Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Học Phật Bằng Cách Nào?

Học Phật Bằng Cách Nào?

Đăng lúc: 08:06 - 08/11/2015

Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp học Phật. Ở thế gian môn học nào cũng có phương pháp riêng của nó. Ví như môn toán học, người học trò trước phải biết số, kế học thuộc cửu chương, học cách cộng trừ nhân chia, lên nữa phải học công thức, phương trình v.v... Môn văn chương, trước phải biết chữ cái, học ráp vần, viết chánh tả, học văn phạm, tập cách làm văn v.v... Phương chi Phật pháp là môn học giác ngộ, mà không có phương pháp riêng của nó hay sao?


Phương pháp học Phật tức là ba môn Huệ học: Văn huệ, Tư huệ, và Tu huệ. Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ không trí huệ thì không sao vào được. Phật pháp là chân lý, là những sự thật, nếu không có ngọn đuốc trí huệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chung quanh, không cần trí huệ, chỉ dùng lòng tin đến với đạo Phật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao. Đây là chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để ba môn huệ học vào công trình tu học Phật pháp.

Thế nào là Văn huệ?
Văn là nghe, do nghe giáo lý Phật pháp, trí huệ mở sáng, gọi là Văn huệ. Chúng ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chư tăng, của thiện hữu tri thức đã tu học trước ta. Những lời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trong đó chứa toàn lời lẽ chân chánh, chỉ bày mọi sự thật cho chúng sanh. Càng nghe, trí huệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúng ta trực tiếp đọc kinh sách Phật, khiến mở mang trí huệ cũng thuộc Văn huệ. Chịu khó nghe giảng dạy, chịu khó nghiên cứu kinh sách Phật, đó là người biết từ cửa Văn huệ tiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.

Thế nào là Tư huệ?
Tư là suy xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạy trong Phật pháp, trí huệ càng tăng trưởng. Chúng ta được nghe lời chỉ dạy của thầy bạn, dẫn từ trong kinh Phật ra, song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học Phật. Buộc chúng ta phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếu quả thật đúng, từ đó chúng ta mới tin. Có thế mới thực hành đúng câu "các người phải tự thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc lên với chánh pháp" trong kinh Pháp Cú. Chúng ta muốn mở mang trí huệ, song tự mình làm sao mở được, phải mồi ngọn đuốc trí huệ của mình với ngọn đuốc chánh pháp của Phật, trí huệ mới phát sáng.

Mồi bằng cách nào?
Ví như chúng ta nghe vị Sư giảng rằng: "Tất cả thế gian đều là vô thường." Sau đó phải dùng trí huệ của mình phán đoán xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt câu hỏi: tất cả thế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát ngoài luật lệ ấy chăng? Nếu có, câu nói này chưa phải chân lý. Bằng không, mới thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàn tin. Thế rồi, ta tự khảo sát :

Con người có phải vô thường không? Từ ông bà đến cha mẹ chúng ta đều có sanh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu rồi chết. Kể luôn cả ta, khi nào còn nhỏ bé, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình thân tộc chúng ta đã thế, ngoài xã hội cũng thế, cả nhân loại trên thế giới cũng thế; ngàn xưa là thế, mãi sau này cũng thế. Quả là con người vô thường.

Đến những sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... có bị vô thường không? Chính cái nhà của mình, khi mới cất thì tốt đẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần, đến năm mười năm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng, xem bóng loáng tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơn khờn mặt, rồi đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạp khi mới mua đem về mới toanh, chạy được một năm vỏ đã rách, cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ hư. Thế là, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... những vật cần dùng bên cạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trăm ngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy đồng một số phận như nhau.

Chúng ta có thể kết luận rằng: "tất cả thế gian là vô thường", quả thật là chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khác đi, cũng không làm lay động được lòng tin của ta. Bởi lòng tin này đã được gạn lọc qua sàng lý trí, nên nó vững chắc không dễ gì làm lung lay.
Lại một thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lý luân hồi, bảo rằng: "Muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi." Ta tự đặt câu hỏi: Tại sao muôn vật đều luân hồi? Có vật nào không luân hồi chăng? Chúng ta bắt đầu xét từ thực vật:

Cây cối thành hình bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởng thành cây, nở hoa, kết trái; trái sanh hạt, hạt lại nẩy mầm... lộn đi đảo lại không cùng. Song đó là sự lộn đi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân cây ấy có đảo lộn vậy không? Cũng lộn đi đảo lại như thế. Thân cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất nước... nuôi dưỡng mới được sanh trưởng, dần dần thành đại thọ. Rễ hút đất nước nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng biến thành phân đất, cành gãy mục cũng thành phân đất, thân cây ngã mục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đất nước sanh trưởng, khi ngã mục lại trở về đất nước.

Nước do ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọng lại, rơi xuống thành nước; nước lại bốc hơi... mãi mãi không cùng.
To như quả địa cầu vẫn quay tròn quanh cái trục, sáng rồi tối, tối lại sáng. Căn cứ vào sự quay tròn của nó, người ta chia ra ngày giờ tháng năm, thời tiết xuân hạ thu đông, xoay vần thế mãi không cùng.

Do sự khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng "muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi", là sự thật không còn gì phải nghi ngờ.
Trên đây tạm cử vài thí dụ làm căn bản cho công cuộc suy xét phán đoán Phật pháp. Căn cứ vào đây, chúng ta phán xét những lời Phật dạy, hoặc chư tăng dạy trong những trường hợp khác. Có thế, mới phân biệt được chánh tà và mới đúng tinh thần người học Phật.

Thế nào là Tu huệ?
Sau khi phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày của mình, khiến chánh lý càng bày hiện sáng tỏ, là tu huệ. Ví như, đã biết rõ "tất cả thế gian là vô thường", chúng ta ứng dụng sự vô thường vào đời sống của mình, trong những trường hợp như sau:

Đã biết rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đến với bản thân, với gia đình ta, ta vẫn giữ bình tĩnh không hốt hoảng hãi sợ. Vì biết chắc điều đó ở thế gian không ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vô ích. Bởi không sợ nên tâm ta bình tĩnh sáng suốt, giải quyết mọi việc một cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốt để khuyên giải cho những người đồng cảnh ngộ bớt đau khổ.
Biết rõ thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tài sắc... lòng ta nguội lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợ ấy làm gì, để rồi chuốc khổ về mình, gây đau khổ cho người, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng. Lòng tham lam giành giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.

Do thấy rõ lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờ chết. Phải cố gắng làm mọi việc lành, nếu cơn vô thường đến, chúng ta có muốn làm cũng không sao làm được. Lại biết quý tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không tìm lại được, phải cấp bách nỗ lực làm lợi mình lợi người, không thể chần chờ.

Đó là ba trường hợp do biết "thế gian vô thường", chúng ta khéo ứng dụng tu hành trong cuộc sống hiện tại của mình. Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng trưởng. Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt, nên gọi là "Tu huệ".

Ví dụ khác, chúng ta nhận rõ "muôn vật luân hồi", liền ứng dụng lý luân hồi vào cuộc sống của mình. Nếu phải luân hồi, chúng ta chọn cái luân hồi nào tốt đẹp an ổn hơn. Ví như, biết các loài thảo mộc từ hạt nẩy mầm, sanh trưởng thành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... Chúng ta nên chọn lựa hạt tốt giống ngon đem ương, để sau này kết quả ngon, cho ta và mọi người được thưởng thức vị ngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta cũng không thoát khỏi, ta cần tạo những nhân tốt, nhân an vui, để mai kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.

Đã biết muôn vật luân hồi, chúng ta phải tìm xem nguyên nhân nào lôi cuốn vào trong ấy. Biết rõ nguyên nhân rồi, phải tìm cách thoát ra ngoài vòng luân hồi. Không đầu hàng khuất phục, để chịu lăn mãi trong luân hồi. Như các nhà khoa học nghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm cách chế phi thuyền đủ sức mạnh vượt ra ngoài vòng hút của quả đất, đi thẳng vào quĩ đạo v.v... Biết luân hồi để tìm cách thoát ra, chính là tinh thần "Tu huệ".

Văn huệ, Tư huệ rất cần thiết, song Tu huệ lại càng quan trọng hơn. Nếu có văn huệ, tư huệ mà thiếu tu huệ thì chỉ là huệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời sống con người. Nhờ tu huệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trên và giúp cho văn, tư được kết quả viên mãn.

Vì thế, đức Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặp Sư tăng, Sư ni, gặp Tăng ni rồi cần phải thưa hỏi Phật pháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần phán xét, phán xét rồi phải tiến tu. Được vậy mới đúng tinh thần Phật tử (Phỏng theo bài kinh Ma-ha-nam trong Tập A-hàm). Bồ-tát Quán Thế Âm cũng trình với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngài gặp Phật dạy tu phương pháp văn, tư, tu được vào chánh định và cho hiệu là Quán Thế Âm (Kinh Lăng Nghiêm). Chính trong giới Bồ-tát, Phật cũng dạy "dù ở xa trăm ngàn dặm, nghe có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ-tát cũng phải mang kinh luật đến đó học (Kinh Phạm Võng). Quả nhiên đức Phật không chấp nhận đệ tử tu hành tối dốt, phải đầy đủ ba môn huệ học, mới xứng là đệ tử của Ngài.

Ba môn huệ học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa học hiện nay. Bất luận môn học nào, trước tiên học lý thuyết, kế phê bình lý thuyết, sau thí nghiệm hay thực hành lý thuyết. Lý thuyết tức là văn huệ, phê bình tức là tư huệ, thí nghiệm tức là tu huệ. Có như vậy môn học mới tiến bộ và phát minh những điều mới lạ.

Tuy nhiên, về mục tiêu chánh yếu Phật học vẫn khác khoa học. Khoa học cốt phát minh mọi sự thật của ngoại giới, chinh phục giành quyền làm chủ thiên nhiên, bắt thiên nhiên làm theo ý muốn con người, để tạo vật chất dồi dào sung túc cho nhân loại. Phật học xoay lại ngự trị bản thân mình, gạn lọc đào thải những tâm thức nhơ xấu, kiến tạo một tâm hồn trong sáng an vui tự tại. Bởi khoa học gây tạo điều kiện vật chất dồi dào, nên con người dễ tranh đua giành giật kình chống lẫn nhau, Phật học cốt xây dựng tâm hồn trong sáng, nên người biết tu theo, lòng sẽ mở rộng thương yêu bảo bọc lẫn nhau.Vì thế, ba môn huệ học đều đặt căn cứ trên nguyên tắc "xem lại chính mình". Nắm vững nguyên tắc này, đọc kinh sách Phật, chúng ta nhận định phán xét không bị sai lẫn.
____________________________________
Được trích từ sách: BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT
HT. Thích Thanh Từ

Kim Tiểu Long trải lòng về vai diễn Đức Phật

Kim Tiểu Long trải lòng về vai diễn Đức Phật

Đăng lúc: 10:39 - 30/10/2015

Nghệ sĩ Kim Tiểu Long từ Mỹ về Việt Nam vào vai Đức Phật trong bộ phim "Công chúa Da Du Đà La" (do Thành hội Phật giáo Việt Nam TP HCM và Công ty TNHH phim Phượng Hoàng sản xuất). Phim này dài 4 tập, vừa đóng máy sau gần 2 tháng thực hiện.



Vai diễn để lại nhiều ký ức đẹp cho Kim Tiểu Long.
Vai diễn để lại nhiều ký ức đẹp cho Kim Tiểu Long.
Kim Tiểu Long cho biết bộ phim này có kịch bản do soạn giả Hoàng Ngọc Ẩn viết, phần cố vấn Phật pháp của Thượng tọa Thích Nhật Từ, Viện phó Học viện Phật giáo Việt Nam, kiêm Trưởng ban Văn hóa Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại TP HCM. Nội dung phim kể về cuộc đời Công chúa Da Du Đà La, người vợ hiền đức, thanh cao, hết lòng trung thành và hy sinh giúp chồng thành công trên con đường đi tìm chân lý.

Sau khi đắc đạo, Đức Phật trở về quê nhà giảng giải Phật pháp, công chúa thấm nhuần tư tưởng đạo Phật, xin xuất gia trở thành một vị tỳ kheo ni. Nhờ chăm chỉ tu học tinh tấn, chẳng bao lâu công chúa đắc quả A La Hán và trở thành một trong những ni sư xuất sắc.

"Tôi rất hạnh phúc khi được giao vai diễn Thái Tử Tất Đạt Đa và sau này đắc đạo thành Đức Phật Thích Ca. Phim này dự kiến phát hành dưới dạng DVD vào dịp Tết Nguyên Đán" - Kim Tiểu Long nói thêm.



Kim Tiểu Long trong cảnh chứng kiến vua cha qua đời.
Kim Tiểu Long trong cảnh chứng kiến vua cha qua đời.
Bối cảnh phim được thực hiện tại Đà Lạt.
Bối cảnh phim được thực hiện tại Đà Lạt.
Đạo diễn Phượng Hoàng đánh giá cao khả năng diễn xuất của Kim Tiểu Long, nhận định anh đã cố gắng tập trung cho vai diễn, tạo sự tương tác trong diễn xuất.



Kim Xuân, Hùng Minh hỗ trợ đắt lực cho dàn diễn viên trẻ tham gia bộ phim.
Kim Xuân, Hùng Minh hỗ trợ đắt lực cho dàn diễn viên trẻ tham gia bộ phim.
“Bên cạnh tôi còn có nhiều nghệ sĩ gạo cội đóng các vai phụ: Hùng Minh, Thanh Nguyệt, Kim Xuân, Công Minh, Chí Bảo, Xuân Trúc…Tất cả yểm trợ để tôi tự tin thể hiện vai diễn mình rất diễm phúc được nhận. Bộ phim này do sư nữ Ngọc Liên, vốn là hoa hậu doanh nhân và phụ nữ thành đạt do cộng đồng kiều bào tại Mỹ bình chọn, sau khi xuất gia nhà Phật, sư cô đã phát tâm đầu tư vốn để thực hiện bộ phim này” – Kim Tiểu Long thông tin.



Kim Tiểu Long trong cảnh phim được quay tại Đà Lạt.
Kim Tiểu Long trong cảnh phim được quay tại Đà Lạt.
Hiện Kim Tử Long đang chuẩn bị quay về Mỹ để biểu diễn theo hợp đồng đã ký với nhà tổ chức. Anh tranh thủ về Trà Ôn – Vĩnh Long thăm mẹ.



Kim Tiểu Long về thăm mẹ tại Trà Ôn, Vĩnh Long.
Kim Tiểu Long về thăm mẹ tại Trà Ôn, Vĩnh Long.

Diệt trừ phiền não

Diệt trừ phiền não

Đăng lúc: 08:06 - 28/10/2015

Hỏi: Làm cách nào để diệt trừ được phiền não và niệm Phật được nhất tâm?



Đáp: Diệt trừ hết phiền não để niệm Phật được nhất tâm luôn là mục tiêu và nguyện vọng tha thiết của hầu hết những người tu tập theo pháp môn Tịnh độ. Tuy nhiên muốn làm được điều đó, trước tiên chúng ta cần phải biết được phiền não từ đâu có? Biết được cội gốc của nó nằm ở đâu, thì mới có thể diệt trừ. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Bồ tát Mã Minh chia tâm làm hai môn là Chân Như và Sinh Diệt. Một cái là tâm thể sáng suốt thanh tịnh và hai là cái tâm lăng xăng mê muội.

1- Nguồn gốc của phiền não:

Nếu chịu khó ngồi yên để quán xét kỹ, thì chúng ta sẽ biết được hằng ngày mình thường sống với cái tâm nào nhiều nhất. Khi ngồi tĩnh tọa hoặc niệm Phật hay nghe pháp, chúng ta có thấy được cái tâm sáng suốt thanh tịnh của mình không? Nếu không có nó, chúng ta không thể nghe thấy hay nhận biết được các sự vật ở bên ngoài. Tuy nhiên, thông thường chúng ta dễ bỏ quên cái tâm sáng suốt quý báu của chính mình, mà chỉ lo hướng theo sự nắm giữ những sự việc ở bên ngoài, cho nên suốt đời bị lầm lạc khổ đau. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật nói rằng: “Chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên là khai thị cho chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”. Tất cả các đức Phật, từ Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca và cho đến sau này là Phật Di Lặc ra đời cũng chỉ vì một lý do cực kỳ quan trọng là chỉ bày cho mọi người thấy được cái tâm thanh tịnh, sáng suốt chân thật sẵn có ở ngay nơi mình, mà không phải làm một việc gì khác hơn nữa.

Đức Phật không bắt buộc tất cả mọi người phải bỏ hết vợ con, tài sản để đi vào chùa để được giải thoát. Nếu sống trong chùa mà không hóa giải được phiền não, thì chạy đi đâu cũng không thể thoát khổ. Bởi vì phiền não không ở ngoài tâm này, cho nên nếu không biết tu tập thì dù có bay lên trời cũng vẫn bị đau khổ phiền muộn. Những vật chất có hình tướng thì có thể vứt bỏ, còn cái tâm không hình tướng này thì làm sao bỏ? Chỉ còn cách quay trở về tâm này xét sâu cội gốc, tìm ra nguyên nhân mà hóa giải nó, thì mới được yên ổn. Chính cái tâm này là cội gốc của khổ đau phiền muộn và cũng chính nó là nguồn gốc của an lạc giải thoát.

2- Diệt trừ phiền não:

Muốn phá trừ tâm bám chấp vào thân này, thì cần phải thấy rõ được cội gốc của sự thật. Sự thật ấy nằm ở ngay nơi sự vay mượn trong từng hơi thở, không có gì là bền chắc của cái thân này. Do chúng ta không biết tu, không hiểu đạo và không gặp được chánh pháp, cho nên cả một đời cứ chạy theo hơn thua, phải quấy, được mất và vất vả tranh đấu, ra sức bon chen với cuộc sống cũng chỉ vì lo cho cái thân này được ăn ngon, mặc đẹp, ở sang. Lúc nào cũng muốn cho nó được đầy đủ sung sướng. Tuy nhiên, dù mình yêu quý, giữ gìn và lo lắng hết mức như vậy, nó vẫn không chung thủy với mình. Rồi một ngày nào đó, nó cũng bỏ mình ra đi không một lời từ biệt. Một khi bác sĩ tuyên bố thân này đã bị ung thư vào giai đoạn cuối hoặc nhiễm siêu vi B, C.v.v… thì mình chỉ còn biết khóc than. Thân này không bảo đảm bền chắc, dù có tồn tại lâu dài thì cuối cùng nó cũng phải đi đến chỗ hoại diệt. Do không thấu rõ được lẽ thật của thân này, cho nên chúng ta luôn bám chấp vào nó và lấy nó làm sự sống, cho nên đức Phật gọi đó là sự si mê hoặc vô minh.

Hai chữ ‘thọ trì’ có ý nghĩa rất quan trọng trong sự tu học của chúng ta. ‘Thọ’ là nhận và ‘Trì’ là giữ. Nắm giữ danh hiệu Phật tức là chúng ta luôn giữ cho tâm của mình lúc nào cũng thanh tịnh sáng suốt. Chỉ cần sơ ý phóng tâm, buông mất câu danh hiệu Phật thì liền thấy người và vật có tốt, xấu, phải, quấy, hơn, thua. Làm mất tâm thanh tịnh trong sáng để chạy theo những ý niệm chúng sinh và chuốc lấy phiền não. Nếu trong đời sống hằng ngày, chúng ta cứ mãi chạy theo những tâm niệm phiền não, mê lầm thì sẽ còn tạo nghiệp và bị khổ đau hoài, không thể nào dừng lại. Niệm Phật chính là con đường ngắn nhất để quay trở về cái tâm thanh tịnh sáng suốt. Tâm thanh tịnh sáng suốt đó không có tạo nghiệp xấu ác, cho nên không có chiêu cảm quả báo khổ. Tu hành là cốt để trở về với cái tâm thanh tịnh, không còn sống với phiền não vô minh và nhận lấy khổ đau nữa. Mỗi khi gặp việc buồn giận hoặc vui thích thì đều phải nhanh chóng quay trở về niệm thầm danh hiệu Phật: “Hít vào A Di; Thở ra Đà Phật”, mạng này chỉ tồn tại trong một hơi thở, thì hơn thua hoặc yêu ghét làm chi cho thêm mệt, trở về với tâm an lạc sáng suốt cho nhẹ khỏe. Luôn sống đúng như vậy là giữ được tâm thanh tịnh ngay trong môi trường ô nhiễm loạn động và được giải thoát ở ngay trong sự ràng buộc. Đó chính là phiền não tức Bồ đề.

Ngay từ bây giờ, nhiếp tâm vào từng danh hiệu Phật trong mỗi hơi thở, mỗi khi ăn uống, ngủ nghỉ hoặc mỗi lúc mặc quần áo cần phải thấy rõ được lẽ thật vay mượn mong manh của thân này, buông xả muôn duyên huyễn hoặc. Thực hành quán xét như vậy thì định huệ đầy đủ chỉ trong một danh hiệu Phật và dần dần chúng ta có được sức mạnh của trí tuệ để phá vỡ bức màn vô minh mê lầm. Khi mọi phiền não tan hết và trí huệ tròn sáng đầy đủ, thì hoặc nghĩ, nói hay làm việc gì cũng ở trong cái tâm an lạc sáng suốt và đều phù hợp với chánh pháp. Làm tất cả phước đức, công đức đó để trang nghiêm cho pháp thân thanh tịnh của mình trong kiếp này và muôn kiếp về sau. Đời này, chúng ta tu học theo chánh pháp được an lạc tốt đẹp, trang nghiêm thì đời sau sinh ra sẽ được công đức, phước huệ tròn đầy. Hạt giống tu tập đó được nhân thêm nhiều hơn trong những kiếp sau nữa và cứ tiếp tục tu tiến mãi cho đến kiếp cuối cùng khi tròn đầy công đức như Phật. Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta con đường tu tập an lạc, giải thoát duy nhất này, dù tìm khắp cả thế gian cũng không có con đường nào khác, do đó mọi người cứ vững lòng mà tiến bước. Tu hành đúng theo chánh pháp thì ngay trong đời sống này luôn được an vui và khi chết sẽ nhẹ nhàng vãng sinh về Cực Lạc.
Thích Minh Thành

Câu chuyện ai cũng nên đọc một lần: Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Câu chuyện ai cũng nên đọc một lần: Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Đăng lúc: 06:40 - 19/10/2015

Câu chuyện đầy suy ngẫm này chắc chắn sẽ để lại cho bạn rất nhiều bài học đáng giá.

Một người phụ nữ nọ có thói quen nướng bánh mì cho gia đình, luôn làm dư một cái để lại cho người nghèo đói. Bà để ổ bánh mì dư bên ngoài thành cửa sổ cho người nghèo đi qua dễ lấy. Ngày qua ngày cứ đến buổi, một ông lão gù lưng đến lấy ổ bánh mì đi.

Thay vì nói lời cảm ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời như niệm chú:



“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi, việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi”.

Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác. Mỗi ngày, người già đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu :

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi, việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi!”

Ngày qua ngày, người phụ nữ dần bực bội trong lòng nghĩ:

“Nhận được bánh, không biết cảm ơn còn lải nhải mấy lời khó chịu kia! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”.

Rồi một hôm, chịu hết nổi, bà nghĩ cách làm cho ông già đi khuất mắt. Bà tự nhủ:

“Ta sẽ làm cho hắn mất dạng”.

Bà trộn thuốc vào ổ bánh mì dư bà thường làm, tay run run để bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, bỗng cảm thấy hốt hoảng:

“Ta làm gì thế này?”

Bà ném vội ổ bánh có thuốc độc vào lửa và thay một cái bánh khác lên thành cửa sổ. Như mọi khi, ông lão đến lấy bánh và lại lẩm bẩm:

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi; việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi”.

Ông lão cầm ổ bánh vui vẻ rời đi, không ai biết trong lòng người phụ nữ vừa trải qua một trận chiến giận dữ dội.

Có một điều mà không ai biết đó là mỗi khi đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà lại cầu nguyện cho đứa con trai đi tìm việc làm xa, đã nhiều tháng không nhận được tin tức. Bà nguyện cho con trở về nhà bình an, mạnh giỏi.

Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa. Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa…

Anh ta gầy xọp đi, quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:

Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường, nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon và chút nước. Ông ta nói:

“Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!”

Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!

Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói lặp đi lặp lại qua ngày của ông lão…

Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình bạn nhé!

Theo Sưu tầm / Trí Thức Trẻ

Hòa Thượng sáng lập Giáo hội Phật giáo Lào viên tịch

Hòa Thượng sáng lập Giáo hội Phật giáo Lào viên tịch

Đăng lúc: 10:42 - 17/10/2015

Người sáng lập Giáo hội Phật giáo Lào, chủ tịch Hội ái hữu Phật giáo Lào và Ongtue Mahavihara, Hòa thượng Phong Samaleuk đã viên tịch vào ngày 7/10/2015, trụ thế 100 năm.

Hòa thượng Phong Samaluek sinh ra tại một ngôi làng nhỏ ở Thái Lan và chuyển đến Lào vào năm 14 tuổi. Khi 15 tuổi, ông trở lại Thái Lan và xuất gia làm một tu sĩ tập sự. Nhưng do sức khỏe kém, sau đó 1 năm ông trở về Lào và đến năm 20 tuổi thì được thọ giới Tỳ kheo tại Thái Lan.

81 năm dẫn dắt tăng đoàn và phục vụ cộng đồng, Hòa thuợng Phong Samaluek đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển Phật giáo và văn hóa giáo dục Lào. Đến cuối đời, Hòa thượng vẫn luôn cố gắng làm nhiều việc vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân Lào.

bai 142-2

Hoạt động cuối cùng của Hòa thượng là tham gia hội nghị Phật giáo quốc tế được tổ chức tại Camphuchia.

Sau khi tang lễ kết thúc,di thể của cố Hòa thượng Phong Samaluek sẽ được bảo quản tại chùa Ongtue Mahavihara cho đến khi diễn ra lễ hỏa táng trong 3 hoặc 6 tháng sắp tới.

IMG 1038 (Copy)

Đồng hành cùng trại sinh băng rừng vượt núi

Đăng lúc: 10:37 - 17/10/2015

Nằm trong khuôn khổ chương trình “Hội trại tập huấn thanh niên Phật tử toàn quốc 2015” của Ban hướng dẫn Phật tử Trung Ương.
Sáng nay 17/10/2015, ngày thứ hai trong khuôn khổ của chương trình “Hội trại tập huấn Thanh niên Phật tử toàn quốc 2015” các trại sinh có cơ hội tham gia buổi thực hành leo núi nhằm tạo sân chơi bổ ích, năng động rèn luyện sức khoẻ. Qua đây mỗi trại sinh cần phai vượt thử thách về mặt sức khoẻ cũng như nghị lực của bản thân và nhất là tính đồng đội tập thể của trại sinh trong suốt chặng đường hơn 10km đường rừng treo leo hiểm trở đầy gian nan.

Tham gia buổi leo núi có tổng số 30 đoàn, mỗi đoàn trên 30 trại sinh, 7h sáng xuất phát từ Bảo tàng Học viện Phật giáo Việt Nam lên tượng đài Thánh Gióng (Núi Sóc) và sau đó trở về điểm xuất phát.
Lịch trình được chia làm 7 chặng theo quy định của Ban tổ chức, mỗi chặng đều có sân chơi thử sức và tài năng của trại sinh. Với sự sang tạo về ý tưởng, đầu tư công phu về công sức cùng với lòng nhiệt tình, tâm huyết của tuổi trẻ các trại sinh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trên suốt chặng đường.

Mặc dù chặng đường rất gian nan và đầy thử thách nhưng nụ cười hoan hỷ, an lạc, luôn nở trên môi các trại sinh đây cũng chính là yếu tố quan trọng giúp các trại sinh vượt qua những thử thách trên từng chặng đường của mình và cuối cùng tất cả các trại sinh đã an toàn về đích, kết thúc vào lúc 17h cùng ngày.

Xin trân trọng giới thiệu chùm ảnh hoạt động này của các trại sinh:




Thập Bát Công

Câu chuyện luân hồi: Hòa thượng một niệm bất chính hủy đi cơ duyên cả đời tu luyện

Câu chuyện luân hồi: Hòa thượng một niệm bất chính hủy đi cơ duyên cả đời tu luyện

Đăng lúc: 07:41 - 07/09/2015

Có bao giờ bạn suy nghĩ rằng người thân, bạn bè, những người mà bạn gặp trong cuộc đời này là ngẫu nhiên không? Tại sao đó không phải là một người khác? Thực ra những quan hệ xã hội trong hiện tại tất cả đều dựa trên tiền duyên. Tiền duyên có một mối liên hệ mật thiết với sự luân hồi hay chuyển sinh mà Phật gia hay nói tới.
tu luyện, luân hồi, hòa thượng,
Hòa thượng Hoa Nghiêm là một đồ đệ của Thần Tú, ông tổ Bắc Phái của Thiền Tông. Ông từng tu hành tại Thiên Cung Tự thuộc Lạc Dương, Hà Nam, nơi ông dẫn dắt hơn 300 đồ đệ tu hành. Có một quy tắc nghiêm ngặt ở trong chùa là tất cả đồ đệ phải sắp xếp tề chỉnh bình bát (bát khất thực) của mình ra trước khi bữa ăn được phục vụ.
Một hòa thượng trong số các đồ đệ của Hoa Nghiêm ở tầng tu luyện cao hơn tất cả những người khác. Tuy vậy, ông lại rất hẹp hòi và cáu kỉnh. Một lần, vị hòa thượng này không dùng bữa cùng những hòa thượng khác vì ông đang ốm.
Một hòa thượng, người mới vào chùa đã để mất chiếc bát, tới để gặp vị này. Anh bái lạy và nói: “Tôi không có bát để ăn cơm. Tôi không biết phải làm sao nếu không có chiếc bát. Tôi băn khoăn không biết ông có thể vui lòng cho tôi mượn chiếc bát của ông hôm nay không. Tôi sẽ đi mua một chiếc mới vào ngày mai”.
Vị hòa thượng kia từ chối không cho anh ta mượn chiếc bát. Ông đáp: “Tôi đã dùng chiếc bát này vài chục năm rồi. Tôi sợ anh sẽ vô tình làm vỡ nó”. Vị hòa thượng tập sự van nài: “Tôi chỉ dùng nó cho bữa hôm nay thôi, rồi sẽ trả lại ông ngay. Làm sao tôi có thể làm vỡ nó khi tôi chỉ cầm nó trong chốc lát thôi?”
Sau khi cam đoan nhiều lần, vị hòa thượng kia cuối cùng đã cho anh ta mượn chiếc bát. Trước khi ông đưa chiếc bát, ông đã cảnh báo: “Tôi trân quý chiếc bát này còn hơn cả mạng sống của tôi. Nếu anh làm hư hỏng chiếc bát, anh đã thực sự giết tôi đấy!”
Vị hòa thượng trẻ cầm lấy chiếc bát, và anh giữ nó một cách cẩn thận bằng cả hai tay. Ngay khi anh vừa ăn xong và sẵn sàng trả chiếc bát, anh đã bắt đầu vội vội vàng vàng từ trong phòng. Vị hòa thượng tập sự này cầm chiếc bát và chạy xuống cầu thang từ nhà ăn. Không may, anh vấp vào một viên gạch và ngã xuống. Chiếc bát vỡ tan tành. Sau một lúc, vị hòa thượng kia bắt đầu thúc giục anh trả lại ông chiếc bát.
Vị hòa thượng mới này rất sợ sệt, nhưng anh không còn cách nào khác ngoài đến gặp vị hòa thượng kia và nhận lỗi. Anh xin lỗi bằng cách liên tục khấu đầu, nhưng vị hòa thượng kia gào lên: “Giờ anh đã thực sự giết tôi rồi đó!” Ông nổi trận lôi đình và không ngừng la mắng và chửi rủa độc ác. Vì biến cố này, sức khỏe của ông xấu đi nhanh chóng. Ông qua đời vào ngày hôm sau.
Một thời gian sau biến cố này, hòa thượng Hoa Nghiêm có một buổi giảng kinh tại chùa Nhạc Tự ở trên Tung Sơn cho hơn 100 đồ đệ, bao gồm cả vị hòa thượng tập sự kia. Đột nhiên, một âm thanh giống như một cơn bão ập tới từ thung lũng phía ngoài ngôi chùa.
Hòa thượng Hoa Nghiêm bèn bảo vị hòa thượng tập sự sang đứng bên cạnh ông. Ngay sau đó, một con rắn khổng lồ dài cỡ 8-9 trượng và đường kính cỡ 4-5 cánh tay bò vào trong chùa với một cái nhìn đầy phẫn nộ và miệng há to. Tất cả hòa thượng đứng xung quanh Hoa Nghiêm đều muốn trốn đi, nhưng Hoa Nghiêm đã ngăn họ lại, và yêu cầu họ đừng cử động.
Con rắn khổng lồ bò một cách chậm chạp vào giảng đường. Khi leo lên cầu thang, nó bắt đầu nhìn quanh và cố tìm kiếm thứ gì đó hay ai đó. Hòa thượng Hoa Nghiêm đứng chặn đường nó với một cây tích trượng và hô: “Dừng lại!” khi con rắn định bò lên ghế trong giảng đường. Con rắn khổng lồ bỗng cúi đầu xuống và nhắm mắt lại.
Hòa thượng Hoa Nghiêm bắt đầu quở mắng con rắn, gõ vào đầu nó bằng cây tích trượng và nói: “Giờ ngươi đã minh bạch được nghiệp mà ngươi đã tạo ra hay chưa. Ngươi nên hồi hướng Tam bảo”. [Chú thích: ‘Tam bảo’ là một ẩn dụ trong Phật giáo.] Ông yêu cầu tất cả hòa thượng ở đó cùng nhau niệm kinh Phật hướng về con rắn, và con rắn bò ra khỏi chùa.
Hòa thượng Hoa Nghiêm bèn triệu hồi vị hòa thượng tập sự tới và nói: “Con rắn đó là thầy của con (vị hòa thượng đã chết). Sau nhiều năm tu hành, ông ấy đã gần đạt chính quả. Tuy nhiên, ông ấy đã nổi giận chỉ vì chiếc bát đó. Thay vì tu thành chính quả, ông ấy đã chuyển sinh thành một con đại mãng xà. Ông ấy tới để giết con vì con đã làm vỡ chiếc bát. Nếu thật sự giết con, ông ấy sẽ phải xuống ngục vô gián, và bị chịu dày vò mãi mãi ở trong đó. May mắn thay, ta đã chặn ông ấy gây tội ác đúng lúc, và giải thoát ông ấy khỏi kiếp sống của con đại mãng xà. Bây giờ con nên đi xem ông ấy ra sao”.
Người đệ tử bèn đi ra và tìm kiếm con đại mãng xà. Thật là dễ dàng để lần theo dấu vết của con rắn dựa vào các đám cây cỏ bị đổ rạp khi nó bò qua. Bước đi theo vết bò của con rắn giống như bước đi trên một con đường trải dành cho xe ngựa kéo. Con rắn đã bò được 45 lý vào một vùng sơn cốc rất hẻo lánh trước khi nó tự vẫn bằng cách đập đầu vào một tảng đá. Người đệ tử trở về và báo với hòa thượng Hoa Nghiêm về điều đã xảy ra với con rắn.
Hòa thượng Hoa Nghiêm nói: “Bây giờ con rắn đã chuyển sinh thành đứa con gái sắp sinh của Bùi lang trung. Đứa bé gái này mười phần thông tuệ, nhưng lại chết yểu vào tuổi 18. Và rồi cô lại sẽ được đầu thai thành một đứa bé trai, sẽ xuất gia và tu hành theo Phật giáo khi lớn lên. Bùi lang trung là một trong những đồ đệ của ta. Con có thể tới thị trấn và thăm hỏi Bùi lang trung giùm ta. Phu nhân của Bùi lang trung đang gặp khó khăn khi sinh nở. Con nên đi ngay lập tức và giúp đỡ đứa bé gái.”
Ông Bùi Khoan là một vị lang trung phục vụ trong quân đội. Ông cũng là một đồ đệ của hòa thượng Hoa Nghiêm. Vị hòa thượng tập sự đi vào thành, và bái kiến gia đình ông Bùi Khoan. Tình cờ, ông Bùi đang xin nghỉ phép ở nhà để chăm sóc phu nhân. Người đệ tử bèn nhờ người hầu chuyển giúp lời tới ông Bùi: “Hòa thượng Hoa Nghiêm có chuyển lời tới ông!”
Vị lang trung bèn đi ra ngoài để gặp người đệ tử; trông ông khá bối rối. Người đệ tử hỏi lý do và biết được rằng phu nhân của ông đã bị đẻ khó từ sáu đến bảy ngày. Ông Bùi đã ở bên phu nhân của ông mỗi đêm với cây đèn dầu. Dường như bà và đứa bé đang trong tình trạng rất nguy kịch.
Người đệ tử nói: “Tôi có thể giúp đỡ phu nhân”. Người đệ tử yêu cầu trải một tấm chiếu sạch ở nhà ngoài bên cạnh buồng ngủ. Người đệ tử bèn ngồi lên tấm chiếu, đốt hương, gõ khánh, và kêu lên ba lần: “Hòa thượng.”
Phu nhân của ông Bùi lập tức sinh hạ được một đứa bé gái. Đứa bé gái này qua đời vào tuổi 18 đúng như hòa thượng Hoa Nghiêm đã dự báo.
Những câu chuyện luân hồi thật kỳ lạ, nhân duyên khiến cho người ta phải gặp lại nhau, dù là thiện duyên hay ác duyên cũng vậy, hãy cứ vui vẻ mà đối diện. Hy vọng rằng bạn sẽ có được cảm hứng từ câu chuyện này và nhận ra được tầm quan trọng của việc đối xử với những người chúng ta gặp bằng một trái tim từ thiện.
Tài liệu gốc: Sưu tập những câu chuyện kỳ dị (Thái Bình Quảng Ký)

Theo Chánh Kiến

Bạch Mã Cổ Tự ngôi Già lam đầu tiên Phật giáo Trung Quốc

Bạch Mã Cổ Tự ngôi Già lam đầu tiên Phật giáo Trung Quốc

Đăng lúc: 19:49 - 28/07/2015

Ngôi Thánh địa Già lam Bạch Mã, ngôi chùa cổ xưa nhất ở Trung Quốc, tọa lạc khoảng 6 dặm Anh, cách Thành phố Lạc Dương, thuộc tỉnh Hà Nam, miền Đông Trung Quốc.
Ngôi Già lam Bạch Mã Cổ Tự được sáng lập từ thời Minh Đế của triều đại Đông Hán (từ năm 29 sau Công Nguyên đến năm 75 sau Công Nguyên), gắn liền với truyền thuyết thần kỳ về sự kiến tạo thuở sơ khai.
Theo sử Trung Hoa ghi chép, vào thời Đông Hán, niên hiệu Vĩnh Bình, Hán Minh Đế nằm mộng thấy một cảnh sơn xuyên tú lệ, vân thủy hữu tình và có một Thần nhân lấp lánh hoàng kim quang lâm cung điện. Khi tỉnh mộng, Hán Minh Đế triệu tập các quan cận thần đến để chia sẻ về giấc mơ của mình. Đại thần Phó nghị tâu rằng: “Muôn tâu Bệ Hạ! Vào ngày 08 tháng 04 năm thứ 24 thời Chu Chiêu Vương (971 trước Công nguyên) triều đại nhà Chu, tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động. Ban đêm có những ánh hào quang ngũ sắc chiếu khắp trời Tây”.

Vị Thái sử họ Tô suy đoán rằng: “Đây là dấu hiệu của sự Đản sinh của một vị Đại Thánh ở Thiên Trúc. Vị Thánh nhân này lâm phàm để cứu khổ chúng sinh. Giáo pháp của Ngài sau một nghìn năm thì có thể bén rễ vào đất Trung thổ này. Giờ đây đã đến thời kỳ tiếp nhận ánh sáng đó. Hạ thần nghe nói có một vị Thánh ở Tây Vức, được thế gian tôn sùng kính ngưỡng tôn xưng là “Phật Thế tôn” mà Bệ hạ nằm mơ thấy”.
Trăm nghe không bằng mắt thấy, Hán Minh Đế chiếu chỉ cho một phái đoàn 12 người sang tận Tây Vức để tìm Phật Thế tôn để cầu Chính pháp Như Lai.
Đoàn 12 người đã trãi quan bao gian khó hiểm nguy, cuối cùng đến quốc gia Đại Nguyệt Thị (Tai Yueshi), vùng Tây Vức, nơi Phật Pháp hưng thịnh, giáo lý Phật đà được phổ cập từ Thành thị đến nông thôn, Vua quan cho đến thứ dân điều mộ đạo tu hiền, cơ sở tự viện Phật giáo có mặt khắp nơi. Đoàn người đã đảnh lễ và cung thỉnh hai vị Thánh tăng Thiên Trúc, Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan về Trung Nguyên (Trung Hoa), đoàn mang về một số Kinh và tượng Phật. Năm thứ 10, niên hiệu Vĩnh Bình, triều Hán Minh Đế (67 sau Công nguyên), đoàn 12 người mới quay trở về Lạc Dương, Kinh đô của triều đại Đông Hán.
Hán Minh Đế vui mừng khôn xiết, thỉnh nhị vị Thánh Tăng vào cung thỉnh vấn, và sau đó đưa nhị vị Thánh Tăng nhập Già lam Tịnh địa Hồng Lô Tự, một Dinh thự quan chức của Bộ Ngoại Giao, và chiếu chỉ cho nhị vị Thánh Tăng dịch những các bộ kinh Tứ Thập Nhị Chương, Thập Ðịa Ðoạn Kết, Phật Bổn Sanh, Pháp hải Tạng, Phật Bổn Hạnh. . .
Ca Diếp Ma đằng và Trúc Pháp Lan, Nhị vị Thánh Tăng đã dịch kinh và hoằng truyền Chính pháp Như Lai tại Bạch Mã Tự. Những bản kinh của nhị vị Thánh Tăng dịch từ Phạn sang Hán được sự trân quý và luôn cất giữ trong Đại Điện để chư Tăng và Phật tử Lễ bái Tôn thờ Pháp bảo.
Đến thời Đại Đường, Nữ hoàng Võ Tắc Thiên, Trung Hoa Phật giáo Quốc đạo, ngôi Già lam Tịnh địa Bạch Mã Cổ tự cực thịnh, chư Tăng có hơn một nghìn.
Vào thời nổi loạn của An Sử (755-763), Phật giáo bị pháp nạn, ngôi Già lam Tịnh địa Bạch Mã Cổ tự bị pháp hoại trầm trọng.
Đến thời Hội Xương (840-846) tru diệt Phật giáo, ngôi Già lam Tịnh địa Bạch Mã Cổ tự chỉ còn tàn tích lưu lại với những mảnh đá vỡ khắc chữ.
Thời Tống Thái Tông (939 -997), Vua Gia Tĩnh nhà Minh (1507- 1567) và vua Khang Hy nhà Thanh (1662-1722) cũng đã liên tục việc trùng tu kiến thiết ngôi Già lam Tịnh địa Bạch Mã Cổ tự được nguy nga tráng lệ cho đến nay.
Ngôi Già lam Tịnh địa Bạch Mã Cổ tự đã được 1.943 tuổi, ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo Trung Quốc, và được xem là “Cái nôi của Phật giáo” của Phật giáo Trung Quốc.
Chùm ảnh Ngôi Già lam Tịnh địa Bạch Mã Cổ tự, ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo Trung Quốc, và được xem là “Cái nôi của Phật giáo” của Phật giáo Trung Quốc, trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc cùng vòng quanh thưởng lãm:


































































































































































































































































































Thích Vân Phong

Chùm ảnh: Những khoảnh khắc bình yên ở Pakistan

Chùm ảnh: Những khoảnh khắc bình yên ở Pakistan

Đăng lúc: 21:42 - 19/07/2015

Nhắc đến Pakistan chắc hẳn nhiều người sẽ nghĩ ngay đây là một đất nước bất ổn với đầy rẫy những cảnh xung đột và bạo lực. Tuy nhiên, đó không phải là tất cả những gì đang diễn ra ở đất nước này.
Dưới đây là những hình ảnh đời thường ở Pakistan do các phóng viên quốc tế ghi lại. Hy vọng những con người nơi đây sẽ sớm được hưởng cuộc sống yên bình và hạnh phúc.
[IMG]
Trẻ em Pakistan chơi trò đẩy bánh xe lúc hoàng hôn đang buông xuống thành phố Lahore.
[IMG]
Cô bé Mamouna Qamar 4 tuổi nắm tay 2 người anh trai của cô Shazaib (6 tuổi) và Zaman (7 tuổi) đứng chờ cha mẹ trên một con đường nhỏ ở Islamabad, Pakistan.
[IMG]
Một bé gái được mẹ ẵm trên tay đi theo cha vào một khu ổ chuột ở ngoại ô thủ đô Islamabad.
[IMG]
Trẻ em Pakistan chạy theo chiếc xe đạp của người đàn ông bán bong bóng. Đối với một đứa trẻ, bong bóng luôn là một món đồ chơi đầy hấp dẫn.
[IMG]
Một cậu bé đang ăn bắp luộc và cầm chiếc bong bóng hình trái tim trên tay ở một khu dân cư nghèo gần Islamabad.
[IMG]
Các em bé Pakistan chơi đùa bên chiếc xe kéo bằng gỗ ở ngoại ô Islamabad. Những nụ cười thật hồn nhiên và đáng yêu.
[IMG]
Một bé gái đang quấn lại chiếc khăn quấn đầu khi đang đứng cùng những cô gái khác ở một khu ổ chuột ngoại ô Islamabad.
[IMG]
Trẻ em Pakistan ở lớp học tiếng Anh ngoài trời trong một khu ổ chuột gần Islamabad.
[IMG]
Nghệ sĩ đường phố và chú khỉ đang chờ đợi khán giả đến xem màn trình diễn của mình.
[IMG]
Một bé gái người Afghanistan tị nạn ở Pakistan trở về nhà trong khu ổ chuột ngoại ô Islamabad.
[IMG]
Bé gái Aysha Gulfeyaz, 3 tuổi, uống nước từ một giếng nước bơm tay gần Islamabad.
[IMG]
Các bé gái Pakistan vui đùa khi đang mang củi về nhà trong khu ổ chuột ở ngoại ô Islamabad.
[IMG]
2 bé gái người Afghanistan và một cô bé Pakistan đang tham dự lớp học hàng ngày để đọc kinh Koran trong một ngôi đền ở ngoại ô Islamabad.
[IMG]
Các bé trai Pakistan tham gia lớp học đọc kinh Koran trong một ngôi đền gần Islamabad.
[IMG]
Các bé gái Afghanistan ngồi bên dưới một chiếc xe kéo bằng gỗ trong một khu ổ chuột ở ngoại ô Islamabad.
[IMG]
Một cậu bé Pakistan đang chơi đu quay. Dòng chữ trên chiếc lồng đu quay được viết bằng ngôn ngữ Urdu, nghĩa là “Chúc mừng lễ hội Eid, từ London đến Hoa Kỳ”. Eid là một lễ hội đánh dấu kết thúc tháng chay Ramadan của người Hồi Giáo.
[IMG]
Các bé gái Pakistan đang làm việc trong một xướng gạch ở ngoại ô Islamabad.
[IMG]
Các cậu bé Afghanistan đang chơi game bên dưới một tầng hầm ở một khu ổ chuột gần Islamabad.
[IMG]
Các bé trai Pakistan tụ tập xem cá cảnh trên xe đạp của một người bán cá dạo.
[IMG]
Mohammed Ali, 5 tuổi, đứng kế mẹ của cậu khi đang xếp hàng cùng những người khác để chờ nhận gạo ở một địa điểm phát hàng cứu trợ ở đền thờ Beri Iman ở Islamabad.
[IMG]
Một người đàn ông đang chở phần đầu của một xe tải trên chiếc xe kéo của anh ta đi trên đường ở thành phố Rawalpindi, một thành phố gần Islamabad.
[IMG]
Trẻ em Pakistan vui đùa trên một ngọn đồi ở ngoại ô thủ đô.
[IMG]
Một thợ cắt tóc hè phố (phải) đang phục vụ khách hàng (trong gương) ở Gujranwala, gần Lahore, thành phố lớn thứ 2 ở Pakistan và là một trung tâm văn hóa.
[IMG]
Trẻ em Pakistan đang qua sông trên một chiếc cáp treo trên không.
[IMG]
Trẻ em Pakistan nhìn qua cửa của một chiếc xe kéo, các em đang vui chơi cùng nhau trên một khoảng đất trống ở khu ổ chuột ngoại ô Islamabad.
[IMG]
Một bé gái đang đứng chờ mẹ cô nhận gạo cứu trợ ở đền Beri Iman.
[IMG]
Một bé gái đang dắt chú ngựa của gia đình đi trong một khu ổ chuột ở ngoại ô Islamabad.
[IMG]
2 cậu bé bán túi ni-lông kiếm sống đánh nhau tại một khu chợ ở Islamabad.
[IMG]
Hai cô bé người Afghanistan giặt đồ trên một con suối ở ngoại ô thủ đô Islamabad.
[IMG]
Các bé gái người Afghanistan cùng nhau vui chơi ở một khu ổ chuột ngoại ô Islamabad.
Lê Vương Thịnh
Theo Tinhte.vn, nguồn: Boston.com

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sang Mỹ điều trị

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sang Mỹ điều trị

Đăng lúc: 21:55 - 16/07/2015

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có mặt ở Bờ Tây nước Mỹ vào ngày 11.7 để tham dự “một chương trình phục hồi sức khỏe chuyên sâu hơn”, theo thông tin đăng tải ngày 14.7 trên trang web Làng Mai (plumvillage.org) của thiền sư.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sang Mỹ chữa bệnh - ảnh 1
Thiền sư Thích Nhất Hạnh - Ảnh: Reuters

Trang Làng Mai hồi tháng 4 cho biết Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã xuất viện trở về nhà sau gần 5 tháng điều trị chứng xuất huyết não tại bệnh viện ở Bordeaux, miền nam nước Pháp.

Trong bản tin ngày 14.7, trang Làng Mai cho biết thiền sư hiện đã đủ khỏe để bày tỏ nguyện vọng được tham gia chương trình hồi sức và chính ông đã chọn Mỹ.

“Thiền sư đã sang Mỹ bằng máy bay cá nhân do một người bạn cung cấp. Ông được sư cô Chân Không tháp tùng và một đội ngũ sẽ tiếp tục chăm sóc thiền sư 24/24 giờ trong thời gian ở Mỹ”, theo thông báo của Làng Mai.

Khi máy bay hạ cánh, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nhất quyết tự rời máy bay, không chịu ngồi trên xe lăn và “ông đã mỉm cười vui vẻ”, bản tin Làng Mai thuật lại.

Một nhóm chuyên gia thần kinh học giỏi thuộc trường Đại học California (USCF) sẽ đảm trách chương trình hồi sức cho thiền sư, thông báo cho hay.

Trước đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nhập viện sau khi bị xuất huyết não nghiêm trọng vào ngày 11.11.2014, tại bệnh viện ở Bordeaux, miền nam nước Pháp.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926 ở Huế. Ông xuất gia năm 16 tuổi ở chùa Từ Hiếu, sau đó theo học tại Phật học viện Bảo Quốc. Ông từng là Tổng biên tập báo Phật giáo Việt Nam, người sáng lập Trường Thanh niên Phụng sự xã hội, góp phần thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh và Nhà xuất bản Lá Bối.

Ông đi giảng dạy ở nhiều nước và thành lập nhiều trung tâm thiền. Ông chính thức cư ngụ ở Tu viện Làng Mai (Pháp), đã về thăm Việt Nam hai lần vào năm 2005 và 2007, tổ chức ba trai đàn chẩn tế cầu siêu lớn tại cả ba miền.

Thiền sư hiện được xem là nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây chỉ sau Đạt Lai Lạt Ma. Ông đã xuất bản hơn 100 cuốn sách, trong đó có nhiều sách bằng tiếng Anh, về triết lý sống và triết lý Phật giáo, nổi tiếng với các bài giảng về việc sống trong giây phút hiện tại, quán chiếu hơi thở và bước đi.

Hoàng Uy

Chuyện Bách Dụ – Lý Luận Của Kẻ Trộm

Chuyện Bách Dụ – Lý Luận Của Kẻ Trộm

Đăng lúc: 18:37 - 13/07/2015

Đức Phật thuyết pháp có tư tưởng đặc biệt trong giáo pháp của Ngài. Mỗi tôn giáo đều có tôn chỉ và giáo pháp riêng của họ, chúng ta đem Phật pháp ứng dụng vào tôn giáo khác thì không phù hợp; huống gì tà giáo, quan điểm bất đồng rất lớn.
Lí luận của kẻ trộm
Lời dẫn: Mỗi loài chúng sinh trong vũ trụ đều có cách sống không giống nhau. Con người có giàu sang và nghèo cùng, cuộc sống của họ cũng khác nhau; đó là nguyên do phúc báo và nghiệp báo. Người có phúc báo được hưởng thụ văn minh vật chất thời hiện đại; người không có phúc giống như cuộc sống thời nguyên thủy; cho dù có máy móc và các dụng cụ tối tân hiện đại họ cũng không biết sử dụng; giống như phương tiện giao thông ngày nay ngày càng đổi mới, có người vận dụng nó làm rất nhiều việc, đạt được lợi ích rất nhiều. Có người chẳng những không biết vận dụng, mà còn vì nó đánh mất sinh mạng quí báu.
Thuở xưa, có một người rừng ở trong núi thẳm, quanh năm chưa từng trải việc đời, cuộc sống của hắn là những ngày rất chất phác và đơn giản.
Một hôm, có gã thợ săn đuổi thú rừng đến rừng sâu này. Gã nói với người rừng:
- Này anh! Cuộc sống thành thị sung sướng và giàu sang như thế này, như thế này.
Nghe thợ săn nói, hắn rất ngưỡng mộ cuộc sống xa hoa ở thành thị. Một hôm, hắn trèo đèo vượt núi đi đến thành thị, hắn nhìn thấy nam thanh, nữ tú đều xinh đẹp, đâu đâu cũng nhà cao cửa rộng; thức ăn là những món sơn hào hải vị, thịt cá ê hề; thật sự quá sung sướng. Nhưng ta hai bàn tay trắng phải làm thế nào?
Một hôm thừa dịp đêm khuya, hắn lén đột nhập vào cung trộm lấy long bào của nhà vua; nhưng chỉ qua vài ngày hắn bị quân lính bắt trói đem về cung giao cho nhà vua. Hắn vẫn cãi leo lẻo:
- Tâu bệ hạ! Long bào này là phẩm vật tổ tiên của thảo dân để lại.
Nhà vua bảo:
- Ngươi nói phẩm vật của tổ tiên ngươi để lại thì hãy mặc cho trẫm xem thử?
Vì vậy, ở trước mặt nhà vua hắn muốn mặc long bào nhưng cứ lật qua lật lại mặc thế nào cũng không đúng. Nhà vua nhìn thấy cười lớn nói:
- Ngươi nói của tổ tiên để lại mà ngay cả mặc cũng không biết. Quân sĩ đâu! Bắt hắn giam vào ngục cho trẫm.
Thế là hắn bị nhà vua tống vào nhà ngục.
kinh-phap-cu-pb4
Bài học đạo lí
Đức Phật thuyết pháp có tư tưởng đặc biệt trong giáo pháp của Ngài. Mỗi tôn giáo đều có tôn chỉ và giáo pháp riêng của họ, chúng ta đem Phật pháp ứng dụng vào tôn giáo khác thì không phù hợp; huống gì tà giáo, quan điểm bất đồng rất lớn.
Đức Phật dạy: “Vạn vật là do nhân duyên sinh”. Từ sinh tử khổ vui, cho đến họa phúc, thiện ác của tất cả chúng sinh đều là mình làm mình chịu. Theo tư tưởng của các tôn giáo khác tất cả mọi việc đều do thần điều khiển chi phối. Như thế cách thuyết pháp mỗi tôn giáo không giống nhau, có thể hợp lại được không?
Phật giáo có giới luật và phương pháp tu hành của Phật giáo, các tôn giáo cũng có pháp tu riêng của họ. Có những người tu hành không nương theo Phật pháp mà chỉ trộm những danh từ, tùy tiện sửa đổi, hay xen tạp những tà thuyết; hoặc chỉ học những nghi thức để làm nổi bậc bề ngoài của mình; chẳng những tâm mình không biết hổ thẹn mà còn lộ ra nhân cách thấp hèn. Bọn họ nói ba tôn giáo hợp lại một, hoặc nhiều tôn giáo trở về một, trời ban chân đạo, thần nào đó, Phật nào đó giáng xuống đàn tràng giảng đạo; lại vâng lịnh của trời v.v…chẳng ra cái gì, chỉ là dọa nạt và dụ dỗ mọi người; dựa vào trời, thần để mượn thánh chỉ, lừa gạt nhân dân. Thực sự vừa buồn cười vừa đáng thương.
Nhân loại có một chứng bệnh giống nhau, thích nghe nói giả dối; giống như người làm kinh doanh nói: “Chịu lỗ vốn gốc”, “bán giảm giá khuyến mãi” hay“bán hàng thanh lí”…thì mọi người kéo đến mua hàng giảm giá đông như kiến. Nếu như họ kinh doanh chân thật thì làm ăn chịu nhiều thiệt thòi. Điều này không phải làm cho kẻ gian lường gạt hay sao?
Một số danh từ: lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, mượn danh nghĩa để làm bậy, không phân biệt trắng đen v.v…đều là tham và ngu. Có người vì danh, có kẻ vì lợi, có kẻ tham của rẻ mà đánh mất lí trí. Những kẻ tham tài, tham lợi mới có thể phủ lên sự giả dối. Tham và lừa gạt muôn sự ở thế gian, họ chỉ đạt được một chút lợi ích trước mắt mà chịu nhiều thiệt thòi về sau. Trong tín ngưỡng, tu hành lừa dối là việc nhiều đời nhiều kiếp; lại lừa thần, dối Phật thì tội lỗi càng chồng chất, hiện tại tuy chưa thấy được báo ứng nhưng tội lỗi lại chịu nhiều đời nhiều kiếp; giống như đứa bé vì được lợi ích viên kẹo mà đời sau lại mất tài sản vô lượng. Quả thật vừa đáng thương vừa đáng buồn.
Nguồn: http://vnbet.vn/chuyen-bach-du-32.html

Đối mặt với sự ra đi đột ngột của người thân

Đối mặt với sự ra đi đột ngột của người thân

Đăng lúc: 21:17 - 11/07/2015

Ni Sư Thubten Chodron (thế danh Cherry Green), sinh năm 1950, lớn lên gần vùng Los Angeles. Ni sư hoàn thành Cử Nhân Lịch Sử tại Đại Học UCLA năm 1971. Sau khi du lịch qua Châu Âu, Bắc Phi và Châu Á trong khoảng một năm rưỡi, Ni sư trở về Mỹ, lấy chứng chỉ sư phạm, theo học chương trình sau đại học tại USC về Giáo Dục và dạy học ở Hệ Thống Các Trường tại thành phố Los Angeles.
Năm 1975, Ni sư tham dự một khóa tu thiền của Ngài Lama Yeshe và ngài Zopa Rinpoche. Sau đó Ni sư qua Nepal tiếp tục tu học và hành thiền tại Tu Viện Kopan. Năm 1977, Ni sư được Ngài Kyabje Ling Rinpoche cho xuất gia tại Dharamsala, Ấn Độ, và năm 1986 Ni sư thọ đại giới tại Đài Loan.
Ni Sư Thubten Chodron thường chú trọng đến việc áp dụng những điều Phật dạy vào đời sống hằng ngày của chúng ta và đặc biệt thiện xảo trong việc giải thích chúng bằng những phương cách dễ hiểu và dễ thực hành. Ni Sư nổi tiếng với những bài Pháp đầy ý nhị, nhẹ nhàng, chân thật và rõ ràng.
***

Hình minh họa

Dưới đây là bài pháp thoại của Ni Sư Thubten Chodron trong chương trình hoằng pháp qua video: Bodhisattva’s Breakfast Corner của tu viện Sravasti Abbey
02-01-15
***
Năm ngoái có một số người đã viết thư cho chúng tôi hoặc vì họ có người thân vừa mất đi trong một tai nạn bất ngờ hoặc là vì con họ đã đột ngột ra đi. Hoặc cả hai như trong trường hợp con họ bị mất trong một tai nạn. Dĩ nhiên điều đó gây đau đớn khôn cùng cho gia đình của nạn nhân.
Người ta khó chấp nhận việc đột tử của người thân là vì họ vừa có mặt hôm nay ở đây, rồi bỗng ngày hôm sau không có mặt. Khi chúng ta thấy ai đó hôm nay, chúng ta nghĩ là họ cũng phải có mặt ngày hôm sau vì thông thường là như thế: họ có mặt hôm nay, thì họ sẽ có mặt ngày hôm sau hay hôm sau nữa, vì thế chúng ta không hề nghĩ là có thể họ sẽ không có mặt ở đây nữa. Dầu về mặt tri thức, chúng ta vẫn biết là người có mặt hôm nay có thể không có mặt trong ngày mai, vì không ai sống mãi, nhưng ta lại ngạc nhiên vì sự vắng mặt của họ.
Ngay đối với cha tôi, người vừa ra đi năm ngoái ở tuổi 93. Tất cả chúng tôi đều biết ông sẽ ra đi vì ở tuổi 93 chắc chắn là ông không thể sống lâu hơn nữa, nhưng vì ông chết do một tai nạn là ăn bị nghẹn. Phản ứng đầu tiên của tôi là kêu lên “Nhưng tôi vừa gặp người hôm qua mà!” vì ngày hôm trước đó chúng tôi vừa quay một video về ông. Vì thế, ngay trong trường hợp bạn đã chuẩn bị cho việc ai đó sắp ra đi, bạn cũng không thể dễ dàng chấp nhận.
Đối với sự ra đi đột ngột của con cái, ta càng khó chấp nhận hơn, vì dường như điều đó đi ngược lại với cái ‘trật tự tự nhiên’. Đó là người già phải đi trước rồi mới đến người trẻ, là cha mẹ phải ra đi trước con, cho nên khi con ra đi trước cha mẹ thì trật tự đó bị đảo lộn. Vì thế chúng ta thường thấy có sự xung đột giữa những điều chúng ta biết dựa trên tri thức và những gì tự động xảy ra trong cuộc sống. Thí dụ chúng ta biết mọi người đều phải chết nhưng khi nghe ai đó ra đi, ta lại ngạc nhiên. Hoặc chúng ta biết rằng tuổi tác không phải là yếu tố dự báo khi nào ta ra đi nhưng khi có người trẻ tuổi mất đi, chúng ta đều ngạc nhiên. Cho nên có sự khác biệt giữa những gì ta biết và những gì thực sự xảy ra. Vì thế trong Phật giáo ứng dụng, chúng ta cố gắng đưa những gì chúng ta biết đến gần hơn với những gì thực sự là.
Chúng ta biết là cái chết sẽ đến với tất cả. Chết là điều tự nhiên chứ không phải là trái tự nhiên, vì ngay khi ai đó vừa được sinh ra, chúng ta biết rồi lúc nào đó họ sẽ chết vì không có ai sống mãi. Chết chỉ là một phần tự nhiên của cuộc sống, không phải vì ai đó làm điều gì sai trái mà họ phải chết, phải bị đau khổ hay bất cứ điều gì tương tự như thế. Chỉ là thân chúng ta vô thường, và chỉ có thể được duy trì đến một mức độ nào đó rồi thì nó cũng phải hư hoại. Chúng ta phải thực sự hiểu điều đó và quán tưởng về nó.
Người cha trước đây đã viết thư cho chúng tôi nhờ giúp đỡ, tư vấn về vấn đề này, đã có lần email cho chúng tôi nói rằng, dầu ông không phải là người theo một tôn giáo nào, nhưng cái chết đột ngột của con trai khiến ông nhận ra rằng sự sống rất ngắn ngủi, tạm bợ. Tôi nghĩ đó là một nhận thức khôn ngoan. Nếu đó là điều tâm bạn thực sự cảm nhận được trong khi trải qua kinh nghiệm đau đớn của việc mất đi đứa con thì cuối cùng cuộc đời của bạn và những người chung quanh sẽ thực sự được hữu ích, được tăng trưởng. Vì khi ta nhận thức được rằng tất cả rồi sẽ chết, thì chúng ta sẽ thấy những chuyện tủn mủm, vụn vặt mà ta vẫn tranh cãi với nhau là phi lý. Nếu tất cả chúng ta sẽ ra đi thì có gì quan trọng trong việc ai sẽ là người lau dọn nhà, bạn hay tôi, tại sao chúng ta phải cãi nhau về những chuyện trẻ con, ngu ngốc đó. Khi biết mình sẽ chết, thì ta không còn thì giờ để hờn giận ai nữa. Có thể có ai đó đã làm tổn thương, làm hại ta trong quá khứ, nhưng khi chúng ta quán tưởng về cái chết của mình, của người, thì có ai còn muốn khư khư giữ lấy sự giận hờn, oán trách trong tâm nữa, vì tất cả đều vô nghĩa. Vì thế khi chúng ta ý thức được về cái chết, điều đó thực sự giúp chúng ta sống một cách sinh động hơn -tôi đoán rằng những người còn lại trong gia đình như cha mẹ, anh chị em sẽ quý trọng nhau hơn sau sự mất mát đó. Vì họ đã nhận thức được điều đó.
Trong cuộc sống ai cũng bận rộn: cha mẹ thì phải đi làm, trẻ em thì phải đến trường, ai cũng có công việc, không có thì giờ để trò chuyện với nhau. Nhưng khi bạn thấy là cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào thì chúng ta sẽ chọn lựa khác đi, ta sẽ biết điều gì quan trọng hơn, cần làm trước hơn. Và chúng ta sẽ thấy là con người quan trọng hơn tất cả mọi thứ.
Thương yêu hay tử tế với nhau quan trọng hơn là sự nổi tiếng, sự đúng sai, hay quyền lực. Khi ta thực sự nghĩ đến điều này, thì chúng ta sẽ dừng lại, và thấy rằng con người và muôn vật đều giống nhau, đều quan trọng, vì tất cả đều có cảm xúc. Vậy ta có thể làm gì để giúp họ được hạnh phúc, để biểu lộ tình thương yêu đối với họ. Đừng nghĩ là họ phải biết mình yêu thương họ, mà cứ sống thản nhiên, không cần biểu lộ tình cảm. Và việc cần biểu lộ tình thương yêu không chỉ đối với người thân trong gia đình mà còn cả đối với bạn bè, đồng nghiệp, hay bất cứ ai mà chúng ta gặp. Hãy bày tỏ sự trân quý đối với những ai chúng ta gặp ở bất cứ thời điểm nào, ở trước mắt chúng ta, chứ đừng sống thản nhiên, coi mọi thứ là điều tự nhiên. Vì chỉ có giây phút trước mắt là giây phút chúng ta thực sự sống. Cứ bận rộn với thứ này, việc nọ thì cả cuộc đời ta sẽ vùi trong những thứ đó. Sự liên kết với con người và biểu lộ sự quan tâm, sự mong ước cho họ được hạnh phúc, đó mới thực sự là những điều quan trọng. Tôi ít nghe ai đó trước khi từ giã cõi đời lại nói, “Tôi thật tiếc đã không làm thêm nhiều giờ tăng ca”, hay “Tiếc là tôi đã không nổi tiếng hơn nữa”, hay “Giá mà tôi đã thắng trong cuộc tranh cãi hai mươi năm về trước”. Thật thế, không ai nghĩ như thế cả. Nhưng ai cũng nuối tiếc là mình đã không kết nối với người thân yêu hơn, đã không sống trọn vẹn hơn. Đó là điều mà tất cả chúng ta đều có thể học được từ cái chết bất ngờ của người thân, là điều mà tất cả chúng ta đều phải trải qua, chắc chắn như thế. Chúng ta sẽ chứng kiến sự ra đi của người thân, chứng kiến sự ra đi của chính mình. Vì thế hãy để cuộc sống của chúng ta trở nên ý nghĩa hơn.
Khi một người ra đi đột ngột, chúng ta thường hỏi tại sao điều này lại xảy ra. Nhưng tôi không nghĩ là câu trả lời có thể giúp người ta bớt khổ đau hơn. Nó có thể giải thích sự việc, giống như trong Phật giáo, chúng ta cũng có cách giải thích, nhưng tôi nghĩ rằng câu hỏi tại sao không phải là câu hỏi mà trong thâm tâm chúng ta muốn hỏi. Tôi nghĩ điều mà thâm tâm ta muốn biết là làm sao để biểu lộ, diễn tả sự quan tâm, tình thương yêu không chỉ cho người đã mất mà cả cho những người còn sống quanh ta.
Nếu chúng ta quan tâm đến người đã chết, tốt hơn hết chúng ta tiễn họ đi với tình thương yêu. Chúng ta tin rằng có tái sinh. Người thân của ta có cuộc sống khác, nên ta có thể cầu cho người ra đi được có một cuộc sống kế tiếp tốt đẹp. Cầu cho họ tái sinh với lòng từ bi, có đức hạnh, có trí tuệ, và dùng trí tuệ đó một cách có đạo đức. Cầu cho họ được tái sinh trong một môi trường, hoàn cảnh sống tốt đẹp hầu trưởng dưỡng các đức tính của họ, và mong họ cũng có thể trưởng dưỡng đức tính của những người họ tiếp cận. Vì thế tôi nghĩ thái độ đúng đắn đối với sự ra đi đột ngột của người thân là dầu chúng ta có buồn đau vì người đã mất, chúng ta nên tiễn đưa họ với tất cả những lời chúc phúc tốt lành. Không chỉ cầu cho kiếp tái sinh của họ được giàu sang, đầy đủ thực phẩm, chỗ trú ngụ, vân vân -dĩ nhiên, chúng ta luôn mong cho họ những điều đó- nhưng hãy nghĩ đến những giá trị nội tâm mà họ có thể được đón nhận. Mong rằng trong cuộc sống kế tiếp, họ có thể sống có ý nghĩa, có thể đóng góp, phụng sự cho người, cho xã hội, để họ có thể biểu lộ sự quan tâm, tử tế đối với bất cứ ai mà họ tiếp cận trong cuộc sống kế tiếp. Và niềm tin này rất hữu ích khi chúng ta gửi gấm những ý nghĩ này theo với người chết vì chúng ảnh hưởng đến tiềm thức của họ trong kiếp sống tới một cách tích cực. Tôi nghĩ đó là điều rất hữu ích cho bản thân và tha nhân.
Trở lại vấn đề thực sự hàm ân đối với nhiều thứ. Trong Phật giáo có câu nói: “Ly đã bể”. Bạn có thể dùng câu này để nói về nhiều thứ, thí dụ, cái loa đã bể. Việc dùng cái ly hay cái tách chỉ là một thí dụ điển hình. Ly vẫn còn đây, nhưng chúng ta biết rằng nó có thể bể. Nếu chúng ta biết rằng một ngày kia ly sẽ bể thì chúng ta không sống với hy vọng rằng cái ly sẽ không bể, rằng nó sẽ luôn có mặt ở đây. Nếu không hy vọng như thế thì chúng ta sẽ trân trọng cái ly hơn, nhưng khi ly có bể thì ta cũng thản nhiên vì ta đã biết như thế. Chúng ta thích chất liệu của ly, nhưng chúng ta không bám víu vào nó, không nói rằng, “Đây là cái ly quý báu của tôi. Chớ có đụng đến ly của tôi, chứ đừng nói đến việc làm bể ly của tôi”. Biết rằng ly đã bể, chúng ta sẽ biết trân quý khi nó còn có mặt. Rồi khi nó vỡ đi, ta cũng không hối tiếc. Không đau khổ. Tương tự chúng ta không hối tiếc đối với quá khứ vì ta đã có những kỷ niệm đáng nhớ với người thân. Chúng ta không đau khổ vì quá khứ đã qua đi, chúng ta đã trải nghiệm nó. Không đau khổ cho hiện tại vì hiện tại có thể chấm dứt trong nháy mắt. Tôi nghĩ cái mà chúng ta hối tiếc hướng tới tương lai, cái tương lai mà ta phác hoại một đằng nhưng nó đã xảy ra đằng khác. Chúng ta nghĩ là sẽ có cái ly trong tương lai, nên ta bám víu vào nó, gắn kết với nó, rồi khi ly bể, ta bực tức, giận dữ. Cũng thế đối với con người, ta cũng nghĩ là người thân phải/sẽ có mặt bên ta, nhất là đối với cha mẹ. Bậc cha mẹ đã nghĩ là đứa con sẽ luôn có mặt bên mình, suốt cuộc đời mình, và nó sẽ chứng kiến sự ra đi của mình. Khi chúng ta hối tiếc, khổ đau cho tương lai vì những gì ta nghĩ là sẽ xảy ra, đã không xảy ra, đó là tà kiến. Cho nên nói cách khác là chúng ta đang đau khổ, hối tiếc cho một điều không có thật, không hiện hữu. Chúng ta không đau khổ, hối tiếc cho cái gì đã xảy ra mà hối tiếc cho những gì chưa xảy ra. Vì thế giờ chúng ta phải thay đổi cách suy nghĩ của mình. Ý nghĩ của chúng ta về tương lai sẽ phải thay đổi. Mặc dầu chúng ta mất đi một người thân mà chúng ta rất mực thương yêu, nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể có một tương lai tốt đẹp. Vì tình thương yêu không phải là cái gì cố định, hạn chế mà bạn đã cho ai rồi thì không thể cho người khác. Tình thương yêu là thứ mà bạn càng chia sẻ nhiều, bạn sẽ có nhiều hơn. Và ở đây tôi không nói về tình thương yêu lãng mạn của trai gái, mà tôi nói về sự quan tâm, lo lắng, tình thân ái mà con người có thể dành cho nhau, vì tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc, không ai muốn khổ đau. Với loại tình thương này chúng ta càng cho nhiều người thì nó càng phát triển, trái tim ta sẽ càng rộng lớn hơn, cuộc sống của ta đầy đủ ý nghĩa hơn. Vì chúng ta biết rằng loại tình thương này có thể được chia sẻ với nhiều, nhiều người, vì nó không phải là cái cố định. Vì thế, có thể cái tương lai mà chúng ta nghĩ là nó sẽ có mặt, nhưng lại không có mặt, nó có thể là một tương lai khác, một tương lai tốt đẹp không chỉ cho chúng ta mà cho cả người đã mất vì chúng ta đã tiễn họ đi với tình thương yêu, với những lời nguyện cầu và những hoài vọng tốt đẹp.
Diệu Liên Lý Thu Linh
Theo Thư viện Hoa Sen

Buông thì được, giữ là mất

Buông thì được, giữ là mất

Đăng lúc: 19:19 - 07/07/2015

Bài giảng của Hòa thượng Thích Trí Quảng tại Trường hạ chùa Hội Khánh, tỉnh Bình Dương, ngày 15/06/2015)
Chúng ta sợ buông, mất, nên ráng giữ. Nhưng tôi khẳng định rằng buông thì được, giữ là mất. Trang tin phatgiao.org.vn trích đăng bài giảng của Hòa thượng Thích Trí Quảng tại Trường hạ chùa Hội Khánh, tỉnh Bình Dương, ngày 15/06/2015)

Hôm nay, tôi rất vui khi thấy Phật giáo tỉnh nhà đã trải qua ba mươi mùa an cư, mà số lượng Tăng Ni an cư còn đông hơn và năm nay đạt đến đỉnh cao, có trên sáu trăm tăng, ni về an cư, đó là tín hiệu đáng mừng cho Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo tỉnh Bình Dương nói riêng.

Tôi nhớ lại vào năm 1960, tôi thọ Đại giới và phát nguyện trong mùa an cư, không đi ra khỏi chùa Ấn Quang để thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Năm 1963, với tư cách là giảng sư Hoằng pháp, tôi không an cư và tiếp tục vận động cho Phật giáo trong cuộc đấu tranh chống lại sự đàn áp Phật giáo của Chính phủ Ngô Đình Diệm.

Sau đó, có đủ duyên, tôi sang Nhật nghiên cứu cách tổ chức, quản lý của Phật giáo Nhật. Trở về nước, năm 1975, đất nước độc lập và thống nhất. Trong thời gian này, tôi vẫn tiếp tục an cư, không ra khỏi chùa.

Đến năm 1983, Phật giáo Việt Nam thống nhất cả nước, tôi được các vị Trưởng lão đề cử làm Trưởng ban Hoằng pháp trong Nhiệm kỳ đầu. Năm đó, tôi cũng theo thông lệ, không ra khỏi chùa để an cư. Hòa thượng Trí Thủ nói với tôi rằng trong mùa an cư, tăng, ni có điều kiện tập hợp một chỗ và có nhu cầu học Phật. Nếu thầy cấm túc an cư, rồi mãn mùa an cư, thầy hoằng pháp, giảng cho ai. Lời cảnh báo của ngài khiến tôi suy nghĩ, không cấm túc an cư thì trái luật Phật, nhưng cấm túc an cư thì không thể làm công tác Hoằng pháp được. Cuối cùng, nhớ lời Hòa thượng Thiện Hòa dạy rằng khi chúng ta đi Hoằng pháp là làm việc tăng sai, coi như chúng ta vẫn cấm túc an cư thì không phạm lỗi không an cư.

Vì vậy, tôi nhắc đại chúng nếu không được tăng sai làm việc, nên ở yên một chỗ để an cư. Vị nào do tăng sai làm phật sự, có thể xuất ngoại, nhưng nhớ rằng đi đến điểm tăng sai rồi về, nếu đi chỗ khác là phạm luật. Điều này quan trọng, nếu quý vị cố giữ, sống trong Chánh pháp Phật, thì Phật pháp hưng thạnh và bản thân ta cũng từng bước tạo được công đức và phát triển được giới, định, tuệ.


Đến năm 1999, tôi suy nghĩ trong khoảng thời gian gần hai mươi năm qua, tôi đã hoàn thành trách nhiệm Trưởng ban Hoằng pháp trải qua nhiều Nhiệm kỳ và tuổi cũng bắt đầu lớn, nên tôi muốn trao gánh nặng hoằng pháp cho người sau tiếp nối. Nhưng các vị Hòa thượng nói rằng lớn tuổi có thể ít đi, nhưng còn uy tín, có thể sử dụng uy tín để hộ trì Chánh pháp. Vì vậy, tôi tiếp tục làm hoằng pháp đến năm 2007, thì có nhu cầu mới là Phật giáo chúng ta chuẩn bị lễ Vesak ở Việt Nam.

Tôi được Giáo hội đề cử làm Trưởng ban Phật giáo Quốc tế, giao việc hoằng pháp cho Hòa thượng Bảo Nghiêm ở miền Bắc. Từ đó, tôi hạn chế việc đi thăm các Trường hạ miền Bắc. Nhưng riêng đối với chùa Hội Khánh, mỗi năm một lần, đến mùa an cư, tôi đến thăm, vì nơi này ghi dấu kỷ niệm đẹp trong đời tôi. Thật vậy, ở ngôi tổ đình này, trước kia Hòa thượng Từ Văn xuất thân từ tổ đình Huê Nghiêm và sau này, Hòa thượng Trí Tấn cũng xuất thân từ Huê Nghiêm. Vì vậy, trong truyền thống tông môn, nơi đây có mối liên hệ mật thiết với tôi, nên dù tôi không làm công tác hoằng pháp, nhưng các thầy tỉnh nhà xuống thỉnh tôi về đây thuyết giảng, tôi nghĩ không thể không đi.

Tôi muốn nói với quý vị nên nhận thấy điều này trong việc tu hành của chúng ta. Điều này là gì. Kinh Pháp hoa ghi rằng khi ánh quang của Phật Thích Ca chiếu đến Bồ-tát Diệu Âm, Bồ-tát liền thưa với đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí ở phương Đông rằng ngài phải qua Ta-bà. Tôi suy nghĩ tại sao Phật khác mời, Diệu Âm không đi, nhưng Đức Thích Ca mời thì phải đi. Chúng ta cần tìm nghĩa lý sâu xa đó để sống.

Tôi nhận ra điều thứ nhất là thế giới Ta-bà đầy rẫy ác nghiệp, gọi là ngũ trược ác thế. Vì vậy, Đức cổ Phật chỉ cho chúng ta thấy thế giới này an lành, thế giới kia an lành, thế giới nọ hoàn toàn an vui, nhưng riêng thế giới Ta-bà toàn là khổ với khổ. Vì vậy, tất cả các người tu khác, các vị Bồ-tát khác đều có nguyện sanh về thế giới an lành. Thật vậy, trong kinh Pháp hoa cũng nói các Bồ-tát nguyện sanh thế giới an lành, sanh ở chỗ có Phật, chỗ khác khổ và không có Phật thì không tới, vì ai cũng sợ khổ.

Trong lúc đó, Đức Thích Ca hành Bồ-tát đạo chọn con đường khác, chỗ nào có khổ, Ngài tới. Vì ở Ta-bà không có Bồ-tát nào tới, nhưng Đức Thích Ca thấy chúng sanh Ta-bà thật đáng thương, không ai dìu dắt họ ra khỏi sinh tử. Cho nên Đức Thích Ca nguyện dấn thân vào thế giới Ta-bà để cứu độ chúng sanh cho đến khi Ngài thành Vô thượng Đẳng giác. Vì vậy, trong kinh Di Đà nói mười phương Phật gia hộ cho Đức Phật Thích Ca, vì Ngài làm việc khó làm, không ai làm, nhưng Ngài làm và làm được. Nghĩa là ở Ta-bà, Đức Thích Ca thành tựu quả vị Vô thượng Bồ-đề và Ngài khai phương tiện, dìu dắt chúng sanh ra khỏi Nhà lửa tam giới. Đó là việc khó làm mà Đức Phật Thích Ca đã thành tựu viên mãn, còn những việc dễ, để người khác làm.

Một con người có năng lực siêu tuyệt như Đức Thích Ca mời thì chắc chắn ai cũng đi, đó là bài học lớn cho chúng ta noi theo.

Học Phật, tăng ni nên phát đại tâm, tu đại hạnh, làm những việc khó làm, tôi nghĩ các Hòa thượng lớn đều thương mến. Riêng tôi, nhiều người mời, tôi không đi, nhưng Hòa thượng Trí Tấn ở tỉnh này mời, tôi đi. Nhớ lại vào những năm thống nhất Phật giáo là thời kỳ hoằng pháp còn rất khó khăn, không dễ như ngày nay, vì tỉnh Bình Dương lúc đó là tỉnh nghèo khổ và khó khăn nhất, cho nên, việc tu hành phải gác sang một bên. Nhưng Hòa thượng Trí Tấn đứng ra gánh vác phật sự tỉnh này, nên tôi phải ủng hộ, hợp tác với ngài.

Diệu Âm nguyện đến Ta-bà. Học hạnh của ngài, chỗ nào khó khăn có nhu cầu, chúng ta sẵn lòng tới. Học hạnh của Đức Phật Thích Ca, làm việc khó làm, chúng ta nguyện sẵn lòng dấn thân, dù gian lao, khó nhọc cũng không từ chối.

Ngày nay, tỉnh Bình Dương đã tập hợp được hơn sáu trăm tăng ni an cư, nếu tôi không tới đây cũng không sao, vì đã có nhiều người đến. Chúng ta phải phát tâm tu đại hạnh là đồng nguyện với Phật Thích Ca, chắc chắn chúng ta làm được.

Khi Đức Phật Thích Ca mời Bồ-tát Diệu Âm, Ngài phóng hai luồng hào quang từ vô kiến đảnh tướng và bạch hào tướng. Tướng bạch hào ở giữa hai chân mày là trí tướng. Do công đức tu hành trải vô số kiếp, Phật thành tựu tướng trí tuệ này. Ánh sáng trí tuệ chiếu thấu muôn sự muôn vật, nên Phật thấy đúng như thật. Ngài biết rõ chúng sanh nghĩ gì, có khả năng gì, nghiệp gì mà tạo thành con người đau khổ hay an vui trên thế gian. Vì vậy, khi nói kinh Pháp hoa, Ngài sử dụng trí tướng hay sự hiểu biết rọi xuống tứ sanh lục đạo mười phương, chứng tỏ những gì Ngài nói là chân thật.

Ngoài ra, vô kiến đảnh tướng nằm ở đỉnh đầu Phật phóng hào quang màu vàng. Vô kiến đảnh tướng tiêu biểu cho đức tướng hay tướng đại nhân. Phật được tôn xưng là bậc đại nhân, vì Ngài cảm hóa người bằng đức hạnh, bằng tình thương bao la, bằng lòng kính trọng bình đẳng.

Trí tướng, nói cho dễ hiểu là người học giỏi, nghe nhiều. Đức tướng tiêu biểu cho người đức hạnh. Người giỏi, người giàu không phải lúc nào cũng được người khác quý mến. Nhưng người khiêm tốn, kính trọng người khác, luôn được nhiều người quý trọng. Học hạnh của Phật Thích Ca, chúng ta nên sống khiêm cung, hiền lành, tôn trọng mọi người, chắc chắn người sẽ đến với chúng ta dễ dàng hơn.

Để điều động Diệu Âm Bồ-tát, Phật sử dụng cả trí tướng và đức tướng. Nghĩa là với tài năng siêu việt, Phật hiểu rõ quá trình hành đạo và khả năng của Bồ-tát Diệu Âm, cũng như đức hạnh toàn thiện của Phật đã thúc đẩy Diệu Âm tự nhiên phải đến với Phật.

Quý vị muốn làm phật sự quan trọng, tuy không có đức tướng như Phật Thích Ca, nhưng mình có tâm quý trọng người, thì người cũng sẽ tới.

Tôi nhớ Hòa thượng Trí Tịnh ít đi, nhưng nghe Hòa thượng Huê Nghiêm tịch, ngài cũng chống gậy đi tới hộ niệm. Hòa thượng Huê Nghiêm không học nhiều, nhưng ngài chuyên tu, là người có đức hạnh.

Học Phật, chúng ta phải trau dồi đức hạnh để giống Phật Thích Ca, thì mười phương Phật sẽ hộ niệm, phật sự dù khó khăn, chúng ta cũng thành công.

Xưa kia, Hòa thượng Trí Tấn gánh vác phật sự tỉnh Bình Dương vào thời kỳ khó khăn nhất, nhưng Giáo hội ở tỉnh nhà chúng ta đã thành lập được sớm nhất. Kế đến là Hòa thượng Minh Thiện cũng không học giỏi, nhưng có đức hạnh. Tôi nhớ có lần Hòa thượng Minh Thiện tới Trường Cao cấp gặp tôi, với tấm lòng thành khẩn, quỳ xuống lạy tôi và nói rằng con thỉnh thầy về Bình Dương thuyết pháp. Tôi không thể từ chối.

Đức hạnh rất quan trọng. Chúng ta học giỏi, nhưng thiếu đức hạnh, khó được người hợp tác. Có đức hạnh, người sẽ cảm thông và hết lòng với mình, thì thành công dễ dàng.

Sau đó, thầy Thiện Duyên cũng là đệ tử của Hòa thượng Trí Tấn, học lớp hoằng pháp đầu tiên, đến thưa, khiến tôi vô cùng cảm động, rằng con nguyện về Bù Đăng, Bù Đốp là vùng vô cùng khó khăn. Chính tâm hồn như thế, đạo đức như thế làm cho người dễ chấp nhận, dễ hợp tác.

Có lẽ tỉnh Bình Dương từng thế hệ kế tiếp học được hạnh đức của các vị đi trước, làm cho người dễ hợp tác và duy trì được hoạt động phật sự tỉnh nhà. Được như vậy, tôi tin phật sự tỉnh Bình Dương không thua kém các tỉnh khác.

Ngoài ra, lần này tôi mang theo một bộ sách là Hai mươi mùa an cư, tức hai mươi năm tôi đi hoằng pháp trong mùa mưa và tập hợp tất cả những bài giảng khi thăm viếng các trường hạ từ Nam đến Bắc, từ Cà Mau đến Móng Cái. Bộ sách này được in ra, vì có một số thầy thưa rằng Hòa thượng không đi giảng nữa, nhưng cho phép tập hợp những bài thuyết giảng để người sau tham khảo, làm tài liệu cho sự nghiệp hoằng pháp.

Lần này, tôi lên đây, đem theo 50 bộ sách Hai mươi mùa an cư để tặng trường hạ. Tôi nhớ trường hạ này có khoảng năm mươi hành giả, nhưng hôm nay, số tăng ni an cư đông quá, trên 600 vị. Vì vậy, nếu quý vị có nhu cầu tham khảo, lập danh sách, tôi sẽ cung cấp đầy đủ để quý vị làm hành trang hoằng pháp trong mùa mưa.

Tôi làm Trưởng ban Hoằng pháp 26 năm, nhưng trừ những năm đầu, vì điều kiện chưa cho phép, không đi hoằng pháp được. Vì vậy, còn 20 năm hoằng pháp khắp mọi miền đất nước. Những bài pháp được tập hợp lại trong bộ sách này giúp quý vị có tư lương hoằng pháp, nhất là những vị chịu cực đi hoằng pháp ở vùng sâu, vùng xa. Và đó cũng là nguyện của Bồ-tát Diệu Âm vào Ta-bà, cũng đồng nguyện với Phật Thích Ca hành Bồ-tát đạo ở Ta-bà, thành tựu quả vị Vô thượng Đẳng giác.

Sau đây, tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm tu hành. Từ trước cho đến nay, nhiều người an cư thường dành cho việc học nhiều, nhưng riêng tôi, dành thì giờ tu để được sở đắc nào đó trên bước đường lập hạnh theo Phật. Vì đối với tôi, học nhiều cũng tốt, nhưng thực tập được lời Phật dạy, được kết quả tốt hơn và cũng là mục tiêu của người tu.

Tăng, ni ngày nay đa số có học vị. Ở thời tôi, tìm được một sư có bằng tú tài cũng khó, nhưng nay, tìm sư có tiến sĩ không khó. Học viện Phật giáo chúng ta có trên một trăm tu sĩ có bằng tiến sĩ. Phải nói tìm người có học vị dễ, tìm người tu có kết quả tốt thật khó. Học Phật pháp và ứng dụng vào việc tu hành có kết quả thì cần hơn.

Tu có kết quả là sao. Việc thứ nhất, trong mùa an cư, chư Tăng cố gắng thực tập bài học đầu tiên mà Phật dạy là buông bỏ. Ngay như gánh nặng hoằng pháp, trong mùa an cư, tôi cũng dừng lại, buông xuống. Tất cả chúng ta có thể buông xuống và dừng lại, để tâm chúng ta được lắng yên.

Thật vậy, Phật dạy năm thầy Tỳ-kheo ở Lộc Uyển rằng các ông ở yên tu, không đi khất thực. Phật khất thực cho ăn. Các ông tập buông bỏ tất cả mọi việc, không nghĩ gì, vì các ông tu lâu, có mắt nhìn và suy nghĩ đủ thứ chuyện này chuyện kia, làm sao đắc đạo, giải thoát. Thấy nhiều, nghĩ nhiều, dẫn đến khen chê người, chẳng được lợi ích chút nào.

Phật dạy năm Tỳ-kheo quán Không, nghĩa là không nắm bắt được bất cứ cái gì, cái gì cũng rời khỏi tầm tay của chúng ta. Vì vậy, trong tay chúng ta không giữ, trong tâm chúng ta cũng không nắm giữ. Pháp này nghe đơn giản, nhưng thực hành được cũng khó.

Thật vậy, thử hỏi trong mùa an cư, một số nội thiền ở yên, tay buông, nhưng tâm thực sự buông chưa. Đang an cư ở đây, nhưng tâm nghĩ không biết chùa mình, bổn đạo mình bây giờ ra sao, không biết trở về, chùa còn hay mất. Tâm không buông, vì chúng ta sợ buông, mất, nên ráng giữ. Nhưng tôi khẳng định rằng buông thì được, giữ là mất.

Có người nói năm 1975, đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa, Phật giáo sẽ bị hạn chế cho đến không tồn tại. Họ bỏ ra nước người để tu, vì ở đây không được tu. Sau mấy chục năm, họ trở về, gặp lại tôi, nói rằng tưởng ở đây không tu được, nhưng thấy các thầy làm việc nhiều hơn xưa, phát triển được sinh hoạt tu học.

Phật dạy chúng ta buông bỏ trước, phải thực hiện cho được ba pháp: Không, vô tác và vô nguyện. Trong thời gian an cư, để lòng trống không, không nghĩ gì là vô tác, tức tác ý không có, khởi ý không có; vô nguyện là ham muốn không có. Để lòng yên tĩnh, sẽ nhận được hạnh phúc tràn dâng trong cuộc sống, đó là bài học ban đầu mà tôi áp dụng năm 1960.

Khi tâm đứng yên, tôi có cảm giác kỳ diệu là mình không mong muốn, không có nhu cầu, tâm hồn mình thật thanh thản. Tâm hồn thanh thản là vô tác, vô nguyện, không tác ý, thì sức khỏe của mình lại tốt hơn, dù ăn ít hơn.

Thực tập được pháp này, tôi khám phá ra nhu cầu vật chất không nhiều như tham cầu của con người. Ba tháng an cư, chúng ta không giữ tiền, không làm, nhưng vẫn sống bình thường, hay sống tốt hơn. Đó là kinh nghiệm mà tôi muốn chia sẻ. Ăn ít, nhưng khỏe mạnh hơn và đầu óc sáng suốt hơn. Từ đó, tôi nhận thấy trong cuộc sống, hay trong kinh nghiệm tu hành, một ngày chúng ta ăn một chén cơm, cơ thể không đòi hỏi nhiều. Ngày nay, khoa học cho chúng ta biết ăn nhiều dễ sinh bệnh. Ăn nhiều, thừa chất béo, chất đạm khiến chúng ta cảm thấy mệt mỏi, đau nhức.

An cư, ăn một bữa, không bị thấp khớp, đó là sự thật trên bước đường tu. Thật vậy, tự nhiên mới một tháng đầu an cư, bệnh thấp khớp biến mất, vì nhờ ít ăn, nên không bệnh nữa. Thứ hai là mình ăn ít, nhưng gia công lễ sám, tụng niệm nhiều, là cơ thể mình vận động nhiều, nên các chất độc trong cơ thể theo mồ hôi thoát ra, không cần uống thuốc giải độc.

Có thầy nói chưa vô hạ, bị ngứa ngáy, khó chịu, nhưng vô hạ, hết bệnh này. Nếu nghĩ đơn giản là nhờ lạy Phật mà chuyển nghiệp cũng được. Khi tôi ở Nhật, thấy người ta ứng dụng chữa bệnh này bằng cách trời nóng, tắm xong thì xông hơi cho thoát chất độc ra.

Trời nóng, đắp y lạy Phật, ướt áo, thải được chất độc, trở thành khỏe. Ăn ít đạm, lại vận động, nên thấy nhẹ nhàng, khinh an, là tu một tháng, tâm giải thoát và tướng giải thoát hiện ra. Không còn ý thức nhu cầu, nên người thấy mình, họ không lo sợ. Còn lúc các thầy xây chùa, trong lòng nghĩ đến tiền, nên người thấy mình, họ sợ mình mượn tiền, xin tiền. Đó là kinh nghiệm mà tôi có được, khi mình không có nhu cầu, người không e ngại mình, nên mình được giải thoát. Còn lo lắng, tính toán, buồn phiền thì sẽ hiện ra tướng này.

Vị Hòa thượng kế bên vừa hỏi tôi Việt Nam Quốc Tự xây dựng tới đâu rồi. Tôi trả lời không lo, các phật sự tùy duyên mà thành. Chúng ta quán sát nhân duyên, theo đó làm đạo, được giải thoát. Các duyên sanh, việc sanh, các duyên diệt, việc tự diệt; không phải mình muốn mà được. Buông bỏ hết, không ham muốn gì hết. Các thầy hỏi làm sao xin được Việt Nam Quốc Tự. Tôi nói không xin, nhưng duyên tới thì được.

Điều quan trọng Phật dạy để tâm hồn thật yên tĩnh để chúng ta thấy duyên sanh, duyên diệt. Và Phật dạy rằng người nào thấy nhân duyên sanh diệt là thấy pháp, hay thấy chân lý. Tu hành hơn nhau ở điểm này. Khi nhân duyên sanh, ta biết ngày tháng nào đó, người nào sẽ đem giao Việt Nam Quốc Tự. Duyên chưa tới, xin cũng không được.

Đọc lịch sử ghi rằng có nhà sư Ấn Độ thấy có chùa Nam Hoa, nhưng ngài nhìn xa hơn, thấy phải năm trăm năm sau, mới có vị cao tăng đến đây xây chùa. Quả thật, năm trăm năm sau, Tổ Huệ Năng xây chùa Nam Hoa và mở đạo tràng tu Thiền, tạo thành sức sống mãnh liệt của Thiền, phát triển mạnh qua đến Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản. Thấy duyên rõ ràng là như vậy.

Giống như các Hòa thượng trước không làm được chùa này. Phải đợi đến Thượng tọa Huệ Thông làm Trưởng BTS, mới xây dựng được chùa Hội Khánh. Còn Hòa thượng Trí Tấn chỉ kiết giới, ở giảng đường bên kia.

Đối với việc lớn hơn nữa là hiện thân làm giáo chủ cõi Ta-bà này để hóa độ chúng sanh, Phật Thích Ca nói phải chờ Đức Phật Di Lặc ra đời mới làm được. Ca Diếp ngộ ý chỉ này, nên Phật truyền y bát cho ngài và ngài vào núi Kê Túc nhập định, chờ Phật Di Lặc ra đời mới đem trao y bát.

Các vị cao tăng hành đạo, tâm yên tĩnh, quán sát nhân duyên mà hành đạo. Không mong cầu, không ham muốn, cái gì tới sẽ tới. Việc của Di Lặc phải để Di Lặc làm. Thể hiện ý này, Phật nói rằng trái non không hái, vì ăn không được. Ở Nam Hoa thì phải chờ năm trăm năm sau có Lục Tổ đến, mới làm được. Tham vọng mà tới, coi chừng mang họa.

Mùa an cư, các thầy lắng lòng yên tĩnh, thành tựu cho được ba pháp Không, vô tác, vô nguyện. Tâm trí chúng ta lắng yên, thấy nhân duyên từ quá khứ cho đến hiện tại và vị lai, thấy điều gì đáng làm, chúng ta làm, chắc chắn đạt kết quả tốt đẹp.

Trong mùa hạ, tôi mong chư Tăng giữ tâm trí lắng yên, từng bước vào Thiền định, thế giới chân thật của Phật, Bồ-tát mở ra cho chúng ta và từ đây tu hành, mới nói được Chánh pháp Như Lai. Cầu mong chư hành giả an cư khám phá được yếu chỉ Phật nói để truyền bá Chánh pháp làm lợi lạc cho chúng hữu tình.

HT.Thích Trí Quảng

Mỗi câu chuyện một bài học (hay)

Mỗi câu chuyện một bài học (hay)

Đăng lúc: 20:20 - 05/07/2015

Đôi lúc bạn cứ khăng khăng rằng chuyện này phải làm thế này mới là đúng, nhưng đôi khi người khác lại không nghĩ thế, hãy đặt bản thân mình vào vị trí của đối phương, bạn sẽ có được những suy nghĩ mới, biết đâu khi đó bạn chợt “tỉnh ngộ” và thốt lên “à thì ra là thế”.

cay-du

Mượn dù

Một ngày kia, Khổng Tử đi ra ngoài, bỗng trời muốn đổ mưa, nhưng ông không có mang theo dù, có người kiến nghị rằng: “Tử Hạ có dù, thầy có thể mượn của Tử Hạ”.

Khổng Tử vừa nghe xong, liền nói: “Không được, con người của Tử Hạ vốn rất keo kiệt, nếu như Thầy mượn mà y không cho, người khác sẽ trách móc rằng y không tôn trọng thầy của mình; còn nếu đưa cho thầy, trong lòng y nhất định sẽ khó chịu”.

Giao thiệp với người ta, thì cần phải hiểu rõ khuyết điểm lẫn ưu điểm của ngươi ta thì mới được, đừng có bao giờ khuấy động hoặc đùa cợt với khuyết điểm của họ, nếu không thì tình cảm của đôi bên sẽ không thể kéo dài được.

Thỉnh kinh

Ngựa và lừa nghe nói Đường Tăng sẽ đi Tây Thiên thỉnh kinh, con lừa cảm thấy chuyến đi này khó nạn trùng trùng, liền bỏ cuộc; còn ngựa thì lập tức đuổi theo sau, trải qua 81 kiếp nạn, cuối cùng đã thỉnh được chân Kinh trở về.

Con lừa hỏi: “Người anh em, có phải là rất vất vả không?”.

Ngựa nói: “Kỳ thực, trong khoảng thời gian tôi đi sang Tây Thiên thỉnh kinh, con đường mà cậu đi nếu đem so với tôi thì cũng không kém cạnh gì, ngoài ra cậu còn bị người ta bịt mắt, đánh đập. Thật ra, tôi thấy sống những tháng ngày không có lý tưởng thì còn mệt mỏi hơn”.

Mệt mỏi thật sự đến từ sự vô tri và mê mờ trong tâm của mỗi người.

Đậu xe

Trụ sở chính của công ty Volvo Thụy Sĩ có hơn hai nghìn chỗ đậu xe, những người đến sớm luôn đậu xe ở khu vực cách xa văn phòng làm việc nhất, mỗi ngày đều như vậy cả.

Một người hỏi: “Chỗ đậu xe của các vị là cố định hay sao?”.

Họ trả lời: “Chúng tôi đến tương đối sớm, có thời gian thì hãy đi bộ nhiều một chút. Các đồng nghiệp đến muộn hoặc đến trễ, họ nên là những người cần được đậu xe ở gần văn phòng làm việc hơn”.

Khi ta nghĩ nhiều đến người khác, con đường đi được sẽ nhiều và xa hơn.

chia-khoa

Hợp tác

Một ngày nọ, đêm khuya thanh vắng, ổ khóa gọi chìa khóa dậy, rồi oán trách: “Tôi mỗi ngày phải vất vả cực nhọc mà canh gác nhà cửa cho chủ nhân, vậy mà chủ nhân chỉ thích cậu thôi, lúc nào cũng mang cậu theo bên mình, thật là ngưỡng mộ cậu quá!”

Thế là chìa khóa cũng bất mãn, nói: “Cậu mỗi ngày chỉ ngồi ở nhà chờ đợi, thật là an nhàn thoải mái biết bao! Còn tôi hàng ngày phải đi theo chủ nhân, dầm mưa dãi nắng, khổ sở biết chừng nào! Mình phải hâm mộ cậu thì đúng hơn”.

Một lần kia, chiếc chìa khóa cũng muốn được sống những tháng ngày an nhàn, thế là liền giấu bản thân mình vào chỗ khác. Người chủ sau khi trở về thì không thấy chìa khóa đâu cả, trong lúc bực bội đã kêu thợ đến phá khóa, rồi tiện tay quăng luôn ổ khóa vào đống rác.

Sau khi vào nhà, chủ nhà đã tìm thấy chiếc chìa khóa, tức giận nói: “Ổ khóa cũng đã đập bỏ rồi, bây giờ giữ ngươi lại thì còn có ích gì nữa”. Nói xong, ông cũng tiện tay quăng chiếc chìa khóa vào trong đống rác.

Ở trong đống rác, ổ khóa và chìa khóa gặp nhau, bất giác tự cảm thán rằng: “Hôm nay, chúng ta rơi vào tình cảnh này, đều vì trong quá khứ, chúng ta không có nhìn thấy giá trị và phó xuất của đối phương, mà chỉ biết đứng núi này trông núi nọ, đôi bên chỉ biết so đo tính toán, đố kỵ và ngờ vực lẫn nhau”.

Rất nhiều lúc, mối quan hệ giữa con người với nhau đều là bổ sung cho nhau, những cuộc cãi vã, tranh đấu chỉ có thể mang lại thương tổn cho đôi bên, chỉ có phối hợp với nhau, tán thưởng, đoàn kết, ủng hộ, tín nhiệm, trân quý nhau, chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hợp tác thành công được.

Tiểu Thiện

Thà khuấy động nước nghìn sông, chứ không được làm động lòng người tu đạo

Thà khuấy động nước nghìn sông, chứ không được làm động lòng người tu đạo

Đăng lúc: 20:48 - 04/07/2015

Thiền phòng tĩnh lặng như đầm nước chết, yên ắng như chốn không bóng người;

Chỉ có lão thiền sư đứng trông, mọi thứ trước mắt ông đều minh bạch;

Bốn mươi vị pháp sư tham gia bế quan lần này;

Hôm nay đã đến quan ải cuối cùng, cửa ải vượt ngoài sinh tử;

Cửa sinh tử ấy chính là sắc tình, sắc tình chẳng đoạn, sinh tử khó thoát.

Chỉ mong sao những vị pháp sư hôm nay không xảy ra chuyện gì, thuận lợi vượt quan.

Một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần chợt xông thẳng vào trong phòng thiền…..

Trong lúc lão thiền sư đang lo lắng cầu nguyện, bỗng có tiếng cãi cọ từ ngoài cửa truyền vào;

Thì ra là vị pháp sư canh giữ bên ngoài thiền phòng đang tranh cãi với một người con gái, lão thiền sư lẳng lặng mở cửa phòng đi ra để can ngăn cuộc cãi vã, nhưng chính ngay lúc đó, người con gái đẩy mạnh cửa phòng, bất thình lình cất bước xông thẳng vào phòng thiền.

Khi vị pháp sư trông coi phòng thiền muốn ngăn lại nhưng chẳng kịp, bốn mươi vị pháp sư đang thiền định vượt quan, nghe thấy tiếng cửa phòng mở, gần như đồng thời mở mắt, tất cả đều bị cô gái ở trước mặt làm cho sững sờ.

Một thiếu nữ duyên dáng yêu kiều, thật là tú mĩ, đoan trang, xinh đẹp, diễm lệ biết bao; ánh mắt của cô đảo quanh một vòng, nhìn khắp từng vị thiền sư đang ngồi ngay ngắn nơi kia; rồi đáp lại bằng một nụ cười thanh nhã dịu dàng; giây phút ấy thật khiến người ta ngơ ngẩn tâm hồn, nụ cười rung động lòng người đó, đủ khiến cho bất cứ người nào một lần nhìn thấy cả đời khó quên.

Lão Thiền sư cung kính hợp thập hỏi:

“Xin hỏi nữ thí chủ, cô đi vào thiền phòng của tôi, không biết là có việc gì”.

“A Di Đà Phật! Tiểu nữ được biết các vị pháp sư bế quan tu luyện ở đây, vậy nên đặc biết đến đây để cúng dường cho mỗi vị một đôi giày, cúi xin lão thiền sư từ bi, để cho tiểu nữ có thể hoàn thành tâm nguyện của mình”.

“Nếu đã như vậy, xin thí chủ hãy để giày lại, để sau khi xuất quan, lão nạp sẽ thay thí chủ phát lại cho mỗi người là được rồi”.

Thiếu nữ khẽ lắc đầu, mỉm cười đáp:

“Tiểu nữ đã phát nguyện rằng sẽ đích thân đem mỗi đôi tăng hài mà mang vào chân cho từng vị pháp sư, cúi xin ngài hãy rủ lòng từ bi, như vậy vừa hoàn thành tâm nguyện của tiểu nữ, cũng hoàn thành tâm nguyện khó nói của chư vị pháp sư”.

Người thiếu nữ đích thân mang từng đôi hài vào chân cho các vị pháp sư…..

Lúc này, bốn mươi vị pháp sư trong phòng thiền vừa nghe thiếu nữ muốn đích thân mang giày vào cho mình, người nào người nấy tim đập thình thịch, ai ai cũng đều lộ vẻ vui mừng ra mặt.

Lão thiền sư bất đắc dĩ thở dài một hơi, hai tay hợp thập đáp:

“Nếu đã như vậy, xin thí chủ cứ tự nhiên”.

Thiếu nữ khẽ dời gót sen, lần lượt mang giày cho từng vị pháp sư. Khuôn mặt kiều mĩ đó, bàn tay mềm mại đó, dáng vẻ thướt tha đó, mùi hương thơm ngát đó, khiến cho bậc tu hành ai nấy đều thở dài xúc động:

Nếu có thể bầu bạn với cô gái này chỉ một ngày thôi, cho dù có chết cũng mãn nguyện!

thiền, sắc tình, người tu đạo, Bài chọn lọc,

Thà khuấy động nước nghìn sông, chứ không được làm động lòng người tu Đạo! Cô hôm nay đã khuấy động đạo tâm của bốn mươi vị pháp sư trong thiền phòng của ta…..

Khi thiếu nữ mang xong giày cho vị tăng nhân cuối cùng, chuẩn bị rời khỏi phòng thiền, thì mới phát hiện rằng cánh cửa thiền phòng đã bị khóa cứng, thiếu nữ đến trước mặt lão thiền sư hỏi:

“Sư phụ, người nhốt tiểu nữ trong phòng thiền này, chẳng hay có dự tính gì? Tiểu nữ ra ngoài thế nào đây?”

Lão thiền khuôn mặt thâm trầm tĩnh lặng như nước, lạnh lùng nói:

“Cô hôm nay còn định ra ngoài sao?”

“Đúng vậy, tăng hài đã mang xong rồi, tiểu nữ cũng phải trở về nhà thôi”.

“Thà khuấy động nước nghìn sông, chứ không được làm động tâm người tu hành! Cô hôm nay đã khuấy động đạo tâm của bốn mươi vị pháp sư trong thiền phòng của ta, vậy mà cô còn suy nghĩ sẽ sống sót mà bước ra khỏi đây hay sao?”

Thiếu nữ bàng hoàng, hỏi:

“Tiểu nữ đến để bố thí tăng hài, các pháp sư thấy sắc động tâm, lẽ nào đây lại là lỗi của tiểu nữ? Xin người hãy mau mở cửa thả tiểu nữ ra ngoài”.

“Thả cô ra thì rất dễ, nhưng cô phải để lại một thứ”…..

“Xin hỏi sư phụ, người muốn tôi để lại thứ gì?”.

“Mạng của cô”, lão pháp sư nói như đinh đóng cột.

Thiếu nữ nước mắt lưng tròng, đau đớn lòng người mà quỳ trước mặt lão thiền sư, ủy khuất hỏi:

“Cớ sao lại muốn mạng của tiểu nữ?”

“Vì cô hôm nay đã gieo một nhân ác, ở trước mặt cô chỉ có hai con đường: Một, cô sẽ phải luân hồi trong kiếp thân nữ đến bốn mươi đời, lần lượt gả cho bốn mươi vị pháp sư đã vì cô mà động lòng phàm, họ cũng sẽ phải luân hồi trong lục đạo, bất luận họ chuyển sinh vào đường nào, cô đều phải tùy theo nghiệp chướng mà gả cho họ. Hai, chính là hôm nay cô chết tại nơi này, để đoạn đứt cái nhân luân hồi trong bốn mươi kiếp này“.

Thiếu nữ hoảng sợ mở to đôi mắt diễm lệ của mình, mặc cho nước mắt ủy khuất chảy dài xuống hai gò má.

“Tiểu nữ không còn có sự lựa chọn nào khác nữa sao?”

Lão thiền sư kiên quyết trả lời:

“Đúng vậy! Hai con đường tùy cô chọn lấy”.

Thiếu nữ chậm rãi nói với lão thiền sư rằng:

“Phiền ông hãy kiếm cho tôi một dải lụa, thà rằng tôi để mạng lại đây, cũng không muốn luân hồi làm thân nữ trong bốn mươi kiếp nữa”.

Nghe thấy những lời của người thiếu nữ, bốn mươi vị pháp sư trong phòng Thiền đều ngẩn người ra, nhìn thấy người thiếu nữa mới đây thôi vẫn còn yêu kiều quyến rũ rung động lòng người, mà giờ đây lại thần sắc nặng nề, tay cầm dải lụa từ từ đi đến trước cửa để kết thúc sinh mệnh quý báu, mỹ lệ của mình, không ai không cảm thấy tiếc nuối.

Người thiếu nữ đó đã tự sát, chính là chết treo trên xà ngang ngay trước cửa thiền phòng…..

Đó từng là một sinh mệnh tràn đầy sức sống, mà nay như đống tro tàn nguội lạnh; đó từng là gương mặt diễm lệ như hoa như ngọc, nay đã nhợt nhạt lạnh lẽo, dù không mất đi vẻ đẹp của mình.

Ba ngày sau đó, thi thể người thiếu nữ bắt đầu thối rữa, dung mạo mĩ lệ cũng đã đổi màu; nhưng lão thiền sư cứ giống như chưa từng xảy ra chuyện gì, mỗi ngày trông coi bốn mươi vị pháp sư bế quan tu luyện trong phòng thiền.

Mỗi ngày trôi qua, thi thể của người thiếu nữ từng ngày cũng đang phát sinh biến hóa; nguyên là thân thể thướt tha yểu điệu, giờ đây đã sưng vù rữa nát không sao tả được; gương mặt từng khiến cho bao người động lòng kia, giờ đây đã biến thành màu xanh nhạt. Thi thể không ngừng rỉ nước, bốc ra những mùi hôi thổi khiến người ta ngửi thấy muốn nôn. Những vị sư phụ bế quan không cách nào chịu đựng được nữa, muốn xin lão thiền sư mở cửa sổ ra để thay đổi không khí, và dời cái xác chết này đi. Tuy nhiên, lão thiền sư vẫn coi như không có chuyện gì cả, tiếp tục canh giữ trong thiền phòng mà không nói lời nào.

Ngày thứ bảy, bốn mươi vị sư phụ bế quan tu luyện, khi đối diện với xác chết hôi thối cực kỳ, hình thù khiến người ta hoảng sợ, thì không tài nào chịu đựng thêm được nữa. Lúc này, một tảng thịt trên xác chết rơi xuống, váy áo cũng rơi xuống theo. Lúc này, mọi người mới nhìn rõ, ngay tại cái chỗ miếng thịt thối rơi ra để lộ ra phần xương trắng rợn người. Vô số dòi bọ đang lúc nhúc ngọ nguậy bên trong.

Mọi người không còn khống chế bản thân được nữa, gần như nôn ọe cùng lúc. Lão thiền sư đang ngồi trên tấm bồ đoàn từ từ đứng dậy, đối diện với mọi người, lạnh lùng nói :

“Mọi người muốn ra khỏi phòng thiền, đúng không?”

Bốn mươi người đồng thanh trả lời:

“Đúng vậy!”

Ai có thể trả lời câu hỏi của ta, thì có thể ra ngoài…..

Người thiếu nữ đó là ai?

“Được thôi, ai có thể trả lời câu hỏi của ta, thì có thể ra ngoài, ai muốn trả lời thì hãy giơ tay lên”.

Bốn mươi vị pháp sư đều giơ tay cùng lúc, lão thiền sư xoay tay lại chỉ vào xác chết người thiếu nữ bên cạnh, hỏi:

“Người thiếu nữ này là ai?”

Bốn mươi vị sư phụ bế quan tu luyện đều ngây người ra, không nói được lời nào.

Lão thiền sư đứng trước mặt xác chết người thiếu nữ, lớn tiếng hỏi:

“Nói cho ta biết, người thiếu nữ này là ai? Có phải là người thiếu nữ khiến cho các ông thần hồn điền đảo, suy nghĩ lung tung đó phải không?”

Mọi người cùng đáp:

“Không phải!”

“Bây giờ có còn muốn cùng người ta chung sống cả đời nữa không?”

Mọi người trăm lời như một:

“Không!”

“Trên thế gian này còn có người con gái nào xứng đáng để cho các ông động lòng nữa không?”

Mọi người đồng thanh trả lời như đinh đóng cột:

“Không có nữa!”

Lão thiền sư vung tay lên:

“Tốt, ra ngoài đi!”

Thi thể của cô gái được bao phủ lại bằng một tấm vải màu vàng, được bốn mươi sư phụ xuất quan khiêng ra ngoài…..

Các vị sư phụ không tản đi, vì trong tâm họ vẫn còn một nút thắt: “Người thiếu nữ này là ai?”

Lão thiền sư thần thái trang trọng dẫn theo mọi người đến nơi đặt thi thể của người thiếu nữ ấy, đảnh lễ ba cái xong, bèn nói với mọi người rằng:

“Không phải các ông muốn biết người thiếu nữ này rốt cuộc là ai hay sao? Sau khi tôi đi khỏi đây, các ông hãy tự mình xem đi”.

Nói xong, lão thiền sư xoay người trở về căn phòng nhỏ của mình.

Khi kéo tấm vải màu vàng đang phủ kín trên thi thể người thiếu nữ ra…..Chính là Thánh tượng Quan Thế Âm Bồ Tát trong tự viện…..

Khi mọi người vội vàng kéo tấm vải màu vàng đang đậy trên thi cô gái ra, tất cả đều sững sờ, đây đâu phải là xác chết đã thối rữa mà họ đã khiêng ra ngoài đâu? Mà đó chính là Thánh tượng của Quan Thế Âm Bồ Tát trong tự viện, mọi người cung kính mà sắp xếp ổn thỏa Thánh tượng Quan Âm Bồ tát xong, mới nhớ ra rằng nên hỏi thử lão thiền sư xem sao ông lại biết được? Khi mọi người như điên như dại chạy đến gian phòng của lão thiền sư, mới phát hiện rằng ông đã tọa hóa viên tịch rồi.

Đây chính là Thiền, điều để lại cho chúng ta là lời nhắn nhủ, chứ không phải tiếc nuối.

Hãy phá trừ tất cả giả tướng của thế gian, đi hết cuộc đời quý báu của mình, trân quý cuộc đời mình, hiến dâng cuộc đời bằng một trái tim tự tại bình lặng.

Thì ra đây chính là Thiền…

Quả thật là huyền diệu vô cùng!

Tiểu Thiện, dịch từ cmoney.tw

Doi Dien 1

Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau

Đăng lúc: 04:42 - 21/06/2015

Người ta thường chia cắt thời gian ra thành quá khứ, hiện tại và tương lai, và nói rằng chúng ta chỉ có giây phút hiện tại này mà thôi. Nhưng thật ra trong giây phút này cái mà chúng ta đang có là sự sống. Đánh mất giây phút hiện tại này, không phải ta phí mất thời gian, mà cũng chính là ta đang đánh mất đi sự sống của mình.
Doi Dien 1
Tôi nghĩ rằng trong giây phút hiện tại này, dầu có thể chúng ta đang phải đối diện với những vấn đề, hay những hoàn cảnh bất như ý, nhưng mình hãy sống trọn vẹn với nó. Với một thái độ tiếp nhận trong sáng, và không mong cầu, ta có thể thấy ra rằng, chính những khó khăn ấy giúp mở ra cho ta thấy được những dính mắc và trói buộc của mình.

Cuộc sống bao giờ cũng có những khó khăn, nhưng tôi không để cho những bận rộn và âu lo ngăn trở không cho tôi tiếp xúc được với thực tại chung quanh mình, được ngồi với người thân, đi dạo trên con đường nhỏ nắng ấm, mỉm cười trong một ngày mưa… Bạn có thấy không, những hạt giống hạnh phúc cũng như những đóa hoa sáng nay, khi nắng ấm về, nào có ai nhắc đâu mà rồi chúng vẫn sẽ nở rộ.

Trong cuộc đời có những cái mà ta không nên, và cũng không thể, làm cho chúng nhanh lên được. Chúng cần thời gian, chúng cần sự chậm rãi. Và khi ta thúc hối những gì không thể thúc hối, khi ta không còn biết có mặt trọn vẹn với thực tại, ta vô tình đánh mất đi hạnh phúc trước mắt bằng một sự mong cầu nào khác xa xôi…

Tôi nghĩ, hạnh phúc chân thật không thể đạt được bằng sự nổ lực thay đổi hoàn cảnh, hay sự tập luyện để đạt đến một trạng thái nào đó, mà là do sự trở về tiếp xúc với tất cả với một thái độ buông xả, và một cái nhìn trong sáng của ta. Nếu như, ta biết bớt đi những nổ lực lăng xăng tìm cầu của mình bạn hả, thì có lẽ những khổ đau trong cuộc đời này cũng sẽ bớt phức tạp hơn nhiều…

Nguyễn Duy Nhiên

Đối diện khổ đau

Đối diện khổ đau

Đăng lúc: 21:24 - 19/06/2015

Nếu chúng ta muốn có hạnh phúc chân thật trong cuộc sống, chúng ta buộc phải chấp nhận một sự thật là cuộc sống đầy dẫy những khổ đau. Chúng ta không thể tránh né, càng không thể loại trừ được hết những khổ đau trong đời sống. Chúng ta cần phải biết cách đối diện, nhận thức và chuyển hóa chúng.
Cuộc sống đầy dẫy những khổ đau. Cho dù ta có là người may mắn nhất trong nhân loại, ta cũng không thể tránh khỏi những nỗi khổ nhất định. Sự hiện hữu của những khổ đau đã bắt đầu ngay từ lúc chúng ta mở mắt chào đời. Chúng ta sợ phải chết, nhưng tất cả chúng ta đều phải chết. Chúng ta yêu thích tuổi thanh xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống, nhưng tất cả chúng ta đều bất lực nhìn tuổi già đến dần. Chúng ta cố tránh né bệnh tật, nhưng rồi tất cả chúng ta đều cũng không tránh khỏi. Chúng ta mong muốn được sống bên cạnh những người mình thương yêu, nhưng rồi bằng cách này hay cách khác, chúng ta vẫn phải chia tay với từng người trong số họ...


Với phần lớn trong chúng ta thì sự thiếu thốn vật chất ở một mức độ nào đó cũng luôn là nỗi khổ. Chúng ta quay cuồng, vật lộn với cuộc sống và rất hiếm khi chúng ta tự thấy mình đã có đủ những thứ mình cần...

Còn có thể kể ra rất nhiều khổ đau mà chúng ta phải thường xuyên đón nhận trong cuộc sống. Chính vì vậy, có người đã phải thốt lên rằng: “Hạnh phúc là sự tạm dừng của những đau khổ.”

Nhưng điều này không thật sự chính xác. Vì nếu như thế thì sẽ chẳng bao giờ chúng ta có được hạnh phúc, vì chẳng hề có một phút giây nào mà đau khổ trong cuộc sống này có thể tạm dừng.

Thay vì mong đợi sự tạm dừng của đau khổ để có được đôi chút hạnh phúc mong manh ngắn ngủi, chúng ta hãy đối diện và nhìn sâu vào bản chất của đau khổ. Khi hiểu rõ được bản chất của chúng, ta sẽ có thể chấp nhận và chuyển hóa. Chỉ khi đó chúng ta mới có được hạnh phúc thật sự.

Hầu hết những khổ đau của chúng ta đều xuất phát từ sự mong cầu đi ngược lại tự nhiên. Chúng ta mong muốn điều gì đó và bất kể là những mong muốn ấy có hợp lý hay không. Hay nói đúng hơn, chúng ta không chịu nhìn sâu vào bản chất của sự vật để có thể thấy được sự vô lý của chính mình.

Một cô gái đau khổ vì yêu thương một chàng trai nhưng không được đáp lại. Chàng trai kia không có lỗi gì cả. Chàng hoàn toàn có quyền lựa chọn người mình yêu thương. Nhưng cô gái đang yêu không có đủ sáng suốt để nhận ra điều đó. Cô đau khổ vì sự sai lầm trong nhận thức của chính mình. Nỗi đau khổ của cô chỉ có thể chấm dứt khi nào cô đối diện được với nó và nhận ra nguyên nhân thật sự, như bao nhiêu người khác đều có thể nhận ra.

Vào một buổi chiều đẹp trời, chúng ta dạo chơi trong một công viên nào đó, ta có thể thấy những cơn gió thoảng qua và có những chiếc lá vàng rơi rụng xuống.

Chiếc lá đã sống trọn một cuộc đời rất đẹp. Từng phút giây tồn tại, nó đã cống hiến trọn vẹn cho sự chuyển hóa dòng nhựa nguyên thành nhựa luyện để nuôi cây. Lá sinh ra từ cây, nhưng trong một ý nghĩa khác, vì lá đã nuôi sống cây nên lá cũng là mẹ của cây. Hết một đời mình, lá rơi rụng về với lòng đất, lại tiếp tục chuyển hóa thành phân mục để nuôi cây. Ngày mai, có thể lá lại được sinh ra thành một chồi non mới...

Trong bức tranh sinh động này, chúng ta có thể thấy rõ quy luật của đời sống. Mỗi người chúng ta là một chiếc lá trên thân cây cuộc đời. Ta không thể tồn tại mãi mãi, nhưng ta có thể sống thật trọn vẹn đời sống của mình. Ta sinh ra từ cuộc sống, nhưng ta sống có ích cho cuộc sống và trong ý nghĩa đó ta cũng góp phần tạo ra cuộc sống.

Thế nhưng hầu hết chúng ta không hài lòng với việc trở về lòng đất như chiếc lá kia. Ta đau khổ vì ta không nhận ra và chấp nhận quy luật tự nhiên của cuộc sống.

Tất cả những thực thể sống đều sinh ra và chết đi. Chiếc lá sinh ra và chết đi. Đóa hoa hồng sinh ra và chết đi. Nhưng những vật vô tri giác, như một tảng đá chẳng hạn, không có sự sinh ra và chết đi theo cách như thế. Chúng chỉ được hình thành và hủy hoại theo thời gian, chúng không có sự sống và sự chết. Chúng ta phải lấy làm hạnh phúc được sinh ra và chết đi, vì chỉ như thế ta mới thật sự được trải qua một đời sống nhiệm mầu.

Nếu chúng ta hiểu rõ được vấn đề và chấp nhận sự thật về sống chết, chúng ta sẽ thấy những giây phút được sống của mình càng có giá trị hơn.

Mỗi một nỗi khổ đau đều có nguyên nhân của nó. Nếu chúng ta biết suy xét để nhận ra những nguyên nhân sâu xa và đích thật, ta sẽ có thể chấp nhận và chuyển hóa nỗi khổ đau thành năng lực thúc đẩy ta nỗ lực sống tốt hơn. Cơ thể chúng ta không rắn chắc như sắt đá, nên một đôi khi ta mắc phải bệnh tật, điều ấy là tự nhiên. Hiểu được điều đó ta càng biết quý trọng và cảm nhận niềm vui trong những lúc được sống khỏe mạnh không bệnh tật, càng cố gắng giữ gìn sức khỏe một cách tích cực hơn, tránh xa những thức ăn uống hoặc những cuộc chơi bời có hại cho sức khỏe. Chúng ta cũng có thể nghĩ về tuổi già như một động lực để sống tốt hơn trong những ngày còn trẻ...

Những thương tổn về tình cảm cũng gây cho chúng ta nhiều đau khổ nếu chúng ta không biết cách đối trị với chúng. Khi gánh chịu những sự bất công, xúc phạm hoặc khinh miệt... chúng ta thường ôm ấp những thương tổn đó như những vết thương trong tâm hồn, và chúng ta đau khổ vì chúng. Nếu chúng ta biết mở rộng lòng và học được những cách ứng xử rộng lượng hơn, cảm thông hơn... chúng ta sẽ có thể hiểu và chấp nhận những sự bất công, xúc phạm hay khinh miệt ấy theo chiều hướng tốt đẹp hơn, và không để chúng làm thương tổn đến tâm hồn ta.

Trong hầu hết trường hợp, người ta cư xử một cách bất công hay thô bạo là xuất phát từ sự thiếu hiểu biết: hoặc là thiếu hiểu biết về cách sống, hoặc là thiếu hiểu biết lẫn nhau. Nếu chúng ta đáp lại bằng sự thù hằn, căm giận, bản thân chúng ta cũng rơi vào chỗ thiếu hiểu biết. Cả hai bên đều đau khổ. Ngược lại, nếu chúng ta hiểu được và cảm thông với sự thiếu hiểu biết của người khác, ta sẽ có khuynh hướng tha thứ hơn là tức giận. Chúng ta có làm thay đổi được người khác hay không, điều đó còn tùy nơi năng lực cảm nhận của họ, nhưng bản thân chúng ta thì chắc chắn sẽ tránh được thương tổn trong những trường hợp này.

Khi chúng ta đau khổ, nếu ta biết nghĩ đến những đau khổ của người khác với sự cảm thông và chia sẻ, nỗi đau của chính bản thân ta sẽ được giảm nhẹ. Ngược lại, sự trách móc, oán giận... chỉ càng làm tăng thêm nỗi đau mà thôi.

Chúng ta phải chấp nhận một thực tế là cuộc đời không sao tránh khỏi những khổ đau. Nhưng trong một chừng mực nhất định, cách hiểu và nhìn nhận vấn đề của chúng ta có thể làm vơi đi đáng kể mức độ đau khổ. Đối diện với từng nỗi khổ đau và tìm hiểu rõ nguyên nhân sâu xa của nó có thể giúp ta có thái độ đón nhận một cách tích cực hơn. Ngay cả khi chúng ta đang hứng chịu một nỗi khổ đau nào đó, chúng ta vẫn thấy tự tin và ít bị thương tổn hơn.


Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)

Không phải là sư giả mà là tín đồ mặc áo tu sĩ xin ăn

Không phải là sư giả mà là tín đồ mặc áo tu sĩ xin ăn

Đăng lúc: 10:56 - 15/06/2015

Mục tiêu của những người bất hảo mà chúng ta đang nói đến là xin tiền, giả mạo làm tu sĩ Phật giáo chỉ là phương tiện. Trường hợp họ không tự nhận là sư khất thực, khi bị giữ chỉ nói mình là người tu, cũng phủ nhận việc xin tiền, thì cần giải quyết ra sao?
gia su
Gần đây, ở một số địa phương, nạn sư giả xin tiền được cho là đã phần nào giảm bớt. Một phương cách giải quyết được chú ý là chứng minh là sư giả bằng cách cùng công an tạm giữ, truy xét giấy tờ.
Đây là điều đáng mừng. Tuy nhiên, thực tế không đơn giản chỉ có hướng giả sư để khắc chế theo hướng chứng minh là sư giả, từ đó có biện pháp xử lý.
Bài viết này nêu một dạng thức khác của sư giả, là tín đồ thật (có giấy tờ) nhưng mặc quần áo tu sĩ để xin tiền và họ không tự nhận là sư nếu bị xét hỏi, chỉ tự nhận là “tu” chung chung. Đây là một cách thức đáng quan tâm để tìm giải pháp căn cơ.
Mục tiêu của những người bất hảo mà chúng ta đang nói đến là xin tiền, giả mạo làm tu sĩ Phật giáo chỉ là phương tiện. Trường hợp họ không tự nhận là sư khất thực, khi bị giữ chỉ nói mình là người tu, cũng phủ nhận việc xin tiền, thì cần giải quyết ra sao?
Vấn đề cần được thảo luận thấu đáo, vì nó tế nhị, phức tạp và khó xử hơn so với trường hợp tự nhận là tu sĩ Phật giáo nhưng không chứng minh được.
Đó là những người có giấy xác định là tín đồ (phái quy y) để cầm theo và xuất trình khi cần thiết. Họ cạo đầu, mặc áo tràng lam hay nâu, áo vạt mẻ…, là những loại quần áo người tín đồ Phật giáo vẫn mặc phổ biến lẫn lộn với tu sĩ.
Họ xin tiền, nhưng tay cầm thẻ nhang. Có người đội nón lá, khi ngửa nón giơ tới trước, họ là người xin tiền. Khi đội nón, cầm thẻ nhang, họ là người bán. Như vậy, về hình thức, những người này có thể dễ dàng di động qua lại giữa người tu sĩ/người tín đồ và người xin tiền/người bán hàng rong.
Ở trường hợp có chủ ý giả dạng tu sĩ Phật giáo, tự khẳng định là tu sĩ Phật giáo khi bị xét hỏi, đương nhiên người giả dạng rơi vào tình trạng gian dối, có mặc cảm gian dối, tội trạng rành rành, rất dễ xử lý việc giả mạo.
Nhưng ở trường hợp họ chỉ tự coi là người tu (hiểu là tín đồ hay tu sĩ đều được), mặc áo tràng, áo vạt mẻ theo thông lệ Phật giáo, đầu cạo trọc như một kiểu tóc (cạo trọc nay đã là hình thức tóc rất phổ biến), chuyển đổi một cách đơn giản giữa xin tiền và bán hàng, thì phải giải quyết ra sao?
Xét về lý, họ không nhận là tu sĩ, mà nhận là cư sĩ, thì không có điều gì giả mạo.
Còn xin tiền ngụy trang bán hàng rong là dạng thức rất phổ biến hiện nay, nhất là ở những tỉnh thành cấm người ăn xin. Giấy thông hành để đi xin tiền có thể chỉ là vài tờ vé số, có thể vài thỏi kẹo, trị giá vài chục ngàn đồng, để khi cần thì trưng ra nói mình đi bán. Phía xử lý, dù biết là chỉ với một bàn tay xòe ra, người bán hàng sẽ chuyển ngay thành người đi xin, nhưng rất khó đối xử với họ như người ăn xin.
Vấn đề dần dần hiện rõ với chính cái khúc mắc nằm ở ngay Phật giáo Việt Nam. Chính Phật giáo Việt Nam có tình trạng người tín đồ có thể mặc y phục của người tu sĩ. Chỉ cần cạo đầu trọc nữa thôi là ở nhiều trường hợp ăn mặc, rất dễ lẫn lộn người tín đồ thành người tu sĩ không khác. Cái khó là họ vẫn không phải là người giả mạo. Kỹ thuật chuyển dạng giữa người xin tiền và người bán hàng là không khó gì. Bùa hộ mệnh là vài thẻ nhang trong túi vải nâu tu sĩ. Nếu có bị giữ, họ khẳng định mình là tín đồ đi bán nhang, đầu trọc và áo tràng không phải là sư giả mạo, vì trong hoàn cảnh Việt Nam, đó không phải là đặc trưng riêng chỉ có ở tu sĩ Phật giáo.
Như vậy, vấn đề trở về lại trong tay chính Phật giáo Việt Nam. Ngày nào ở Phật giáo Việt Nam còn tập quán người tín đồ trang phục như tu sĩ, với áo tràng, áo vạt mẻ, thì ngày đó vẫn còn dạng sư giả nhưng bề ngoài là không phải giả. Thực chất, đó là tu sĩ tín đồ trang phục lẫn lộn, ngay cả văn bản hành chính của Phật giáo cũng cho phép trang phục như vậy, gọi đó là tịnh nhân. Mặc trang phục “tịnh nhân” nếu đi bán hàng rong, thì bề ngoài vẫn có thể, vẫn không phải sư giả. Thế thì, làm sao giải quyết?
Có lẽ ngày trước chư tổ khi chế định y phục người tu tại chùa đã không tiên lượng tình huống nếu để người tín đồ mặc, sẽ rơi vào cảnh tăng tục lẫn lộn, rồi tệ hơn có người lợi dụng hình thức được cho phép đó đi xin tiền, làm ảnh hưởng xấu đến đạo Phật. Điều này tuy bây giờ có thể điều chỉnh, nhưng xem ra không khả thi, vì việc tín đồ mặc áo tràng, áo vạt mẻ, cả áo nhật bình (có cách điệu, làm khác đi đôi chút), là xu hướng đang phát triển. Xu hướng này tất nhiên sẽ dẫn đến việc giả sư nhưng không thể buộc tội giả sư. Nó trầm trọng hơn, phức tạp hơn, bế tắc hơn.

Minh Thạnh

Này em, chúng ta hãy học cách yêu thương và tha thứ cho nhau!

Này em, chúng ta hãy học cách yêu thương và tha thứ cho nhau!

Đăng lúc: 19:46 - 13/06/2015

Này em hãy nhớ lấy điều này, khi chúng ta ghét bỏ một ai đó chính là em đang làm nghẹt thở và bóp nát trái tim mình, làm cho em cảm thấy chán nản và vô cùng tuyệt vọng! Vậy tại sao em cứ phải ghét bỏ một ai đó, làm chi vậy?
Em đã kể với tôi về câu chuyện tình yêu của mình, về những ấm ức và nỗi uất hận mà em phải gánh chịu. Rồi em nói: “Em biết mình quá ngu ngốc, quá dại khờ vì đã tin tưởng một con người chỉ có tình yêu trên chót lưỡi đầu môi, em bây giờ chẳng còn biết gì nữa ngoài những nỗi đau. Giờ thì em mới nhận ra là em đã bị lừa, bị người ta lợi dụng. Em buồn lắm, em hận lắm, em vô cùng đau khổ!
Tôi biết em rất đau, em rất buồn vì mình đã trót lỡ trao tình cảm cho một kẻ không xứng đáng để đón nhận tình yêu của em. Em nói với tôi, “em muốn quên đi hết tất cả những nỗi đau, nhưng mà sao nỗi đau ấy cứ dằn dặc em?

Để được sống trọn vẹn với tình yêu không hề đơn giản chút nào, có người đang sống bên nhau nhưng không có tình yêu thật sự. Nhưng chia tay trong tình yêu chưa hẳn là đã mất hết tất cả, mà trên đường mình đang đi còn rất dài các em ạ.
Ai cũng có thể cho rằng mình là người đau khổ nhất, nhưng trong tình yêu làm gì có khuôn mẫu nhất định, bởi nó cần sự hòa hợp của hai trái tim. Nhiều người cho rằng ai chủ động nói lời chia tay, tất nhiên sẽ không đau khổ bằng người bị bỏ rơi. Người nào chỉ biết cho riêng mình nhiều hơn thì người đó sẽ không chung thủy trong tình yêu, người đó sẽ làm đau lòng nhiều người khác.
Tôi rất hiểu và thông cảm nỗi đau của em, tôi không thể bảo em tha thứ cho người ấy được.Tôi biết em, vẫn muốn kẻ ấy phải chịu nhiều đau khổ như chính nỗi đau em đang phải chịu hoặc nhiều hơn thế ấy nữa kìa.Nhưng mà em à, em làm cho người ấy đau, thì em cũng đâu có thể thanh thản được?Này em, em hãy nên nhớ rằng bên em còn bao nhiêu người thân yêu đang mong chờ em, đang mong muốn em được tràn đầy hạnh phúc.
Này các em, tôi đã từng lầm lỡ, tôi đã từng tiếc nuối, tôi đã từng sống trong đau khổ, vì tôi có quá nhiều sai lầm, để tôi sẽ hướng dẫn cho các em học cách yêu thương và tha thứ cho nhau!
Khi đã yêu rồi chúng ta đừng bao giờ nói câu “hối tiếc”. Các em đã khôn lớn trưởng thành, các em hãy can đảm chịu trách nhiệm về những việc mà các em đã quyết định.
Khi em đã dành tình yêu cho ai đó, em sẽ nghĩ đến mình sẽ hạnh phúc bên người ấy, không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ “hối tiếc”?Tiếc nuối hay bám víu vào dĩ dãng, vào quá khứ, em sẽ làm cho mình đau thêm và tăng trưởng nỗi đau.Người như vậy là người yếu đuối em ạ, sẽ mãi sống trong đau khổ lầm mê, mà cố gắng vùng vẫy trong cay đắng ngậm ngùi.
Em à, hãy mạnh mẽ và vững vàng hơn.Em hãy học cách chấp nhận sai lầm và tha thứ để đứng lên từ đau thương ấy.Đó mới là người biết sống và đón nhận hạnh phúc chân thật.
Tôi bây giờ chỉ biết động viên và an ủi em! Để cho em tạm thời quên đi những nỗi đau ấy?Bởi trong tôi nếu rơi vào hoàn cảnh của em, tôi cũng có thể sẽ lại đau khổ như em? Này em, hãy tha thứ và hỷ xả để cho tâm hồn em được thanh thản nhé…! Này em, tha thứ cho người khác cũng chính là tha thứ cho chính bản thân mình.
Này em, hối tiếc về chuyện đã qua chính là em đang gậm nhắm những những niềm đau nỗi buồn. Em luôn tiếc nuối thì em sẽ đánh mất mình trong hiện tại và em đang xóa mờ con đường đi đến tương lai đang chờ đón em?
Tổn thương nào cũng đau đớn dù ít hay nhiều, tôi chỉ khuyên nhủ em hãy tha thứ và chấp nhận những gì đang có trong hiện tại, để rồi em sẽ quên nỗi đau ấy. Thay vì em ôm ấp nỗi đau đó, chính em đã biến nó thành một vết thương lòng khó buông xả được!
Này em, hãy sẵn sàng thứ tha cho chính bản thân mình, em hãy đón nhận một ngày mới bắt đầu thật là vui tươi và hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ!
Em à, chúng ta hãy học cách tha thứ cho nhau, tha thứ cho những lỗi lầm đã qua mà không hối tiếc. Tha thứ cho người mà em đang thấy căm hận vô cùng, vì họ đã làm cho trái tim em tan nát. Tha thứ và chấp nhận những gì đang có trong hiện tại, là con đường nhanh nhất để em có thể đứng dậy và bước tiếp trong vững vàng.
Em ơi: “tha thứ cho một ai đó chính là em đã biết tha thứ cho chính mình ”. Hãy tha thứ cho họ, để em có thể trở về với một thực tại nhiệm mầu mà em đang có được, bởi em không còn vướng bận nữa, sống được như vậy không sướng hay sao, sướng hết cả người em ạ.
Đến một lúc nào đó, khi em đã tìm được hạnh phúc chân thật, không còn bị những thứ khác ràng buộc nữa, thì em sẽ cảm ơn người đó, vì họ đã giúp cho em sống hạnh phúc trọn vẹn với chính mình! Tức là em đã giải thoát được sự mê lầm mà bao người khác vẫn còn đang đắm chìm trong đó, vậy là em đang hưởng trọn niềman vui hạnh phúc?
Chút lòng thành xin dâng trọn đến em, mong rằng em sẽ đón nhận hạnh phúc một cách chân tình trong từng phút giây! Tôi luôn có trong em…để em có đủ niềm tin mà vững vàng đi hết cuộc đời, trong thương yêu và hiểu biết.


Thích Đạt Ma Phổ Giác

Nếu chỉ còn một ngày để sống?

Nếu chỉ còn một ngày để sống?

Đăng lúc: 19:45 - 09/06/2015

Tôi không biết bạn là ai? Bạn sống như thế nào?… Nhưng tôi biết chắc một điều rằng rồi một ngày nào đó bạn sẽ phải chết. Bạn biết thần chết chứ? Ông ấy là một người thực thi bình đẳng vĩ đại nhất và là người san bằng mọi bất công trong xã hội. Không thiên vị một ai, dù giàu sang hay nghèo hèn ông ấy đều cần mẫn gõ cửa từng nhà.
Một hơi thở ra mà không vào là ngàn thu vĩnh biệt. Cuộc đời này mong manh dễ vỡ là thế, những người con Phật ai cũng hình dung, cũng biết. Vậy có bao giờ bạn tự đặt ra câu hỏi “Nếu chỉ còn một ngày để sống mình sẽ làm gì?”.

Gia đình là nơi bạn được sinh ra, là nơi bạn lớn lên, nơi của những yêu thương được chắp cánh. Ba, mẹ, anh, chị, em luôn dang rộng vòng tay che chở, yêu thương, luôn chào đón bạn trở về dù bạn có thành công hay sa cơ lỡ nghiệp đi chăng nữa thì những vòng tay ấy không bao giờ mỏi mệt. Vậy thử hỏi có bao giờ bạn nói rằng bạn yêu ba mẹ anh chị em của mình chưa? Bạn đã bao giờ nói lời cảm ơn chân thành, sâu thẳm từ tận đáy lòng chưa? Một ngày cuối của cuộc đời có đủ để bạn sà vào vòng tay ấm áp của cha mẹ và nói rằng con yêu gia đình nhiều lắm. Một ngày cuối có đủ để bạn đích thân vào bếp nấu cho cha mẹ một bữa cơm không?
Trong nhịp sống hối hả này, bạn không đủ hoặc không muốn đủ thời gian để ngồi ăn cùng gia đình một bữa cơm. Vậy ngày cuối này bạn có thể dành chút thời gian ngồi vào bàn ăn cùng cha bàn vài ba câu chuyện thời sự, cùng mẹ nói chuyện giá cả; cùng anh nói về mẩu xe mới, cùng chị bàn về chiếc điện thoại đa năng; hỏi đứa em dạo này học hành ra sao, ngồi lại nhìn những gương mặt thân quen. Ôi tuyệt vời biết bao! Bạn có đủ thời gian để thay mẹ đóng cổng nhà lúc chiều tối, kéo chăn cao hơn cho cha mẹ ấm nồng, tắt bớt đèn, mở quạt số nhỏ cho đứa em bớt lạnh không? Có thể trong cuộc sống thường nhật bạn không đủ thời gian để nhận ra điều đó, nhưng ngày cuối đời hãy sống chậm lại trước khi tất cả là quá muộn.
Nhịp sống hối hả quá nhiều ồn ào đã vô tình cuốn bạn vào cơn xoáy của cơm áo gạo tiền; hay những cuộc vui thâu đêm suốt sáng và bạn cho rằng đó là mục đích mà cuộc đời bạn hướng tới. Bạn phải làm việc, thậm chí bạn không có đủ thời gian để đội chiếc mũ bảo hiểm, không có đủ vài giây để dừng lại trước đèn đỏ, không đủ thời gian ngả mũ trước đám tang, hay thậm chí là nhếch môi cười chúc mừng cho một đám cưới, hoặc là một cái nhìn cảm thông cho những thân phận nghèo khổ bên đường. Dăm ba ngàn không đủ cho bạn uống một ly cà-phê, thế nhưng đó là cả một nguồn sống, hãy cho đi để nhận lại lời cảm ơn chân thành nhất, hãy cho đi để nhận lại nụ cười đầy hy vọng, dù nụ cười đó không đủ sức xóa tan đi băng giá trong lòng bạn, nhưng phần nào có thể làm ấm con tim đã nguội hẳn của bạn.
Bạn nói rằng bạn bận. Bận đến nỗi không có đủ thời gian để nhìn những tia nắng ban mai. Bận lắm, bận đến nỗi bạn không biết cuộc đời này đẹp đến mức nào. Vậy nếu chỉ còn một ngày để sống bạn có đủ thời gian để sống chậm lại không, hãy quan sát và chắc chắn một điều rằng bạn sẽ nhận ra cuộc đời này quá đẹp với những chiếc lá xanh trên cành, tiếng lũ trẻ gọi nhau lúc tan trường,…

Bạn bận rộn nên không đủ thời gian để nói cảm ơn, xin lỗi. Nếu chỉ còn một ngày để sống chắc bạn có đủ thời gian nhỉ, cảm ơn cha mẹ đã mang ta đến cuộc đời này, cảm ơn anh chị em, cảm ơn bạn bè đã ở bên ta lúc ta vấp ngã, cảm ơn cuộc đời, cảm ơn mọi người.

Tôi tin chắc không ai ích kỷ đến nỗi không tha thứ cho kẻ thành thật xin lỗi, biết hướng thiện. Vậy tại sao bạn không xin lỗi khi mình mắc sai lầm, sĩ diện ư nếu chỉ còn một ngày để sống.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, bạn thử lắng nghe tiếng chuông chùa vang lên lúc chiều tà hay cùng quý thầy đọc bài kinh cầu nguyện. Khẽ dạo những bước chân nhẹ nhàng chậm rãi, hít một hơi thở thật sâu trong bầu không khí an lành của mái chùa nghèo, hít thật căng phổi bạn nhé, và bạn sẽ yêu nơi này, sẽ cảm thấy tâm hồn thanh thản.
Nếu chỉ còn một ngày để sống! Một ngày thì quá ngắn so với một kiếp người, nhưng nếu bạn sống thật tốt thì một ngày là quá đủ để cho bạn làm tất cả. Nhưng may mắn thay bạn không chỉ còn một ngày mà bạn có nhiều ngày, thậm chí còn nhiều năm để sống. Vậy tại sao bạn không sống cho thật trọn vẹn, sống chậm, sống yêu thương nhiều hơn để rồi sau này sẽ chẳng bao giờ nói giá như bạn có thêm một ngày để sống.

Cuộc đời này không biết lúc nào sẽ là dấu chấm hết. Vậy nên hãy sống thật chậm, hãy cười thật tươi và hãy tha thứ nếu có thể. Hãy sống ngày hôm nay cho thật trọn vẹn bạn nhé.

Nhuận Sơn

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 6
  • Hôm nay 4,344
  • Tháng hiện tại 61,729
  • Tổng lượt truy cập 23,467,978