng ta hãy biết ơn điều này và với tâm lý biết ơn như vậy, đau thương mất mát được chữa lành nhanh chóng.

Biểu hiện lòng biết ơn đối với người khác có nghĩa là chúng ta đang dành cho người ấy một sự ghi nhận và hỗ trợ tinh thần với ngụ ý rằng việc người ấy làm cho chúng ta là có ý nghĩa. Điều này tạo cho người ấy tăng thêm niềm tin việc mình làm là đúng, từ đó khởi tâm hoan hỷ, tinh thần phấn chấn hơn và sống bình an hơn.

Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những thay đổi mới mẻ trong ta và trong cuộc sống. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được sự đóng góp của người khác vào sự thành công của bản thân mình một cách dễ dàng. Mỗi bước tiến trên lộ trình tâm linh là mỗi cơ hội để chúng ta thể hiện tâm biết ơn của mình. Biết ơn chính là động cơ, là nền tảng cho mỗi bước tiến trên con đường hướng thiện của bản thân mỗi người. Với sự biến đổi không ngừng của môi trường và cuộc sống, chúng ta phải luôn xem lại mình để thích ứng với hoàn cảnh hiện tại. Mỗi lần thích nghi với môi trường hay hoàn cảnh mới, chúng ta có cơ hội cảm ơn tất cả để chúng ta có thể vươn lên một nấc thang cao hơn, một trạng thái hài lòng được thiết lập trong quá trình tu tập.

Ngay cả trong hoàn cảnh không như ý, chúng ta cũng nên khởi tâm biết ơn vì nhờ có khó khăn, thất bại chúng ta mới có dịp hiểu rõ khả năng thực tế và kỹ năng xoay xở tình huống của bản thân, cũng như có dịp quan sát những tâm lý khởi lên và dâng trào đến mức độ nào trong bối cảnh bất như ý đó. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta định hướng, hạ quyết tâm để đứng vững và bước chắc trên con đường hướng thượng nhằm hoàn thiện nhân cách của mình.

Biết ơn đem lại nhiều lợi ích từ cơ thể khỏe mạnh đến tâm lý ổn định, tinh thần sảng khoái và làm tươi mát cuộc sống nội tâm cũng như trong các quan hệ giao tiếp với người xung quanh. Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ có cái nhìn thực tế, rõ ràng và chính xác hơn qua lăng kính duyên sinh về khả năng thực tế của bản thân, về sự góp phần của con người, môi trường và những sắc màu mình trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày. Qua lăng kính của biết ơn, mọi vật trở nên trong sáng hơn, con người ngày càng trưởng thành hơn và cuộc sống mỗi ngày càng thêm tươi đẹp hơn.

Liên Trí

________________

Tài liệu tham khảo

Emmons, R A. & Shelton, C. M. (2002). Gratitude and the science of positive psychology. In: Handbook of positive psychology. Snyder, C. R.; Lopez, Shane J.; New York, NY, US: Oxford University Press. 459-471.

Pruyser, P.W. (1976). The minister as diagnostician: Personal problems in pastoral perspective. Philadelphia, PA: Westminster Press.

Tachibana (1992/1975). The ethics of Buddhism. London: Curzon Press.

Thích Minh Châu (dịch) (1996). Tăng chi bộ kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Thích Minh Châu (dịch) (1997). Trung bộ kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Thích Minh Châu (dịch) (1997). Tương ưng bộ kinh. TP.Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Ngày nào cũng thắp hương cúng Phật hay chỉ ngày rằm?

Ngày nào cũng thắp hương cúng Phật hay chỉ ngày rằm?

Đăng lúc: 11:44 - 26/11/2016

HỎI: Người Phật tử có nên ngày nào cũng thắp hương cúng Phật hay chỉ thắp vào ngày rằm, mùng một mà thôi?
(TRỊNH HỶ, hytrinh14101948@gmail.com)

a thaphuong.jpg
Thắp hương cúng Phật là một trong nhiều cách cúng dường lên Thế Tôn

ĐÁP: Bạn Trịnh Hỷ thân mến!

Thắp hương cúng Phật là một trong nhiều cách cúng dường lên Thế Tôn. Ngoài việc thắp hương, người Phật tử có thể dâng hoa, trái, đèn, nước… tùy tâm cúng Phật. Với tâm thành kính, một lòng hướng về Tam bảo, người Phật tử hàng ngày đều dâng hương cùng các lễ phẩm cúng Phật và lễ Phật thì rất tốt, phước báo vô lượng.

Tuy nhiên, vì gia duyên ràng buộc nên không phải ai cũng có thời gian để dâng lễ phẩm cúng Phật, lạy Phật mỗi ngày. Trong trường hợp này vào những ngày rằm, mùng một (hay 14 và 30 âm lịch) cần mua hoa trái hương đèn cúng dường, lễ bái Phật. Sau đó nên đi chùa để tham dự các khóa lễ sám hối, cầu an và cúng dường Tam bảo để vun bồi phước đức cho tự thân cùng gia đình.

Chúc các bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN

Hướng đến ánh sáng

Hướng đến ánh sáng

Đăng lúc: 21:21 - 23/10/2016

Ở đời, mỗi người có một quan niệm về sống chết khác nhau. Có người nghĩ rằng, mình sống làm người, sau khi chết cũng sẽ làm người ở một cõi nào đó, và nếu là đàn ông sẽ tiếp tục làm đàn ông, phụ nữ tiếp tục làm phụ nữ v.v... Nhưng cũng có trường hợp không tin là chết sẽ có đời sau, họ tin chết là hết.
anhsang.jpg
Hướng về Đức Thế Tôn để làm sáng lòng và đi về phía an lạc, giải thoát - Ảnh minh họa

Vua Ba-tư-nặc từng nghĩ rằng: “Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn chết rồi có sinh trở lại dòng Bà-la-môn hay sinh vào nhà Sát-lị, Tỳ-xá, Thủ-đà-la?”. Đức Phật nói với vua Ba-tư-nặc: “Đại vương, sao được như vậy! Đại vương, nên biết, có bốn loại người. Những gì là bốn? Có một loại người từ tối vào tối, có một loại người từ tối vào sáng, có một loại người từ sáng vào tối, và có một loại người từ sáng vào sáng” (Kinh Tạp A-hàm, kinh số 1146).

Hạng người từ tối vào tối

Đó là người sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn, nghèo khổ, không được học hành, rồi lại tiếp tục sống bằng những nghề không lương thiện. Người này đã không biết đến Tam bảo, thấy người khác đi chùa lại sinh tâm phỉ báng. Sinh ra trong gia đình vốn không đạo đức, lại tiếp tục sống theo hạnh ác, tạo không biết bao nhiêu nghiệp xấu.

Đã nghèo khổ, bần tiện lại càng ích kỷ hẹp hòi; sinh ra có một thân thể không được đẹp đẽ xinh xắn lại còn hay ganh ghét, sân hận; có một thân thể bệnh tật, ốm đau lại thường giết hại chúng sinh; sinh ra vốn không có trí tuệ, thất học lại còn coi thường kinh sách của thánh hiền, lời dạy của thánh nhân v.v… Đó là từ tối đi vào tối, đã tối lại càng tối hơn. Tối đời này và cả đời sau, trầm luân trong đêm dài sinh tử. Hạng người này đáng thương nhất trong cuộc đời.

Hạng người từ tối vào sáng

Đó là những người sinh ra trong gia đình không hề biết kính tin Tam bảo, nhưng rồi họ đã gặp được Phật pháp, từ đó nỗ lực tu học, chuyển hóa thành một người Phật tử chân chính, biết hướng đến đạo đức, thương người, tạo phước, buông bỏ hận thù..., về sau họ từng bước thành công trong cuộc sống.

Hoặc có người sinh ở vùng thôn quê nghèo khổ, thiếu cơm áo, thiếu cả đời sống văn hóa, tinh thần. Nhờ còn chút phước duyên gặp được thầy hay và bạn tốt, người này quyết tâm học tập, vượt khó, và đã thay đổi số phận, trở nên thành đạt, hữu ích cho đời. Đó là sinh ra trong bóng tối nhưng lại đang đi vào nẻo sáng.

Hạng người từ sáng vào tối

Sinh ra được làm người, trong một gia đình có đạo đức, có một thân thể khỏe mạnh và xinh đẹp, nhưng không ý thức được phước báo của mình, lại phản bội truyền thống của tổ tiên, gia đình, trở nên hư hỏng, không vâng lời cha mẹ; sinh ra trong ánh sáng là biết đến Tam bảo, nhưng mà sau một thời gian đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, vì một lý do nào đó, người ấy đã bỏ chùa, bỏ thầy, bỏ bạn, không còn đi chùa nữa hay lấy chồng hay vợ theo ngoại đạo…, đó là hạng người bỏ sáng vào tối.

Khi mình sinh ra ở trong một gia đình giàu có, khá giả và làm ăn thành đạt là do thừa hưởng phước báo mà mình gieo trồng ở trong quá khứ. Nhưng khi mình giàu có rồi, lại không coi ai ra gì, khinh thường những người nghèo khó, cũng chẳng biết cho đi, giúp đỡ người, và cũng không biết bố thí cúng dường. Đó là hạng người sinh ra trong ánh sáng nhưng mà đang đi vào bóng tối, tối đời này và cả đời sau.

Hoặc sinh ra đời được quy y Tam bảo và lãnh thọ giới pháp, đó là sinh ra trong ánh sáng. Nhưng mình không biết trân trọng và giữ gìn giới pháp mà mình đã thọ, hủy hoại giới pháp làm cho phước đức suy giảm, đi vào con đường lầm lạc, đi vào bóng tối. Đó là hạng người đáng tiếc nhất, sinh ra trong ánh sáng mà lại tìm nẻo tối mà đi.

Hạng từ sáng vào sáng

Những người sinh ra ở trong gia đình giàu có, đạo đức, lương thiện, có một thân thể đẹp đẽ, khỏe mạnh là sinh ra trong ánh sáng. Sinh ra trong một gia đình biết kính tin Tam bảo, biết tu nhơn, tích đức, biết làm lành tránh dữ là sinh ra trong ánh sáng.

Người đó tiếp tục đi vào ánh sáng tức là biết tu tập, biết hướng thiện, biết làm lành tránh dữ. Mình sinh ra trong một gia đình đạo đức rồi, lại tiếp tục giữ gìn và phát huy truyền thống đạo đức của gia đình. Mình sinh ra trong gia đình có cha mẹ kính tin Tam bảo rồi, mình lại trở thành người Phật tử tiếp tục đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, như cha mẹ, ông bà của mình đã làm. Mình sinh ra vốn có một thân thể khỏe mạnh, xinh đẹp, lại tiếp tục giúp đỡ người khác, không ganh ghét, tị hiềm, không sát sinh - tức là tiếp tục gieo trồng cái nhân cho cái quả thân thể khỏe mạnh, xinh đẹp. Những người có thân thể khỏe mạnh không đau ốm, bệnh tật là nhờ không giết hại chúng sinh, bây giờ mình tiếp tục không giết hại chúng sinh ngược lại còn tích cực phóng sinh. Đó là người sinh ra trong ánh sáng lại tiếp tục đi vào ánh sáng, sáng trong đời này và cả đời sau.

Chúng ta đang thuộc hạng người nào?

Trong bốn hạng người trên đây, chúng ta đang thuộc hạng người nào? Chúng ta đang ở trong ánh sáng đi vào ánh sáng hay là trong ánh sáng đi vào bóng tối? Chúng ta vốn sinh ra trong bóng tối đang đi đến nẻo sáng hay sinh ra trong bóng tối lại tiếp tục đi vào bóng tối?

Đó là điều mà tất cả chúng ta cần phải nhìn lại, nhìn lại chính bản thân mình, nhìn lại cách giáo dục con cái của mình. Nếu như chúng ta biết quy hướng Tam bảo, biết rõ mình sinh ra trong ánh sáng và đi vào ánh sáng, nhưng chúng ta có đang hướng dẫn cho con em của mình đi vào ánh sáng như mình hay không? Mỗi chúng ta cần phải quán chiếu, cần phải nhìn lại đời sống của chính bản thân và coi lại cách giáo dục mà chúng ta đang dạy con cháu của mình để biết được rằng trong bốn hạng người đó, mình đang thuộc hạng người nào?

Trong bốn hạng người đó, Đức Phật nói, có hạng người tối thượng và có hạng người tối hạ, tức là có hạng người cao nhất và có hạng người thấp nhất. Hạng người cao nhất là hạng người sinh ra trong bóng tối mà biết tìm nẻo sáng mà đi. Trong giáo lý đạo Phật, không có giai cấp, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt tôn giáo, không kính trọng người giàu, ghét bỏ người nghèo, không đề cao người trí thức mà chê cười người không trí thức. Theo lời Phật dạy, mọi người sinh ra đều bình đẳng, điều quan trọng là người đó có hướng thượng hay không? Chính vì vậy, hạng người được Đức Phật đề cao và coi trọng là hạng người biết hướng thượng, biết tìm nẻo sáng mà đi, biết tìm đến con đường thành tựu giác ngộ, giải thoát.

Khi sinh ra ở đời, chúng ta không có quyền lựa chọn hoàn cảnh, quê hương, gia tộc, và cũng không có quyền lựa chọn ngay cả chính cha mẹ của mình. Mỗi người phải theo nghiệp mà thọ sinh. Do nghiệp thiện hay ác mà chúng ta đã gieo trồng trong quá khứ để hiện nay có một đời sống tương ưng, có một người cha, một người mẹ tương ưng với nghiệp lực của mình, có một hoàn cảnh đất nước tương ưng với nghiệp lực của mình. Chúng ta không có quyền lựa chọn khi ra đời nhưng chúng ta có quyền lựa chọn lối đi cho chính bản thân mình, mỗi người đều có toàn quyền lựa chọn đi vào ánh sáng hay đi vào nẻo tối.

Do đó, khi sinh ra trong hoàn cảnh tối tăm, khó khăn, nghèo khổ nhưng chúng ta biết phấn đấu, nỗ lực học hành và hướng thiện, siêng năng tu tập để thay đổi cuộc đời của mình, xây dựng cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng hơn. Đó là hạng người tối thượng.

Ngược lại là hạng người tối hạ, tức là hạng người thấp nhất, đáng thương nhất. Đó là hạng người sinh ra trong ánh sáng nhưng lại tìm bóng tối mà đi. Không ít người vốn sinh ra được làm người, ngoại hình dễ coi, thân thể khỏe mạnh, gia đình khá giả, được học hành, như vậy là đã sáng rồi. Vậy mà những người ấy không biết trân trọng những gì mà mình đang có, lại đua đòi gây tạo những nghiệp bất thiện: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, say nghiện. Đó là những người đáng thương nhất, thấp kém nhất, sinh ra trong ánh sáng mà lại tìm nẻo tối mà đi, tối đời này và cả những đời sau.
Thích Nguyên HùngỞ đời, mỗi người có một quan niệm về sống chết khác nhau. Có người nghĩ rằng, mình sống làm người, sau khi chết cũng sẽ làm người ở một cõi nào đó, và nếu là đàn ông sẽ tiếp tục làm đàn ông, phụ nữ tiếp tục làm phụ nữ v.v... Nhưng cũng có trường hợp không tin là chết sẽ có đời sau, họ tin chết là hết.
anhsang.jpg
Hướng về Đức Thế Tôn để làm sáng lòng và đi về phía an lạc, giải thoát - Ảnh minh họa

Vua Ba-tư-nặc từng nghĩ rằng: “Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn chết rồi có sinh trở lại dòng Bà-la-môn hay sinh vào nhà Sát-lị, Tỳ-xá, Thủ-đà-la?”. Đức Phật nói với vua Ba-tư-nặc: “Đại vương, sao được như vậy! Đại vương, nên biết, có bốn loại người. Những gì là bốn? Có một loại người từ tối vào tối, có một loại người từ tối vào sáng, có một loại người từ sáng vào tối, và có một loại người từ sáng vào sáng” (Kinh Tạp A-hàm, kinh số 1146).

Hạng người từ tối vào tối

Đó là người sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn, nghèo khổ, không được học hành, rồi lại tiếp tục sống bằng những nghề không lương thiện. Người này đã không biết đến Tam bảo, thấy người khác đi chùa lại sinh tâm phỉ báng. Sinh ra trong gia đình vốn không đạo đức, lại tiếp tục sống theo hạnh ác, tạo không biết bao nhiêu nghiệp xấu.

Đã nghèo khổ, bần tiện lại càng ích kỷ hẹp hòi; sinh ra có một thân thể không được đẹp đẽ xinh xắn lại còn hay ganh ghét, sân hận; có một thân thể bệnh tật, ốm đau lại thường giết hại chúng sinh; sinh ra vốn không có trí tuệ, thất học lại còn coi thường kinh sách của thánh hiền, lời dạy của thánh nhân v.v… Đó là từ tối đi vào tối, đã tối lại càng tối hơn. Tối đời này và cả đời sau, trầm luân trong đêm dài sinh tử. Hạng người này đáng thương nhất trong cuộc đời.

Hạng người từ tối vào sáng

Đó là những người sinh ra trong gia đình không hề biết kính tin Tam bảo, nhưng rồi họ đã gặp được Phật pháp, từ đó nỗ lực tu học, chuyển hóa thành một người Phật tử chân chính, biết hướng đến đạo đức, thương người, tạo phước, buông bỏ hận thù..., về sau họ từng bước thành công trong cuộc sống.

Hoặc có người sinh ở vùng thôn quê nghèo khổ, thiếu cơm áo, thiếu cả đời sống văn hóa, tinh thần. Nhờ còn chút phước duyên gặp được thầy hay và bạn tốt, người này quyết tâm học tập, vượt khó, và đã thay đổi số phận, trở nên thành đạt, hữu ích cho đời. Đó là sinh ra trong bóng tối nhưng lại đang đi vào nẻo sáng.

Hạng người từ sáng vào tối

Sinh ra được làm người, trong một gia đình có đạo đức, có một thân thể khỏe mạnh và xinh đẹp, nhưng không ý thức được phước báo của mình, lại phản bội truyền thống của tổ tiên, gia đình, trở nên hư hỏng, không vâng lời cha mẹ; sinh ra trong ánh sáng là biết đến Tam bảo, nhưng mà sau một thời gian đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, vì một lý do nào đó, người ấy đã bỏ chùa, bỏ thầy, bỏ bạn, không còn đi chùa nữa hay lấy chồng hay vợ theo ngoại đạo…, đó là hạng người bỏ sáng vào tối.

Khi mình sinh ra ở trong một gia đình giàu có, khá giả và làm ăn thành đạt là do thừa hưởng phước báo mà mình gieo trồng ở trong quá khứ. Nhưng khi mình giàu có rồi, lại không coi ai ra gì, khinh thường những người nghèo khó, cũng chẳng biết cho đi, giúp đỡ người, và cũng không biết bố thí cúng dường. Đó là hạng người sinh ra trong ánh sáng nhưng mà đang đi vào bóng tối, tối đời này và cả đời sau.

Hoặc sinh ra đời được quy y Tam bảo và lãnh thọ giới pháp, đó là sinh ra trong ánh sáng. Nhưng mình không biết trân trọng và giữ gìn giới pháp mà mình đã thọ, hủy hoại giới pháp làm cho phước đức suy giảm, đi vào con đường lầm lạc, đi vào bóng tối. Đó là hạng người đáng tiếc nhất, sinh ra trong ánh sáng mà lại tìm nẻo tối mà đi.

Hạng từ sáng vào sáng

Những người sinh ra ở trong gia đình giàu có, đạo đức, lương thiện, có một thân thể đẹp đẽ, khỏe mạnh là sinh ra trong ánh sáng. Sinh ra trong một gia đình biết kính tin Tam bảo, biết tu nhơn, tích đức, biết làm lành tránh dữ là sinh ra trong ánh sáng.

Người đó tiếp tục đi vào ánh sáng tức là biết tu tập, biết hướng thiện, biết làm lành tránh dữ. Mình sinh ra trong một gia đình đạo đức rồi, lại tiếp tục giữ gìn và phát huy truyền thống đạo đức của gia đình. Mình sinh ra trong gia đình có cha mẹ kính tin Tam bảo rồi, mình lại trở thành người Phật tử tiếp tục đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, như cha mẹ, ông bà của mình đã làm. Mình sinh ra vốn có một thân thể khỏe mạnh, xinh đẹp, lại tiếp tục giúp đỡ người khác, không ganh ghét, tị hiềm, không sát sinh - tức là tiếp tục gieo trồng cái nhân cho cái quả thân thể khỏe mạnh, xinh đẹp. Những người có thân thể khỏe mạnh không đau ốm, bệnh tật là nhờ không giết hại chúng sinh, bây giờ mình tiếp tục không giết hại chúng sinh ngược lại còn tích cực phóng sinh. Đó là người sinh ra trong ánh sáng lại tiếp tục đi vào ánh sáng, sáng trong đời này và cả đời sau.

Chúng ta đang thuộc hạng người nào?

Trong bốn hạng người trên đây, chúng ta đang thuộc hạng người nào? Chúng ta đang ở trong ánh sáng đi vào ánh sáng hay là trong ánh sáng đi vào bóng tối? Chúng ta vốn sinh ra trong bóng tối đang đi đến nẻo sáng hay sinh ra trong bóng tối lại tiếp tục đi vào bóng tối?

Đó là điều mà tất cả chúng ta cần phải nhìn lại, nhìn lại chính bản thân mình, nhìn lại cách giáo dục con cái của mình. Nếu như chúng ta biết quy hướng Tam bảo, biết rõ mình sinh ra trong ánh sáng và đi vào ánh sáng, nhưng chúng ta có đang hướng dẫn cho con em của mình đi vào ánh sáng như mình hay không? Mỗi chúng ta cần phải quán chiếu, cần phải nhìn lại đời sống của chính bản thân và coi lại cách giáo dục mà chúng ta đang dạy con cháu của mình để biết được rằng trong bốn hạng người đó, mình đang thuộc hạng người nào?

Trong bốn hạng người đó, Đức Phật nói, có hạng người tối thượng và có hạng người tối hạ, tức là có hạng người cao nhất và có hạng người thấp nhất. Hạng người cao nhất là hạng người sinh ra trong bóng tối mà biết tìm nẻo sáng mà đi. Trong giáo lý đạo Phật, không có giai cấp, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt tôn giáo, không kính trọng người giàu, ghét bỏ người nghèo, không đề cao người trí thức mà chê cười người không trí thức. Theo lời Phật dạy, mọi người sinh ra đều bình đẳng, điều quan trọng là người đó có hướng thượng hay không? Chính vì vậy, hạng người được Đức Phật đề cao và coi trọng là hạng người biết hướng thượng, biết tìm nẻo sáng mà đi, biết tìm đến con đường thành tựu giác ngộ, giải thoát.

Khi sinh ra ở đời, chúng ta không có quyền lựa chọn hoàn cảnh, quê hương, gia tộc, và cũng không có quyền lựa chọn ngay cả chính cha mẹ của mình. Mỗi người phải theo nghiệp mà thọ sinh. Do nghiệp thiện hay ác mà chúng ta đã gieo trồng trong quá khứ để hiện nay có một đời sống tương ưng, có một người cha, một người mẹ tương ưng với nghiệp lực của mình, có một hoàn cảnh đất nước tương ưng với nghiệp lực của mình. Chúng ta không có quyền lựa chọn khi ra đời nhưng chúng ta có quyền lựa chọn lối đi cho chính bản thân mình, mỗi người đều có toàn quyền lựa chọn đi vào ánh sáng hay đi vào nẻo tối.

Do đó, khi sinh ra trong hoàn cảnh tối tăm, khó khăn, nghèo khổ nhưng chúng ta biết phấn đấu, nỗ lực học hành và hướng thiện, siêng năng tu tập để thay đổi cuộc đời của mình, xây dựng cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng hơn. Đó là hạng người tối thượng.

Ngược lại là hạng người tối hạ, tức là hạng người thấp nhất, đáng thương nhất. Đó là hạng người sinh ra trong ánh sáng nhưng lại tìm bóng tối mà đi. Không ít người vốn sinh ra được làm người, ngoại hình dễ coi, thân thể khỏe mạnh, gia đình khá giả, được học hành, như vậy là đã sáng rồi. Vậy mà những người ấy không biết trân trọng những gì mà mình đang có, lại đua đòi gây tạo những nghiệp bất thiện: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, say nghiện. Đó là những người đáng thương nhất, thấp kém nhất, sinh ra trong ánh sáng mà lại tìm nẻo tối mà đi, tối đời này và cả những đời sau.
Thích Nguyên Hùng

Hiện tại và tương lai

Hiện tại và tương lai

Đăng lúc: 18:55 - 08/10/2016

Ở đây, Đức Phật Ngài đã dạy một câu kệ mới nghe dường như chỉ là một câu trả lời về cảnh giới thọ sanh. Nhưng trong câu trả lời đó cho chúng ta thấy chúng sanh đến đi trong cuộc đời này theo hạnh nghiệp của mình và hạnh nghiệp đó dựa trên một chủ tâm tạo tác và chủ tâm tạo tác là cái quyết định hoàn toàn.


Hiện tại và tương lai
Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn.
Chánh văn kệ ngôn pháp cú do Thượng Tọa Giác Đẳng dịch từ Pali

Gabbhameke uppajjanti, nirayaṃ pāpakammino;
Saggaṃ sugatino yanti, parinibbanti anāsavā.

DUYÊN SỰ

Trưởng lão Tissa đến nhà người thợ kim hoàn thọ trai. Trong lúc chủ nhà bận việc phía sau, một con ngỗng nuôi trong nhà nuốt vào bụng viên ngọc của nhà vua đã đưa để mài. Mặc dù là người rất tín tâm nhưng vì hốt hoảng đã làm mất viên ngọc của vua nên, người thợ kim hoàn đã vặn hỏi thậm chí tra tấn Trưởng lão Tissa đến nỗi bị thương đổ máu ngất xỉu bất chấp sự can gián hết lời của người vợ. Con ngỗng ngửi thấy máu tới gần cũng bị đập một cây chết ngay lập tức. Khi tỉnh dậy Trưỏng lão Tissa cho biết chính con ngỗng đã nuốt viên ngọc nhưng không thể nói vì sẽ làm con ngỗng bị giết. Người thợ hoàn vô cùng ăn năn xin được tha thứ. Không lâu sau đó Trưởng lão viên tịch Niết Bàn vì thương tích. Sau nầy khi các tỳ khưu bạch hỏi Phật về cảnh giới thọ sanh của con ngỗng, người thợ kim hoàn và người vợ, cũng như trưởng lão Tissa, Đức Phật đã dạy kệ ngôn.

Hôm nay chúng ta được nghe câu chuyện cổ tích chắc chắn quen thuộc bởi vì có trong nhiều bản dịch cũng như nhiều tác phẩm cổ tích Phật Giáo liên quan đến câu chuyện này.
Tỳ kheo Tissa đến nhà một người thợ bạc để thọ trai và con ngỗng trong nhà đã nuốt viên ngọc của nhà vua mang đến cho người thợ này mài dũa và kết quả đã tạo thành bi kịch. Câu chuyện này cho một cái nhìn khác về điều gọi là tội ác và hệ lụy ở trong kiếp người. Nhìn vào câu chuyện thì tất cả những người liên hệ kể cả người đã tạo lên những hành động hết sức dã man ở tại đây là người thợ kim hoàn. Nhìn ở góc cạnh nào đó chúng ta thấy người này cũng là một người đáng tội nghiệp. Cái tội nghiệp ở tại đây như trong sớ giải cho biết người thợ kim hoàn này suốt 12 năm trời ngày nào cũng thỉnh Tôn Giả Tissa đến nhà để cúng dường trai phạn, Tôn Giả đã đến nhà người kim hoàn này xem anh như một đàn tín một người đệ tử. Và chúng ta cũng được biết Tôn Giả Tissa đã nhận lời như một sự ban bố một cơ hội cho anh thợ kim hoàn và những người trong gia đình tạo phúc. Mười hai năm dài như vậy chắc chắn đã xây dựng được rất nhiều trên phương diện tín tâm đạo tình cũng như quan hệ mật thiết.
1. – Điểm thứ nhất.
Như bây giờ chúng ta thường nghe những câu chuyện đôi lúc vận không may nào đó xảy ra cho chúng ta, chúng ta lại có mặt ở một nơi không đúng thời, không đúng chỗ, không đúng người, và không đúng việc, ba bốn yếu tố không đúng đó nhập lại với nhau và tạo lên những bi kịch của đời sống. Câu chuyện chúng ta nghe Trưởng Lão Tissa gặp nạn vẫn thường xảy ra rất nhiều ở trong thời đại ngày hôm nay. Có câu chuyện xảy ra tại công viên Centre Park ở New York, một nhóm 5 em thanh niên nhỏ đi chơi tại công viên này và cả 5 người như vậy mà vào giờ đó không may hôm đó xảy ra một chuyện hãm hiếp ở Centre Park và qua lời khai cũng như qua thái độ thiếu khôn ngoan một lúc nào không tỉnh táo của 5 thanh niên này mà 5 người này đã bị rơi vào vòng lao lý một thời gian dài cho đến khi người ta tìm ra hung thủ và hung thủ cũng tự thú thì mới biết 5 người này cũng là nạn nhân trong một bi kịch của kiếp người của kiếp trầm luân.
Có thể nói rằng sự khôn ngoan của đời sống, đạo đức của đời sống và ngay cả vận may của chính mình đôi lúc không đủ khả năng để bạo vệ mình. Những cái dông rủi tai bay họa gửi và đồng thời bao nhiêu ách nạn vốn dĩ là một phần rất tự nhiên của kiếp người, một phần tự nhiên của cuộc sống trầm luân này.
Chúng ta nhìn vào câu chuyện một chút sẽ thấy tất cả những người liên hệ trong câu chuyện đều rất đáng tội nghiệp, cho dù đó là con ngỗng, con ngỗng nhìn thấy viên ngọc theo trong sớ giải lúc đó anh thợ kim hoàn đang nấu thức ăn và khi người lính của nhà vua mang viên ngọc đến anh đã cầm viên ngọc đó lên xem xét và một ít thức ăn dính vào viên ngọc, con ngỗng đánh hơi mùi thức ăn đã nuốt viên ngọc vào trong bụng. Con ngỗng nuốt viên ngọc vào trong bụng cũng là một hành động rất bản năng, con ngỗng không có ý đánh cắp viên ngọc đó và dĩ nhiên đối với con ngỗng viên ngọc đó không có giá trị hơn một miếng ăn nào, nó chỉ là một thứ miếng ăn không hơn không kém và có thể đó là một miếng ăn khó nuốt.
Chúng ta lại nghe câu chuyện của bà vợ là người rất có tín tâm cùng với chồng đã bao nhiêu năm lo lắng cho Tôn Giả Tissa đối với Tôn Giả Tissa như một người thân, như một vị Thầy, như một chỗ nương tựa tinh thần, bây giờ nhìn thấy chồng mình đánh đập tra khảo Tôn Giả Tissa thì thật sự không có lời nói không có can trường nào đủ làm cho người vợ của người thợ kim hoàn cảm thấy có thể cầm lòng được.
Tội nghiệp nhất hai người đó là Trưởng Lão Tissa và anh thợ kim hoàn. Trưởng Lão Tissa có lý do hoàn toàn chính đáng để im lặng, Ngài là vị Tỳ Kheo là một vị Thánh, nếu lời nói đó có liên hệ đến mạng của một chúng sanh khác thì không thể là lời nói nhẹ được mà là lời nói phải cân nhắc rất nhiều. Đôi lúc trong những trường hợp người ta không thể nói thì chỉ biết chọn lấy im lặng và cái giá của sự im lặng đó không phải là một cái giá nhỏ, ở tại đây một sự im lặng lại tạo ra một bi kịch lớn, nhưng mà nói gì đây, mình biết chắc chắn rằng chỉ một lời nói của Ngài là con ngỗng đã nuốt viên ngọc vào bụng thì con ngỗng lập tức bị đem ra cắt cổ mổ bụng để lấy viên ngọc ra, Ngài là một bậc Thánh một vị Tỳ kheo Ngài không thể nói như vậy,
Nhưng mà rồi anh thợ kim hoàn lại là một người mặc dù đã tạo ra thảm kịch này nhưng anh cũng là một nạn nhân, anh là nạn nhân của kiếp luân hồi và nạn nhân của chính mình. Nạn nhân của kiếp luân hồi là đã sống thì phải mưu sinh, đã sống thì phải liệu toan, đã sống thì phải nhận lấy trách nhiệm, và đã sống thì phải trả cái giá cho sự mưu sinh của mình. Là một người được nhà vua thưởng thức tài nghệ mài dũa những viên ngọc của cung đình và anh là một người làm ra rất nhiều tiền nhờ đó anh có cuộc sống thoải mái nhưng bây giờ khi viên ngọc nhà vua đem đến không cánh mà bay và ở trong căn phòng đó ngoài Trưởng Lão Tissa không có người nào khác, cái mạng của mình treo như chỉ mành treo chuông. Và có thể nói rằng trong lúc túng quẩn anh không biết phải làm thứ gì. Đây là một điều chúng ta được biết có rất nhiều trường hợp Đức Phật Ngài khuyên các vị Tỳ kheo các đệ tử của Ngài nên tránh đi những nơi không thích hợp, những chỗ không thích đáng, những chỗ phi thời, tại vì những tai bay họa gửi đến đôi lúc mình không tránh né được.
Ngay cả trong một xã hội nền pháp luật được hổ trợ bằng nhiều kỹ thuật tinh vi thì hàng năm có rất nhiều người bị oan uổng một cách hết sức là oan uổng. Quí vị cũng nghe được tại Hoa Kỳ ở trong 10 người lên ghế điện có 4 người vào giờ chót người ta khám phá ra không phải như vậy, bởi vì một lúc nào đó vì sự sai lầm của công tố viên người ta chỉ lượng định được tội trạng dựa trên một thứ kỹ thuật và kỹ thuật vô tri đó đôi lúc lại không thể xác định hoàn toàn một cách chính xác, và có thể nói người ta có thể vương vào những tội đại hình rất dễ dàng chỉ vì một chút lầm lẫn của công tố viên. Chuyện đó chúng ta thường thấy nhan nhãn ở trên báo chí.
Trong câu chuyện này đúng là tình ngay lý gian và quả thật rất khó để người thợ kim hoàn có thể kiên nhẫn được, anh không thể kiên nhẫn được tại vì viên ngọc đó không nằm trong khả năng anh có thể bồi thường được, anh không thể kiên nhẫn được bởi vì anh có thể mất đầu, bị nhà vua đem chém đầu vì đã làm mất viên ngọc quí của nhà vua và anh không có một cách lựa chọn nào khác, ở trong lúc đó con người bị dồn đến một sự thử thách tuyệt đối hoặc giả có thể chấp nhận thân phận để bảo vệ đạo nghĩa của mình, hoặc giả trong lúc cuống quít mất bình tỉnh có thể làm bất cứ cái gì có thể làm được để truy tìm cho bằng được một vật đã mất. Anh thợ kim hoàn đã lựa chọn thái độ thứ hai đem một vị Thầy một vị Tỳ Kheo một người mình quen biết rất lâu để vặn hỏi, vặn hỏi không được thậm chí dùng đến bạo lực dùng đến tra tấn và Tôn Giả Tissa đã ngất sỉu trước những cú đánh rất hung hiểm của anh thợ kim hoàn.
Bi kịch chúng ta được nghe như vậy là một câu chuyện như Tôn Giả Tissa đã nói sau đó:
– “Đó là nỗi của kiếp trầm luân“.
Sống trong cuộc đời này chúng ta không những là nạn nhân của hoàn cảnh mà còn là nạn nhân của nghiệp quá khứ. Chúng ta là nạn nhân của những tâm bất thiện mình đã có ở trong một kiếp xa xưa nào đó.
– Bây giờ sống trong một kiếp người có ai dám nói mình có một quá khứ nhiều đời nhiều kiếp hoàn toàn tích tập những nghiệp thiện?
– Chắc chắn ở trong di sản mình thừa tự từ quá khứ nó bao gồm cả hai thứ thiện lẫn bất thiện, ác nghiệp lẫn thiện nghiệp.
Phải nói rằng trong nhiều đời nhiều kiếp, vô lượng kiếp luân hồi mà chúng ta đã trải qua từ trong nhiều đời quá khứ thì chắc chắn là ác nghiệp tạo nhiều hơn thiện nghiệp.
Có hiểu được ý nghĩa này, tại sao trầm luân sanh tử không phải một điều đáng cho chúng ta dính mắc đáng cho chúng ta bám víu. Đúng ra khi nói đến tội của trầm luân khi nói đến lỗi của kiếp luân hồi chúng ta nghe như là một câu nói triết lý như một câu nói đạo đức nhưng nếu nghiệm lại tất cả cái không may, tất cả những cái đưa đẩy sơ xảy có thể xảy ra, tất cả cái phiền lụy của kiếp luân hồi thì bậc thiện trí không có gì để hoan hỉ ở trong cuộc sống luân hồi này.
Chúng tôi có lần thăm thành phố lớn ở Ấn Độ thành phố Calcutta một thành phố nổi tiếng ở các quốc gia Tây phương tại đó có dì phước Têrêsa. Nhưng thành phố từ số người đông đảo chật chội cho đến muôn ngàn cái dơ bẩn, phiền phức của trời nắng của bão lụt từ vịnh Bengal thổi vào và xe cộ chạy mất trật tự v.v… khiến cho thành phố này không có lấy gì hoan hỉ đối với bản thân chúng tôi khi ở đó 3 ngày. Chúng tôi có đến thăm các ngôi chùa có đi thăm một số các di tích cũ nhưng Calcutta không bao giờ là một thành phố chúng tôi thật sự ưa thích đến ở đó. Phải nói rằng một buổi sáng trong 3,4 tiếng đồ hồ chỉ đi bộ ngang tòa Thị Chính, ngoại trừ khu thương mại chính Calcutta còn những nơi khác có trăm ngàn thứ phiền lụy. Những lúc đi lang thang trong thành phố này chúng tôi lại tự nghĩ đến một việc một thành phố đã được loài người xây dựng với chừng đó công trình xem ra còn ít có phiền lụy hơn là kiếp luân hồi, một sự dong rủi đưa đẩy chúng ta thật sự không biết cái gì sẽ xảy ra cho đời sống của mình.
Đôi lúc nghe một bi kịch xảy ra cho người khác chúng ta khen, chê hay đánh giá hay phê bình, chúng ta nói rằng người đó tài người đó giỏi. Cụ Nguyễn Du có nói “Chữ tài cùng với chữ tai một vần, chữ tâm kia mới bằng ba tài“. Cụ có nói cách gì đi nữa thì sự so sánh đó không có đáng không đủ để nói hết tất cả. Những gì thuộc về khả năng của chúng ta hết sức là nhỏ bé so với cái phiền lụy, so với cái bất trắc, so với những điều chúng ta không biết được không có tiên liệu được của kiếp người. Có thể trong một vai trò nào đó ở trong một cương vị nào đó chúng ta thấy khả năng của mình có thể di sơn đảo hải có thể an bày rất nhiều thứ của cuộc sống, nhưng chúng ta hãy nhìn lại kiếp người những quyết định quan trọng nhất của cuộc đời những khúc quanh của chúng ta những thứ đó đã đến từ sự sắp đặt liệu toan từ tài năng trí tuệ của mình hay là chỉ là sự đưa đẩy. Một trong những danh nhân được biết nhiều ở xã hội Tây Phương, ông Albert Einstein đã nói : “Nếu chúng ta làm 10 chuyện mà thành công 1 chuyện thất bại 9 chuyện kể là một chuyện đáng hoan hỉ lắm rồi”. Xác xuất về luân hồi, cái gì nằm trong khả năng, nằm trong tài trí của mình thì ít mà cái gì nằm ở trong cái bất định nằm ở trong sự đưa đẩy dong rủi thì nhiều.
HT ở chùa Ngài thường nói một câu chúng tôi rất thấm thía: “Cái gì mình có được không phải tại mình khéo giữ mà tại vì người khác chưa muốn lấy. Cái gì mình bị mất không phải vì mình bất tài mà tại vì người khác khéo lấy mà thôi.“
Thật ra, chúng ta có nhiều cách nghĩ cho dù nghĩ cách nào đi nữa chúng ta hãy nghe Tôn Giả Tissa nói, Ngài nhìn lại toàn bộ những bi kịch xảy ra trên tấm thân của Ngài, xảy ra trên giòng nghiệp lực hết sức nghiệt ngã của anh thợ kim hoàn, và xảy ra đối với toàn diện câu chuyện này thì không có ai để trách dầu là anh thợ kim hoàn, dầu là Tôn Giả Tissa, dầu là con ngỗng dầu là một đấng thiêng liêng nào đó, bi kịch thì nó bi kịch và khi bi kịch diễn ra thì chỉ có một điều nói tại cuộc sống không hoàn hảo, cuộc sống không có như ý và Ngài đã nói “Đó là lỗi của kiếp trầm luân”
Đức Phật tuy vậy trong một nhân sinh quan trong một cái nhìn Ngài nhìn từ con mắt của vị Giác Ngộ Ngài nói kệ ngôn:
Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn
2. – Điểm thứ hai:
Trong đoạn đầu chúng ta nói đến sự bấp bênh vô định của đời sống, nói đến một cái gì hầu như chúng ta chỉ lấy mắt nhìn trong đôi tay nhỏ bé của mình không thể làm gì được. Nhưng ở đây Đức Phật Ngài có nói:
Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn
Khi Đức Phật nói điều này Ngài nói lên một vị trí rất đặc biệt đó là vị trí của từng trình độ tâm linh, vị trí của những sở hành sai biệt, vị trí của người có tu và không có tu, vị trí của sự lựa chọn mà từ ở trong sự khác biệt nhìn thoáng qua thì rất nhỏ bé này nhưng lại đưa đẩy chúng ta đến nhiều vùng trời hoàn toàn khác biệt.
Thành phố St. Louis xây một cổng hình cầu vồng rất lớn, những vị kỹ sư cho biết khi họ cất một cổng hình cầu vồng như vậy từ bên này họ bắt đầu xây và bên kia họ cũng bắt đầu xây ở dưới đất chỉ chênh lệch nhau vài milimét thôi thì hai đoạn bên trái và bên phải không bao giờ gặp nhau được. Cái chênh lệch một vài milimét đó tương tự như ở trong một giây phút nào đó tâm tư của con người, người thợ kim hoàn có lý do để lo lắng, có lý do để hốt hoảng, có lý do để mất bình tỉnh, và có lý do để trở thành một con người hết sức tàn nhẫn. Bên cạnh đó chúng ta nhìn thấy hình ảnh của người vợ của người thợ kim hoàn nếu chồng mình bị rơi đầu cũng có thể mình bị rơi đầu, nếu viên ngọc bị mất thì gia đình nhà tan cửa nát, không phải chỉ có người thợ kim hoàn mới nhà tan mà người vợ người thợ kim hoàn cũng nhà tan của nát. Nhưng ở đây trong cái nóng nảy trong cái cuồng nộ trong cái lo sợ anh thợ kim hoàn đã làm một quyết định đáng tiếc cho anh và đáng tiếc cho Ngài Tissa và nó đã tạo lên một bi kịch. Người vợ mặc dầu không thay đổi được tình thế nhưng người vợ đã chạy theo năn nỉ khóc lóc khuyên ngăn hết lời, cũng sợ hãi, cũng đối diện với điều đó nhưng người vợ đã có lựa chọn khác, có lẽ là bà đã lựa chọn trong trực giác của người phụ nữ, bà đã lựa chọn trong một thái độ nặng về lòng tin hơn là lo sợ những tai họa sắp đến, bà đã có một sự lựa chọn hoàn toàn dựa trên thiện tâm của mình, cái nhỏ nhoi đó đã tạo một sự khác biệt và đã đưa hai người về hai cảnh giới khác nhau.
Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn
Khi Đức Phật nói điều đó Ngài không nói bằng cái nhìn phán quyết, Ngài không phê bình kẻ này hay kẻ kia dở, Ngài chỉ nói là có một sự thật tương ứng giữa một tâm tư và cảnh giới đi tái sanh, Ngài chỉ nói đó là một điều tự nhiên của hành trạng của mỗi cá nhân, hành trạng của mỗi chúng sanh trong cuộc đời này, kiếp người là vậy và sự lựa chọn đó đã khiến cho đạo Phật hoàn toàn khác biệt với thuyết về định mệnh.
Người ta thường cho rằng Đạo Phật nhìn cuộc đời là khổ và người Phật tử thường nói đến nghiệp quá khứ là cái gì an bày cho tất cả. Nhưng trong câu kệ này chúng ta hãy đọc lại từng giòng và đem câu kệ này so với bi kịch đó chúng ta nhìn thấy Đức Phật cho chúng ta biết ở trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải nhìn thấy tâm thiện và tâm bất thiện khác biệt. Nếu gọi là đối diện với sợ hãi thì ai cũng đối diện với sợ hãi, nếu đối diện với hiểm nguy thì ai cũng đối diện với hiểm nguy, phải nói trong những trường hợp đó mới biết người có tu hay không có tu.
Người không tu khi gặp chuyện rủi ro để bảo vệ chính mình để có thể tìm ra một giải pháp, người đó có thể trở thành bất cứ một người nào khác và họ có thể quay lưng lại với tất cả. Trong trường hợp này anh thợ kim hoàn vì quá lo sợ chết, vì quá lo sợ hậu quả của việc mất viên ngọc đã quay lưng lại với một vị Thầy, với một người bạn khả kính, với một người mình đã trao gửi niềm tin trong suốt 12 năm trời.
Điều này không phải là một điều để trách. Nhưng nói sự lựa chọn lúc đó giống như chúng ta đang đi thi. Chúng ta phải đối diện với chính mình, thử xem đạo tâm, thiện tâm, sự hiểu biết, sự bình tỉnh, và một thái độ chấp nhận hậu quả có đủ làm cho chúng ta đứng vững trên đôi chân của mình hay chúng ta sẽ cuồng loạn lên. Và ở đó không có gì để phê phán là đúng, là sai, là hay, là dở, nhưng sự lựa chọn đó sẽ đưa chúng ta đi về một hướng mà hướng đó hoàn toàn khác biệt.
3. – Điểm thứ ba:
Bây giờ chúng ta đề cập đến câu chuyện này chúng ta lại nói đến một khía cạnh quan trọng khác của đạo Phật, khía cạnh đó là thái độ thưởng phạt không có chỗ đứng trong giáo lý của Đức Phật.
Có 2 tác phẩm đã ảnh hưởng lớn đến cái nhìn của người Phật tử VN và Phật tử Trung Hoa về phương diện nhân sinh quan đó là tác phẩm Hồi Dương Nhân Quả và Ngọc Lịch Minh Kính, hai tác phẩm này đã nói rất nhiều về sự việc một người chết đi người đó sanh vào địa ngục. Theo quan niệm của tác phẩm này thì tất cả mỗi người sau khi rời khỏi trần gian này đều phải đi vào cảnh giới địa ngục để nghe sự phán xét công tội của các vị phán quan của thập điện Diêm Vương. Phải nói rằng cho đến ngày hôm nay hầu hết các tôn giáo trừ Phật Giáo ra đều xem ngày phán xét cuối cùng, ngày phán xét tận thế, ngày mở Hội Long Hoa như chúng ta nghe nhiều trong bản sấm ký của miền Nam “khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm“. Người ta nói đến ngày tận thế và ngày đó Thượng Đế sẽ luận công luận tội của mỗi cá nhân, sự luận công luận tội đôi khi không có chỗ đứng trong Đạo Phật.
Trong câu chuyện này chúng ta sẽ trách ai đây? Chúng ta có thể đem Ngài Tissa ra trách tại sao Ngài không lên tiếng, nếu Ngài lên tiếng thì con ngỗng chỉ bị giết thôi anh thợ kim hoàn sẽ không phạm ác nghiệp to lớn đó là xúc phạm đến Ngài. Chúng ta có thể trách anh thợ kim hoàn tại sao không bình tỉnh một chút đi tìm một ánh sáng nào khả dĩ mà lại quyết định vội vàng như vậy. Chúng ta có thể trách con ngỗng là đã tạo lên bi kịch đã tạo lên bao nhiêu hiểu lầm bao nhiêu cái phiền lụy cho chính thân của con ngỗng và cho Ngài Tissa kể cả cho người thợ kim hoàn.
Nhưng nếu xét đi xét lại tất cả đều do hoàn cảnh dung rủi và hoàn cảnh dung rủi đó được Ngài Tissa nói một cách cô đọng “Đó là lỗi của kiếp trầm luân“. Ở trong kiếp trầm luân thì không có chuyện gì để phán xét công và tội, để lấy cây thước đo để nói rằng như thế này như thế khác.
Chúng tôi đã đọc rất nhiều bài viết về những bi kịch xảy ra tại quốc gia nghèo, lấy ví dụ là tại các vùng sơn cước những vùng rất nghèo miền thượng du đông bắc Thái Lan cha mẹ quá nghèo con thì đông không biết phải làm gì để cải thiện đời sống gia đình, họ bán những đứa con gái của mình vào những ổ mại dâm tại thành phố Bangkok. Người ta gặp những cô gái này, những cô gái này có thể có những hành động không lương hảo, người ta có thể khinh miệt những cô gái này, nhưng một số người nào đó đã cảm thấy những cô gái này chỉ là nạn nhân, họ trách gia đình tại sao cha mẹ lại nỡ vì đồng tiền mà đi bán con của mình, rồi người ta cũng trách chính quyền đã để việc đó xảy ra, rồi người ta cũng trách xã hội là xã hội đã dung túng đã để cho những người con gái vô tội đó phải hi sinh cả cuộc đời của mình để chỉ vì một ít đồng tiền, xã hội đã không làm một việc gì khả dĩ có thể thay đổi tình thế.
Nếu gọi là trách móc thì chúng ta có nhiều chuyện để trách móc nhưng khi nhìn vào toàn diện câu chuyện dù câu chuyện xảy ra bất cứ nơi nào chúng ta thấy đôi lúc chuyện phê phán là đúng, là sai, là hay, là dở, không phải là vấn đề, nó hoàn toàn không phải là vấn đề. Đức Phật trong một cái nhìn minh triết của bậc Giác Ngộ, trong cái nhìn của vị Toàn Giác Ngài đã không nói ai hay ai dở, Ngài chỉ nói có những cảnh giới tương xứng với hạnh nghiệp. Và lời nói như vậy đã quá đủ cho bất cứ chúng ta những ai lựa chọn thái độ của đời sống.
Chúng ta trôi dạt về đâu, đến nơi nào sống, trong hoàn cảnh nào đôi lúc không phải là vấn đề phê phán. Chúng ta phải hiểu do đâu chúng ta có mặt tại đó, và có mặt tại đó thì những quyết định của chúng ta lại đưa đẩy chúng ta đến một phương trời vô định khác. Điều quan trọng nhất, chúng ta hãy nhìn vào từng quyết định của mình hơn ngồi đó để thị phi, hơn ngồi đó để nói chuyện hơn thiệt. Những hơn thiệt những thị phi của đời sống đôi lúc hoàn toàn vô nghĩa kể cả một sự phán xét ở tại đây dù sự phán xét đó là phán xét của Thượng Đế hay sự phán xét của các vị phán quan ở trong địa ngục thì những sự phán xét đó cũng không nhằm gì hết. Phán xét điều gì khi chúng ta biết một cái gì xảy ra, như người Tây Phương từng nói hễ có một cái gì trục trặc thì toàn bộ máy trục trặc và toàn thể bộ máy trục trặc thì chỉ có việc cải thiện bộ máy chứ không có cách gì để người ta ngồi đó than thở vò đầu bức tóc chửi bới trỉ trích, nói như Ngài Tissa thì đó là “Lỗi của kiếp luân hồi“.
Có nhiều ý nghĩa để học từ bài học này, một trong những ý nghĩa lớn là chúng ta có thể tìm thấy ngay cả một bậc đã giải thoát. Không lâu sau đó Tôn Giả Tissa Niết-bàn. Mặc dù người thợ kim hoàn rất hối hận khi tìm ra viên ngọc ở trong bụng con ngỗng đã khẩn khoảng thỉnh Ngài Tissa tiếp tục ở lại nhà để thọ trai, Ngài Tissa đã nhã nhặn từ tốn từ chối không phải vì Ngài giận, không có một chút bất mãn hờn giận nào trong lòng của một vị đã đoạn tận lậu hoặc, Ngài chỉ thấy một chuyện đó là đến những nơi không thích hợp có thể có những phiền lụy không cần thiết. Và Ngài đã lựa chọn một con đường ra đi thong dong như ngàn xưa Đức Phật đã dạy, ngàn xưa Chư Phật đã làm đó là mỗi buổi sáng đi chầm chậm từng nhà khất thực nếu có gì người ta cúng dường vào trong bình bát thì cảm ơn bằng sự im lặng tiếp tục ra đi, cả người cúng dường lẫn người thọ thí không có ai rảng buột ai, không có ai bị vương hệ lụy với ai và điều đó không làm cho ai phải buồn lòng. Thái độ lựa chọn của Ngài là một thái độ lựa chọn rất tự nhiên không phải vì buồn không phải vì phiền. Ít lâu sau đó Ngài đã viên tịch vì vết thương chí mạng vì bệnh hậu không thể tránh khỏi sau một cuộc tra tấn cực kỳ dã man.
Rất đau xót rất tội nghiệp cho câu chuyện này nhưng chúng tôi tin rằng nếu chúng ta xét kỹ thì tìm thấy ở trong đó cả 4 chúng sinh có liên hệ đó là Ngài Tissa, người thợ kim hoàn, người vợ của người thợ kim hoàn và con ngỗng cả 4 người đều chỉ là một sự dong rủi của kiếp trầm luân và ở trong đó nếu có điều gì được nói lên và nói một cách thích đáng một cách đẹp nhất thì câu nói đó phải là câu nói từ bậc Giác Ngộ.
Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn
4. – Kết Luận
Trước một bi kịch như vậy điều duy nhất chúng ta được nghe Đức Phật dạy tại đây chúng sinh đến đi trong cuộc đời này là sự đi đến những cảnh giới thích hợp với những hạnh nghiệp mình đã tạo và những hạnh nghiệp đó là một thể hiện của một tâm và tâm đó có khéo tu hay không khéo tu, tâm đó có đủ khả năng để giúp cho mình đối diện với những nghịch cảnh, tâm tư đó có đủ khả năng để giúp cho mình không bị nao lòng, không bị nản trí, không bị thay đổi bản chất tốt đẹp của mình hay không thì đó là một điều mình phải tự trả lời cho mình không ai có thể trả lời cho mình được điều này.
Phải có rất nhiều thì giờ để chiêm nghiệm mới hiểu được nhân sinh quan của Đạo Phật. Đạo Phật dạy cho con người sống gần với tự nhiên và ở trong một mức độ tự nhiên nào đó của nghiệp lực của duyên nghiệp thì ở đó không còn là một sự vui buồn, không còn là sự phán quyết của thương của ghét, của vui của buồn nữa. Ở đó chúng ta chỉ nhìn thấy một điều ai sống hợp với lẽ đạo, ai sống hợp với tự nhiên người đó được sự an lạc. Nếu bất cứ ai nghĩ nghiệp báo bằng quan niệm riêng tư của mình, bằng cái nhìn vui buồn của mình người đó chưa thể nào nhận được lý nghiệp báo.
Giống như trong khu vườn của mình chúng ta không thể giận cỏ dại được, chúng ta không thể giận những cây tại sao mình chăm sóc nhiều nó không chịu lớn, cỏ dại mình không chăm sóc thì lại lớn mạnh. Hễ ở đâu có điều kiện tốt cho cỏ dại thì cỏ dại tăng trưởng, ở đâu có điều kiện tốt cho cây thì cây tăng trưởng. Thay vì giận những cây hoang cỏ dại, thay vì trách móc những cây mình trồng thì mình lên làm đúng, nếu mình đúng mình có thể đạt được những gì mình muốn.
Ngày nay người ta càng chú trọng đến khoa học tự nhiên người ta càng khám phá ra nhiều lãnh vực quan trọng. Ngày xưa có những người họ đã muốn cất cánh bay xa những người khác mỉa mai nói nếu Thượng Đế quả thật muốn con người bay được đã tạo cho con người cặp cánh. Câu nói đó hoàn toàn dựa trên triết lý dựa trên niềm tin và dựa trên cảm xúc của mình. Nhưng mà rồi, con người đã biết khai thác nền khoa học tự nhiên, nếu nền khoa học này tạo thành một điểm y cứ và trên đó người ta đã thành tựu được nhiều bước tiến quan trọng trong ngành khoa học kỹ thuật và đã thay đổi toàn bộ khuôn mặt của loài người trong trái đất này thì chúng ta thấy khoa học tự nhiên đó chỉ giới thiệu cho chúng ta một phần liên quan đến vật chất.
Nhưng điều Đạo Phật gọi là tự nhiên thì tự nhiên này bao gồm cả tâm lý, vật lý, cả danh pháp, sắc pháp, cả cái mình thấy được và cái mình không thấy được. Và cái tự nhiên đó có thể ở một phương diện nào đó giống như chữ
“Đạo” trong triết lý của Lão Trang, chữ “Đạo” trong triết lý, trong những tác phẩm của kinh Vệ Đà. Chúng ta cũng nghe nói đến cái tự nhiên nó là bất cứ một phương diện gì liên quan đến cái không dự phần của vui của buồn, của cái không dự phần vào tâm muốn thống trị, tâm muốn chi phối, tâm muốn làm chủ của con người.
Nhưng mà, mỉa mai thay cho chúng ta khi chúng ta muốn làm một điều gì đó thì ý muốn là một yếu tố, và tánh chất tự nhiên của hoàn cảnh, tự nhiên của cuộc sống nó lại là một yếu tố khác.
Chỉ cho đến khi nào ý muốn đó thuận hợp với lẽ tự nhiên thì cái đó mới dẫn chúng ta đến được mục tiêu chúng ta mong muốn.
Ở đây, Đức Phật Ngài đã dạy một câu kệ mới nghe dường như chỉ là một câu trả lời về cảnh giới thọ sanh. Nhưng trong câu trả lời đó cho chúng ta thấy chúng sanh đến đi trong cuộc đời này theo hạnh nghiệp của mình và hạnh nghiệp đó dựa trên một chủ tâm tạo tác và chủ tâm tạo tác là cái quyết định hoàn toàn. Chúng ta có quyền lựa chọn mặc dù trong một hoàn cảnh hầu như không có quyền lựa chọn anh thợ kim hoàn và người vợ của anh hai người đều đối diện với một hoàn cảnh, hoàn cảnh của lo sợ hoặc hoàn cảnh của bối rối nhưng hai người đã có 2 sự lựa chọn hoàn toàn khác nhau. Vì vậy đã đưa họ về 2 phương trời hoàn toàn khác biệt./.

Thích Giác Đẳng | Nguồn: Kinh Pháp Cú Giảng Giải 2003

Tác hại của niềm tin mê lầm

Tác hại của niềm tin mê lầm

Đăng lúc: 16:08 - 05/10/2016

Khi nói đến niềm tin là nói tin về điều gì, chẳng hạn như tin theo học thuyết, triết thuyết, tin theo tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc một hệ thống tư tưởng, chủ nghĩa nào đó, tin nơi ai hoặc tin nơi chính bản thân mình (lòng tự tin, tự tín).

Tin điều gì có nghĩa là mình cho điều đó là đúng, là có thật, đặt hoàn toàn hy vọng vào điều đó, nương tựa nơi điều đó, hướng suy nghĩ và hành động theo. Niềm tin rất quan trọng và cần thiết đối với mỗi con người, tuy nhiên nó cũng mang lại nhiều tác hại nếu như đó là niềm tin sai lầm, niềm tin được xây dựng trên cơ sở nhận thức mù quáng, không sáng suốt, thiếu trí tuệ.

Một người bệnh có thể tin rằng mình sẽ khỏi bệnh nếu như gặp thầy hay thuốc giỏi và bản thân mình có mong muốn được bình phục, biết quan tâm làm theo những gì vị lương y, bác sĩ hướng dẫn. Sự lạc quan tin tưởng, niềm tin đặt đúng chỗ (đúng thầy, đúng thuốc) sẽ giúp cho người bệnh có thêm sức mạnh ý chí làm tăng sức sống, sức đề kháng bệnh tật và sự quyết tâm điều trị đẩy lùi bệnh tật. Tuy nhiên cũng trong trường hợp đó, nếu người bệnh không có lòng tin nơi thầy hay thuốc giỏi, không có lòng tin mình có thể vượt qua bệnh tật, và từ đó không nỗ lực điều trị bệnh theo hướng dẫn của vị lương y, bác sĩ, như thế thì người bệnh khó có thể đẩy lùi được bệnh tật.

Hoặc tệ hại hơn là người đó có niềm tin sai lầm (không thấy nguyên nhân của bệnh, không đi đúng hướng điều trị), đặt lòng tin không đúng chỗ (không đúng thầy, không đúng thuốc). Ví dụ như ngày xưa, khi y học chưa phát triển, gặp bất cứ bệnh gì người ta cũng rước thầy pháp về cúng, làm phép để trừ tà, kết quả là nhiều con bệnh đã mất mạng. Ngày nay cũng vậy, có nhiều người mắc bệnh tâm thần nhưng người thân không biết cứ ngỡ bị vong nhập, bị trúng tà (vì biểu hiện của một số dạng bệnh tâm thần có phần giống như hiện tượng trúng tà), lại quá mê tín nên cứ mời thầy bùa thầy pháp về làm phép đuổi tà, trấn yểm, cúng vái, cuối cùng thì tiền mất tật mang.

Niềm tin mù quáng, mê lầm có tác hại rất lớn, nó là kết quả của nhận thức cảm tính thiếu lý trí, thiếu trí tuệ sáng suốt. Ngày xưa ở một số nước có chiến tranh, nhiều tướng soái, nhiều nhà lãnh đạo chính trị, quân sự đã lợi dụng sự mê tín của người đời, giả thần giả thánh, tự xưng mình là con trời (thiên tử), tự cho việc họ làm là ý trời để thiên hạ nghe theo và không dám chống lại họ; họ ngụy tạo những bằng chứng huyền hoặc để khiến cho mọi người tin theo. Có nhiều đội quân được vẽ bùa, phù chú lên mình, được gieo vào lòng niềm tin bất bại, đao thương, súng đạn không thể làm hại, nhưng khi ra chiến trường mới biết mình tin mê lầm, họ chết gục trên chiến trận.

Có trường hợp người thủ lĩnh lợi dụng niềm tin mê tín để làm tăng thêm ý chí, sức mạnh chiến đấu của quân đội mình, nhưng cũng có trường hợp họ cũng có ảo tưởng rằng mình có phép màu bảo hộ. Tuy niềm tin đó có làm cho tinh thần chiến đấu, sức mạnh chiến đấu tăng cao, nhưng hậu quả của nó là làm cho họ chủ quan, khinh suất, không nhận thấy rõ thực lực của mình và của quân địch, từ đó dẫn đến thất bại.

Niềm tin trong tôn giáo, tín ngưỡng cũng vậy. Có những niềm tin giúp con người hướng đến điều lành điều thiện, mạnh dạn làm các việc có ích cho cá nhân, cộng đồng xã hội, nhân loại, chúng sinh. Nhưng có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người. Nó khiến con người tàn hại lẫn nhau, mất hết lý trí, khiến con người đánh mất chính mình, lệ thuộc vào những điều huyền hoặc, không tưởng, lệ thuộc vào những thế lực siêu hình do con người tưởng tượng ra, không còn ý chí, không còn tự chủ; khiến con người nô lệ cho vô minh, dục vọng, làm những chuyện tàn ác, điên rồ mà cho là làm theo chân lý, làm đúng với lẽ phải, đúng với quy luật vũ trụ.

Những niềm tin u mê này đến mức cực đoan sẽ gây ra chiến tranh, kỳ thị tôn giáo, tín ngưỡng, gây ra thù hằn, oán ghét lẫn nhau. Bởi thế cho nên, đối với vấn đề niềm tin cần phải hết sức thận trọng.

Khi con người chưa hiểu biết nhiều về thế giới, người ta không có khả năng lý giải các hiện tượng đời sống, các hiện tượng tự nhiên, cho nên tin rằng có đấng tạo hóa, có các thần linh sáng tạo ra thế giới, điều hành thế giới, tưởng tượng ra thần mặt trời, thần mặt trăng, thần mây, thần mưa, thần gió, thần núi, thần sông, thiên lôi, hà bá v.v…

Bất cứ điều gì cũng cho là ý trời sắp đặt, họa phước, thành bại, được mất, cơm ăn áo mặc, hạnh phúc, khổ đau… đều do ông trời và các thần linh ban cho, nhưng kỳ thực thì con người phải làm mới có ăn, phải lao động sáng tạo từ đời này sang đời khác mới có được thế giới như ngày nay, chứ không phải thượng đế và các thần linh ban cho hay tự dưng mà có. Sự thật sờ sờ trước mắt, nếu ông trời và các thần linh ban cho thì con người khỏi phải làm gì cả cũng có cuộc sống tốt, và những ai tin tưởng tuyệt đối vào ông trời và thần linh hẳn đã được bình an, sung sướng, hạnh phúc hơn những ai không tin.

Tuy nhiên không ít người vẫn chấp nhận nô lệ cho niềm tin mù quáng để rồi đánh mất ý chí, đánh mất niềm tin nơi chính mình, lệ thuộc thần quyền trong khi thần quyền là không có thật.

Không phải những ai thờ cúng, tín ngưỡng ông trời và các thần linh, vật linh cũng đều giàu sang, an vui, hạnh phúc, và không phải những ai không có niềm tin đó cũng nghèo khó, khốn khổ, bất hạnh. Sự thật là thế, quá rõ ràng nhưng vẫn có người không thấy.

Sự mê tín của con người vẫn không giảm mặc dù xã hội đã tiến bộ nhiều, thậm chí còn có chiều hướng tăng cao. Những thành phần bất hảo lợi dụng sự mê tín mà ra sức trục lợi. Mê tín dị đoan, tà thuyết ngoại đạo nổi lên khắp nơi khiến cho tâm trí con người điên đảo.

Ngay cả ở châu Âu, châu Mỹ, các nước được xem là văn minh tân tiến vẫn đầy dẫy tệ nạn mê tín dị đoan, các giáo phái cuồng tín lợi dụng sự tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo mà hoành hành. Còn các nước có truyền thống văn hóa phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam v.v… thì đi đến đâu cũng thấy có hiện tượng xin bùa xin phép, bói toán, coi tuổi tác, ngày tháng tốt xấu, ngồi đồng nhập cốt, đi đến đâu cũng thấy cúng bái sì sụp, cúng ông trời - thần linh, cúng nhà cửa - đất đai, cúng xe cộ - thuyền bè, cúng trên bờ - dưới sông, cúng người chết, cúng vật linh, cúng âm binh - cô hồn, có khi cúng ai cũng không biết, cứ bày nhang đèn, vàng mã, vái lạy bốn phương tám hướng mà cầu sự bình an, hưng thịnh.

Nếu chỉ đặt niềm tin vào sự cầu cúng, trông cậy vào thần thánh, ma quỷ, không siêng năng cần cù lao động, học tập, trau giồi kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn thì việc làm ăn, kinh doanh buôn bán không thể nào phát triển được. Nếu không có nhân phẩm đạo đức tốt, không có quan niệm, lối sống tích cực thì cuộc sống sẽ bất an, đau khổ. Không có ông trời, thần linh hay ma quỷ nào che chở, bảo hộ hoặc ban phước giáng họa cho được.

Ở Việt Nam, từ khi hiện tượng ngoại cảm được giới khoa học công nhận thì các nhà ngoại cảm rầm rộ nổi lên, thật có, giả có, ảo tưởng mình là nhà ngoại cảm cũng có. Còn người dân thì tin người cõi âm có thể liên hệ với người còn sống, có thể tác động, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của mình, từ đó ra sức cúng bái, cầu khẩn sự gia hộ, giúp đỡ. Nghĩ tưởng đến những người quá cố, người thân người thương, người có ân nghĩa, công đức thì tốt, nhưng hướng về người quá cố vì sợ họ làm hại mình hoặc vì cầu sự chở che, gia hộ thì quả là việc làm mê tín.

Trong một số trường hợp vong linh người chết có thể liên hệ với người còn sống (trong điều kiện nhân duyên như thế nào đó mà có sự tương thích), nhưng những trường hợp này rất ít, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là các vong linh có thể tác động, ảnh hưởng đến cuộc sống của người mà họ yêu thương hoặc oán ghét.

Nếu các vong linh ở cõi âm có thể tác động, ảnh hưởng đến người sống thì thế giới này từ lâu đã không an ổn, đã loạn lên rồi. Bởi vì trong lịch sử đã có biết bao cuộc chiến tranh diễn ra, thù hận chất chồng, nếu các vong linh người chết có thể làm hại kẻ thù của họ thì những người còn sống đã sống không yên. Giữa con người với con người, ân oán tình thù đầy dẫy, nếu sau khi chết rồi mà các vong linh có thể can thiệp vào thế giới người còn sống thì chắc chắn thế giới loài người từ lâu đã rối loạn, đã xuất hiện nhiều điều kinh khủng, quái dị lắm.

Người nào cũng có tổ tiên, ông bà, người thân quá cố, nhưng nếu chết rồi mà vong linh những người quá cố còn tồn tại mãi ở cõi âm nào đó và có thể tiếp xúc, can thiệp vào cuộc sống của người thân, nếu họ có thể giúp cho những người đó được bình an, được sang giàu, được may mắn, hạnh phúc thì trên thế gian không ai gặp rủi ro, bất hạnh, khổ đau cả, bởi vì ai cũng có người thân quá cố chở che, phù hộ. Nhưng sự thật thì không phải thế, sống trên đời ai cũng gặp khó khăn cả, không gặp khó khăn này cũng gặp khó khăn khác, không gặp nỗi khổ này cũng gặp nỗi khổ khác, không ai khỏe mạnh mãi mà không ốm đau, không ai luôn may mắn mà chưa từng gặp rủi ro bất trắc, không ai thành công mà chưa một lần thất bại v.v… Vậy rõ là người chết không thể can dự vào cuộc sống của chúng ta.

Con người sống không thể không có niềm tin, nhưng niềm tin đó phải là Chánh tín, được xây dựng trên cơ sở Chánh kiến, sự thấy biết chơn chánh, nhận thức đúng đắn, có chiều hướng tích cực, phù hợp với chân lý và quy luật cuộc sống. Nếu niềm tin gây tác hại, ảnh hưởng xấu, làm trở ngại cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, gieo bất an, khổ não cho con người thì tuyệt nhiên đó không phải là niềm tin chơn chánh, cần loại bỏ.

Phan Minh Đức

Chết do tai nạn sẽ tái sinh về đâu?

Chết do tai nạn sẽ tái sinh về đâu?

Đăng lúc: 21:51 - 30/09/2016

Những cái chết bất thình lình, bất đắc kỳ tử, đột tử do các tai nạn thật oan uổng nhưng luôn rình rập, đe dọa con người. Trong các trường hợp này, sự chết ập đến rất nhanh và đa phần các nạn nhân đều hoảng loạn trước khi chết.



Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigroda. Rồi Mahànàma đi đến, sau khi đảnh lễ, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:
Kapilavatthu này, bạch Thế Tôn, rất phồn vinh, dân cư đông đúc, quần chúng chen chúc, chật hẹp. Bạch Thế Tôn, sau khi hầu hạ Thế Tôn hay các Tỷ kheo đáng kính, vào buổi chiều, con đi vào Kapilavatthu, con gặp con voi cuồng chạy, con gặp con ngựa cuồng chạy, con gặp người cuồng chạy, con gặp cỗ xe lớn cuồng chạy, con gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy. Trong khi ấy, bạch Thế Tôn, tâm con nghĩ đến Phật,Pháp và Tăng bị hoang mang. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: Nếu lúc ấy con mệnh chung, thời sinh thú của con là gì, sinh xứ đời sau là chỗ nào?

Chớ có sợ, này Mahànàma! Không ác là cái chết của ông! Này Mahànàma, với những ai đã lâu ngày tâm tu tập trọn vẹn về tín, về giới, về sở văn, về thí xả, về trí tuệ; với những người ấy, dầu sắc thân này bị vô thường phá hoại, tan nát, hoại diệt, nhưng nếu tâm vị ấy được tu tập lâu ngày trọn vẹn về tín, giới, sở văn, thí xả và trí tuệ thì tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng.

Ví như, này Mahànàma, một người nhận chìm một ghè dầu vào trong hồ nước sâu và đập bể ghè ấy. Ở đây, các mảnh ghè vì chìm xuống nước nhưng dầu thì nổi lên, trồi lên trên. Cũng vậy, với ai đã lâu ngày tâm được tu tập trọn vẹn về tín, giới, sở văn, thí xả và trí tuệ; với những người ấy, dầu sắc thân này bị vô thường phá hoại, tan nát, hoại diệt, nhưng nếu tâm vị ấy được tu tập lâu ngày
trọn vẹn về tín, giới, sở văn, thí xả và trí tuệ thì tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng.

LỜI PHẬT DẠY TRONG KINH TẠNG NIKÀYA 343
(ÐTKVN, Tương Ưng Bộ V, chương 10, phẩm Saranàri,
phần Mahànàma [1], Nxb Tôn Giáo, 2002, tr.539)

LỜI BÀN:
Cuộc sống của con người luôn đồng hành với vô vàn biến động, bất trắc. Thiên tai, địch họa, bệnh tật cùng với các tai nạn lao động, giao thông, hỏa hoạn… từng phút, từng giây đã cướp đi rất nhiều sinh mạng. Thân người thật mong manh, dễ vỡ, dù thận trọng đến mấy thì không ai dám xác quyết rằng ta sẽ an toàn trong những giây phút tiếp theo.

Những cái chết bất thình lình, bất đắc kỳ tử, đột tử do các tai nạn thật oan uổng nhưng luôn rình rập, đe dọa con người. Trong các trường hợp này, sự chết ập đến rất nhanh và đa phần các nạn nhân đều hoảng loạn trước khi chết. Ðối với người ít tu tập thì chính điều này đã tạo ra cận tử nghiệp bất thiện, ảnh hưởng không tốt đến xu hướng tái sinh.

Tuy nhiên, theo tuệ giác của Thế Tôn, những ai đã tu tập lâu ngày trọn vẹn về tín, giới, sở văn, thí xả và trí tuệ thì dẫu bị hoang mang, không giữ vững chánh niệm trước lúc chết do tai nạn quá bất ngờ nhưng với nền tảng tu tập vững chắc, trọn vẹn đối với các thiện pháp, nhờ thiện nghiệp sâu dày sẽ giúp họ đi đến chỗ thù thắng, tái sinh vào cõi lành, không hề bị đọa lạc.

Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp. Sự chuẩn bị này sẽ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa thiết thực cho đời sống hiện tại và cả những cái chết bất ngờ, nếu có, ở tương lai.

Quảng Tánh

Biệt nghiệp & cộng nghiệp

Biệt nghiệp & cộng nghiệp

Đăng lúc: 05:34 - 19/09/2016

HỎI: Xin hỏi quý Báo, tại sao trong một gia đình, cha mẹ làm ác và hậu quả thì con cái lại gánh? Đúng ra thì ai làm nấy chịu chứ! Trường hợp khác, tại sao cha mẹ giàu mà con cái lại nghèo, và ngược lại con cái giàu mà cha mẹ lại nghèo?

(VĂN GIÁP, vovangiapalgiap@gmail.com)

ĐÁP:

Bạn Văn Giáp thân mến!

Theo giáo lý Nghiệp của đạo Phật, mỗi người đều thừa tự nghiệp của chính mình. Nghiệp là những tạo tác, hành động có tác ý. Nghiệp do mình tạo ra và trở lại chi phối chính mình. Nghiệp có biệt nghiệp (nghiệp riêng) và cộng nghiệp (nghiệp chung). Hai loại nghiệp này có liên hệ mật thiết, tương tác lẫn nhau.

Xét về biệt nghiệp thì dĩ nhiên ai làm nấy chịu, không ai có thể chịu thế cho ai. Khi cha mẹ làm ác thì chính họ sẽ chịu quả báo. Sở dĩ “cha mẹ làm ác và hậu quả thì con cái lại gánh” là do cộng nghiệp. Con cái có liên hệ cộng nghiệp với cha mẹ, nên những nghiệp thiện hay ác mà cha mẹ tạo ra sẽ tác động tốt hay xấu lên con cái. Và ngược lại, những nghiệp thiện hay ác mà con cái tạo ra sẽ tác động tốt hay xấu lên cha mẹ.

Trường hợp “cha mẹ giàu mà con cái lại nghèo, và ngược lại con cái giàu mà cha mẹ lại nghèo” là trong cộng nghiệp có biệt nghiệp. Cộng nghiệp là cả gia đình nhưng mỗi người có một biệt nghiệp khác nhau. Thế nên trong cùng một gia đình nhưng mỗi người lại có một đặc điểm giàu nghèo khác biệt nhau.

Chúc bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN

Người chết có hưởng được các phẩm vật cúng thí?

Người chết có hưởng được các phẩm vật cúng thí?

Đăng lúc: 18:25 - 03/09/2016

Không biết tự bao giờ, trong sanh hoạt dân gian, tháng Bảy được xem là tháng cô hồn. Rất nhiều chùa viện và rất đông những gia đình tổ chức cúng thí trong tiết trời tháng Bảy ảm đạm bởi những ngày mưa ngâu, làm cho không khí càng thêm u uẩn.

Chúng ta hẳn đã không ít lần tự hỏi, không biết người chết có hưởng thọ được gì hay không trong những lần ma chay, kỵ giỗ, trai đàn, cúng thí ấy, mà có khi là mâm cao cỗ đầy, có khi chỉ là vài chén cháo lá đa, một ít gạo muối?

Phạm chí Sanh Văn cũng có tâm trạng đó khi người thân của ông qua đời. Sanh Văn, 生 聞, tên tiếng Pāli là Jāṇussonī, được kể là một trong số những Bà-la-môn lỗi lạc đương thời Phật. Ông ở tại Xá-vệ và thường đến gặp Đức Phật để thảo luận. Sanh Văn cũng chính là người lần đầu tiên nghe kể về Đức Phật đã từ trên xe bước xuống, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hướng về rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc ba lần làm lễ: “Nam-mô Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác” 1.

Một hôm, Sanh Văn có người thân qua đời. Ông tổ chức ma chay, mở đàn cúng thí, nhưng lòng tự hỏi không biết việc mình làm có lợi ích gì cho người thân hay không, liền đến chỗ Thế Tôn, bạch hỏi: “Thưa Cù-đàm, con có người thân tộc rất thương mến, bỗng nhiên qua đời. Con vì người ấy nên bố thí với tín tâm. Thế nào, bạch Thế Tôn, người ấy có nhận được không?” 2.

Câu hỏi ấy thật đúng với tâm trạng của không biết bao nhiêu người!

10173626_564213897030741_1954872959145839987_n.jpg
Đức Thế Tôn khẳng định có một loài chúng sanh có thể nhận được sự ủy lạo của loài người bằng cách
cúng thí, đó là chúng sanh trong đường ngạ quỷ

Những đối tượng không nhận được lễ phẩm cúng thí

Đức Phật cho biết: “Nếu người thân tộc của ông sanh vào trong địa ngục, nó sẽ ăn thức ăn của chúng sanh địa ngục để nuôi sống sanh mạng của nó, chứ không nhận được đồ ăn thức uống mà ông bố thí dù với tín tâm. Nếu nó sanh vào súc sanh, hoặc loài người, họ sẽ được đồ ăn thức uống của súc sanh, loài người, mà không nhận được đồ do ông bố thí” 3.

Kinh Tăng chi bộ giải thích rõ ràng hơn: “Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào địa ngục, ăn món ăn của chúng sanh ở địa ngục ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở nơi đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.

Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh... có tà kiến. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào loại bàng sanh. Món ăn của chúng sanh ở bàng sanh ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ; trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.

Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có tâm sân hận, có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh cộng trú với loài Người. Món ăn của loài người như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.

Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh... có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với chư Thiên. Món ăn của chư Thiên như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy” 4.

Như vậy, nếu người chết đã tái sanh vào các cảnh giới địa ngục, súc sanh, người và trời thì không nhận đồ ăn thức uống, cho đến áo quần, nhà cửa, xe cộ, điện thoại… do người thân cúng tế.

Những đối tượng nhận được lễ phẩm cúng thí

Nhưng nếu người chết rơi vào đường ngạ quỷ thì họ sẽ nhận được các thực phẩm cúng thí. Kinh ghi: “Này Bà-la-môn, trong đường ngạ quỷ có một nơi tên là Nhập xứ ngạ quỷ. Nếu người thân tộc của ông sanh vào trong Nhập xứ ngạ quỷ kia, thì sẽ nhận được thức ăn của ông”5.

Nhập xứ được giải thích là sanh vào thân trung ấm. Nếu thân trung ấm sanh vào đường ngạ quỷ thì gọi là ‘đắc nhập xứ’, tức báo xứ (của thân trung ấm) là ngạ quỷ. Cha mẹ cùng bà con quyến thuộc sanh vào đường ngạ quỷ (khi đang ở tình trạng thân trung ấm ngạ quỷ và khi đã sanh vào báo xứ ngạ quỷ) mới nhận được sự cúng thí 6.

Kinh Tăng chi bộ giải thích rõ ràng: “Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh... có tà kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi ngạ quỷ. Món ăn của chúng sanh ngạ quỷ như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào các bạn bè, hoặc thân hữu, hoặc bà con, hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hiến cúng cho vị ấy, tại đấy vị ấy sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy” 7.

Như vậy, Đức Thế Tôn khẳng định có một loài chúng sanh có thể nhận được sự ủy lạo của loài người bằng cách cúng thí, đó là chúng sanh trong đường ngạ quỷ, tức là ma giới. Hẳn nhiên, lễ phẩm cúng thí phải là thứ ăn uống được, chứ không phải là hàng mã!

Phước báo của sự cúng thí

Trường hợp người cúng thí, gia chủ không có cha mẹ hay bà con quyến thuộc trong đường ngạ quỷ thì sự bố thí đó cũng có phước báo: “Giả sử ông vì những thân tộc quen biết mà bố thí, nhưng họ không sanh vào trong chốn ngạ quỷ và lại cũng không có những người quen biết khác sanh vào chốn ngạ quỷ, thì việc bố thí do lòng tin, tự mình sẽ được phước. Của bố thí do lòng tin của người thí chủ đó, sẽ không mất”. Kinh phân tích:

“Giả sử có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy sau lại phát tâm bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn,... cho đến những kẻ ăn xin bần cùng, đều bố thí tiền tài, áo quần, chăn mền, đồ ăn thức uống, đèn đuốc, những vật dụng trang nghiêm. Người ấy do sát sanh, lấy của không cho…, sẽ đọa lạc vào trong loài voi, nhưng vì người ấy đã từng bố thí…, nên tuy ở trong loài voi, nhưng cũng nhận được phước báo nhờ họ đã bố thí, từ quần áo, đồ ăn thức uống cho đến những vật dụng trang nghiêm.

“Nếu lại sanh vào các loài súc sanh như trâu, ngựa, lừa, la v.v... nhưng cũng nhờ vào công đức thí ân trước, nên họ ắt sẽ nhận được phước báo kia tùy theo chỗ sanh tương ứng mà được thọ dụng.

“Này Bà-la-môn, nếu thí chủ kia lại trì giới, không sát sanh, không trộm cướp,... cho đến có chánh kiến, và bố thí cho các Sa-môn, Bà-la-môn,... cho đến những kẻ ăn xin nào là tiền của, áo quần, đồ ăn thức uống, đèn đuốc, thì nhờ công đức này mà sanh trong loài người, ngồi hưởng thụ phước báo này, từ áo quần, đồ ăn thức uống... cho đến những vật dụng như đèn đuốc.

“Lại nữa, này Bà-la-môn, nếu họ lại trì giới, thì sẽ được sanh lên cõi trời, vì họ nhờ vào những thí ân nên được hưởng những thứ phước báo về tài bảo, áo quần, đồ ăn thức uống,... cho đến những vật dụng trang nghiêm cõi trời” 8.

Như vậy, một khi gia đình chúng ta có người thân qua đời, chúng ta phát tâm thanh tịnh cúng kính hay bố thí, cúng dường cho Tăng Ni hoặc cho người nghèo khổ, thì dù người thân đã mất của chúng ta không nhận được, bản thân của chúng ta cũng được phước báo trong mọi trường hợp.

Một sự thật là chúng ta không ai biết được người thân của mình sau khi chết đã sanh vào đường nào của lục đạo. Do đó, để tri ân người đã mất, nhất là cha mẹ, bà con thân thuộc của mình, cùng với những anh hùng liệt sĩ đã hy sanh cho tổ quốc, để họ khỏi đói lạnh, bơ vơ, để họ khỏi tủi thân vì chẳng còn ai thương nhớ… chúng ta nên làm lễ kỳ siêu cúng thí cho họ, hoặc mở hội bố thí rồi hồi hướng công đức cho họ. Vì rằng, trong bất cứ trường hợp nào, người thân của chúng ta đã tái sanh về đâu, việc làm ấy đều có phước báo cho chính bản thân mình!

Cúng thí là một trong những cách bố thí cho người đã chết. Vì vậy hãy bố thí những gì mà họ ăn uống được, đừng bố thí thức ăn giả và càng không nên đốt các loại vàng mã như nhà cửa, xe hơi, điện thoại, tiền vàng… để bố thí cho họ. Ngoài ra, với tâm thanh tịnh chúng ta cúng dường cho Tăng Ni, biếu tặng cho người nghèo khổ, hoặc làm các thiện sự như bắc cầu, đào giếng, đắp đường, trồng cây… đều là những việc làm bố thí đưa tới phước báo cho chính bản thân mình và cũng có thể hồi hướng công đức ấy cho người thân đã qua đời.

Thích Nguyên Hùng

Ăn chay - ăn mặn có tạo nghiệp ác như nhau?

Ăn chay - ăn mặn có tạo nghiệp ác như nhau?

Đăng lúc: 15:33 - 06/08/2016

Con có một câu hỏi mong quý báo giải đáp gấp dùm con với ạ. Có một người nói thực vật và động vật đều có sự sống, nên ăn vào sẽ tạo nghiệp ác như nhau? Vậy con phải giải thích sao cho họ tin tưởng ăn chay là không sai,để họ tin tuyệt đối mà ăn chay đây ạ
Con xin cảm ơn ạ!

(Tài trọng facebook)
Ăn chay - ăn mặn có tạo nghiệp ác như nhau?
Bạn Tài Trọng thân mến!
Chúng tôi rất đồng cảm câu hỏi của bạn.
Ăn chay là nuôi dưỡng lòng từ bi, bởi vậy Phật giáo Đại thừa khuyên con người ăn chay để bớt giảm việc sát sanh, thay vì ít người ăn thì người ta ít giết, nếu số đông ăn thịt động vật như thịt trâu, dê, bò, gà thì nơi giết mỗ sẽ tăng lên.
Song đó việc ăn chay thực vật sự sống vô tri không có tình thức như động vật, việc ăn chay không thể tạo nghiệp như ăn mặn giết vật được. Việc ăn chay ăn mặn không liên quan gì việc tạo nghiệp ác như nhau, người ăn chay mà tạo ác, người ăn mặn không tạo ác, vậy việc ăn chay ăn mặn không liên quan đến sự giải thoát và giác ngộ.
Chúng tôi đề cập đến giới luật này khi nói về luật Tam Tịnh Nhục của Ðức Phật quy định về ăn thịt. Ba điều kiện này đòi hỏi không được chứng kiến công việc giết mổ, không được nghe nói thịt đó được giết mổ (để cung cấp cho người trong cuộc), và ngay cả khi không có thông tin như vậy thì cũng không có gì phải nghi ngờ về hai trường hợp trên (nghĩa là mắt, tai và tâm ý phải thõa mãn được "sự vô can" về món thịt đó).

Các kinh văn Pàli đã phân biệt có hai loại thịt, gọi là "uddissakatamasa" và "pavattamasa". Danh từ thứ nhất - uddissakatamasa - được dùng để chỉ loại thịt được giết mổ chỉ dành riêng cho một người tiêu thụ nào đó. Loại thịt này không được luật Tam tịnh nhục cho phép ăn. Cho dù không xác minh, một tiêu chuẩn thô sơ có thể dùng để xác định loại thịt này là do người giết mổ đã có ý định rõ ràng chỉ dành riêng cho một người cá biệt nào đó sử dụng, và nếu như người đó sử dụng thì không những người đó cùng chia sẻ thịt không mà thôi, mà còn chia sẻ cả những hậu quả nghiệp chướng gắn liền với việc cung cấp loại thịt đó.

Chính bạn làm thiện sẽ gặt hái thiện, ăn mặn làm thiện gặt hái thiện, ăn mặn ăn chay làm ác sẽ gặp ác. Không giống nhau điều gì cả, ai làm gì mắc quả đó. Nếu ăn chay được thì tốt, không nên nói việc tạo ác nghiệp giống nhau. Tạo hay không do chính bản thân bạn nhé!

Hạo Nhiên

Muộn chồng hay vợ có thực là do duyên âm?

Muộn chồng hay vợ có thực là do duyên âm?

Đăng lúc: 17:41 - 04/08/2016

Hiện nay, không ít trai thanh nữ tú muộn tuổi dựng vợ gả chồng thường đi xem bói, các thầy đều phán chung chung rằng do duyên âm với người kiếp trước còn nặng. Bởi vậy, không ít người phải chi một khoản tiền lớn để "cắt tiền duyên", mong xây dựng được gia đình… Dân gian gọi đó là "duyên âm", "tình duyên" từ kiếp trước. Vậy duyên âm, tiền duyên có thực sự tồn tại hay chỉ là những băn khoăn trong cơn mê mị nhất thời?.
Muộn chồng có thực là do duyên âm?
Ảnh minh họa
Mối nhân duyên khiến cuộc sống lao đao
Các chuyên gia nghiên cứu về tâm linh cho rằng, tiền duyên là những mối nhân duyên của một người trần tục với người ở thế giới khác từ những kiếp trước đây. Nó được phân định thành hai dạng là tình duyên giữa người trần và những người ở thế giới khác từ những kiếp trước còn ảnh hưởng đến bây giờ, thường gọi là tiền duyên. Dạng thứ hai là tình duyên hiện tại giữa người trần và những người ở thế giới khác (thường là với các vong hoặc tà), thường được gọi là duyên âm.
Giải thích về vấn đề này, GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu, tác giả cuốn sách Khoa học và vấn đề tâm linh cho rằng, linh hồn tồn tại bất tử sau khi chết.
Nhiều nhà nghiên cứu các kiến thức y học Đông Phương và Tây phương đều cho rằng, cấu tạo con người gồm 7 phần: Cơ thể thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có thể xác là hữu hình được y học chính thống giảng dạy (năng lượng đặc). Sáu phần còn lại là năng lượng không đặc (vía) như thể xác. Khi chết chỉ là phần thể xác mất đi. Sáu phần còn lại mãi và giữ được nhân cách của con người - linh hồn.
GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu cho biết, một công trình điều tra của Viện Gallup (Mỹ) trên 12.000 người đã từng cận tử và chết lâm sàng cho hay, trong lịch sử tồn tại của loài người đã có khoảng 70 tỷ người đi qua cửa tử, tức là nhiều gấp 10 lần dân số thế giới hiện nay cho kết quả: Sau khi chết con người từ cõi trần vào cõi trung giới vô hình. Cõi này gồm 7 cảnh giới khác nhau từ nhẹ đến nặng.
Tùy theo nhân cách tư tưởng, đạo đức, lối sống của mỗi người khi sống mà sau khi chết họ ở cảnh giới tương ứng. Đa số vong linh có hình dáng như khi sống nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi trần.
Đặc biệt, theo công bố của một tiến sỹ người Anh chuyên nghiên cứu và đã có 10 năm tu luyện ở Viện Lạt – ma Tây Tạng cho hay, đối với một số người chết yểu, bất đắc kỳ tử, vong linh không chấp nhận mình đã chết, cố bám lấy sự sống ở trên đời. Vì thế, họ cứ nguyên trạng giống như khi còn sống, trong khi họ ở cõi âm.
Duyên âm thường xảy ra ở những người lúc còn sống có thú tính mạnh mẽ. Sau khi chết, hình dáng vong linh của họ biến đổi theo tư tưởng luôn oán hận, ham muốn, thường hay tìm cách trở về cõi trần theo "người cũ" hoặc một ai đó. Cũng có trường hợp tìm dục tính ở nơi buôn hương bán phấn và rung động theo những khoái cảm của những cặp trai gái...
Hầu hết ai cũng có tiền duyên
GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu cho biết, theo Phật giáo, chúng ta có kiếp luân hồi. Khi được chuyển kiếp người ta vẫn lưu giữ những ký ức về kiếp trước. Theo nghiên cứu của những người đã trải nghiệm cận tử (chết đi sống lại), địa vị xã hội không quan trọng sau khi chết. Chỉ có tình cảm với người khác là khó quên nhất. Khi sống, hầu hết con người ta ai cũng có tình cảm khác giới.
Ngoài tình cảm vợ chồng thì còn có những mối tình nam nữ. Nhưng vì một lý do nào đó mà họ không thành vợ chồng hoặc là vợ chồng rồi nhưng không được ở lâu dài với nhau... Vì thế, ai cũng có sự nhớ thương hoặc nếu bị phản bội, đối xử quá tệ bạc thì sẽ trở thành hận tình.
Tình yêu có sức mạnh vô biên, sức mạnh ấy đưa những linh hồn này đi tìm người mà mình yêu hiện đang sống ở trần tục để giúp đỡ hoặc cản trở, phá hoại (ghen) khiến người trần tục không thể lấy chồng hoặc lấy vợ. Nếu người trần tục vẫn lấy chồng hoặc lấy vợ được thì tìm cách phá hoại hạnh phúc của đôi vợ chồng này.
Từ trước đến nay người trần tục chỉ nghĩ rằng, những người không lấy được vợ hoặc chồng hay rất khó khăn trong việc tìm vợ tìm chồng thì mới có tiền duyên. Theo một vài nghiên cứu thì hầu như ai cũng có tiền duyên. Chỉ có điều, những tiền duyên đó đã ảnh hưởng tới cuộc sống tình cảm vợ chồng hiện nay đến mức nào.
Nhưng quan niệm về “duyên âm” không chỉ dừng lại ở những “phiền toái” xuất hiện ở chuyện tình duyên mà theo thạc sỹ Vũ Đức Huynh, tác giả của hơn chục cuốn sách về tâm linh và cổ học phương Đông cho biết, “ông bà tổ tiên phù hộ” cũng là một dạng thức “duyên âm”.
Ông lý giải rằng người chết chưa phải là hết mà vẫn còn phần hồn. Người và vong hồn luôn còn mối quan hệ giao thức sóng do cùng có nguồn gốc tần số xung động nào đó của các dòng hạt điện sinh học. Vong hồn nào cũng còn mối quan hệ giao thức với thân nhân tiền kiếp. Dân gian có quan niệm "ông bà tổ tiên phù hộ" chính là bắt nguồn từ điều này.
“Khắc phục” duyên âm
Việc nợ tiền duyên có muôn hình vạn trạng. Người còn bị nợ tiền duyên phải biết chính xác việc mình còn nợ nần như thế nào thì trả mới được đúng. ThS. Vũ Đức Huynh cũng cho biết, cắt tiền duyên chính là làm phép để cho vong hồn tỉnh ngộ mà rời cõi trần quay về cõi vong để tu luyện lên các bậc cao hơn.
Cắt tiền duyên là để cầu siêu cho linh hồn. Từ cổ chí kim đã có tục lệ cầu siêu cho oan hồn. Cầu siêu có sức mạnh tư tưởng mãnh liệt bất kể đối với người theo một tôn giáo hay một người vô thần. Liên hiệp quốc cũng làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân thảm họa quốc tế.
Cầu siêu không đòi hỏi nghi thức cầu kỳ, chỉ cần thành tâm và tiến hành trong 49 ngày đầu sau khi chết là lúc người chết đang ở trong trạng thái bất định, hoang mang, sự cầu nguyện khiến họ được an ủi, linh hồn trở nên sáng suốt hơn, để siêu thoát.
Như đã đề cập, phải tùy tình trạng nợ duyên đó như thế nào mà làm hình nhân thế mạng, thế duyên để trả nợ duyên. Có khi chỉ cần 1 hình nhân là đủ, nhưng cũng có thể phải cần đến 3-4 hình nhân thế mạng, thế duyên mới đủ. Lễ trả nợ tiền duyên được thực hiện tại các đền thờ Thánh Mẫu ở trong các Chùa, Các Đền, Điện, Phủ khác ngoài Chùa. Người có thể làm việc này là các Pháp Sư, Đồng Thầy Tứ Phủ, Thầy cúng Tứ Phủ.
Bên cạnh đó, nhiều người tìm hiểu chuyện hôn nhân trong tương lai hoặc hôn nhân hiện tại, thấy đoán số nói rằng “hai lần đò". Đây chính là trường hợp của những người nợ tiền duyên, những người nợ cô thần, quả tú hoặc là cả hai trường hợp đó mà chưa biết cách làm lễ trả.
Nhưng nhờ Duyên Phận Nhân Quả mà đến vận được kết hôn.Việc chung sống theo đó đương nhiên không thể nào hạnh phúc lâu dài, khó tránh khỏi sự rạn nứt tình cảm và tan vỡ hôn nhân...
Để tránh được điều này, theo quan niệm phải "cưới hai lần" để "giải ân, giải nợ". Làm đám cưới hai lần sẽ tránh được nghiệp Quả tiền Duyên. Nghĩa là tránh được sự ly tán, tan vỡ hạnh phúc gia đình. Đây là việc làm thuận theo hướng dẫn của Thiên Quy. Người cõi Âm dù còn vướng mắc ân tình với người Dương thế cũng không đi theo quấy quả nữa.
Mặc dù vẫn chưa hề được giải mã chặt chẽ, khoa học nhưng những câu chuyện về duyên âm vẫn đã và đang tồn tại từ đời này sang đời khác. Sự thật về sức ảnh hưởng, tốt xấu hay phiền toái đến đâu vẫn chưa được xác thực nhưng nét tín ngưỡng này đã mang đến màu sắc lý thú cho nền văn hóa Việt.
Còn nữa…
Bình luận 0 Hạnh Lê

Tôn trọng sự sống của thai nhi

Tôn trọng sự sống của thai nhi

Đăng lúc: 08:35 - 03/08/2016

Chưa bao giờ nạn phá thai xảy ra hàng ngày, rất nhiều và đơn giản như chuyện chơi. Mạng sống của thai nhi rất mong manh và đáng sợ hơn nữa, trong nhiều trường hợp thai nhi không được chào đời, chỉ vì mẹ nó, hay cha mẹ nó không thích, không muốn. Chỉ với một ý niệm vô cùng giản đơn như thế là kết thúc một mầm sống một cách dễ dàng.
Có người cho rằng thai nhi chưa hình thành đầy đủ hình hài con người thì hủy diệt nó là việc bình thường, không tội lỗi. Thậm chí kể cả bào thai đã tượng hình người, họ vẫn giết nó, dù có bị nguy hiểm đến tính mạng họ, chỉ với lý do là đứa con ngoài ý muốn thì không thể nào được đón chào.

anh nsgn.jpg

Theo Phật, bào thai được hình thành khi có sự giao hợp giữa cha mẹ trong thời kỳ người mẹ có thể thụ thai và yếu tố quyết định là sự có mặt của thần thức, hay còn gọi là hương ấm xâm nhập vào. Vì vậy, sinh mạng của thai nhi, tức mầm sống của con người đã được tạo thành ngay từ phút giây đầu tiên mà thần thức đi vào cơ thể người mẹ, khi cha mẹ giao hợp.

Đức Phật khẳng định rằng con người là tối tôn trọng các loài sinh vật, vì phải trải qua quá trình chuyển hóa thân tâm lâu dài, con người mới có bộ não và trái tim có thể suy nghĩ và thực hiện được những việc làm thăng tiến đến những cảnh giới cao quý, trong khi các loài sinh vật thấp kém hơn chỉ sống với bản năng mà không thể thăng hoa cuộc sống đạo đức, tri thức như loài người. Và tất nhiên, chỉ có con người mới có thể chuyển hóa tâm thức thăng tiến đến quả vị tối thượng là Phật. Chư Thiên, hay A-tu-la tuy có phước báo hơn loài người, nhưng họ không thể tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Muốn đạt được quả Toàn giác, chư Thiên, hay A-tu-la, hoặc các loài sinh thể khác đều phải tái sanh làm người để từ đó, trải qua nhiều kiếp sống, mới có trí thông minh và tình cảm hướng thượng.

Trong sáu đường sinh tử, muốn có được thân người là việc khó khăn vô cùng. Đức Phật nói rằng được thân người khó gấp vạn lần con rùa một mắt lênh đênh trên đại dương hàng ngàn năm mới vớ được khúc cây nổi có một lỗ nhỏ cho nó chui vào.

Thân người vô cùng quý báu, nên trong các giới cấm Phật dạy hàng đệ tử phải tuyệt đối tuân thủ trước nhất là giới không sát sinh hại mạng.

Như trên đã nói, thai nhi mang mầm sống của con người, ngay từ khi người mẹ thụ thai, cần phải được bảo vệ một cách kỹ lưỡng. Thiết nghĩ không có gì ác độc hơn là tiêu diệt bào thai, vì giết hại một sinh linh ở trong giai đoạn yếu ớt nhất mà mạng sống hoàn toàn lệ thuộc vào người mẹ. Đại luận sư Buddhagosa nói rằng nghiệp quả của sự phá thai tệ hại hơn là giết một tên côn đồ, vì tự vệ.

Thể hiện tâm từ bi và trí tuệ theo Phật dạy, bảo vệ sự sống cho muôn loài nói chung và loài người nói riêng là điều tiên quyết mà hàng đệ tử Phật phải tuân thủ. Vì cùng sống trên trái đất này, mọi người, mọi loài đều có mối tương quan cộng tồn mật thiết, nên không thể thỏa mãn ý muốn riêng tư mà bất chấp mạng sống của thai nhi lại là núm ruột của mình. Và khi đã tin sâu luật nhân quả, việc ác dù nhỏ nhoi còn không làm, huống chi là phá thai, giết hại sinh linh vô tội cần nương vào bụng mẹ để có mặt trên cuộc đời này nhằm thực hiện điều gì còn dang dở trong tiền kiếp.

Tuy nhiên, chúng ta đều biết giáo pháp của Phật không có tính cố định, cứng nhắc. Kinh thường nói Đức Phật có đến 84.000 pháp để tương ưng với vô số phiền não, trần lao, nghiệp chướng của chúng sanh và giải quyết được vấn nạn cho họ. Vì vậy, sự tôn trọng mạng sống của thai nhi cũng có một mặt khác cần xét đến.

Trong trường hợp nếu thai nhi được sanh ra sẽ bị dị dạng, bị bệnh tật nguy hiểm, chắc chắn tạo nên cuộc sống đầy đau khổ cho chính nó và cho gia đình, hơn là được hạnh phúc. Trong trường hợp bất khả kháng như vậy, gia đình có thể quyết định không cho đứa bé ra đời. Hoặc trường hợp để cứu tính mạng của người mẹ, người ta không còn cách gì khác hơn là đành hy sinh sự sống của thai nhi.

Tóm lại, thể hiện lòng từ bi theo Phật, cần phải tôn trọng triệt để giới cấm sát hại sinh mạng con người cho đến phải tôn trọng mạng sống của muôn loài, tất nhiên cần bảo hộ sự sống của thai nhi.

Vì vậy, theo đạo Phật, không chấp nhận việc phá thai. Và càng thấm nhuần quy luật nhân quả, chẳng thể nào giết hại mạng sống của sinh linh có mối quan hệ chặt chẽ, mới tái sinh làm con mình.

Thiết nghĩ phá thai chỉ là giải quyết vấn đề ở ngọn. Nếu không muốn có con, đừng tạo ra cái duyên cho thần thức đi tái sanh vào thân thể mình. Điều đó quá hiển nhiên. Nếu cứ sống buông thả, bừa bãi, sống theo bản năng như loài vật, để rồi phá thai, khiến cho sinh linh uất hận và cũng làm hại cho sức khỏe của chính mình. Và tạo nhân ác rồi, quả báo ác sẽ đến kề cận, mong gì có cuộc sống an vui.

Người có suy nghĩ, biết sống tỉnh táo, biết khắc phục bản năng nhục dục, biết phải làm gì cho cuộc sống được an vui thực sự và lâu dài, họ sẽ không bao giờ để mang thai ngoài ý muốn.

Thế giới càng có nhiều oan hồn uổng tử lang thang uất hận, khổ đau, tạo thành thế giới âm không siêu thoát, thì thế giới của người sống khó mà yên ổn, nói chi là hạnh phúc. Chính vì vậy mà hàng ngày, đệ tử Phật đều cầu nguyện cho âm siêu, dương thới và tất cả mọi người đều trọn thành Phật đạo, đó chính là thế giới hạnh phúc tuyệt đối vĩnh viễn.
HT.Thích Trí Quảng

Bị đổ nghiệp

Bị đổ nghiệp

Đăng lúc: 09:27 - 31/07/2016

HỎI: Tôi phát tâm tu tập theo Phật giáo, áp dụng lời Phật dạy vào đời sống hàng ngày như bố thí, giúp đỡ người khác hết lòng, nguyện sống tốt, không làm gì xấu và tổn hại đến ai. Nhưng không biết vì sao, đã mấy năm hướng Phật, làm lành, tránh dữ mà tôi ngày càng xui xẻo, làm gì cũng thất bại, bị người khác ganh ghét, công việc, sức khỏe,... đều xấu đi, giống như bị đổ nghiệp. Xin hỏi quý Báo nên làm gì để giải nghiệp xấu đó.

(QUANG VIỆT, quangviet2006@gmail.com)

ĐÁP:

Bạn Quang Việt thân mến!

Hiện nay, có một bộ phận Phật tử, do nhận thức về Phật pháp còn hạn chế nên hình thành quan niệm vì siêng tu nên ‘đổ nghiệp’. Đây là một quan niệm sai lầm, không đúng với Chánh pháp, tà kiến, cần được chấm dứt trong suy nghĩ cá nhân Phật tử và không trao truyền đến người khác. Bởi lẽ, tu tập thì chuyển nghiệp, từ xấu thành tốt, từ dữ hóa lành, không hề có chuyện vì tu mà ‘đổ nghiệp’ hay gieo nhân lành mà gặt quả ác cả.

Vậy thì lý giải thế nào đối với một số trường hợp, sau một thời gian tu học, hướng thiện thì bản thân và gia đình có nhiều xui xẻo liên tiếp xảy ra? Trước hết, người đệ tử Phật cần học tập về giáo lý Nhân quả-Nghiệp báo để hiểu đúng và tin sâu. Nhân quả-nghiệp báo do mình tạo ra trong quá khứ xa và gần, rồi tác động lên đời sống của chính mình.

Tiến trình từ nhân đến quả có 3 thời: 1-Hiện báo, nhân quả nhãn tiền, xảy ra liền hay trong đời này. 2-Sinh báo, gieo nhân hiện đời nhưng đến đời kế sau mới thành quả. 3-Hậu báo, gieo nhân hiện đời nhưng đến những đời sau mới thành quả. Đây là xét về mặt thời gian hình thành nhân quả.

Còn về phương diện vận hành của nhân quả phức tạp hơn nhiều, không đơn thuần nhân nào quả nấy mà chính là nhân-duyên-quả. Duyên, tuy là nhân phụ nhưng tác động rất lớn đến việc hình thành quả. Chuỗi nhân-duyên-quả này lại không độc lập mà luôn tương tác, va chạm với vô số chuỗi nhân-duyên-quả khác. Trong quá trình vận hành, chúng vừa làm nhân, làm duyên, làm quả của nhau đồng thời luôn tác động chi phối lẫn nhau mãnh liệt tạo ra một mạng lưới nhân quả, nhân duyên trùng trùng điệp điệp.

Người phàm chúng ta chỉ có thể biết phần nào nhân quả nhãn tiền (hiện báo) mà không thể biết về nhân quả của sinh báo và hậu báo. Cụ thể, chúng ta không biết được trong những đời trước mình đã gieo nghiệp nhân nào, thiện hay ác. Nhân quả-Nghiệp báo hay dòng chảy Nghiệp cũ (thiện hoặc ác) từ quá khứ đang xuôi về hiện tại với tất cả sức mạnh của nó. Năng lực của Nghiệp cũ rất mạnh mẽ, nếu gặp lúc đã chín muồi thì không gì có thể ngăn cản nổi sự hình thành quả.

Việc tu tập, làm thiện của bạn mấy năm gần đây dĩ nhiên tạo ra Nghiệp mới tốt lành. Nghiệp mới (thiện) này, nếu đủ mạnh thì có khả năng tương tác với Nghiệp cũ (xấu ác), chi phối lên Nghiệp cũ để khiến cho nó lệch hướng, tạo thành quả bình an. Cụ thể, Nghiệp mới (thiện) giống như đắp đê, Nghiệp cũ (xấu ác) như nước lũ thượng nguồn dội xuống. Đê nhỏ và yếu, thì dù có cố công xây đắp nhưng không cản được sức tàn phá của lũ.

Bạn nhờ tu tập, làm phước thiện, đã kiến tạo được Nghiệp mới tốt lành nhưng chúng không đủ lớn mạnh để chống chọi, chi phối lên dòng Nghiệp cũ xấu ác đang tràn về. Khi dòng vận hành Nhân quả-Nghiệp báo của bạn đến đúng thời điểm như vậy thì những việc không như ý, xui xẻo xảy ra. Cần phải thấy sự việc trong tiến trình Nhân quả (3 thời) chứ không phải do hiện tại tu tập mà đổ nghiệp. Quan trọng nhất là, phải thấy rõ nhờ hiện tại có tu tập, tích lũy được một số công đức phước báo nên tuy bị tác động bởi Nghiệp cũ nhưng hậu quả ít nặng nề hơn. Nếu không tu tập và làm thiện, không tích lũy được chút phước báo nào thì hậu quả sẽ thảm khốc hơn rất nhiều.

Để giải nghiệp xấu, trước phải hiểu rõ dòng vận hành Nhân quả-Nghiệp báo. Nhận ra Nghiệp cũ vốn không thay đổi được nhưng Nghiệp mới thì hoàn toàn do mình chủ động kiến tạo. Nghiệp mới thiện lành trong hiện tại chắc chắn sẽ cho quả tốt về sau. Nghiệp mới này còn tương tác, chi phối lên Nghiệp cũ xấu ác để tạo ra quả báo nhẹ nhàng hơn. Vì thế, bạn hãy nỗ lực tu học, sám hối tội chướng, tích cực làm thiện, tạo ra Nghiệp mới thiện lành nhiều hơn nữa, sau một thời gian quả lành sẽ đến với bạn.

Chúc bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN
(tuvangiacngo@yahoo.com

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 69
  • Hôm nay 2,499
  • Tháng hiện tại 59,884
  • Tổng lượt truy cập 23,466,133