Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Kính tiếc một bậc Thầy tài hoa

Kính tiếc một bậc Thầy tài hoa

Đăng lúc: 22:00 - 18/11/2016

“Thương mây thơ thẩn về đâu
Thương trăng hiu quạnh giữa bầu hư không...”.
Đó là hai câu đầu của bài thơ “Mười thương” do Hòa thượng cảm tác, mà người viết đã được nghe lần đầu cách đây hơn hai mươi năm trong một lần hầu chuyện cùng ngài. Hôm nay, bỗng dưng hay tin Hòa thượng đã vừa viên tịch tại tổ đình Tường Vân, thành phố Huế, một nỗi buồn dường như vô tận đã bất chợt hiện về trong ký ức cùng với hình ảnh của một bậc Thầy tài hoa...

Khoảng thập niên 1990, chúng tôi thường đến thiền viện Vạn Hạnh để nghiên cứu và sao chép tài liệu, nhờ vậy có được cơ duyên nhiều lần tiếp xúc với Hòa thượng tại thiền thất của ngài. Mỗi lần được hầu chuyện với ngài, tâm trí càng thêm sáng tỏ. Hòa thượng là một trong những bậc Thầy có những đức tính rất đặc biệt.

thay khaithien3.jpg
Trưởng lão HT.Thích Chơn Thiện, Phó Pháp chủ HĐCM,
Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS GHPGVN - Ảnh tư liệu ĐĐ.Hương Yên cung cấp

Nét chữ của sự cần mẫn...

Ấn tượng đầu tiên về Hòa thượng đó là khi ngài tặng cho chúng tôi bản thảo viết tay luận án tiến sĩ của ngài. Những ai có cơ duyên đọc bản luận án viết tay (bản tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt) có lẽ sẽ nhận ra ngay đức tính cần mẫn và kiên trì một cách rất đặc biệt nơi ngài. Trong các bản này, Hòa thượng đã tận tụy nghiên cứu, cẩn thận ghi chép tỉ mỉ những văn bản kinh điển cổ bằng tiếng Pali, đặc biệt là Kinh tạng Nikàya.

Sự ghi chép của Hòa thượng cẩn thận đến độ người đọc khó có thể tìm thấy bất kỳ một sự chỉnh sửa nào trong suốt hơn 300 trang viết tay đồng bộ. Nhưng đối với ngài, đấy là một công việc bình thường, cho dù lịch trình Phật sự có bận rộn như thế nào. Khi được hỏi tại sao Hòa thượng phải viết tay như thế, ngài tâm sự rằng, các luận án phải được thông qua trước khi được cho đánh máy.

Chính vì vậy, ngài rất hoan hỷ chép tay, và nhân tiện chép luôn bản dịch tiếng Việt do chính ngài dịch. Điều đáng nói ở đây là khi chiêm ngưỡng chữ viết tay của ngài, người chiêm ngưỡng nhận thấy nơi những nét chữ khiêm tốn và bình dị đó phảng phất đâu đấy một sự định tĩnh, nhất tâm, rất đẹp và rất vững chãi. Đó chính là cái ấn tượng ban đầu mà hầu như ở thời điểm đó (trước khi luận án được phát hành), các bậc cao tăng cũng như các giáo sư học giả nổi tiếng đương thời ai cũng khen ngợi và tán dương sự cần mẫn của ngài thông qua những nét chữ tuyệt vời.

Xiển dương tính nhất quán trong tư tưởng Phật học...

Trong những tác phẩm, dịch phẩm và những công trình nghiên cứu của Hòa thượng, đặc biệt là cuốn “Phật học khái luận”, đây một quyển sách giáo khoa Phật học quan trọng đã được liên tục tái bản trong suốt hơn 30 năm qua. Trong Lời giới thiệu quyển sách, cố Đại lão Hoà thượng Thích Thiện Siêu đã đánh giá như sau:

“Căn cứ trên các kinh Nikàya và A-hàm với một phần ý nghĩa rút ra từ kinh điển Bắc truyền, Thượng tọa đã trình bày Phật học một cách mạch lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu được nội dung cơ bản của Phật-học, đồng thời cũng gợi lên những đường hướng tư duy sâu sắc và đúng đắn để có thể phù hợp với nhiều đối tượng độc giả... Tôi nghĩ rằng cuốn Phật học khái luận này phản ảnh một quá trình tu học nghiêm túc, một niềm tin tưởng sâu đậm đối với Phật giáo và một tấm lòng tha thiết khuyến tu đối với hết thảy mọi người...”.

Đọc hết các chương về tư tưởng Phật giáo từ khởi nguyên đến phát triển, bạn đọc sẽ thấy rõ tâm huyết của ngài. Đấy chính là những nỗ lực vượt qua mọi dị biệt, xiển dương tính nhất quán trong tư tưởng kinh điển và mối liên hệ triết học giữa Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển. Khái niệm “Tiểu thừa” và “Đại thừa”, trong quan điểm của ngài chỉ là một cách diễn đạt về lịch sử phát triển mang tính cách lý thuyết.

Bạn đọc có thể nhận thấy điều này qua những giải thích, chứng minh của ngài về sự “nhất quán” giữa giáo lý “Năm uẩn là Vô ngã” của Phật giáo Nguyên thủy với giáo thuyết về “Tánh Không” của Đại thừa. Nhưng trên hết, đằng sau những phân tích và giải thuyết của ngài, bạn đọc có thể cảm nhận được ngay niềm khát vọng thống thiết nhất của con người, đấy chính là sự tìm cầu chân lý và hạnh phúc! Chính vì vậy, là một nhà Phật học tinh thông, trong quan điểm của ngài, dù ngôn ngữ hay cách tiếp cận có khác biệt nhưng nhu cầu về chân lý, về sự chứng ngộ chân lý, thì không hề khác biệt. Vấn đề là, tùy vào hoàn cảnh khác nhau mà Phật giáo cần phải có những uyển chuyển, thích ứng phù hợp.

thay khaithien1.jpg
Thủ bút của HT.Thích Chơn Thiện (ảnh do Quảng Điền chụp lại, di cảo do ĐĐ.Hương Yên cung cấp)

Bậc Thầy tinh thông cả Nam tạng và Bắc tạng...

Những ai đã một lần tham dự các thời pháp hay các buổi thuyết giảng của Hòa thượng sẽ ít nhiều cảm nhận được tấm lòng nhiệt huyết và từ tâm bao la của ngài. Khi trình bày một vấn đề, ngài thường đi rất sâu và đi sâu hơn những gì mong đợi của hàng thính giả. Sự trình bày của ngài, ngoài sự uyên bác, quảng học đa văn, các luận cứ luôn được dẫn chứng theo các nguyên tác, kinh điển. Nhờ vậy mà niềm tin của thính chúng được tăng trưởng. Có thể nói rằng, dù không phải là người trực tiếp phiên dịch, nhưng Hòa thượng là một trong những bậc cao tăng uyên thâm cả hai hệ thống Nam tạng và Bắc tạng.

Đọc các tác phẩm của ngài, người đọc thường có cơ duyên để lĩnh hội sự giao thoa tư tưởng của cả hai hệ thống kinh văn Phật giáo (Nam truyền và Bắc truyền) được trích dẫn và giới thiệu một cách rất đầy đủ. Đối với các thế hệ Tăng Ni sinh hậu học, tác phẩm của Hòa thượng là một nguồn cảm hứng thiêng liêng, là động lực mãnh liệt, khuyến tấn hàng hậu học mạnh dạn đi sâu hơn vào kho tàng tư tưởng Phật giáo, đặc biệt là tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy.

Và ở đó, chính trong kho tàng Nguyên thủy, hành giả sẽ có thể nghe được tiếng nói diệu âm của Đại thừa, cho dù thời đại có cách nhau 500 năm hay một ngàn năm. Đây quả thật là một nét đặc trưng hiếm có trong các tác phẩm nghiên cứu triết học Phật giáo trong thời đại của chúng ta.

Bây giờ bỗng dưng...

Sau bao năm tháng tận tụy làm Phật sự, ở tuổi 75, với ngài, thật sự không quá già, nhưng Hòa thượng đã trở về cõi vô tung bất diệt. Hàng hậu học ở lại, bồi hồi, ngậm ngùi kính nhớ Hòa thượng; nhớ lại những năm tháng trước đây, nhớ lại những lời dạy chân thành và giáo huấn cao thượng, nhớ lại những ánh sáng nội tại lóe lên từ mặt đất tinh khôi... Và bây giờ, bỗng dưng ngài đã trở về cảnh giới chân nguyên, nơi “sông vẫn là sông, núi vẫn là núi”.

Cúi đầu đảnh lễ Giác linh cố Trưởng lão Hòa thượng.

Kính mong ngài sớm trở lại cõi Ta-bà để hoằng hóa độ sinh.

Khải Thiên
(Tu viện Cát Trắng, Florida, Hoa Kỳ)

Hà Nội: Trọng thể kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN

Hà Nội: Trọng thể kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN

Đăng lúc: 10:10 - 07/11/2016

Sáng nay 7-11, Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN đã trọng thể và trang nghiêm diễn ra tại hội trường Bảo tàng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội (huyện Sóc Sơn, TP.Hà Nội).

H1.jpg
Đức Pháp chủ - Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ quang lâm - ảnh: Bảo Thiên

Đại lễ cung đón Đức Pháp chủ - Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ cùng chư tôn giáo phẩm Phó pháp chủ HĐCM quang lâm chứng minh.

HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS; chư tôn giáo phẩm Phó Chủ tịch HĐTS cùng chư tôn đức lãnh đạo Phật giáo 63 tỉnh, thành; ông Vũ Đức Đam, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ cùng các vị lãnh đạo nhà nước, nguyên lãnh đạo nhà nước CHXHCN Việt Nam; đại diện các bộ ngành trung ương và TP.Hà Nội đến dự và chúc mừng.

H2.jpg
Cung nghinh chư tôn đức và đại biểu - ảnh: Bảo Thiên

H4.jpg
TT.Thích Huệ Thông dẫn chương trình - ảnh: Lương Hòa

H3.jpg
Nghi thức chào cờ - ảnh: Lương Hòa

Đại lễ bắt đầu bằng nghi thức cung nghinh trang trọng giữa tiếng nhạc hùng hồn, tiếng trống kèn rộn ràng với đoàn rước lễ đầy sắc màu do chư Tăng Ni sinh và các em Phật tử thủ đô phụ trách. Ngay sau đó là phần chào quốc kỳ, đạo kỳ, tưởng niệm các vị tiền bố hữu công, anh hùng liệt sĩ đã cống hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc.

Thay mặt cho Đức Pháp chủ, Hòa thượng Phó Pháp chủ Thích Trí Quảng đã tuyên đọc thông điệp gởi chư tôn túc Tăng Ni, quý Phật tử trong và ngoài nước nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội.

Bức thông điệp nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết, hòa hợp của các thành viên trong ngôi chung Giáo hội suốt 35 năm qua - đã tạo nên những thành tựu Phật sự quan trọng trên các mặt công tác, phục vụ nhân sinh, phát triển đất nước, góp phần kiến tạo hòa bình, an lạc cho nhân loại.

Qua đó, Đức Pháp chủ cũng khẳng định, Giáo hội đã thực sự lớn mạnh, đủ sức tiến hành các Phật sự trọng đại, hòa mình vào dòng chảy và sự phát triển chung của Phật giáo thế giới khi tổ chức thành công nhiều sự kiện Phật giáo tầm quốc tế. Dịp này, Đức Pháp chủ gởi lời tri ân đến các cơ quan nhà nước, bạn bè quốc tế và đồng bào các giới trong nước đã đồng hành, giúp sức Giáo hội để hoàn thành Phật sự từ ngày thành lập đến nay.

H7.jpg
HT.Thích Trí Quảng tuyên đọc thông điệp của Đức Pháp chủ - ảnh: Lương Hòa

H5.jpg
Chư tôn giáo phẩm các ban ngành T.Ư dự lễ - ảnh: Lương Hòa

H6.jpg
Lãnh đạo các cấp chính quyền dự lễ - ảnh: Lương Hòa

Tuyên đọc diễn văn Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội, Hòa thượng Chủ tịch HĐTS Thích Thiện Nhơn khái quát lại quá trình hình thành, kiện toàn và điều hành Phật sự của Giáo hội suốt 35 năm qua; đồng thời khẳng định những tinh thần đoàn kết, hòa hợp, đồng hành và phụng sự là những giá trị cao quý của các cấp Giáo hội.

“Những thành tựu của Giáo hội trong 35 năm qua là liên tục, ổn định, rõ nét và qua đó khẳng định với kinh nghiệm sẵn có, tự thân mỗi thành viên của Giáo hội sẽ khắc phục khó khăn, tham gia sâu rộng những việc làm lợi đạo ích đời, tiếp tục đóng góp tích cực vào sự xương minh đạo pháp, hưng thịnh đất nước” - Hòa thượng Chủ tịch HĐTS nhấn mạnh.

H9.jpg
HT.Thích Thiện Nhơn đọc diễn văn đại lễ - ảnh: Lương Hòa

Trong bài diễn văn cũng khẳng định, lịch sử đã cho thấy kể từ thời Đức Phật tại thế cho đến nay, hễ Nhà nước ủng hộ Phật giáo thì Phật giáo hưng thịnh và đất nước cũng hưng thịnh phú cường. Văn hóa dân tộc có sự đóng góp lớn lao của Phật giáo về văn học, triết học, giáo dục, mỹ học, kiến trúc, nghệ thuật…, nhất là duy trì và phát huy truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam có tiếp thu, chọn lọc một số nguồn văn hóa khác.

Trong phút giây trang trọng hướng về mốc lịch sử cách nay 35 năm, Hòa thượng Chủ tịch HĐTS đề nghị toàn thể đại biểu thành kính tưởng nhớ và niệm ân đến chư tôn đức tiền bối lãnh đạo Giáo hội qua các nhiệm kỳ - đã có công lao lớn trong việc xây dựng, củng cố và phát triển Giáo hội từ nhiệm kỳ đầu tiên của Giáo hội và chư vị cố Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Ni trưởng, Ni sư, quý vị cư sĩ trong Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự từ trung ương đến địa phương của Giáo hội qua các nhiệm kỳ.

H10.jpg
TT.Thích Đức Thiện báo cáo kết quả Phật sự 35 năm của Giáo hội - ảnh: Lương Hòa

Thay mặt Ban Thư ký, TT.Thích Đức Thiện, Tổng Thư ký HĐTS đã báo cáo kết quả công tác Phật sự của Phật giáo cả nước từ ngày thành lập đến nay.

Theo đó, khi mới thành lập (tháng 11-1981), nhiệm kỳ đầu là thời kỳ xây dựng, Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm 2 hội đồng: Hội đồng Chứng minh 50 thành viên, Hội đồng Trị sự 49 thành viên, có 6 ban ngành trung ương và 28 Ban Trị sự tỉnh, thành hội Phật giáo hoạt động.

Từ nhiệm kỳ II đến nhiệm kỳ IV là thời kỳ ổn định và xây dựng, nhiệm kỳ V và nhiệm kỳ VI là thời kỳ củng cố và phát triển.

Trải qua 35 năm, nhiệm kỳ VII là nhiệm kỳ kế thừa, ổn định và phát triển bền vững, kiện toàn và đổi mới tổ chức.

H13.jpg
Hình ảnh chư tôn đức và đại biểu nhìn từ trên cao - ảnh: Lương Hòa

“Hiện nay tổ chức GHPGVN có 89 thành viên HĐCM, 199 Ủy viên Hội đồng Trị sự và 66 Ủy viên dự khuyết. Hệ thống tổ chức Giáo hội gồm 13 ban, viện trung ương hoạt động chuyên ngành; thống nhất từ trung ương đến các địa phương khi đã thành lập Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh tại 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Kiện toàn và nâng tầm hệ thống quản lý hành chính Phật giáo cấp quận, huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh; quản lý 8 Hội Phật tử Việt Nam ở nước ngoài theo Hiến chương GHPGVN”, TT.Thích Đức Thiện thông tin.

Báo cáo cũng điểm qua những thành tựu nổi bật của 13 ban ngành hoạt động của Giáo hội gồm: Tăng sự, Giáo dục Tăng Ni, Hướng dẫn Phật tử, Hoằng pháp, Nghi lễ, Văn hoá, Kinh tế - Tài chính, Phật giáo quốc tế, Từ thiện xã hội, Pháp chế, Kiểm soát, Thông tin - Truyền thông, Viện Nghiên cứu Phật học.

Hiện tại, cả nước có 49.493 Tăng Ni tu học tại 17.376 cơ sở tự viện và hàng chục triệu tín đồ Phật tử cùng với hơn 50 triệu những người yêu mến đạo Phật; 4 học viện, 8 lớp cao đẳng và 31 trường trung cấp Phật học; gởi 476 Tăng Ni du học nước ngoài; 890 Tăng Ni giảng sinh tốt nghiệp khóa đào tạo giảng sư; 1.003 đơn vị GĐPT với 8.560 huynh trưởng và 65.650 đoàn sinh; 1.150 đạo tràng tu học dành cho Phật tử tại gia; nhiều ấn phẩm văn hóa và báo chí, thông tin điện tử; 150 Tuệ Tĩnh đường, 655 phòng chẩn trị y học dân tộc, 1 phòng khám đa khoa, thực hiện công tác từ thiện khoảng 7.000 tỷ đồng; Giáo hội là thành viên của nhiều tổ chức Phật giáo quốc tế.

Trong phương hướng thời gian đến, TT.Thích Đức Thiện đã trình bày 11 điểm cần tập trung thực hiện để đưa Giáo hội phát triển trong giai đoạn mới và hội nhập quốc tế.

H11.jpg
Ông Vũ Đức Đam phát biểu - ảnh: Lương Hòa

Đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại buổi lễ - khẳng định - trong quá khứ nhiều nhân vật ghi danh tên tuổi với lịch sử dựng nước và giữ nước xuất thân từ Phật giáo. Nói về sự kiện thành lập và những giá trị đóng góp của Giáo hội sau 35 năm, Phó Thủ tướng cho rằng đó là những đóng góp quan trọng, tạo sự ổn định trong đời sống và làm giàu các nét đẹp văn hóa.

Cuối bài phát biểu, Phó Thủ tướng đề nghị, Giáo hội, chư Tăng Ni, Phật tử cần tăng trưởng Phật chất để tiếp tạo sự trang nghiêm, phát huy các tiềm lực, làm chỗ dự tâm linh vững chắc cho dân tộc.

Dịp này, Giáo hội đã trang trọng đón nhận Huân chương Lao động hạng nhất do Chủ tịch nước trao tặng.

Nhiều lẵng hoa, phần quà do lãnh đạo cấp cao của nhà nước, nguyên lãnh đạo nhà nước, các cơ quan trung ương, TP.Hà Nội, tổ chức, cá nhân gởi đến chúc mừng.

Giáo hội trao tặng 500 triệu đến Quỹ khuyến học Việt Nam do bà Nguyễn Thị Doan, nguyên Phó Chủ tịch nước làm chủ tịch.

H12.jpg
Ông Vũ Đức Đam trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất đến Giáo hội - ảnh: Lương Hòa

H15.jpg
Lãnh đạo UBTƯ MTTQVN tặng hoa chúc mừng - ảnh: Lương Hòa

H16.jpg
Giáo hội tặng 500 triệu đến Quỹ khuyến học Việt Nam - ảnh: Lương Hòa

Buổi lễ khép lại sau phần cảm tạ của Ban Tổ chức do HT.Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS đọc. Chư tôn đức lãnh đạo và quý đại biểu hoan hỷ chụp ảnh lưu niệm nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội.

H17.jpg
HT.Thích Thanh Nhiễu cảm tạ - ảnh: Lương Hòa

H14.jpg
Hình ảnh chư tôn đức và đại biểu nhìn từ trên cao - ảnh: Lương Hòa

H8.jpg
Toàn cảnh đại lễ - ảnh: Lương Hòa

Bảo Thiên

Tọa đàm 'Định hướng phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An

Tọa đàm 'Định hướng phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An

Đăng lúc: 19:14 - 07/05/2016

sáng nay, ngày 07/05/2016, Tọa đàm 'Định hướng phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An, tại Vinh Plazza, Trong khuôn khổ Lễ hội Phật giáo hương sen Xứ Nghệ năm 2016. Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An sẽ tổ chức Tọa đàm : “Định hướng Phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An” Nội dung Tọa đàm sẽ tập trung các chuyên đề: 1. Phương pháp quản lý Tăng Ni Tự Viện; 2. Phương pháp Nâng cao nhận thức Phật học cho Tăng Ni, Phật tử; 3. Bảo tồn-kế thừa-phát huy văn hóa và nghi lễ Phật giáo Việt Nam.
Đúng 8h.00, Buổi tọa đàm sẽ diển ra, BBT sẽ cập nhật hình ảnh và nội dung buổi tọa đàm này:

Chuyên Đề 1: Phương Pháp quản lý Tăng ni, Tự viện:
- Các vấn đề cần quan tâm và thảo luận cho chuyên đề này như sau:
+ Thực trạng về Tăng Ni Tự viện tại Nghệ An?
+ Vấn đề Tăng ni ngoài tỉnh đến hoạt động tại Nghệ An?
+ Vấn đề giả sư?
+ Vấn đề thụ giới?
+ Vấn đề an cư kết hạ?
+ Vấn đề bổ nhiệm trụ trì?
+ Vấn đề Phục hồi chùa?
+ Vấn đề xây dựng chùa?
+ Vấn đề cải gia vi tự?
+ Vấn đề danh xưng tự viện
+ Vấn đề ban hộ tự?
+ Vấn đề khen thưởng và xử phạt?
+Vấn đề kiện toàn nhân sự và tổ chức Ban trị sự?
+ Vấn đề thờ hinh tượng Phật, bồ tát các nơi đình, đền, miếu thuộc tín ngưỡng dân gian?
+ Công tác quản lý các chùa là di tích lịch sử, văn hóa; các chùa trong khuôn viên có các công trình, di tích, các hoạt động tín ngưỡng dân gian.

Chuyên đề 2: Phương pháp nâng cao nhân thức Phật học cho Tăng ni - Phật tử:
- Các vấn đề cần quan tâm và thảo luận cho chuyên đề này như sau:
+ Thực trạng nhận thức của Tăng Ni, Phật tử về Phật học và thế học?
+ Vấn đề giảng đường và giảng sư?
+ Lựa chọn băng đĩa, website, sách báo, kinh điển sao cho phù hợp?
+ Vấn đề Phật hóa Gia đình?
+ Phương pháp hoằng pháp cho giới trẻ?
+ Phương pháp ứng xử của tổ chức Giáo hội Phật giáo, của tăng, ni và phật tử khi phát hiện các đạo lạ
+. Phương pháp ứng xử của tổ chức Giáo hội Phật giáo, của tăng, ni và phật tử đối với các tư tưởng, cách thức hoạt động không chính thống trong Giáo hội Phật giáo hoặc các tư tưởng, cách thức hoạt động mang màu sắc Phật giáo.
+ Phát huy tư tưởng triết học và khoa học của Phật giáo để truyền bá Phật giáo trong tầng lớp trí thức và thanh niên.
+ Phương pháp thống kê và quản lý tín đồ, Phật tử?
+ Định hướng Phát triển Phật giáo miền núi như thế nào?
+ Vấn đề mở trường đào tạo Tăng Ni và Phật tử?
Chuyên đề 3: Bảo tồn – Kế thừa – Phát huy Văn hóa và Nghi lễ Phật giáo Việt Nam:
- Các vấn đề cần quan tâm và thảo luận cho chuyên đề này như sau:
+ Thực trạng về văn hóa và nghi lễ tại Nghệ An.
+ Nên sử dụng ngôn ngữ, loại linh vật và họa tiết văn hoa như thế nào để phù hợp với cảnh quan, tinh thần Phật giáo và văn hóa Việt?
+ Quy hoạch kiến trúc tự viện và tính ứng dụng của nó theo xu thế hiện đại?
+ Phương pháp ứng xử với chùa di tích lịch sử và di tích kiến trúc văn hóa như thế nào?
+ Vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của ban quản lý và Sư trụ trì tại các ngôi chùa di tích lịch sử?
+ Vấn đề pháp phục cho Tăng Ni và Phật tử?
+ Phối hợp quản lý giữa cơ quan quản lý nhà nước và giáo hội?
+ Thực hiện nghi lễ như thế nào để tiết kiệm và phù hợp với thời đại?
+ Phân biệt lễ vật và lễ nghi giữa Phật giáo với tín ngưỡng nhân gian? Như vàng mã, lẽ mạn, rượu bia,…
+ Vấn đề việt hóa và thống nhất nghi lễ như: nghi thức tụng niệm hàng ngày, cầu an, cầu siêu, đám tang, cúng tuần, khoa giáo, sớ sách… trên địa bàn Nghệ An như thế nào?
+ Phương thức bài trí, thờ tự tại tư gia như thế nào cho đúng?.

Tọa Đàm bắt đầu:






Quang lâm chứng minh và tham dự có: HT.Thích Thanh Đàm, UV HĐCM GHPGVN, HT.Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch TT HĐTS, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An; HT.Thích Chơn Không, Phó ban kiêm Chánh thư ký Ban HDPT T.Ư GHPGVN; TT.Thích Thanh Huân, UV TT HĐTS, Phó Chánh VP I GHPGVN; TT.Thích Thọ Lạc, UV TT HĐTS, Phó ban TT Ban Văn hóa T.Ư GHPGVN, Phó ban TT BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An; chư tôn đức Tăng ni và đông đảo quý Phật tử cùng về tham dự.






Về phía đại biểu khác mời có: TS Bùi Thanh Hà, Phó Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ; ông Lê Đình Nghĩa, Vụ trưởng vụ Tôn giáo, ban Dân vận Trung ương; TS Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam); ông Lê Minh Thông, Ủy viên ban thường vụ Tỉnh ủy, Phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An; ông Lưu Công Vinh, Phó giám đốc Sở Nội vụ, Trưởng ban Tôn giáo tỉnh Nghệ An; cùng đại diện lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trung ương và địa phương.






HT Thích Thanh Nhiễu phát biểu khai mạc buổi Tọa Đàm

GSTS Nguyễn Quốc Tuấn, viện nghiên cứu Tôn giáo viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam phát biểu đề dẫn


TT Thích Thọ Lạc, Phó ban Văn Hóa TW GHPGVN, Phó Trưởng Ban BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An


ĐĐ Thích Châu Phong, trưởng ban Pháp Chế, GHPGVN tỉnh Nghệ An


Ban Thư Kí




ĐĐ Thích Đồng Tựu, Ủy Viên Ban Pháp Chế BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An phát biểu về vấn đề giả sư tại địa bàn tỉnh


Ông Nguyễn Văn Long, Phó ban tôn giáo tỉnh phát biểu về nội dung phục hồi và xây dựng chùa, thành lập ban hộ tự, v.v...



ĐĐ Thích Nhuận Hiển

Hội nghị chuyển sang chuyên đề 2


TT Thích Thông Kiên, Trưởng Ban Hướng Dẫn Phật Tử phát biểu về những kinh nghiệm tổ chức khóa tu cho tuổi trẻ và định hướng cho các khóa tu trong tương lai



TT Thích Nhuận Tâm phát biểu về các vấn đề hoằng pháp trong thời đại toàn cầu hóa đa phương tiện.



TT Huệ Vinh, phó ban trị sự, trưởng ban hoằng pháp tp Đà Nẵng, phát biểu về kinh nghiệm hoằng pháp đối với một ngôi chùa trong dòng phát triển mới



Cô Thúy Hồng, Giảng viên trường Đại Học Vinh phát biểu về vấn đề Tuổi trẻ với Phật giáo trong tỉnh Nghệ An



Bà Hoàng Thị Quỳnh Anh, Phó Giám đốc Sở VHTT&DL tỉnh Nghệ An phát biểu



HT.Thích Chơn Không, Phó ban kiêm Chánh thư ký Ban HDPT T.Ư GHPGVN



Đại Đức Thích Quảng Nguyên, Phó Ban Trị Sự Phật Giáo tỉnh Hà Tỉnh




Đại Đức Thích Tâm Hiếu



Đại Đức Thích Quảng Văn



TT Thích Thọ Lạc phát biểu kết luận bế mạc hội nghị



Chụp hình lưu niệm


Tác giả bài viết: BTT

Làm sao chuyển hóa tâm bất kính?

Làm sao chuyển hóa tâm bất kính?

Đăng lúc: 06:14 - 13/04/2016

Tin và hiểu song hành sẽ giúp bạn hóa giải mọi nghi ngờ, bất kính để đến với đạo Phật một cách chủ động, tự do và tự nguyện.

HỎI: Tôi chỉ mới bắt đầu đi chùa đọc kinh nhưng không hiểu vì sao, thời gian gần đây, trong tâm thức tôi lại hay khởi lên ý nghĩ bất kính khi lễ Phật, khi đọc kinh sách Phật. Tôi đã cố gắng rất nhiều để không còn suy nghĩ đó nhưng không được. Tôi cảm thấy rất phiền não về những ý nghĩ như vậy. Tôi muốn hỏi làm thế nào để vượt qua được những ý nghĩ ấy? Khi tâm bất kính xuất hiện thì có phải tôi đã tạo nghiệp ác không? Mong quý Báo giúp tôi, để tôi có thể vượt qua chướng ngại này.

(XUÂN LÀNH, ngsinhcompany@gmail.com)

ĐÁP:

Bạn Xuân Lành thân mến!

Thiết nghĩ, có ba trường hợp chính để hình thành tâm bất kính trong bạn hiện nay. Thứ nhất, bạn mới bắt đầu học đạo, khi hiểu biết về giáo pháp chưa sâu rộng, khi niềm tin Tam bảo chưa được vững chắc, thì có thể bạn nghe những đối luận không thiện cảm với Phật giáo, hay biết được những hạn chế của hàng đệ tử Phật (đơn cử như có vị xuất gia hoặc cư sĩ khiếm khuyết đạo đức chẳng hạn), những điều ấy sẽ dễ khiến bạn hoài nghi, mất thiện cảm dẫn đến sinh tâm bất kính Tam bảo.

Thứ hai, nếu bạn đủ hiểu biết để nhìn thấu hai mặt của vấn đề, và đủ bao dung khi nhìn mọi sự trong tính tương đối nhưng vẫn dấy khởi ý nghĩ bất kính Tam bảo, có thể đó là hiệu ứng của những xung đột quan điểm trong chính bản thân bạn. Thứ ba là những hạt giống ngã mạn ở quá khứ còn vương lại trong tâm thức bạn nay đủ duyên bộc phát.

Với trường hợp thứ nhất, bạn cần tìm hiểu Phật pháp nhiều hơn nữa, đặc biệt là cần tham vấn những vị có kinh nghiệm tu học để tháo gỡ những vướng mắc cho bạn. Đạo Phật chủ trương “đến để thấy”, thấy rõ rồi mới tin. Với niềm tin được trí tuệ soi sáng, bạn sẽ luôn vững vàng trước những đối luận không thiện cảm về Phật giáo. Kế đến, nhân cách tốt hay xấu của những người bạn đạo vẫn ảnh hưởng đến niềm tin của mình nhưng đó là bên ngoài, thứ yếu. Bạn cần phát huy tuệ giác để thấy rằng, cốt tủy của người học Phật vẫn là “Hãy tự mình nương tựa hòn đảo chính mình”. Không có tổ chức hay cá nhân nào tuyệt đối hoàn hảo cả. Người xưa nói “nhơn hư, đạo bất hư” nhằm nhắc nhở mình, mọi chuyện với cá nhân đều có thể xảy ra nhưng với đạo thì luôn tốt đẹp. Tháo gỡ được những vướng mắc này sẽ góp phần chuyển hóa tâm bất kính của bạn.

Với trường hợp thứ hai, khi tiếp cận với cái mới thì xung đột nội tại là vấn đề thường xảy ra. Bạn đang tìm hiểu và từng bước xác lập niềm tin vào đạo Phật, dĩ nhiên có nhiều điều mới mẻ trong Phật giáo khác với tín ngưỡng truyền thống hay các tư tưởng, triết học mà bạn đã tiếp nhận từ trước. Sự phân biệt, so sánh, phân vân, hoài nghi, chấp nhận và phủ nhận giữa cái cũ và mới sẽ hình thành trong giai đoạn này, từ đó góp phần làm dấy khởi tâm bất kính. Nếu cần thì bạn hãy dành cho mình một khoảng lặng để chiêm nghiệm trước khi quyết định.

Ở đây, bạn nên học theo tinh thần tự do tín ngưỡng của Đức Phật: “Khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là thiện, các pháp này là không đáng chê, các pháp này được người trí khen ngợi, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui, thời này các người Kalama, các người hãy đạt đến và an trú”. Rõ ràng theo tinh thần này, bạn sẽ đến với đạo Phật bằng sự tự do, chủ động với trí tuệ mà không hề chịu bất cứ áp lực nào cả.

Với trường hợp thứ ba, bạn nên biết rằng, tâm thức chúng ta lưu giữ tất cả những chủng tử nghiệp thiện ác, khi chưa đủ duyên thì tiềm ẩn, khi đủ duyên thì chúng trỗi dậy. Nếu tâm bất kính Tam bảo dấy khởi mà không có nguyên nhân rõ ràng như đã phân tích ở trên, thì chắc chắn đây là biểu hiện cụ thể của nghiệp ngã mạn trong quá khứ. Để chuyển hóa tâm bất kính này, bạn cần thành tâm lễ Phật sám hối những nghiệp xấu ngã mạn.

Người bình thường không thể kiểm soát được những ý tưởng bất chợt của mình. Nên khi những ý nghĩ bất kính xuất hiện, ngay thời điểm đầu tiên nó chưa phải là tội lỗi. Nhưng nếu không phản tỉnh để dừng lại mà cứ duyên theo nó thì sẽ tạo nên ý nghiệp xấu ác. Do vậy, muốn vượt qua chướng ngại này, bạn cần nương theo pháp lễ Phật sám hối để hóa giải nghiệp ngã mạn trong quá khứ và phát huy tuệ giác để hiểu đúng Chánh pháp. Tin và hiểu song hành sẽ giúp bạn hóa giải mọi nghi ngờ, bất kính để đến với đạo Phật một cách chủ động, tự do và tự nguyện.

Chúc bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN

ngcan (3)

Đức tin liệu cũng có ba bảy đường?

Đăng lúc: 07:18 - 05/11/2015

Với sự quan sát và cách nhìn của một Phật tử trí thức về các hiện tượng Phật giáo trong xã hội hiện tại, trong mong ước xây dựng một nền Phật giáo chánh tín, GN trân trọng giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Phạm Văn Nga, pháp danh Nguyên Cẩn về vấn đề đức tin và chánh tín.
Khi xã hội trống vắng niềm tin

Cách đây nhiều năm trong một chuyến công tác ở Moscow - Liên bang Nga, ông chú tôi, một quan chức trong ngành điện lực, sau cuộc hội thảo chuyên môn, giờ giải lao, một cán bộ cấp cao, một nữ phó tiến sĩ người Nga tâm sự: “Các anh may mắn hơn chúng tôi, các anh có niềm tin vào tôn giáo hay một thứ tín ngưỡng nào đó, còn chúng tôi, sau khi Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu tan rã, chỉ còn sự trống rỗng, hầu như chúng tôi chẳng biết tin vào điều gì bây giờ!”.

ngcan (2).jpg
Ở các nước phát triển, nhiều người tìm đến với Phật giáo vì đó là lối sống có thể ứng dụng
mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích thiết thực cho mình, cho người, cho môi trường...

Niềm tin tôn giáo

Là một trí thức XHCN, chắc bà ấy khi đề cập đến niềm tin không nhắm đến những tín ngưỡng như những nghi thức cầu nguyện hay những điều huyền nhiệm mà cũng không phải là triết lý theo truyền thống Tây phương, vì theo Edward Conze “Ở châu Âu, chúng ta hầu như đã quen với lỗ hổng rất lớn giữa lý thuyết của các nhà triết học và và sự thực hành của họ. Chẳng hạn như Schopenhauer và Herbert Spencer,… là những ví dụ nổi bật. Nếu một nhà triết học ở đây chứng minh được rằng không có cái ta, lập tức họ buông bỏ điều đó và hành xử như một người có bản ngã… Thật không dễ gì bài bác một nhà triết học bằng cách chỉ ra rằng ông ta thô lỗ với vợ ông ta, ganh tị với bạn đồng nghiệp, đã may mắn hơn ông ta, và đỏ mặt tức bực khi bị phản bác… Trái lại trong Phật giáo tầm quan trọng là do lối sống, một đời sống thánh thiện, buông bỏ sự dính mắc đối với thế giới này…” (*) .

Vậy cái niềm tin tôn giáo bà nói ở đây hẳn là những nguyên tắc sống, thái độ sống, hành xử với tha nhân, cái nhìn về cuộc đời. Nói như nhiều nhà nghiên cứu phương Tây, Phật giáo là một tôn giáo thực tế. Vì họ hiểu giá trị của một ý tưởng phải được đánh giá và phê phán qua việc bạn có thể vận dụng thế nào ý tưởng đó. Bất cứ nơi nào, hay ở bất kỳ ai, nếu người ta thấy những tính cách từ bi, hỷ xả, tử tế, thanh thản, tự tin, người ta sẽ hiểu cái “triết lý” thực tế phía sau những thái độ ấy và mức độ tu chứng của hành giả, không cứ là tu sĩ hay cư sĩ…

Thế nhưng niềm tin của chúng ta hôm nay ở đâu khi nhìn lại xã hội chúng ta những năm gần đây, người ta không khỏi lo âu, ái ngại vì nhiều thông tin cho thấy các mặt của đời sống đều xuống cấp, nhất là văn hóa mà ánh xạ của nó thể hiện qua các mặt ngôn ngữ, truyền thông và nhất là cách hành xử bạo lực từ nhà trường ra đường phố, công sở… Ngay cả trong tình yêu người ta cũng phũ phàng khi sẵn sàng giết, tạt a-xít, trói rồi đốt người yêu, người vợ và thậm chí con mình (!). Sân hận dễ dàng bộc phát, tràn lan nhiều nơi.

Gương mặt người Việt Nam theo một số nhà xã hội học từ lâu nay đã biến mất vẻ an nhiên, thay vào đó là những nét đề phòng. Họ căng thẳng vì đời sống chăng? Có thể nhưng ngày xưa cha ông còn nghèo hơn chúng ta bây giờ mà? Họ học theo phim ảnh Âu Mỹ hay những game bạo lực chăng? Nhưng ở những nước sản xuất ra phim hay game đó, tỷ lệ tội ác thấp hơn chúng ta nhiều? Vậy thì vì đâu, cơ chế thị trường chăng? Không, cái cơ chế ấy chỉ làm cho một số người trở nên giàu có, phát triển lòng tham lệch lạc vì thiếu sức mạnh răn đe của luật pháp hay người thi hành nương tay vì lý do gì đó (?).

Lòng tham hôm nay thể hiện qua sự nhũng nhiễu của một bộ phận quan chức, qua hành vi thiếu lương tâm làm hàng gian hàng giả, hay kê giá lên nhiều lần của một lớp tư sản đỏ, có sự tiếp tay của thể chế “lợi ích nhóm” lũng đoạn đời sống.

Và niềm tin đặt sai chỗ

Nhưng có thật xã hội hôm nay thiếu niềm tin tôn giáo không? Có người sẽ tranh luận rằng Phật giáo, chưa nói đến các tôn giáo khác, đang trong giai đoạn “phồn vinh”, được bá tánh hết sức quan tâm và có rất nhiều tín đồ. Cứ nhìn vào các lễ hội, người ta thấy chen chúc từ đầu năm đến cuối năm…Không cứ chùa Hương, chùa Bái Đính hay những chùa nổi tiếng khác, mà dịp lễ Tết, chùa nào cũng đông, người người đi chùa như trẩy hội, ngày rằm mồng một nhiều chùa tấp nập, khói hương mờ một góc đường... Đáng mừng chăng?

Phật giáo, như chúng ta biết, không chỉ là triết lý sống thực tế mà còn có những nghi lễ - nội dung tín ngưỡng, tôn giáo. Dù muốn dù không, những loại hình nghi lễ đã phát triển xung quanh giáo lý của Ðức Phật.
“Ðiều tối quan trọng ngày nay là nhận biết giá trị bức thông điệp của Ðức Phật và sống theo những lời dạy ấy. Đó là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không sử dụng các chất kích thích làm mê mờ tâm trí. Đức hạnh cao hơn là bố thí, giữ giới - những nguyên tắc đạo đức căn bản và thực hành thiền định.
Giáo đoàn của Ngài cũng đã trở thành một tôn giáo mà người ta sẵn sàng trung thành, một tôn giáo có nghi lễ, tổ chức, đường lối, tiêu chuẩn riêng để quyết định điều gì đúng điều gì không đúng, về mặt lịch sử, đó là một loại Phật giáo khác với hình thức kết tập thuyết giảng ban đầu của Phật.

Ngày đó, người tu Phật chỉ hướng đến những chân lý mà Phật chỉ dạy với tâm trí rộng mở, và tự do tư tưởng vì Phật giáo chủ trương giải thoát chúng ta khỏi một đấng Thượng đế vô hình - toàn năng hay những ràng buộc siêu nhiên, và nói chung khỏi mọi giáo điều. Thế nhưng, trong khi thực hiện những nghi lễ, có không ít người đã lầm tưởng một số hình thức hay những cách biểu hiện -phi-Phật giáo là nghi lễ chính thống hay tông phái “duy nhất” đưa đến giác ngộ.

Và hiện nay, nhiều pha tạp khác len lỏi vào đời sống tôn giáo của đạo Phật, gây nhiều ngộ nhận về giá trị “tâm linh” như ngoại cảm, đồng cốt, lịch số, dâng sao - giải hạn…

Chúng ta có thể kể đến một hiện tượng được bàn tán, sôi nổi viết thành sách, trên mạng, trên báo chí, là ngoại cảm. Xuất phát từ ước vọng tìm lại hài cốt những chiến sĩ tử trận trong chiến trường, đã dấy lên phong trào “Đi tìm đồng đội”. Rồi một đồn mười, mười đồn trăm, người ta đổ xô đi tìm và trao niềm tin cho những “nhà ngoại cảm”. Thực hư cũng còn mơ hồ vì đã xảy ra những vụ lọc lừa như vụ “cậu Thủy”, kẻ làm giả rất nhiều hài cốt, mập mờ đánh lận con đen, để rồi vừa bị tuyên án chung thân cách đây một tuần. Có cả những vị tu sĩ cũng tham gia vào hiện tượng ngoại cảm này.

Với vấn đề đồng cốt, một hiện tượng không những không bị cấm mà còn được xem như loại hình văn hóa “phi vật thể”.Hòa thượng Thích Thanh Từ có lần giảng dạy: “Những kẻ làm ông đồng, bà cốt đều là người sống trong trạng thái bất bình thường. Bản thân họ đã mất hết khả năng tự chủ, họ bị sai sử bởi một ma lực huyền bí nào đó. Khi ma lực ấy dựa vào họ, liền lạm dụng các danh hiệu thánh, những bậc vĩ nhân của thuở xưa dùng mạo xưng để lừa bịp người đời. Những kẻ yếu vía dễ tin nghe xưng danh hiệu Phật, Bồ-tát hay những vị tiên thánh liền khiếp đảm kính tin. Họ không dám phê phán đó là tà hay chánh…”.

Hòa thượng nhấn mạnh: “Không khi nào các bậc Thánh phải gá vào thân kẻ phàm tục khác làm việc giáo hóa. Vì các ngài đầy đủ thần thông biến hóa vô ngại. Như thế, những ma lực tựa vào đồng cốt đều là sức của quỷ thần. Vì sợ người đời không tin, nên chúng mạo xưng những danh hiệu cho to để gây uy tín. Biết rõ tính cách ma mị của chúng, người Phật tử phải tránh xa, tuyệt đối không được phụ họa với chúng, huống là quy kính. Có thế mới tỏ ra là người Phật tử chân chánh”(**).

Trong thực tế lâu nay, với nhu cầu về tín ngưỡng dân gian, nhiều người đến chùa xin các thầy ngày giờ chôn cất, khởi sự công trình, khai trương, cúng nhà mới…

Trong tạng kinh bộ Anguttaranikaya, Phật dạy: “Này các Tỳ-khưu, chúng sanh hãy làm cho thân được trong sạch, khẩu được trong sạch, ý được trong sạch. Thân khẩu ý trong sạch trong buổi sáng là ta có giờ an lành trong buổi sáng, thân khẩu ý trong sạch trong buổi chiều thì ta có giờ an lành trong buổi chiều”.

Ngài Maha Thongkham Medhivongs diễn giải thêm: “Người làm việc lành giờ nào thì ngày giờ ấy là giờ lành. Người mong cầu an vui mà biết bố thí, cúng dường đến các bậc xứng đáng cúng dường, các bậc phạm hạnh - sẽ được an vui. Sự cữ kiêng, cúng kiếng, cầu xin đều là những việc làm không bổ ích chi cả. Người có chánh kiến không nên làm những việc vô ích, vô bổ như thế” (***). Chúng ta thấy những việc như xin xăm, bói quẻ cũng như những hình thức cầu may. Rủi may là điều xảy ra không có duyên cớ. Phó thác hành động của mình, cho đến phó thác cả quyết định của mình vào một lời giải đáp âm u được gán cho “tâm linh” - chỉ tin mà không cần cơ sở lý luận. Cái gì không thành tựu thì đều đổ lên “số”, “vận”, “khắc tuổi”…

Nếu hiểu nguyên lý nhân quả, thân tổng báo của chúng ta có lẫn lành với dữ, khi nhân lành đến thì hưởng quả lành, nhân dữ chịu quả dữ. Người mê tín gửi gắm tâm hồn vào sự huyền bí, vào thế giới vô hình, nhiều người mất hết suy lý thực tế, phó thác cuộc đời của mình cho những “vì sao”, nghi lễ cầu đảo bị dẫn dắt bởi những thầy cúng.

Một vấn nạn khác đang diễn ra, đó là hiện nay có nhiều người, kể cả có học hành, địa vị xã hội thiếu nhận thức căn bản về Phật giáo, nhầm lẫn Mật tông với những hình thức như thần quyền, sử dụng bùa chú và tin mãnh liệt rằng đó là con đường ngắn nhất đưa đến giải thoát, giác ngộ, siêu việt mọi phương pháp khác, bất chấp trì giới, thiền định, phát triển trí tuệ, gạn lọc tham sân si. Đây là một ngộ nhận rất lớn mà Phật giáo chưa thấy một sự hướng dẫn nào rõ ràng từ Giáo hội, các bậc cao tăng qua các phương tiện truyền thông mạnh dạn lý giải và hướng dẫn họ một cách chính thống.

Xây dựng chánh tín từ đâu?
“Tư tưởng căn bản của Phật giáo là lý Nhân quả, Duyên khởi, Tứ diệu đế, nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim cương thừa - Mật tông, vốn đã hiện diện hàng ngàn năm nay trong đời sống người dân Việt. Còn những hiện tượng hay nghi lễ gì đó mà không dựa trên những đạo lý này thì mãi mãi chỉ là hình thức thức phù phiếm và không phải là “chánh đạo”. Mong mọi người cẩn trọng!
Ðức Phật đã từng dạy: “Ðừng vội tin tưởng điều gì vì dựa vào một tập quán lưu truyền. Ðừng vội tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vịn vào uy tín và thẩm quyền của một người nào đó. Ðừng tin tưởng điều gì vì có được nhiều người nói đi nhắc lại. Hãy tin tưởng vào những gì mà người ta đã từng trải, kinh nghiệm, thấy là đúng, thấy có lợi cho mình và người khác”.

Ðây là một thái độ dân chủ, khoa học mà những ai theo Phật cần tiếp nhận, thấy rõ quyền tự do tư tưởng của chính mình.

Có người còn cho rằng Phật giáo không giống như một tôn giáo (religion), không phải là học thuyết (doctrine), cũng không hẳn là triết lý (philosophy) hay luân lý học (ethics) như quan niệm Tây phương, mà là lời giảng giải của một bậc giác ngộ về con đường xây dựng hạnh phúc tương đối và hạnh phúc thực sự trong cuộc đời, tự tại trong sinh tử. Nói cách khác, con đường đó đưa đến diệt ham muốn, buông bỏ chứ không trói buộc, giảm lợi chứ không tăng, đưa đến con người thiểu dục, xã hội tri túc, chứ không tạo ra những kẻ tham lam vơ vét, khiến bất công tăng lên.

Đức Phật theo quan niệm một số triết gia là thầy thuốc - vô thượng y vương, đã tìm ra nguyên nhân, đã đưa ra thuốc chữa và liệu pháp chữa trị, được tóm tắt trong giáo lý Tứ Thánh đế. Ngài chỉ ra nguyên nhân của khổ, bản chất của đời sống, cách diệt khổ. Tuy nhiên nếu có nghe, đọc, tranh luận, mà không thực hành thì những lời dạy đó cũng vô nghĩa và không hiệu quả thiết thực. Nhất là khi chúng ta đang sống trong một xã hội trống vắng niềm tin mà ngày xưa chúng ta từng có, rất mạnh, rực rỡ như thời Lý-Trần hay cũng mạnh mẽ trong những thời kỳ sau đó.

Chiến tranh qua đi, lẽ ra chúng ta phải xây dựng lại niềm tin hay đức tin ấy nhưng buồn thay, nhiều hiện tượng khiến cho chúng ta thấy rằng mọi chuyện lại đang đi về phía ngược lại. Khi người ta chạy theo những nghi thức mê tín mà không còn tin vào lý nhân quả, vào duyên khởi, vào sự giải thoát và hạnh phúc chân chính ngay trong kiếp sống này thì người ta sẽ làm bất cứ điều gì mà không hề ăn năn sám hối, thành thực sửa sai, tránh làm điều sai quấy.

Chỉ cầu nguyện - có hiệu lực chăng?

Nhiều người quan niệm cầu nguyện tất yếu phải là chánh tín nhưng thử hỏi nếu chúng ta chỉ cầu nguyện thôi thì mọi ước mơ ích kỷ đều được toại nguyện, thì xin thưa, đó là mê tín. Vì nếu chỉ cầu nguyện mà được, thì không cần nói đến nhân quả nghiệp báo. Nhưng nếu mọi sự kiện xảy ra đều do nhân quả thì cầu nguyện khó mà toại nguyện, vậy thì cầu nguyện làm gì?

Khi cầu nguyện, dù mang nghiệp nặng hay nhẹ, chúng ta cũng đã thực hiện hành trì một trong những pháp môn căn bản vì chúng ta phải nghĩ tới Đức Phật, các vị Bồ-tát khi niệm danh hiệu của các Ngài. Hành giả sẽ tin rằng vị Phật hay Bồ-tát mình vừa cầu nguyện có năng lực làm mờ, làm biến đi những ác niệm trong tâm hồn mình. Nhất là niềm tin đó phải chí thành. Hành giả phải nhận thức sâu sắc tội lỗi của mình và hồi hướng công đức về thế giới của phẩm chất an lành.

Khi chánh tín tâm thành tựu, bạn sẽ thanh tịnh hóa cuộc sống thực tế của mình từ trong ý niệm. Hiểu và tin lý nhân quả, chúng ta khéo chuyển cái xấu trở thành tốt, cái dở trở thành hay, nắm chắc quyền tự chủ, tạo dựng tương lai tươi đẹp cho chính mình. Lý nhân quả vừa là khoa học vừa là sức mạnh chuyển biến con người. “Có trời mà cũng có ta”.

Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng ta có thể chuyển nghiệp ngay trong kiếp sống này. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá nhân là đến được trí tuệ tối hậu. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là bắt đầu thay đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp thân, khẩu và ý của chính mỗi cá nhân.

ngcan (3).jpg

Niềm tin vào duyên sinh

Chúng ta hiểu vạn vật trong vũ trụ đều duyên sinh. Không một vật nào tự thân có thể tạo ra chính mình mà phải là tập hợp gồm nhiều thành phần, đơn vị. Lý duyên khởi vì thế rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hiểu được lý duyên khởi, chúng ta thấy rõ muôn vật trên thế gian đều tương sinh, tương tức với nhau như nước và mây, như cây và hạt. Chúng ta không thể tách một cá thể đứng ngoài xã hội, ngoài nhân loại. Hạnh phúc chung của một gia đình, một cộng đồng phải là hạnh phúc tổng hòa của từng cá nhân gộp lại. Những quốc gia mà giàu nghèo cách biệt quá xa không thể là một quốc gia hạnh phúc khi ‘kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra’. Người ta không tính GDP mà GNH (Gross National Happiness - Tổng hạnh phúc quốc gia).

Tin vào duyên khởi là tin bằng trí tuệ, bằng nhãn quan khoa học. Đó là chánh tín. Người có chánh tín là người có trí tuệ, người có trách nhiệm, vì hiểu lý nhân quả và duyên khởi. Chúng ta xét một hiện tượng, một sự việc tốt xấu, phát xuất từ nhân nào, sẽ chịu quả gì và sửa đổi lại điều kiện hay duyên tạo ra nó vì mình là chủ nhân của mọi thành bại, đau khổ an vui. Nhờ đức tín, con người mới cố gắng chuyển đổi, vươn lên trong mọi lĩnh vực. Một dân tộc có đức tự tín, không bao giờ cam chịu khuất phục, chậm tiến. Có tự tín là có một sức mạnh phi thường. Có tự tín, sự tu hành mới không thối chuyển.

Hòa thượng Thanh Từ có viết: “Bản chất của đạo Phật là trí tuệ, là giác ngộ, làm sao dung nạp được mê tín. Nếu người ta thấy trong chùa chiền hiện nay còn những hiện tượng mê tín, vội phê bình đạo Phật mê tín. Đây là những oan tình của đạo Phật. Tất cả những kinh Phật không có nói những việc mê tín ấy, chẳng qua một số người vì tùy tục, vì thiếu hiểu Phật pháp vẽ bày ấy thôi.

Người học Phật chân chánh phải gan dạ loại bỏ những tập tục sai lầm ấy, can đảm dứt khoát đập tan mọi tệ đoan làm suy giảm giá trị Phật pháp. Có khi dẹp bỏ những điều đó, có thể thiệt thòi chút ít quyền lợi của mình. Song chúng ta cương quyết vì Chánh pháp, chớ không vì lợi dưỡng, vì đưa người ra khỏi đường mê, không vì sợ mất mát bản đạo. Được thế, chúng ta mới xứng đáng là người lãnh đạo tín đồ mới”(**).

Đạo Phật đem lại một lối sống mà mình có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích cho mình. Người nào quy y Phật, Pháp và Tăng với niềm tin như vậy thì họ sẽ trở thành người Phật tử mà không cần một lễ nghi nào, không một loại hình thức nào, không đăng ký, không thể lệ nào để phải làm theo. Vì vậy mà, F.L Woodword, một trong những dịch giả nổi tiếng về những lời dạy của Ðức Phật, đã từng nói Phật giáo là “tôn giáo tự mình làm lấy” (a do-it-yourself religion).

Ðiều tối quan trọng ngày nay là nhận biết giá trị bức thông điệp của Ðức Phật và sống theo những lời dạy ấy. Đó là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không sử dụng các chất kích thích làm mê mờ tâm trí. Đức hạnh cao hơn là bố thí, giữ giới - những nguyên tắc đạo đức căn bản và thực hành thiền định.

Tư tưởng căn bản của Phật giáo là lý Nhân quả, Duyên khởi, Tứ diệu đế, nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim cương thừa - Mật tông, vốn đã hiện diện hàng ngàn năm nay trong đời sống người dân Việt. Còn những hiện tượng hay nghi lễ gì đó mà không dựa trên những đạo lý này thì mãi mãi chỉ là hình thức thức phù phiếm và không phải là “chánh đạo”. Mong mọi người cẩn trọng!

Nguyên Cẩn

Lợi ích của việc đọc sách

Lợi ích của việc đọc sách

Đăng lúc: 20:56 - 10/07/2015

Người đọc hiện nay có xu hướng chỉ thu hẹp phạm vi đọc gắn liền với chuyên môn của mình, điều đó giúp cho những hiểu biết chuyên môn sâu sắc hơn. Thế nhưng, sẽ rất tốt nếu việc đọc sách được mở rộng hơn đến các phạm vi liên đới, hoặc những phạm vi tưởng chừng không có gì liên quan đến chuyên môn nhưng thực ra nó có nhiều tác động đến công việc và cuộc sống sau này. Tôi có quen một số bạn mặc dù học Toán nhưng rất thích đọc những tác phẩm văn chương, hoặc những bạn sinh viên văn thích đọc sách lịch sử và âm nhạc.
Có người còn phân chia rạch ròi ra 2 loại sách để đọc: một loại chỉ đọc để biết, nhớ đại khái và không cần ghi chép; một loại khác có liên quan mật thiết đến chuyên môn hay vì một nhu cầu nào đó, người đọc cần viết lại những ý chính, ghi lại tóm tắt nội dung, dẫn chứng hoặc vẽ thành những sơ đồ cho dễ nắm. Như vậy, vô hình chung, loại sách đầu người ta có thể đọc ở mọi lúc mọi nơi: trên xe buýt, phòng chờ, trên tàu hỏa, tàu điện ngầm, thậm chí nhà vệ sinh…; loại sách thứ hai phải được đọc bên bàn sách, giấy bút, trong không gian yên tĩnh ít người tụ tập.
Trong thực tế, tác dụng của việc đọc sách không chỉ dừng lại ở chỗ tiếp thu kiến thức mà đọc sách còn là một biện pháp để hoàn thiện mọi mặt của con người. Với ý nghĩa này, các loại sách văn hóa học, văn chương, lịch sử, triết học không chỉ là những loại sách thuần chuyên môn mà đã trở thành sách chung cho mọi người, cho xã hội. Do đó, sẽ rất thiếu sót nếu bạn nói rằng ‘Tôi là SV Thể dục thì cần gì đọc sách Văn học’, hay ‘Tôi là sinh viên Kinh tế cần gì đọc sách lịch sử’ và cho rằng những loại sách đó không thiết thực đối với công việc của bạn… Những cái lợi của chuyện đọc sách đã quá rõ ràng, thiết nghĩ không cần nhắc lại. Bên cạnh việc đọc sách để tiếp thu tri thức, việc đọc sách đôi khi còn rèn luyện cho bạn những kĩ năng, tình cảm và thói quen hữu ích mà đôi khi bạn không nhận ra.


1.Đọc sách giúp tăng cường khả năng giao tiếp:

Bạn có bao giờ thấy ngại ngùng khi đứng trước đám đông? Bạn có bao giờ run lẩy bẩy không biết diễn đạt ý mình như thế nào trước mọi người? Bạn có bao giờ nói vòng vo một vấn đề và cố gắng giải thích mà người khác vẫn không sao hiểu nổi?
Đọc sách thực chất là một quá trình giao tiếp, khi đó tác giả quyển sách và bạn là những nhân vật tham gia giao tiếp. Chỉ có điều quá trình giao tiếp này diễn ra 1 chiều, những vấn đề tác giả nói đến đi sâu vào trí não và hình thành tư duy ở bạn thế nhưng những suy nghĩ của bạn tác giả không hề biết được nếu bạn không viết thư hay gọi điện thoại phản hồi. Quá trình giao tiếp này giúp các bạn hiểu vấn đề, biết cách trình bày vấn đề theo chiều hướng triển khai hay khái quát hợp lý, cách lý luận hay dùng dẫn chứng chứng minh cho một luận điểm nào đó. Đọc sách một thời gian lâu, bạn sẽ biết trình bày vấn đề một cách khúc chiết, mạch lạc, suông sẻ, có đầu có đũa gọn gàng dễ hiểu. Không chỉ vậy, nhờ loại hình giao tiếp đặc biệt này, bạn sẽ tinh tế hơn khi cảm nhận, phán đoán những cảm xúc, thái độ của người khác. Hình thành những phản xạ và sự nhạy cảm, linh hoạt cần thiết để xử lý vấn đề. Chẳng hạn, bạn biết nói bằng ngữ điệu
thế nào, khi nào nói khi nào ngưng, khi nào đặt câu hỏi khơi gợi, khi nào pha trò tạo cảm hứng mới ở người tham gia giao tiếp.
2. Đọc sách giúp rèn luyện năng lực tưởng tượng, liên tưởng, sáng tạo:

Sách được viết bằng hệ thống ngôn ngữ, cụ thể là các chữ viết được nối kết liên tục với nhau tạo thành câu, dòng, đoạn, bài… Từ ngữ được dùng luôn có nghĩa, và nét nghĩa đó lại được quy chiếu vào các sự vật tương ứng trong cuộc sống. Thí dụ nói đến ‘tĩnh vật’ chúng ta nghĩ đến một loạt các đồ dùng hay cây trái được đặt trong trạng thái yên tĩnh, nói đến ‘quỹ đạo’ chúng ta nghĩ đến tập hợp những điểm tạo nên một con đường khép kín dành cho sự chuyển động của một thực thể nào đó, hoặc nói đến ‘hoa mai’ chúng ta nghĩ đến loại hoa nhiều cánh, nở vào mùa xuân, đẹp và mọi người thích thưởng thức… Như vậy, quá trình đọc sách thực chất cũng là một quá trình quan sát các sự vật và hiện tượng trong cuộc sống thực mà chữ viết được quy ước tượng trưng thông qua quá trình tưởng tượng, liên tưởng.
Rồi cũng có khi sự liên tưởng nảy sinh khi bạn so sánh những vấn đề đã được đọc trong sách này và sách khác, trong quan điểm của người này người khác, cái giống và khác nhau, tại sao lại có giống và khác như vậy… Trí tưởng tượng phong phú, suy nghĩ cặn kẽ, kết hợp với những động lực khám phá tìm tòi sẽ giúp bạn hình thành năng lực sáng tạo, nghĩ ra cái mới, tìm ra cái mới và từ đó làm ra cái mới. Không có đọc sách, người ta khó có thể thực hiện được điều đó.
3. Đọc sách giúp rèn luyện năng lực ngôn ngữ:

Bạn thường viết sai chính tả và rất ngại viết vì sợ mọi người chọc. Bạn hay viết những câu không đúng ngữ pháp tiếng Việt, hoặc những câu cụtttt, câu quèèèè không đủ các thành phần chính. Cũng có thể bạn sử dụng những từ ngữ không hợp với đối tượng bạn muốn đề cập. Hoặc bạn có vốn từ vựng quá ít, không đủ để huy động ra trình bày sáng tỏ một vấn đề. Thậm chí bạn không hiểu rất nhiều từ ngữ trong tiếng Việt có nghĩa là gì vì bạn chưa hề nghe qua…
Việc đọc sách là biện pháp hữu hiệu nhất giúp bạn khắc phục những sai sót đó trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bạn đọc một cuốn sách văn chương thấy tác giả dùng những từ ngữ rất hay để miêu tả bầu trời trong những trạng thái khác nhau. Bạn sẽ thấy những câu văn bắt đầu bằng chủ ngữ hay vị ngữ, bắt đầu bằng động từ hoặc tính từ mà vẫn đúng cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt. Bạn biết cách dùng những từ ngữ chuyển tiếp ‘như vậy’, ‘đương nhiên’ một cách khéo léo uyển chuyển để diễn đạt vấn đề. Bạn cũng sẽ bắt gặp những hình thức viết đúng của những từ ngữ mà bạn phân vân lưỡng lự không biết viết thế nào…Và chính quá trình đọc sách lâu dài, sự tập trung và tinh ý sẽ giúp bạn hình thành những kĩ năng ngôn ngữ đó.

4. Đọc sách giúp sống tốt trong xã hội và làm người:

Đọc sách và sống tốt là hai việc xem ra chẳng ăn nhập gì với nhau nhưng thực chất có sự tác động qua lại rất lớn. Ai cũng biết, người biết suy nghĩ phải trái, biết lý lẽ là những người không sống tùy tiện. Mọi lời nói, suy nghĩ và việc làm của họ luôn hướng tới cái hay, cái đẹp; hướng tới lợi ích bản thân trong mối quan hệ với lợi ích chung của những người xung quanh. Cách sống đó là món trang sức quý giá nhất mà mỗi người tự trang bị cho mình thông qua học vấn, cụ thể là từ việc đọc sách.Đọc sách thể dục thể thao, chúng ta biết rèn luyện sức khỏe dẻo dai bền bĩ hơn. Đọc sách triết học, chúng ta nhận ra những quy luật và những diễn biến ý thức hệ trong cuộc sống, từ đó hình thành cách nhìn và cách nghĩ của bản thân. Đọc sách vật lý chúng ta hiểu biết về quy luật vận động của thế giới tự nhiên hơn, từ đó ứng dụng vào cuộc sống. Đọc sách văn học để hình thành cảm xúc, thái độ hợp lý trước mọi cảnh ngộ, cuộc đời; xây dựng đời sống hài hòa, nhân văn, có chiều sâu… Tóm lại, sách đem đến cho con người một cuộc sống tốt đẹp, hòa hợp giữa bản thân với cộng đồng, môi trường xung quanh, xã hội và cả nhân loại.

Dĩ nhiên, những điều được trình bày phía trên không phải là tất cả những lợi ích mang lại của việc đọc sách. Chúng ta còn có thể thấy, người đọc nhiều sách có kiến thức sâu rộng, hội tụ nhiều năng lực, lời nói có cơ sở và có uy tín nên được mọi người lắng nghe, xem trọng… Nhưng ai cũng biết, đọc sách trước tiên là để giúp mình càng tốt hơn.

Tâm Thư

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 4
  • Hôm nay 4,369
  • Tháng hiện tại 61,965
  • Tổng lượt truy cập 23,468,214