Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Trụ Trì rồi !!!

Trụ Trì rồi !!!

Đăng lúc: 21:14 - 26/01/2018

Một người bình thường ngoài đời cứ học hành xong, có công việc, tự lo cho bản thân được rồi, bắt đầu kết hôn, có gia đình. Người ta nói là đã trưởng thành.
Còn người tu, cũng vẫn học, tùy theo khả năng mỗi người mà học. Có người thì học mỗi Trung cấp Phật học, xong rồi thôi, coi như có vốn kiến thức tạm đủ về mà tu, hay là xác định học xong về ở với Thầy tổ, không cần trụ trì, nên học nhiều cũng không làm gì.

Cũng có người học lên Đại học, xác định học xong phải đi trụ trì một ngôi chùa nào đó, rồi hoằng pháp, dạy học, tiếp Tăng độ chúng.

Cũng có người học lên Thạc sĩ, có thêm kiến thức, ít ra giá trị cũng nằm ở cái bằng so với mặt bằng chung dừng ở mức độ Đại học. Để có thể làm giáo thọ của một trường Phật học nào đấy, làm giảng sư, cũng để có vị trí nhất định trong Giáo Hội tiếp tục kế thừa những vị lãnh đạo trước.

Cũng có người lên tới Tiến sĩ, học về trụ trì một lần hai-ba cái ngôi chùa, đi giảng chỗ này chỗ kia, tổ chức khóa tu này khóa tu nọ, có vị trí đáng nể trong đội ngũ lãnh đạo Giáo Hội.

Nhưng rồi học tới đâu đi chăng nữa cũng tùy vào trình độ, hay đơn giản là nhu cầu của địa phương sinh hoạt. Quan trọng nhất, cũng là tu kiểu gì.
FB IMG 1515400368457
Vậy đó. Người tu đủ tuổi thọ Đại giới xong, học hành cũng mãn, về lại chùa xưa, Thầy Tổ hay Giáo Hội giao cho ngôi chùa nào đó về trụ trì, tự lập. Bắt đầu sứ mạng tuyên dương chánh pháp… người ta mới gọi là trưởng thành.

Ở trường Trung cấp Huế, tôi ở cùng phòng với một sư huynh người Hà Tĩnh, mới thọ Đại Giới năm ngoái, đang học Học viện năm thứ III. Thọ giới về xong, sư phụ giao cho cái chùa ngoài Hà Tĩnh, chùa quê, nhưng ấm áp.

Thật sự ở cùng liêu nhưng tôi với thầy ấy chẳng nói chuyện nhiều là mấy, ngoài mấy câu hỏi đáp bâng quơ, nhưng chắc cũng cả mấy ngày mới hỏi, có lẽ là không hợp cho lắm. Vậy mà cũng chung liêu được gần 4 năm rồi. Nghĩ lại thấy cái duyên nó ngộ.

Cứ mỗi tuần học xong, thầy ấy lại tất bật chạy về Hà Tĩnh, phần lo cho chùa, cửa nẻo ra sao, mùa mưa bão nước có tạt không, bà con tu tập kiểu gì. Mỗi tuần trước ngày về, lại lỉnh kỉnh đi mua một mớ đồ, sắm cho chùa từng chút, cái chuông, cái mõ, ông Phật… đủ thứ.

Tháng nữa chuẩn bị Tết, thầy đi in lịch, tặng bà con trong làng cho vui. Tết người ta vào nhà chúc Tết, thấy cái lịch trên tường có tên nhà chùa tặng, cũng nở mày nở mặt.

In lịch xong, lấy về. Thầy ấy mở ra coi, săm soi từng tờ, lật lật, nâng niu như sợ nó rơi số ra ngoài. Đếm, rồi lại lật. Tôi ngồi bên giường, thầy ấy không nói, nhưng chắc là thầy vui lắm.

Vui vì lần đầu tiên mình đi tặng lịch Tết. Lần đầu tiên cho người ta cái thứ mà hồi nhỏ cứ nghĩ là phải làm gì ghê gớm lắm mới có lịch đem đi tặng.

Vui vì trên tờ lịch đó in tên chùa mình, mặc dù hổng phải tên mình, nhưng cũng vui, bởi chùa đó, mình trụ trì chớ ai.

Vui vì rồi cũng có ngày đường đường chính chính cầm tờ lịch trên tay đi tặng bà con, bạn bè với danh xưng ông trụ trì. Nhất là, về nhà đưa mẹ, con trai mẹ làm trụ trì rồi. Mẹ cầm tờ lịch, tay rờ rờ trên cái tên chùa, hổng có quà Tết năm nào mẹ vui như năm nay.

Nghĩ cũng lạ, trụ trì rồi, người ta cứ tất bật, nhưng cũng hay vui, vui từ mấy cái nhỏ nhất.

Trụ trì rồi, không còn là công tử ở với sư phụ nữa. Bắt đầu tung cánh, bay đi, bay đến nơi nào cần. Đi mà ban rải chánh pháp. Cũng đồng nghĩa với việc không còn nhõng nhẽo với sư phụ nữa, bây giờ có gì phải tự lo, tự xử với bất trắc của cuộc đời.

Trụ trì rồi, nghĩa là thời gian dành cho sư phụ cũng ít đi. Phải lo cho Phật tử riêng, trăn trở với việc chùa. Nghĩa là bữa cơm với sư phụ cũng ít dần, lâu lâu cũng chỉ là bữa cơm hội ngộ ngày có giỗ. Nghĩa là không còn nói chuyện tâm sự nhiều với sư phụ, vài ba bữa một cú điện thoại xa, hỏi thầy có khỏe không, thầy ăn cơm có ngon miệng không, huynh đệ ở chùa có làm thầy vui không, hay lâu rồi con không về thầy có buồn không. Rồi cũng có những cuộc điện thoại ngây thơ về sư phụ, đòi chỉ cách xử lý mấy việc không tên mà ngày xưa, sư phụ làm có bao giờ chịu hỏi.

Trụ trì rồi, tự nhiên nhiều lúc thấy nhớ chùa xưa da diết. Nhớ tiếng mõ lốc cốc của chúng điệu chiều công phu, nhớ tiếng hồng chung giật mình ngáy ngủ lúc 4 giờ sáng. Nhớ cái nhà bếp thầy trò ngồi ăn cơm mà rôm rả, cũng nhớ luôn cái ghế ngồi bao nhiêu năm trời muốn chai đít, hổng biết mình đi rồi, đứa nào ngồi chỗ đó. Cũng nhớ luôn bà nhà bếp nấu ăn, vui thì cười ha hả, buồn thì bỏ muối cho đậm đà món ăn. Nhớ mấy cái la rầy của ông sư phụ, mà không biết, sư phụ cả đống chuyện phải lo. Nhớ cây chôm chôm sau hè, bữa có trái cả chùa cứ quấn quanh khen chê đủ kiểu, bây giờ hổng biết mùa này chôm chôm có ngọt hông. Vậy đó, đêm về nằm trong căn phòng mới, tự nhiên bao nhiêu kỷ niệm ùa về, chảy nước mắt, tự nhiên thèm nhỏ miết, đừng có lớn để đi trụ trì, xa chi rồi nhớ…

Trụ trì rồi, là bao nhiêu việc phải lo, toàn là mấy việc trước giờ thấy sư phụ làm tưởng dễ lắm, bây giờ một chút thôi cũng mệt, tự nhiên thấy thương sư phụ quá chừng.

Trụ trì rồi, có Phật tử riêng, bắt đầu dạy bảo, hướng dẫn đủ điều, mới thấy chúng sanh khó độ, tự nhiên thấy hối hận ngày xưa thấy Phật tử chùa người ta, cứ bảo Phật tử chùa đó gì kỳ vậy.

Trụ trì rồi, được người ta gọi làm sư phụ. Mới biết gọi thì dễ mà làm hông có dễ, sư phụ thì phải đàng hoàng, sư phụ thì phải nghiêm khắc, sư phụ thì phải quan tâm, sư phụ thì thương nhưng vẫn đánh, tự nhiên thấy từ sư phụ sao thiêng liêng quá, ngẫm lại thấy sư phụ mình ghê thiệt.

Trụ trì rồi, bắt đầu gánh những điều tiếng, lời ra tiếng vào, thị phi dư luận đủ trò. Lần đầu mới thấy bị tổn thương, mới biết cảnh làm dâu trăm họ, mới hiểu thế nào là ức chế. Bây giờ mới hiểu chữ Nhẫn ngày xưa thầy dạy.

Trụ trì rồi, là có đệ tử, bắt đầu có con rồi. Mới biết có con mệt ra sao, trời lạnh không biết nó lạnh không, lặng lẽ tạt qua phòng kéo chăn lên cho nó, thấy nó ăn cơm ít, tưởng bệnh, đem dĩa mãn cầu mới hái xuống cho nó, kêu thầy không thích ăn mấy cái này. Làm thầy mới biết thấy nó hư, phải đánh, phải la, mà trong lòng đau như đứt. Làm thầy rồi là tập không biết khen, nó làm gì cũng chê, để dạy nó đừng kiêu ngạo nghe con… làm thầy rồi mới biết, ngày xưa hiểu lầm sư phụ đủ thứ, tự nhiên thèm chạy về ôm thầy quá chừng.

Trụ trì rồi, Tết không còn cảnh huynh đệ quầy quanh sư phụ xin lì xì, không nghe sư phụ chúc từng đứa nữa mà đổi lại năm nay, mình phải chuẩn bị tiền đặng lì xì người ta, xung quanh toàn mấy gương mặt mới, lạ nhưng ấm áp, có cái gì đó vui trong lòng.

Trụ trì rồi, có tiền hơn rồi, nhưng không phải để mua quyển sách ngày xưa thích đọc, hay may bộ đồ màu mới. Mà lại đi sắm đồ để ở chùa, mua cái chén cho Phật tử về ăn cơm, sắm cái mền cho người ta đắp, hay bắt thêm mấy bóng đèn ngoài sân sợ tối về tụng kinh họ hổng thấy đường.

Trụ trì rồi, hình như mắt sáng hơn. Cái lá rụng sau cửa chùa cũng thấy, vết bụi nhỏ trên tượng Phật trong chánh điện cũng thấy, cây chổi quét nhà gãy cán nhét vội sau vườn cũng thấy, kể cả trái ổi nâng niu mấy ngày trời chờ ngày thơm để hái mà chiều nay đâu mất tiêu… thấy rồi lại tự tay mà làm, tự cầm cây chổi quét cái lá, thấy nhớ cái thời làm điệu ngày xưa, tự nhiên thương cái chùa mình vô cùng, như bản thân mình vậy, dơ một chút, chịu không nổi.

Lạ vậy đó.

Trụ trì rồi tự nhiên con người ta khác đi, thấy mình trưởng thành hơn, biết nhẫn, biết đau, biết tổn thương, biết ngã, biết tự đứng lên… nghĩ cũng lạ.

Nói gì nói, tôi viết bài này cũng chưa làm trụ trì, thấy sao kể vậy. Nhưng viết xong rồi mới thấy mình may mắn, bởi chưa có trụ trì, để có thời gian trân trọng những thứ đó hơn, để sau này không phải tiếc nuối, ngồi trước cổng chùa cầm cái nón ngó về chùa xưa, chảy nước mắt mới giật mình, trụ trì rồi…
Tác giả bài viết: Mộc Trầm

Tịnh tín Tam bảo là cơ sở của hiếu thuận

Tịnh tín Tam bảo là cơ sở của hiếu thuận

Đăng lúc: 19:17 - 20/09/2017

Hiếu thuận với cha mẹ, biết ơn và đền ơn là những phẩm tính đạo đức rất quan trọng. Có thể nói, ai khiếm khuyết những phẩm tính trên thì què quặt, là ngợm chẳng nên người.

Dĩ nhiên bình sinh không ai phủ nhận hiếu thuận nhưng thực tiễn đời sống thì lại khác. Tùy nhân duyên mà mỗi người thể hiện chữ hiếu khác biệt nhau theo nghiệp của mình. Nghiệp ở đây là trình độ, nhận thức, quan điểm của cá nhân về hiếu thuận để ứng dụng thực hành. Ngoài ra còn có nghiệp duyên quá khứ đeo đẳng, vay trả, chi phối lên vấn đề hiếu thuận mà người thường rất khó nhận ra hay lý giải về chúng.
Theo Thế Tôn, đối với hàng Phật tử thì trọn niềm tin Tam bảo, tịnh tín Phật-Pháp-Tăng là cơ sở quan trọng để thiết lập và thực hành hiếu đạo. Thoạt nhìn, tịnh tín Tam bảo và hiếu đạo là hai vấn đề khác nhau, ít liên quan với nhau nhưng kỳ thực chúng có liên hệ mật thiết với nhau. Đoạn kinh văn dưới đây ‘chúng sinh muốn… vâng nhận phụng sự cha mẹ, anh em’, tức là có hiếu thuận thì cần giữ vững niềm tin trong sạch ‘không di động’ vào Tam bảo, rất đáng để chúng ta lưu tâm suy gẫm.

a tinhtin.jpg
Nhen nhóm niềm tin Tam bảo - Ảnh minh họa

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Nếu cho chúng sanh muốn khởi tâm từ, có lòng tin thuần thành, vâng nhận phụng sự cha mẹ, anh em, dòng họ, nhà cửa, bằng hữu, tri thức nên đặt ở ba nơi khiến không di động. Thế nào là ba? Nên phát tâm hoan hỷ đối với Như Lai, tâm không di động, bậc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thuợng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư hiệu là Phật, Thế Tôn.

Lại nên phát ý ở trong Chánh pháp, pháp của Như Lai khéo thuyết, vô ngại, rất là vi diệu, do đây mà thành quả vị. Như thế người trí nên học để biết, cũng nên phát ý với Thánh chúng này, Thánh chúng của Như Lai thảy đều hòa hợp, không có lẫn lộn, pháp thành tựu, giới thành tựu, tam muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, giải thoát kiến tuệ thành tựu. Thánh chúng nghĩa là bốn đôi, tám bậc, mười hai Hiền Thánh. Đây là Thánh chúng của Như Lai, đáng kính, đáng quý. Đây là phước điền vô thượng của thế gian. Có các Tỳ-kheo học ba điều này thì thành tựu quả báo lớn. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 21. Tam bảo,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.362)

Tin Tam bảo là nấc thang đầu tiên trên đường đạo. Những tưởng chúng ta dễ dàng chinh phục bước căn bản này để vượt lên những thứ bậc cao hơn nhưng thực tiễn lại khác. Chúng ta đều tin Phật Thích Ca nhưng chư Phật quá khứ, vị lai thì chưa trọn (trong khi các truyền thống Phật giáo đều nói đến chư Phật trong ba đời). Chúng ta đều tin Pháp (theo truyền thống của mình, nhưng không hiểu và không chấp nhận các truyền thống khác) trong khi ‘Pháp của Như Lai khéo thuyết, vô ngại, rất là vi diệu, do đây mà thành quả vị’. Còn tin Tăng là điều khó hơn vì thánh hiền Tăng ngày càng hiếm hoi, trong khi phàm và tạp Tăng thì ngày càng nhiều. Nên việc giữ tâm ‘không di động’ với Tam bảo quả là khó khăn.

Tuy nhiên, dù khó khăn đến mấy thì ‘không di động’ với Tam bảo là thách thức mà hàng Phật tử tại gia lẫn xuất gia phải vượt qua. Vì tâm không tịnh tín (tin sâu, tin với trí tuệ), niềm tin Tam bảo mà ‘di động’ thì không thể tiến tu được. Tịnh tín rồi thì tự khắc chúng ta cảm nhận được tinh hoa, thánh thiện nơi Tam bảo, giống như nhìn đá thấy ngọc, nhìn quặng thấy vàng. Nhờ đó mà niềm tin Phật-Pháp-Tăng trong ta ngày càng sâu sắc và bất động. Từ nền tảng này, những thiện tâm như từ bi hỷ xả, tàm quý hổ thẹn sợ hãi với những đều xấu ác, tha thứ và bao dung, hiếu thuận với cha mẹ và anh chị em ngày một lớn dần thêm. Thế nên, để trọn niềm hiếu thuận với cha mẹ và anh em, người con Phật trước cần trau dồi đức tin, thâm tín Tam bảo.
Quảng Tánh

Bậc chân tu đạo cao đức trọng quỷ thần kính sợ

Bậc chân tu đạo cao đức trọng quỷ thần kính sợ

Đăng lúc: 22:03 - 05/09/2016

Người xưa tu hành có đạo đức cao thượng tôn quý, khiến thiên long quỷ thần cảm động, tự nhiên đến ủng hộ. Vì thế, đạo đức là tôn quý nhất ở thế gian, nên có câu: "Đạo cao long hổ phục. Đức trọng quỷ thần khâm".
Quỷ thần cùng con người, mỗi loài đều có pháp giới tôn quý ty tiện khác nhau. Tại sao chư thiên, quỷ thần lại tôn trọng, cung kính pháp giới loài người? Diệu tánh linh minh vốn chẳng phân biệt mình người, đều đồng quy về nhất thể. Chỉ vì vô minh bất giác, mê muội nguồn chân, mới phân mười pháp giới, tức sáu phàm bốn thánh. Nếu muốn xả mê về ngộ, phải xoay về cội nguồn. Song, trình độ giác ngộ của mỗi pháp giới không đồng. Trong pháp giới của con người, có kẻ giác và bất giác, cũng có kẻ chánh tri kiến và tà tri kiến. Pháp giới chư thiên và quỷ thần cũng như thế. Tuy nằm trong sáu loài phàm phu, nhưng pháp giới con người lại vượt trội năm pháp giới khác.

Chư thiên cõi trời Lục Dục vẫn còn đam mê tham ái nữ sắc, quên mất việc tu hành. Trời Tứ Thiền Thiên thì lại tham đắm thiền vị, quên mất con đường minh ngộ chân tâm. Trời Tứ Không Thiên thì lại lạc vào thiên chấp biến không, quên mất chánh tri kiến. A Tu La còn nhiều sân hận. Chúng sanh trong đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thọ bao khổ nhọc, khiến chẳng có chánh niệm, thì làm sao tu hành? Cõi người khổ nhọc vui sướng không đồng, nhưng so với các cõi khác thì dễ dàng giác ngộ hơn, nên có thể minh tâm kiến tánh, siêu phàm nhập thánh. Chư thiên quỷ thần tuy có thần thông phước báo nhiều ít không đồng, nhưng đều tôn trọng người có đạo đức và cùng ngưỡng mộ chánh pháp.

Thiền sư Nguyên Khê, kết am tại Nhạc Bàng Ô, đã từng truyền giới cho thần núi. Trong bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, viết: "Ngày nọ, có một dị nhân, đầu đội mão rộng, thân mặc cân đai, dẫn rất nhiều người, thư thả đi vào am, bảo rằng muốn yết kiến Đại Sư. Thấy hình mạo kỳ lạ phi thường, Đại Sư hỏi:

- Lành thay! Nhân giả vì cớ gì mà đến đây?


Thần đáp:

- Đại Sư nhận ra con không?

- Ta chỉ dùng mắt bình đẳng mà quán chư Phật cùng tất cả chúng sanh, sao lại có phân biệt!

- Con vốn là thần trụ núi này, và cầm nắm sanh tử con người trong vùng. Đại Sư có nhận biết không?

- Ta vốn vô sanh, ông làm sao giết được? Thân Ta đồng với hư không, cùng đồng với thân ông. Ông có thể phá hoại hư không cùng thân của mình không? Chẳng thể được! Thân Ta bất sanh bất diệt. Ông chưa có thể làm được như thế, sao cầm nắm sanh tử của ta?

Thần cung kính cúi đầu thưa:

- Con là vị thần rất mực thông minh chánh trực, há lại không biết Đại Sư có trí huệ quảng đại sao? Nay mong cầu Đại Sư hãy truyền chánh giới, con xin lãnh thọ.

- Ông khất cầu giới, tức đã đắc giới. Tại sao? Ngoài tâm không có giới, sao cần cầu giới?

- Nghe lý này, con thật mê muội, chỉ cầu Đại Sư truyền giới để con trở thành đệ tử của Ngài.

Đại Sư lên tòa, ngồi ngay thẳng, tay cầm bình hương trầm, bảo:

- Hôm nay truyền năm giới cấm, nếu ông phụng trì được, thì đáp rằng con giữ được. Ngược lại, hãy đáp rằng không giữ được.

Thần thưa:

- Con kính cẩn thọ giáo.

- Ông có thể giữ giới cấm dâm dục được không?

- Con vẫn còn có vợ.

- Chẳng phải thế! Ta bảo là không nên tà dâm.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm ăn cắp được không?

- Con đâu có thiếu gì, sao lại đi ăn cắp?

- Không phải vậy! Hưởng thụ mà không tham lam quá độ. Không được cúng, chớ nên gieo họa cho người hiền.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm giết hại được không?

- Con đang nhậm chức phán sát, sao không thể giết hại được?

- Không phải thế! Chẳng nên lạm dụng quyền thế, giết hại người hiền.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm nói láo được không?

- Tâm con chất trực, sao lại đi nói láo?

- Không phải thế! Không nói láo tức lời nói trước sau đều hợp với tâm của trời đất.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm uống rượu được không?

- Con giữ được.

- Trên đây là những giới cấm do Phật chế. Có tâm phụng trì mà vô tâm chấp vật. Có tâm vì vật, mà vô tâm nghĩ tưởng thân. Nếu được như thế, thì lúc trời đất vừa thành lập, chẳng tinh khiết. Lúc trời đất tan hoại thì chẳng già. Biến hóa ngày đêm mà không động. Cứu cánh tịch mặc mà chẳng ngừng nghỉ. Ngộ được như thế, tuy có vợ mà chẳng phải thê thiếp. Tuy hưởng thụ, mà chẳng chấp thủ. Tuy có oai quyền mà chẳng lạm dụng uy thế. Tuy làm mà chẳng tạo. Tuy say rượu mà chẳng hôn mê. Nếu vô tâm nơi muôn vật, tuy nhiều dục mà chẳng dâm; tham lam quá độ mà không phạm tội ăn cắp; lạm quyền giết lầm người mà không phạm tội sát. Trước sau ngược với trời đất mà không vọng dối. Hôn vọng điên đảo mà chẳng say. Đó gọi là vô tâm. Vô tâm thì vô giới. Vô giới tức là vô tâm, vô Phật, vô chúng sanh, vô nhân, vô ngã, vậy thì ai là người trì giới?

- Thần thông của con thật không thể sánh bằng Phật.

- Trong mười phần thần thông, ông không thể làm được năm phần, còn Phật thì không thể làm ba phần.

Nghe thế Thần bèn quỳ xuống thưa:

- Cầu xin Đại Sư kể rõ cho con nghe.

Đại Sư hỏi:

- Ông có thể khiến mặt trời mọc ở hướng tây, lặn ở hướng đông không?

- Không thể.

- Ông có thể lấy đất năm đỉnh núi mà kết thành bốn biển không?

- Không thể.

- Phật có thể chuyển tất cả tướng không thành muôn pháp trí, mà không thể diệt định nghiệp. Phật có thể biết sự việc của chúng sanh cùng tận ức kiếp, mà không thể giáo hóa những kẻ vô duyên. Phật có thể độ vô lượng loài hữu tình mà không thể diệt tận pháp giới chúng sanh. Đó là ba việc mà Phật không thể làm được. Định nghiệp cũng không lâu. Kẻ vô duyên cũng có kỳ. Pháp giới chúng sanh vốn không tăng không giảm. Không ai có thể làm chủ tất cả pháp. Có pháp mà vô chủ, nên gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ, cũng gọi là vô tâm. Nay giải thích về Phật, Ta cũng chẳng có thần thông, chỉ dùng vô tâm mà thông đạt hết muôn pháp.

- Con thật rất ngu muội, chưa từng được nghe nghĩa không. Đại Sư truyền giới, con vâng giữ phụng hành. Ngày nay, con nguyện muốn báo đáp ân đức từ bi của Đại Sư, nên sẽ hiển hiện chút ít thần thông.

- Ta quán thân vô vật, quán pháp vô thường, sao cần cầu chi nữa?

- Nếu Đại Sư cho phép, con sẽ triển chuyển chút ít thần thông, để khiến người đã phát tâm, vừa phát tâm, chưa phát tâm, chẳng có tín tâm, đã có tín tâm, biết được có Phật, có thần có năng lực thần thông, không có năng lực thần thông, có tự nhiên, không có tự nhiên.

- Không được! Không được!

- Phật cũng sử dụng thần thông để truyền pháp, sao Đại Sư chẳng làm theo? Xin Đại Sư rũ lòng dạy bảo.

Đại Sư bất đắc dĩ bảo:

- Chùa Đông Nham có chướng ngại là cỏ dại rậm rạp mà chẳng có cây cối to lớn; đằng sau lưng chùa lại không có chỗ tựa. Ngọn núi phía bắc có rất nhiều cây cối. Ông có thể di chuyển cây cối bên hướng bắc qua đỉnh núi phía đông không?

Thần thưa:

- Xin vâng mạng! Giữa khuya, con sẽ thổi chúng đi, mong Đại Sư chớ sợ!

Nói xong, Thần liền đảnh lễ tạ từ lui ra. Tăng chúng trong chùa, vừa đưa Thần ra cửa, thì thấy có rất nhiều người, đứng hai hàng dài, đi theo hầu. Tướng Thần oai vệ uy nghi như vua chúa, xung quanh thân sương khói xông lên mù mịt, mây ngũ sắc quấn chằng chịt, trên đầu có tràng phan ngọc bội. Thần bay lên hư không rồi biến mất. Tối đến, quả nhiên mây kéo đến ùn ùn, mưa to gió lớn, sấm sét nổi lên, mái nóc đều lung lay rung động, khiến chim chóc cầm thú la hoảng. Đại Sư bảo đại chúng:

- Chớ sợ! Chớ sợ! Thần làm theo ý ta.

Sáng hôm sau, trời trong mưa tạnh; tất cả cây cối bên phía bắc đều được dời hết qua đỉnh núi phía đông, mọc tủa xum xuê khắp nơi. Đại Sư thấy thế, bảo đệ tử:

- Sau khi Ta mất, chớ kể chuyện này cho người ngoài nghe. Nếu họ biết được, sẽ cho Ta là yêu quái.

Quý vị hãy xem, thần tuy có thần thông, nhưng không bằng người có đạo đức. Thế nên bảo rằng "đức trọng quỷ thần khâm". Người không có đạo đức, bị quỷ thần quản chế, thọ bao hiểm họa. Người có đạo đức, lại muốn minh tâm kiến tánh, thì tự nhiên sẽ cảm động quỷ thần. Chư thiền sư đại đức xưa nay, tu hành kinh thiên động địa, khiến hươu nai dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Thiên ma ngoại đạo, chư tiên quỷ thần, đều đến quy y, như Chân tổ sư quy y Quán Âm, Tài Thần quy y Phổ Hiền, Động Tân tiên sư quy y Hoàng Long, Vương Linh Quang quy y Địa Tạng, vua Văn Xương quy y Phật Thích Ca, v.v... Do đó, hoàng đế Nhân Tông triều Tống viết bài kệ phú tán thán chư tăng đại đức: "Những bậc tôn quý nhất trên thế gian, không ai bằng những vị xả tục xuất gia.

Nếu được làm tăng sĩ, thì mới thọ sự cúng dường của trời người. Làm đệ tử của đấng Thế Tôn, tức là quyến thuộc của tiên thánh, vào nơi cửa vàng, đến cung điện bảo tạng. Hươu trắng dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Xuân nghe chim hót líu lo, vang tiếng diệu nhạc cơ trời. Hạ nghe ve kêu trên cây cao, liền biết mùa nóng đã đến. Thu ngắm trời xanh, gió trong trăng sao chiếu sáng. Đông xem tuyết phủ đảnh núi sông ngòi. Ngồi thiền trên bồ đoàn, thân ấm áp. Dẫu sóng ba đào nổi dậy, vẫn cỡi tích trượng thăng hư không. Mười đại quân ma khi nghe danh, vẫn phải hàng phục, quy y chánh đạo. Vang tiếng gõ bản, bèn lên vân đường lễ cúng. Nghe tiếng chuông, bèn lên chánh điện tụng kinh. Mọi việc đều như ý, muôn loại hiện thành. Lúc sống làm thầy trời người. Lúc chết quyết định quy y thánh quả. Kệ viết:

"Không Vương đệ tử Phật
Quyến thuộc chư Như Lai
Thân mặc y trăm mảnh
Miệng ăn ngàn bát cơm
Tối ngủ giường vô úy
Sáng thấy Phật A Di Đà".

Nếu Trẫm được như vậy, thì rất là mãn nguyện".

Trên đây là lời văn tán tụng chư tăng đại đức của hoàng đế Nhân Tông. Chúng ta tự hãy xem xét mình có tương ưng điểm nào với bài văn phú tán thán này không? Nếu hạnh mình đều tương hợp với lời văn trên, thì mới có thể thọ sự tôn kính của quỷ thần. Nếu "sóng ba đào khởi", như khi vô minh dấy lên, mà không thể "mở tích trượng, phóng lên hư không", khiến làm náo loạn cả trời đất, thì thật xấu hổ cùng cực. Ngược lại, nếu "mười đại ma quân" làm phiền hà, khiến chẳng được như ý, và bao việc chẳng thành tựu, mà có thể hàng phục chúng, thì trời rồng tám bộ quỷ thần đều tôn trọng cung kính.

Thiền sư Hư Vân

Trụ pháp Phật, thân tâm tự tại, thấy đúng, làm đúng

Trụ pháp Phật, thân tâm tự tại, thấy đúng, làm đúng

Đăng lúc: 21:27 - 12/01/2016

Tôi có nhân duyên với chùa Linh Thứu. Từ khi còn là học tăng, tôi đã nghe nói về ngôi chùa này. Nhưng mãi đến khi tôi được giao trách nhiệm Trưởng ban Hoằng pháp, chùa này là nơi đầu tiên tôi đến thuyết giảng.

Sau đó, tôi đi giảng dạy ở nhiều nơi, nhất là sau khi Hòa thượng Thiện Hào viên tịch, ngài đã dạy rằng tôi phải quan tâm đến sinh hoạt của Phật giáo phía Bắc. Vì phía Nam đã thành lập Ban Trị sự các tỉnh thành, trong khi phía Bắc, ngoài Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định, còn rất nhiều tỉnh thành chưa có Ban Trị sự Phật giáo.

Vì vậy, tôi quan tâm và dành thì giờ ra miền Bắc nhiều hơn. Đạo tràng Pháp Hoa miền Bắc theo đó đã phát triển nhanh chóng. Thật vậy, nhờ có căn lành sâu dày với Phật pháp, đã có trên một vạn Phật tử có thể hỗ trợ cho sinh hoạt Phật giáo phía Bắc.

truphapphat.jpg
Trụ pháp Phật, thân tâm tự tại, thấy đúng, làm đúng... - Ảnh minh họa

Sau thành quả tốt đẹp về hoằng pháp, tôi lại được giao trách nhiệm Trưởng ban Phật giáo Quốc tế, phụ trách vấn đề liên hệ với tổ chức Phật giáo các nước, thay cho Hòa thượng Minh Châu và chuẩn bị Lễ Vesak 2008. Từ đó, công việc hoằng pháp được giao cho Hòa thượng Bảo Nghiêm.

Phụ trách công việc đối ngoại, tôi nghĩ mỗi nước có truyền thống và pháp môn tu khác nhau. Vì vậy, cần phải hài hòa các hệ phái Phật giáo. Việc đầu tiên tôi nghĩ đến là làm cho Phật giáo Bắc truyền công nhận Phật giáo Nam truyền và ngược lại, Phật giáo Nam truyền cũng hòa hợp với Phật giáo Bắc truyền. Có được mối quan hệ hỗ tương sâu sắc giữa Nam truyền và Bắc truyền Phật giáo mới giúp Phật giáo Việt Nam vững mạnh. Còn cứ chê nhau là ngoại đạo, chắc chắn đưa Phật giáo đến chỗ diệt vong.

Ngoài ra, trong Phật giáo Bắc truyền còn kẹt tông môn, hệ phái. Người tu Thiền, người tu Tịnh độ, hay tu Mật tông, tu theo tông phái nào thỉ chỉ biết tông phái mình, coi tông phái khác đối nghịch, sẵn sàng tìm kẽ hở nói xấu nhau. Thử nghĩ như vậy, có đúng không, có lợi lạc gì cho Phật giáo hay không.

Và riêng trong Thiền lại phân chia, người theo Lâm Tế, người theo Tào Động. Ít nhất trong Thiền đã chia thành năm nhóm khác nhau và hành trì khác nhau. Thiết nghĩ càng xé nhỏ, sinh hoạt Phật giáo càng suy yếu.

Tôi may mắn nghiên cứu kinh Pháp hoa, nhận thấy kinh Pháp hoa là Viên giáo dung nhiếp tất cả pháp môn. Trên chân thật môn chỉ một, nhưng phương tiện có đến tám mươi bốn ngàn pháp tu để ứng vào căn cơ, trình độ của chúng sanh ở những quốc độ và những thời kỳ khác nhau.

Vì vậy, Phật dạy lấy trí tuệ làm nền tảng. Đối với người chấp giới luật, lấy giới luật làm thầy. Nhưng người không coi giới luật là chính thì nói rằng trong mười hai năm đầu Phật giáo hóa độ sanh, Ngài không nói giới, nhưng người theo Phật tu vẫn đắc quả La-hán. Sau đó mới có luật Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni…, luật của cư sĩ. Có giới luật nhiều như vậy, nhưng có ai đắc quả không.

Từ lý giải này, tư tưởng Đại thừa lấy giáo pháp làm thầy, nương vào giáo pháp tu hành để phát sinh trí tuệ. Phật khác với chúng sanh ở điểm Ngài có trí tuệ chỉ đạo. Nếu có trí tuệ chỉ đạo cho suy nghĩ, lời nói và hành động, chúng ta là Phật, là pháp, không phải chấp pháp.

Nếu chấp pháp, sẽ bị pháp ràng buộc, không giải thoát, nên huệ không sanh. Đó là tinh thần của Phật giáo phát triển theo kinh Duy ma, lấy giáo pháp làm thầy, áp dụng giáo pháp vào cuộc sống để phát triển trí tuệ. Vì vậy, người tu chọn Văn Thù Sư Lợi là thầy. Ngài là thầy của ba đời chư Phật, dùng ngũ trí nghiêm thân. Tu theo Đại thừa, hành giả lấy trí tuệ làm thân, làm sinh mạng, chỉ đạo tất cả việc làm của mình.

Trí của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai cộng với trí của thế gian gọi là ngũ trí. Nếu chúng ta theo xuất thế, không hiểu biết thế gian là chúng ta đi trên mây, nhưng Phật dạy Phật pháp nằm trong con người, trong suy nghĩ của con người. Nếu con người còn suy nghĩ về Phật, suy nghĩ Phật pháp thì đạo Phật còn tồn tại. Nếu suy nghĩ của con người về Phật pháp không còn, Phật giáo phải suy yếu.

Và khi Phật giáo suy yếu, chư Tăng không có trí tuệ để chỉ đạo quần chúng, nên không được kính ngưỡng. Như vậy, theo tinh thần Pháp hoa, Phật giáo mất trong lòng quần chúng, trong xã hội là Phật giáo hoại diệt.

Trở lại việc tôi cố tìm điểm chung giữa Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Đại thừa, nhờ đó tôi tạo được mối quan hệ giữa Phật giáo Việt Nam theo Đại thừa và Phật giáo Thái Lan theo Nam truyền. Thiết nghĩ hai mối quan hệ này phải tốt đẹp, vì chúng ta và họ là láng giềng, mà chống đối nhau sẽ làm cho Phật giáo suy yếu.

Chúng ta có trí tuệ, phải hợp tác, không nên chia cắt, đúng theo tinh thần của Giáo hội đề ra là thống nhất tất cả hệ phái thành một Giáo hội. Các nước nghĩ rằng tại sao Việt Nam thống nhất Phật giáo được. Vì chia ra thì dễ, nhưng thống nhất thì khó, hai chùa tách ra là việc đơn giản, nhưng hợp lại hai chùa thật khó.

Nghiên cứu kinh Pháp hoa, tôi thấy có câu chuyện thú vị là “Hiện Bảo tháp”. Khi Phật thuyết kinh Pháp hoa đến phẩm Hiện Bảo tháp thứ 11, bấy giờ, tháp Đa Bảo từ dưới đất tự nhiên vọt lên trụ giữa hư không. Đó là ý quan trọng mà tụng kinh phải nhận ra, không phải tụng kinh thuộc lòng văn tự.

Tại sao tháp trụ giữa hư không. Điều này phát xuất từ phẩm thứ 10 dạy rằng người tu phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai. Đó là cốt lõi của kinh Pháp hoa mà người tu không lên tòa Như Lai được, tức không tiếp nhận nghĩa lý sâu xa của Phật, thì phải nâng mình lên hư không, nghĩa là chúng ta không còn kẹt đói, khát, nóng, lạnh. Nói cách khác, mặc dù có thân tứ đại, nhưng không bị tứ đại chi phối. Vào định, hành giả quên đói, khát, nóng, lạnh, tức là vào hư không.

Thể nghiệm pháp này, trời nóng, tôi đắp y, ngồi thiền, vẫn cảm thấy bình thường. Vào thiền, thấy nóng là chưa có Phật, chưa lên hư không, chưa thấy Bồ-tát. Người tu không thể nghiệm được pháp này coi như chưa bước chân vào đạo.

Xưa kia, Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Pháp hoa nhiều năm, nhưng không ngộ, vì còn kẹt pháp, phải đợi ngài Huệ Năng đến khai ngộ, mới nhận được yếu chỉ của kinh. Phải nâng mình lên hư không, nhưng chưa lên được, mà vẫn thấy tháp là Tổ Thiên Thai dạy chúng ta tu làm sao thấy Phật, nhìn đâu cũng thấy Phật, thấy Bảo tháp xuất hiện.

Và bước thứ hai, đại chúng thấy tháp cao, nhưng không lên được. Phải nhờ thần lực của Phật nâng chúng ta lên hư không. Thực tế cho thấy nhiều người tu thiền, thường nghĩ tự lực là chính. Riêng tôi, kết hợp tự lực và tha lực để nhấc tôi lên hư không. Theo kinh nghiệm, tôi nghĩ Phật không hộ niệm, mình không làm được.

Phải nỗ lực tu hành và cũng nhờ tha lực nâng mình lên hư không, chúng ta thấy được tháp Đa Bảo, đó là cái thấy toàn diện của Phật giáo. Trước chúng ta chỉ thấy phiến diện, tu Thiền thì thấy Thiền, tu Tịnh độ thấy Tịnh độ… ví như người mù rờ voi.

Tôi nhắc quý vị đừng làm người mù rờ voi, phải sáng mắt, thấy được kho tàng quý giá của Phật để lại là tháp Đa Bảo. Làm sao mở tháp. Phật nói điều đó đơn giản, vì thệ nguyện của Phật rằng Phật nào muốn chỉ Pháp thân của Phật cho đại chúng, phải tập trung các phân thân thuyết pháp trong mười phương, mới mở tháp được. Điều này gợi ý gì.

Theo Phật giáo Nam truyền, chỉ có một Đức Phật Thích Ca thuyết pháp ở Ta-bà. Nhưng theo tinh thần Đại thừa Viên giáo, “Phật Thích Ca thị hiện sanh thân trong nhiều quốc độ, thuyết pháp, giáo hóa vô số chúng sanh, thọ mạng sai khác, tùy theo loại hình mà khai phương tiện chỉ bày chân thật thậm thâm vi diệu. Nếu thấy chúng sanh ưa pháp Tiểu thừa, đức mỏng, tội nặng, không thể thấy xa. Ta phải thị hiện thân hình giống nó, bỏ tục, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, rồi nhập Niết-bàn…”. Đó là cốt lõi kinh Pháp hoa.

Đức Phật Thích Ca ở Ấn Độ là một trong những thị hiện thân của Phật Thích Ca trên cuộc đời và sau khi độ những người đáng độ, làm những việc đáng làm, Ngài nhập Niết-bàn. Và hơn thế nữa, Đức Phật không phải chỉ thị hiện một chỗ, mà Ngài còn hiện thân ở nhiều chỗ khác.

Vì vậy, nhận thức sâu sắc yếu nghĩa này, tôi nói Phật Di Đà, Phật Dược Sư và mười phương Phật cũng là hiện thân của Phật Thích Ca và muốn mở tháp Đa Bảo, Phật Thích Ca phải tập trung phân thân.

Phật nói rằng khi thị hiện ở chỗ này, Ngài có tên này, thị hiện chỗ khác, Ngài có tên khác. Vì dân tộc Thái Lan thích hợp với việc khất thực, nên đối với họ, tu hạnh khất thực là chính. Nhưng ở Trung Quốc, phải làm mới được ăn, nên Tổ Bách Trượng hiện hữu với chủ trương nhứt nhựt bất tác, nhứt nhựt bất thực. Ở Nhật Bản, người dân cần người có sức mạnh phi thường và trí tuệ siêu việt, nên xuất hiện Kubo Daishi, ngài vừa sáng tác chữ viết của người Nhật, vừa mở trường dạy các ngành nghề và tất nhiên, ngài cũng thể hiện năng lực huyền bí.

Trên bước đường tu theo Phật, hành giả hiện thân theo đúng yêu cầu của người dân, chắc chắn việc làm đạt hiệu quả cao, làm sáng danh Phật giáo. Ở mỗi chỗ đều có việc làm khác nhau phù hợp và nâng cao đời sống của dân chúng.

Trong mùa an cư, các Ni sư suy nghĩ xem tại đây nên hành đạo thế nào được quần chúng kính ngưỡng, để đạo Phật còn trong lòng quần chúng. Trong thời kỳ đầu, nhờ cứu được vua Gia Long, Phật giáo tỉnh Mỹ Tho được phục hồi, nhưng sau đó, Phật giáo suy yếu, cho đến phong trào chấn hưng Phật giáo, các Ni sư đã mở trường đào tạo Ni chúng, sinh hoạt Phật giáo tỉnh nhà mới phát triển. Đến thời đại chúng ta là thời hội nhập, phải đổi mới hơn nữa, Phật giáo mới thích nghi và tồn tại, phát triển.

Cầu mong đại chúng nỗ lực tu, phước sanh và phát huy trí tuệ, thấy đúng chân lý, áp dụng đúng pháp trong việc truyền bá Chánh pháp Như Lai còn mãi trên thế gian, làm lợi lạc cho chúng hữu tình.
HT.Thích Trí Quảng

BR-VT: Khai mạc Hội thảo Hoằng pháp toàn quốc 2015

BR-VT: Khai mạc Hội thảo Hoằng pháp toàn quốc 2015

Đăng lúc: 21:20 - 06/12/2015

Tối qua, 5-12, tại Vạn Phật Quang - Đại Tòng Lâm (H.Tân Thành), Hội thảo Hoằng pháp toàn quốc 2015 do Ban Hoằng pháp T.Ư phối hợp với BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đăng cai tổ chức đã chính thức khai mạc.
Lễ khai mạc được truyền hình trực tiếp trên Đài Phát thanh-Truyền hình tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.


Nghi thức niệm Phật bắt đầu lễ khai mạc hội thảo

Chư tôn giáo phẩm HĐCM, HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS cùng chư tôn giáo phẩm HĐTS, Ban Hoằng pháp T.Ư đã quang lâm chứng minh buổi lễ với sự tham dự của hơn 1.200 đại biểu là chư tôn đức Tăng Ni thuộc Ban Hoằng pháp các tỉnh, thành hội Phật giáo trong cả nước và 1.000 hoằng pháp viên cùng đông đảo Phật tử.

Ông Trần Tấn Hùng, Phó ban Tôn giáo Chính phủ; lãnh đạo các bộ, ngành trung ương, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và chính quyền địa phương đã đến dự và chúc mừng.

Sau nghi thức đón tiếp, niệm hồng danh chư Phật, chào quốc kỳ, quốc ca; các em Phật tử tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã trân trọng dâng hoa cúng dường lên chư tôn đức, quý đại biểu với mong ước hội thảo sẽ thành công tốt đẹp.


HT.Thích Bảo Nghiêm phát biểu khai mạc

Phát biểu khai mạc hội thảo, HT.Thích Bảo Nghiêm, Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Hoằng pháp T.Ư đã chào mừng chư tôn giáo phẩm và đại biểu, đồng thời cho biết, sau khi thành đạo, Đức Phật thành lập Tăng đoàn cũng không ngoài chủ đích là hoằng pháp.

“Trước khi chư Tăng lên đường hoằng pháp, Ngài nhắn nhủ: “Hãy ra đi, các Tỳ-kheo, đem lại sự tốt đẹp cho nhiều người. Vì lòng từ bi hãy đem lại sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và nhân loại. Mỗi người hãy đi một ngã. Này hỡi các Tỳ-kheo, hãy hoằng dương giáo pháp, toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn cuối, toàn hảo cả hai, nghĩa lý và văn tự”, HT.Thích Bảo Nghiêm nhắc lại.

Nhìn nhận về những gì đang diễn ra, HT.Thích Bảo Nghiêm cho rằng sự hội nhập và phát triển bao giờ cũng tồn tại song song trên hai mặt của một vấn đề, cơ hội và thách thức, tích cực và tiêu cực, nói theo quan điểm Phật giáo đó là thuận duyên và nghịch duyên.

Hòa thượng nói, cơ hội là được sống trong một đất nước thái bình, yên ổn và đang phát triển, được quần chúng tin tưởng, được nhà nước hỗ trợ tối đa trên mọi phương diện để chúng ta tu học và hoằng pháp. Còn thách thức chính là những rào cản, những trở ngại khách quan do tác động xã hội như sự du nhập các nền văn hóa ngoại lai, sự bùng nổ thông tin đa chiều và nhiều vấn nạn phát sinh từ nền kinh tế thị trường, sự chủ quan của chính chúng ta khi đang đối mặt trước sự cám dỗ của thế giới vật chất, xu hướng thời đại mà khả năng khống chế dục vọng nơi bản thân lại bị giới hạn.

Từ đó, vị đứng đầu ngành Hoằng pháp cả nước nhìn nhận - để công cuộc hoằng pháp thành tựu một cách viên mãn thì các nhà hoằng pháp phải thật quyền xảo, dùng trí tuệ bi mẫn chuyển hóa những nghịch duyên ấy thành những thuận duyên, chuyển đổi những mặt tiêu cực thành tích cực.

“Trên bước đường truyền bá chân lý của đạo Phật, dù thời đại nào, bối cảnh nào thì tinh thần và nội dung hoằng pháp cũng luôn gắn liền với hai yếu tính căn - cơ của Phật giáo, đó là khế cơ và khế lý. Khế cơ là phù hợp với trình độ nhận thức của nhân sinh, với tập quán và hoàn cảnh lịch sử. Khế lý là phù hợp với chân lý mà Đức Phật đã giác ngộ. Nếu hoằng pháp trên tinh thần này thì dù bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện sống nào, cốt tủy thâm sâu của Phật pháp cũng luôn phong phú mà uyển chuyển, diệu dụng mà bất biến, không đi ngược với chân lý, không lỗi thời và lạc hậu”, Hòa thượng khẳng định.

Ngoài ra, theo Hòa thượng, hoằng pháp còn là công tác nhân bản, bởi nó nhắm thẳng vào con người để xây dựng con người hoàn hảo, nên muốn công tác hoằng pháp đạt được hiệu quả như mong muốn thì bắt buộc nhà hoằng pháp phải thấu hiểu đối tượng mà mình trực tiếp hướng đến trên tinh thần tùy duyên bất biến của Đạo Phật.

Dịp này, HT.Thích Bảo Nghiêm cũng đề cập đến các hoạt động của hội thảo năm 2015, chủ đề “Sứ mạng hoằng pháp - Hội nhập và phát triển”. Song song các chuyên đề thảo luận sẽ là những chương trình mang tính giáo dục, xã hội và nhân văn rất cao như: tổ chức văn nghệ, triển lãm văn hóa Phật giáo, ẩm thực, truy niệm các anh hùng liệt sĩ…; đặc biệt là khóa tập huấn hoằng pháp viên cho đối tượng Phật tử.

“Bởi lẽ, vấn đề hoằng pháp ngày nay không chỉ dành riêng cho hàng tu sĩ xuất gia, mà là cho tất cả người đệ tử Phật. Như vậy, đây chính là trách nhiệm chung, là việc làm cao cả để duy trì mạng mạch của Phật pháp. Nhân tố trở thành một hoằng pháp viên ưu tú, thì hàng cư sĩ Phật tử phải có kiến thức Phật pháp, tư cách đạo đức tốt và am tường các chính sách, chủ trương của Đảng, nhà nước. Để đạt được điều này, người cư sĩ trước hết là những tấm gương sáng mẫu mực trong cuộc sống gia đình, định hướng cho con em một đời sống đạo đức và một lối sống lành mạnh. Vì vậy, quý Phật tử sẽ là một người khá quan trọng trong sự nghiệp hoằng pháp”, Hòa thượng nhấn mạnh.

Từ đó, HT.Thích Bảo Nghiêm mong rằng các đại biểu sẽ dành thời gian, tận tâm tìm giải pháp giải quyết các vấn đề xã hội đang quan tâm, phát huy những cơ hội thuận duyên và đưa ra những phương thức giải quyết các vấn đề thách thức của xã hội theo quan điểm của Phật giáo, nhằm góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam.


HT.Thích Quảng Hiển phát biểu chào mừng

Ngay sau đó, thay mặt BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, HT.Thích Quảng Hiển, Trưởng ban đã phát biểu chào mừng và cho biết đây là lần đầu tiên tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tổ chức sự kiện trọng đại, được đón tiếp nhiều chư tôn đức giáo phẩm Tăng Ni khắp mọi miền đất nước quang lâm.

“Đây là niềm vinh dự của Phật giáo tỉnh nhà và chúng tôi rất lấy làm hoan hỷ khi được cung đón chư tôn giáo phẩm lãnh đạo các cấp Giáo hội, chư tôn đức Tăng Ni, chư vị khách quý trung ương, tỉnh nhà và hơn hai vạn đồng bào Phật tử trong cả nước. Chào mừng quý vị đến với nơi năng động, có nhiều tiềm lực kinh tế to lớn và nhân nghĩa, đến với những tu sĩ của vùng đất thân thiện và ấn tượng, chân tình và chịu khó”, HT.Thích Quảng Hiển trân trọng chào mừng.

Dịp này, các đại biểu còn được lắng nghe phần báo cáo công tác tổ chức của TT.Thích Huệ Thông, UV HĐTS, Phó ban kiêm Chánh Thư ký Ban Hoằng pháp T.Ư; tham luận “Sứ mệnh hoằng pháp - Hội nhập và phát triển” của HT.Thích Tấn Đạt, UVTT HĐTS, Phó ban Thường trực Ban Hoằng pháp T.Ư; phát biểu của chính quyền tỉnh BR-VT và Ban Tôn giáo Chính phủ cùng đạo từ của Ban Thường trực HĐTS GHPGVN.


HT.Thích Thiện Nhơn trao tặng lẵng hoa chúc mừng


TT.Thích Huệ Thông


...và HT. Thích Tấn Đạt báo cáo, đọc đề dẫn

Ngay tại buổi lễ, Ban Tổ chức đã trao tặng 10 căn nhà tình thương đến đồng bào khó khăn và 200 suất học bổng đến học sinh hiếu học của tỉnh. Đại diện Ủy ban MTTQ tỉnh nhận phần quà tặng này.

Lễ khai mạc khép lại bằng phát biểu cảm tạ của HT.Thích Giác Hạnh, Phó BTS kiêm Trưởng ban Hoằng pháp PG tỉnh BR-VT.


Các em Phật tử dâng hoa cúng dường


Ban Tổ chức chứ tặng quà từ thiện và học bổng cho học sinh hiếu học


Chư tôn đức, đại biểu dự lễ

Bảo Thiên

Ơn Thầy

Ơn Thầy

Đăng lúc: 08:15 - 21/11/2015

Tôi vốn sinh ra trong một gia đình ở làng quê nghèo, có thể nói là nghèo xác nghèo xơ, nghèo khánh kiệt. Ở cái vùng quê thắt eo miền Trung khắc nghiệt ấy nắng, gió, bão táp luôn rình rập, bủa vây phận đời trôi nổi của mẹ con tôi qua những tháng năm dài theo vòng quay nghiệp dĩ.

Mẹ tôi, với suy nghĩ bình dị muốn thoát ra khỏi nghiệp đói nghèo dai dẳng ấy bằng cách khuyên dạy tôi: “Con phải học lấy năm ba chữ cho ấm thân và làm hành trang cho cuộc sống sau này”.

Lớp học xưa - Ảnh minh họa

Từ suy nghĩ giản đơn ấy như một thông điệp thiết thực, mẹ tìm mọi cách cho tôi đến trường vì: Sợ con mù chữ, đời nó sẽ khổ! Bởi, cái nghèo khó đã quấn chặt lấy đời mẹ và có thể trói buộc luôn cả đời con.

Luôn tâm niệm về điều đó nên mẹ không quản ngại thức khuya dậy sớm, đầu tắt mặt tối, bất chấp hoàn cảnh thiếu trước hụt sau, nỗi đau mất chồng… mà gắng lo cho con. Mẹ chỉ mong luôn có sức khỏe, để vượt qua chặng đường số phận, gánh nặng cơm áo gạo tiền mà lo cho con có được cái chữ. Nhìn bạn bè đồng trang lứa ngày ngày được đến trường học chữ, mẹ ứa nước mắt còn tôi chuyện được đi học như là sự viễn mơ...

Cuối cùng, bằng sự hy sinh phi thường ấy của mẹ, ước mơ “đi học” của tôi rồi cũng đã đến. Ngày mẹ dẫn tôi đến trường, tâm trạng của hai mẹ con rất vui nhưng vẫn rụt rè khép nép, pha lẫn chút sợ sệt âu lo. Lần đầu tiên được tiếp xúc với một thầy giáo, tóc thầy đã hoa râm, dáng thầy khắc khổ, hiện lên trên nét mặt là tính nghiêm khắc. Tôi cố bình tĩnh khoanh tay và cúi đầu chào thầy, còn mẹ tôi thì ấp a ấp úng nói không ra lời. Thầy cũng đoán được mục đích mà mẹ con tôi đến đây để cho tôi vào học lớp vỡ lòng.

Sau này tôi được biết, các cô cậu nhóc con trong lớp học của tôi có nhiều trình độ khác nhau: Kẻ thì học vỡ lòng, người thì học lớp ba, lớp tư… nên thầy phải chia thời gian dạy cho từng trò một. Tôi trình độ vỡ lòng, thầy dạy tôi hai mươi bốn chữ cái. Tôi vừa đánh vần, vừa tập đọc, vừa tập viết để nhớ mặt chữ. Cứ vậy, với một cây viết chì, một cục tẩy trên tay để nếu lỡ viết sai, không đúng quy cách ô li của thầy đã định thì xóa đi viết lại. Cứ vậy mà ê a và xoay tua đọc viết suốt ngày.

Khi thầy thấy tôi đã thuộc làu làu hai mươi bốn chữ cái, thầy hướng dẫn tôi học bảng cửu chương nhưng thỉnh thoảng thầy lại hỏi lại các chữ cái mà tôi đã học, như một cách ôn bài cho tôi. Sau khi đã thuộc nằm lòng hai mươi bốn chữ cái và bảng cửu chương, thầy bảo tôi mua một lưỡi viết lá tre gắn vô một cái cán chừng một gang tay thành một cây viết và một bình mực tím hoặc xanh rồi thầy dạy cho tôi viết chữ.

Bắt đầu từ những chữ đơn rồi đến chữ ghép. Khi tôi đã quen thuộc với lối viết ghép chữ rồi, thầy dạy tôi sang viết cả dòng chính tả. Cứ như vậy, thầy luyện đi luyện lại chữ viết cho tôi cho đến khi thật đẹp, bởi theo thầy “Nhìn chữ viết sẽ biết tính cách của con người” hay nói như ông bà xưa “Nét chữ nết người”.

Vì trong lớp có nhiều trình độ cũng như độ tuổi khác nhau nên thầy phải rất vất vả để “trị” đám học trò “ô hợp” và được mệnh danh là “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” chúng tôi. Thầy chọn phương pháp răn đe, bằng cách nhờ một trò tìm cho thầy một miếng vỏ mít khô làm dụng cụ trừng phạt. Thầy giao ước với chúng tôi: “Nếu em nào không thuộc bài hoặc làm bài sai, lần đầu tiên nhắc nhở, tái phạm lần thứ hai chép phạt, tái phạm lần thứ ba phạt quỳ gối trên miếng vỏ mít khô”.

Qua những lời răn dạy kèm theo hình phạt mà thầy đã đưa ra, bọn nhóc chúng tôi sợ lắm nên đứa nào đứa ấy bảo nhau chăm chỉ học tập để tránh hình phạt nhãn tiền mà thầy đã quy ước. Không biết phương pháp răn dạy ấy của thầy có đúng với quy chuẩn sư phạm ngày ấy hay không, nhưng nó đã rất tác dụng và hiệu quả với lớp học của thầy. Trong một không gian chật hẹp ấy với khoảng bảy mươi học sinh cấp tiểu học, trình độ khác nhau, độ tuổi khác nhau, ngồi chen ngồi chúc với nhau, mùa hè thì nóng bức, mùa đông thì tối tăm rét buốt, duy chỉ một mình thầy đứng lớp nhưng việc học của chúng tôi vẫn có kết quả tốt.

Cứ vậy, bằng sự cần mẫn, nhẫn nại và tình thương yêu bao la của thầy, đám học trò “măng tơ” chúng tôi ngày ấy mới có được như ngày hôm nay. Chiêm nghiệm cuộc đời mình, tôi thấy nhờ cách rèn người, rèn chữ bằng sự tận tâm tận lực của thầy và sự tri ân sâu sắc của phụ huynh xưa “Muốn con hay chữ phải yêu kính thầy” mà học trò từng bước nên người.

Trong thời buổi nhiễu nhương của ngày hôm nay, ở đâu đó vẫn còn có sự thất kính, khẩu khí hiềm khích, trích biếm từ những bậc phụ huynh làm buồn lòng các thầy cô giáo đang ngày đêm tận tụy mang con chữ đến lớp, từ thành thị, đến tận các vùng xa xôi, hẻo lánh, gieo tri thức cho lớp trẻ tương lai của đất nước này. Suy cho cùng, câu nói của người xưa “Không thầy đố mày làm nên” và đạo lý của tổ tiên ta “Công cha - nghĩa mẹ - ơn thầy” đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Còn tôi, đứa trẻ của mấy chục năm trước luôn kính cẩn ghi nhớ ơn sâu người thầy thuở ấy!
Thanh Phương

Đạo đức căn bản của người Phật tử

Đạo đức căn bản của người Phật tử

Đăng lúc: 18:22 - 19/11/2015

Chúng ta đang sống trong thời văn minh vật chất, chủ nghĩa thực dụng đang xói mòn đạo đức, lương tâm con người. Ta đang sống và hành động theo lý trí mà không biết đang đi vào tội ác, nhiều khi mình không biết đó là tội ác.

Những kế hoạch dày đặc, những công việc gấp rút, làm cách nào thu nhập thật cao để thỏa mãn vật chất đến độ những người khác ngước nhìn. Nếu cần thì sẵn sàng bội ước, đốn ngã tình bạn, lừa đảo… miễn sao lợi ích về phía mình càng nhiều càng tốt.
Đức Phật vì từ bi đã truyền trao cho hàng Phật tử tại gia năm chuẩn mực đạo đức. Không phụ thuộc vào trình độ, tuổi tác, dân tộc, tôn giáo, không gian và thời gian, bất cứ ai cũng có thể tuân theo những lời dạy này, vì đó là đạo đức xã hội. Tuy vậy, nếu không tuân thủ theo lời Phật dạy thì Ngài cũng không hề trừng phạt mà tất cả chỉ vận hành theo luật nhân quả.

Vâng theo năm điều Phật dạy chắc chắn sẽ có cuộc sống bình an, trật tự trong gia đình, ngoài xã hội được thiết lập. Không chỉ riêng hàng đệ tử Phật, xã hội cũng cần theo năm chuẩn mực đạo đức này, vì đây là căn bản của mối liên kết thiện lành của cá nhân và xã hội. Cá nhân mỗi người có cuộc sống hiền lành, hạnh phúc thì xã hội mới an vui.

Năm chuẩn mực đạo đức là rào cản để con người không nhúng tay vào tội ác, để thực thi tính công bằng, bình đẳng, lòng từ bi, tránh được nhân quả báo ứng, oán thù, bao gồm: Không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không say nghiện.

Không giết hại

Chuẩn mực đạo đức thứ nhất, Phật dạy chúng ta không giết hại con người cho đến con vật. Sự sống đáng quý biết bao nên không thể giết người cướp của hay bất cứ lý do gì. Không giết hại các loài vật để con người được ăn ngon, mặc đẹp. Không giết hại những con vật để tỏ ra mình sang chảnh (thực ra là tàn bạo) như ăn món óc khỉ, hay uống rượu pha máu rắn. Không biết bổ béo ở đâu nhưng thấy con khỉ đau đớn dưới bàn hay con rắn quằn quại dưới tay người tôi chỉ nhắm mắt lại, trái tim tê buốt. Ta tàn nhẫn khi giết hại thú vật và từ đó trái tim ta cũng chai sạn, và một lần mê muội nào đó ta dễ dàng ra tay hạ thủ con người.

Không giết hại, tâm hồn chúng ta sẽ an bình, tâm yêu thương tràn ngập, nét mặt hiền hòa, ánh mắt trong sáng, tâm không giày vò hối hận, không gặp những cơn ác mộng. Trong xã hội sẽ không xảy ra cảnh chỉ cần xung đột nhỏ liền ra tay giết hại lẫn nhau. Cha mẹ biết tu và con cái cũng tu. Dạy con từ ngày còn nhỏ không bắt con bướm, cái ve… chơi đã thì vặt đầu, xé mình hàng năm bảy mảnh. Khi lớn tâm con sẽ an hòa và xử sự với mọi người chung quanh như chính với bản thân mình. Lòng từ bi thương người sẽ luôn luôn đồng hành với con trong cuộc sống.

Mình thực tập ăn chay và động viên cả gia đình cùng ăn chay, ít nhất một tháng được hai ngày. Chúng ta ngày ăn ít thịt, ít cá một chút, thêm chút rau cà. Một ngày ta ăn thêm một phần rau và giảm bớt một phần thịt. Dần dần, ăn chay trường được lại càng hay.

Không trộm cướp

Chuẩn mực đạo đức thứ hai, Phật dạy chúng ta không nên trộm cắp. Ai cũng biết trộm cướp là lấy những vật không thuộc quyền sở hữu của mình, lấy không có sự ưng thuận, hay ép buộc người khác để ta lấy vật họ sở hữu. Vật nhỏ như trái ớt, cọng hành, lớn thì vàng bạc, nhà cửa đất đai nếu không cho thì không được lấy. Vì ăn sang, mặc trọng cho đến nghiện hút mà người nghèo trộm cắp, giết người cướp của. Còn người giàu thì muốn tài sản mình càng lớn, ai cũng nể nên đang tâm tranh giành đất đai của cải của cha mẹ anh em gây bao đau đớn. Kẻ đa mưu lừa gạt người hiền lấy tài sản mà họ ki cóp cả đời. Bao nhiêu giấy tờ gian xảo tham nhũng của công biết bao nhiêu tiền bạc, tài sản mà đó là từng giọt mồ hôi của người lao động đóng thuế hàng ngày.

Người công nhân thì hàng ngày cầm về cái kéo, cuộn băng keo, tờ giấy; người buôn bán thì cân thiếu một chút; người có chức quyền thì nhũng nhiễu tiền bạc không sao đếm xuể; người nghèo túng giật những điện thoại, dây chuyền; trẻ con thì chơi game túng tiền về lấy tiền của ông bà cha mẹ. Có không ít người vì trộm cướp mà xấu hổ, bị bắt và bị phạt tù. Thế là cuộc đời tan nát, thế là tay đã nhúng chàm. Tội bản thân mình còn con cháu, anh em cha mẹ cũng bị mang tiếng theo.

Trộm cắp thời nào cũng có nhưng xã hội bình an chỉ có những trộm vặt. Còn khi xã hội bất an thì những vụ trộm cắp, cướp của giết người gần như xảy ra mỗi ngày. Chúng ta không trộm cướp thì chính ta và mọi người được sống một cuộc sống an lành. Không để ý ai giàu có rồi suy tính cách trộm cướp của họ. Chúng ta sẽ có một giấc ngủ ngon, xã hội nhờ đó mà được tốt đẹp hơn.

Không tà dâm

Đức Phật không dạy người Phật tử phải từ bỏ cuộc sống vợ chồng. Ngài dạy vợ chồng có cưới hỏi, sống với nhau chung thủy.

Cuộc sống tình cảm ngày nay nhờ internet, điện thoại mà những cuộc gặp gỡ rộng rãi hơn và tình cảm ngoài luồng phát sinh nhiều hơn. Do vậy, những cảnh vợ chồng bất hòa, lục đục, nghi ngờ, ghen tuông, thậm chí là giết nhau vì ngoại tình đã liên tục xảy ra.

Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc khi cả hai cùng hướng về nhau, cùng chăm sóc nhau, cùng vun vén cho con cái có cuộc sống đầy đủ về vật chất và thoải mái về tinh thần. Ai cũng mong mình có một gia đình trọn vẹn hạnh phúc. Do đó cũng không nên nhìn ngắm, tơ tưởng những người khác ngoài vợ chồng của mình. Những người giữ được hạnh không tà dâm, chuẩn mực đạo đức này sẽ giúp họ được người khác kính trọng và cuộc sống gia đình an vui, hạnh phúc.

Không nói sai sự thật

Chuẩn mực đạo đức thứ tư, Phật dạy chúng ta không nói sai sự thật. Nói sai sự thật có 4 cách: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.

Nói dối là chuyện không nói có, chuyện có nói không, nói toàn điều dối trá.

Nói thêm thắt vào sự thật, đổi giọng sao mua được nước mắt người, nói làm sao người nghe xiêu lòng để mình được lợi là nói thêu dệt.

Nói lưỡi đôi chiều là nói kiểu đòn xóc hai đầu. Đến người này nói xấu chuyện người kia, đến người kia nói xấu chuyện người này khiến họ mâu thuẫn, oán thù nhau.

Nói lời hung ác là mắng chửi, nói lời độc địa, thô ác, cục cằn gây đau buồn cho người nghe.

Người nói đúng sự thật là người gây được niềm tin với người chung quanh. Kết quả những cuộc giao lưu, làm ăn được tin tưởng và sự thành công luôn đến với người chân thật. Dù chỉ là người bán hàng, một nhân viên văn phòng, một giám đốc kinh doanh… nếu giữ được hạnh không nói sai sự thật thì chắc chắn sẽ có cuộc sống bình an, không thắc thỏm giật mình.

Không say nghiện

Chuẩn mực đạo đức thứ năm, Phật dạy chúng ta không say nghiện. Ngoài rượu còn có các chất gây nghiện, gây kích thích khác đều không được dùng, hoặc nài ép người khác dùng. Các loại rượu và các chất hóa học gây kích thích khác chúng ta không dùng vì bảo toàn trí tuệ nòi giống, hạn chế tối đa các nguyên nhân gây nên lầm lỗi, tội phạm.

Khi uống rượu say hoặc nghiện ngập thì không đủ lý trí để xử lý bất cứ tình huống nào. Không nhận ra điều lành, điều dữ, cạn tình cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè bạn. Say nghiện là một trong những nguyên nhân quan trọng gây xáo trộn trong gia đình, gây bất hòa với mọi người, gây tai nạn giao thông, làm rối loạn an ninh trật tự, gây tổn hại kinh tế cho gia đình và xã hội.

Người biết tuân thủ năm chuẩn mực đạo đức mà Đức Phật dạy là người biết sống an lạc, gia đình được hạnh phúc. Chính điều này đã góp phần đem hạnh phúc cho người xung quanh, đóng góp gìn giữ đạo đức và bình an cho xã hội. Đệ tử Phật là người luôn sống với tâm từ bi, đầy đủ năm chuẩn mực đạo đức, tâm tự lợi và lợi tha. Đây cũng là phẩm chất đạo đức căn bản của con người sống trong xã hội vốn nhiều cạnh tranh và biến động như hiện nay.

Xã hội ngày nay muốn phát triển bền vững, xây dựng đời sống cá nhân và cộng đồng hạnh phúc thì năm chuẩn mực đạo đức của Đức Phật cần được học tập, ứng dụng, phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi người.
Kim Dung

Hiểu về hạnh tinh tấn

Hiểu về hạnh tinh tấn

Đăng lúc: 17:29 - 19/10/2015

Lời Phật dạy trong kinh Bồ Tát Bổn Hạnh: “Tánh biếng nhác đem lại hậu quả vô cùng tai hại. Nếu người ở đời mà biếng nhác thì cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, tài sản nghiệp nhà không phát triển. Nếu hàng xuất gia mà biếng nhác thì không thể vượt ra khỏi bể khổ sanh tử. Do đó biết rằng tất cả kết quả tốt đẹp đều phát sanh từ hạnh tinh tấn.”


Vậy tinh tấn là gì? Tinh là tinh chuyên, thuần nhất, không xen tạp; Tấn là đi tới không thối lui.

Tinh tấn là luôn luôn chuyên tâm nhất trí, cố gắng không ngừng để tiến tới một mục đích toàn thiện, tốt đẹp, sáng sủa, an vui. Còn theo nghĩa thông thường, tinh tấn nghĩa là siêng năng, chuyên cần. Nhưng trong chữ tinh tấn có hàm nghĩa chuyên cần, siêng năng để đạt một mục đích chân chính tốt đẹp chứ không phải siêng năng chuyên cần trong mục đích không tốt đẹp, hẹp hòi, ích kỷ. Ví như người triệu phú chăm lo làm giàu, để thu lợi về mình cho nhiều, như thế không được gọi là chánh tinh tấn; Chàng trai si tình, chuyên tâm trì chí làm những việc kinh thiên động địa để được lòng người yêu, như thế không phải là chánh tinh tấn; Người ham mê cờ bạc, ngồi liền mấy ngày đêm, mặc dù lưng đã mỏi, đầu đã nặng nhưng cố đánh thêm vài ván nữa, như thế cũng không được gọi là chánh tinh tấn. Tất cả những ví dụ trên được gọi là “Tà tinh tấn”.

Trong giáo lý đạo Phật tinh tấn thường có trong các phạm trù như: 01 tâm sở thiện trong 51 tâm sở; “Tứ như ý túc, Tứ chánh cần, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất thánh tài (Thất Bồ Đề Phần), Bát chánh đạo,”trong 37 phẩm trợ đạo;…

Như vậy, tinh tấn rất cần thiết không những cho người tu học Phật mà còn cho các hạng người trong các ngành nghề sĩ, nông, công, thương. Một học sinh không siêng năng, chăm chỉ học hành thì không có kiến thức cũng như trình độ hiểu biết dẫn đến trong cuộc sống gặp nhiều khó khăn, hơn thế nữa là góp phần tăng thêm những tệ nạn trong xã hội; Một người nông dân không chịu khó, siêng năng cày cấy, gieo hạt giống tốt, chăm sóc, bón phân, thường xuyên nhổ cỏ, tưới nước,… thì sẽ không có vụ mùa để thu hoạch; Một người công nhân không chịu khó, cần mẫn làm việc thì sẽ không có cơm ăn, áo mặc dễ dẫn đến mất việc và thất nghiệp lâu dài lâm vào những tệ nạn xã hội; Một người thương buôn không chịu khó đi đây, đi đó để học hỏi, không chịu khó tìm ra những chính sách, chiến lược kinh doanh,… thì dễ dẫn đến phá sản. Cũng vậy đối với một hành giả tu học Phật pháp mà biếng nhác thì sẽ mất pháp bảo. Bởi vì, một người phát tâm học Phật là để giải thoát khỏi sanh tử luân hồi hoặc ít nhất là thoát khỏi bốn đường ác (A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Muốn giải thoát thì phải tinh tấn đoạn trừ tham sân si. Tuy nhiên, tinh tấn ở đây phải được hiểu cho thật đúng nghĩa là không phải tinh tấn khổ hạnh ép xác, bởi vì nó có hại, không đưa đến yểm ly, ly tham, giác ngộ, niết-bàn. Sự hành thân hoại thể ấy chỉ đưa đến việc chấm dứt sự sống chứ không thể chấm dứt phiền não, giải thoát sinh tử khổ đau giống như trường hợp của Thái tử Tất-đạt-đa và 5 anh em ông Kiều Trần Như phải tu khổ hạnh 6 năm trong rừng chỉ uổng công chứ không đem lại kết quả tốt đẹp như mong muốn. Mặt khác chúng ta phải tinh tấn đoạn trừ phiền não bằng cách thường kiểm soát ba nghiệp trong sáu thời. Sớm tối mỗi ngày, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, từ tối đến sáng, cho đến một giờ một khắc, một niệm một sát-na, hành giả phải kiểm soát ba nghiệp. Ban đầu thực tập kiểm soát được trong một ngày đêm hành giả tạo tác bao nhiêu nghiệp thiện, ba nhiêu nghiệp bất thiện. Rồi từ đó dần dần kiểm soát đừng để tạo tác các nghiệp bất thiện bằng những lời Phật dạy như quán tứ niệm xứ, quán nhân duyên nghiệp báo, quán về quả khổ của ác nghiệp trong ba đường ác,… Sự thực tập kiểm soát cũng như các phương pháp đoạn trừ phiền não phải được áp dụng hằng ngày trong các công việc, thời khóa công phu, trong các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Được như vậy thì mới gọi là tinh tấn. Cũng ví như một người trồng lúa ngoài những việc cày cấy, gieo giống, tưới nước, bón phân,… còn phải thường xuyên dọn cho sạch cỏ thì cây lúa mới phát triển và cho hạt tốt được. Cỏ ở đây được ví như phiền não, thường xuyên dọn cỏ nghĩa là thường xuyên làm sạch phiền não trong tâm của mỗi hành giả vậy.

Nói tóm lại, người tu hành không có tinh tấn chẳng khác gì kẻ muốn vượt qua bể rộng mà không có thuyền bè. Do đó cần phải tinh tấn, vì tinh tấn là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy ta tiến mau trên đường thiện. Không có tinh tấn dù hành giả có sáng suốt bao nhiêu, có nhân từ đức hạnh bao nhiêu, hành giả cũng không làm được việc gì có lợi cho mình, cho xã hội. Cho nên,lời dặn cuối cùng của Đức Thế Tôn với các đệ tử trước khi Ngài từ giả cõi đời để nhập niết bàn là:

“Hỡi các đệ tử hãy tinh tấn lên để được giải thoát”.

Tâm Tri

Khai mạc “Hội trại tập huấn Thanh niên phật tử toàn quốc” lần thứ nhất

Khai mạc “Hội trại tập huấn Thanh niên phật tử toàn quốc” lần thứ nhất

Đăng lúc: 21:41 - 17/10/2015

Được sự chấp thuận của Ban Tôn Giáo Chính Phủ, Sở Nội Vụ - Ban Tôn Giáo Thành Phố Hà Nội. Đặc biệt là sự quan tâm, chỉ đạo của Thường trực HĐTS T.Ư GHPG Việt Nam. Hôm nay ngày 04/ 09/Ất Mùi (16/10/2015) Ban Hướng Dẫn Phật tử Trung Ương phối hợp cùng Học viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội và Chùa Phật Quang (Bà Rịa Vũng Tàu)long trọng tổ chức lễ khai mạc "Hội trại tập huấn Thanh niên Phật tử toàn quốc 2015" lần thứ nhất tại Học viện Sóc Sơn Hà Nội.

Tham dự và chứng minh buổi lễ có HT.Thích Thiện Duyên – Thành viên HĐCM- Phó chủ tịch HĐTS GHPGVN kiêm trưởng Ban HDPT T.Ư; HT.Thích Thanh Nhiễu – Phó chủ tịch Thường trực HĐTS GHPGVN; HT.Thích Thanh Hưng – Phó trưởng Ban HDPT T.Ư; TT.Thích Thanh Điện – Phó tổng thư ký HĐTS GHPGVN kiêm chánh văn phòng I ; Phó trưởng Ban TT Ban HDPT T.Ư- Trưởng Ban tổ chức Hội trại tập huấn Thanh niên Phật tử Việt Nam lần thứ nhất; TT.Thích Đức Thiện – Tổng thư ký HĐTS GHPGVN; TT.Thích Bửu Chánh - Ủy viên TT HĐTS GHPGVN- Phó ban Hoằng pháp T.Ư; HT.Thích Thanh Toàn – Phó trưởng Ban TT Ban HDPT T.Ư; TT.Thích Chân Quang – Phó trưởng Ban kinh tế T.Ư GHPGVN – Phó trưởng Ban Thường trực Ban tổ chức Hội trại cùng chư tôn đức HĐCM, HĐTS BTS các tỉnh thành phía Bắc cùng hơn 2000 thanh niên Phật tử trong toàn quốc cùng về tham dự.

Về phía chính quyền có ông Phạm Dũng – thứ trưởng Bộ nội vụ - Trưởng Ban tôn giáo Chính phủ; ông Lê Minh Khánh - Phó vụ trưởng vụ Phật giáo Ban tôn giáo Chính phủ; ông Nguyễn Phi Long – Bí thư Trung ương Đoàn – Chủ tịch T.Ư Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam; ông Vũ Minh Lý – Giám đốc Trung tâm tình nguyện Quốc gia; ông Nguyễn Tuấn Bình – Phó trưởng phòng PA 88 Công an Thành phố Hà Nội cùng đại diện lãnh đạo các cơ quan ban ngành trung ương và địa phương cùng về tham dự.




Tại buổi lễ TT.Thích Thanh Điện –Trưởng Ban tổ chức Hội trại tập huấn Thanh niên Phật tử toàn quốc phát biểu khai mạc đã nhấn mạnh: Hội trại lần này nhằm xây dựng cho Thanh niên Phật tử sống có lý tưởng cao đẹp, nêu cao tinh thần yêu nước và phụng sự, cống hiến cho xã hội. Định hướng trong đường lối tu học cho Thanh niên Phật tử xã hội ngày nay. Nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ về công tác tổ chức, tập hợp Thanh niên Phật tử của các cấp Giáo hội.

Qua chương trình Hội trại chư tôn đức mong muốn xây dựng cho lớp trẻ những kiến thức vững về đạo lý, khỏe về thể lực, rộng về kiến thức - trình độ, đủ năng lực đóng góp cho xã hội, biết chan hòa tình yêu dân tộc, đất nước, thiên nhiên và con người trong tấm lòng từ bi chan chứa mà sâu lắng.

Hội trại tập huấn thanh niên Phật tử toàn quốc 2015 là một nét mới thể hiện tinh thần – Tu – Hoằng pháp – Hộ đạo- Hộc quốc trong thời đại mới mà Ban Hướng dẫn Phật tử T.Ư lần đầu tiên thể nghiệm tổ chức giảng dạy cho các em. Ngoài ra các em còn được học thêm các chuyên đề như: Mưu sinh lập nghiệp; Đạo đức trong tình yêu hôn nhân giới tính xuất gia và tại gia; Đạo pháp Dân tộc CNXH; Những điều cần thiết cho một chúng Thanh niên Phật tử bao gồm đạo lý tu tập, nội dung những buổi sinh hoạt; công tác phụng sự cho Phật pháp tại các chùa và các cấp của Giáo hội. Hội trại được diễn ra trong ba ngày từ 16 đến 18/10/2015 tại Học viện Phật giáo Việt Nam (xã Phù Linh, Sóc Sơn, Hà Nội)




Ông Phạm Dũng – Thứ trưởng Bộ nội vụ - Trưởng Ban tôn giáo Chính phủ phát biểu tại buổi khai mạc bày tỏ niềm vui mừng được về tham dự buổi lễ. Việc tổ chức Hội trại tập huấn Thanh niên Phật tử toàn quốc là sự kiện tôn giáo mang tính xã hội quan trọng trong đời sống tinh thần và tín ngưỡng của nhân dân theo đạo Phật nói chung và của thanh niên Phật tử, Gia đình Phật tử nói riêng. Sự hiện diện của đại biểu đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương cùng đông đảo tăng ni, Phật tử trong lễ khai mạc đủ nói lên sự hòa quyện gắn bó giữa đạo với đời, sự gắn kết giữa Giáo hội và Dân tộc trong việc chung tay chăm lo cho thế hệ trẻ - tương lai của đất nước.

Ông hy vọng với trí tuệ Phật giáo, với tinh thần đoàn kết lục hòa của tăng ni, Phật tử với đường hướng gắn bó, đồng hành cùng dân tộc và với truyền thống của Phật giáo Việt Nam, GHPGVN nói chung và Ban HDPT T.Ư Giáo hội nói riêng, sẽ tiếp tục hạnh nguyện nhập thế, hướng dẫn tín đồ, Phật tử lấy việc phục vụ chúng sinh, ích đạo lợi đời làm phương tiện tu tập thành tựu.




Tại buổi lễ ông Nguyễn Phi Long – Bí thư BCH Trung ương Đoàn- Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam phát biểu tại Hội trại tập huấn Thanh niên Phật tử toàn quốc. Ông đã chia sẻ Trong thời gian qua Đoàn TNCS Hồ Chí Minh , Hội LHTN Việt Nam đã luôn xác định công tác đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên, chăm lo, đồng hành với thanh niên nói chung và thanh niên Phật giáo nói riêng là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Đoàn, Hội. Trong thời gian tới rất mong GHPGVN sẽ tiếp tục đồng hành cùng Trung ương Đoàn, Trung ương Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam trong các hoạt động ý nghĩa này.

Hy vọng qua Hội trại tập huấn lần này các em sẽ có điều kiện giao lưu, trao đổi nhiều kiến thức về Phật pháp, nhưng điều căn bản là phải củng cố được lòng yêu nước trách nhiệm công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sau hội trại các em sẽ là những nhân tố để khuyến dương tinh thần đạo Phật, xứng đáng là thế hệ tương lai đầy trí tuệ của Phật giáo Việt Nam.

Nhân dịp này Toàn thể hội chúng được nghe lời ban đạo từ của HT.Thích Thiện Duyên và HT.Thích Thanh Nhiễu sách tấn các trại sinh tham dự hội trại.




Hòa thượng Thích Thiện Duyên gửi lời cảm ơn tới các cơ quan ban ngành chính quyền đã giúp đỡ Ban HDPT T.Ư về việc tổ chức được Hội trại tập huấn Thanh niên phật tử toàn quốc 2015. Hòa thượng cũng đã nhấn mạnh “Thanh niên phật tử chúng ta luôn sống theo lời Phật dạy không ngừng tu tập trau dồi kiến thức và tham gia nhiều công tác hữu ích trong xã hội , cùng nhau xây dựng những ngôi nhà tình thương và có cuộc sống ổn định .

Đây là Hội trại tập huấn của thanh niên phật tử toàn quốc lần đầu tiên được tổ chức tại thủ đô Hà Nội rất mong Ban HDPT trong tương lai sẽ tổ chức hội trại tập huấn Thanh niên phật tử toàn quốc mỗi năm một lần tạo cơ hội cho các bạn thanh niên phật tử có cơ hội giao lưu chia sẻ học hỏi các kiến thức bổ ích mang đến cuộc sống tốt đẹp cùng gieo cho nhau những việc làm hữu ích trong xã hội”.




HT.Thích Thanh Nhiễu Ban đạo từ ghi nhận và tán thán chương trình của Ban HDPT T.Ư . Hòa thượng nhấn mạnh Thanh niên là lực lượng xã hội hùng hậu, có sức khoẻ, có trình độ học vấn, có tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học hiện đại. Thanh niên thanh niên Phật tử chúng ta là sức trẻ của tương lai đất nước chúng ta phải học tập rèn luyện để trở thành những người hữu ích của xã hội nhằm bảo tồn giữ vững bản sắc dân tộc.

Trong ba ngày với các hoạt động, đặc biệt trong ngày thứ nhất các em được học 5 đề tài, vừa là đạo lý vừa là quan điểm sống: thanh niên với việc học đời, học đạo, bí quyết làm thế nào để học giỏi trên quan điểm của đạo Phật; tu tập, bao gồm tu dưỡng đạo đức bản thân, tu tập về tâm linh đạo Phật; thanh niên với vấn đề hoằng pháp; thanh niên với vấn đề ngộ đạo; thanh niên với vấn đề phục quốc (bảo vệ danh dự đất nước, bảo vệ văn hóa đất nước, bảo vệ ổn định chính trị và an ninh quốc gia).
Xin giới thiệu chùm ảnh khai mạc tại buổi lễ






Cung nghinh chư tôn đức và đại biểu quang lâm









Niệm Phật cầu gia hộ







































TT.Thích Thanh Điện - Trưởng ban tổ chức hội trại tập huấn đón nhận lẵng hoa của chư tôn đức HĐTS và các ban ngành trao tặng





TT.Thích Chân Quang - Phó Ban TT Ban tổ chức Hôi trại đón nhận lẵng hoa của các ban ngành trao tặng









Đại diện cho hơn 2000 trại sinh tham dự Hội trại tập huấn Thanh niên phật tử toàn quốc lên tuyên hứa trước sự chứng minh của mười phương chư phật, chư tôn đức Giáo Phẩm Hoà Thượng, Thượng Toạ và toàn thể các vị đại biểu khách quý.













































Cũng ngay trong ngày đầu tiên tập huấn các trại sinh được nghe các bài giảng của chư tôn đức thuyết giảng với các nội dung : “ thanh niên với việc học – Thanh niên với việc hộ quốc”, “Thanh niên với việc tu” ; “Thanh niên với việc hoằng pháp” , “Thanh niên với việc hộ đạo”.




Buổi sáng các trại sinh được nghe TT.Thích Chân Quang - PHó trưởng ban TT Ban tổ chức Hội trại tập huấn giảng về “ Thanh niên với việc học – Thanh niên với việc hộ quốc”











Buổi chiều toàn thể trại sinh được nghe các bài giảng của chư tôn đức. TT.Thích Đức Thiện - Tổng thư ký HĐTS GHPGVN giảng về "Thanh niên với việc tu”











TT.Thích Bửu Chánh- Ủy viên TT HĐTS GHPGVN - Phó Ban hoằng pháp T.Ư với nội dung “thanh niên với việc hoằng pháp”



















TT Thích Minh Quang - Phó BTS kiêm Chánh thư ký GHPGVN tỉnh Ninh Bình với vấn đề “thanh niên với việc hộ đạo”

grab1438043622Duc Phat Thich Ca 550x371

Gian lao không làm ta nhụt chí

Đăng lúc: 07:56 - 28/07/2015

Bạn với tôi là cùng màu áo, chung thờ một lý tưởng. Ðã lâu chúng ta không gặp nhau, hoặc đã gặp mà không có dịp trao đổi ý kiến cùng nhau. Hôm nay ngày hoan hỉ đã về, lòng tôi thấy nao nao, nhớ đến bạn và cần nhủ đôi lời cùng bạn, gọi là thực hiện phần nào điều “KIẾN HÒA ÐỒNG GIẢI” của đức Từ Phụ đã dạy chúng ta.
Duc_Phat_Thich_Ca
Bạn ạ! Trên đường học đạo thật xa diệu vợi, chúng ta tiến bước đã dẫm phải bao mũi gai nhọn cản trở, và hiện thăm thẳm những hố sâu, sừng sững những vách đá chơi vơi chặn lối đi của chúng ta.
Ở trường hợp này, bạn xử trí thế nào? Lùi lại chăng? Hay hăng hái tiến tới? Chắc bạn sẽ đồng thanh với tôi, chúng ta không thể lùi lại, mà vẫn anh dũng tiến lên, vì đó là hướng ta nhắm. Bảo thành đã hiện trước mắt ta rồi, dù phải tan thân mất mạng, chúng ta cũng được hài lòng, vì cái chết đó làm tăng thêm giá trị ta và đưa ta vượt lên một nấc khá cao trên cây thang đạo hạnh.
Bạn thử nghĩ! Những học sinh trung học, sinh viên đại học chịu biết bao khổ sở do những cuộc thi hành phạt. Có đôi khi, họ phải gạt nước mắt, cho đến muốn tự tử là khác. Như vậy người bày ra cuộc thi, phải chăng vì muốn ngăn bước tiến của họ? – Nhất định là không. Ðó là những cuộc thử thách để khuyến khích họ cố gắng thêm, là cây thước để đo trình độ và khả năng của họ, cũng là làm tăng giá trị của họ vậy. Nếu một sinh viên đủ lý trí, có sợ thi khó mà bỏ học chăng? Có cưu lòng oán hận người khảo hạch mình không? – Chắc là không, họ sẽ mang ơn những người khảo hạch, vì nhờ đó mà họ tiến thêm.
Lại nữa, một chiến sĩ, vì bảo vệ non sông tổ quốc và rạng danh cho giống nòi, nên xem thường chết sống, lăn mình vào rừng bom đạn. Nếu một chiến sĩ mặc bộ nhung phục bóng láng, cỡi con bạch mã thật xinh, mỗi khi ngồi trên lưng ngựa xem rất oai vệ, nhưng suốt đời chỉ ăn với ngủ, thì còn gọi được là “chiến sĩ” chăng? Cố nhiên, người chiến sĩ muốn được ngày khải hoàn rực rỡ: mỗi nhịp ngựa là hằng vạn tiếng hoan hô, hoa bội tinh bừng nở trên ngực, trước muôn triệu cặp mắt nhìn quên nháy và ước mơ, thì phải lăn mình trong ngàn tên muôn giáo, xem cái chết nhẹ hơn làn gió thoảng. Như vậy, những nguy hiểm gian lao đối với người chiến sĩ anh dũng sẽ không thấy gian lao mà chỉ thấy là công danh sự nghiệp.
Bạn ạ! Chúng ta là người chèo thuyền ngược dòng đời, thì làm gì có sự dễ dàng bình thản. Giả sử có, thì mục đích chúng ta nhắm đâu còn cao quí, vì mọi người đều có thể đến được. Bạn thử tưởng tượng, nếu một tu sĩ ăn no, ngủ kỹ, đầy đủ mọi nhu cầu, mãi sống trong cảnh nhàn hạ, mà được thành Phật, thì ông Phật ấy còn ai chịu lạy chăng? – Chắc là không! Vì dễ làm quá, có gì khó khăn mà phải kính phục. Sở dĩ chúng ta và mọi người đều tôn sùng kính lạy đức Phật, vì Ngài làm những điều mà chúng ta chưa làm được. Như vậy, giá trị người tu có là do vượt qua mọi hiểm trở khó khăn, ở chỗ ô trọc, mà tâm vẫn thanh bạch cao khiết.
Bạn đang tu hạnh nhẫn nhục chăng? Nếu bạn tu hạnh nhẫn nhục, mà không có người mạ nhục, đánh đập để thử lòng bạn có phiền, có giận chăng? Thì cái nhẫn nhục ấy chỉ là nhẫn nhục ở đầu môi. Muốn chứng thật hạnh nhẫn nhục của bạn, phải có người mạ nhục, đánh đập: ấy là lửa thử vàng nhẫn nhục của bạn vậy. Ðức Thích-ca khi còn làm vị tiên tu nhẫn nhục, nhờ có vua Ca-lợi cắt tay, thẻo mũi… Ngài mới chứng được nhẫn nhục Ba-la-mật.
Bạn đang tu hạnh bố thí chăng? – Thế là những kẻ đến xin đều là ân nhân của bạn. Nếu thiếu họ, bạn sẽ không viên mãn công hạnh. Mặc dù trong số người xin cũng có một hai kẻ đèo bòng, xin những điều không thể cho được. Nhưng bạn đừng vội phiền họ, mà bạn phải tự trách mình hạnh bố thí chưa cứu kính. Người Bà-la-môn xin con Thái tử Tu-đại-noa, chính là người đã giúp Ngài thành tựu hạnh bố thí Ba-la-mật, các hạnh khác cũng thế.
Tất cả cuộc thử thách đều là sự chứng thật hạnh tu hành của mình. Người hay hoàn cảnh để thử thách ta đều là ân nhân, là cảnh tốt nâng đỡ ta lên từng lầu thánh nhân. Vì thế trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đã nói: “Ðề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức bậc nhất của ta, nhờ Ðề-bà-đạt-đa mà ta mau chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Như trên bạn đã thấy, cái “khó” không phải là điều làm nhụt chí ta, mà là sự nghiệp, là chứng thật đời tu của ta. Càng gian lao, càng khó khổ, chiến thắng được nó thì giá trị ta càng cao, sự nghiệp ta càng lớn. Vì thế, các vị Bồ-tát hy sinh cảnh Niết-bàn để vào địa ngục cứu độ chúng sanh.
Chúng ta đã là người tu, người sẵn sàng chịu khó khổ, mọi thử thách để rèn luyện lòng mình, để thay khổ cho chúng sanh, thì bao giờ có thở dài khi gian lao, chau mày khi nguy hiểm… mà nhất định tươi tỉnh hăng hái tiến thẳng đến mục đích tuyệt vời của mình đã nhắm. Ấy là con đường mà tôi và bạn cùng đi, cùng hướng. Vậy chúng ta sẽ hẹn ngày để gặp nhau ở điểm cứu kính này.

Theo Phật học

Phát Triển tâm Giác Ngộ

Phát Triển tâm Giác Ngộ

Đăng lúc: 06:46 - 27/07/2015

Nguyên tác: Developing Bodhichitta, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia, October 2009

Những ngày cuối tuần này, chúng ta sẽ nói về các giới nguyện Bồ tát. Và rõ ràng nhằm để thông hiểu giới nguyện Bồ tát thì chúng ta cần hiểu Bồ tát là gì, và tâm giác ngộ là gì, trên điều mà nó căn cứ. Và trong mô thức ấy, chúng ta có nhiều, rất nhiều trích dẫn và nguồn gốc khác nhau chỉ ra vấn đề quan trọng như thế nào để thọ giới nguyện Bồ tát, để phát triển tâm giác ngộ - thọ và giữ giới Bồ tát - cho việc thành tựu Giác Ngộ.

Vậy thì tâm giác ngộ là gì? Tâm giác ngộ là một thể trạng của tâm có nhiều thành phần với nó. Khi chúng ta phát tâm giác ngộ, nó có hai phương diện. Trước tiên nhất chúng ta tập trung vào tất cả những chúng sanh bất giác với từ ái và bi mẫn. Từ ái là nguyện ước cho mọi người được hạnh phúc và có các nguyên nhân của hạnh phúc, và bi mẫn là nguyện ước cho họ được thoát khỏi khổ đau và các nguyên nhân của đau khổ. Chúng ta nguyện ước điều này bình đẳng cho tất cả mọi người.

Trong hình thức của khổ đau thì chúng ta nguyện cho họ loại bỏ được, chúng ta thấu hiểu điều này trong trình độ sâu sắc nhất. Không chỉ khổ não của bất hạnh và đau đớn (khổ khổ). Không chỉ khổ đau liên hệ với hạnh phúc thông thường, là loại hạnh phúc không bao giờ bền lâu, không hài lòng, và thứ thay đổi thành bất hạnh và khó chịu, thí dụ như khi chúng ta ăn quá nhiều thức ăn ngon và nó làm chúng ta bệnh thường (hoại khổ). Nhưng khổ đau mà chúng ta mong họ được thoát khỏi, thêm vào việc thoát khỏi hai thứ khổ đó, là nổi khổ đau cùng khắp (hành khổ - là thứ căn cứ cho việc trải nghiệm hai thứ khổ đầu tiên), đó là sự tái sanh tiếp diễn mãi không thể kiểm soát, được liên hệ như "luân hồi". Và điều này được tái sanh hết lần này đến lần khác dưới sự ảnh hưởng của bất giác si mê, cảm xúc phiền não, và những hành vi nghiệp chướng căn cứ trên điều này; là thứ rồi thì, bị ảnh hưởng dưới những nhân tố này, rồi thì chúng ta có loại thân thể và loại tâm thức là đối tượng để khổ đau bất hạnh và hạnh phúc không hài lòng thông thường là thứ mà chúng sanh trải nghiệm như kết quả của thái độ nghiệp chướng của chúng - thái độ nghiệp chướng là thái độ ở dưới sự ảnh hưởng của bất giác si mê về tiến trình nhân quả và bất giác về thực tại. Cho nên chúng ta nguyện ước cho người khác được giải thoát khỏi loại khổ đau sâu xa hơn và nguyên nhân của nó. Và nguyên nhân sâu xa nhất cho nó là sự bất giác về thực tại.

Và khi chúng ta có từ ái, thì chúng ta nguyện ước cho họ được hạnh phúc. Đó không phải là hạnh phúc thông thường không bao giờ thỏa mãn, mặc dù đó là tốt hơn cho họ thay vì phải trải nghiệm đau đớn và bất hạnh. Nhưng trên một trình độ sâu xa hơn, chúng ta nguyện cho họ được hạnh phúc của giải thoát và Giác Ngộ, là thứ hạnh phúc đến từ việc giải thoát khỏi những gì được biết như "những sự chướng ngại của tâm thức." Những sự chướng ngại được tạo ra bởi các cảm xúc phiền não, và đây là những thứ ngăn cản giải thoát - phiền não chướng. Và những chướng ngại ngăn cản thể trạng toàn tri toàn giác của một Đức Phật, là thứ ngăn trở họ với sự thông hiểu mối liên hệ hổ tương của mọi thứ, nhân quả, một cách hoàn toàn, những thứ họ cần biết nhằm để có thể hổ trợ chúng sanh một cách tốt đẹp nhất (sở tri chướng). Và khi chúng ta thoát khỏi những giới hạn này, khỏi hai tập họp chướng ngại này (sở tri chướng và phiền não chướng - hoặc một hay cả hai), thế thì đây là một niềm hoan hỉ vô biên không bao giờ chấm dứt. Nó là điều gì đó không giống như niềm sung sướng khi ăn một món ăn ngon: càng vui sướng khi ăn nhiều hơn, cuối cùng nó biến thành đau khổ. Nó hoàn toàn không giống như loại hạnh phúc, hạnh phúc thông thường. Và chúng ta nguyện cho họ có các nguyên nhân cho loại hạnh phúc không bao giờ chấm dứt trong giải thoát và Giác Ngộ.

Và lòng từ ái và bi mẫn cũng căn cứ trên sự thông hiểu và tin tưởng vững chắc rằng mọi người có thể giải thoát khổ đau và đạt được niềm hạnh phúc không bao giờ chấm dứt này. Thế nên đó không phải là một nguyện ước dễ thương mà chúng ta biết là không bao giờ có thể xảy ra trọn vẹn. Nhưng chúng ta tin chắc rằng điều ấy có thể. Và chúng ta đón nhận trách nhiệm cũng như có thể đem đến sự giải thoát khỏi khổ đau và đạt được hạnh phúc. Chúng ta tiếp nhận trách nhiệm và chúng ta có quyết tâm phi thường này rằng tôi sẽ làm việc ấy, ngay cả chỉ tự tôi mà thôi, nếu tôi cần hành động.

Đây là phương diện thứ nhất. Lòng từ ái và bi mẫn này và quyết tâm phi thường này mà chúng ta có trong phương diện thứ nhất, sẽ tiếp tục tiềm tàng, trong một ý nghĩa nào đó. Và trong phương diện thứ hai, là phương diện chính ở đây về tâm giác ngộ, chúng ta thay đổi sự tập trung của chúng ta và thay vì tập trung vào tất cả những chúng sanh giới hạn (nói cách khác, mọi người chưa thành Phật), bây giờ thay vì thế, chúng ta tập trung vào chính sự Giác Ngộ của cá nhân chúng ta vốn chưa xảy ra. Nhưng chúng ta biết rằng nó có thể xảy ra, chúng ta tin chắc về điều ấy. Nó có thể xảy ra trên căn bản của điều được biết như "Phật tánh". Phật tánh là nhân tố ấy sẽ cho phép chúng ta trở thành một Đức Phật, để phân thân thành vô số thân của một Đức Phật - một cách kỷ thuật là Sắc Thân, tâm của một Đức Phật, v.v…

Và điều này được liên hệ một cách căn bản với nền tảng tinh khiết của tâm. Rằng trong tính bản nhiên nền tảng căn bản của nó tâm không bị nhiễm ô bởi những giới hạn hay chướng ngại. Rằng những nhiễm ô này chỉ ở bề mặt và có thể được tẩy sạch đến mức chúng không bao giờ tái diễn lại. Nếu chúng ta có thể đánh thức và an trụ mãi mãi trong mức độ sâu xa nhất của tâm, không bị nhiễm ô - bởi vì mức độ mà tại đấy những nhiễm ô hay giới hạn hay si mê xảy ra là nông cạn hơn, những mức độ thô thiển hơn của tâm. Và tâm không bị nhiễm ô bởi những cung cách tồn tại không thể có. Và nếu chúng ta có thể thông hiểu điều ấy và an trú tập trung trên ấy, thế thì trên căn bản ấy, điều được gọi là "tánh không của tâm", và trên căn bản sự thông hiểu của chúng ta về tánh không ấy của tâm, sau đó chúng ta mới có thể an trú trong trình độ căn bản vô nhiễm ấy, trình độ ấy không bị nhiễm ô bởi những si mê tạm thời này (khách trần phiền não).

Trên căn bản của năng lượng vi tế nhất phối hợp với trình độ sâu xa nhất của tâm, và trên căn bản phước đức tích lũy và trí giác (jnana) là chính yếu, phước đức được thực hiện bởi sự tương tục tinh thần ở trình độ sâu xa nhất, rồi thì từ năng lượng vi tế nhất, chúng ta có thể phát sinh và biểu hiện những Sắc Thân khác nhau của một Đức Phật. Những Sắc Thân của một Đức Phật, những hiện tướng của một Đức Phật, cho dù thô hay tế, được hình thành từ năng lượng tinh khiết vi tế nhất. Các Sắc Thân có thể kết hợp với những nguyên tố thô (đất, nước, gió, lửa,…), nhưng không phải những nhân tố thô là Sắc Thân của Đức Phật, đó là năng lượng vi tế kết hợp với chúng, trên căn bản ấy. Okay, thế nào đi nữa, đó có lẻ là một sự giải thích rất cô đọng về Phật tánh. Tôi rất tiếc nếu như vậy là hơi quá nhiều thông tin trong một lúc, nhưng đó không phải là chủ đề chính trong sự thảo luận của chúng ta.

Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, thì chúng ta đang tập trung vào khía cạnh này của sự tương tục tinh thần của chúng ta (dòng suối tâm), những khía cạnh của Phật tánh: tánh không của tâm, căn bản tinh khiết của tâm, năng lượng vi tế sâu xa nhất của tâm, mạng lưới của phước đức (năng lượng tích cực) và trí giác. Và trên căn bản ấy, chúng ta có thể quy cho sự Giác Ngộ chưa xảy ra là thứ mà chúng ta biết rằng chúng ta có thể đạt được, vì thế chúng ta sẽ có một sự Giác Ngộ xảy ra hiện tại, nếu chúng ta tăng cường và hoàn thành hai mạng lưới này, mạng lưới của phước đức và trí giác (phước trí lưỡng toàn). Vì thế đó là điều mà chúng ta đang tập trung với tâm giác ngộ. Và vấn đề chúng ta làm thế nào? Chúng ta làm điều ấy bằng việc hình dung sự Giác Ngộ chưa xảy ra này, sự Giác Ngộ của chính cá nhân chúng ta chưa xảy ra, không phải sự Giác Ngộ của Đức Phật Thích Ca hay của một vị nào đó trên bầu trời. Chúng ta có thể miêu tả nó bằng việc quán tưởng một Đức Phật (đó sẽ không là vị thông thường nhất) hay chúng ta có thể hình dung nó bằng vị thầy tâm linh của chính chúng ta, hay vị thầy của dòng truyền thừa, đang trình bày sự Giác Ngộ này cho chúng ta, hay chúng ta có thể chỉ (trong đại toàn thiện hay đại thủ ấn) tập trung trên căn bản tinh khiết của chính tâm thức, là thứ vô cùng khó khăn để thực hiện.

Đó là sự tập trung, đối tượng trọng tâm của tâm giác ngộ, sự Giác Ngộ chưa xảy ra, và có hai mục tiêu đi cùng với nó. Mục tiêu thứ nhất là thật sự đạt đến sự Giác Ngộ chưa xảy ra, và thứ hai là làm lợi ích tất cả chúng sanh trên căn bản ấy. Cho nên, nói cách khác, điều này dựa trên từ ái và bi mẫn và quyết tâm phi thường mà chúng ta phát triển trong phương diện thứ nhất. Và dĩ nhiên, cùng với việc thành tựu sự Giác Ngộ ấy, thì chúng ta sẽ cố gắng để hổ trợ người khác tối đa như có thể. Và giới Bồ tát sẽ cho chúng ta những hướng dẫn về vấn đề thực hiện như thế nào, làm lợi ích cho người khác tối đa như thế nào, và những gì phải tránh vì chúng sẽ làm tổn hại năng lực hổ trợ người khác của chúng ta. Và thật sự các giới nguyện luôn luôn được diễn đạt trong dạng thức của những gì để tránh có thể làm bất lợi đến sự phát triển tâm giác ngộ và sự giúp đở người khác của chúng ta.

Cho nên nhằm để phát triển thể trạng này của tâm Giác Ngộ và tiếp nhận các giới nguyện của Bồ tát, thì chúng ta cần, một cách rõ ràng, tự hành động tiến lên để có thể trạng của tâm giác ngộ. Và điều này dĩ nhiên căn cứ trên một tiến trình dài lâu của việc phát triển, sự phát triển tâm linh, với điều mà chúng ta nhận ra sự tái sanh con người quý gia mà chúng ta có, chúng ta nhận ra rằng nó sẽ không tồn tại mãi mãi, vì thế chúng ta thấu hiểu sự chết và vô thường; và chúng ta có niềm tin vững chắc tròn vẹn trong sự tái sanh, và chúng ta nhận ra rằng nếu chúng ta không có những lượng định ngăn ngừa nào đó (là những gì chữ " Dharma "có nghĩa) để tránh sự tái sanh tệ hại hơn trong tương lai, căn cứ trên thái độ tiêu cực của chúng ta, thì chúng ta sẽ tái sanh trong một hoàn cảnh mà chúng ta sẽ không có cơ hội để tiến xa hơn sự phát triển tâm linh của chúng ta. Cho nên chúng ta thông hiểu tất cả điều này, thì chúng ta sẽ tiếp nhận nó rất nghiêm túc. Và vì thế, nhằm để tránh sự tái sanh tệ hại hơn và để giúp chúng ta tiếp tục con đường tâm linh, chúng ta hướng đến một phương hướng an toàn trong đời sống của chúng ta; đó gọi là "quy y". Và phương hướng ấy được biểu hiện bởi Đức Phật, những thành tựu của một Đức Phật và những gì các Ngài dạy, và những ai đã hoàn thành những gì Đức Phật có, tối thiểu ở một mức độ nào đó; đó là Phật, Pháp, Tăng. Cho nên đó là phương hướng mà chúng ta hướng đến trong đời sống của chúng ta. Chúng ta đi trong phương hướng ấy căn cứ trên việc muốn tránh những hoàn cảnh tái sanh tệ hại hơn và niềm tin vững chắc rằng đi trong phương hướng này sẽ giúp chúng ta tránh được điều ấy và thành tựu mục tiêu tâm linh của chúng ta là giải thoát và Giác Ngộ. Việc tránh những sự tái sanh tệ hại, việc đạt đến giải thoát và thành tựu Giác Ngộ: đây là ba mục tiêu được biết như con đường tiệm tiến (lamrim - Giác Ngộ thứ đệ luận), những giai tầng của con đường tu tập.

Và điều thứ nhất mà chúng ta cần làm, nhằm để tránh mọi thứ trở nên tệ hơn, là chế ngự khỏi thái độ tiêu cực. Nguyên tắc đạo đức, đấy - giới. Và chúng ta làm việc ấy trên căn bản của việc thông hiểu rằng nếu chúng ta hành động trong một cách tiêu cực, nó sẽ tạo ra sự bất hạnh và các rắc rối; và nếu chúng ta chế ngự khỏi thái độ tiêu cực, thì nó sẽ đưa chúng ta tối thiểu là niềm hạnh phúc thông thường. Và mặc dù cuối cùng chúng ta muốn vượt thắng ngay cả niềm hạnh phúc thông thường này, tuy nhiên đó là một hoàn cảnh thuận lợi hơn cho việc thực hành tâm linh hơn là khổ đau và bất hạnh.

Thế thì chúng ta nghĩ về tất cả các vấn nạn của những sự tái sanh tiếp diễn không thể kiểm soát. Cho nên cho dù chúng ta trải nghiệm những nổi bất hạnh kinh khủng hay các hoàn cảnh cực kỳ hạnh phúc thông thường, rằng tất cả chúng có những nhược điểm. Và chúng ta thấu hiểu vấn đề tất cả những thứ đó như thế nào, những tình trạng đầy dẫy khổ não đớn đau kinh khiếp, hay những tình trạng tái sanh đầy ấp niềm hạnh phúc thông thường [trong lục đạo]- chúng ta thấu hiểu vấn đề cả hai thứ này được phát sinh do bởi thái độ nghiệp duyên, là thứ căn cứ trên sự bất giác về nhân quả và thực tại, và sự tham dục của chúng ta sau niềm hạnh phúc thông thường, và tham dục sau khi được tách rời khỏi niềm đau đớn và bất hạnh thường lệ này, và chỉ có niềm hạnh phúc thông thường. Chúng ta phát triển sự quyết tâm thoát khỏi những điều này một cách hoàn toàn. Đó được gọi là "sự viễn ly". Và vì thế chúng ta có sự quyết tâm mạnh mẽ để được giải thoát [khỏi lục đạo].

Và rồi thì căn bản của tất cả những thứ đó, với việc đã có một sự tập trung phát triển nào đấy, sau đó chúng ta đi đến Đại Thừa. Mặc dù chúng ta có thể đem vào Đại Thừa những ý tưởng nào đó của bi mẫn và v.v… từ ngay lúc mới bắt đầu: tôi muốn tiếp tục để có một sự tái sanh thân người quý giá vì thế tôi mới có thể giúp đở người khác. Cho nên lòng bi mẫn này có thể được thêm vào ngay lúc mới bắt đầu. Nhưng điều sẽ cấu thành một loại thực tập Đại Thừa là chúng ta đang hướng sự thực tập của chúng ta tuyệt đối đến tất cả mọi người. Thế nên chúng ta không tập trung chỉ vào chính chúng ta và các vấn nạn của chúng ta và sự giải thoát của chính chúng ta từ việc tu tập. Chúng ta không tập trung vào chỉ một số ít người mà chúng ta ngẫu nhiên ưa thích. Chúng ta thậm chí không tập trung chỉ vào tất cả những ai là con người bây giờ, trong kiếp sống này. Nhưng đây là một thể trạng hoàn toàn bao la của tâm đang tập trung vào tất cả mọi loài, vào tất cả các tình trạng của sự tái sanh [của vạn loại chúng sanh], suốt khắp toàn vũ trụ.

Và chúng ta nhận ra rằng mọi người có một sự tương tục tinh thần vô thỉ, sự tái sanh vô thỉ, và mọi người đã từng có những loại hình thân thể khác nhau trong kiếp này hay kiếp khác, kể cả là mẹ của chúng ta. Và chúng ta có sự buông xả đối với mọi người vì thế chúng ta không chỉ thích thú với một số này và khước từ số người khác và dửng dưng với những kẻ nọ. Và chúng ta nhớ lại lòng ân cần của mọi người, không chỉ khi họ là mẹ của chúng ta, mà ngay cả vào những lúc khác khi họ trồng thực phẩm hay xây dựng đường xá hay làm ra mật cho chúng ta ăn. Và chúng ta cảm kích lòng ân cần ấy và muốn thế nào đấy hành động để đền đáp, và điều này phát sinh một lòng yêu thương nhiệt tình đối với mọi người, mà ngay cả chỉ nghĩ về người khác đã làm chúng ta cảm thấy ấm áp và hạnh phúc, và vấn đề kinh khủng thế nào nếu điều gì đấy tệ hại xảy ra cho họ. Và điều này được tăng cường bằng việc thấu hiểu sự bình đẳng của tất cả mọi người. Đúng như là tôi muốn hạnh phúc và không muốn bất hạnh, vì thế mọi người bình đẳng cùng cảm thấy như vậy. Và tôi chỉ là một người và mọi người khác là vô số, và vì thế tốt hơn là thay vì chỉ nghĩ về tôi và làm việc để chiến thắng những vấn nạn của tôi, vì tôi là một thành viên của toàn bộ một tầng lớp của những chúng sanh này và do thế thật thích đáng để tôi hành động vì tất cả mọi người bởi vì tôi thuộc về mọi người. Và tất cả chúng ta bình đẳng có cùng vấn nạn; trong một chữ, luân hồi. Sự tồn tại luân hồi của cõi ta bà. Thế cho nên, chính là trên căn bản của điều này mà chúng ta có lòng từ ái và bi mẫn và quyết tâm phi thường và tâm giác ngộ mà tôi đã giải thích phía trước.

Trước tiên chúng ta cần nghe tất cả về điều này, trong mô thức của tâm giác ngộ, vì chúng ta đã từng nghe nó một cách chính xác, chúng ta biết tâm giác ngộ đang nói về những gì. Chúng ta đúng là không lẫn lộn tâm giác ngộ với từ ái và bi mẫn, mà người ta thường như vậy. Tâm giác ngộ hơn từ ái và bi mẫn nhiều lắm. Chính là căn cứ trên từ ái và bi mẫn, nhưng hơn thế ấy nhiều, như tôi đã giải thích. Và rồi thì chúng ta hành động xa hơn với tâm giác ngộ, nghĩ về nó vì thế chúng ta thông hiểu nó thật sự có nghĩa là gì. Chúng ta thấu hiểu vấn đề tập trung trên nó như thế nào và thể trạng của tâm nào mà chúng ta đang phát sinh. Chúng ta tin chắc rằng chúng ta có thể thành tựu việc ấy. Chúng ta tin chắc rằng mọi người có thể Giác Ngộ và tôi thật sự có thể giúp họ bằng việc chỉ cho họ con đường. Và chúng ta nhận ra rằng không có kẻ nào là thượng đế toàn năng - mà ta có thể chỉ chạm vào người đó với ngón tay của ta và họ Giác Ngộ. Do vậy chúng ta có một ý tưởng thực tế về vấn đề con người có thể trở thành Giác Ngộ như thế nào. Họ phải làm trên chủ đề ấy với chính họ như thế nào, một cách căn bản. Và như thế, căn cứ trên ấy, rồi thì việc thông hiểu những phương pháp cho việc làm của chúng ta tiến đến việc phát sinh thể trạng tâm này như thế nào, thì chúng ta mới có thể phát tâm giác ngộ nay tại trình độ khởi đầu như thế nào.

Bây giờ chúng ta biết một cách chính xác thể trạng tâm thức này là gì. Chúng ta thấu hiểu nó, chúng ta tin chắc rằng chúng ta có thể thành tựu điều ấy, và vì thế chúng ta đi qua những giai tầng của mọi người đã từng là mẹ của chúng ta, mọi người đã từng ân cần, v.v… và chúng ta có thể phát sinh thể trạng của tâm giác ngộ và nó là chân thành. Và điều thật sự khó khăn ở đây là để cho điều này bao hàm tất cả mọi người, đó là nguyện ước hổ trợ bình đẳng tất cả mọi người.

Và điều chúng ta có đầu tiên, trên căn bản của điều này, được gọi là "tâm giác ngộ nguyện vọng". Đây là nguyện ước đạt đến sự Giác Ngộ chưa xảy ra nhằm để làm lợi ích cho mọi người. Và điều đó có hai phương diện với nó. Thứ nhất là phương diện này của việc chỉ "nguyện ước đơn thuần" điều này; và thứ hai là điều được gọi là "thể trạng cam kết", trong ấy tôi phát nguyện rằng tôi sẽ không từ bỏ nó cho đến khi tôi thành tựu Giác Ngộ. Và rồi chúng ta đi đến phát triển điều được gọi là "thể trạng dấn thân" của tâm giác ngộ, điều đó gia cố thêm vào thể trạng mong ước hay nguyện vọng, mà trong ấy tôi quyết định trọn vẹn tự dấn thân hoàn toàn vào những sự tu tập sẽ đưa tôi đến Giác Ngộ.

Và ở giai tầng ấy chúng ta thọ các giới nguyện của Bồ tát. Và điều này sẽ cấu thành thái độ của chúng ta, bằng việc thọ những giới này, bởi vì những gì chúng ta đang phát nguyện là để tránh những việc nào đó có thể làm tổn hại đến việc phát triển tâm giác ngộ trong tổng quát - đó sẽ là căn bản giới Bồ tát. Và những giới khinh của Bồ tát giới để tránh những thứ sẽ là bất lợi một cách đặc thù đến việc phát triển sáu ba la mật, cộng thêm những gì sẽ làm bất lợi đến việc làm lợi ích người khác, trong hình thức tổng quát. Khi chúng ta nói về các thái độ ba la mật, thì chúng ta nói về thí, giới, nhẫn, tấn, thiền (tinh thần bất biến) - không chỉ là sự tập trung, mà là một thể trạng ổn định của tâm thức không bị quấy rầy bởi các cảm xúc phiền não - và tỉnh giác phân biệt (tuệ - prajna), thực tại bình thường (chúng ta phân biệt thực tại với vọng tưởng).

Rõ ràng chúng ta có thể phát triển và thực tập các ba la mật này trước khi chúng ta phát triển tâm giác ngộ, nhưng sự thực hành Đại Thừa thật sự là khi những điều này phối hợp với tâm giác ngộ. Cho nên chúng ta thực hành loại thái độ của Bồ tát trên căn bản của những giới Bồ tát này, một cách căn bản phát triển ngày càng hơn thêm các ba la mật này. Có sáu ba la mật, cũng có khi nói đến mười ba la mật; thêm bốn điều là những chi phần của tuệ ba la mật. Không cần phải chi tiết về tất cả những thứ này. Và qua điều này, chúng ta xây đắp ngày càng thêm những mạng lưới của năng lực tích cực và tỉnh giác thâm sâu (tức là phước và trí).

Bây giờ vẫn ở tại giai tầng này, chúng ta phát sinh thể trạng của tâm giác ngộ trong một cách cố gắng - đây là thuật ngữ kỷ thuật, có nghĩa là với sự cố gắng hay nổ lực - và điều này có nghĩa là chúng ta phải đi qua phương tiện của luận lý nhằm để có thể làm mới thể trạng ấy của tâm giác ngộ. Cho nên chúng ta phải đi qua những giai tầng của buông xả, và mọi người đã từng là mẹ ta, v.v… và hành động tiến tới thể trạng ý thức này của tâm. Và cuối cùng qua vô vàn sự tu tập quen thuộc và phước đức từ việc giúp đở người khác, chúng ta sẽ có một sự phát triển không khó nhọc tâm giác ngộ, có nghĩa là chúng ta không phải đi qua lý luận nhằm để phát sinh tâm giác ngộ; chúng ta có thể trạng tâm ấy một cách tự nhiên, tự động. Và cho dù chúng ta ý thức về nó hay không là không liên hệ. Cho dù thể trạng tâm giác ngộ ấy thật sự ý thức (nói cách khác, nó là đối tượng tập trung chính của chúng ta tại thời điểm ấy) hay cho dù nó là một sự tiềm tàng (nói cách khác, vô thức), nó là giống nhau, trong ý nghĩa rằng đây là phương hướng chính của đời sống chúng ta bất chấp điều gì xảy ra. Nó hòa nhập một cách sâu sắc. Và chỉ ở giai tầng ấy nơi chúng ta thật sự trở thành một vị Bồ tát. Một vị Bồ tát là gì, chính là như vậy, một người nào đó có tâm giác ngộ không mệt mõi. Cho nên tất cả những lợi lạc và ca ngợi tâm giác ngộ được đề cập, thí dụ trong chương thứ nhất của tác phẩm Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát của Tịch Thiên, liên hệ đến giai tầng này của tâm giác ngộ, giai tầng không nổ lực này nơi hành giả trở thành một vị Bồ tát.

Và chúng ta cần thấu hiểu rằng cho dù chúng ta đang nói về tâm giác ngộ nổ lực hay không nổ lực vẫn là nhận thức, bởi vì chỉ có một Đức Phật mới có thể biết một cách vô thức Giác Ngộ là như thế nào; và đối với chúng ta, những người chưa là Phật, tập trung vào Giác Ngộ, ngay cả sự Giác Ngộ chưa xảy ra, chỉ có thể qua một khái niệm về nó là gì. Cho nên khi Tịch Thiên nói rằng một khi quý vị phát triển tâm giác ngộ, thế thì cho dù quý vị là tỉnh thức hay ngay cả khi ngủ hay say rượu, tâm giác ngộ vẫn xây đắp cho chúng ta vô vàn phước đức, ở đây ngài đang liên hệ đến thể trạng tâm giác ngộ không nổ lực.

Và cũng thế, khi chúng ta phát triển thể trạng tâm giác ngộ không nổ lực này, sau đó ở tại điểm này chúng ta đạt đến những gì được gọi là "con đường xây dựng lên" hay "con đường tích lũy" hay "tư lương đạo". Đấy là tâm đạo thứ nhất trong năm tâm đạo[1]. Cho nên đó là một trình độ của tâm mà nó sẽ hoạt động như một lối đi cho con đường chính yếu thật sự sẽ đưa chúng ta đến, trong trường hợp này, sự Giác Ngộ. Cho nên khi chúng ta nghe nói về năm tâm đạo này, đây là năm trình độ của tâm; chúng không là những con lộ, mà nó là một trình độ của tâm sẽ đưa chúng ta tiến xa hơn như một con lộ. Và chúng ta có thể làm điều này trong một con đường Đại Thừa vì thế dòng suối phát triển này sẽ đưa đến sự Giác Ngộ của chúng ta. Và chúng ta đạt đến trình độ thứ nhất của năm trình độ này khi chúng ta có tâm giác ngộ không nổ lực này.

Cho nên, đối với hầu hết chúng ta, chúng ta ở tại những trình độ tâm trước đấy. Và ngay cả nếu chúng ta thực sự tu tập về từ ái và bi mẫn và tâm giác ngộ, nó chắc chắn căn cứ chỉ trên việc nghe về giáo huấn của tâm giác ngộ. Và có thể chúng ta đã từng thấu hiểu một ít về tâm giác ngộ, nhưng tôi nghĩ, đối với hầu hết chúng ta, chúng ta không hoàn toàn tin chắc trên một căn bản có lý trí rằng chúng ta thật sự có thể trở thành Giác Ngộ và rằng mọi người khác tuyệt đối có thể trở thành Giác Ngộ, thật sự hoàn toàn khó để mà tin tưởng một cách trọn vẹn về điều này bởi vì để làm việc ấy quý vị phải thông hiểu Giác Ngộ là gì. Thật không dễ dàng. Do vậy chúng ta đơn thuần có điều gọi là một "sự thấu hiểu đoán chừng." Chúng ta coi như điều ấy là đúng, nhưng tôi thật sự không quá tin chắc một cách sâu xa, thậm thâm. Và nếu chúng ta thành thật với chính mình, phạm vi của phong cách tư tưởng Đại Thừa thật sự quá giới hạn. Tôi thật sự không nghĩ tuyệt đối về mọi người. Tôi ngay cả không thể bắt đầu tưởng tượng mọi người, mọi loài - những con côn trùng - vào thời điểm này, mọi loài trong bất cứ hình thức sống nào bất cứ nơi nào trong vũ trụ. Cho nên chúng ta đang làm việc với điều ấy. Chúng ta cần - không tự phụ, không giả bộ, "Ô, tôi là một hành giả Đại Thừa to bự", như chỉ để giả vờ tôi là một vị Bồ tát. Điều này là lố bịch. Nhưng bất cứ trình độ phát triển nào mà chúng ta có nó đang đi vào phương hướng của tâm giác ngộ, điều này là tuyệt vời và hữu ích.

Tốt chứ? Vậy thì đây là sự giới thiệu căn bản mà chúng ta bao hàm thật sự tất cả con đường tiệm tiến lamrim và tất cả giáo huấn về tâm giác ngộ, nhưng tôi nghĩ rằng đây là nền tảng cần thiết trước khi chúng ta đi vào những giới nguyện của Bồ tát. Và trong khóa tu cuối tuần lần tới, chúng ta sẽ đi sâu hơn vào những phương pháp cho việc phát triển tâm giác ngộ. Nhưng bây giờ tuần này, chúng ta sẽ thảo luận về chính những giới nguyện mà thôi. Trước khi chúng ta làm như thế hãy nghĩ giải lao mười lăm phút và sau đó chúng ta sẽ tiếp tục.

***

Ẩn Tâm Lộ, Monday, July 06, 2015
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Giáo pháp của đức Phật trải qua nhiều đời có bị sai lệch không?

Giáo pháp của đức Phật trải qua nhiều đời có bị sai lệch không?

Đăng lúc: 06:38 - 13/07/2015

Bạch Thầy, có người hỏi con: Giáo pháp của Phật để lại trải qua thời gian lâu dài, như vậy, xin hỏi có còn nguyên vẹn hay có bị sai lệch hay không? Con không biết phải trả lời sao. Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp giùm con.
Sự sai lệch về mặt văn tự chắc chắn không sao tránh khỏi. Nhưng thật nghĩa yếu lý trong Kinh điển thì không thể nào sai lệch được. Vì kinh Phật, nói cho đủ là khế lý và khế cơ. Khế lý là hợp với lẽ thật muôn đời bất di bất dịch. Khế cơ là phù hợp thích nghi với mọi căn cơ trình độ của chúng sinh. Nói rộng ra là phải thích nghi theo mỗi căn cơ thời đại. Đủ hai nghĩa trên mới gọi là Kinh. Thế nên, Kinh điển là chân lý do những lời Phật nói, thì làm sao sai trái được. Tuy nhiên, như Phật tử đã biết, việc in ấn hay sao chép Kinh điển trải qua nhiều đời hay nhiều lần, thì thật khó tránh khỏi sự sai sót ở nơi văn bản. Người ta thường nói, tam sao thì thất bản là vậy. Nghĩa là một văn bản mà sao đi chép lại nhiều lần, tất nhiên, sẽ khó mà giữ được tính chất nguyên thủy của nó.


Tuy nhiên, sự sai sót về mặt văn tự, tuy cũng quan trọng, nhưng không đáng kể lắm. Vì dẫu sao người đọc cũng còn có thể nhận hiểu được. Điều quan trọng, là sai về phần tôn chỉ yếu lý nội dung của Kinh. Đó mới là điều quan trọng đáng nói. Lý do tại sao có sự sai lệch về phần nội dung này? Sự sai lệch này không phải là do Phật Tổ nói, mà do người ta đánh lừa tráo trở lộng giả thành chân. Với mục đích là người ta lợi dụng nhãn hiệu Phật Tổ để truyền bá tà thuyết ngoại đạo của họ.

Đa số phật tử vì chưa có trình độ Phật học căn bản vững chắc, nên khó phân biệt đâu là kinh Phật chính do Phật nói, và đâu là Kinh ngoại đạo chính do họ ngụy tạo. Thường hễ thấy ngoài bìa đề là chữ Kinh, bên trong có chữ Phật, chữ Tổ, thì phật tử liền vội kính tin cho đó là kinh Phật nói. Tin một cách tuyệt đối mà không cần phải suy nghĩ tìm hiểu phân biệt trong đó nói gì.

Đó là điều thật rất nguy hiểm tai hại. Chúng ta phải hết sức thận trọng khi đọc một quyển Kinh hay một quyển sách. Trước tiên, ta phải biết rõ nội dung của quyển Kinh sách đó nói gì. Có đúng với chân lý mà Phật Tổ chỉ dạy hay không? Muốn đánh giá có phải Kinh Phật nói hay không, thì chúng ta phải y cứ vào đâu? Tất nhiên, chúng ta phải y cứ vào “Tam pháp ấn” hay “Tứ Pháp ấn” hoặc “Nhất thật tướng ấn”.

Tam pháp ấn đó là: “chư hành vô thường, chư pháp vô ngã và Niết bàn tịch tịnh”. Còn Tứ pháp ấn là: “Khổ, không, vô thường, và vô ngã”. Nhất thật tướng ấn (còn gọi là vô tướng) là pháp bất sinh bất diệt, tức chỉ cho bản thể chân như. Nói cách khác là bản tâm thanh tịnh sáng suốt sẵn có trong mỗi người chúng ta. Chữ ấn có nghĩa là in. Như chúng ta in cái mộc xuống tờ giấy trắng, thì nó sẽ hiện rõ những gì đã khắc trong cái mộc đó. Nếu những lời dạy nào không nằm trong những cái ấn đó, tất nhiên, đó không phải là những lời Phật nói, mà đó là ma nói thuộc tà giáo ngoại đạo.

Cho nên, phật tử phải cẩn thận khi cầm quyển Kinh hay quyển sách lên xem. Trước hết, phải đọc cho thật kỹ nội dung của Kinh hay sách đó nói gì. Có phù hợp với những chân lý nói trên hay không. Hay là những lời giả trá bịa đặt, không phù hợp với chân lý. Việc lộng giả thành chân, ở đời mạt pháp này nhiều lắm. Ma Vương lộng hành đem truyền bá những thứ Kinh sách ngoại đạo mà họ cũng mệnh danh là Phật Tổ nói. Khổ nỗi, phật tử không chịu tìm hiểu kỹ càng, chỉ cần thấy có chữ Phật là đinh ninh Kinh Phật nói. Thế là đem in rồi phổ biến truyền nhau mà đọc. Đó là vô tình phật tử lại tiếp tay truyền bá Kinh sách ngoại đạo rồi. Thật là tội lỗi biết ngần nào! Thế nên, Phật Tổ thường khuyên bảo phật tử chúng ta phải nên cố gắng nghiên tầm học hỏi giáo lý. Có chịu khó học hỏi, thì phật tử mới có thể biện biệt đâu chính, đâu tà, đâu chơn, đâu ngụy. Không nên tin càng, tin vội, tin đại, tin đùa, khi mà chúng ta chưa tìm hiểu cặn kẽ rõ ràng. Đó là điều mà phật tử cần nên ý thức dè dặt cẩn thận. Điều gì chưa rõ, nên tìm những vị thông giỏi giáo lý mà thưa hỏi. Không nên vội vã chưa chi mà lại phổ biến truyền nhau xem, thì thật là đắc tội với Phật pháp lắm vậy! Xin mọi người hãy lưu ý quan tâm cho vấn đề này.

Thích Phước Thái

Tương quan giữa cho và nhận

Tương quan giữa cho và nhận

Đăng lúc: 07:10 - 11/06/2015

Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại giảng đường có nóc nhọn.



Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến trú xứ của gia chủ Ugga, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Gia chủ Ugga đi đến đảnh lễ, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:

Bạch Thế Tôn, con nghe như sau từ miệng Thế Tôn: “Ai cho vật khả ý thì nhận được điều khả ý”. Vì thế, con có nấu cháo từ hoa cây sàla và rất nhiều loại món ăn thật là khả ý; con có nhiều loại vải dệt từ Kàsi thật là khả ý. Mong Thế Tôn hãy nhận lấy vì lòng từ ái đối với chúng con.

Thế Tôn nhận lời và nói với Ugga bài kệ tùy hỷ này: “Ai cho vật khả ý, nhận được điều khả ý, đối với bậc Chánh trực, vui lòng đem bố thí, vải mặc và giường nằm, ăn uống các vật dụng, biết được bậc La hán, được ví là phước điền, nên các bậc Chân nhân, thí những vật khó thí, được từ bỏ giải thoát, không làm tâm đắm trước, người thí vật khả ý, nhận được điều khả ý”.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Vua Munda,
phần Cho các vật khả ý, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.382)
LỜI BÀN:

Cho người thực ra đó là cho mình là một nhận thức quen thuộc của những người con Phật. Vì thế, ngoài tấm lòng từ bi bao dung, độ lượng đối với tha nhân, người Phật tử thực hành bố thí với mục đích nhằm vun bồi phước báo cho chính mình.

Thi ân, sẵn sàng cho đi mà không cầu đền đáp là một phạm trù vốn rất xa lạ và khó làm đối với những người vị kỷ, keo kiệt. Càng khó khăn hơn đối với họ khi phải cho những vật khả ý, tức những vật mà mình yêu thích. Đa phần, những đồ vật đem cho thường là những vật thừa thãi, vô dụng nhưng “xả” được như vậy đối với họ cũng là quý hóa lắm rồi.

Người Phật tử thì không như vậy, cho người là một nhiệm vụ, một nghĩa cử thiêng liêng. Vì thế, họ sẵn sàng ban tặng những gì mà chúng sanh cần, kể cả những vật khả ý thậm chí dâng hiến cả thân mạng vốn là một tài sản bất khả xâm phạm. Cho những gì mình thích, mình trân quý mới thực sự là cách cho trọn vẹn và khó làm nhất.

Để đạt được cách cho cao cả như vậy không phải người nào cũng làm được mà phải có trí tuệ, thấu hiểu bản chất của cuộc đời là vô thường và vô ngã. Chính tuệ giác vô ngã đã soi sáng cho hành động bố thí thông thường tiến dần đến Bố thí Ba la mật, một sự ban tặng mà vô cầu, vô điều kiện và vô phân biệt.

Tuy vô cầu, vô điều kiện và vô phân biệt trong khi cho nhưng phước báo của người cho vẫn tròn đủ. Nhân quả trong bố thí rất bình đẳng và đạt đến đỉnh cao nếu người tu tập bố thí đạt đến trình độ Bố thí Ba la mật. Vì vậy, hãy cho tất cả để có được tất cả là lý tưởng, phương châm sống của người con Phật.

Quảng Tánh

Lời Phật dạy cách sống chung với người khó chịu?

Lời Phật dạy cách sống chung với người khó chịu?

Đăng lúc: 08:26 - 09/06/2015

Trong cuộc sống của chúng ta, ai cũng có thể đã từng gặp phải những chuyện đau thương khốn đốn dẫn đến sự bực bội, khó chịu, phiền muộn khổ đau. Những người khó chịu, họ muốn làm cho mọi chuyện trở nên căng thẳng để tạo ra sự hiểu lầm hoặc mối hiềm thù trực tiếp bằng nhiều hình thức khác nhau. Người khó chịu là người hay kiếm chuyện để gây gổ làm cho mọi người luôn bực tức và phiền não bức bách.

Ảnh minh họa

Như chúng ta ai cũng có thể biết sự đụng chạm giữa con cái đối với cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn bè và đồng nghiệp, ngay khi xảy ra sự việc đau buồn chúng ta do không biết cách kiềm chế bản thân, nên dễ dàng trút đổ những phiền muộn vào người khác. Khi trong ta trỗi dậy những cảm xúc khổ đau, ta dễ dàng bươi móc lỗi của người khác và công khai chỉ trích những sai phạm của họ, trước mặt mọi người.

Trong cuộc sống chúng ta ai cũng có thể đóng vai trò của một người khó chịu, bởi vì đã làm người thì chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết sai lầm dễ dẫn đến làm người khác phiền muộn đau khổ. Bây giờ chúng ta có thể nói ra một vài loại người khó chịu.

Có một loại người rất khó chịu vì cuồng tín, họ tin vào đấng bề trên, họ làm việc say mê và thậm chí giết người vô tội vạ, họ cho rằng chết vì đạo sẽ được lên thiên đàng hưởng phước báo tối cao. Phụ nữ đối với họ chỉ là vật phụ thuộc, có nhiệm vụ sinh con đẻ cái và đáp ứng nhu cầu sung sướng cho họ.

Dạng người khó chịu này không chấp nhận ai, họ chỉ tôn thờ đấng bề trên của họ và muốn mọi người phải theo họ. Nếu họ nắm quyền hành trong tay, chúng ta sẽ không có chọn lựa khác, theo thì sống không theo thì chết, chỉ có vậy thôi!

Một loại nữa cho rằng chết là hết, không có nhân quả nghiệp báo nên khi sống họ mặc tình tạo tác gây ra nhiều nỗi khổ niềm đau cho người khác vì quan niệm mọi thứ sẽ trở về cát bụi. Chính vì vậy, dạng người khó chịu này nếu có ý thức một chút họ sẽ là những công thần dấn thân, hy sinh cho sự nghiệp chung mà sống trung thành với lý tưởng đó.

Người khó chịu theo dạng này nếu không có hiểu biết chân chính sẽ không chấp nhận học thuyết sống chết luân hồi tùy theo nghiệp báo tốt xấu đã gieo tạo. Họ cho rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân loại nên dẫn đến nhiều sai lầm đáng trách, làm tổn hại cho nhiều người.

Một loại người khó chịu khác, suốt đời họ mong muốn đòi hỏi ai cũng phải là một người hoàn hảo, không sai phạm, nên họ rất khó chịu khi thấy người khác phạm phải lỗi lầm. Người khó chịu theo dạng này, họ muốn mọi người cùng theo một khuôn mẫu với mình, ai khác đi thì không chịu, họ không hiểu quy luật duyên sinh nhân quả và sự huân tập của mọi người cũng khác nhau nên có sự sai biệt. Đó là sự chấp trước, chỉ thấy mình là người tốt còn mọi người khác đều xấu hết, nên cuối cùng rơi vào tuyệt vọng, họ không muốn chung sống với mọi người.

Có loại người khó chịu vì họ đang gặp hoàn cảnh bất hạnh, không tìm ra lối thoát như bệnh nan y, gia đình đổ vỡ tan nát, vợ hoặc chồng bỏ rơi, con cái chết chóc, sự nghiệp trắng tay…

Những người khó chịu là hạng người đang bị dính mắc bởi phiền não tham sân si, do họ chấp thân tâm này làm ngã nên muốn chiếm hữu mọi thứ, nhất là các ông vua thời phong kiến, đó là nói về người khó chịu thời xa xưa. Người khó chịu thời nay lại tinh vi hơn nữa, nhờ trình độ khoa học tiến bộ nên các lãnh tụ cường quốc chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên của các nước chậm tiến bộ, lạc hậu. Họ thường tự xưng mình là người khó chịu, vì không chịu khuất phục họ, theo họ hoặc là có thái độ không bằng lòng với họ, là họ tìm cách triệt buộc ngay lịch sử thế giới loài người đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Thế giới ngày hôm nay, sở dĩ chiến tranh binh đao tàn sát giết hại lẫn nhau là bởi do những người khó chịu này.

Với người không có hiểu biết chân chính, không tin tâm mình là Phật, là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, họ sống để tham lam, ích kỷ giành giựt chiếm đoạt, để có được nhiều hơn, bất kể mọi người khổ đau như thế nào họ không cần biết, họ chỉ biết rằng họ được ăn trên ngồi trước và nắm quyền sinh sát trong tay. Họ cho rằng đó là ân sủng thượng đế đã dành cho họ. Cuộc sống của họ luôn tạo ra nỗi khổ niềm đau cho mọi người vì quan niệm sai lầm, bởi có một thần linh thượng đế ban phước giáng họa, sắp đặt mọi việc.

Nắm lấy, kéo về mình, cất giữ chất chứa là một thói quen xấu do ngu si chấp ngã thấy mình là trung tâm của vũ trụ. Con người ngay từ nhỏ, khi mới chập chững biết bò, chúng ta cố trườn tới để nắm lấy một đồ vật trước mặt. Nếu nắm lấy được thì bỏ vào miệng không biết phân biệt dơ sạch. Lớn lên, chúng ta nắm bắt chấp giữ và càng khó chịu nhiều hơn khi cảm thấy mình bị thiệt thòi hơn người khác.

Do chấp ngã chúng ta cố nắm lấy bám giữ, tiếc nuối rồi cảm thấy bực bội, khó chịu và nỗi tam bành lục tặc để làm người khác đau khổ. Khi cái ta lớn mạnh mà không được hài lòng vừa ý thì sự thất vọng càng nhiều, và phiền muộn khổ đau không có ngày thôi dứt.

Chúng ta cũng cần phải hiểu rõ, không nắm giữ không có nghĩa là không có gì hết, không có cả một cái chén để ăn cơm. Chúng ta vẫn cầm cái ly để uống nước, nhưng chúng ta không dính mắc vào nó, khi lỡ làm bể cái ly chúng ta vẫn không tiếc rẻ, bực tức hay nổi giận cáu gắt hoặc mắng chửi đánh đập người khác.

Chấp là nguồn gốc sinh ra mọi hệ lụy khổ đau cho con người, dù đó là chấp thiện. Chúng ta không thể muốn mọi người phải giống như mình, càng không thể dùng áp lực để buộc họ phải thay đổi. Cách duy nhất chúng ta có thể giúp họ là biết quay lại chính mình, tìm lại năng lực sẵn có của ta để có sự cảm thông, bao dung và tha thứ mà thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau.

Chúng ta hãy cảm thông cho người khó chịu với mình, vì họ không làm chủ được bản thân, họ đang đau khổ tột cùng. Vào những lúc như thế họ sẽ trút đổ mọi bực tức, giận hờn cho người khác, thậm chí họ thượng chân hạ cẳng, tạo ra nỗi khổ niềm đau cho nhau.

Người khó chịu không biết cách kiềm chế mình, nên họ lại thêm dầu vào lửa khiến cho sự việc càng thêm oan trái, bởi họ đang trong cơn tuyệt vọng và muốn có sự giúp đỡ. Chúng ta thường cho rằng người này đang ‘giận cá chém thớt’. Nếu quán chiếu sâu sắc, chúng ta sẽ thấy rằng họ đang bế tắc, họ đang trong cơn đau khổ tột cùng không có lối thoát, ta càng phải thương xót họ nhiều hơn. Trong lúc này, dù họ có cố gắng kiềm chế bằng nhiều cách đi nữa, nhưng lời nói của họ khi phát ra giống như dao bén cứa vào từng thớ thịt của người khác.

Khi chúng ta phải đối diện với người khó chịu thường xuyên, nếu không khuyên được họ, tốt hơn ta nên tìm cách tránh xa họ, tránh voi chẳng xấu mặt nào mà. Nhưng vì duyên sự, chúng ta không thể tránh được họ thì ta phải làm sao đây? Lúc này mình phải học cách, chấp nhận đương đầu với hoàn cảnh không mấy hài lòng vừa ý này.

Chúng ta sẽ thấy mình đang rơi vào hoàn cảnh éo le, ta sẽ bị phê bình chỉ trích nặng lời bởi người khó chịu kia, ngay lúc này nếu ta không tỉnh giác thì mọi thứ sẽ đổ vỡ. Nhờ tỉnh giác trong từng phút giây, chúng ta biết mình đang đối diện với lửa sân hận của người khác, nên ta an nhiên bình tĩnh tìm ra lối thoát.

Chúng ta phải ý thức rằng và có sự cảm thông cho người kia, bởi họ đang trong cơn tuyệt vọng, chúng ta dùng tuệ giác của Thế tôn để soi sáng lại chính mình mà có sự cảm thông và tha thứ cho họ. Chúng ta hãy quán sát thân này nhân duyên hòa hợp giả có không thật thể, cái gì là ta, là của ta, ta không chấp thân tâm này làm ngã, thì chẳng có thứ gì làm cho ta lay động mà phiền muộn khổ đau.

Khi đối diện với người khó chịu mình phải biết cách lắng nghe, để tìm ra nguyên nhân, họ đang nói gì, họ đang muốn gì, họ đang tiếc nuối về quá khứ, họ đang mơ mộng đến tương lai mà đánh mất mình trong hiện tại, họ không biết mọi việc tốt xấu, nên hư, thành bại đều do mình tạo ra.

Vào những lúc căng thẳng như thế, chúng ta phải dùng trí tuệ thấy biết đúng như thật để lắng nghe tâm tư của họ, họ đang muốn giải tỏa hết mọi áp lực từ bên ngoài đưa đến, đang đè nặng tâm thức của họ. Chúng ta cần phải quay trở về với thực tại để có sự cảm thông, bao dung và độ lượng, đừng vì tình cảm sâu nặng mà tự đánh mất chính mình.

Chúng ta phải nhìn vào mặt tích cực của họ khi gặp phải người khó chịu, đó cũng là một cơ hội tốt để cho mình thể hiện được sự tu tập từ bấy lâu nay bằng tuệ giác của Như lai. Vì khi nghĩ người tốt, ta sẽ bớt tâm ganh ghét tật đố mà không chỉ trích quá đáng sai lầm của người khác.

Ngày xưa có một câu chuyện như sau: Một vị tổ sư dùng phương tiện thiện xão để chỉ dạy cho người đệ tử của mình. Vị tổ sư ấy dẫn người học trò đến bên hồ chứa nước trong chùa. Sau đó, lấy một ly nhỏ chứa đầy muối rồi chế nước vào khuấy đều bảo người đệ tử uống. Người học trò vừa nhấp thử ngụm nước đã nhăn mặt nói nước mặn đắng, không thể uống được! Vị thầy bình thản lấy thêm một nắm muối khác cũng bằng với số muối trước, rồi bỏ vào hồ nước khuấy đều, bảo người học trò nếm thử. Lần này, người học trò uống thử ly nước mà không cảm thấy khó chịu của sự mặn đắng nữa.

Lúc này, vị thầy mới từ tốn nói tiếp: Sự đau khổ tột cùng giống như người uống đầy ly nước muối mặn. Tuy nhiên, nếu ta biết khôn ngoan sáng suốt hành trì theo lời Phật dạy, giữ giới, thiền định, từ bi thì ta sẽ dùng lượng muối đó pha vào thật nhiều nước, vị mặn của muối bị dòng nước hòa tan, nên ta vẫn uống bình thường mà không cảm thấy khó chịu bởi vị mặn đắng của nó.

Chính vì vậy, mỗi khi gặp điều không được hài lòng như ý, chúng ta hãy mở rộng lòng ra bằng tâm từ bi và trí tuệ để soi sáng lại chính mình thì mọi việc phải quấy, tốt xấu, đúng sai, được mất, hơn thua đều có thể tan hòa vào hư không.

Nói tóm lại, tất cả những người khó chịu dù bất cứ hình thức nào đều do sự chấp ngã thân tâm này là tôi, là ta, thấy thân này thiệt mình, thấy tâm suy tư nghĩ tưởng cũng là mình, nên từ đó ta đấu tranh giành giựt, chiếm đoạt dẫn đến tàn sát giết hại lẫn nhau không thương tiếc.

Có một phương pháp để chuyển hóa người khó chịu, trước nhất là chuyển hóa sự khó chịu của chính mình dựa theo lời Phật dạy. Vì sao chúng ta hay làm người khó chịu? Vì chúng ta không có lòng từ bi rộng lớn, từ là ban vui, bi là cứu khổ.

Muốn vậy ta phải quán tình thương và biết cảm thông, tha thứ. Khi thương yêu kính mến ai, ta sẽ không bao giờ khó chịu với người đó. Tình thương yêu chân thật thường đi đôi với tâm từ bi tức là ban vui và cứu khổ.

Khi có được một trái tim thương yêu có hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống, tâm sẽ dễ dàng trải lòng ra để giúp đỡ người khác và không buồn giận khi người đó vô ơn. Mỗi lần thấy một người khó chịu, ta tự cảm thấy mình cần phải làm điều gì đó, để giúp người ấy có đủ năng lượng thiết lập lại bình yên, hạnh phúc.

Có một người nọ thấy con bọ cạp sắp chết đuối trong một vũng nước. Khi thấy vậy tự nhiên ông ta muốn cứu giúp nó, nên nhanh nhẹn đưa bàn tay ra vớt con bọ cạp khỏi vũng nước, đặt nó vào chỗ an toàn. Con bọ cạp liền chích ông ta một phát đau điếng.

Tuy nhiên vì muốn qua đường, nó lại đi tiếp và cuối cùng lọt vào vũng nước khác. Lần này thấy nó sắp chết đuối, ông ta lại vớt nó lên lần thứ hai và cũng bị nó chích cho một phát nữa. Tay ông lúc này sưng vù, đau điếng.

Một người khác chứng kiến cảnh tượng đó từ đầu đến cuối bèn nói: “Tại sao ông lại dại khờ đến thế? Nên mới bị con bọ cạp chích cho hai lần đau điếng. Ông thật là điên rồ khi phải cứu vớt một con bọ cạp chẳng biết ơn nghĩa là gì!

Người đàn ông vui vẻ trả lời: “Thưa ông, tôi không thể nhìn thấy cảnh con bọ cạp bị chết đuối. Ông biết đó, thói quen và bản tính của con bọ cạp là chích, khi có người khác đụng vào nó đó là phản ứng tự vệ của nó, nó chỉ sống theo tập khí, thói quen mà không có sự quán chiếu. Còn thói quen của tôi là sẵn sàng cứu giúp khi có nhân duyên. Tôi thà chịu đau một chút mà cứu được con bọ cạp.

Suy luận trong trường hợp này, nếu người đàn ông đó dùng trí tuệ lấy một cành cây để vớt con bọ cạp thì sẽ không bị chích. Nhưng ông ta nghĩ rằng cứu một con bọ cạp trong cơn hoạn nạn là điều cần thiết, còn hậu quả như thế nào sẽ tính sau.

Qua bài học của câu chuyện này, đã nói lên tâm từ bi rộng lớn của người đàn ông muốn cứu một sinh mạng khác, dù đó chỉ là một con vật thấp kém. Ở đây cho chúng ta thấy người có tấm lòng rộng mở khi giúp người vật trong cơn nguy khốn, sẽ không có sự tính toán vì ta, người, chúng sinh. Đức tính của ông ta là sự giúp đỡ, sẻ chia bằng tình người trong cuộc sống với trái tim thương yêu và hiểu biết.

Do đó, khi có được tình thương yêu rộng lớn thúc đẩy, chúng ta sẵn sàng giúp đỡ người khác, bất kể màu da, tôn giáo, chủng tộc. Nếu chúng ta, ai cũng biết nuôi dưỡng tình thương yêu chân thật bằng sự quán chiếu hằng ngày, ta sẽ thấy người và vật không có ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Nhờ vậy, khi sống chung với người khó chịu ta vẫn bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Thích Đạt Ma Phổ Giác

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 13
  • Hôm nay 3,652
  • Tháng hiện tại 61,037
  • Tổng lượt truy cập 23,467,286