Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Cứu người mà không sát vong

Cứu người mà không sát vong

Đăng lúc: 22:06 - 26/09/2017

Khóa tu chỉ có bảy người, trong đó có hai tu sĩ (đã xuất gia từ thuở nhỏ), còn lại là nam cư sĩ. Cả đoàn lặng lẽ lên núi, trú nhờ nơi gian nhà tổ của một ngôi chùa. Chùa xa và nghèo, nên chùa vắng; thuận tiện cho khóa tập; duy chỉ không có người “phục vụ” nên đoàn phải mang theo lương thực-thực phẩm đủ dùng cho hơn một tháng. Mỗi ngày, công việc chính của đoàn là bốn thời thiền tọa, mỗi thời khoảng hai giờ. Thời gian còn lại dành cho việc chẻ củi, lặt rau, bếp núc… Nghĩa là không có thời giờ trống…

aminhhoa.jpg
Ảnh minh họa
Khoảng giữa khóa thiền, một hôm có đôi vợ chồng đến gặp thầy, dắt theo người con gái để nhờ thầy trị bệnh. (Không biết do đâu mà dẫn đến việc nhờ trị bệnh này, vì khóa thiền diễn ra rất âm thầm!). Người con gái khoảng hơn hai mươi tuổi, sắc mặt hồng hào, không có vẻ gì là người có bệnh. Bệnh, theo lời đôi vợ chồng nói, là không hiểu sao, ngày nào người con gái cũng múa hát cười cợt lung tung…

Nhìn chăm chú người con gái giây lát, thầy hỏi: Có phải cháu thích ăn kẹo bánh và cứ chiều chiều, là cháu mới lên cơn, phải không? Đôi vợ chồng thưa: Quả thế thật. Cháu còn thích mặc áo quần đẹp nữa. Gia đình đã đi tìm thầy chữa hơn ba năm rồi mà thầy nào cũng… lắc đầu. Nhờ thầy làm ơn làm phước…

Thầy bảo hai vợ chồng đưa cháu về, vài hôm sau sẽ gặp lại.

Đêm ấy, thầy khó ngủ, cứ đi đi lại lại trước sân chùa…

Trong buổi uống trà sáng hôm sau, mấy huynh đệ được thầy cho biết, người con gái ấy bị một vong trẻ con đeo bám lâu ngày nên mới có những biểu hiện như thích ăn bánh kẹo, thích mặc áo quần mới… Thầy đang phân vân, chưa chọn được cách giải quyết chu toàn.

***

Mấy ngày sau, cả nhà người con gái ấy trở lên núi. Thầy cho bệnh nhân ngồi chính giữa bộ phản gỗ lớn đặt bên phải gian nhà Tổ, hai bên và phía sau bệnh nhân, thầy bảo ba huynh đệ cùng đặt tay lên lưng và hai vai người bệnh; thầy ngồi đối diện với người bệnh. Thầy bắt ấn, lâm râm trì chú rồi nói lớn: Đi, đi ra khỏi đây ngay, đi mà tìm nơi tu tập, nếu không ta sát! Vừa dứt lời, thầy đánh mạnh vào bệnh nhân…

***

Khi khóa thiền sắp kết thúc, gia đình bệnh nhân lại lên núi để báo tin, rằng sinh hoạt của con gái họ đang dần dần trở lại bình thường. Các huynh đệ đều chúc mừng, mong họ thêm vững lòng tin vào Phật pháp. Thầy cũng chân thành bày tỏ, rằng cái vong đeo bám cô gái là một vong hiền, nên thầy mới có thể “gọi” nó rời bỏ khỏi thân thể cô ấy. Và điều khiến thầy phải đắn đo khi trị bệnh, là làm sao vừa giúp được bệnh nhân mà vẫn không làm thương tổn đến cái vong ấy. Bởi vì nó cũng không có ác ý làm hại người bệnh, nó cũng chỉ là nạn nhân của chính những nghiệp quả đã gieo, đang trôi lăn trong dòng luân hồi u u minh minh bất tận. Thầy lưu ý cho tất cả huynh đệ hiểu-nhận sâu sắc rằng, mỗi một ấn quyết và thần chú đều có công năng riêng nhưng điều chủ yếu là phải dùng tâm từ để điều khiển khi sử dụng ấn chú vào những mục đích tốt đẹp nhằm cứu giúp người khác. Nếu đi lệch khỏi động cơ và mục đích ấy, mọi việc làm đều trở nên vô nghĩa, vô ích và có hại cho bản thân, vì nó chỉ làm tăng thêm cái “ngã” mà thôi. Và điều quan trọng nhất đối với mỗi người trong việc nhận thức về những thế giới tồn tại bên cạnh đời sống hàng ngày của con người, là sự tôn trọng đối với họ…

Buổi sớm mai, tiết trời se se. Còn lại mãi trong sâu xa của tất cả huynh đệ ngày ấy, là hình ảnh thầy vừa nâng tách trà nóng, vừa từ tốn: Đức Khổng phu tử đã từng dặn rằng: Kính quỷ thần nhi viễn chi! (Đối với quỷ thần thì kính trọng nhưng nên tránh xa). Ngài còn nói: Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã (Luận ngữ), có nghĩa là những kẻ vừa mới nghe giảng Đạo rồi đi thuật lại liền sau đó, thì xem như bỏ mất cái đức nơi mình, cũng có nghĩa là, người học Đạo cần phải có sự trải nghiệm chứ không chỉ nghe suông nói suông...
Nguyễn Đông Nhật

Thành trì vững chắc của người tu

Thành trì vững chắc của người tu

Đăng lúc: 18:47 - 09/03/2017

Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: “Như vương thành ở biên giới có đầy đủ bảy điều kiện và bốn thứ lương thực sung túc dễ tìm không khó; do đó vương thành không bị ngoại địch đánh phá, ngoại trừ tự phá hoại từ bên trong. Cũng vậy, nếu Thánh đệ tử cũng được bảy thiện pháp và bốn tăng thượng tâm, dễ được không khó, vì thế Thánh đệ tử không bị ma vương lung lạc cũng không theo pháp ác bất thiện, không bị ô nhiễm bởi phiền não, không còn thọ sanh trở lại”1.

Bảy thiện pháp ấy là: tín kiên cố, tàm, quý, tinh tấn, học rộng nghe nhiều, chánh niệm, trí tuệ. Bốn tăng thượng tâm ở đây là bốn thiền, từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Bài viết này chỉ trình bày bảy lớp thành trì vững chắc bảo vệ người tu không bị ma vương lung lạc.

nhan qua.jpg
Phật dạy, bảy thiện pháp gồm tín kiên cố, tàm, quý, tinh tấn,
học rộng nghe nhiều, chánh niệm, trí tuệ như thành trì bảo vệ người tu
1. Thành trì thứ nhất là tín kiên cố, niềm tin vững chắc. Tín, tiếng Phạn là śraddhā, chỉ cho niềm tin trong sáng, thanh tịnh; đối với Phật, Bồ-tát, giáo pháp, Tăng-già không hề khởi niệm nghi ngờ. Tín là một trong mười pháp thiện địa, hay là một trong mười một tâm sở thiện. Tín kiên cố là niềm tin vững chắc, có gốc rễ, không bao giờ thay đổi, thối thất với nội hàm mười ý nghĩa: trong sáng, quyết định, hoan hỷ, không mệt mỏi, tùy hỷ, tôn trọng, tùy thuận, tán thán, bất hoại và ái lạc.

Trong quá trình tu học Phật pháp, tín tâm được xem là yếu tố tối quan trọng cho bước chân đầu tiên vào đạo. Bởi vậy, kinh Hoa nghiêm nói: “Niềm tin là mẹ đẻ của bao công đức, nó nuôi lớn mọi thiện pháp, xé toang lưới nghi, vượt thoát sông ái, khai mở cửa Niết-bàn vô thượng”2.

Luận Đại trí độ cũng nói, Phật pháp như biển lớn, có niềm tin ắt sẽ vào được. Lại nói, một người mà trong tâm có niềm tin thanh tịnh thì chắc chắn người đó sẽ vào được Phật pháp, nếu không có niềm tin thì không thể vào được3. Do đó, tín đứng đầu trong năm căn (tín, tấn, niệm, định và tuệ). Không có niềm tin vững chắc thì không có động lực siêng năng tu hành, không thể bảo vệ được mình trước những cám dỗ của cuộc đời, lại càng không thể thành tựu được đạo nghiệp giải thoát.

Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới xây cất vọng gác, đắp đất cho chắc không thể phá vỡ, để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử có tín kiên cố, tin sâu nơi Như Lai, tín căn đã lập, trọn không theo Sa-môn, Bà-la-môn, ngoại đạo, cũng như Thiên ma, Phạm thiên và các hạng thế gian khác. Đó là Thánh đệ tử có vọng gác tín tâm để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

2. Thành trì thứ hai là tàm. Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới đào hào vét ao thật sâu rộng, sửa sang thật vững chắc, để có thể nương tựa, làm cho bên trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng thế, Thánh đệ tử luôn sống biết tàm, điều đáng xấu hổ biết xấu hổ, xấu hổ pháp ác, bất thiện, phiền não cấu uế, là thứ khiến thọ các ác báo, tạo gốc rễ sanh tử. Đó là Thánh đệ tử có hồ ao tàm sỉ, trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

3. Thành trì thứ ba là quý. Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới dọn dẹp những con đường nối liền chung quanh cho bằng thẳng rộng rãi để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử luôn sống biết quý, điều đáng thẹn biết thẹn, thẹn pháp ác, bất thiện, phiền não cấu uế là thứ khiến thọ các ác báo, tạo gốc rễ sanh tử. Đó là Thánh đệ tử có con đường bằng thẳng hổ thẹn để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

Như vậy, tàm là tự thấy xấu hổ với lỗi lầm của mình; quý là thấy hổ thẹn với người khác. Tàm quý nói một cách đơn giản là cảm thấy xấu hổ, hổ thẹn với những lỗi lầm của mình đã gây ra. Đây là hai trạng thái tâm lý (tâm sở) thiện lành, rất cần thiết đối với tất cả mọi người, và vô cùng quan trọng đối với người tu. Bởi khi một người không tự biết xấu hổ với những hành động lỗi lầm mà mình đã gây ra thì người đó không có cơ hội để hướng thượng, để phát triển tâm linh, không việc xấu nào lại không làm. Đức Thế Tôn nhận định đây là “Hai pháp tinh diệu thủ hộ thế gian. Nếu không có hai pháp này, thì thế gian sẽ không phân biệt có cha, có mẹ, có anh, có em, vợ con, tri thức, tôn trưởng, lớn nhỏ; sẽ cùng với lục súc heo, gà, chó, ngựa, dê… cùng một loại”4.

Tỳ-kheo nào không tàm, không quý thì làm tổn hại ái và kỉnh. Không có ái và kỉnh thì làm tổn hại tín. Không có tín thì làm tổn hại chánh tư duy. Không có chánh tư duy thì tổn hại chánh niệm, chánh trí. Không chánh niệm, chánh trí thì bị tổn hại việc thủ hộ các căn, thủ hộ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn5.

Tàm và quý có sức mạnh rất lớn, có khả năng chặn đứng nghiệp lực đưa tới quả báo thọ khổ đời sau. Kinh ghi: “Tàm lực là hổ thẹn, xấu hổ đối với pháp ác, bất thiện, các phiền não đã khởi, sẽ phải chịu các quả báo khổ bức bách của sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở trong đời vị lai. Quý lực là lấy làm thẹn các điều đáng thẹn, tự thẹn về các pháp ác, bất thiện, các số phiền não đã khởi, sẽ phải chịu các quả báo khổ bức bách của sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở trong đời vị lai”6.

4. Thành trì thứ tư là tinh tấn, tức siêng năng. Siêng năng tinh tấn trong nhà Phật có bốn phương diện, gọi là Tứ chánh cần hay Tứ ý đoạn:

- Một là siêng năng tinh tấn để đoạn trừ những điều xấu ác đã sanh, không cho nó phát triển.

- Hai là siêng năng tinh tấn đoạn trừ điều ác chưa sanh, tức những ý niệm ác đang còn ẩn nấp bên trong tiềm thức, dưới dạng chủng tử, khiến cho nó không được phát triển.

- Ba là nỗ lực tinh tấn để phát huy, khơi dậy những điều thiện, những đức tính tốt, những hạt giống tốt chưa được biểu hiện, làm cho nó biểu hiện.

- Bốn là nỗ lực tinh tấn làm cho những điều thiện, những đức tính tốt, những hạt giống tốt đã phát triển càng thêm phát triển, mỗi ngày một thêm lớn mạnh. Điều thiện ở đây được hiểu là các pháp đưa đến giải thoát khổ đau, như mười điều thiện, như vô tham, vô sân, vô si…

Trong kinh Tương ưng V, Đức Phật dạy: “Như sông Hằng chảy xuôi về phương Đông, Tứ chánh cần được tu tập sung mãn xuôi về Niết-bàn”. Ở một đoạn khác, Đức Phật dạy: “Để thắng tri, đoạn diệt, đoạn tận năm thượng phần kiết sử, Tứ chánh cần cần phải được tu tập”. Ngài kết luận: “Như làm việc cần phải có sức lực, như đi phải có hai chân, hành giả trên đường về giải thoát luôn luôn tu tập Tứ chánh cần để hoàn bị thiện pháp”.

Rõ ràng, Đức Phật đã khẳng định tinh tấn là yếu tố rất quan trọng trên bước đường tu tập và hành đạo. Người xuất gia như những chiến sĩ ra trận, cầm gươm báu trí tuệ xông pha chiến trường khổ đau sanh tử để giết giặc phiền não, si mê, tham lam, sân hận. Nếu không có đủ nghị lực, không nỗ lực tinh tấn, sẽ bị giặc phiền não đánh gục. Sự siêng năng tu tập của những người con Phật là để phá phiền não ác, nhiếp phục bốn loài ma, để vượt ra ba cõi. Đó gọi là Chánh tinh tấn. Còn mọi nỗ lực khác, vì một yếu tố gì đó, chẳng hạn như siêng năng tụng kinh để cầu phước, để người ta cúng dường, thì đó không phải là sự tinh tấn chân chính. Cho nên, tinh tấn là một năng lực tổng hợp của sự hiểu biết, ước muốn giải thoát và chánh niệm tỉnh giác. Nếu rời ba tính chất này thì sự mọi sự siêng năng không phải là Chánh tinh tấn.

Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới tập trung bốn binh chủng: tượng quân, mã quân, xa quân, bộ quân, để bên trong được an ổn và chế ngự địch quân ở bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử thường thực hành hạnh tinh tấn, đoạn trừ ác bất thiện, tu các thiện pháp, luôn gắng sức bền chí, chuyên nhất kiên cố, làm các điều thiện, không bỏ phương tiện, đoạn trừ ác bất thiện, tu các thiện pháp, hằng tự sách tấn, chuyên nhất, kiên cố, làm các gốc rễ thiện, không bỏ phương tiện. Đó là Thánh đệ tử có quân lực tinh tấn để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

“Các thế lực xấu ác không ngừng bức não người tu. Chúng có thể mắng chửi, đập phá, bôi nhọ… Nếu mắng chửi, đánh đập, bôi nhọ mà không chi phối được người tu thì chúng sẽ phụng kính, cúng dường, lễ sự để lung lạc. Đó là bản chất xấu ác của ma binh, rất hung bạo và xảo quyệt, luôn tìm mọi cách để mưu hại, hoặc mua chuộc bằng tiền tài, danh lợi, địa vị, hoặc khủng bố bằng bạo lực… nhằm mục đích lung lạc chí hướng tu tập của những người tu. Nếu không đề cao cảnh giác, không có bản lĩnh phi thường, không xây dựng thành trì vững chắc, người tu sẽ dễ dàng bị rơi vào cạm bẫy của các thế lực xấu ác”.
5. Thành trì thứ năm là quảng học đa văn, tức học rộng nghe nhiều. Học rộng, nghe nhiều là học và nghe những gì để có thể thấy được đặc tính vô thường, vô ngã của các pháp. Học rộng nghe nhiều bằng cách đọc tụng, nghiên cứu, nghe giảng về kinh, luật, luận.

Đức Phật giảng dạy suốt 45 năm, kinh điển để lại như biển lớn có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quý báu lạ mắt được chứa đầy trong đó. Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, ma ni, trân châu, bích ngọc, san hô, hổ phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu…

Chánh pháp luật của Như Lai cũng giống như vậy, có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quý báu lạ mắt được chứa đầy trong đó. Những pháp trân bảo đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Thánh đạo tám chi7…

Nếu không học rộng nghe nhiều, tức là không đọc tụng kinh điển, làm sao có thể thừa tự được kho tàng pháp bảo ấy? Cho nên, người Phật tử không những phải học rộng, nghe nhiều mà còn phải ghi nhớ không quên những pháp đã học, đã nghe.

Một người đa văn, là đệ tử của bậc Thánh, thì không để tâm dẫn đi, không để tâm nhiễm trước, không để tâm tự tại, người ấy không vâng theo sự tự tại của tâm, mà tâm tùy theo tự tại của người ấy. Một người đa văn là khi nghe, khi đọc bốn câu kệ mà biết nghĩa, biết pháp, thực hành pháp tùy pháp, thuận theo phạm hạnh8.

Quảng học đa văn không có nghĩa là lao đầu vào học hết trường này đến trường khác, không phải đọc hết sách này đến sách khác, chất chứa nhiều loại tri thức, từ đông tây kim cổ, đến nội ngoại điển đều thông, mà quảng học đa văn ở đây là Văn, Tư, Tu những gì có thể dẫn đến đoạn diệt phiền não, tiêu diệt các pháp ác bất thiện và làm phát khởi hạt giống trí tuệ nơi tâm của mình.

Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới, chuẩn bị binh khí, cung tên, mâu kích, để bên trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử học rộng nghe nhiều, ghi nhớ không quên, tích lũy sự nghe rộng. Các pháp nào là toàn thiện ở khoảng đầu, toàn thiện ở khoảng giữa, toàn thiện ở khoảng cuối, có nghĩa có văn, thanh tịnh trọn đủ, phạm hạnh hiển hiện, học rộng nghe nhiều các pháp như vậy; học đến cả ngàn lần, chú ý chuyên tâm quán sát, thấy rõ hiểu sâu. Đó là Thánh đệ tử có binh khí đa văn, để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

6. Thành trì thứ sáu là chánh niệm. Niệm, Phạn ngữ smrti, là trạng thái chú tâm, sự hiện hữu của tâm trên đối tượng, là phát khởi và duy trì ý thức về một đối tượng. Niệm đơn giản là để tâm tới đối tượng và chỉ để tâm tới thôi, không cần phải suy tư, tưởng tượng và phân tích gì hết. Chánh niệm, samyak smrti, là sự ý thức và tập trung chân chính, rõ ràng, an tĩnh, sự ý thức về đối tượng bên trong và bên ngoài (của thân, thọ, tâm, pháp) một cách không chấp trước và vướng mắc, tức là sự ý thức đơn thuần để tiếp xúc thực tại như thật của nó (hiện lượng) mà không liên hệ đến các hoạt động lý luận, đánh giá và phân biệt.

Tu tập có nghĩa là làm chủ thân tâm. Để làm chủ thân tâm phải thực tập và duy trì chánh niệm. “Tỳ-kheo nào không chánh niệm, không tỉnh giác thì chánh niệm bị tổn hại. Nếu không chánh niệm, tỉnh giác thì làm tổn hại việc thủ hộ các căn, thủ hộ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn”. Ngược lại, “Nếu Tỳ-kheo nào không thường mất chánh niệm tỉnh giác thì thường xuyên có chánh niệm tỉnh giác. Nếu có chánh niệm tỉnh giác thì thường thủ hộ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đã giải thoát liền chứng đắc Niết-bàn”9.

Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới lập vị đại tướng trấn thủ sáng suốt, thao lược, cơ trí, tháo vát, dũng mãnh, cương nghị, giỏi mưu chước, người hiền thì cho vào, kẻ bất lương thì ngăn cấm, để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử luôn sống chánh niệm, thành tựu chánh niệm, những gì đã từng thực tập từ lâu, đã từng nghe từ lâu, nhớ luôn không quên. Đó là Thánh đệ tử có đại tướng trấn thủ niệm để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

7. Thành trì thứ bảy là trí tuệ. Tu học mà không có trí tuệ thì dễ lầm đường lạc lối. Cho nên, khác với người đời, vốn lấy tài sản, địa vị, quyền lực, danh vọng… làm sự nghiệp, người xuất gia theo đạo Phật lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp). Trí tuệ ở đây không phải là thứ kiến thức thu thập được từ học đường, từ sách vở và gói vào trong mảnh văn bằng, học vị cử nhân, tiến sĩ,… Những thứ ấy chỉ là tri thức, không dính dáng gì đến trí tuệ của nhà Phật.

Trí tuệ ở đây là sự hiểu biết tất cả các pháp, thấy rõ được bản chất của các pháp. Nói cách khác là trí tuệ thấy được bản chất khổ, vô thường, duyên sinh và vô ngã của các pháp. Trí tuệ này là động lực đưa chúng ta tìm cầu cái không sinh, không già, không bệnh, không chết, không sầu, không ô nhiễm; trí tuệ giải thoát.

Trí tuệ giải thoát vốn có trong tâm của mỗi chúng sanh. Cái vô minh nó nằm trong tâm của chúng sanh, mà cái minh (trí tuệ) nó cũng nằm trong tâm của mỗi chúng sanh. Do đó, để chặn đứng dòng chảy của vô minh thì phải làm phát khởi, làm khơi dậy cái minh, cái vô si trong tâm của chúng ta.

Sự tu học trong đạo Phật là làm thế nào để phát triển được hạt giống trí tuệ, cái minh trong mỗi chúng sanh, trong mỗi con người. Giáo dục của Phật giáo là con đường đưa đến vô minh diệt, minh sanh. Minh này chính là tự tính, là Phật tính nơi mỗi chúng sanh. Chỉ khi nào làm phát khởi được cái minh này, làm cho cái minh này hiển hiện thì lúc đó mới thành tựu được sự nghiệp tu học. Đó là mục đích của sự tu học.

Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới xây đắp tường cao cho thật kiên cố, trét bùn tô đất, để bên trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử tu hành trí tuệ, quán pháp hưng suy. Bằng Thánh tuệ phân biệt tỏ tường và thấu suốt mà chân chánh diệt tận khổ. Đó là Thánh đệ tử có bức tường trí tuệ, để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.

Tóm lại, bảy pháp tín kiên cố, tàm, quý, tinh tấn, học rộng nghe nhiều, chánh niệm, trí tuệ là bảy lớp thành trì vững chắc bảo vệ lâu đài điện các tâm linh trước mọi thế lực của ma binh mà mỗi người con Phật phải luôn xây đắp, giữ gìn. Cuộc sống là sống với sống cùng chứ không phải sống một mình. Không một cá thể nào tách rời đoàn thể mà có thể sống được. Đoàn thể đó có thể là một gia đình, một tổ chức xã hội, một đoàn thể tu học, có thể là rừng cây, bờ suối… Tất cả những thứ ấy đều là điều kiện nhân duyên cho sự sống tiếp tục phát triển.

Trong trùng trùng duyên khởi các điều kiện nhân duyên đó, có những thứ đã hấp dẫn, cuốn hút chúng ta vào con đường danh lợi, vào con đường tội lỗi; cũng có những thế lực vô minh, ma binh đang rập rình xâm nhập vào “nhà Như Lai”, lung lay lý tưởng tu học, phá hủy giới thân tuệ mạng… Vì vậy, chúng ta phải cẩn trọng, đề phòng. Cẩn trọng và đề phòng bằng bảy thiện pháp này chính là thành trì vững chắc nhất khiến “không bị Ma vương lung lạc, cũng không theo pháp ác bất thiện, không bị nhiễm bởi nhiễm ô, không còn thọ sanh trở lại”.

Các thế lực xấu ác không ngừng bức não người tu. Chúng có thể mắng chửi, đập phá, bôi nhọ… Nếu mắng chửi, đánh đập, bôi nhọ mà không chi phối được người tu thì chúng sẽ phụng kính, cúng dường, lễ sự để lung lạc. Đó là bản chất xấu ác của ma binh, rất hung bạo và xảo quyệt, luôn tìm mọi cách để mưu hại, hoặc mua chuộc bằng tiền tài, danh lợi, địa vị, hoặc khủng bố bằng bạo lực… nhằm mục đích lung lạc chí hướng tu tập của những người tu. Nếu không đề cao cảnh giác, không có bản lĩnh phi thường, không xây dựng thành trì vững chắc, người tu sẽ dễ dàng bị rơi vào cạm bẫy của các thế lực xấu ác.

Thích Nguyên Hùng

Đức lớn mới thực sự lớn

Đức lớn mới thực sự lớn

Đăng lúc: 20:18 - 15/01/2017

Người đời thường căn cứ vào tuổi đời, địa vị xã hội, vai vế trong dòng tộc để phân định thứ bậc lớn nhỏ, vị trí cao thấp. Người tu thì căn cứ vào tuổi đạo, ai vào đạo trước (thọ giới trước) thì người đó lớn, đi trước, ngồi trên; ai vào sau thì nhỏ nên đi sau, ngồi dưới. Lệ thường là thế, song kỳ thực, tuổi đạo lớn hay nhỏ cũng không phải là vấn đề, quan trọng là vị ấy có giới đức phạm hạnh hay không.

“Một thời Tôn giả Đại Ca-chiên-diên dạo đến nước Bà-na, ở bên bờ ao sâu cùng với chúng năm trăm Đại Tỳ-kheo.

Bấy giờ Tôn giả Ca-chiên-diên danh vang khắp bốn phương. Trưởng lão Bà-la-môn Gian-trà đang du hóa ở đây. Lúc ấy Bà-la-môn nghe Tôn giả Ca-chiên-diên cùng năm trăm Tỳ-kheo du hóa bên ao này, nghĩ rằng: 'Tôn giả trưỡng lão công đức đầy đủ, nay ta có thể đến thăm hỏi Tôn giả'.

Bấy giờ Bà-la-môn Thượng Sắc đem năm trăm đệ tử đến chỗ Tôn giả Ca-chiên diên, thăm hỏi nhau xong, ngồi một bên. Lúc ấy, Bà-la-môn kia hỏi Tôn giả Ca-chiên-diên:

- Như Ca-chiên-diên đây không hành đúng pháp luật. Là Tỳ-kheo trẻ tuổi mà chẳng chịu làm lễ các bậc cao đức Bà-la-môn của chúng tôi.

Tôn giả Ca-chiên-diên nói:

- Bà-la-môn nên biết, Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác thuyết hai địa vị này. Thế nào là hai địa vị? Một là địa vị già cả, hai là địa vị trai tráng.

Bà-la-môn hỏi:

- Thế nào là địa vị già cả? Thế nào là địa vị trai tráng?

Ca-chiên-diên đáp:

- Cho dù, này Bà-la-môn, người ở tuổi tám mươi, hay chín mươi, không dừng được dâm dục, làm các hạnh ác. Này Bà-la-môn, đây là người tuy có thể bảo là già, mà nay ở địa vị trai tráng.

Bà-la-môn hỏi:

- Thế nào là tuổi trai tráng mà ở địa vị già cả?

Ca-chiên-diên đáp:

- Bà-la-môn, nếu có Tỳ-kheo độ hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi tuổi. Người ấy chẳng tập quen dâm dục, cũng chẳng tạo hạnh ác. Đó là, Bà-la-môn, trai tráng mà ở địa vị già cả.

Bà-la-môn hỏi:

- Trong đại chúng này có một Tỳ-kheo không hành dâm dục, chẳng tạo ác hạnh không?

Ca-chiên-diên đáp:

- Trong đại chúng này không có một Tỳ-kheo nào tập dục, làm ác cả.

Bà-la-môn liền từ chỗ ngồi đứng lên, lạy các Tỳ-kheo mà nói:

- Nay các ông tuổi niên thiếu mà ở địa vị già cả, còn tôi tuổi già mà ở địa vị niên thiếu.

Bấy giờ Bà-la-môn kia đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên cúi lạy và tự trình bày:

- Nay con xin quy y Tôn giả Ca-chiên-diên và Tỳ-kheo Tăng, suốt đời không sát sanh...”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 19. Khuyến thỉnh [trích],
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.312)
Cuộc đối thoại giữa Tôn giả Ca-chiên-diên và Bà-la-môn Thượng Sắc cho thấy, trong nhà đạo, phẩm vị cao thấp của một người dựa trên đạo đức, phạm hạnh của chính vị ấy. Cụ thể, “không hành dục, chẳng tạo ác hạnh” là cơ sở để xác định “địa vị già cả” của vị Sa-môn, xuất sĩ trong hội chúng. Ngược lại, người thiếu phạm hạnh, giới đức khiếm khuyết thì dù là gì đi nữa cũng chỉ ở “địa vị niên thiếu” mà thôi.

Liên hệ đến thực tế sinh hoạt Tăng-già trong xứ ta hiện nay, dường như chúng ta đang quá chú trọng về chức vụ. Người có chức vụ càng cao trong Giáo hội thì mặc định là có “địa vị già cả”, ngồi trên, đi trước. Vẫn biết, vì sự việc có tính “hành chánh” nên phải phương tiện như vậy. Vấn đề là, nương theo phương tiện mãi nên không ít người nhầm tưởng đó là cứu cánh (là ‘thiếu niên’ mà cứ nghĩ mình ‘già cả’). Đâu biết, cái hình thức mà mọi người đều biết ấy cần liên hệ với cái nội dung của riêng mình để hổ thẹn, tàm quý mà tự xác định địa vị của mình trong chúng Tăng.

Nhà đạo có câu “Chân thật bất hư”. Danh không xứng với thực thì chỉ là hư danh. Giới đức, phạm hạnh mới thật sự là nền tảng của phẩm vị trên, trước trong Tăng-già. Nhất là phẩm vị ấy phải được chúng Tăng thẩm sát, đánh giá rồi bình chọn và suy tôn mới thực sự giành được sự tôn trọng và quy ngưỡng trong bốn chúng.

Quảng Tánh

Những người có quyền lực khiến cho người khác phải tôn trọng

Những người có quyền lực khiến cho người khác phải tôn trọng

Đăng lúc: 19:29 - 04/01/2017

Những người có nhiều quyền lực khiến cho người khác phải tôn trọng ngoài sự nỗ lực, gắng sức của chính vị ấy còn có sự trợ duyên của phước báu mà họ đã tạo từ đời trước lẫn hiện tại và nay nhân duyên chín mùi, thiện nghiệp hội đủ nhân lành cho quả tạo nên uy quyền trợ duyên cho vị ấy nhiều điều kiện thuận lợi trong việc tầm cầu tài sản và có đòn bẩy tốt để thực hiện ước mơ, nguyện vọng của mình được thuận lợi, suôn sẻ hơn.


Những người có quyền lực khiến cho người khác phải tôn trọng
Đức Phật là người có quyền lực khiến cho người khác phải tôn kính.
Trong kinh điển, Đức Phật có nói về nhân lành tạo dựng phước báu để có được quyền thế lớn như sau:
"Nhưng ở đây, này Thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông, không có tật đố, đối với những người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường, không sanh tật đố, không sanh tâm, không ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp ấy... thiện thú... quyền thế lớn. Con đường ấy đưa đến quyền thế lớn, này Thanh niên, tức là không tật đố... không ôm ấp tật đố."
(Trung Bộ Kinh Majjhima Nikaya 135. Tiểu kinh Nghiệp phân biệt (Cùlakammavibhanga sutta).

Lời bàn:
Khi tu tập rèn luyện tâm xả ly được sự ghen ghét, đố kị khi thấy người khác có được quyền uy hay họ thành tựu được những điều tốt đẹp khác trong cuộc sống về các mặt như được cung kính, tôn trọng,đảnh lễ, cúng dường thì đây chính là con đường đem lại sự an vui và lợi ích lớn lao lâu dài, tạo dựng nên phước lành cao thượng để có quyền thế trong tương lai và là đạo lộ đưa đến những cảnh giới tái sanh an lành trong kiếp lai sinh nếu được thiện nghiệp trợ duyên trong thời cận tử.
Tật đố là một loại tâm sân si, phiền não mang lại phiền não khổ đau ngay trong hiện tại đôi khi dẫn đến những hành động cản trở sự thành tựu của người khác và tự mình hại mình vì đã tạo nên ác nghiệp và về sau sẽ gặp phải những chướng ngại, trắc trở trên bước đường thực hiện sở nguyện của mình tương xứng với ác nghiệp đã gieo theo quy luật nhân quả công bằng và phân minh.
Hạn chế tối đa tật đố bằng việc tu dưỡng nhân tâm, rèn luyện đạo đức chính là nhân lành đưa đến sự an vui, hạnh phúc và bình an lâu dài.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Thiên An

Ý nghĩa của việc tu phước

Ý nghĩa của việc tu phước

Đăng lúc: 20:08 - 03/01/2017

Nếu mình muốn cầu nhiều phước thì phải tu phước, tu phước thì phải trồng phước, giống như nông dân làm ruộng, phải nỗ lực trồng trọt thì mới có thu hoạch, người tu phước cũng vậy, phải đem hạt giống phước đức gieo khắp ruộng phước ( phước điền ) thì mình sẽ thu hoạch được quả của phước báo.


Ý nghĩa của việc tu phước
I. Phước là gì?
Phước là chỉ cho sự giàu sang, sống thọ, con cháu đùm đề và thân thể khỏe mạnh của người thế gian. Hàn phi Tử nói : “ sống thọ, giàu sang được gọi là phước mà người đời ai cũng muốn có, ai cũng muốn năm phước vào nhà” ( ngũ phước lâm môn ). Vậy ngũ phước là gì?
1. Sống thọ
2. Giàu sang
3. Khỏe mạnh và yên ổn
4. Đức độ được con cháu hiếu thuận
5. Sống đến cuối đời và ra đi nhẹ nhàng
Nhưng đây chỉ là Tục phước của người đời, nó có giới hạn và vô thường, không bằng Hồng phước của cỏi trời, mà Hồng phước của cỏi trời lại không bằng Thanh phước vô ngã của hàng nhị thừa, Thanh phước của hàng nhị thừa thì lại không bằng phước Vô tướng của Bồ Tát, bởi vì Bồ Tát bố thí vô tướng, trong không thấy người bố thí, ngoài không thấy vật bố thí và cũng không thấy người nhận vật bố thí cho nên gọi là “tam luận thể không”. Vì vậy phước của vị đó đạt được là rất lớn. Tuy nhiên, vẫn không bằng phước thật tướng của chư Phật. bởi vì chư Phật đã tu phước, tu huệ, trăm ngàn kiếp đã trồng các tướng hảo, đến khi đầy đủ phước đức trí tuệ, viên mãn bồ đề., đạt vô sở đắc, nên phước báo mà chư Phật đạt được là rất lớn, không thể nghĩ bàn.
Không luận là tục phước của thế gian, Hồng phước của cỏi trời, Thanh phước của hàng Thanh văn, phước vô tướng của Bồ tát, phước thật tướng của chư Phật đều phải dựa vào sự vun trồng của bản thân, mình làm mình nhận, chẳng phải người khác cho, cũng chẳng phải trời ban bố. Nếu như một người thật lòng bố thí thì chắc chắn sẽ được giàu sang, phú quý. Người từ tâm không sát hại sẽ được khỏe mạnh, trường thọ. Người không làm các việc ác, chỉ làm các việc lành thì chắc chắn được cát tường như ý, tiêu trừ tai nạn. người nào có thể bố thí vô tướng, rộng tu phước tuệ thì nhất định sẽ thành Phật. Cho nên nói “ Họa phước không có cửa, chỉ do mình tạo, người không có phước cần phải vun trồng phước, phải tu phước thì mới có đời sống tốt đẹp” chúng ta cần phải tích phước, vun bồi phước và phải cầu nhiều phước.

II. Vì sao phải cầu nhiều phước
Nếu mình muốn cầu nhiều phước thì phải tu phước, tu phước thì phải trồng phước, giống như nông dân làm ruộng, phải nỗ lực trồng trọt thì mới có thu hoạch, người tu phước cũng vậy, phải đem hạt giống phước đức gieo khắp ruộng phước ( phước điền ) thì mình sẽ thu hoạch được quả của phước báo.
Phước điền là gì ? kinh Vô Lượng Thọ có ghi “ Phước thọ của thế gian giống như sinh vật trong ruộng. nên gọi là ruộng phước (phước điền)” phước điền thế gian lại có thể phân ra làm nhiều loại.
Một là Kính điền và Bi điền: đối với cha mẹ thầy tổ và tam bảo mà sinh tâm cung kính, cúng dường, phụng dưỡng gọi là Kính điền. đối với những người nghèo khổ, bần cùng tỏ lòng thương sót, bình đẳng cứu giúp, khiến họ thoát khổ gọi là Bi điền.
Hai là Báo ân phước điền: Đối với cha mẹ, sư trưởng cho đến những người có ơn đối với ta thì phài hiếu kính, phụng dưỡng, đem các vật chất để cúng dường , giúp tinh thần an ổn thì mình sẽ được tăng trưởng phước báo đó gọi là báo ân phước điền. Cung kính Tam Bảo, công đước thù thắng sẽ được phước lớn, đó gọi là công đức phước điền. đối với hạng người bần cùng của thế gian, thương sót giúp đỡ, cho họ những vật cần thiết, cứu giúp những lúc hoạn nạn, thì sẽ tích phước rất nhiều, đó gọi là bần cùng phước điền.
Ba là Thú điền, Khổ điền, Ân điền và Đức điền: Đối với tất cả sức sanh, yêu thương, giúp đỡ bình đẳng gọi là Thú điền. đối với những người đang bị buồn khổ, bình đẳng cứu giúp thì gọi là Khổ điền. đối với cha mẹ, sư trưởng thì hiếu thuận cung kính, cúng dường, hầu hạ thì gọi là Ân điền. đối với Tam bảo thì cung kính cúng dường thì gọi là Đức điền.
Bốn là trong kinh Phạm võng đã ghi lại: 1. Phật, 2. Thánh nhân, 3. Hòa thượng (thọ giới bổn sư), 4. sư trưởng, 5. Tăng nhân, 6. Cha, 7. Mẹ, 8. người bệnh. Đối với 8 hạng người ở trên mà sanh tâm cúng kính, bố thí cúng dường, yêu thương giup đỡ thì có thể sanh vô lượng phước đức cho nên gọi là phước điền. nhưng trong 8 loại phước điền đó thì chăm sóc người bệnh là phước điền lớn nhất. khi đức Phật còn tại thế, ngài đã từng chăm sóc và lo thuốc thang cho tỳ kheo bị bệnh, rồi ngài Ngộ Đạt quốc sư đời nhà Đường cũng do lòng từ bi mà chăm sóc cho một vị tăng bị bệnh ghẻ lở, giúp cho vị đó hết đau khổ và sự xa lánh của mọi người. cho nên người nào muốn tu phước thì phải chú ý đến phước điền chăm sóc người bệnh.
Người tu phước, ngoài việc gieo trồng thật nhiều phước điền, thích làm việc thiện và bố thí, còn phải có lòng từ bi đối với tất cả, bởi vì tất cả chúng sinh đều có ân với chúng ta. Cơm ăn, áo mặc hay việc đi lại của chúng ta điều phải dựa vào việc cung cấp của mọi người, nếu như người nông dân không làm ruộng, người công nhân không dệt vải, giao thông không thuận tiện thì người buôn bán không thể vận chuyển được hàng hóa, chúng ta sẽ không có cách giải quyết được nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Nếu như không có sự dạy dỗ, chỉ bảo của sư trưởng thì làm sao tăng trưởng tri thức. nếu như không có sự trừng phạt và ngăn chặn của pháp luật, dịch vụ y tế , giữ gìn trật tự cho đến việc thúc đẩy phát triển các tiện ích công cộng thì làm thế nào người dân sống và làm việc. Vì vậy mọi người không chỉ báo đáp ân của cha mẹ, sư trưởng mà còn phải báo đáp Ân của mọi người, vì vậy đức Phật dạy “ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân tam bảo, ân đất nước, ân chúng sanh đều phải báo đáp”. Giữa người và người nếu có tâm báo đáp, cung kính lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau thì đâu chỉ là trồng phước, vã lại mọi người đều có phước, rõ ràng là tạo phúc cho mọi người, phước lợi cho xã hội, phước báo đó thật là lớn và nhiều vô kể.
Hoặc có người nói “ nghèo khổ thì khó làm việc bố thí, tôi vốn rất thích tu phước, đáng tiếc là kinh tế khó khăn, xin dạy cho tôi trồng phước thế nào? Nên biết không chỉ có tiền mới làm phước được, bởi vì tiền bạc chỉ là một phần của tài thí, ngoài ra trong nhà vật chất dư thừa có thể bố thí, quần áo dư thừa có thể bố thí, người có tri thức có thể bố thí, người có sức khỏe cũng có thể bố thí.
Cung kính hầu hạ những người lớn tuổi ở trong nhà là tu phước, thương yêu giúp đỡ nhưng người nhỏ tuổi cũng là tu phước. Đến chùa lạy Phật là tu phước, giúp đỡ mọi người, quét dọn chùa tháp cũng là tu phước. Ở ngoài xã hội thì tuân giữ luật pháp là tu phước, giữa gìn bảo vệ đồ vật công cộng cũng là tu phước, thậm chí khuyên người làm thiện hoặc cứu giúp người lúc hoạn nạn đều là tu phước.
Người tu phước ngoài việc trồng nhiều phước điền lại còn phải biết tiếc phước, tích phước, chớ làm việc tổn phước. tục ngữ có câu “ có phước thì không thể hưởng hết”. nếu không thì vui quá sanh buồn, hết phước sẽ đọa, nếu người vô phước càng khổ hơn. Vì vậy, Phật giáo ngoài việc khuyên người gieo trồng phước, vun bồi phước, tích phước còn phải biết tiếc phước. tốt nhất là tu phước hữu lậu, tiến lên nữa là tu phước vô lậu. nhờ tu phước tiểu quả của nhân thiên rồi tiến lên tu phước rộng lớn của Phật đạo. Ngày xưa vua Lương Võ Đế hỏi tổ sư Đạt Ma rằng:
_ Từ khi tôi lên ngôi đến nay đã xây dựng rất nhiều chùa tháp, độ cho rất nhiều người xuất gia, vậy tôi được bao nhiêu phước đức?
Tổ Đạt Ma nói:
_Một tí công đức cũng không có.
Bởi vì tổ Đạt Ma cho rằng: “Nhân của hữu lậu thì chỉ đắc quả nhỏ của Nhân thiên, hết phước sẽ đọa trở lại. Đối với việc kiến tánh thành Phật chẳng bổ ích tí nào cả. cho nên tổ mới nói như vậy. Đáng tiếc là vua Lương Võ Đế chấp vào tướng bố thí nên không ngộ được ý chỉ của bậc thánh.
Đến như phước vô lậu là từ tâm vô lậu mà sanh, cho nên bảo tâm vô lậu là tâm vô ngã, dùng tâm vô lậu để làm việc bố thí chính là bố thí vô tướng. kinh Kim Cang có ghi: Bồ tát không trụ vào tướng bố thí cho nên phước đức lớn không thể nghĩ bàn. Lại nữa, đức Phật hỏi ngài Tu Bồ Đề :
_Nếu có người đem hết thất bảo trong tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, người ấy được bao nhiêu phước đức?
Tu bồ Đề trả lời:
_Dạ thưa, rất nhiều.
Đức Phật dạy: Nếu lại có người ở trong kinh này thọ trì cho đến 4 câu kệ rồi đem giảng nói cho người khác, phước đức của người nầy lớn hơn người kia. Vì sao?
_ Này Tu Bồ Đề ! tất cả chư Phật và pháp vô thượng chánh đẳng giác của chư Phật đều từ kinh này mà lưu xuất, cho nên phước của người đó rất lớn.
Tóm lại, nếu muốn trở thành người tốt, hay muốn thành Phật đi nữa thì điều trước tiên là phải Tu Phước.

Quảng Tráng

Biết ơn - nền tảng của hướng thiện

Biết ơn - nền tảng của hướng thiện

Đăng lúc: 21:38 - 03/12/2016

Biết ơn, tiếng Pāli là kataññutā và thường đi đôi với từ katavedi. Kataññutā nghĩa là khởi tâm biết ơn khi mình có được lợi ích từ việc thọ nhận vật gì hay sự tử tế nào đó từ người khác, còn katavedi nghĩa là thể hiện sự biết ơn đó qua lời nói hay hành động. Kataññutā khi đứng một mình bao hàm cả nghĩa của từ katavedi.

Biết ơn, tiếng Anh là gratitude, xuất phát từ gốc La-tinh là gratia, nghĩa là ơn huệ, biết ơn. Theo Pruyser (1976), tất cả những từ xuất phát từ gốc gratia đều có nghĩa là “Phải làm tất cả mọi điều với lòng tốt, tâm lượng rộng rãi, như là một món quà, cao đẹp trong việc cho và nhận một cái gì đó một cách không vụ lợi” (tr.69).

Emmons và Shelton (2002) định nghĩa biết ơn là “cảm giác kỳ diệu, cảm giác mang ơn và ghi nhận giá trị cuộc sống” (tr.460). Trên phương diện đạo đức, biết ơn là cơ sở để hình thành và nuôi dưỡng các tâm niệm lành, các hành động thiện và những suy nghĩ tích cực trên con đường hướng thiện được cụ thể hóa qua các nội dung sau:
Biết ơn giúp chúng ta đối xử tốt với mọi người

Trong Phật giáo, biết ơn là khái niệm dùng để chỉ cảm giác mang ơn và có ý muốn đền ơn khi chúng ta thọ nhận một hành vi tốt từ một người nào đó. Tachibana giải thích rằng, hình thức đền ơn căn bản và quan trọng nhất liên hệ đến việc chu toàn bổn phận của người con đối với cha mẹ; trái lại, bất hiếu với cha mẹ là một trong những tội ác lớn nhất của con người (tr.235). Do đó, người biết ơn là người thực hiện hành vi đền ơn với tất cả như một người con làm tròn bổn phận đối với cha mẹ, hay ít ra là xem tất cả như người thân của mình. Cách đền ơn toàn tâm toàn ý như vậy đáng được thực hành và nhân rộng trong cộng đồng xã hội. Mỗi người đều nên khởi tâm biết ơn người khác như một bổn phận báo đền công ơn thọ nhận trong cuộc sống. Do đó, trong các mối quan hệ xã hội, quá trình cho-nhận được thiết lập và thường xuyên diễn ra thì sự thương yêu, tôn trọng và sẵn lòng làm tất cả những gì tốt đẹp cho người khác là việc làm tất nhiên của những con người biết suy nghĩ và quán chiếu.

nsgn.jpg

Cuộc sống là một mạng lưới mà mỗi người là một mắt xích. Do vậy, chúng ta thọ ơn không chỉ với những người thân hay những người mình trực tiếp có được lợi ích về vật chất hay phi vật chất. Trong hàng ngàn các mối quan hệ chằng chịt và phức tạp, trực tiếp cũng như gián tiếp, chúng ta thọ ơn ngay cả những người xa xôi mà chúng ta chưa hề quen biết. Chúng ta không chỉ thọ ơn những người cùng thời đại với mình mà còn chịu ơn những người của bao thế hệ trước nữa. Theo tinh thần Phật giáo, “Khoảng cách về không gian và thời gian không làm ngăn ngại các mối quan hệ. Giáo lý luân hồi của các tôn giáo Ấn Độ, đặc biệt là Phật giáo, dạy chúng ta hiểu rằng, trên thực tế, chúng ta không chỉ có quan hệ với con người mà còn với tất cả chúng sanh” (Tachibana, tr.228).

Một sự thật rằng, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi nói lời cảm ơn ai đó, hoặc đón nhận lời cảm ơn từ người khác. Chúng ta sẽ phấn chấn khi có ai đó nói rằng, chính mình làm cho họ thay đổi theo hướng tích cực và họ biết ơn về điều này. Chúng ta cũng xúc động không kém khi mình đang gặp việc rắc rối, có người tự nguyện tạm gác lại việc của họ để lăn xả vào cuộc giúp mình mà không tính toán so đo. Cảm giác phấn chấn ấy có mặt vì chúng ta thấy việc mình làm đem lại lợi ích thiết thực cho người khác. Cảm giác xúc động ấy là biểu hiện lòng biết ơn của chúng ta dành cho người trải lòng chia sẻ trong lúc mình cần nhất. Trong cả hai trường hợp, biết ơn và được biết ơn đều đem đến cho chúng ta niềm vui, tâm lý an ổn và có cảm xúc cân bằng hơn. Khi chúng ta nhận được lợi ích từ công sức và thiện chí của người khác dành cho mình, tâm niệm biết ơn có mặt, và khi ấy, chúng ta trở nên tử tế hơn, vì hiểu rằng, không lúc này thì lúc khác, không cách này thì cách khác, chúng ta đã, đang hoặc sẽ mang ơn mọi người. Ý niệm này giúp chúng ta sống tử tế hơn với tất cả mọi người.

Biết ơn giúp chúng ta tận tụy hơn trong công việc

Tấm gương sinh động nhất về sự tận tụy trong công việc là Đức Phật. Sau khi thành đạo, việc đầu tiên của Đức Phật là thể hiện lòng biết ơn đối với cây bồ-đề đã che mưa chắn nắng cho Ngài trong suốt thời gian Ngài tu tập cho đến khi chứng nghiệm đạo quả giác ngộ. Nhiều sử liệu kể lại rằng, sau khi hưởng pháp lạc giải thoát, Ngài dành một tuần để đứng trước cây bồ-đề, nhìn về gốc cây với ánh mắt tri ân. Ngài thể hiện lòng biết ơn giáo pháp Ngài vừa tìm được một cách thiết thực nhất là tìm phương pháp để chuyển tải pháp giải thoát đến số đông dân chúng vốn nhiều tầng lớp với đủ các trình độ khác nhau. Khi đã tận tâm tận lực tìm được phương pháp truyền đạt hiệu quả, Ngài bắt đầu cuộc hành trình hoằng truyền giáo pháp, một hành trình đền ơn không có điểm dừng!

Đối tượng đầu tiên Ngài nghĩ đến để trao gởi thông điệp giải thoát là hai vị thầy tâm linh đầu tiên Ngài đã theo học trên con đường tìm cầu chân lý, đó là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Mặc dù Ngài không chứng đạt giác ngộ khi theo học giáo lý từ hai vị này, nhưng họ là những vị ân nhân trợ duyên không nhỏ trên lộ trình tâm linh của Ngài. Sau khi quán chiếu và biết cả hai vị đều đã mất, Ngài liền nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước đó. Đây cũng là những người Ngài từng chịu ơn bởi lẽ nhờ họ mà Ngài biết đến các hình thức khổ hạnh để Ngài tự chiêm nghiệm trong lúc hành trì. Cho dù đây chưa phải là con đường rốt ráo đưa đến giác ngộ giải thoát, nhưng những trải nghiệm này là động cơ giúp Ngài toàn tâm toàn trí để tìm ra lối đi riêng cho mình.

Một thời gian sau, Ngài bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp trong tinh thần biết ơn đến những đối tượng khác. Đó là Ngài trở về hoàng cung hóa độ người thân của mình cũng trong tinh thần biết ơn. Ngài độ các vị vua đương thời cũng trong tinh thần báo đáp. Suốt một cuộc đời tận tâm tận lực không mệt mỏi, Ngài thực hiện cuộc hành trình độ sinh trong tinh thần tri ân vô hạn. Thế nhưng, chúng ta quen nhìn Đức Phật là một bậc Đại giác ngộ, Đại từ bi, Đại công đức mà mấy ai thấy Ngài là bậc Đại tri ân đáng cho chúng ta học hỏi trọn đời. Không chỉ thể hiện hành vi giáo dục người khác qua hành động của chính mình, Đức Phật còn thể hiện tinh thần tri ân trong nhiều bài kinh. Trong kinh Điềm lành tối thượng (Mangala sutta - kinh số 4, phẩm Nhỏ, kinh Tập), Đức Phật dạy, biết ơn là một trong các điềm lành tối thượng để tiến bộ trên lộ trình tâm linh.

Lòng biết ơn lại được thể hiện rõ nét qua tấm gương của Tôn giả Sāriputta (Xá Lợi Phất), một trong các vị đệ tử lớn của của Đức Phật. Sau khi gặp Tôn giả Assaji (Ác Bệ), Tôn giả Sāriputta hiểu được lý nhân duyên và tỏ ngộ chân lý. Từ đó, Tôn giả Sāriputta cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình trong sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp để đền đáp ơn lành được gặp Chánh pháp. Tôn giả có trí tuệ siêu tuyệt và phương pháp giảng dạy giáo pháp của Tôn giả thật là đặc biệt. Tôn giả là một trong số ít các đệ tử của Đức Phật có thể thay Đức Phật thuyết pháp cho đại chúng, giảng giải chi tiết, phân tích cụ thể các vấn đề giáo pháp sau khi được Đức Thế Tôn tuyên thuyết một cách vắn tắt và các bài pháp thoại ấy đều được ghi lại trong một số kinh Nikāya (điển hình như Trung bộ kinh số 5: kinh Không uế nhiễm; Trung bộ kinh số 144: kinh Giáo giới Chanda; Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương X, kinh Sāriputta-Kotthika; Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm IV, kinh số 5: Đất; Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm III, kinh số 21: Chứng thực với thân; chương III, phẩm XIII, kinh số 128: Anuruddha; chương III, phẩm XVI, kinh số 158: Thối đọa; chương IV, phẩm XVIII, kinh số 173: Phân tích). Tôn giả là cánh tay đắc lực của Đức Phật trong quá trình truyền bá Chánh pháp. Tấm gương tri ân và báo ân của Ngài thật đáng để chúng ta ngưỡng mộ và noi theo.

Như vậy, biết ơn và dốc lòng tận tụy sống một cuộc đời đem lại lợi ích cho mọi người để đền ơn là đặc tính tự nhiên của bậc trí, tựa như chúng ta hít thở khí trời. Người trí thực hành lòng biết ơn và đền ơn trong tinh thần phục vụ như một bản năng, một bổn phận. Với trí tuệ siêu phàm và tâm từ rộng lớn, người trí rõ biết và cảm nhận được những lợi ích có được từ con người và cuộc sống xung quanh. Nếu không cảm nhận được điều này từ bản chất, việc phát khởi tâm biết ơn là một điều không phải dễ dàng, và càng khó hơn là thể hiện tâm biết ơn đó bằng sự tận tụy và hết lòng trong công việc.

Biết ơn giúp chúng ta thực hành pháp bố thí tốt hơn

Chính vì muốn nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn các thành phần xã hội trong cộng đồng để tiến bộ và từng bước hoàn thiện nhân cách của mình, Đức Phật dạy các đệ tử của Ngài cần phải bố thí như là biểu hiện của lòng biết ơn. Mình biết nhận từ người khác và có được lợi ích từ sự thọ lãnh này thì cần phải khởi tâm ban tặng như một quy luật của cuộc sống. Ngài dạy “Có hai loại bố thí, đó là bố thí tài vật và bố thí pháp. Trong hai loại bố thí này, pháp thí tối thắng hơn” (Pháp cú, câu 354; Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm XIII: Bố thí). Người đệ tử xuất gia của Ngài chuyên tâm học pháp và hành pháp, thì sẽ có pháp làm món quà tối thượng để chia sẻ với mọi người. Do đó, cả cuộc đời của người xuất gia là tận tụy, chuyên tâm tu học để thể hiện lòng biết ơn và đền ơn đối với mọi người, mọi loài trong vòng duyên sinh kết nối rộng lớn này qua cách thức cho đi và nhận lại.

Theo truyền thống, Đức Phật dạy, người xuất gia không trực tiếp làm một nghề nào như người cư sĩ để nuôi sống bản thân (kinh Di giáo) mà sống tùy vào sự phát tâm cúng dường của hàng cư sĩ tại gia để nuôi dưỡng tâm niệm tri ân thông qua việc chuyên tâm bố thí món quà tâm linh đến hàng cư sĩ ngoại hộ. Trong khi đó, người cư sĩ còn phải làm nhiều bổn phận ở đời, phải làm các nghề để kiếm kế sinh nhai, nên chưa thể toàn tâm dành hết thời gian trong ngày để học pháp và hành pháp. Họ mong được hiểu giáo pháp Đức Phật được truyền đạt từ người xuất gia và đáp lại, họ có điều kiện để cúng dường tài vật đến các bậc thầy tâm linh. Những lời Đức Phật dạy được ghi lại trong nhiều kinh rằng, người xuất gia là ruộng phước tối thượng để người cư sĩ gieo trồng công đức (Tăng chi bộ kinh, tập 1, chương III, phẩm 7, mục 70: Các lễ Uposatha; mục 75: Cần phải khích lệ; phẩm 10: phẩm Hạt muối; mục 94: Con ngựa thuần thục; phẩm 14: Kẻ chiến sĩ, mục 131: Kẻ chiến sĩ).

Do đó, người xuất gia bố thí pháp, người cư sĩ tại gia cúng dường tài vật là việc làm nhằm tạo cho đôi bên ý thức được cuộc sống do duyên nhau mà tồn tại trong quan hệ cho-nhận trực tiếp giữa người xuất gia và tại gia, qua đó thể hiện và nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn. Mỗi người nương vào pháp bố thí này như một bài thực hành căn bản để khởi niệm biết ơn dễ dàng hơn đến với những người không tham gia vào vòng cho-nhận trực tiếp. Từ ý niệm biết ơn trong quan hệ cho-nhận, chúng ta tự nhắc nhở mình - phải biết cho đi để xứng đáng với những gì mình đang nhận lại từ cuộc đời này. Với tâm niệm biết ơn như vậy, mỗi người nên có trách nhiệm với nhau hơn, mở rộng khối óc và đôi tay, sẵn sàng thực hành bố thí trong tinh thần “món vay món trả phải đồng”.

Biết ơn giúp chúng ta hài lòng với cuộc sống thực tại

Khi thấy mình là kẻ thọ ơn, chúng ta dễ dàng có cảm giác hoan hỷ chấp nhận và có tâm lý hài lòng, bằng lòng với những gì mình đang có hay vị trí mình đang là. Cảm giác này hoàn toàn chủ quan và mang tính tương đối. Cùng trong một điều kiện sống, người hài lòng thì cảm nhận được hạnh phúc, an lạc, nhưng người không hài lòng thì cảm nhận sự đau khổ, bất an. Cùng trong một môi trường, không gian sống, khi này chúng ta hài lòng, lúc khác chúng ta lại không vừa ý. Với vật chất thế gian, con người chỉ có được trạng thái hài lòng tạm thời mà thôi. Tâm chao đảo, mất cân bằng do tham đắm và bám víu vào những gì chúng ta ưa thích, từ chối và đẩy ra những gì chúng ta không ưa thích khiến chúng ta khó có được sự hài lòng lâu bền. Chỉ khi nào biết trân quý những gì chúng ta đang có, đang sử dụng với ý niệm biết ơn, biết đủ, chúng ta mới dừng tâm đòi hỏi và tìm cầu để sống một cuộc đời trọn vẹn với thực tại.

Thường xuyên thực hành hạnh biết ơn sẽ giúp chúng ta có cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ và an lành. Người không hài lòng với những gì mình đang có thì không thể ý thức được rằng mình đang thọ ơn người khác. Do vậy, thay vì khởi niệm biết ơn, họ chỉ có thể khởi tâm phàn nàn. Biết ơn, đơn giản là có cảm giác mình là người thọ lãnh và ghi nhận giá trị của những gì mình nhận được từ con người và cuộc sống. Ý niệm biết ơn là mạch máu làm tươi nhuận con tim, nuôi dưỡng khối óc và tưới tẩm tâm hồn chúng ta. Có rất nhiều cơ hội để chúng ta có thể khởi tâm cảm ơn người khác. Với cảm nhận đầy đủ về những gì mình đang có và những gì mình đang trải qua đủ để chúng ta khởi niệm biết ơn. Thân thể, vóc hình, trí tuệ, sắc đẹp, sức khỏe, tài sản, tình cảm chúng ta sở hữu trong kiếp sống này đủ để nhắc chúng ta khởi niệm cảm ơn những gì cuộc đời ban tặng. Từ trong ý niệm biết ơn, chúng ta biết cách sử dụng những gì chúng ta đang có để đem lại lợi ích cho mình, cho người, sống một cuộc đời đáng sống. Đây là cách thể hiện tinh thần biết ơn và đền ơn một cách thiết thực nhất.

Chúng ta có thể làm cho cuộc sống trở nên phong phú và giàu có với tâm niệm biết ơn. Bằng cách ghi nhận thân và tâm này vốn đã được vay mượn từ cha mẹ thuở mới sinh ra, ghi nhận những gì chúng ta đã, đang và tiếp tục thọ nhận từ người khác trong cuộc sống hàng ngày, ghi nhận giá trị ấy để luôn nhắc nhở mình sống trong tinh thần biết ơn. Chúng ta có trọn quyền và có đủ khả năng điều khiển ý tưởng của mình để đạt được hạnh phúc và bình an trong cuộc sống trên nền tảng của tâm niệm biết ơn. An lạc hay đau khổ, thật ra phần lớn đều do mình chọn lựa hơn là do hoàn cảnh hay từ những thứ bên ngoài đem lại, và tinh thần tri ân và báo ân sẽ giúp ta trong việc này.

Khởi niệm biết ơn không có nghĩa chúng ta phủ nhận - những buồn đau, thất vọng xảy ra với mình như một phần trong cuộc sống. Biết ơn là nhận ra mình còn được nhiều thứ từ cuộc đời này và hãy lấy những cái có được ấy làm toa thuốc trị bệnh đau buồn. Một khi chúng ta phàn nàn, nghĩa là chúng ta cảm thấy thiếu thốn hay không hài lòng với cuộc sống hiện tại thì chúng ta có thể khởi lên ý niệm biết ơn chăng? Cứ quay lại nhìn mình, nhìn lại những gì mình đang có, đủ để chúng ta khởi niệm cảm ơn, để tâm hồn bình an và cảm thấy hài lòng với cuộc sống còn nhiều điều bất toàn này. Vấn đề là khi biết khởi tâm biết ơn, chúng ta có đủ khả năng vượt trên những đau buồn như một cơ hội để trưởng thành. Người khôn ngoan biết lấy nghịch cảnh làm cơ hội để học hỏi và tự thân biết cách vươn lên từ trong bĩ cực nhằm hóa giải và thăng hoa nỗi đau thành niềm vui. Rác rưởi có thể sử dụng thành dưỡng chất cho cây lá tươi xanh đâm chồi nảy lộc, cho hoa trái khoe hương tỏa sắc giữa đất trời.

Khi chúng ta chú ý đến điều gì, cái đó trở nên quan trọng và chiếm vị trí trung tâm trong tất cả suy nghĩ, ý tưởng của mình. Hơn thế nữa, bao nhiêu ý tưởng liên quan đến từ khóa ấy cũng lần lượt xuất hiện. Ví như khi chúng ta gõ một từ khóa nào đó vào hệ thống tìm kiếm trên mạng, như Google chẳng hạn, thì lần lượt từng trang một, bao nội dung liên quan đến từ khóa ấy đều xuất hiện, chúng ta dễ dàng tìm tiếp và tìm tiếp nữa. Cũng như vậy, khi có một ‘từ khóa’ nào đó xuất hiện trong ý tưởng, ví dụ đó là một điều chúng ta ước muốn. Thế là biết bao ý tưởng đều từ đó phát sinh. Tương tự chim bay theo đàn, ý tưởng cuộn theo từng mảng chứ không tồn tại riêng lẻ bao giờ. Một sự thật rằng, chúng ta không nhận được những gì mình mong muốn, nên chúng ta không hài lòng với cuộc sống hiện tại. Nếu mỗi ngày chúng ta dành 5 phút để ước muốn thì thời gian 1.435 phút còn lại (24 tiếng đồng hồ là 1.440 phút) trong ngày chỉ để lo lắng, suy nghĩ. Vậy liệu những mong muốn của mình có thành tựu hay không? Ham muốn chỉ đến với người không hài lòng thực tại và không biết cách khởi niệm biết ơn.

Do đó, người không biết ơn thì tâm luôn lăng xăng bận rộn mà không thể hướng thượng và hướng thiện. Nếu chúng ta bình tâm quan sát bản thân mình với tất cả năng lực mình đang có, những gì mình đang sở hữu thì chúng ta sẽ đi đúng hướng trong việc dự đoán, chứ không phải mong cầu cho thỏa mãn lòng tham. Làm được thế này, tâm chúng ta sẽ trú trong “ngưỡng an toàn” và không quá bận rộn vô ích với những điều xa rời thực tế với tâm lý mệt mỏi, nhọc nhằn vì mong cầu mà không đạt được. Thay vì lao tâm khổ trí vì những ý tưởng tiêu cực do lo lắng, sợ hãi tạo ra, ý niệm biết ơn sẽ giúp chúng ta trở nên an ổn và thanh thản hơn trong cuộc sống.

Biết ơn giúp chúng ta bớt đi ý tưởng chấp ngã, mở rộng tâm hồn

Một lợi ích nữa là khi chúng ta biết khởi niệm biết ơn thì ý niệm chấp ngã của chúng ta vơi dần. Bằng cách thực hành biết ơn, chúng ta ý thức rõ ràng rằng, chúng ta đơn giản chỉ là một phần không thể tách rời của một bộ phận lớn hơn. Càng ý thức rõ ràng về mối quan hệ duyên sinh giữa mình và thế giới lớn hơn bên ngoài, chúng ta càng trở nên khiêm tốn hơn, thấy mình bé nhỏ lại và phụ thuộc nhiều vào thế giới chúng ta đang sống. Bớt đi ý niệm chấp ngã không có nghĩa là chúng ta đánh mất mình mà là biểu hiện về sự trưởng thành của nhận thức, là sự trưởng thành về khả năng giữ tâm thăng bằng và an lạc nhờ vào tâm niệm biết ơn.

Sống trên đời này, chúng ta không thể tồn tại, đó là chưa nói đến thành công, nếu không có cha mẹ, thầy, bạn và nhiều người thân hay không thân khác nữa. Hẳn là ít nhất chúng ta không thể không mang ơn những người này. Ý tưởng “những gì tôi có được ngày hôm nay là do bản thân tôi, không ai giúp cả” chỉ phản ánh cái nhìn thiển cận của người vô ơn và chấp ngã mà thôi. Chính tâm niệm biết ơn giúp chúng ta hạnh phúc trong vòng tay của người thân như cha mẹ, thầy tổ, bạn bè. Đây là động cơ để mở lòng sống tốt với mọi người và là cách hướng đến con đường thánh thiện trong mọi tình huống. Khi bắt đầu cảm nhận được lợi ích và ý nghĩa với những gì mình trải nghiệm, chúng ta dễ dàng thấy điều hay, lẽ đẹp nơi người khác. Biết ơn giúp cho chúng ta có niềm tin nhiều hơn trong các mối quan hệ. Biết ơn giúp chúng ta cảm nhận được những gì mình thọ nhận từ người khác để dễ dàng khởi niệm đền ơn. Lưu tâm đến cái tốt, cái đẹp thì những tâm niệm và hành động tốt đẹp dễ dàng phát sinh và chúng ta có thể nhân rộng những điều thiện lành trong cuộc sống và rộng dần ra từ nơi chúng ta sinh sống.

Với tâm rộng mở trong tinh thần biết ơn, chúng ta dễ tha thứ hơn, nhờ đó các vết đau tâm lý dễ chữa lành hơn. Tha thứ là chìa khóa để chữa lành vết thương tâm lý và cảm xúc, đồng thời, tha thứ chỉ có thể làm được khi khởi lên ý niệm biết ơn. Trong đau buồn mà vẫn thấy mình “được” chứ không mất, chúng ta mới có thể khởi niệm biết ơn và dễ dàng tha thứ. Tha thứ có thể thuần túy diễn ra từ trong ý niệm thông qua trị liệu, thiền định, thực hành tâm từ bi và sẵn lòng cảm thông đối với tất cả mọi người. Tha thứ cho chính mình hay người nào đó là chất liệu nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành hơn và chữa lành vết thương lòng nhanh hơn.

Biết ơn giúp chúng ta vững vàng hơn trong cuộc sống

Trong những tình huống khó khăn nhất, tâm chúng ta chùn xuống và các tâm lý tiêu cực đua nhau xuất hiện trên bề mặt ý thức. Điều này làm cho nỗi đau trương phồng thêm lên một cách không cần thiết. Trong những tình huống như vậy, nếu chúng ta bình tâm nhìn lại để kịp nhận ra rằng, những gì chúng ta đang có, kể cả nỗi khổ niềm đau vừa lưu dấu trong tâm, là món quà vô giá để chúng ta khởi tâm cảm ơn tất cả. Sự mất mát để lại niềm đau, nhưng đáng giá hơn là bài học vô thường sinh động mà cuộc đời ban tặng. Chúng ta hãy biết ơn điều này và với tâm lý biết ơn như vậy, đau thương mất mát được chữa lành nhanh chóng.

Biểu hiện lòng biết ơn đối với người khác có nghĩa là chúng ta đang dành cho người ấy một sự ghi nhận và hỗ trợ tinh thần với ngụ ý rằng việc người ấy làm cho chúng ta là có ý nghĩa. Điều này tạo cho người ấy tăng thêm niềm tin việc mình làm là đúng, từ đó khởi tâm hoan hỷ, tinh thần phấn chấn hơn và sống bình an hơn.

Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những thay đổi mới mẻ trong ta và trong cuộc sống. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được sự đóng góp của người khác vào sự thành công của bản thân mình một cách dễ dàng. Mỗi bước tiến trên lộ trình tâm linh là mỗi cơ hội để chúng ta thể hiện tâm biết ơn của mình. Biết ơn chính là động cơ, là nền tảng cho mỗi bước tiến trên con đường hướng thiện của bản thân mỗi người. Với sự biến đổi không ngừng của môi trường và cuộc sống, chúng ta phải luôn xem lại mình để thích ứng với hoàn cảnh hiện tại. Mỗi lần thích nghi với môi trường hay hoàn cảnh mới, chúng ta có cơ hội cảm ơn tất cả để chúng ta có thể vươn lên một nấc thang cao hơn, một trạng thái hài lòng được thiết lập trong quá trình tu tập.

Ngay cả trong hoàn cảnh không như ý, chúng ta cũng nên khởi tâm biết ơn vì nhờ có khó khăn, thất bại chúng ta mới có dịp hiểu rõ khả năng thực tế và kỹ năng xoay xở tình huống của bản thân, cũng như có dịp quan sát những tâm lý khởi lên và dâng trào đến mức độ nào trong bối cảnh bất như ý đó. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta định hướng, hạ quyết tâm để đứng vững và bước chắc trên con đường hướng thượng nhằm hoàn thiện nhân cách của mình.

Biết ơn đem lại nhiều lợi ích từ cơ thể khỏe mạnh đến tâm lý ổn định, tinh thần sảng khoái và làm tươi mát cuộc sống nội tâm cũng như trong các quan hệ giao tiếp với người xung quanh. Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ có cái nhìn thực tế, rõ ràng và chính xác hơn qua lăng kính duyên sinh về khả năng thực tế của bản thân, về sự góp phần của con người, môi trường và những sắc màu mình trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày. Qua lăng kính của biết ơn, mọi vật trở nên trong sáng hơn, con người ngày càng trưởng thành hơn và cuộc sống mỗi ngày càng thêm tươi đẹp hơn.

Liên Trí

________________

Tài liệu tham khảo

Emmons, R A. & Shelton, C. M. (2002). Gratitude and the science of positive psychology. In: Handbook of positive psychology. Snyder, C. R.; Lopez, Shane J.; New York, NY, US: Oxford University Press. 459-471.

Pruyser, P.W. (1976). The minister as diagnostician: Personal problems in pastoral perspective. Philadelphia, PA: Westminster Press.

Tachibana (1992/1975). The ethics of Buddhism. London: Curzon Press.

Thích Minh Châu (dịch) (1996). Tăng chi bộ kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Thích Minh Châu (dịch) (1997). Trung bộ kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Thích Minh Châu (dịch) (1997). Tương ưng bộ kinh. TP.Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

20 điều dạy bạn khi tức giận

20 điều dạy bạn khi tức giận

Đăng lúc: 22:17 - 05/11/2016

Tâm tốt nhưng miệng nói những lời không tốt tất cả Phước Đức làm được đều tiêu tan.



Người khôn nói ít, nghe nhiều, lựa lời đối đáp, lựa điều hỏi han.
Trước người hiền ngõ khôn ngoan, Nhường trên một bước, rộng đường dễ đi
Chuyện người, chớ nói làm chi, Chuyện mình, mình biết vậy thì mới khôn.
Của cải dù to lớn như núi, nhưng cái miệng ăn lâu ngày cũng hết. Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác… thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan. Làm ơn hay bị mắc oán, cũng do cái miệng nầy hay kể công, mắng nhiếc, nói sỉ nhục người. “Thần khẩu nó hại xác phàm, Người nào nói quá họa làm khổ thân. Lỡ chân gượng được đỡ lên. Lỡ miệng gây họa phải đền trả thôi”.

1. Nếu bạn nhẫn chịu oan khuất thì bạn là người được phúc báo
Người khác nhục mạ bạn, bạn nên coi như được bội phục, người khác làm tổn thương bạn, bạn nên coi như họ đến để thành tựu bạn.
Làm tổn thương người khác chính là tiêu xài công đức phát tài của mình, một người tâm địa xấu xa thường làm hại, làm tổn thương người khác, thì chính là mang tiền đến đưa cho người khác.
Ngược lại, một người có thể nhẫn nhục, chính là liên tục thu tiền. Người đại nhẫn giống như mở ngân hàng, có thể thu nạp từ trăm sông.
Trong mấy chục năm của cuộc đời, có rất nhiều chuyện và lời lẽ khiến chúng ta cảm động. Vì thế, chúng ta cũng nên nỗ lực tìm cách khiến người khác cảm động.
2. Trên thế giời này có một loại kinh doanh luôn lỗ vốn, chính là tức giận
Mọi người thường không chịu nhận sai, mọi thứ đều nói là lỗi của người khác, cho rằng mình mới là đúng. Kỳ thực không chịu nhận sai chính là một sai lầm.
Người mình nhận lỗi có thể là bố mẹ, bạn bè, người ngoài xã hội, thậm chí nhận lỗi với con cái và với cả người đối xử không tốt với mình. Bạn sẽ thấy rằng mình sẽ chẳng mất đi cái gì, mà ngược lại sẽ thấy được sự độ lượng của mình.
Nhẫn lỗi là một phẩm chất tốt, cũng là một loại tu hành.

3. Cái gì cũng không thể nhẫn nại, thành tựu của bạn sẽ bị giới hạn
Nhẫn nhịn cũng chính là điều mà con người gọi là bền chí, nghị lực. Cần phải nhẫn để được vừa lòng đẹp ý, tại sao vậy?
Người xưa dạy “một điều nhịn, chín điều lành”, cũng lại nói: “Lùi một bước biển rộng trời cao”. Quả thực, nhẫn nhịn có thể khiến tâm chúng ta trở nên thanh tịnh, khoảng trời trước mặt cũng sẽ trở nên rộng mở bao la.

4. Niệm giận vừa khởi lên, triệu cửa nghiệp chướng liền khai mở
Một khi tâm oán giận vừa khởi lên thì trí tuệ sẽ không còn, lý tính bị che mất. Do đó sẽ xử trí theo cảm tính, không chỉ làm tổn thương mình, mà còn hữu ý hoặc vô ý gây thù kết oán với người khác.
Nếu không thể hóa giải thù oán, khi nhân duyên chín muồi, báo ứng sẽ hiện ngay trước mắt, oan oan tương báo, quả báo sẽ ngày càng tàn khốc hơn.
Đừng nói những điều làm tổn thương nhau

5. Thân thể, tâm trạng của con người cùng với tự nhiên dung thành một bức họa
Thất tình lục dục làm nhiễu loạn tự nhiên, nhiễu loạn thân thể người. Trong đó tức giận, nổi cáu là gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Có người nói, tuổi thọ trung bình của con người lẽ ra phải là 200 tuổi, chính là do những phiền não của bản thân đã làm cho thân thể bị hư hại; người luôn sống trong cảnh giới đại từ bi thì không già, không yếu, không mê, không tà, khộng tiêm nhiễm – đây mới là niềm vui thật sự.
6. Thường cảm ơn trong lòng
Mặc dù người khác nhục mạ, phỉ báng, hãm hại bạn, cũng vẫn nên dùng thiện tâm để đối đãi, và tự đáy lòng mình cảm ơn họ.
Thực sự thì sự sỉ nhục, phỉ báng, và hãm hại của người khác, chính là để tiêu trừ nghiệp lực mà mình đã tạo ra trong đời này. Vậy nên quyết không thể để tâm oán hận nổi lên. Nếu vẫn còn tâm oán hận, thì không những không thể tiêu nghiệp, mà ngược lại còn làm cho nghiệp tăng lên.
7. Bạn hỏi Phật ngày nào tốt; Phật hỏi xem bạn có ngày nào bình yên?
Cuộc đời giống như một cái cặp da, khi cần dùng thì mới lấy, khi không dùng thì bỏ nó ra; lúc cần bỏ xuồng thì lại không bỏ, giống như mang theo hành lý nặng trĩu, không thể tự tại.
Những năm tháng của cuộc đời có hạn, vậy nên nhận sai, tôn trọng, bao dung thì mới có thể bình thản, buông bỏ mới có thể tự tại!
8. Nổi cáu là tối kỵ của tu hành, là đốt cháy rừng công đức của mình
Nếu không sửa đổi tính xấu này, thì vô luận là một ngày có niệm bao nhiêu bộ kinh, có thuyết bao nhiêu lần Pháp, thì bạn cũng không thể ra khỏi tam giới. Phát cáu là biểu hiện của vô minh, chính là không minh bạch.

9. Bất thiện, ác ý với người khác chính là chà đạp chính mình
Nếu ác ý với người người khác, thì người bị hại chỉ chịu 3/10, mà chính chúng ta mới phải gánh chịu phần nhiều 7/10, đó chính là chà đạp chính mình mà không tự biết.
Miệng để nói lời hay ý đẹp
Một câu nói ra khỏi miệng, gây sự tổn thương, thì chính mình là người gánh chịu phần lớn sự tổn thương đó. Bạn muốn mình khỏe mạnh, trường thọ và tràn đầy trí huệ, thì bạn phải dùng tấm lòng yêu mến để đối đãi với tất cả mọi người. Biết cho đi, bạn sẽ nhận lại được nhiều hơn thế.
10. Lời nói làm tổn thương người khác, còn nghiêm trọng hơn cả giết người
Đây là sự thật mà rất ít người biết! Khẩu tạo nghiệp là dễ xảy ra nhất, mà cũng là tạo thành nhiều nhất, quả báo kiếp sau sẽ vô cùng thảm thiết.
Nhẫn thì sẽ có thể xử lý và hóa giải, có thể biến chuyện lớn thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ thành không có chuyện gì.
Có thể nhẫn, thì có thể phân biệt được tốt xấu, thiện ác, thị phi của thế gian. Vào buổi tối mỗi ngày trước khi đi ngủ, hãy tự hỏi chính mình: “Hôm nay mình có tức giận không?”.

Sưu tầm.

Bậc chân tu đạo cao đức trọng quỷ thần kính sợ

Bậc chân tu đạo cao đức trọng quỷ thần kính sợ

Đăng lúc: 22:03 - 05/09/2016

Người xưa tu hành có đạo đức cao thượng tôn quý, khiến thiên long quỷ thần cảm động, tự nhiên đến ủng hộ. Vì thế, đạo đức là tôn quý nhất ở thế gian, nên có câu: "Đạo cao long hổ phục. Đức trọng quỷ thần khâm".
Quỷ thần cùng con người, mỗi loài đều có pháp giới tôn quý ty tiện khác nhau. Tại sao chư thiên, quỷ thần lại tôn trọng, cung kính pháp giới loài người? Diệu tánh linh minh vốn chẳng phân biệt mình người, đều đồng quy về nhất thể. Chỉ vì vô minh bất giác, mê muội nguồn chân, mới phân mười pháp giới, tức sáu phàm bốn thánh. Nếu muốn xả mê về ngộ, phải xoay về cội nguồn. Song, trình độ giác ngộ của mỗi pháp giới không đồng. Trong pháp giới của con người, có kẻ giác và bất giác, cũng có kẻ chánh tri kiến và tà tri kiến. Pháp giới chư thiên và quỷ thần cũng như thế. Tuy nằm trong sáu loài phàm phu, nhưng pháp giới con người lại vượt trội năm pháp giới khác.

Chư thiên cõi trời Lục Dục vẫn còn đam mê tham ái nữ sắc, quên mất việc tu hành. Trời Tứ Thiền Thiên thì lại tham đắm thiền vị, quên mất con đường minh ngộ chân tâm. Trời Tứ Không Thiên thì lại lạc vào thiên chấp biến không, quên mất chánh tri kiến. A Tu La còn nhiều sân hận. Chúng sanh trong đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thọ bao khổ nhọc, khiến chẳng có chánh niệm, thì làm sao tu hành? Cõi người khổ nhọc vui sướng không đồng, nhưng so với các cõi khác thì dễ dàng giác ngộ hơn, nên có thể minh tâm kiến tánh, siêu phàm nhập thánh. Chư thiên quỷ thần tuy có thần thông phước báo nhiều ít không đồng, nhưng đều tôn trọng người có đạo đức và cùng ngưỡng mộ chánh pháp.

Thiền sư Nguyên Khê, kết am tại Nhạc Bàng Ô, đã từng truyền giới cho thần núi. Trong bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, viết: "Ngày nọ, có một dị nhân, đầu đội mão rộng, thân mặc cân đai, dẫn rất nhiều người, thư thả đi vào am, bảo rằng muốn yết kiến Đại Sư. Thấy hình mạo kỳ lạ phi thường, Đại Sư hỏi:

- Lành thay! Nhân giả vì cớ gì mà đến đây?


Thần đáp:

- Đại Sư nhận ra con không?

- Ta chỉ dùng mắt bình đẳng mà quán chư Phật cùng tất cả chúng sanh, sao lại có phân biệt!

- Con vốn là thần trụ núi này, và cầm nắm sanh tử con người trong vùng. Đại Sư có nhận biết không?

- Ta vốn vô sanh, ông làm sao giết được? Thân Ta đồng với hư không, cùng đồng với thân ông. Ông có thể phá hoại hư không cùng thân của mình không? Chẳng thể được! Thân Ta bất sanh bất diệt. Ông chưa có thể làm được như thế, sao cầm nắm sanh tử của ta?

Thần cung kính cúi đầu thưa:

- Con là vị thần rất mực thông minh chánh trực, há lại không biết Đại Sư có trí huệ quảng đại sao? Nay mong cầu Đại Sư hãy truyền chánh giới, con xin lãnh thọ.

- Ông khất cầu giới, tức đã đắc giới. Tại sao? Ngoài tâm không có giới, sao cần cầu giới?

- Nghe lý này, con thật mê muội, chỉ cầu Đại Sư truyền giới để con trở thành đệ tử của Ngài.

Đại Sư lên tòa, ngồi ngay thẳng, tay cầm bình hương trầm, bảo:

- Hôm nay truyền năm giới cấm, nếu ông phụng trì được, thì đáp rằng con giữ được. Ngược lại, hãy đáp rằng không giữ được.

Thần thưa:

- Con kính cẩn thọ giáo.

- Ông có thể giữ giới cấm dâm dục được không?

- Con vẫn còn có vợ.

- Chẳng phải thế! Ta bảo là không nên tà dâm.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm ăn cắp được không?

- Con đâu có thiếu gì, sao lại đi ăn cắp?

- Không phải vậy! Hưởng thụ mà không tham lam quá độ. Không được cúng, chớ nên gieo họa cho người hiền.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm giết hại được không?

- Con đang nhậm chức phán sát, sao không thể giết hại được?

- Không phải thế! Chẳng nên lạm dụng quyền thế, giết hại người hiền.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm nói láo được không?

- Tâm con chất trực, sao lại đi nói láo?

- Không phải thế! Không nói láo tức lời nói trước sau đều hợp với tâm của trời đất.

- Con giữ được.

- Ông có thể giữ giới cấm uống rượu được không?

- Con giữ được.

- Trên đây là những giới cấm do Phật chế. Có tâm phụng trì mà vô tâm chấp vật. Có tâm vì vật, mà vô tâm nghĩ tưởng thân. Nếu được như thế, thì lúc trời đất vừa thành lập, chẳng tinh khiết. Lúc trời đất tan hoại thì chẳng già. Biến hóa ngày đêm mà không động. Cứu cánh tịch mặc mà chẳng ngừng nghỉ. Ngộ được như thế, tuy có vợ mà chẳng phải thê thiếp. Tuy hưởng thụ, mà chẳng chấp thủ. Tuy có oai quyền mà chẳng lạm dụng uy thế. Tuy làm mà chẳng tạo. Tuy say rượu mà chẳng hôn mê. Nếu vô tâm nơi muôn vật, tuy nhiều dục mà chẳng dâm; tham lam quá độ mà không phạm tội ăn cắp; lạm quyền giết lầm người mà không phạm tội sát. Trước sau ngược với trời đất mà không vọng dối. Hôn vọng điên đảo mà chẳng say. Đó gọi là vô tâm. Vô tâm thì vô giới. Vô giới tức là vô tâm, vô Phật, vô chúng sanh, vô nhân, vô ngã, vậy thì ai là người trì giới?

- Thần thông của con thật không thể sánh bằng Phật.

- Trong mười phần thần thông, ông không thể làm được năm phần, còn Phật thì không thể làm ba phần.

Nghe thế Thần bèn quỳ xuống thưa:

- Cầu xin Đại Sư kể rõ cho con nghe.

Đại Sư hỏi:

- Ông có thể khiến mặt trời mọc ở hướng tây, lặn ở hướng đông không?

- Không thể.

- Ông có thể lấy đất năm đỉnh núi mà kết thành bốn biển không?

- Không thể.

- Phật có thể chuyển tất cả tướng không thành muôn pháp trí, mà không thể diệt định nghiệp. Phật có thể biết sự việc của chúng sanh cùng tận ức kiếp, mà không thể giáo hóa những kẻ vô duyên. Phật có thể độ vô lượng loài hữu tình mà không thể diệt tận pháp giới chúng sanh. Đó là ba việc mà Phật không thể làm được. Định nghiệp cũng không lâu. Kẻ vô duyên cũng có kỳ. Pháp giới chúng sanh vốn không tăng không giảm. Không ai có thể làm chủ tất cả pháp. Có pháp mà vô chủ, nên gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ, cũng gọi là vô tâm. Nay giải thích về Phật, Ta cũng chẳng có thần thông, chỉ dùng vô tâm mà thông đạt hết muôn pháp.

- Con thật rất ngu muội, chưa từng được nghe nghĩa không. Đại Sư truyền giới, con vâng giữ phụng hành. Ngày nay, con nguyện muốn báo đáp ân đức từ bi của Đại Sư, nên sẽ hiển hiện chút ít thần thông.

- Ta quán thân vô vật, quán pháp vô thường, sao cần cầu chi nữa?

- Nếu Đại Sư cho phép, con sẽ triển chuyển chút ít thần thông, để khiến người đã phát tâm, vừa phát tâm, chưa phát tâm, chẳng có tín tâm, đã có tín tâm, biết được có Phật, có thần có năng lực thần thông, không có năng lực thần thông, có tự nhiên, không có tự nhiên.

- Không được! Không được!

- Phật cũng sử dụng thần thông để truyền pháp, sao Đại Sư chẳng làm theo? Xin Đại Sư rũ lòng dạy bảo.

Đại Sư bất đắc dĩ bảo:

- Chùa Đông Nham có chướng ngại là cỏ dại rậm rạp mà chẳng có cây cối to lớn; đằng sau lưng chùa lại không có chỗ tựa. Ngọn núi phía bắc có rất nhiều cây cối. Ông có thể di chuyển cây cối bên hướng bắc qua đỉnh núi phía đông không?

Thần thưa:

- Xin vâng mạng! Giữa khuya, con sẽ thổi chúng đi, mong Đại Sư chớ sợ!

Nói xong, Thần liền đảnh lễ tạ từ lui ra. Tăng chúng trong chùa, vừa đưa Thần ra cửa, thì thấy có rất nhiều người, đứng hai hàng dài, đi theo hầu. Tướng Thần oai vệ uy nghi như vua chúa, xung quanh thân sương khói xông lên mù mịt, mây ngũ sắc quấn chằng chịt, trên đầu có tràng phan ngọc bội. Thần bay lên hư không rồi biến mất. Tối đến, quả nhiên mây kéo đến ùn ùn, mưa to gió lớn, sấm sét nổi lên, mái nóc đều lung lay rung động, khiến chim chóc cầm thú la hoảng. Đại Sư bảo đại chúng:

- Chớ sợ! Chớ sợ! Thần làm theo ý ta.

Sáng hôm sau, trời trong mưa tạnh; tất cả cây cối bên phía bắc đều được dời hết qua đỉnh núi phía đông, mọc tủa xum xuê khắp nơi. Đại Sư thấy thế, bảo đệ tử:

- Sau khi Ta mất, chớ kể chuyện này cho người ngoài nghe. Nếu họ biết được, sẽ cho Ta là yêu quái.

Quý vị hãy xem, thần tuy có thần thông, nhưng không bằng người có đạo đức. Thế nên bảo rằng "đức trọng quỷ thần khâm". Người không có đạo đức, bị quỷ thần quản chế, thọ bao hiểm họa. Người có đạo đức, lại muốn minh tâm kiến tánh, thì tự nhiên sẽ cảm động quỷ thần. Chư thiền sư đại đức xưa nay, tu hành kinh thiên động địa, khiến hươu nai dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Thiên ma ngoại đạo, chư tiên quỷ thần, đều đến quy y, như Chân tổ sư quy y Quán Âm, Tài Thần quy y Phổ Hiền, Động Tân tiên sư quy y Hoàng Long, Vương Linh Quang quy y Địa Tạng, vua Văn Xương quy y Phật Thích Ca, v.v... Do đó, hoàng đế Nhân Tông triều Tống viết bài kệ phú tán thán chư tăng đại đức: "Những bậc tôn quý nhất trên thế gian, không ai bằng những vị xả tục xuất gia.

Nếu được làm tăng sĩ, thì mới thọ sự cúng dường của trời người. Làm đệ tử của đấng Thế Tôn, tức là quyến thuộc của tiên thánh, vào nơi cửa vàng, đến cung điện bảo tạng. Hươu trắng dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Xuân nghe chim hót líu lo, vang tiếng diệu nhạc cơ trời. Hạ nghe ve kêu trên cây cao, liền biết mùa nóng đã đến. Thu ngắm trời xanh, gió trong trăng sao chiếu sáng. Đông xem tuyết phủ đảnh núi sông ngòi. Ngồi thiền trên bồ đoàn, thân ấm áp. Dẫu sóng ba đào nổi dậy, vẫn cỡi tích trượng thăng hư không. Mười đại quân ma khi nghe danh, vẫn phải hàng phục, quy y chánh đạo. Vang tiếng gõ bản, bèn lên vân đường lễ cúng. Nghe tiếng chuông, bèn lên chánh điện tụng kinh. Mọi việc đều như ý, muôn loại hiện thành. Lúc sống làm thầy trời người. Lúc chết quyết định quy y thánh quả. Kệ viết:

"Không Vương đệ tử Phật
Quyến thuộc chư Như Lai
Thân mặc y trăm mảnh
Miệng ăn ngàn bát cơm
Tối ngủ giường vô úy
Sáng thấy Phật A Di Đà".

Nếu Trẫm được như vậy, thì rất là mãn nguyện".

Trên đây là lời văn tán tụng chư tăng đại đức của hoàng đế Nhân Tông. Chúng ta tự hãy xem xét mình có tương ưng điểm nào với bài văn phú tán thán này không? Nếu hạnh mình đều tương hợp với lời văn trên, thì mới có thể thọ sự tôn kính của quỷ thần. Nếu "sóng ba đào khởi", như khi vô minh dấy lên, mà không thể "mở tích trượng, phóng lên hư không", khiến làm náo loạn cả trời đất, thì thật xấu hổ cùng cực. Ngược lại, nếu "mười đại ma quân" làm phiền hà, khiến chẳng được như ý, và bao việc chẳng thành tựu, mà có thể hàng phục chúng, thì trời rồng tám bộ quỷ thần đều tôn trọng cung kính.

Thiền sư Hư Vân

Tôn trọng sự sống của thai nhi

Tôn trọng sự sống của thai nhi

Đăng lúc: 08:35 - 03/08/2016

Chưa bao giờ nạn phá thai xảy ra hàng ngày, rất nhiều và đơn giản như chuyện chơi. Mạng sống của thai nhi rất mong manh và đáng sợ hơn nữa, trong nhiều trường hợp thai nhi không được chào đời, chỉ vì mẹ nó, hay cha mẹ nó không thích, không muốn. Chỉ với một ý niệm vô cùng giản đơn như thế là kết thúc một mầm sống một cách dễ dàng.
Có người cho rằng thai nhi chưa hình thành đầy đủ hình hài con người thì hủy diệt nó là việc bình thường, không tội lỗi. Thậm chí kể cả bào thai đã tượng hình người, họ vẫn giết nó, dù có bị nguy hiểm đến tính mạng họ, chỉ với lý do là đứa con ngoài ý muốn thì không thể nào được đón chào.

anh nsgn.jpg

Theo Phật, bào thai được hình thành khi có sự giao hợp giữa cha mẹ trong thời kỳ người mẹ có thể thụ thai và yếu tố quyết định là sự có mặt của thần thức, hay còn gọi là hương ấm xâm nhập vào. Vì vậy, sinh mạng của thai nhi, tức mầm sống của con người đã được tạo thành ngay từ phút giây đầu tiên mà thần thức đi vào cơ thể người mẹ, khi cha mẹ giao hợp.

Đức Phật khẳng định rằng con người là tối tôn trọng các loài sinh vật, vì phải trải qua quá trình chuyển hóa thân tâm lâu dài, con người mới có bộ não và trái tim có thể suy nghĩ và thực hiện được những việc làm thăng tiến đến những cảnh giới cao quý, trong khi các loài sinh vật thấp kém hơn chỉ sống với bản năng mà không thể thăng hoa cuộc sống đạo đức, tri thức như loài người. Và tất nhiên, chỉ có con người mới có thể chuyển hóa tâm thức thăng tiến đến quả vị tối thượng là Phật. Chư Thiên, hay A-tu-la tuy có phước báo hơn loài người, nhưng họ không thể tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Muốn đạt được quả Toàn giác, chư Thiên, hay A-tu-la, hoặc các loài sinh thể khác đều phải tái sanh làm người để từ đó, trải qua nhiều kiếp sống, mới có trí thông minh và tình cảm hướng thượng.

Trong sáu đường sinh tử, muốn có được thân người là việc khó khăn vô cùng. Đức Phật nói rằng được thân người khó gấp vạn lần con rùa một mắt lênh đênh trên đại dương hàng ngàn năm mới vớ được khúc cây nổi có một lỗ nhỏ cho nó chui vào.

Thân người vô cùng quý báu, nên trong các giới cấm Phật dạy hàng đệ tử phải tuyệt đối tuân thủ trước nhất là giới không sát sinh hại mạng.

Như trên đã nói, thai nhi mang mầm sống của con người, ngay từ khi người mẹ thụ thai, cần phải được bảo vệ một cách kỹ lưỡng. Thiết nghĩ không có gì ác độc hơn là tiêu diệt bào thai, vì giết hại một sinh linh ở trong giai đoạn yếu ớt nhất mà mạng sống hoàn toàn lệ thuộc vào người mẹ. Đại luận sư Buddhagosa nói rằng nghiệp quả của sự phá thai tệ hại hơn là giết một tên côn đồ, vì tự vệ.

Thể hiện tâm từ bi và trí tuệ theo Phật dạy, bảo vệ sự sống cho muôn loài nói chung và loài người nói riêng là điều tiên quyết mà hàng đệ tử Phật phải tuân thủ. Vì cùng sống trên trái đất này, mọi người, mọi loài đều có mối tương quan cộng tồn mật thiết, nên không thể thỏa mãn ý muốn riêng tư mà bất chấp mạng sống của thai nhi lại là núm ruột của mình. Và khi đã tin sâu luật nhân quả, việc ác dù nhỏ nhoi còn không làm, huống chi là phá thai, giết hại sinh linh vô tội cần nương vào bụng mẹ để có mặt trên cuộc đời này nhằm thực hiện điều gì còn dang dở trong tiền kiếp.

Tuy nhiên, chúng ta đều biết giáo pháp của Phật không có tính cố định, cứng nhắc. Kinh thường nói Đức Phật có đến 84.000 pháp để tương ưng với vô số phiền não, trần lao, nghiệp chướng của chúng sanh và giải quyết được vấn nạn cho họ. Vì vậy, sự tôn trọng mạng sống của thai nhi cũng có một mặt khác cần xét đến.

Trong trường hợp nếu thai nhi được sanh ra sẽ bị dị dạng, bị bệnh tật nguy hiểm, chắc chắn tạo nên cuộc sống đầy đau khổ cho chính nó và cho gia đình, hơn là được hạnh phúc. Trong trường hợp bất khả kháng như vậy, gia đình có thể quyết định không cho đứa bé ra đời. Hoặc trường hợp để cứu tính mạng của người mẹ, người ta không còn cách gì khác hơn là đành hy sinh sự sống của thai nhi.

Tóm lại, thể hiện lòng từ bi theo Phật, cần phải tôn trọng triệt để giới cấm sát hại sinh mạng con người cho đến phải tôn trọng mạng sống của muôn loài, tất nhiên cần bảo hộ sự sống của thai nhi.

Vì vậy, theo đạo Phật, không chấp nhận việc phá thai. Và càng thấm nhuần quy luật nhân quả, chẳng thể nào giết hại mạng sống của sinh linh có mối quan hệ chặt chẽ, mới tái sinh làm con mình.

Thiết nghĩ phá thai chỉ là giải quyết vấn đề ở ngọn. Nếu không muốn có con, đừng tạo ra cái duyên cho thần thức đi tái sanh vào thân thể mình. Điều đó quá hiển nhiên. Nếu cứ sống buông thả, bừa bãi, sống theo bản năng như loài vật, để rồi phá thai, khiến cho sinh linh uất hận và cũng làm hại cho sức khỏe của chính mình. Và tạo nhân ác rồi, quả báo ác sẽ đến kề cận, mong gì có cuộc sống an vui.

Người có suy nghĩ, biết sống tỉnh táo, biết khắc phục bản năng nhục dục, biết phải làm gì cho cuộc sống được an vui thực sự và lâu dài, họ sẽ không bao giờ để mang thai ngoài ý muốn.

Thế giới càng có nhiều oan hồn uổng tử lang thang uất hận, khổ đau, tạo thành thế giới âm không siêu thoát, thì thế giới của người sống khó mà yên ổn, nói chi là hạnh phúc. Chính vì vậy mà hàng ngày, đệ tử Phật đều cầu nguyện cho âm siêu, dương thới và tất cả mọi người đều trọn thành Phật đạo, đó chính là thế giới hạnh phúc tuyệt đối vĩnh viễn.
HT.Thích Trí Quảng

Thấy nhân duyên là thấy Pháp, thấy Pháp là Như Lai

Thấy nhân duyên là thấy Pháp, thấy Pháp là Như Lai

Đăng lúc: 14:15 - 12/07/2016

Khóa bồi dưỡng trụ trì năm nay tại tổ đình Kim Cang vắng bóng Hòa thượng Đạt Đồng, Hòa thượng Tắc Ngộ và gần đây là Hòa thượng Thiện Thanh.
Tuy các ngài không hiện hữu trên cuộc đời, nhưng với tâm nguyện vì đạo, vị tha, vô ngã, tôi tin tưởng các ngài luôn gia hộ cho khóa học này được thành công. Sau đây, tôi có một số ý kiến xin chia sẻ với Tăng Ni.

Trước hết, nói về tông môn hệ phái, đó là việc tốt, nhưng nếu cố chấp vào đó cũng trở ngại lớn cho chúng ta. Kinh nghiệm của tôi thấy như vậy từ 50, 60 năm trước.

Thật vậy, đầu tiên tôi xuất gia ở Phật giáo Cổ truyền nằm trong sơn môn thuộc Lâm Tế gia phổ. Lúc đó, tôi gặp khó khăn, thầy này ở Lâm Tế gia phổ, thầy kia ở Lâm Tế Chúc Thánh, thầy nọ ở Lâm Tế chánh tông… Chỉ riêng dòng Lâm Tế đã tự phân chia như vậy, tạo thành bức tường ngăn cách giữa những người tu đạo Phật.

Lúc đó, Hòa thượng Thiện Hòa nói rằng chúng ta nên cắt bỏ tông môn hệ phái, vì tất cả chúng ta đều là đệ tử Phật. Ai xuất gia trước, người đó lớn. Người thọ giới sau thì nhỏ hơn. Dù thọ giới sau một đàn cũng là sau.

dhamma_wheel_fine.jpg

Nếu kẹt tông môn hệ phái, tôi thuộc đời Lâm Tế thứ 41, mang chữ Nhật. Hòa thượng Trí Tịnh cũng mang chữ Nhật. Như vậy, giữa tôi và Hòa thượng là huynh đệ, tức cùng trong một hệ phái đã như vậy.

Khi Phật học đường Nam Việt ra đời, tất cả chúng tôi thuộc hệ phái khác nhau, nhưng học chung một trường, có cùng một thầy thì trong học đường này, tất cả đồng là huynh đệ, ai thọ giới trước là lớn. Nhưng điều này cũng không giữ được lâu, cũng nảy sinh tư tưởng hệ phái.

Và hệ phái bấy giờ lại chia ra Phật giáo Cổ sơn môn, Phật giáo Tổng hội. Riêng thành phố Hồ Chí Minh đã chia ra mười mấy hệ phái chống phá nhau, tự tiêu diệt nhau. Như vậy, chúng ta đã lọt vào cái bẫy ngoại đạo.

Năm 1963, nhiều người nghĩ rằng Phật giáo bị xé thành nhiều mảnh vụn, nên dễ bị tiêu diệt. Nhưng lắng lòng coi lại ai tiêu diệt mình, phải chăng các sơn môn hệ phái tự tiêu diệt nhau. May mắn, các vị lãnh đạo thức tỉnh. Các Hòa thượng đã thành lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, dù thuộc hệ phái nào, nhưng tất cả chúng ta đều vì sự tồn vong của Phật giáo, chỉ có một điểm chung là Phật giáo, nên hãy quên đi hệ phái.

Vì vậy, có 11 hệ phái ký tên thành lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo và năm 1964, trở thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Tuy nhiên, trong thâm tâm tôi, lúc đó còn có hai hệ phái không ký tên vào, nhưng cũng đóng vai trò quan trọng. Đó là một hệ phái ở trong vùng giải phóng, đứng đầu là cố Hòa thượng Thiện Hào. Tuy ngài không ra ký tên, nhưng ngài đã làm việc quan trọng là đi các nước xã hội chủ nghĩa tuyên bố cho mọi người biết rằng Phật giáo tồn tại ở đất nước chúng ta. Ngoài ra, các nước thuộc khối tư bản, hay khối không liên kết đều ủng hộ Ủy ban Liên phái. Như vậy, rõ ràng Phật giáo chúng ta đoàn kết rất có lợi.

Một hệ phái nữa là Hội Phật giáo Thống nhất ở miền Bắc không ký tên, nhưng chính Phật giáo miền Bắc cũng tổ chức biểu tình, ra kiến nghị kêu gọi ủng hộ Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo.

Vì vậy, tôi nghĩ rằng có tất cả 13 hệ phái trong Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, không phải chỉ có 11 hệ phái. Thể hiện ý nghĩa hợp nhất 13 hệ phái, khi xây Việt Nam Quốc Tự, Giáo hội thành phố chúng ta đã xây tháp cao 13 tầng tiêu biểu cho 13 hệ phái đoàn kết tạo thành sức mạnh của Phật giáo.

Vì sự quan trọng vô cùng của sự đoàn kết, hòa hợp, khi Phật Niết-bàn, Ngài nói rằng ngày nào chư Tăng còn hòa hợp trong Chánh pháp của Phật là khi đó Phật giáo tồn tại vững mạnh, không có ngoại đạo thiên ma nào có thể phá hại chúng ta được.

Thể hiện tinh thần Phật dạy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời năm 1981, khẳng định lập trường rằng chúng ta thống nhất tổ chức, thống nhất ý chí và thống nhất hành động, nhưng pháp tu biệt truyền vẫn được tôn trọng. Tất cả mọi người có pháp hành riêng, miễn là ở trong Chánh pháp Phật; nói theo ngày nay là đa năng, đa dạng.

Thật vậy, chúng ta nhìn kỹ thấy rõ mỗi người một việc, một người không thể làm tất cả việc. Tổ chức chúng ta có sự tôn trọng lẫn nhau và chính cốt lõi này giúp Phật giáo chúng ta tồn tại. Nhưng muốn như vậy, chúng ta phải thấy theo Chánh pháp và sống đúng Chánh pháp. Nếu tu lệch ra ngoài Chánh pháp, sẽ đưa đến nhiều bất đồng, tranh chấp, cho đến tan hoại.

Không lệch ra ngoài là gì. Khi chúng ta còn ở trong vòng an toàn giống như Tề Thiên vẽ cho Tam Tạng phải ở yên trong vòng tròn an toàn, nếu lọt ra ngoài vòng an toàn này là bị yêu tinh bắt liền. Chúng ta tu, đừng bước ra khỏi vòng này. Vòng này là gì.

Trước nhất, Phật quy định chúng ta phải an cư kiết hạ ba tháng. Chúng ta có tuân thủ hay không. Thầy nào không tuân thủ pháp hành này, không phải đệ tử Phật và đã ra ngoài vòng an toàn rồi, phải bị ma bắt thôi.

Theo kinh nghiệm riêng tôi, từ năm 1961 đến 1962, 1963, trong mùa hạ ba năm liền, tôi không ra khỏi chùa Ấn Quang. Đó là quy định dành cho chư Tăng giúp chúng ta tìm được giải thoát trong vòng đai an toàn. Vì vậy, việc cấm túc an cư rất quan trọng đối với đời sống người tu.

Về sau, Hòa thượng Thiện Hòa mở rộng thêm, không đi ra ngoài trong ba tháng an cư, trừ khi có Phật sự do Tăng sai. Khi sống khép kín có lợi cho việc tu học, nhưng không lợi cho việc hoằng hóa. Như vậy, mở ra cho quý thầy đi giảng dạy, làm lợi cho đạo.

Tôi nhờ sống khép kín như vậy, nên dư thì giờ đọc sách, đọc kinh và lạy Hồng danh Phật. Lần lần đời sống tôi thâm nhập vào dòng thác trí tuệ Như Lai, gọi là Dự lưu. Không phải tôi bị bắt buộc, nhưng hạnh phúc được ở yên tu hành, không bị phiền não quấy rầy. Ở yên một chỗ, dư thì giờ tụng kinh, sám hối, tham thiền, dễ dàng dẫn chúng ta vào con đường giải thoát mà Phật vẽ ra cho mình.

Kinh nghiệm tu của tôi, phải giữ mình trong ba tháng an cư được Phật quy định. Thầy nào, chùa nào giữ đúng luật này, thì Phật nói có Thiên long giữ gìn. Tụng kinh Pháp hoa, thấy rõ điều này. Phật khẳng định rằng người nào tuân thủ pháp này, Ngài khiến Bát bộ Thiên long giữ gìn, người nào sống trong Thiền định, Ngài sai hóa nhân cúng dường đầy đủ và được thấy Phật, nghe Phật thuyết pháp. Đó là lộ trình mà Phật đã vẽ ra cho chúng ta. Còn đi hay không là ở ta.

Trong một năm, suốt chín tháng chúng ta bận nhiều việc, thì ba tháng an cư, cần nỗ lực thể nghiệm pháp Phật để thấy hằng sa Phật.

Làm đạo, thầy có công đức dễ làm đạo hơn. Nhưng thiếu công đức, chắc chắn gặp khó khăn vô cùng. Tu theo Phật, tất yếu phải ép vào khuôn tu hành.

Sáng nay, tôi giảng ở trường hạ Học viện Phật giáo TP.HCM, đây là năm đầu tiên, tôi ép Tăng Ni sinh viên vào khuôn tu hành, có học thì phải có tu. Người không ở trong nội giới tu hành ba tháng an cư, dù học giỏi cũng không được ra trường, vì có học nhưng không có hạnh.

Vì vậy, quy định của Học viện, ít nhất có hai năm nội trú, tức có tu, thể hiện được hạnh tu, sau này mới có thể ra làm đạo. Mới “có thể” thôi, chứ cũng chưa chắc, vì ra làm đạo, thiên ma ngoại đạo có vô số bẫy. Cho nên, chúng ta thấy có nhiều người tu học, nhưng được việc không nhiều.

Cần nhớ rằng người tu không an cư không phải đệ tử Phật, không được Thiên long Bát bộ giữ gìn, không được Phật phóng quang gia hộ. Tu như vậy, một thời gian sẽ rớt vào ngoại đạo, làm nô lệ cho ngoại đạo.

Điều thứ hai, Phật dạy rằng hành Bồ-tát đạo đáng quý, nhưng phải đắc Thánh quả A-la-hán mới có đủ đạo lực để hành Bồ-tát đạo. Chưa đắc A-la-hán, thì chưa tin được tâm mình, cứ nghĩ mình tốt, nhưng chắc gì mình tốt.

Tôi quan sát có người hành Bồ-tát đạo để mau thành Phật, nhưng muốn mau thì lại càng lâu. Vì vậy, Phật quy định phải đắc Thánh quả, chưa đắc Thánh quả mà muốn độ người, rất nguy hiểm.

Thầy chưa đắc Thánh quả muốn độ người xuất gia, nên bỏ ý này. Chưa đắc Thánh quả, độ người là gánh nặng vô cùng, vì đi một mình không nổi, còn đeo mang thêm, làm sao đi. Thật vậy, chúng ta xuất gia, từ bỏ tất cả để ra khỏi sinh tử, bản thân không đi nổi, còn gồng gánh thêm bà con nữa chỉ có nước ngã quỵ.

Phải tạm gác việc hành Bồ-tát đạo sang một bên. Tu Pháp hoa gọi điều này là thệ nguyện an lạc. Nói như vậy là lấy ý của Phật. Khi Phật đi xuất gia, Ngài hẹn khi nào được giải thoát sẽ quay lại hoàng cung độ quyến thuộc. Chưa đắc đạo thì Ngài không trở về nhà.

Thực tế chúng ta thấy thầy xuất gia mà còn kẹt gia đình, cha mẹ, anh em, bạn bè, khó đi xa, không giải thoát.

Phải một mạch đi tới để đạt giải thoát. Vì vậy, Phật quy định muốn đắc La-hán, phải theo lộ trình này, trừ trường hợp người có cha mẹ già không ai nuôi dưỡng, Ngài cho phép lo cho cha mẹ.

Tôi thấy có Tỳ-kheo tìm đất cất chùa, đất chưa tìm được đã chết, hay tìm được rồi, trả tiền chưa xong thì chết, hoặc ráng hơn, cất chùa xong cũng chết. Vì ráng quá sức, nên chết nhưng không biết về đâu.

Phải tìm đường giải thoát cho mình trước, hẹn người thân khi nào mình thành Vô thượng Chánh đẳng giác sẽ quay trở lại.

Có thầy bỏ được gánh nặng gia đình, nhưng nặng gánh chùa, nặng gánh bổn đạo, rồi than rằng làm trụ trì là làm dâu trăm họ.

Thiết nghĩ ta xuất gia không cần làm vừa lòng bất cứ ai. Người thật tu không lệ thuộc tình cảm, không lệ thuộc xã hội, không lệ thuộc thiên nhiên. Còn lệ thuộc những thứ này, chắc chắn còn trong sinh tử. Còn lệ thuộc vui buồn, vinh nhục, còn tiếp tục gánh sinh tử, dù mặc áo tu.

Phải làm sao không lệ thuộc xã hội, không lệ thuộc thiên nhiên, mình mới giải thoát. Thử hỏi các thầy cần bổn đạo, cần tiền bạc, cần chùa hay không.

Riêng tôi, sợ bổn đạo đông, sợ chùa lớn, sợ chùa nhiều, gánh không nổi. Sợ chức vụ mà Giáo hội giao phó, không gánh được, không phải đi tìm.

Tôi luôn suy nghĩ lúc nào mình phải buông. Vì Tăng sai, mình phải làm mọi việc với tất cả tấm lòng. Buông được phần nào, mình nhẹ phần đó.

Được Giáo hội giao phó, gọi là Tăng sai, chúng ta làm những chức danh Trưởng ban, Phó ban Ban này Ban kia. Tuy nhiên, lại có thầy ưa danh, lãnh chức nhưng không làm việc, như vậy xấu hổ hay không. Người hiểu đạo thì sợ danh, sợ đại chúng tin tưởng, giao phó mà không làm được. Nói như vậy không có nghĩa là thầy cô từ chối việc Tăng sai. Vì con mắt của Tăng thấy mình làm được mới giao việc, mình phải nỗ lực làm.

Trên bước đường tu, tôi nhờ Tăng sai, hết lòng làm, nên chư Tăng hộ niệm, hợp tác với mình. Còn chư Tăng không muốn mình làm, có làm cũng không thành công, nên phải từ chức, hay không được ai hợp tác phải từ chức. Thậm chí bị chống đối cũng phải từ chức.

Thí dụ Ban Trị sự thấy thầy có khả năng, nên bổ nhiệm trụ trì, thì phải dốc toàn lực phụng sự chùa, gọi đó là làm tôi cho Phật. Làm hết sức mình mà được Phật hộ niệm, chắc chắn việc thành tựu. Trái lại, nếu Phật bỏ, không hộ niệm, thì nên từ chức. Phật hộ niệm, việc khó mấy chúng ta cũng làm. Quyết tâm như vậy mới thành công.

Tôi có kinh nghiệm khi gặp khó, khổ, nhưng tôi không sợ, chắc chắn Phật thương mình, hộ niệm cho mình vượt qua khó, khổ. Phật hộ niệm, mình không thấy, nhưng quần chúng thương mình, hợp tác thì thấy. Đến nơi nào hành đạo, bà con hết lòng giúp đỡ, ta làm việc dễ dàng.

Xưa kia, các vị Tổ lập lều cỏ tu hành, không mua đất cất chùa, nhưng hành đạo, sức cảm hóa của các Ngài khiến quần chúng kính mến, nên họ hợp lực cùng nhau xây dựng chùa.

Chùa Kim Cang cũng vậy. Tổ đến đây không mua đất cất chùa, nhưng Ngài quán nhân duyên thấy dân chúng vùng này và Ngài có mối quan hệ vô hình, mới cất am tranh tu. Nghĩa là Tổ quán nhân duyên giữa Ngài và quần chúng xem Ngài làm được gì cho họ. Ngồi yên lặng, quán sát dân tình, thấy người bệnh nặng, thiền sư giỏi, biết đúng bệnh và làm thuốc cứu người. Kinh Dược Sư nói làm thuốc cứu người thì phước nhiều vô lượng, hiện đời được người kính trọng… sẽ thành Vô thượng Chánh giác. Người tu ngồi yên quán sát coi nhân dân cần gì, tìm cách giúp đỡ, nên được dân thương, kính quý và họ xây thêm nhà cho người đến tu học.

Ta chỉ lo tu giải thoát, người thương muốn làm theo ta để được thanh thản như ta thì họ tìm đến và ta dạy họ, họ tự tạo điều kiện sống. Ngày xưa, Tổ Huệ Đăng tu trong hang hổ, nhưng Ngài đắc đạo, các Hòa thượng ở khắp Nam Kỳ muốn học đạo, ra Bà Rịa ở với Tổ, rất đông, thì làm sao có chỗ cho các thầy ở. Các thầy phải lên núi che nhà ở, hái măng rừng ăn. Tổ chỉ tu. Nói rằng Ngài làm, nhưng thật ra là chư Tăng làm để sống, để tu. Vì vậy, chư Tăng đến đông, thì chùa lớn, mở rộng thêm.

Kinh nghiệm tôi thấy làm trụ trì phải quán sát nhân duyên giữa mình và dân chúng. Nếu ta thương họ, họ quý ta là chỗ đó ta hành đạo được. Như ngài Linh Hựu lên Quy Sơn dựng nghiệp, mở rộng tông môn, vì với huệ nhãn của người đắc đạo, vùng đất đó là nơi hành đạo của ngài. Nếu không thấy bằng mắt huệ, nhưng dùng tâm phàm tục hành đạo, là biến Phật đạo thành tà đạo, sớm muộn cũng thọ quả báo.

Tóm lại, giáo lý Phật tuy nhiều, nhưng chung quy gom lại một câu chính yếu rằng người thấy nhân duyên là thấy pháp. Người thấy pháp là thấy Như Lai. Các thầy suy nghĩ yếu lý của câu này trên đường hành đạo và áp dụng đúng đắn sẽ gặt hái được tiến bộ.

Cầu Phật gia hộ tất cả hành giả an cư luôn an lành trong Chánh pháp.

HT.Thích Trí Quảng

Nhẫn nhục thế nào cho chính đáng?

Nhẫn nhục thế nào cho chính đáng?

Đăng lúc: 21:19 - 09/06/2016

Theo lý giải của Phật giáo, nhẫn nhục bậc thấp nhất là những người có quyền thế bề trên, bậc trung là những người ngang hàng mình, bậc thượng là những kẻ dưới tay mình,
Nhẫn nhục thế nào cho chính đáng?
Hình ảnh minh họa
Theo quan niệm chung của Phật tử xưa nay, khi nói đến trách nhiệm truyền bá Phật giáo, đều công nhận “do tăng già đảm nhiệm”, hoặc tiến hơn lại bảo: “Hai giới xuất gia, tại gia chung gánh vác”, nhưng thực tế thì phải là “Truyền bá Phật giáo được phổ biến, linh động trong quần chúng do Phật tử tại gia thực hiện”.
Sống dậy tinh thần Phật giáo
Bởi vì mỗi cá nhân, mỗi gia đình Phật tử thực hiện đúng đường lối Phật dạy những cái hay đẹp ấy sẽ lây nhiễm sang những cá nhân và gia đình khác dần dần nhân gian biến thành Tịnh độ. Nếp sống của người xuất gia cao siêu cách biệt quần chúng quá, dù cố gắng cách mấy cũng khó ảnh hưởng lây.
Vì thế, Phật tử tại gia có trách nhiệm làm linh động và sống dậy tinh thần Phật giáo qua nếp sống cá nhân và gia đình mình.
Phật tử tại gia lâu nay có quan niệm sai lầm, khi nói đến Phật sự là đinh ninh cúng chùa, cất chùa, trai nguyện, công quả v.v... lãng quên yếu tố căn bản “Làm sống dậy lời Phật dạy”. Phật tử tại gia phải cố gắng thực hiện, lấy gia đình mình làm cứ điểm lợi ích thiết thực của Phật giáo để trả lời mọi nghi ngờ và phê bình của quần chúng.
Muốn cho quần chúng thấy cái hay, cái đẹp của Phật giáo, Phật tử tại gia trước hết lấy giáo lý điêu luyện cá nhân mình, chính bản thân mình là phản ảnh trung thành của Phật giáo, mà trước hết là Quy y và Thọ giới.
Quy y là đặt cho mình một lý tưởng, vạch một lối đi. Phật là mục tiêu cao cả để ta nhắm tới, Pháp là đường lối tiến đến mục tiêu ấy, Tăng là người hướng dẫn đi đúng đường lối tiến lên mục tiêu đã nhắm. Cho nên, Quy y là định hướng của người Phật tử, Quy y rồi cá nhân mình không còn cái khổ phiêu bạt linh đinh của con người vô lý tưởng.
Giữ 5 giới cấm, hành 5 hạnh Phật
Năm giới cấm là phần thiện tiêu cực của Phật tử. Giữ trọn năm giới là nhân cách con người được đầy đủ và bảo đảm một con người toàn vẹn ở tương lai. Sự thảm khốc của cảnh tương tàn tương xác, sự khổ đau cướp giựt lẫn nhau, sự xấu xa của gia đình thương luân bại lý, sự nghi ngờ trong xã hội điêu ngoa, sự say sưa ở trà đình tửu điếm… người Phật tử đều vượt khỏi những cái tủi nhục này.
Ngược lại, người Phật tử luôn luôn bảo vệ sinh mạng nhau, sẵn sàng tôn trọng tài sản của nhau, biết giữ gìn can thường đạo lý sống chân thành tự trọng và lúc nào cũng sáng suốt khôn ngoan. Chỉ giữ năm giới cá nhân đã khỏi sa vào hố trụy lạc, gia đình được êm ấm tin yêu; nếu toàn thể xã hội biết giữ năm giới thì hạnh phúc thay cho cuộc sống thanh bình!
Còn năm hạnh của Phật, Phật tử tại gia áp dụng vào đời sống thực tế để tạo cho mình một nếp sống đẹp đẽ và đem lại cho gia đình, cho xã hội an lạc, thuận hòa và mỹ lệ. Đó là: Từ bi, nhẫn nhục, hỷ xả, tinh tấn, trí tuệ.
Từ bi là tự tâm ta phát hiện lòng thương chân thật, biểu lộ trong hành động, ngôn ngữ chia vui sớt khổ cho nhau. Với Phật tử tại gia, đối tượng thực hiện lòng thương này là cha mẹ, anh em, vợ con, thân thuộc hàng xóm. Trong gia đình, lúc nào người Phật tử cũng đem lại sự an vui cho cha mẹ, anh em, vợ con, không bao giờ làm cho ai buồn khổ. Nếu cha mẹ, anh em, vợ con có điều gì đau khổ chính mình phải tìm cách giải cứu san sớt cho được vơi đi.
Đối với thân thuộc, hàng xóm chúng ta cũng thông cảm chia vui sớt khổ cho nhau. Những khi hoạn nạn, những lúc đau buồn của người thân thuộc nên coi như là hoạn nạn đau buồn của chính ta, cố gắng tìm cách giải cứu.
Đã thương nhau thì phải hòa thuận nhịn nhường nhau, nhất là đối với cha mẹ, dù mắng rầy quở phạt có phần quá đáng, người Phật tử vẫn nhẫn nhịn cam chịu, không bao giờ dám to tiếng chống đối, đợi khi nào cha mẹ nguôi cơn giận, ta mới nhỏ nhẹ thưa lại những nỗi hàm oan. Với anh em, ta cũng nhẫn nhịn nhau những khi buồn tức, không nên để cho cơn giận dữ nổi lên làm phân ly tình cốt nhục.
Vợ chồng phải nhường nhịn nhau, khi chồng giận vợ nhường, khi vợ tức chồng nhịn, đợi qua cơn tức giận sẽ nhã nhặn khuyên bảo nhau. Có khi nhường nhịn người ngoài dễ hơn nhường nhịn người trong nhà vì người ngoài coi nhau như là khách nhịn một chút cho qua, ít khi gặp lại nhau, người trong nhà ra vào gặp nhau nên có gì bực tức khó nhịn được.
Tập nhẫn nhục phải thực hiện ngay trong gia đình trước, khi ở gia đình đã thành công thì đối với người ngoài không khó. Có nhiều người đối đãi với bạn bè hàng xóm rất nhã nhặn vui vẻ, trái lại cư xử trong nhà thì thô bỉ cáu kỉnh. Đó là không biết thực hiện hạnh nhẫn nhục cho chính đáng.
Nhẫn nhục bậc thấp nhất là những người có quyền thế bề trên, bậc trung là những người ngang hàng mình, bậc thượng là những kẻ dưới tay mình, Phật tử chúng ta phải tiến từ bậc thấp đến bậc cao tột cùng.
Đã nhẫn nhịn được, cần phải hỷ xả, không nên ôm ấp buồn phiền trong lòng. Đã là phàm tục như nhau thì có ai tránh được sự lỗi lầm, khi người này phạm lỗi lầm người kia vui vẻ tha thứ, lúc người kia phạm lỗi lầm người này sẵn sàng hỷ xả.
Được vậy, trong gia đình sẽ giữ mãi được vẻ ấm êm tình hòa mục, bằng không thì khó thấy sự vui vầy. Cha mẹ luôn luôn có thái độ bao dung sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của con; anh em rộng lượng dung thứ nhau cho tình cốt nhục thêm nồng; vợ chồng vui vẻ tha thứ cho nhau để giữ một niềm thủy chung như nhất.
Cầu tiến, hướng thượng
Tuy nhiên, tinh thần Phật tử luôn luôn muốn xây dựng mọi người chung quanh mình được tốt đẹp, nếu thấy người có điều quấy liền nhắc nhở chỉ dạy, khi người nhận lỗi liền vui vẻ tha thứ; người phạm lỗi phải can đảm nhận lỗi, người chỉ lỗi vui vẻ thứ tha; không nên có tính cách thấy người tha lỗi mình cứ phạm lỗi mãi.
Chuyên cần cầu tiến là sự tất yếu của con người hướng thượng. Phật tử tại gia là người sống trong cảnh trần tục mà luôn luôn ôm ấp ý chí hướng thượng, lúc nào cũng cần cầu tiến.
Trước nhất, chuyên cần chuyển hóa tâm niệm, hành động, ngôn ngữ xấu xa của mình trở thành tốt đẹp. Giá trị tu tập là ở chỗ cố gắng cải hóa bản thân mình.
Thứ đến, Phật tử chuyên cần làm việc hằng ngày theo khả năng mình để đem lại cơm no áo ấm cho gia đình. Nếu cả ngày Phật tử bàn luận những lý thuyết cao siêu huyền diệu mà vợ con đói rách nheo nhóc, lý thuyết sẽ trở thành chất vị chua cay khiến vợ con chán sợ nó.
Hơn nữa, Phật tử tại gia còn phải chuyên cần mong có dư giả chút ít để giúp đỡ những người tàn tật, đói thiếu làm vơi phần nào đau khổ cho nhân loại.
Đạo Phật rất chú trọng phần trí tuệ, có trí tuệ con người mới khỏi lạc lầm, đau khổ. Dù gắng làm mọi việc lành, nếu thiếu trí tuệ phán đoán chưa hẳn việc làm ấy đã là lành. Phật tử chúng ta nếu thiếu trí tuệ không thể thành một Phật tử chân chính được. Muốn có trí tuệ, Phật tử trước phải phá những cái tin tưởng sai lầm, chớ tin đồng bóng, sâm quẻ, tướng số v.v... là những hiện tượng mê mờ.
Để được khai thông trí tuệ, người Phật tử phải học kinh điển Phật giáo, nhờ ngọn đuốc trí tuệ của Phật chiếu phá mê mờ rồi ta y cứ vào đó làm nền tảng khiến trí tuệ khai phát.
Nghiêm giữ 5 giới cấm, cần cù hành 5 hạnh lành, mỗi Phật tử không chỉ tiến tu cho mình mà còn góp phần cải thiện môi trường sống, tạo dựng hòa khí chung quanh mình cho một xã hội an lành hơn…
Bình luận 0 Thích Thanh Từ

TP.HCM: Trang nghiêm tưởng niệm Bồ-tát Thích Quảng Đức

TP.HCM: Trang nghiêm tưởng niệm Bồ-tát Thích Quảng Đức

Đăng lúc: 19:06 - 27/05/2016

Tại Văn phòng Ban Thường trực HĐTS GHPGVN phía Nam - thiền viện Quảng Đức, Q.3, TP.HCM, chư tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, BTS GHPGVN TP.HCM, Tăng Ni, Phật tử, môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm cử hành lễ tưởng niệm lần thứ 53 ngày Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân và hiệp kỵ chư Thánh tử đạo do Ban Thường trực HĐTS GHPGVN kết hợp BTS GHPGVN TP.HCM tổ chức vào sáng nay, 26-5 (nhằm ngày 20-4-Bính Thân).

ANH BT (3).JPG

ANH BT (2).JPG
Chư tôn đức HĐCM, HĐTS, BTS PG TP, quan khách tham dự

Quang lâm chứng minh và tham dự có sự hiện diện của chư tôn giáo phẩm: HT.Thích Đức Nghiệp, Phó Pháp chủ HĐCM; HT.Thích Trí Quảng, Phó Pháp chủ HĐCM, Trưởng ban Trị sự GHPGVN TP.HCM; HT.Thích Hiển Tu, Phó Thư ký HĐCM; HT.Thích Viên Giác, HT.Thích Giác Tường, đồng UVTT HĐCM.

HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS GHPGVN; HT.Thích Thiện Pháp, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS kiêm Trưởng ban Tăng sự T.Ư; HT.Thích Thiện Tánh, Phó Chủ tịch HĐTS, Phó Trưởng ban Thường trực BTS PG TP; HT.Thích Thiện Tâm, HT.Thích Giác Toàng, đồng Phó Chủ tịch HĐTS, chư tôn đức Văn phòng II TƯGH, ban, viện T.Ư, BTS PG tỉnh Long An, Bình Dương; 24 BTS PG quận, huyện TP.HCM; chư Tăng Ni các trường hạ TP.HCM, môn đồ pháp quyến Bồ-tát Thích Quảng Đức.

Đến dự lễ tưởng niệm còn có các ông: Đỗ Văn Phớn, Phó Vụ trưởng Vụ Tôn giáo Ban Dân vận T.Ư; Trần Tấn Hùng, Phó Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ; Nguyễn Văn Tính, Phó Trưởng ban Dân vận Thành ủy TP; Nguyễn Ngọc Phong, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQVN TP; Phạm Quang Đồng, Phó Giám đốc Sở Nội vụ, Trưởng ban Tôn giáo TP; Nguyễn Văn Trãi, Phó Bí thư Thường trực Quận ủy Q.3 cùng đại diện các ban, ngành, đoàn thể quận 3.

ANH BT (5).JPG
Chư tôn đức tham dự lễ tưởng niệm Bồ-tát Thích Quảng Đức

ANH BT (4).JPG
HT.Thích Thiện Pháp cung tuyên tiểu sử Bồ-tát

Tại lễ tưởng niệm, HT.Thích Thiện Pháp, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS kiêm Trưởng ban Tăng sự T.Ư đã cung tuyên tiểu sử Bồ-tát Thích Quảng Đức (1897-1963). Theo đó nêu lại hành trạng của Bồ-tát từ khi ngài mới xuất gia cho đến khi ngài thiêu thân đòi bình đẳng, hòa bình cho dân tộc, sự trường tồn của Đạo pháp.

Theo đó, năm 15 tuổi, Hòa thượng thọ giới Sa-di, năm 20 tuổi thọ giới Tỳ-kheo và Bồ-tát giới, được Hòa thượng Bổn sư ban pháp danh Thị Thủy, pháp tự Hành Pháp, pháp hiệu Quảng Đức.

Suốt cuộc đời hành đạo ở miền Trung và miền Nam, Hòa thượng đã khai sơn, trùng tu, xây dựng 31 ngôi chùa. Ngôi chùa cuối cùng nơi ngài trụ trì là chùa Quán Thế Âm, quận Phú Nhuận, TP.HCM. Sinh thời, ngài được thỉnh giữ chức Kiểm Tăng cho Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa; Phó Trị sự và Trưởng ban Nghi lễ Giáo hội Tăng già Việt Nam, trụ trì chùa Phước Hòa (trụ sở đầu tiên của Hội Phật học Nam Việt).

ANH BT (6).JPG
Mô đồ pháp quyến Bồ-tát Thích Quảng Đức

Ngày 11-6-1963 (nhằm ngày 20-4-Quý Mão), trong cuộc diễu hành trên 8.000 vị Tăng Ni để đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo và sự tôn trọng lá cờ Phật giáo, cùng sự thực thi 5 nguyện vọng chân chính của Phật giáo nên ngài đã quyết định thực hành hạnh nguyện tự thiêu, cúng dường cho Đạo Pháp và đồng thời chứng tỏ những nguyện vọng chính đáng của Phật giáo…

Chính vì tâm nguyện này, bằng tinh thần đại hùng, đại lực, đại từ bi, vô úy của đạo Phật, ngài đã tẩm xăng tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt, Sài Gòn (nay là ngã tư Cách Mạng Tháng Tám - Nguyễn Đình Chiểu, Q.3), ngọn lửa thiêu thân ngài trở thành ngọn lửa vô úy – ngọn lửa Bồ-tát Thích Quảng Đức, trái tim Xá-lợi để lại trở thành trái tim bất diệt trong lòng Tăng Ni, Phật tử khắp năm châu.

ANH BT (7).JPG
HT.Thích Thiện Nhơn đọc lời tưởng niệm

Trong không khí trang nghiêm, thành kính hướng về Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân và chư Thánh tử đạo đã xả thân cho sự trường tồn của Đạo pháp, HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS GHPGVN thay mặt TƯGH và BTS GHPGVN TP.HCM đọc lời tưởng niệm.

“Bằng đức đại hùng, đại lực, đại từ bi của Bồ-tát, ngài đã lấy tình thương xóa bỏ hận thù, lấy tình thương phủ lên sắt thép, lấy tình thương hóa giải bất công, tàn bạo, góp phần thành công cho cuộc đấu tranh đòi bình đẳng, tự do tín ngưỡng tôn giáo… Thắm thoát, 53 năm đã trôi qua, dù không gian có biến dịch, thời gian có đi qua, quá khứ đã lui về dĩ vãng, lịch sử có sang trang, nhưng công đức mà Bồ-tát và chư Thánh tử đạo đã hy sinh cho Đạo pháp trường tồn, chúng sinh an lạc, tự do tín ngưỡng được tôn trọng sẽ còn sống mãi trong lòng người con Phật Việt Nam và lịch sử Phật giáo Việt Nam cùng thế giới”- Hòa thượng nhấn mạnh.

Ngày nay, con đường được mang tên Thích Quảng Đức, chạy ngang qua chùa Quán Thế Âm, quận Phú Nhuận và Tượng đài công viên Bồ-tát Thích Quảng Đức tại Q.3, là dấu ấn sự kiện cách nay 53 năm Bồ-tát đã tự thiêu thân cho sự trường tồn của Đạo pháp. Đó là một minh chứng hùng hồn cho lịch sử, mà thế hệ trước cũng như những thế hệ sau của nhân dân thành phố, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, TP.Hồ Chí Minh mãi mãi ghi nhớ và trân trọng công đức của Bồ-tát đã hy sinh cho Đạo pháp và Dân tộc.

ANH BT (9).JPG
Chư tôn giáo phẩm niêm hương tưởng niệm

ANH BT (12).JPG
Thành kính tri ân công đức của Bồ-tát cho Đạo pháp và Dân tộc

Tại lễ đường, TT.Thích Lệ Trang, Phó ban Nghi lễ T.Ư, Trưởng ban Nghi lễ PG TP đã thành kính xướng lễ cúng dường, chư tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, BTS PG TP cùng quý khách đã thành kính niêm hương tưởng niệm công đức sâu dày của Bồ-tát đối với Đạo pháp và Dân tộc. Toàn thể đạo tràng chí thành dâng nén tâm hương tưởng niệm, nhất tâm tụng khóa Bát-nhã cúng dường Bồ-tát Thích Quảng Đức và chư Thánh tử đạo đã xả thân cho sự trường tồn của Đạo pháp.

Ngọn lửa thiêng hùng tráng, vô úy, từ bi của Bồ-tát Thích Quảng Đức và pháp thân lồng lộng của ngài, gương hy sinh cao cả của chư thánh tử đạo sẽ soi đường cho GHPGVN và Tăng Ni, Phật tử Việt Nam hoàn thành sứ mạng lịch sử thiêng liêng trọng đại, phát triển Giáo hội vững mạnh, trang nghiêm, ổn định trong lòng dân tộc.

ANH BT (11).JPG
Đại diện các ban, ngành T.Ư, TP.HCM niêm hương tưởng niệm

ANH BT (10).JPG
Phật giáo TP.HCM, các tỉnh, thành về tham dự lễ tưởng niệm

Bo-Tat Thich Quang Duc (12).JPG
Quý Ni trưởng, Ni sư thành kính tưởng niệm

ANH BT (1).JPG
HT.Thích Thiện Tánh thay mặt Ban Tổ chức đọc lời cảm tạ

Sáng nay, 26-5, tại tổ đình Quán Thế Âm, quận Phú Nhuận, trú xứ cuối cùng của Bồ-tát Thích Quảng Đức, chư Tăng, Phật tử đã trang nghiêm cử hành lễ tưởng niệm Bồ-tát Thích Quảng Đức.

H.Diệu - Ảnh: Bảo Toàn

Phật dạy 10 nghiệp lành giúp con người gặp may mắn, hạnh phúc cả đời

Phật dạy 10 nghiệp lành giúp con người gặp may mắn, hạnh phúc cả đời

Đăng lúc: 20:30 - 19/04/2016

Theo giáo lý Nhân Quả của Đạo Phật, nếu muốn mình được khỏe mạnh, giàu sang, thông minh, sáng suốt, may mắn, hạnh phúc… thì con người phải gieo những nhân thiện lành, tránh điều xấu ác.



Phật dạy 10 nghiệp lành giúp con người gặp may mắn, hạnh phúc cả đời.

Dưới đây là 10 nghiệp lành Đức Phật đã chỉ ra cho hàng Phật tử tại gia giúp thọ nhận quả báo an vui, hạnh phúc:

1, Không sát sinh

Là không giết người và các con vật lớn như trâu, bò, ngựa, chó... Phật dạy không sát sinh bởi nhiều lý do – Tôn trọng sự công bằng – Tôn trọng Phật tánh bình đẳng – Nuôi dưỡng lòng Từ Bi – Tránh nhân quả báo ứng, oán thù.

Người hay sát sinh phải thọ nhận những quả báo xấu như thọ mạng ngắn, hay gặp tai nạn, bệnh tật, gặp những điều xui xẻo không may mắn thậm chí còn đọa địa ngục.

2, Không trộm cắp

Là không lấy vật không thuộc sở hữu của mình, mà không có sự ưng thuận hay cưỡng ép người ta ưng thuận bằng thế lực hay quyền hành của mình. Người không trộm cắp được quả báo giàu sang, an ổn.

3, Không tà dâm

Không tà dâm nghĩa là không chung sống với người không phải là vợ hay là chồng của mình. Những việc quan hệ nam, nữ không được pháp luật và xã hội thừa nhận đều được xem là tà dâm.

Lạc thú của việc tà dâm là nhất thời nhưng quả báo của nó lại rất khủng khiếp.

Một người có thể có mệnh phú quý, nhưng nếu phạm tội tà dâm, có thể trở nên khốn khổ lao đao suốt cuộc đời. Một người có mệnh được hưởng phúc và thọ, nhưng nếu phạm tội tà dâm, có thể bị tật nguyền hay chết yểu...

4, Không nói dối

Những lời nói dối đưa đến chém giết, hận thù, làm cho người tán gia, bại sản, phá vỡ bình yên, hạnh phúc của người khác, hay đưa đến ganh ghét, đố kỵ… đều chịu những quả báo rất cay đắng.



Nếu như người Phật tử tại gia Quy Y Tam Bảo giữ 5 giới thì người xuất gia (tu sĩ) phải thọ 250 giới đối với các vị tăng và 348 giới với vị ni.

Người Phật tử Quy Y Tam Bảo (Quy Y: quay về nương tựa, Tam Bảo: 3 ngôi báu Phật, Pháp, Tăng) nghĩa là thực hiện 5 giới cấm: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.

Nhiều người không dám Quy Y vì sợ không giữ được giới và sợ bị trừng phạt. Tuy nhiên đây là quan niệm sai lầm. Đức Phật là người thày, không phải thần thánh có thể ban phúc, giáng họa.

Giống như người mẹ nghiêm khắc, cấm con nhỏ không sử dụng dao sắc nhọn hoặc không chơi với ổ điện, đồ điện... Đức Phật chế ra 5 giới cấm không phải để ràng buộc, trừng phạt mà đó là tấm lá chắn bảo vệ đệ tử.

Nếu như người Phật tử tại gia Quy Y Tam Bảo giữ 5 giới thì người xuất gia (tu sĩ) phải thọ 250 giới đối với các vị tăng và 348 giới với vị ni.

Chúng ta giữ 5 giới đã thấy khó khăn, vất vả, trong khi các vị xuất gia tu hành chân chính, giữ giới, sống đời phạm hạnh. Hiểu điều này, chúng ta phải có thái độ kính trọng, chuẩn mực với người tu. Như vậy, chúng ta mới có phước báu.

5, Không vu oan, vu cáo

Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân nhưng lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân đã mãnh hơn nhiều. Việc này khiến chúng ta trở nên mù quáng, đánh mất nhân tính, rời xa đạo đức, luân lý và lẽ phải ở đời.

6, Không thâm thọc

Người không nói điều thâm thọc mà hòa nhã giúp mọi người yêu thường, đoàn kết với nhau sẽ được mọi người yêu quý, kính trọng.

7, Không nói thô ác

Lời cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc... là biểu hiện của người thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu lễ giáo nề nếp. Những lời nói ấy làm đau lòng người khác, đưa đến sự xô xát, đánh nhau.

Người có học thức, hiểu biết, có tu tập sẽ không nói những lời này. Người Phật tử phải dịu dàng, từ ái, khiêm tốn dễ nghe.



Người thực hiện được 10 nghiệp lành trên thì cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh sẽ vĩnh viễn đóng lại.

8, Không gian tham

Lòng tham được thể hiện qua những thái độ sau:

- Không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn với những gì mình đang có

- Luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia...

- Luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác.

- Luôn muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người.

Lòng tham khiến con người luôn cảm thấy bất an, đau khổ thậm chí là bất chấp làm mọi điều để thỏa mãn chính mình. Có thể nói lòng tham là nguyên nhân của mọi tỗi lội.

Muốn chấm dứt các khổ đau, phiền não thì phải biết vĩnh viễn từ bỏ lòng tham này.

9, Không sân hận

Sân hận có nhiều trạng thái, mức độ và biểu hiện khác nhau, ví dụ như: bực tức, giận hờn, nổi nóng, oán hận, căm thù… có khi biểu hiện qua nét mặt (nhíu mày, nhăn mặt, trợn mắt, nghiến răng…), thái độ, lời nói (la lối, quát tháo, gào thét, dọa nạt…), cử chỉ, hành động (quăng ném đồ đạc, hành hạ, giết chóc…), nhưng cũng có khi lại không biểu hiện ra mà được giữ kín trong lòng.

Đức Phật xem sân hận là một loại độc tố có khả năng tàn phá tâm hồn và thể xác con người không chỉ trong đời này mà cả những đời sau.

Trong kinh, Đức Phật thường gọi sân cùng với tham, si là ba độc. Đức Phật còn ví sân như lửa dữ, như giặc cướp, như rắn độc: “Sân hận còn hơn lửa dữ, thường phải đề phòng không cho nó xâm nhập. Giặc cướp công đức không gì hơn giận dữ…

10, Không si mê

Người không si mê là người biết phán đoán, nhận định một cách rõ ràng, đúng đắn, không biện minh che đậy sự mê mờ, dốt nát của mình và cũng không cố chấp vào kiến thức chủ quan của mình.

Người không si mê là người có trí tuệ thông minh thấu suốt nhân quả, luân hồi nên không bao giờ tạo tội ác, và luôn luôn có những hành vi rất thiện, thường tu Thập Thiện và sẵn sàng mang lòng từ bi đến mọi người.

Người thực hiện được 10 nghiệp lành trên thì cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh sẽ vĩnh viễn đóng lại. Đời đời kiếp kiếp được sống hạnh phúc, vui vẻ, được sinh Thiên, đi đâu cũng gặp Phật pháp, thiện trí thức bằng hữu hoặc những duyên lành, phước lành.

Xuân Thu

Lắng nghe để hiểu & thương

Lắng nghe để hiểu & thương

Đăng lúc: 10:58 - 28/03/2016

Một con cú già khôn ngoan sống ở cây đa. Nó càng nhìn thấy sự đời thì càng ít nói. Mà nó càng ít nói thì lại lắng nghe nhiều. Tại sao mình lại không như con cú già khôn ngoan kia? (Khuyết danh).
bo-tat-QTa.jpg
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian...

Khi còn bé thơ, chúng ta được dạy ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Và càng nói nhiều thì đó là dấu hiệu phát triển bình thường. Nhưng ít khi nào chúng ta được dạy phải biết lắng nghe. Và phần nhiều, cha mẹ, thầy cô, các bậc phụ huynh, v.v… không để tâm nhiều đến chuyện dạy dỗ cách biết lắng nghe. Tất nhiên, cha mẹ hay các thầy cô có dạy mình phải biết nghe lời. Nhưng ít khi chúng ta được dạy cách biết lắng nghe cho đúng.

Thường khi trong một cuộc đối thoại, chúng ta muốn người đối diện nghe ý kiến của mình muốn phát biểu, hay diễn đạt hơn là mình nên lắng nghe ý tưởng của họ. Nếu đã là vậy, rõ ràng không có sự lắng nghe xảy ra. Mà hễ không có sự lắng nghe, hiểu và cảm thông sẽ không bao giờ được thiết lập. Vợ chồng thường hay gặp phải tình cảnh này, nên có câu nói chọc cười: ‘Ngày xưa chồng nói vợ nghe. Bây giờ chồng nói vợ chê lắm mồm’. Cho nên, biết lắng nghe là nhịp cầu nối đầu tiên cho sự hiểu biết, cảm thông.

Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, sở dĩ Ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp, nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ-tát, Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.

Nhiều kinh điển nói về công hạnh của Bồ-tát, về sức uy thần diệu dụng của Ngài, thường hiện thân khắp nơi cứu giúp người đang đau khổ trên trần gian. Nhưng để tu tập theo hạnh nguyện từ bi, cứu khổ của Ngài, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu thêm một số chi tiết về những hạnh nguyện đó.

Trong kinh Pháp hoa nói Ngài thường thị hiện 33 hóa thân. Nhưng theo thiển ý, chắc đây là con số tượng trưng. Ngài được mô tả là một vị Bồ-tát luôn hóa thân cứu khổ mọi loài chúng sinh. Ngài hóa thân là một hiện tượng đặc thù theo tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’, biểu lộ tấm lòng đại từ bi, không phân biệt kẻ thân, người sơ, kẻ thâm tín, người hoài nghi, thậm chí người vô thần, ngoại đạo.

Hiện tượng hóa thân nói lên sự thấu hiểu và cảm thông thật sâu sắc nỗi sợ hãi, mối ưu lo của chúng sinh trong thế giới đảo điên, mộng tưởng. Để được tiếp cận với một chúng sinh đang đau khổ, Ngài hiểu rõ rằng một người xa lạ, dù là một Bồ-tát, sẽ khó có thể đến gần để chúng sinh kia được giãi bày nguồn cơn nỗi khổ của mình.

Theo kinh nghiệm đời thường cho thấy, khi chúng ta đang đau khổ hoặc phiền não mình chỉ muốn chia sẻ với ai biết lắng nghe, thông cảm, và không có ý phê phán, bình phẩm về những điều mình đã làm sai, hay tâm tình mình đang giãi bày, thổ lộ. Và thường mình muốn chia sẻ với người quen biết, dễ thương, hoặc người nào tôn trọng ý tưởng và tình cảnh của mình. Nếu hiểu được điều này, chúng ta có thể đóng vai sứ giả của Đức Quán Thế Âm, lắng nghe mà không phê bình, chỉ trích để giúp làm vơi nỗi khổ của người.

Thật ra, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng làm sứ giả Quán Âm, và muốn thành tựu vai trò này đòi hỏi mình phải biết lắng nghe.

Nhưng biết lắng nghe là một nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải quên mình đi mà chỉ biết nghe người kia đang nói gì. Biết lắng nghe đòi hỏi mình phải biết lắng đọng tâm tư để nghe rõ thông điệp của người mình đang đối diện. Cái bi kịch thường hay xảy ra cho chúng ta là khi mình muốn học hạnh lắng nghe nhưng cứ mỗi khi nghe xong câu chuyện mình lại diễn dịch nó qua lăng kính kinh nghiệm của bản thân, giống như mình nhìn thấy một sự kiện qua cặp kính màu của mình, nên thay vì hiểu và cảm thông, chúng ta lại chỉ trích hay phê phán người đối diện là dở cái này, thiếu cái nọ.

Do đó, hành động lắng nghe của mình bị thất bại. Nếu chúng ta biết lắng nghe qua tâm hạnh từ bi như Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta biết tôn trọng ý tưởng của người nói và lắng nghe cho kỹ những nỗi khổ đau mà họ đang trải nghiệm, thì công sức lắng nghe của mình sẽ chắc chắn mang lại một kết quả tốt và có thể sẽ làm vơi đi nỗi khổ của người.

Ngoài việc hóa hiện các thân để cứu độ, Ngài còn có khả năng làm cho chúng sinh hết lo sợ (vô úy thí). Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn có nêu lên 14 hoàn cảnh, những trường hợp tượng trưng, mà Ngài đã vận dụng năng lực vô úy để cứu độ. Năng lực vô úy là một khả năng đặc thù mà chỉ có những ai thật định tĩnh, tự tin, và từ bi vô hạn mới có thể làm được. Như một bà mẹ thương con vô cùng mới có thể làm con mình yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm. Sở dĩ chúng ta cảm thấy an lòng, không hoảng sợ, kinh hoàng trước sự hiện diện của Bồ-tát Quán Thế Âm vì Ngài sẵn lòng hy sinh bản thân để cứu độ mọi người.

Chúng ta cũng đã từng nghe qua năng lực vô úy này được các thiền sư thể hiện, như trong câu chuyện sau: Trong thời nội chiến ở Triều Tiên, một vị tướng soái dẫn quân đánh chiếm hết vùng này đến vùng kia, hủy diệt hết những gì cản trở bước tiến của ông ta. Dân chúng trong thành biết đoàn quân của vị tướng đang đánh tới, và nghe tiếng tàn bạo của ông ta nên mọi người đều trốn lánh vào vùng núi cao.

Vị tướng tiến chiếm thành không người và ra lệnh quân lính tìm kiếm dân trong thành khắp nơi. Vài người lính trở về báo cáo chỉ có một thiền sư còn ở lại. Vị tướng quân liền vội vã đến chùa, đi thẳng vào bên trong, rút gươm ra, và nói: “Lão thầy chùa kia, ông không biết ta là ai sao? Ta là người có thể thản nhiên lấy mạng của ông không chớp mắt”. Vị thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông tướng soái và bình thản trả lời: “Và tôi, thưa ngài, là người có thể để ngài lấy đầu mà cũng không chớp mắt”. Vị tướng quân nghe xong, liền cúi đầu và bỏ đi.

Sợ hãi là bản năng của con người, ai sinh ra cũng có. Nhưng các bậc thánh, hay như người căn tính yếu kém như chúng ta, nếu biết tu tập tinh chuyên và có lòng từ bi vô lượng, đều có khả năng, không những vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, mà còn khéo giúp người khác an tâm, không lo sợ. Tu tập hạnh từ bi có khả năng giúp mình vượt qua khổ hải và cũng giúp được người vơi bớt khổ đau. Vậy muốn có được năng lực vô úy thì chúng ta không thể thiếu hạnh từ bi.

Tuệ giác của pháp môn lắng nghe, không chỉ nằm trong việc lắng nghe âm thanh, lời nói, ngôn ngữ của người đối diện, mà còn vận dụng hết cả thân tâm mình từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và cả ý căn, để hiểu thấu và thấy rõ từ cử chỉ, hành vi, và sắc diện của họ đang nói lên những gì, mà lời nói, ngôn ngữ chưa diễn đạt, trình bày được hết ý của câu chuyện.

Chỉ cần vận dụng một phần ba (1/3) năng lượng của tuệ giác lắng nghe là chúng ta đã có thể giúp vơi đi nỗi khổ của người khác nhiều lắm rồi. Nhưng tiếc thay, đa số chúng ta thích nói hơn là thích nghe nên năng lượng của tuệ giác lắng nghe ít khi được sử dụng. Sở dĩ, mình thích nói hơn lắng nghe vì bản ngã, hay cái ta, đóng vai trò lớn trong việc thể hiện tầm quan trọng của bản thân, con người mình. Không ai muốn đóng vai trò ‘thấp cổ, bé miệng bao giờ!’. Hiểu rõ được điều này và phải vận dụng nhiều công phu tu tập mới có được chút khả năng lắng nghe vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Nhân ngày lễ vía của Đức Bồ-tát, chúng ta hãy cùng nhau vận dụng hết năng lực của mình để nhất tâm tu tập nguyện noi theo công hạnh của Ngài và để xứng đáng làm một sứ giả của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Tháng 10-2015
Tuệ Nghiệp

Thử hỏi lại mình

Thử hỏi lại mình

Đăng lúc: 21:19 - 24/11/2015

Có khi ngồi một nơi yên tĩnh nhìn lại chính mình, cuộc đời cứ trôi qua mang theo đó bao nhiêu vui buồn thương ghét. Chúng không mất mà nằm lại trong tàng thức, chẳng phân biệt sai đúng, tốt xấu, khổ vui, sanh tử hay Niết-bàn.

Chỉ ở chỗ, vui nhiều hơn buồn, thiện nhiều hơn ác, để rồi trong quá trình huân tập mà thọ nhận được cảnh an vui căn nghiệp của chính mình. Thấy người cứ loanh quanh khổ do chính mình tạo ra mà mình thấy khổ lây, như hiệu ứng dây chuyền, nhìn người ăn me chua mà miệng ứa nước miếng, trông thấy họ cắn đá lạnh mà mình thấy ê răng! Từ lục căn đến lục trần rồi đến lục thức. Cuộc sống cứ bám riết vào hiện tượng bên ngoài vốn vô thường nên khổ miết.


Là Phật tử, cần sống theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm
Sống trong sân si, hơn thua lừa lọc, ăn miếng trả miếng, chỉ làm khổ mình khổ người ngay cả trong hiện tại cho đến tương lai. Chấp chứa chi trong lòng mà không buông bỏ, vất cái đau khổ đó đi?

Nói chung là chưa chịu xả.

Muốn xả được thì phải lắng nghe và thấu hiểu. Lắng nghe với một cái tâm không thành kiến và tỉnh thức phân biệt đúng sai trong chánh niệm để biết thương nhau hơn.

Trong kinh Tăng chi bộ (kinh Sáu pháp vô thượng), Đức Phật dạy:

“Thầy Tỳ-kheo phải tu sáu pháp vô thượng. Những gì là sáu?

1. Mắt thấy sắc, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

2. Tai nghe tiếng, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

3. Mũi ngửi mùi, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

4. Lưỡi nếm vị, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

5. Thân chạm xúc, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

6. Ý đối với pháp, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

Ai được sáu pháp này là bậc vô thượng, là phước điền của chúng sinh, xứng đáng cho trời, người tôn trọng, cung kính, cúng dàng”.

Chỉ vì không lắng nghe mà sinh ra hiểu lầm nghi kỵ, sinh ra thù hận. Chỉ vì không lắng nghe nên vườn hoa biến thành vũng lầy, từ đồng xanh biến thành hoang địa!

Không dừng lại ở cái “tiểu ngã” trong tôi mà còn phải nghe thấy cả tiếng gọi quanh đây của trời đất bạt ngàn “đại ngã” kia để có sự quán chiếu mà cảm thông gìn giữ cứu hộ bảo bọc sống cùng nhau trong cảnh hạnh hòa.

“Thương người như thể thương thân”, câu tục ngữ Việt Nam đầy tính nhân văn đã gắn liền trong tâm thức con người trong cộng đồng, là lời nhắc nhở phải biết yêu thương trân trọng người khác như chính bản thân mình.

Sống trong thế giới chấp thủ thường khiến mình đau khổ vì phân biệt nhị nguyên đúng sai giả thật, khi đã chấp ngã rồi thì lọt vào thế giới vô minh nên chẳng hiểu mình hiểu người, ví như làm cha mẹ không hiểu tánh tình con cái, đã vợ chồng lại chẳng thấu lòng nhau.

Không dừng lại ở đó, sự lắng nghe trong nhẫn nhịn, trong chịu đựng, chấp nhận và thấu hiểu như Đức Phật đã dạy cõi Ta-bà này biết bao nhiêu thống khổ cần sự bao bọc chở che đầy vị tha với tinh thần vô úy mới tìm đến an lạc.

Vậy, tại sao mình không đem nụ cười cảm thông đến với người cho cuộc đời thanh thản dễ chịu hơn? Bởi cái lẽ thật cuộc đời là thấy rõ cái bản chất của mình, cái chủng tử có từ muôn ngàn kiếp trước mắc lên thân người, mà thân người có gì bất biến để tâm phân biệt bao che buộc người khác làm theo ý mình để rồi tâm cứ chấp mãi chất chồng?

Nhà Phật có câu “người tu hành thì giận không quá một đêm”, đó cũng là một cách thấu hiểu và cảm thông trong cuộc sống vốn đầy trắc ẩn bộn bề sinh tử này.

Là Phật tử, sống theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm, hàng ngày tụng niệm “Thề trọn đời giữ đạo, Theo tự tánh làm lành, Cùng pháp giới chúng sinh, Cầu Phật từ gia hộ”. Thế đã lắng nghe từ tự tánh thì nhận ra cái tâm vốn chẳng sanh chẳng diệt, chấp nhận cái “phiền toái” kia mà lấy làm tánh bồ-đề.

Biết lắng nghe cũng là một nghệ thuật như người mẹ hiểu con mình, như bác sĩ biết con bệnh, như Bá Nha gặp bạn tri âm Tử Kỳ. Thử hỏi, làm sao không hạnh phúc khi được người khác hiểu mình? Và, có những điều không thể nói, không thể hiểu thì “sự lắng nghe” kia cũng đã làm vơi bớt khổ đau của người khác rồi.
Thục Đ

Hội Phật giáo Hàn Quốc thăm MTTQ Việt Nam

Hội Phật giáo Hàn Quốc thăm MTTQ Việt Nam

Đăng lúc: 18:44 - 28/10/2015

Ngày 28- 10, ông Wuam Jinwon đã dẫn đầu đoàn đại biểu tôn giáo, đại diện cho Hội Phật giáo Hàn Quốc đến thăm UBTW MTTQ Việt Nam. Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch- Tổng thư ký Vũ Trọng Kim đã thân mật đón tiếp.

Gửi

Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký Vũ Trọng Kim tại buổi tiếp
ông Wuam Jinwon, dẫn đầu đoàn đại biểu tôn giáo, đại diện cho Hội Phật giáo Hàn Quốc

Tại buổi tiếp, Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký Vũ Trọng Kim đánh giá cao chuyến thăm của đoàn tại Mặt trận- ngôi nhà Đại đoàn kết – nơi gắn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Đặc biệt, đối với các tôn giáo, Mặt trận luôn là một địa chỉ tin cậy phản ánh các ý kiến, kiến nghị của đồng bào Tôn giáo đến với cơ quan Đảng, chính quyền từ trung ương đến địa phương.

Với hơn 23 triệu tín đồ tôn giáo trên cả nước, ông Vũ Trọng Kim khẳng định, hoạt động tôn giáo tại Việt Nam ngày càng được Nhà nước tạo điều kiện, cơ sở thờ tự được sửa chữa, xây mới khang trang, đặc biệt với việc xây dựng Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo càng khẳng định rõ hơn việc Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do, tín ngưỡng của đồng bào tôn giáo.

Trong những năm qua, mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nhà nước Việt Nam và Hàn Quốc trên nhiều lĩnh vực chính là tiền đề để thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa, tôn giáo. Phó Chủ tịch- Tổng thư ký Vũ Trọng Kim nhấn mạnh, MTTQ Việt Nam sẽ là cầu nối giao lưu giữa phật giáo Việt Nam và Hàn Quốc từ đó góp phần thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp giữa Phật giáo hai nước, góp phần phát triển mạnh mẽ mối quan hệ giữa hai nhà nước Việt Nam và Hàn Quốc.

Thay mặt đoàn, ông Wuam Jinwon bày tỏ lời cảm ơn Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký Vũ Trọng Kim đã dành thời gian tiếp đoàn và mong muốn trong thời gian tới, UBTWMTTQ Việt Nam sẽ là địa chỉ tin cậy để kết nối giao lưu văn hóa, tôn giáo giữa Việt Nam và Hàn Quốc, đặc biệt trong những dịp lễ Phật đản, những ngày lễ lớn của quốc gia.

Hương Diệp

Nghệ An: khai mạc Hội nghị tập huấn cho Tăng, Ni, Phật tử trên địa bàn tỉnh.

Nghệ An: khai mạc Hội nghị tập huấn cho Tăng, Ni, Phật tử trên địa bàn tỉnh.

Đăng lúc: 23:01 - 16/10/2015

Sáng nay 16/10/2015, tại nhà hội trường nhà khách Nghệ An, số 4 Phan Đăng Lưu, Tp.Vinh, Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ tỉnh Nghệ An khai mạc Hội nghị tập huấn chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước về tôn giáo; hiến chương và các quy định của giáo hội cho Tăng, Ni, Phật tử trên địa bàn Thành phố Vinh năm 2015.


Về phía đại biểu tỉnh Nghệ An có ông Lê Xuân Đại, phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An, Ông Lưu Công Vinh, Phó giám đốc sở nội vụ - Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh. TT.Thích Thọ Lạc, Phó ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An cùng Tăng,Ni trong BTS, các ông bà đại diện các ban ngành các cấp tham dự .

Tập huấn chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước và các quy định của giáo hội cho Tăng, Ni, và 800 Phật tử trên địa bàn Nghệ An, đợt này Ban Tôn giáo – Sở Nội vụ tỉnh Nghệ An tổ chức tập huấn từ ngày 16/10/2015 cho đến hết ngày 26/10/2015 tại bốn điểm trong tỉnh:
+ Điểm thứ nhất: từ ngày 16 và 17/10/2015 tại nhà khách Nghệ An,số 4 Phan Đăng Lưu,thành phố Vinh. (Bao gồm :Tp Vinh, Nghi Lộc, TX Cửa Lò)
+ Điểm thứ hai: từ ngày 19 và 20/10/2015 tại Khánh sạn Đại Dương,xã Diễn Thành,huyện Diễn Châu.
(Bao gồm các huyện : Diễn Châu ,TX Hoàng Mai)
+ Điểm thứ ba: từ ngày 23 và 24/10/2015 tại thị xã Thái Hòa.
(bao gồm: TX Thái Hòa, huyện Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn,Tân Kỳ)
+ Điểm thứ hai: từ ngày 25 và 26/10/2015 tại nhà khách huyện ủy Đô Lương.
(Bao gồm các huyện :Đô Lương, Anh Sơn, Con Cuông, Thanh Chương)

Trên địa bàn tỉnh hiện có 2 tôn giáo hợp pháp: Công giáo và Phật giáo, ngoài ra có một số tín đồ các tôn giáo khác, trong đó, có 46 ngôi chùa và 01 niệm Phật đường, số lượng chùa có sư trụ trì 24 chùa, với khoảng 30-45 ngàn phật tử, có một số cơ sở có nguồn gốc Phật giáo đang thực hiện các thủ tục để tiếp tục xin phục hồi.



ông Lê Xuân Đại, phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An phát biểu khai mạc hội nghị.
Thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, những năm qua cấp ủy chính quyền các cấp tỉnh Nghệ An đã thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo về công tác tôn giáo, tạo điều kiện thuận lơi cho các tôn giáo hoạt động hợp pháp trên địa bàn.
Tại Hội nghị, ông Nguyễn Văn Long, phó Ban Tôn giáo – Sở Nội vụ đã phổ biến, trao đổi các nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm chính sách của Đảng ta về tôn giáo; Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo; Nghị định 92/2012/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lện Tín ngưỡng tôn giáo và một số văn bản liên quan hoạt động tôn giáo.Tình hình hoạt động Phật giáo;Công tác Quản lý Nhà nước đối với hoạt động Phật giáo.
Đại diện BTS GHPG tỉnh Nghệ An,thầy Thích Định Tuệ giảng các chuyên đề “ Hiến chương sửa đổi lần V; Nội quy tăng sự Trung ương GHPG Việt Nam; Quy chế hoạt động BTS GHPG cấp tỉnh,cấp thành phố trực thuộc TW; Quy chế hoạt động và các văn bản quan trọng của BTS tỉnh hội.

Qua lớp tập huấn, các đại biểu nâng cao nhận thức về công tác tôn giáo nói chung và kỹ năng, nghiệp vụ trong quản lý Nhà nước đối với công tác tôn giáo Phật giáo nói riêng. Từ đó giải quyết tốt các vấn đề về tôn giáo, nêu cao tinh thần cảnh giác và lợi dụng tôn giáo với các hoạt động trái với luật pháp, gây mất ổn định an ninh chính trị ở địa phương.


Đại biểu tham dự hội nghị
Mục đích hội nghị sẽ giúp Tăng, Ni, Ban hộ tự, Phật tử trên địa bàn tỉnh hiểu đầy đủ về chính sách tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo. Trên cơ sở đó thực sự yên tâm, tin tưởng, nhất là chuyển biến về thái độ, trách nhiệm, tôn trọng chấp hành pháp luật, tôn trọng hợp tác với chính quyền trong công tác tôn giáo nhằm đảm bảo tốt nhất quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào có đạo và phát huy tích cực của các tôn giáo, đoàn kết với nhân dân xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp, bình yên.
Vũ Thái Quảng.

Hàn Quốc: Chùm ảnh Đàn truyền giới cho 300 giới tử sinh viên tại Phụng Ân Tự

Hàn Quốc: Chùm ảnh Đàn truyền giới cho 300 giới tử sinh viên tại Phụng Ân Tự

Đăng lúc: 06:48 - 27/07/2015

Buổi chiều 14:00 ngày 19/07/2015, tại Tổ đình chư tôn Thiền đức Tăng già Chùa Phụng Ân, tọa lạc tại 73 Samseong-dong, quận Gangnam-gu, Tp.Seoul, Korea đã tổ chức giới đàn Truyền thụ Tam Quy Ngũ giới lần thứ 45 cho 300 sinh viên Phật tử.
Hòa thượng Wonhak, Trụ trì Tổ đình Bongeunsa (Phụng Ân Tự) Khai thị rằng:
- Này các Thiện nam, Tín nữ hãy lắng nghe: “Đời là bể khổ mênh mông không bến bờ. Nếu không có đức Thế Tôn (Phật) viên mãn công đức, Từ bi, Trí tuệ thì chúng ta chẳng biết nương vào đâu để cầu được an lạc hạnh phúc. Vậy các Thiện nam, Tín nữ muốn được an lạc hạnh phúc phải quy kính Tam bảo; muốn thoát khỏi luân hồi khổ ải thì nên thọ trì giới pháp.
Phật Pháp Tăng (Tam Bảo) là thuyền từ vượt qua bể khổ trầm luân, là ánh sáng soi đường dẫn bước trong bóng đêm mê tối, là bước chân an lạc đi đến Thiên Nhân, là bước đầu tiên của đạo quả.
Trong kinh Phật dạy rằng: “Nếu chúng sinh nào muốn cầu thoát khổ, hưởng quả an lạc hạnh phúc trọn vẹn, thì nên quy y Tam bảo; nếu ai đem tâm thanh tịnh quy kính trong giây phút thì đời đời thế nào cũng được Niết bàn an lạc.”
Quy y là gì ? Là tôn thờ, vâng theo hay quay về. Tôn thờ ngôi Tam bảo, vâng theo lời chỉ giáo và quay về với tâm thanh tịnh của chúng ta. Thầy khuyên các người trước phải nhận lãnh Tam quy, sau nên thọ trì Ngũ giới.
Tam quy là quy y với Phật, Pháp và Tăng. Phật là đấng đã giác ngộ hoàn toàn. Chúng sinh mê lầm trong bể sinh tử, không biết tự giác; đức Phật giác ngộ tất cả đều vô thường, chứng được đạo niết bàn nên gọi là Giác giả. Đức Phật trong hiện tại là đức Thích ca Mâu ni đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, là đạo sư cả ba cõi, cha lành của muôn loài, trí huệ vô lượng, phước đức cao cả!
Pháp là đạo pháp chơn chính. Nghĩa là những phương pháp Phật đã dạy, nếu ai tin tưởng tu hành sẽ được trừ hết phiền não, chứng quả yên vui thanh tịnh như Phật.
Tăng là chúng hòa hợp thanh tịnh, xuất gia đệ tử Phật, hiến đời mình cho đạo, tuân theo kinh luật mà tu trì, làm ruộng phước cho nhân thiên, làm gương lành cho muôn loài.
Tam bảo có đủ công đức như thế. Cho nên, Phật Pháp Tăng là ba ngôi quý báu nhất của thế gian và xuất thế gian. Nếu người nào phát tâm quy y thì không đọa vào ba đường dữ, luôn gặp Phật, mau chứng quả Bồ đề.
Phật tử, các ngươi đã quy y Phật rồi, từ nay phải tôn Phật làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với trời, thần, quỷ, vật vì những kẻ ấy là phàm phu còn quanh quẩn trong ba cõi, không đầy đủ trí huệ như Phật là đấng đã giải thoát vòng sinh tử của thế gian.
Quy y Pháp rồi, từ nay về sau phải tôn Pháp làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với ngoại đạo tà giáo vì những đạo pháp ấy không phải là những phương pháp xuất thế, có thể làm cho chúng ta thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi được.
Quy y Tăng rồi, từ nay về sau phải tôn Tăng làm thầy, thà bỏ thân mạng, quyết không quy y với bè đảng xấu ác vì những người ấy không thể so với hàng đệ tử Phật đã tu chứng Tam thừa, Tứ quả.
Giờ đây các người đã chân thành quy y, sẽ được Tam bảo luôn luôn cứu hộ, hiện tại chắc chắn yên vui, tương lai sẽ được sinh về Cực lạc. Tam bảo đã có công năng như thế, các ngươi nên đêm ngày tưởng nhớ thì quyết chứng được quả bồ đề vô thượng. Vậy các ngươi hãy đọc theo thầy những lời thề nguyện:
Đệ tử đã quy y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y trời, thần, quỷ, vật.
Đệ tử đã quy y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo.
Đệ tử đã quy y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y bè đảng xấu ác.
bây giờ thầy sẽ trao cho năm giới pháp. Giới pháp này rất khó gặp, nếu Phật không ra đời thì không có. Giới pháp này đủ sức trừ sạch phiền não sanh tử và đưa chúng ta đến đạo quả Bồ đề giải thoát. Bởi lẽ ấy, giờ đây các người muốn thoát sinh tử, cầu chứng Niết bàn, nên gắng lãnh thọ giới pháp.
Lãnh giới pháp này, đàn ông thì gọi là Ưu bà tắc, đàn bà thì gọi là Ưu bà di, nghĩa là những người đã bỏ dữ làm lành, gần gũi phụng sự Tam bảo. Trong năm giới này các ngươi có thể tùy năng lực và hoàn cảnh của mình mà lãnh thọ một giới, gọi là nhất phần Ưu bà tắc (hay Ưu bà di); lãnh thọ hai giới gọi là thiểu phần; lãnh thọ ba giới gọi là bán phần; lãnh thọ bốn giới gọi là đa phần; và lãnh thọ cả Năm giới gọi là mãn phần.
Vậy, bây giờ các ngươi muốn lãnh thọ phần nào, giới nào, tùy theo hoàn cảnh và năng lực mình mà thọ lãnh. Nhưng phải nhớ: khi đã thọ lãnh giới nào thì dù gặp hoàn cảnh có thể mất tính mạng, thề quyết không hủy phạm. Vì sao thế? Vì giới pháp là thuyền bè đưa chúng ta ra khỏi bể khổ sinh tử luân hồi, thật là khó gặp mà thân mạng thì dễ mất, dầu có giữ gìn cho lắm rồi nó cũng sẽ mất; nếu không giữ giới thì thuyền bè bể rạc tất nhiên phải chìm đắm, khổ đau nhiều đời!
Bây giờ Thầy sẽ truyền trao giới pháp, giới tướng để lãnh thụ mà tu trì:
Giới Thứ Nhất:
Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện sẽ không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.
Giới Thứ Hai:
Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn.
Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.
Giới Thứ Ba:
Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con.
Con ý thức được rằng những hành động bất chánh sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.
Giới Thứ Tư:
Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải.
Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.
Giới Thứ Năm:
Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con.
Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.
Phật tử! Các ngươi được thọ giới rồi, từ nay phải khéo giữ gìn, dù gặp nhân duyên trắc trở cũng không nên hủy phạm. Nếu ai phạm những giới trên đây, hiện tại mất hết nhân cách và nền móng tốt đẹp; tương lai phải chịu nhiều kiếp đọa đày trong cảnh giới đau khổ. Các ngươi hãy cố gắng lên!”.
Giới tử thọ Tam quy, Ngũ giới xong, mỗi người đốt liều (vết sẹo) trên cánh tay để phát nguyện trọn đời gìn giữ giới pháp đã thọ, và sau đó chụp hình lưu niệm, nhận giấy Chứng nhận Quy y Tam bảo.
Một số hình ảnh Truyền thụ giới pháp, kính trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc cùng chia sẻ với Phật giáo nước bạn :

















Thích Vân Phong

Học để hoàn thiện chính mình

Học để hoàn thiện chính mình

Đăng lúc: 07:29 - 21/07/2015

Học để hoàn thiện chính mình là việc học suốt cả cuộc đời, chẳng thể nào được tốt nghiệp trọn vẹn, nếu ta không có đủ ý chí và nghị lực.


Thứ nhất: “Học để biết cách hiếu thảo với ông bà cha mẹ”. Cây có cội, nước có nguồn. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Biết ơn và đền ơn là quy tắc đạo thờ ông bà tổ tiên dân tộc Việt Nam và người tu theo đạo Phật.

Thứ hai: Học để biết ơn thầy tổ. Thầy ở đây bao gồm thầy dạy chữ và dạy nghề nghiệp. Ngoài ra ta còn biết ơn thầy dạy về đạo đức luân lý sống trong xã hội. Trước tiên là học lễ phép, sau đó mới học chữ và học nghề chân chính.

Thứ ba: Học để biết ơn đất nước, ơn các vị lãnh đạo có công giúp cho mọi người ổn định về đời sống an sinh xã hội và biết ơn các anh hùng nghĩa tử.

Thứ tư: Học để biết ơn tất cả mọi người và muôn loài vật. Ta không làm ruộng nhưng vẫn có gạo ăn và cứ như thế có rất nhiều nhu cầu khác để giúp cho ta bảo tồn sự sống, chính vì vậy mà ta cần phải biết ơn muôn loài vật.

Thứ năm: Học để biết cách sinh tồn. Để được sinh tồn và cuộc sống có ý nghĩa, ta phải biết điều hòa sức khỏe, không lãng phí thời gian, luôn làm tròn trách nhiệm đối với gia đình người thân và đóng góp lợi ích xã hội.

Thứ sáu: Học để biết cách lắng nghe và nhận ra sai lầm về bản thân mình. Con người thường hay che dấu lỗi lầm của mình mà hay đổ lỗi cho người khác. Biết nhận lỗi và hứa sửa sai là người tốt trong hiện tại và mai sau.

Thứ bảy: Học sống chân thành bằng tình thương yêu chân thật. Thầy người khác làm việc tốt ta nên hoan hỷ vui theo, người giàu có thì bố thí vật chất, kẻ nghèo khó thì bố thì bằng lời nói an ủi, động viên giúp đỡ và hành động giúp người khi gặp hoạn nạn.

Thứ tám: Học để biết cách sống hòa hợp với mọi người. Làm người khó ai được hoàn hảo, chính vì vậy ta phải chấp nhận quan điểm của người này, người kia một chút thì cuộc sống sẽ được bình an hạnh phúc.

Thứ chín: Học để thấu hiểu mọi lẽ thật giả trong cuộc đời. Thiếu hiểu biết con người sẽ sinh ra tranh chấp, hơn thua, phải quấy, đúng sai mà dẫn đến oán giận thù hằn và tìm cách giết hai lẫn nhau.

Thứ mười: Học để biết cách buông xả mọi phiền não khổ đau. Cuộc đời giống như thay quần mặc áo. Khi cần dùng thì ta chăm sóc chu đáo, kỹ lưỡng đến khi chúng không còn giá trị nữa thì ta phải vứt bỏ đi. Thời gian sớm qua mau, mạng người sống trong hơi thở, ta phải biết tôn trọng bao dung và tha thứ để an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh.


Thích Đạt Ma Phổ Giác

Hội đồng Phật giáo New York lên tiếng về nạn sư giả

Hội đồng Phật giáo New York lên tiếng về nạn sư giả

Đăng lúc: 08:41 - 20/07/2015

Một tổ chức Phật giáo lớn của địa phương cho biết hôm thứ Sáu (17-7) rằng, những người trong hình thức nhà sư có mục đích gây áp lực quyên góp ở High Line (New York, Hoa Kỳ) không phải là sư thật – và hành động của họ không phải là việc làm thánh thiện.
su gia.jpg
Sư giả ở New York đang xin tiền
Họ rất dễ phát hiện khi bạn đi dọc theo High Line – những người đàn ông mặc áo dài như các nhà sư Phật giáo truyền thống.
Hội đồng Phật giáo của New York cũng cảnh báo rằng những người đàn ông này thực sự chỉ là những kẻ lừa đảo tìm cách để kiếm tiền.
“Việc thực hành Phật giáo thường xuyên không bao giờ được thực hiện như thế”, T.K. Nakagaki thuộc Hội đồng Phật giáo của New York, nói.
Các sư giả này trước tiên sẽ đưa ra một tấm thẻ màu vàng sáng bóng để gây sự chú ý của người dân.
Sau đó, nói rất ít, họ cố gắng để trao cho khách qua đường một xâu chỗi đeo tay với một gợi ý quyên góp. Họ nói rằng tiền là để xây dựng một ngôi chùa.
Một trong những sư giả cho biết ngôi chùa được lên kế hoạch xây dựng ở Đài Loan. Sau đó những người này yêu cầu đóng góp từ 5 đến 20 USD.
Nhiều người nói rằng cách tiếp cận của họ rất hung hăng – ngược với các nhà sư thực sự.
“Tôi thấy anh ta tiếp tục cố gắng đưa ra tấm thẻ”, Neeka Nazhand ở San Francisco cho biết. “Chúng tôi bỏ đi cho thấy rằng chúng tôi không quan tâm, và anh ta vẫn cố buộc chúng vào chúng tôi”.
su gia 2.jpg
Những người bán hàng ở High Line cho biết các tu sĩ giả ở đó mỗi ngày, và dường như số người này ngày càng được nhân lên (ảnh).
“Trước đây chỉ có một người, và sau đó đã có đến 10 người trong số họ”, Elvira Kamalova, người bán hàng, nói. Cô cho biết các nhà sư giả đã làm phiền mọi người.
Hội đồng Phật giáo nói những người đàn ông này không chỉ là một mối phiền toái mà họ còn đang gây tiếng xấu cho Phật giáo.
“Đối với tôi, nó là sự thiếu tôn trọng đối với Phật giáo và hình ảnh của Phật giáo”, Nakagaki nói.
Văn Công Hưng (Theo CBSNewYork)

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 11
  • Hôm nay 3,293
  • Tháng hiện tại 39,748
  • Tổng lượt truy cập 23,445,997