Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Thiền sư Tông Diễn & hành trình tìm lại người mẹ ly biệt

Thiền sư Tông Diễn & hành trình tìm lại người mẹ ly biệt

Đăng lúc: 18:16 - 12/08/2016

“Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Với tinh thần đó, đọc lại lịch sử Phật giáo Việt Nam, nhất là qua gương sống của chư vị thiền sư, các bậc xuất gia, ngoài công hạnh tu tập, hành đạo, chúng ta còn gặp nhiều câu chuyện hiếu đạo hết sức đặc biệt. Trong số đó, phải kể đến Thiền sư Tông Diễn.

minhhoa.jpg
Minh họa - Nhuận Thường

Chuyện ghi lại rằng, Thiền sư Tông Diễn, hiệu Chân Dung (1640-1711), người thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Sư là Tổ thứ 2 của dòng thiền Tào Động ở Việt Nam. Ngoài đạo nghiệp, cuộc đời của Thiền sư Tông Diễn còn có một sự tích rất cảm động lòng người. Đó là câu chuyện về lòng hiếu thảo của ngài với người mẹ của mình.

Sư mồ côi cha từ nhỏ, mẹ tảo tần chạy chợ buôn bán để nuôi sư. Năm sư 12 tuổi, một hôm bà mẹ chuẩn bị gánh hàng ra chợ bán, dặn con: “Mẹ có mua sẵn một giỏ cáy (cua) để sẵn ở ao, trưa nay con giã cáy nấu canh, trưa về mẹ con mình dùng”. Bà gánh hàng đi rồi, gần đến giờ nấu cơm, sư ra ao xách giỏ cáy lên định đem giã nấu canh như lời mẹ dặn, song nhìn thấy những con cáy tuôn những hạt bọt ra, dường như khóc rơi từng giọt nước mắt. Xót thương quá, sư không đành đem giã, lại đem đến ao giở nắp giỏ thả hết.

Đến trưa bà mẹ đi bán về, vừa nhọc nhằn vừa đói bụng, hai mẹ con lên mâm cơm ngồi ăn, bà không thấy món canh cáy liền hỏi lý do. Sư thưa: “Con định đem đi giã, thấy chúng nó khóc, con thương quá đem thả hết”. Bà mẹ nổi giận, bỏ bữa cơm, chạy lấy roi đánh sư một trận như lôi đình. Sợ quá, sư chạy một mạch không dám ngó lại. Từ đó sư và mẹ ruột ly biệt.

Sau khi chạy khỏi nhà, sư mệt quá ngất đi và được một sư cụ đưa về chùa cưu mang. Từ đó sư ở chùa và rồi xuất gia. Sau khi đã tu hành sáng đạo, một bữa sư tọa thiền, lòng bỗng nhớ đến người mẹ xưa. Ngài nghĩ mẹ giờ chắc đã già yếu không có ai chăm sóc. Người tu hành từ bỏ đời sống gia đình nhưng ơn sinh thành dưỡng dục thì phải đền đáp. Nghĩ vậy ngài liền về quê cũ tìm mẹ nhưng tìm không ra. Bởi vì sau buổi lỡ giận đánh con đó, mẹ ngài cũng hối hận đi lang thang khắp nơi tìm con.

Đến hơn ba mươi năm sau, người mẹ thì cũng già yếu nên trở về quê cũ và mở một quán nước để làm kế sinh nhai và tiện việc hỏi han tin tức con mình. Suốt mấy chục năm bà chỉ mong tìm được đứa con trai duy nhất để nói một câu xin lỗi, có thế thì mới yên lòng nhắm mắt và gặp lại chồng dưới chín suối.

Về phần mình, sư vẫn dò la tin tức về người mẹ đã ly biệt. Một dịp, sư lại về làng cũ và vào quán trà của bà lão uống nước. Thấy bà lão đầu tóc bạc phơ đang châm trà bán cho khách, đợi đến lúc bà lão rảnh, sư mới hỏi thăm lai lịch. Bà thở dài than:

- Bạch sư cụ, chồng tôi mất sớm, có một đứa con trai mà nó bỏ đi mất từ khi được mười hai tuổi. Thân già hôm sớm không ai, tôi phải lập quán bán nước trà, kiếm chút ít tiền sống lây lất qua ngày.

Sư hỏi:

- Cụ có muốn vào chùa không, nếu cụ đồng ý thì chúng tôi xin thỉnh cụ về chùa để nương bóng từ bi trong những tháng ngày còn lại.

- Tôi già rồi đâu làm gì nổi mà vào chùa công quả, không làm mà ăn cơm chùa tội lắm.

Sư nói:

- Cụ đừng ngại, ở chùa có nhiều việc, người mạnh gánh nước bửa củi, nấu cơm, người yếu quét sân, nhổ cỏ, miễn có làm chút ít, còn thì giờ tụng kinh niệm Phật là tốt.

Bà lão thấy sư có lòng tốt bèn nói:

- Nếu sư cụ thương giúp kẻ cô quả này, tôi rất mang ơn.

Sư hẹn ít hôm sau sẽ có người đến đón bà về chùa. Về chùa, sư họp Tăng chúng nơi sư đang trụ trì hỏi ý kiến có thuận cho bà lão cô quả ấy ở chùa không. Toàn chúng đều đồng thuận mời bà lão về chùa. Sư cho cất một am tranh trong khuôn viên chùa, cho người đi rước bà lão về ở đây. Mỗi hôm, sư phân công bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe của bà. Sư luôn luôn nhắc nhở bà tu hành và mỗi sáng đều qua am thăm hỏi bà lão.

Được một thời gian, bà lão lâm bệnh, sư tự thân nấu cháo săn sóc bà lão khiến các đệ tử đều thấy lạ. Biết bà lão không sống được bao lâu, song vì có duyên sự phải đi vắng năm bảy hôm nên trước khi đi, sư dặn dò mọi người: Nếu bà lão có mệnh hệ gì thì chúng Tăng cứ làm đủ lễ nghi nhưng khi liệm thì đừng vội đậy nắp áo quan, đợi sư về sẽ đậy sau.

Đúng như lời sư đoán, bốn năm hôm sau bà tắt thở, Tăng chúng làm đúng như lời sư dặn, chỉ để bà trong áo quan mà không đậy nắp. Hai hôm sau sư về, nghe bà lão mất còn để trong áo quan. Sư về nhìn mặt lần chót, đi quanh quan tài 3 lần rồi đậy nắp quan lại. Sau đó sư nói to:

- Như lời Phật dạy: Một người tu hành ngộ đạo cha mẹ sanh thiên, nếu lời ấy không ngoa xin cho quan tài bay lên hư không để chứng minh lời Phật.

Nói xong sư liền cầm tích trượng gõ ba cái, quan tài từ từ bay lên hư không, rồi hạ xuống. Lúc ấy mọi người mới biết bà lão là mẹ của sư.

Hòa thượng vừa dứt tiếng, chiếc quan tài bỗng như có một lực đẩy, từ từ nâng lên cao, sát mái am tranh, lơ lửng. Mọi người đồng loạt quỳ xuống, chắp tay, ngẩng mặt nhìn lên trong một niềm kính ngưỡng tột cùng. Mắt Hòa thượng sáng ngời, an trú trong giây phút hiện tại tuyệt vời, một giây mà đằng đẵng thiên thu.

Tâm hiếu của người con hòa lẫn trong tâm từ của một bậc chân tu đắc đạo, nở tung như đóa sen tỏa hương tinh khiết, tuy vô hình mà bất diệt, tuy vô thanh mà tràn ngập âm hưởng diệu kỳ, tuy vô tướng mà chan hòa khắp cùng cõi giới.

Khi chiếc áo quan nhẹ nhàng trở về chỗ cũ, người ta thấy gương mặt bà cụ - bây giờ đã rõ là thân mẫu của sư trụ trì - tươi nhuận rạng rỡ. Mùi hương lạ lại tỏa ra phảng phất quanh nhà. Mọi người đứng bất động, đắm mình trong niềm phúc lạc ngàn năm chưa dễ có.

Nơi quán nước ngày xưa của mẹ, sư bèn lập một ngôi chùa đặt tên là Mại Trà Lai tự. Am tranh mẹ từng ở có tên là Dưỡng Mẫu đường, sớm chiều khói hương nghi ngút.

Đó là một trong nhiều câu chuyện trong hành trạng của vị thiền sư Việt Nam đạo phong, liên quan tới hiếu đạo của người xuất gia. Ngài cũng là người sống gần dân, được người dân yêu quý gọi bằng tên mộc mạc là Hòa thượng Cua.

Cách báo đáp thâm ân cha mẹ của Thiền sư Tông Diễn đã lưu mãi trong lòng người, vượt cả thời gian. Hình tượng và hạnh hiếu đó không chỉ lưu truyền trong dân gian mà đã được xây dựng thành hình tượng nghệ thuật, được chuyển thể qua các loại hình sân khấu, làm rung động lòng người nhiều thế hệ.

D.N sưu tầm

Nghệ An: Phật giáo tỉnh sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm 2016

Nghệ An: Phật giáo tỉnh sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm 2016

Đăng lúc: 22:58 - 19/07/2016

Sáng ngày 18/7/2016, tại chùa Đại Tuệ (Nam Đàn), BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An tổ chức hội nghị sơ kết công tác Phật sự 6 tháng đầu năm 2016 và triển khai công tác Phật sự 6 tháng cuối năm 2016.
Quang lâm chứng minh và tham dự buổi lễ có Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS TW GHPGVN kiêm trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An. Thượng tọa Thích Thọ Lạc, phó thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An, thành viên Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Nghệ An, Chư Tôn đức Tăng Ni các chùa trong tỉnh.
Lãnh đạo UBND, Ban Dân vận Tỉnh ủy, UBMTTQ, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ, Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Xây dựng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Công an tỉnh.
6 tháng đầu năm 2016, Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An đã đạt được những kết quả quan trọng trong công tác phật sự trên địa bàn tỉnh. Toàn tỉnh có 35 vị Tăng Ni đang sinh hoạt hợp pháp trên địa bàn, có 47 cơ sở thờ tự (46 chùa và 01 Niệm Phật đường), 17/21 đơn vị hành chính có hoạt động của Phật giáo, tham gia Hội nghị chuyên đề về công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Tổ chức thành công Tọa đàm: "Định hướng, phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An".

Ban Trị sự đã quyết định bổ nhiệm trụ trì chùa Lam Sơn( Quỳnh Lưu). Phê chuẩn nhân sự Ban Hộ tự chùa Đồng Tương.Tổ chức khóa an cư kết hạ cho 43 hành giả tại 2 địa điểm, trong đó: Hạ trường chùa Đại Tuệ (29 vị) dành cho Chư Tăng có 28 Tỷ khiêu, 01 Sa di. Hạ trường chùa Cần Linh (12 vị) dành cho Chư Ni có 6 Tỷ khiêu Ni, 1 Thức xoa ma na, 1 Sa di Ni và 4 hình đồng Ni. Giới thiệu 02 vị đi học hệ Cao đẳng tại Học viện Phật giáo Hà Nội , cử các thành viên Ban Hoằng Pháp về tại các chùa, các đạo tràng, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa để gặp gỡ đồng bào Phật tử.
Lễ khai bút và trồng cây tại chùa Đại Tuệ nhân dịp đầu xuân. Tổ chức thành công Lễ hội Hương sen xứ Nghệ năm 2016, lễ Phật đản, kỷ niệm 5 năm thành lập Phật giáo Nghệ An, hướng tới kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN, thành lập CLB Hương Từ Bi chùa Hồng Phúc, chùa Hà quy tụ trên 50 thành viên, tham gia tích cực các hoạt động thiện nguyện, sơ bộ toàn tỉnh có trên 45 ngàn Phật tử đã Quy y. Tổ chức tiếp đón và làm việc với đoàn công tác của Ban Hướng dẫn Phật tử TƯ GHPGVN vào ngày 17/4. Các hoạt động văn nghệ Phật giáo được duy trì và ngày càng phát triển ở nhiều nơi, đăng tải kịp thời các tin tức Phật sự tại địa phương

Vận động công tác từ thiện trên 300.000.000đ, tặng ngàn ngàn suất quà trong dịp tết, giúp đỡ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các hộ nghèo gia đình có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống.
Trong công tác bầu cử Quốc hội khóa 14 và HĐND các cấp NK 2016 – 2021. Được sự hiệp thương của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Ban Trị sự đã tiến hành các cuộc họp giới thiệu Ni sư Thích Diệu Nhẫn - Phó Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh, tham gia đại biểu HĐND cấp tỉnh . Đại biểu HĐND cấp huyện có 2 vị, đó là: Đại đức Thích Đồng Tuệ - Trụ trì Chùa Hà, tham gia Đại biểu HĐND huyện Nam Đàn . Đại đức Thích Tuệ Quang - Trưởng Ban Quản lý dự án xây dựng Chùa Gám - TVTL Yên Thành, tham gia Đại biểu HĐND huyện Yên Thành.
Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, những khó khăn, thách thức và thống nhất một số lưu ý, nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung thực hiện trong 6 tháng cuối năm.

Phát biểu bế mạc tại hội nghị Thượng tọa Thích Thọ Lạc, phó Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An, chỉ rõ Phật giáo tỉnh nhà cần phải phát huy hơn nữa truyền thống đoàn kết hoà hợp, vượt qua khó khăn thử thách, khắc phục yếu kém tồn tại, phấn đấu vì sự xương minh của Phật pháp, vì hạnh phúc an lạc cho chúng sinh. Xây dựng mối quan hệ thống nhất về lãnh đạo và tổ chức giữa Ban Trị sự với Tăng Ni, Phật tử thành viên tạo ra một sức mạnh tổng hợp của sự đoàn kết hoà hợp, làm nền tảng cho các hoạt động Phật sự vì Đạo pháp Dân tộc, làm tốt đời đẹp đạo.
Tại hội nghị, Đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành cấp tỉnh, Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An đã tặng hoa chúc mừng Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu, Trưởng Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An nhận bằng tiến sỹ Tôn giáo học.

Dịp này, hàng Phật tử tại gia đã dâng cúng tịnh tài, tịnh vật lên Chư tôn đức Tăng, Ni trong ý nghĩa hộ trì Tam bảo.
Sau đây là một số hình ảnh buổi lễ:











Chư tôn giáo phẩm niệm phật cầu gia hộ














Hội nghị dưới sự chủ trì của Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS TWGHPGVN kiêm trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An


Toàn cảnh Hội nghị sơ kết










Đại Đức Thích Tâm Thành đọc báo cáo tổng kết Phật Sự 6 tháng đầu năm















Ông : Nguyễn Văn Long -Phó Ban Tôn Giáo phát biểu.




Ban trị sự Phật giáo tỉnh tặng hoa chúc mừng HT . Thích Thanh Nhiễu


Ban tôn giáo cùng các ban ngành tặng hoa chúc mừng.














Thượng Tọa Thích Thọ Lạc - Phó Ban Văn Hóa TW GHPGVN, phó thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An bế mạc buổi lễ tổng kết.







Tác giả bài viết: Hữu Tình- Hồng Nga

Chánh ngữ trong Phật giáo: Ý kiến hay sự kiện

Chánh ngữ trong Phật giáo: Ý kiến hay sự kiện

Đăng lúc: 22:42 - 26/05/2016

Vượt ra ngoài phạm vi pháp lý có lẽ tôn giáo nào cũng dạy con người phải nói lời chân thật, tránh dối trá. Những lời nói dịu dàng làm đẹp lòng người nghe là những điều rất cần thiết để tô hồng cuộc sống trong cái cõi ta bà này vì lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội, bảo tồn sự đoàn kết giữ cho xã hội được ổn cố...

Chánh ngữ trong Phật giáo: Ý kiến hay sự kiện
CHÁNH NGỮ TRONG PHẬT GIÁO

Ý kiến hay sự kiện
Trước khi đề cập tới “chánh ngữ” cần phân biệt sự khác biệt giữa lời phát biểu thuộc dạng bày tỏ “ý kiến” hay phát biểu về “sự kiện”.
Ý kiến (opinion): Khi đưa ra cái nhận xét, đánh giá về một sự vật, một con người, hay một hành động thì đó được gọi là “ý kiến”. Thí dụ một nhân vật trong cộng đồng, có người ca tụng là giỏi giang và khiêm tốn. Nhưng lại có người chê là tầm thường và hám danh. Lời bày tỏ ý kiến của hai người trên hoàn toàn khác nhau, không dễ chứng minh được là đúng hoặc sai.
Sự kiện (fact): là khái niệm về một sự thật và có thể chứng mình được là đúng hay sai. Thí dụ một người đi kiếm việc làm tự khai là có bằng kỹ sư và đã làm giám đốc nhiều năm. Sự kiện này có thể kiểm chứng được nhờ vào việc xuất trình bằng cấp và giấy tờ của cơ sở cũ nơi đương sự làm việc.

Phỉ báng và vu khống

Về mặt pháp luật thời với quyền “Tự do ngôn luận” người ta có quyền phát biểu “ý kiến” dù không đúng hay quá đáng cũng có thể được miễn trách, nếu không nêu lên các sự kiện thất thiệt khác mang tính chất “phỉ báng và vu khống”.
Tùy theo hình luật của từng quốc gia, tội “phỉ báng và vu khống” thường gồm những yếu tố: 1.Phải là hành động phổ biến những tin tức, nói ra những điều giả dối, không đúng sự thật về một người khác; 2.Lời nói giả dối đó làm tổn hại thanh danh, uy tín người khác; 3.Đặc biệt là phải được loan truyền, được phổ biến ra công chúng một cách công khai khiến người thứ ba nghe được.
Tội “phỉ báng và vu khống” có khi chỉ bị kiện ra tòa về mặt “dân sự”, có khi lại bị kiện về “hình sự”. Nếu bị xếp vào loại hình sự thì hậu quả là kẻ phạm tội có thể bị tuyên phán ở tù một thời gian, bị phạt tiền, bị phạt hình phạt thử thách (probation), bị phạt phải làm công tác cộng đồng, làm việc nặng (hard labor) hay phải viết thư xin lỗi v.v...
Thông thường người lập lại và loan truyền tin đồn thất thiệt có tính phỉ báng và vu khống cũng phải chịu trách nhiệm về tội này y như người đầu tiên tung ra tin đồn này.
Nguyên đơn thắng kiện có thể được bồi thường, gồm có các loại: 1.“Thiệt hại đặc biệt” (tiền luật sư, bác sĩ, thuốc men, tiền lương bị khấu trừ…); 2.“Thiệt hại hiện thực” nhưng có tính cách “tổng quát” (chẳng hạn nỗi đau tinh thần, tổn hại tới uy tín…) Thiệt hại này phải được chứng minh; 3.“Thiệt hại phỏng đoán” (dù rằng nguyên đơn có thể không có chứng cớ gì cụ thể). 4.“Thiệt hại trừng phạt” hay “thiệt hại làm gương”…
Tội phỉ báng, nhục mạ hay vu khống, vu cáo theo pháp luật của Việt Nam kể cả trước hay sau năm 1975 đều là một tội hình sự.

Chánh ngữ trong Phật giáo

Vượt ra ngoài phạm vi pháp lý có lẽ tôn giáo nào cũng dạy con người phải nói lời chân thật, tránh dối trá. Những lời nói dịu dàng làm đẹp lòng người nghe là những điều rất cần thiết để tô hồng cuộc sống trong cái cõi ta bà này vì lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội, bảo tồn sự đoàn kết giữ cho xã hội được ổn cố.
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận. Người Tây tạng có câu: “Lời nói không mang gươm giáo, nhưng có thể làm thương tổn trái tim” nên bước quan trọng nhất để phát triển chánh ngữ là suy nghĩ kỹ trước khi nói hay viết.
Chánh ngữ (Samma vaca) là:
1.Không dối trá; 2.Không nói lời mắng nhiếc mạ lỵ khiến người khác đau lòng hay tổn thương; 3.Không thêu dệt thêm bớt để chia rẽ hay đả phá; 4.Không nói lời nhảm nhí vô ích.
Hãy phân tích thấu đáo hơn về bốn đặc tính của Chánh ngữ:

1.Không dối trá: là luôn chân chính trung thực, nói sự thật. Đức Phật dạy chúng ta, đừng bao giờ nói dối dầu vì lợi ích của bản thân, hay lợi ích của ai đó, hay vì bất cứ sự lợi ích gì. Chúng sinh nên tránh “vọng ngữ”. Không nên nói không đúng sự thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có. Không vu oan giá họa cho ai. Nhất là kẻ học Đạo, nếu nói dối rằng mình đã chứng quả Thánh, hay đắc đạo để cho người kính phục, sùng bái mình, thì sẽ mắc tội đại vọng ngữ, bị đọa vào ba đường ác.

2.Không nói lời mắng nhiếc mạ lỵ khiến người khác đau lòng hay tổn thương: không xúc phạm bằng lời nói hung ác, xiên xỏ, nguyền rủa, nói lời kiêu căng, chỉ trích nặng lời, lời nói cộc cằn, thô lỗ. Lời nói là một công cụ đầy quyền lực có thể được dùng cho việc tốt hay việc xấu. Đức Phật đã so sánh lời nói với một cái búa:
“Mỗi người sinh ra đời
được sinh ra với cái búa trong miệng.
Kẻ ngu dùng những lời thô tục
là tự làm mình và người khác bị thương
bằng cái búa đó.”
Nên nói lời hoà nhã, dịu dàng, hiền hậu, toàn là lời đạo đức, từ bi, lợi lạc cho tất cả chúng sinh, ai nghe cũng hân hoan, kính trọng.

3.Không thêu dệt thêm bớt để chia rẽ hay đả phá: tránh dùng “tà ngữ” với ác tâm. Không nói lời hai lưỡi, đòn xóc hai đầu, làm cho hai người khác ghét nhau, thù nhau. Không được nói lời thêu dệt, thêm bớt, nói châm chọc làm cho người nghe buồn phiền và khởi tà niệm. Không được xui bảo người khác nói các điều như trên. Không đứng trung gian gây ác cảm cho hai đàng thù oán, cho đôi bên sân hận đấu tranh. Khi thấy người khác nói những lời không đẹp ấy thì phải khuyên can:
“Lưỡi là một vũ khí không có xương
bị dính giữa hai hàm răng.”

4.Không nói lời nhảm nhí vô ích: Không nói chuyện phù phiếm, vô nghĩa hay u mê vì chúng làm quấy động sự yên tĩnh và định tâm. Nói sau lưng người (gossip) là tà ngữ, không cần biết những gì chúng ta nói về người đó có đúng hay không.

Ngũ Giới

Chánh ngữ được đề cập tới trong “ngũ giới” là năm giới. Ðối với người tại gia, Ðức Phật khuyên giữ năm giới đó là: “1.Không sát sinh; 2.Không nói dối; 3.Không trộm cắp; 4.Không tà dâm; 5.Không uống rượu say sưa.”
Giới là hàng rào ngăn cấm những việc xấu của Thân (việc làm), Khẩu (lời nói), Ý (ý nghĩ). Năm giới là năm thành trì ngăn chặn cho chúng ta đừng đi vào đường ác, là năm hàng rào cản cho chúng ta khỏi rơi vào vực sâu tội lỗi và tương lai sẽ hưởng được quả báo tốt đẹp. Năm giới không những đưa người mạnh tiến trên đường giải thoát khỏi vòng, sinh tử luân hồi, và giải thoát khỏi, phiền não khổ đau mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, quốc gia, xã hội nữa.
Trong ngũ giới thời giới thứ hai là không nói dối. Giới này khuyên người Phật Tử tại gia chân chánh, không nên dùng lời nói để lợi mình hại người, khủng bố tinh thần người khác, vì đó là “vọng ngữ”, “tà ngữ” hay “ác ngữ”. Chỉ nên dùng lời nói để lợi mình lợi người, gọi là “chánh ngữ”, dù người đó là người thân hay kẻ thù. Khi dùng lời nói dối để hại người khác, tâm của chính mình, chắc chắn biến động, làm cho công phu, tu tâm dưỡng tánh, từ bao lâu nay, trở nên vô ích mà lại tạo ra “khẩu nghiệp”! Phật tử cần giữ giới này vì đạo Phật là đạo của sự thật nên phải tôn trọng sự thật, vì nuôi dưỡng lòng từ bi, người Phật tử phải tránh sự dối trá lừa gạt.
Trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật bảo Tôn Giả A Nan: “Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy cũng chỉ đốt cháy một đời này mà thôi, còn như nói ác sẽ đốt cháy trong vô số kiếp. Lửa chỉ đốt cháy nhà cửa, của cải của thế gian, còn lời nói ác đốt cháy bảy thứ của cải của Thánh nhân. Vì thế, này A Nan, chúng sanh họa từ trong miệng mà sinh ra, miệng lưỡi thực là búa sắc tự bổ vào mình, là cái họa để tự diệt mình”.

Bát Chánh Đạo

Chánh ngữ cũng được đề cập tới trong “Bát Chánh Đạo”, trong chân lý thứ tư của Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế là bốn chân lý cao cả, là gốc cơ bản của Phật Giáo. Trong Tứ Diệu Đế thì chân lý thứ tư là Đạo Đế, chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ.
Bát Chánh Đạo gồm tám điều chân chánh, là con đường đúng đắn, đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ và giải thoát khỏi khổ. Tám điều đó là:
1.Chính kiến (thầy biết chân chính); 2.Chính tư duy (suy nghĩ chơn chính); 3.Chính ngữ (nói năng chân chính); 4.Chính nghiệp (hành động chân chính); 5.Chính mạng (chính mệnh, nghề sống chân chính); 6.Chính tinh tấn (gắng làm chân chính); 7.Chính niệm (nhớ nghĩ đạo chân chính); 8.Chính định (nhập thiền định chân chính, vô lậu và thanh tịnh).

Trong ba phép tu tập: tu Giới (shila), tu Định (samatha) và tu Tuệ (prajna) trong Bát Chánh Đạo thì chánh ngữ thuộc vào lãnh vực tu Giới và được định nghĩa như sau, như đã ghi trong Tương Ưng Bộ Kinh: “Thế nào là chánh ngữ? Đó là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm”. Đó là về mặt tiêu cực. Về mặt tích cực, Đức Phật cũng dạy rằng chúng ta phải cố gắng tu tập để có những lời nói chân thật, trung thực, ôn hòa và lợi ích.

Kinh Hoa Nghiêm

Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Các đệ tử! Các ngươi nên bỏ lời nói dối, thường nói lời chơn thiệt, lời chắc chắn, dù là trong mộng cũng chẳng nên nói dối.”
Và: “Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói. Lời nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh pháp, ích lợi cho mình và cho người”.
Lời nói phải đúng lúc, tức là phải phù hợp với hoàn cảnh (khế cơ) khi nói. Điều này đòi chúng ta phải biết đối tượng mà mình đang nói là ai? Họ đang ở trong hoàn cảnh và có trình độ nhận thức ở mức độ nào? Nếu không, dù lời nói đúng sự thật cũng trở thành phi pháp. Vì vậy mà đức Phật căn dặn các thầy Tỳ kheo phải biết: “Nói năng như Chánh pháp, im lặng như chánh pháp”
Kinh Pháp Cú

Khi Đại đức A Nan bạch hỏi Đức Phật về những việc làm của chư Phật quá khứ trong những ngày giới, Đức Phật giảng rằng tất cả chư Phật đều dạy ba câu sau đây (được ghi lại trong Kinh Pháp Cú, khuyên nên tránh lời nhục mạ, phỉ báng):

(185) “Chớ nên phỉ báng một ai
Đừng gây tổn hại cho người xung quanh
Giữ gìn giới luật nghiêm minh
Uống ăn chừng mực cho thành thói quen
Lánh riêng sống chỗ tịnh yên
Chuyên tu thiền định, hướng miền thanh cao
Lời chư Phật dạy lành sao!”

Đại đức Mục Kiền Liên hỏi thăm nhiều vị Trời nhờ công đức gì mà được tái sinh vào cảnh Trời. Các vị này kể ra các hành động xem như có vẻ không quan trọng là “chân thật, nhẫn nại và bố thí”. Đức Phật giải thích là các hạnh đó tuy nhỏ vẫn có thể dẫn đến các cõi Trời (được ghi lại trong Kinh Pháp Cú, khuyên không nên nói dối):

(224) “Nói lời chân thật luôn luôn,
Dẹp cơn nóng giận dỗi hờn khó coi,
Dù ta có ít của thôi
Cũng chia bố thí cho người đến xin,
Nhờ ba việc tốt lành trên
Đưa ta đến cõi chư thiên, cõi trời.”

Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật cũng khuyên không nên nói sai, nói ác mà nên nói lành, nói thiện, phải chế phục khẩu nghiệp:

(232) “Giữ gìn kiểm soát Lời người
Đừng vì nóng giận để rồi nói sai
Lời đừng nói ác, hại ai
Nói lành, nói thiện miệt mài tu thân.”

Còn thêm rất nhiều lời dạy của Đức Phật về chánh ngữ…
1. Trong kinh Lời Nói (Tăng Chi 5.198): Đức Phật giảng 5 yếu tố của một lời nói thiện lành trong đó có ghi cần nói đúng sự thật: “Bậc thiện tri thức nói một lời phải dựa trên sự thật, không ngụy biện, không lừa dối” và phải nói lời đem đến lợi ích “Lời nói phải có mục đích và ý nghĩa của nó, dù là lời chân thật nhưng không có mục đích đem lại lợi ích cho ai, thì đó cũng chỉ là lời nói nhảm, vô dụng.”
2. rong kinh số 58, (Trung Bộ), có ghi lời Đức Phật trả lời Vương tử Vô Úy, “Lời nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai không nói lời nói ấy.”
3. Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật lại dạy: “Tâm khẩu nhứt như”. Nghĩa là: “Tâm khẩu không khác”. Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy. Khi miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy, mới được an lạc, mới đúng là người tu đạo. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, dù có hình tướng nào, cũng là người dối trá, giả mạo mà thôi.
4. Tứ Nhiếp Pháp: Trong 4 phương pháp nhiếp thụ, 4 phương pháp thực hành để dẫn dắt chúng sinh tin theo chính đạo có ghi “Ái ngữ”. Đây là lời khuyên nên theo căn tính chúng sinh, nói ra những lời nói hiền lành, dịu hòa và an ủi họ, do đó họ sinh tâm thân ái, tin theo chính đạo.
5. Thập Thiện Nghiệp: Nghiệp có thể chia ra ba tánh cách: lành, dữ, hoặc không lành không dữ (vô ký). Những loại nghiệp này do ba chỗ phát khởi là Thân, Khẩu và Ý. Những nghiệp dữ về Khẩu có bốn thứ là: “Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác”.
Ngược lại Thập Thiện Nghiệp là Mười Nghiệp Lành: “1.Không nói dối; 2 Không nói thêu dệt; 3.Không nói lưỡi hai chiều; 4.Không nói lời hung ác.” Lành, theo đạo Phật, nghĩa là có lợi ích cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai. Không nói dối được giải thích là không nói sai sự thật như:

“Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy.
Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe.
Biết nói không biết, không biết nói biết.
Biết trái nói phải, biết phải nói trái.”

6. Lục Hòa: Để trong một đoàn thể luôn luôn được sự hòa hợp đức Phật nói ra “Lục Hòa” là sáu pháp hòa kính với mục đích đem lại sự an hòa cho mọi người, để sống theo lời Phật dạy, tinh tấn trên đường xây dựng và giải thoát. Trong sáu pháp đó có “Khẩu hòa vô tránh” tức là miệng hòa, không cãi cọ nhau, luôn luôn nói lời hòa dịu, lợi ích, tụng Kinh, niệm Phật, tán dương công đức Phật.

7. Mười Bốn Điều Răn Của Phật: nội dung của bản văn này được nhiều người xem như đã được trích ra từ những ý tưởng trong kinh Phật. Trong điều răn thứ 2 ghi là: “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.”

8. Nói Rỡn Chơi: Có người cho rằng nói dối để lừa phỉnh chơi, thì không hại gì. Thật ra, sự nói dối ấy vẫn có hại, vì nó làm cho ta quen với thói xấu ấy, và làm cho người xung quanh không tin ở lời nói của ta nữa, dù đôi khi ta nói thật.
Trong Kinh Hoa Nghiêm Phật dạy: “Các đệ tử! Các con nên bỏ những lời vô nghĩa, thường tự giữ gìn lời nói; nói phải biết thời, nói phải thuận pháp. Những lời nói ngoài việc lợi ích cho người, dù là nói chơi cũng không nên nói.”
Trong Kinh Di Giáo Đức Phật cấm hý luận. Không nên nói rỡn chơi: “Bất hý luận.”

Sau vụ khủng bố ngày 11-9-2011 tại Hoa kỳ, luật hàng không đã được bổ sung, ai nói đùa trên máy bay có bom, hoặc khủng bố v.v… chẳng những bị phạt mà còn có thể ở tù vài năm. Theo luật an ninh, khi có người loan tin hoặc báo cáo có bom, nguy hiểm đến tính mạng, máy bay không được cất cánh, nếu đã cất cánh phải đáp ngay lập tức.

9. Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật còn dạy: “Không nên quan tâm chuyện thế gian. Không nên loan truyền các tin đồn.” Bởi vì, các chuyện thế gian, thường là những chuyện, nhân ngã thị phi, không rõ phải quấy đúng sai, tranh chấp hơn thua, thường không căn cứ, không có xác thực, không đáng tin cậy, khó kiểm chứng được, có thể làm hại thanh danh người khác. Những chuyện này thảy đều làm cho, tâm trí con người, bất an, dao động, chỉ có hại, chẳng ích lợi gì! Chúng ta không cần, phung phí thì giờ, một cách vô ích, để đi đính chính, những lời đồn đãi, sai lạc hoàn toàn, nếu như hoàn cảnh, không bị bắt buộc, phải làm sáng tỏ.

Nhiều hình thức bị coi là nói dối
1. Nói dối bằng cách im lặng: Cũng có khi chúng ta được hỏi một câu hỏi mà thái độ im lặng cũng hàm ý là một sự trả lời. Nếu sự im lặng của chúng ta phản ảnh một điều sai sự thật thì đó là nói dối. Thí dụ, người ta điều tra ở một nơi vừa xảy ra án mạng hỏi đám đông đứng quanh là có ai nhìn thấy gì không. Nếu ai chứng kiến vụ án mạng nhưng lại giữ im lặng không nói gì thì sự im lặng đó bị coi là nói dối.
2. Nói dối bằng ngôn ngữ của thân: Đôi khi một cái nhún vai hay nhíu mày có thể bị hiểu lầm là “Tôi không biết”, nhưng nếu bạn thực sự biết, thì cái nhún vai của bạn là một sự dối trá. Ngôn ngữ cũng có thể biểu lộ bằng thân, thí dụ như khi đưa lên ngón tay cái lên là hoan hô nhưng nếu chỉ đưa ngón tay giữa lên là chửi bởi v.v…
3. Buộc tội oan và khai man: là hai hình thức khác của lời nói dối mà Đức Phật khuyên các đệ tử nên tránh vì sẽ gây tai họa cho bản thân người nói cũng như những người xung quanh.
4. Hứa suông: Đức Phật xếp những kẻ khéo miệng hay hứa suông chỉ nhằm đạt được lợi lộc cho bản thân cũng là một hình thức nói dối. Hoặc người có khả năng giúp đỡ bạn, nhưng viện đủ lý do để thoái thác cũng thuộc loại nói dối (Trường Bộ Kinh).
5. Giả danh: Giả danh đưa ra những thông tin sai lệch về trình độ chuyên môn, khả năng, thành tích, đức hạnh hay thổi phồng về mức độ chứng đạt tâm linh hầu đạt được những lợi lộc mà bản thân họ không xứng đáng được hưởng. Giả danh này cũng là một hình thức nói dối.
6. Nhân chứng: Khi bạn được hỏi làm nhân chứng để nói những gì bạn biết. Nếu biết, thì nói, “Tôi biết”; nếu không biết, thì nói, “Tôi không biết”; không thấy, thì nói, “Tôi không thấy”; nếu thấy, thì nói, “Tôi thấy”. Không cố ý nói sai sự thật vì ích lợi của mình hay của ai đó, hay cho những lợi ích tầm thường trong thế gian.

Đôi khi cần nói lời không thật

Tuy nhiên cũng có những trường hợp sự thật cần phải được giữ kín vì nếu nói ra có thể làm hại người khác. Như vậy là thực hành hạnh Từ Bi. Nói dối, chỉ trong trường hợp để cứu khổ độ nguy cho người và vật mới không phạm tội. Thí dụ một bác sĩ biết người bệnh sắp chết nhưng không nên nói thật với bệnh nhân điều này.
Hoà thượng Thích Thanh Từ dạy: “Trừ trường hợp vì lợi người lợi vật, không nỡ nói thật để người bị hại hoặc khổ đau, do lòng nhân cứu người cứu vật nói sai sự thật mà không phạm.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng lên tiếng rằng: “…Đức Phật cấm quý Sư không được nói dối. Ví dụ một vị Tỳ kheo phát nguyện luôn luôn nói sự thật, nhưng khi thấy một con nai đang chạy ngang qua khu rừng. Thình lình gặp anh thợ săn đến hỏi quý Sư có trông thấy con nai ở đâu không? Mặc dù luật Đức Phật cấm vị Tăng không được nói vọng ngữ, nhưng vì muốn cứu mạng sống chú nai vàng cho nên lúc bấy giờ Sư đã trả lời: ‘Tôi không thấy con nai nào chạy qua đây cả…’” (Ocean of Wisdom).
Một thí dụ khác là khi Đức Phật nói với bà Gotami rằng đứa con đã chết của bà sẽ được làm sống lại, nhưng để chữa trị cho đứa bé, Đức Phật bảo bà phải tìm đem về một nắm hạt cải từ một gia đình chưa bao giờ có người chết. Đức Phật sử dụng chính điều không thật này như là một hảo ý để trì hoãn việc nói lên sự thật. Phương cách này đã giúp bà Gotami dần dần tỉnh ngộ và chấp nhận cái chết của đứa con.

Thái độ của Phật Tử khi bị phỉ báng và vu khống

1. Nhẫn nhục: Khinh rẻ, phỉ báng, nguyền rủa là thói thường của thế gian. Cả những người đạo cao đức trọng, trong sạch cũng có thể bị chỉ trích, chê bai, vu oan v.v… Chính Đức Phật cũng từng bị phỉ báng và vu khống. Nên nhớ rằng trên đời này không ai tránh khỏi bị khiển trách, bị chê bai, khó tránh khỏi miệng thế gian. Trong tương lai và trong hiện tại cũng chưa hề có người nào bị tất cả mọi người chê bai hay được tất cả mọi người khen ngợi. Đúng như lời Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú:

(227) “Người con Phật hãy nghe đây
Chuyện không phải chỉ đời này mà thôi
Từ đời xưa đã nói rồi:
‘Làm thinh thời sẽ có người chê bai,
Nói nhiều cũng bị chê hoài,
Dù cho nói ít cũng người chê thôi’.
Làm người không bị chê cười
Thực là chuyện khó ở nơi cõi trần.”

(228) “Ở đời toàn bị chê bai
Hay toàn nghe tiếng người ngoài khen ta
Từ xưa chẳng thấy xảy ra,
Tìm trong hiện tại thật là khó sao,
Tương lai cũng chẳng có nào.”

Nhưng vì bị chê bai mà nổi sân thời tai hại vô cùng vì lúc nóng giận thì con người không còn đủ bình tĩnh để tự kiểm soát hành vi và ngôn ngữ của mình. Khi sân hận phát khởi, nó có khả năng hủy hoại công đức và tâm an lạc.
Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.”
Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”
Kinh Tăng Chi khi nói đến sức mạnh có 8 loại. Trong đó loại thứ 8 “sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”
Kinh Di Giáo: “Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí.”

Vài vị tỳ kheo thường nặng lời lăng mạ một vị khác và vị này trả lời lại. Đức Phật khuyên các thầy không nên gây thù trả oán và Ngài giảng dạy về sự lợi ích của người biết giữ im lặng trước những lời lăng mạ của kẻ khác như ghi trong Kinh Pháp Cú:

(134) “Nếu mà ngươi giữ lặng yên
Như chuông bể nứt im lìm chẳng vang
Trước lời ác độc phũ phàng
Niết Bàn ngươi đã thênh thang bước vào:
Chẳng còn sân hận chút nào.”

Đức Phật dạy rằng con người cũng có thể tạo cho mình tiềm lực vật chất, nghị lực tinh thần, lòng kiên nhẫn và sức mạnh, chẳng khác một con voi chiến lâm trận, bình thản vững tiến giữa lằn tên mũi đạn, sẵn sàng và thản nhiên hứng chịu những lời phỉ báng và vu khống. Luyện được lòng nhẫn nhục mới là khó như ghi trong Kinh Pháp Cú:

(320) “Như voi ra trước trận tiền
Luôn luôn hứng chịu cung tên bắn mình
Như Lai nhẫn nhục tu hành
Chịu điều phỉ báng cũng đành lòng thôi,
Sống vô tư cách lắm người
Xa điều giới luật, ghét nơi cửa thiền.”

(321) “Luyện voi dự hội, tài thay
Luyện voi vua cưỡi cũng hay vô cùng,
Nhưng mà nếu luyện được lòng
Luôn luôn nhẫn nhục, chẳng còn nổi sân
Khi nghe phỉ báng bản thân
Mới là điêu luyện, muôn phần tài hơn.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng từng dạy: “Hãy cám ơn kẻ thù của quý vị vì họ là những vị thầy quan trọng nhất của mình. Họ tập cho quý vị đương đầu với khổ đau và phát huy sự nhẫn nhục, sự bao dung và lòng từ bi. Họ không chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào.” (108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité).

2. Tâm xả: Trước 8 ngọn gió trong giông tố của cuộc đời (“bát phong”), giữa những thăng trầm của thế sự làm tâm con người dao động chao đảo là “thành hay bại, được hay mất, khen hay chê, hạnh phúc hay đau khổ” Đức Phật dạy các Phật tử nên luôn luôn giữ Tâm thản nhiên, bình thản bằng cách hành tâm xả thì sẽ được vững chắc như tảng đá lớn sừng sững giữa trời.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: “Như ngọn núi vững vàng. Trong phong ba bão táp.
Người trí cũng như vậy. Bình thản trước khen chê”.
Đức Phật dạy (trong “Túc sanh truyện”): “Trong hạnh phúc, trong đau khổ, lúc thăng, lúc trầm, ta phải giữ tâm như đất. Cũng như trên đất ta có thể vất bất cứ vật gì, dù chua dù ngọt, dù sạch dù dơ, đất vẫn thản nhiên. Đất không giận cũng không thương.” Hiểu được như vậy, hành được như vậy, chính là pháp môn, tu theo hạnh “Xả”, một trong Tứ Vô Lượng Tâm của đạo Phật, gồm có: Từ, Bi, Hỷ, Xả.

3. Oan ức không cần biện bạch: Ðiều thứ mười trong “Mười điều tâm niệm” dạy rằng: “Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh”.
Vì biện bạch là nhân quả chưa tiêu, oán thù lại càng tăng thêm. Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Cho nên không cần phải than trách gì cả. Chỉ cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng loan truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác, dù cho đó là kẻ thù của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy.
Nhịn được như vậy chứng tỏ chúng ta không còn chấp “mình nhận chịu khổ đau”, không còn chấp “người tạo đau khổ cho mình”, tức là chúng ta đã thấu rõ và hành được “giáo lý vô ngã” của đạo Phật. Trong giáo lý vô ngã của đạo Phật, không có cái gì là “Ta”, nên không có gì là “của Ta”. Được như vậy, oan ức chính là cửa ngõ tiến vào con đường đạo hạnh.

“Mặc tấn”: lời giáo huấn cuối cùng của đức Phật.
Lúc Đức Phật sắp nhập Niết bàn. Thầy A Nan nghe nói òa lên khóc, Đức Phật an ủi và khuyên bảo thầy A Nan là không nên quyến luyến hình hài, vì hữu hình hữu hoại là lẽ đương nhiên. Thầy A Nan quỳ xuống hỏi Phật: “Làm sao điều phục kẻ dữ? Khi gặp những Tỳ kheo, cư sĩ và một số người có tính xấu ác, chúng con phải xử lý như thế nào?"
Đức Phật dạy rằng: “Ðiều đó rất dễ, các ông nên dùng phép Mặc Tấn. Mặc là không nói chuyện với họ, Tấn là không để ý đến họ nữa.”
Ðiều này có nghĩa là khi gặp phải những người có tính xấu ác, thì để điều phục kẻ dữ ta nên làm lơ đừng giao thiệp cãi vã, dùng định lực chẳng để cho họ xoay chuyển. Gặp những hạng người này thì không nên nói chuyện với họ, hãy giữ im lặng, không để ý đến họ, tự họ sẽ rút lui.
Theo Từ điển Phật Quang: Mặc tấn (默擯): “Chúng tăng giữ thái độ im lặng, không chuyện trò giao du là phương thức trừng phạt vị tì khưu vi phạm giới luật mà không chịu sự điều phục.”

*
Để chấm dứt về đề tài “Chánh Ngữ Trong Phật Giáo” xin ghi lại đây lời Hòa thượng Thích Thanh Từ dạy về “Ngũ Giới” trong “Bước đầu học Phật”: “Nói lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình, hoặc hại người là nói dối. Do động cơ tham lam ác độc, sự kiện xảy ra thế này lại nói thế khác, sửa trái làm mặt, đổi phải thành quấy, khiến người mắc họa. Người nói như thế trái với đạo đức, mất cả lòng nhân, không xứng đáng là một Phật tử. Phật tử là người đạo đức nên ăn nói có mẫu mực, thấy biết thế nào nói thẳng thế ấy, không điêu xảo dối trá… Không nói dối là giữ lòng tin đối với mọi người xung quanh.”
Hòa thượng cũng nói về nghiệp ác là một động cơ của luân hồi: “Miệng ưa nói lời dối trá, lời ác độc, lời ly gián, lời thêu dệt, là nghiệp ác của miệng vì những lời nói nầy khiến người nghi ngờ bực tức đau khổ mang tai họa, nên hiện tại hoặc vị lai mình cũng phải nhận lấy hậu quả đau khổ ấy”.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

Câu chuyện ai cũng nên đọc một lần: Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Câu chuyện ai cũng nên đọc một lần: Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Đăng lúc: 17:40 - 19/10/2015

Câu chuyện đầy suy ngẫm này chắc chắn sẽ để lại cho bạn rất nhiều bài học đáng giá.

Một người phụ nữ nọ có thói quen nướng bánh mì cho gia đình, luôn làm dư một cái để lại cho người nghèo đói. Bà để ổ bánh mì dư bên ngoài thành cửa sổ cho người nghèo đi qua dễ lấy. Ngày qua ngày cứ đến buổi, một ông lão gù lưng đến lấy ổ bánh mì đi.

Thay vì nói lời cảm ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời như niệm chú:



“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi, việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi”.

Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác. Mỗi ngày, người già đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu :

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi, việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi!”

Ngày qua ngày, người phụ nữ dần bực bội trong lòng nghĩ:

“Nhận được bánh, không biết cảm ơn còn lải nhải mấy lời khó chịu kia! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”.

Rồi một hôm, chịu hết nổi, bà nghĩ cách làm cho ông già đi khuất mắt. Bà tự nhủ:

“Ta sẽ làm cho hắn mất dạng”.

Bà trộn thuốc vào ổ bánh mì dư bà thường làm, tay run run để bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, bỗng cảm thấy hốt hoảng:

“Ta làm gì thế này?”

Bà ném vội ổ bánh có thuốc độc vào lửa và thay một cái bánh khác lên thành cửa sổ. Như mọi khi, ông lão đến lấy bánh và lại lẩm bẩm:

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi; việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi”.

Ông lão cầm ổ bánh vui vẻ rời đi, không ai biết trong lòng người phụ nữ vừa trải qua một trận chiến giận dữ dội.

Có một điều mà không ai biết đó là mỗi khi đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà lại cầu nguyện cho đứa con trai đi tìm việc làm xa, đã nhiều tháng không nhận được tin tức. Bà nguyện cho con trở về nhà bình an, mạnh giỏi.

Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa. Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa…

Anh ta gầy xọp đi, quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:

Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường, nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon và chút nước. Ông ta nói:

“Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!”

Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!

Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói lặp đi lặp lại qua ngày của ông lão…

Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình bạn nhé!

Theo Sưu tầm / Trí Thức Trẻ

Từ vụ thảm sát ở Bình Phước nghĩ về "tình là dây oan"?

Từ vụ thảm sát ở Bình Phước nghĩ về "tình là dây oan"?

Đăng lúc: 05:34 - 14/07/2015

Vì vụ án có tầm ảnh hưởng tới đời sống của xã hội cho nên là người học Phật chúng ta thử phân tích xem “vụ thảm sát Bình Phước” có giúp chúng ta rút ra được bài học cho cá nhân, gia đình và xã hội không?
Trong đầu tháng Bảy vừa qua, vụ thảm sát ở Bình Phước không những gây rúng động ở trong nước mà còn lan ra tới hải ngoại vì tính cách dã man của nó. Một số người dân lo sợ tới nỗi không biết một ngày nào đó, một hung thủ nào hay một băng đảng nào đó sẽ đến “cắt cổ chúng tôi” - phản ảnh tình trạng lo sợ trong quần chúng về một xã hội vô cùng bất an. Rất may cơ quan an ninh đã nhanh chóng tìm ra manh mối, bắt giữ thủ phạm, đồng thời tiến hành thủ tục đưa các hung phạm ra trước pháp luật.

1) Đối với cô Lê Thị Ánh Linh: Phải nói rằng đầu dây mối nhợ của vụ thảm sát này bắt nguồn từ cô Lê Thị Ánh Linh. Nếu không có việc cô cự tuyệt mối tình đã kéo dài 4 năm với Nguyễn Hải Dương thì chắc chắn không có thảm kịch này. Qua tin tức và hình ảnh trên báo chí, chúng ta có thể phỏng đoán cô Lê Thị Ánh Linh có chút nhan sắc, không được học hành nhiều, tính tình lãng mạn, ỷ vào tiền bạc của cha mẹ cho nên có cuộc sống phóng túng, Bằng cớ là cô đã yêu một thanh niên nổi tiếng ăn chơi tại địa phương, đem rất nhiều tiền cho cậu này rồi cũng bỏ để rồi yêu Nguyễn Hải Dương, ăn ngủ chung tại nhà, cho lái xe đưa đón cô v.v..như vợ chồng, cho cậu này mượn 500 triệu mua đất để xây dựng sự nghiệp nhưng cuối cùng lại thấy Dương không xứng cho nên lại đi yêu một cậu khác…không biết có giàu hoặc học giỏi hơn Dương không?

Từ thảm kịch này chúng ta thấy con cái không phải lúc nào cũng là nguồn an ủi hay hạnh phúc cho cha mẹ mà đôi khi nó là nghiệp chướng hay thảm họa của cha mẹ. Cho nên các cụ xưa nói, “Con là nợ, vợ/chồng là oan gia” quả không sai. Luận xa hơn nữa chúng ta thấy, đẻ con gái có nhan sắc chớ vội mừng, đẻ con gái xấu chớ vội buồn. Con gái đẹp giống như bông hoa có hương sắc cho nên ong bướm lượn quanh. Khi ong bướm bu đầy thì ghen tuông nảy sinh. Ghen tuông, được mất trở nên hận thù, từ hận thù tới thảm sát …giết mình hay giết người yêu, giết cả nhà người yêu để trả thù. Chuyện này đã có từ ngàn xưa rồi. Còn con gái xấu thì bướm ong ít lượn quanh. Khi bướm ong ít lượn quanh thì cậu nào yêu là yêu thật lòng. Còn yêu rồi mà bị một cô gái xấu bỏ thì không cay cú bằng bị một cô gái đẹp, nhà giầu bỏ. Có khi còn mừng nữa, vui vẻ ra đi để kiếm cô khác đẹp hơn cho nên không có thảm sát. Do đó, đẻ con gái xấu có khi là điều tốt lành cho gia đình không biết chừng.”Tái Ông Thất Mã” là ở chỗ đó.

Hiện trường ngôi nhà xảy ra thảm án
2) Đối với cậu Nguyễn Hải Dương: Theo dõi những tình tiết cùng cách đối xử của cô Lê Thị Ánh Linh với Nguyễn Hải Dương thì chúng ta thấy Dương là con người không có nghị lực, thiếu lý trí và sống bằng cảm tính. Không có nghị lực là vì Linh đã nhiều lần giúp Dương cơ hội tiến thân như giúp cho học Đại học Tài chính-Kế toán, rồi cho mượn 500 triệu để mua đất trồng cao su để tạo dựng sự nghiệp…cuối cùng thì Dương cũng “sôi hỏng bỏng không”. Theo thói thường, mình là con nhà nghèo, phải lấy cái học để bù đắp lại cái nghèo hoặc cố gắng tạo dựng sự nghiệp làm vui lòng “cha mẹ vợ tương lai”.

Người yêu đã hết lòng giúp mình như thế, giống như Dương Lễ hết lòng giúp Lưu Bình mà Lưu Bình không nên người thì còn nói chuyện gì nữa? Trong sử sách biết bao nhiêu con trai nhà nghèo lấy vợ là các tiểu thư con quan đại thần cũng là nhờ việc học. Mình nghèo, không hiếu học hoặc chăm chỉ làm việc thì làm sao ngoi lên… ngoại trừ đi ăn cướp.

Đã thiếu nghị lực, Dương lại là người không có lý trí. Nếu có lý trí thì Dương phải thấy Linh đã đối xử với mình quá tận tình, quá đẹp, mà cha mẹ mình cũng không lo cho mình được như thế. Chỉ vì mình không “nên thân” cho nên Linh buộc lòng phải “dứt đường tơ”. Nếu có lý trí thì Dương phải hiểu rằng bên cạnh chữ Tình, Linh còn có chữ Hiếu nữa chứ. Linh yêu Dương mà Linh biết thông cảm cho Dương. Còn Dương yêu Linh thì Dương lại không thông cảm cho Linh. Như thế có thật sự Dương yêu Linh không? Hay chỉ là tham vọng và tự ái? Đã thiếu lý trí, Dương lại không có bạn tốt hoặc không phải là đoàn sinh Gia đình Phật tử hoặc thành viên của các Câu lạc bộ Thanh niên phật tử cho nên không có lời khuyên bảo tốt.

Nếu trong gia đình thờ Phật, trước nỗi đau như thế, trước quyết định ghê gớm như thế, Dương có thể đến chùa để vấn hỏi ni/sư thì chắc chắn không có thảm họa như ngày hôm nay. Các ni/sư sẽ cho Dương thấy “Lý Duyên Sinh” tức tình yêu, cam kết hay thỏa hiệp là do hai tham vọng, hai ý muốn, hai ước vọng, hai khát khao gặp nhau ở một thời điểm nào đó. Khi tham vọng, ý muốn, khát khao…thay đổi thì cam kết hay tình yêu hay thỏa hiệp tan vỡ. Do đó có thể nói tình yêu chỉ là một “ảo ảnh” của tâm, của khát vọng. Phật dạy “Ái biệt ly khổ” tức yêu nhau mà phải chia ly thì đau khổ. Đau khổ là thường tình vì người ta tưởng rằng cái người mà ta đang yêu là “vật sở hữu” của mình. Nay “vật sở hữu” mất đi, ta nuối tiếc và ghen tuông, hận thù nếu “vật” ấy lọt vào tay kẻ khác.

Thế nhưng, nói thật ra trên cõi đời này không có cái gì là “của mình”. Ngay cả hàng trăm triệu cặp vợ chồng đang sinh sống với nhau kia cũng không phải là “vật sở hữu” của nhau. Bởi vì khi ly dị một cái thì đường ai nấy đi, không trách nhiệm, không máu mủ…may mắn lắm là trở thành bạn. Do đó, người yêu hay vợ chồng chỉ là sự nối kết hay nói theo thuật ngữ nhà Phật- chỉ là “Duyên” trong một khoảnh khắc nào đó.

Trong cuộc đời quá nhiều đổi thay nhanh chóng như thế này, chưa chắc cứ tiếp tục sống với nhau là hạnh phúc và chia ly là đau khổ. Chẳng hạn Dương cứ tiếp tục sống với Linh như thế này dăm ba năm nữa, có khi là địa ngục không biết chừng. Do đó, nếu có chia tay thì cũng chỉ như con thuyền rời xa bến, như con chim truyền từ cảnh này sang cành khác, như đám mây trên trời hết hợp rồi tan…Nếu thật sự Dương thương Linh thì xin Dương hãy cầu nguyện cho Linh lấy được người chồng xứng đáng và trăm năm hạnh phúc. Đúng ra Dương phải cám ơn Linh về những ngày tháng hạnh phúc tuyệt vời mà Linh đã dành cho Dương. Tại sao Dương lại thù oán và tìm cách giết hại Linh? Nhưng sự việc lại không đi theo con đường tốt lành như vậy. Thế mới hay “tình là dây oan” - sợi dây oan nghiệt ghê gớm nhất trong những sợi dây đang trói buộc con người. Hành động của Dương quá tàn bạo do mất hết lý trí và vụ án này có thể trở thành “bia miệng” để lại đời sau và Dương cùng đồng phạm Vũ Văn Tiến sẽ phải trả một giá rất đắt theo Luật Nhân Quả.

3) Về người bố: Có thể nói ông Mỹ đã quá nuông chiều con gái và có quyết định sai lầm khi cho Dương ở lại trong nhà như con rể mình trong bốn năm trời. Thông thường, khi con gái đã tới tuổi lập gia đình và có ý trung nhân. Và sau khi vợ chồng đã đồng ý thì phải tìm cách tác hợp cho chúng nó. Cho chúng nó tiền bạc để ra riêng, tự do sống hạnh phúc và tạo dựng sự nghiệp. Để một thanh niên xa lạ sống trong nhà với con gái mình, cho xe đưa rước con gái mình đi học như vợ chồng mà không có đám cưới, không phải là con rể thì coi sao được. Không có một gia đình nào có lối sống kỳ lạ như vậy. Để rồi bốn năm sau lại nói “không môn đăng hộ đối”. Chẳng lẽ trong bốn năm đó ông Mỹ không hề biết gì về gốc tích, lý lịch của Dương hay sao? Quá nuông chiều con, quyết định mù mờ không dứt khoát, cộng thêm với tính tình lãng mạn của con gái đã trở thành “cộng nghiệp” gây thảm họa cho gia đình.

4) Về cậu bé tên Vỹ: Cậu bé này gọi vợ ông Mỹ là dì ruột, mới 14 tuổi mà ham chơi games và đá gà là thú vui - vừa giải trí vừa cờ bạc của người lớn. Ham chơi games và mê đá gà đã là tệ hại nhưng còn có thể tha thứ. Nhưng nhận lời mở cửa cho một người lúc nửa khuya để vào ăn cướp nhà của dì/dượng mình thì thật không thể tưởng tượng được. Không biết cậu bé này có được đi học không và trong suốt thời gian sinh sống tại đây, cậu có bất mãn hoặc căm thù dì/dượng mình gì không? Có lẽ từ cổ chí kim mới thấy một cậu bé có hành vi ghê gớm như vậy.

Từ kinh nghiệm đau thương này chúng ta có thể rút ra bài học đau thương là: Không nên nuôi cháu trong nhà ngoại trừ chúng nó còn nhỏ hoặc cha mẹ đã chết hết. Nếu chúng nó còn cha mẹ và đã lớn tới 12, 13 tuổi thì – nếu có thương thì cho tiền để cha mẹ chúng nó nuôi chúng nó. Nuôi cháu trong nhà, la mắng cũng khó vì mình không phải là cha mẹ. Không la mắng thì hư. Khắt khe quá thì sinh thù oán. Thà ở xa mà tình nghĩa vẹn toàn và không trách nhiệm. Đôi khi tình thương đặt không đúng chỗ lại là thảm họa.

5) Về vai trò của xã hội: Có lẽ không gì tốt hơn là trích dẫn một bài báo của trang điện tử VOV, “Luật sư Lê Luân cho rằng, những vụ án giết hại nhiều người với tính chất man rợ này là kết quả của sự giáo dục chưa đầy đủ, thanh niên tiếp cận các thông tin mang tính bạo lực từ game, truyện, phim ảnh,... Cũng với đó là luật pháp chưa đủ nghiêm minh, chưa xử lý triệt để tội phạm, lại gây ra oan sai trong thời gian qua nhiều vụ án nên dễ tạo ra sự coi thường".

Tuy nhiên hiện nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã phát triển trên toàn quốc và đã có Ban Trị sự tới cấp Quận/Huyện và các chùa ở các xã, dù là xã xa xôi.

Trước nguy cơ bất ổn của xã hội ngày càng lan rộng, có lẽ cũng cần phải tìm cách ra tay “tế độ” tức góp một tay, phối hợp cùng các đoàn thể thanh thiếu niên, phát động rầm rộ một chiến dịch nói về sự nguy hại của tình yêu điên rồ, tinh yêu lãng mạn, của ngoại tình, phản bội…và làm sao giải quyết những tình huống đau thương đó bằng biện pháp an lành, không gây chết chóc cho mình, cho người, không làm tổn thương đến gia đình và xã hội. Và chùa chính là địa bàn tốt đẹp nhất để bàn luận và cố vấn về những vấn đề rất nguy cấp này.

Đào Văn Bình
California ngày 11/7/2015

Thiền định có thể làm chậm lão hóa não, phòng chống bệnh mất trí nhớ

Thiền định có thể làm chậm lão hóa não, phòng chống bệnh mất trí nhớ

Đăng lúc: 06:22 - 18/06/2015

Mọi người đều biết, ngồi thiền có thể làm giảm đau nhức, cải thiện sự tập trung và chức năng miễn dịch, hạ huyết áp, ức chế lo nghĩ và mất ngủ. Ngoài ra, Nghiên cứu khoa học phát hiện việc ngồi thiền có thể đề cao trí lực, giảm bớt lão hóa, giúp phòng ngừa sự lão hóa của não và bệnh mất trí nhớ.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, hiện nay có khoảng 356 triệu người trên thế giới mắc bệnh mất trí nhớ, và mỗi năm gia tăng thêm 7.7 triệu người. Trong đó bệnh Alzheimer chiếm 60-70% tổng số người có vấn trên.

Báo cáo của Viện Y tế quốc gia và Viện lão khoa quốc gia (Mỹ) cho thấy, Alzheimer là một loại rối loạn chức năng thần kinh kéo dài, cũng là nguyên nhân phổ biến nhất trong bệnh mất trí nhớ. Tuy hiện nay vẫn chưa có giải pháp trị liệu hoặc thuốc có thể phòng tránh hoặc trì hoãn Alzheimer, nhưng trong cuộc sống thường ngày lại có một số phương pháp giúp ích cho sức khỏe, đồng thời cũng có thể giảm nguy cơ bệnh phát sinh.

thien-dinh-phap-bao

Thiền định có thể đạt hiệu quả phòng ngừa lão hóa não

Theo trang tin tức sức khỏe Counsel & Heal, nghiên cứu mới nhất của Đại học Califorina (Los Angeles) phát hiện, ngồi thiền có thể phòng ngừa sự lão hóa của não, hoặc có thể giúp phòng tránh bệnh mất trí.

Nhìn chung, não lão hóa nhanh hơn những bộ phận khác trên cơ thể, khi đến tuổi 20 là đã quá trình này bắt đầu tăng tốc.
Trước đây ngồi thiền được chứng minh là có thể làm giảm teo tiểu não có liên quan đến tuổi tác. Trong nghiên cứu mới này, nhà nghiên cứu phát hiện, ngồi thiền rất có hiệu quả trong việc phòng ngừa tổn thất chất xám của não. Phó giáo sư thần kinh học Eileen Luders chủ trì nghiên cứu này cho biết, lúc đầu họ cho rằng hiệu quả của ngồi thiền có thể không cao và tập trung vào một sỗ chỗ nào đó. Tuy nhiên, họ đã quan sát thấy toàn bộ não đều chịu ảnh hưởng rất lớn của thiền.

Những phát hiện này có thể giúp ích cho việc phòng ngừa các bệnh tâm lý và thoái hóa thần kinh, là những loại bệnh gia tăng theo tuổi thọ con người. TS. Luders nói, trước đây có rất nhiều nghiên cứu tập trung vào sàng lọc nguyên nhân có thể gia tăng các bệnh tâm lý và chứng thoái hóa thần kinh, nhưng không quan tâm nhiều đến phương pháp có thể tăng cường sức khỏe của não bộ.

Luders chỉ ra, kết quả của họ rất có ý nghĩa. Tích lũy chứng cứ khoa học có liên quan đến việc ngồi thiền làm thay đổi trạng thái của não, cuối cùng đã có thể chuyển từ nghiên cứu thành ứng dụng thực tế. Nghiên cứu mới này được công bố trong kỳ báo mới nhất của tạp chí “ Thông tin tâm lý học.”

Thiền định giúp vùng não kiểm soát cảm xúc tích cực trở nên hoạt động hơn

Trong nghiên cứu từ trước đến nay, với công nghệ quét não, các nhà khoa học phát hiện người ngồi thiền trường kỳ có những vùng chịu trách nhiệm các cảm giác nhạy cảm trong cơ thể con người dày lên rõ rệt. Giáo sư Richard Davidson (Đại học Wisconsin, Mỹ) cho biết, dù là người mới ngồi thiền, vùng não kiểm soát cảm xúc tích cực trở nên hoạt động hơn, điều này tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể đối với bệnh cảm cúm.

Giáo sư Davidson còn nghiên cứu sự ảnh hưởng của ngồi thiền đối với khả năng chú ý và độ nhạy cảm các giác quan của con người. Trong khi quan sát sự vật, con người thường bỏ lỡ chi tiết nào đó. Giống như khi hai hình ảnh hiển thị trên màn hình cách nhau nửa giây, người ta thường không nhìn thấy hình ảnh thứ hai. Những người trải qua tập luyện thiền định lại có thể nhìn thấy thứ mà người khác bỏ sót.

thien-dinh-suc-khoe

Thiền giúp tư duy nhanh nhẹn, kiểm soát cảm xúc

Tháng 8/2010, Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ từng công bố một nghiên cứu, cho thấy thiền trong văn hóa phương Đông có thể thay đổi đường đi của thần kinh não bộ. Đề tài này do Đại học Oregon và Đại học Công nghệ Đại Liên hợp tác nghiên cứu, cho thấy thực hành thiền định có thể trợ giúp não bộ kiểm soát cảm xúc, giúp con người càng thêm thoải mái, giảm bớt lo nghĩ.

Nghiên cứu trước đây của Đại học Califorina cũng phát hiện, vùng phụ trách sự tập trung và điều tiết cảm xúc trong não của người ngồi thiền có dung tích lớn hơn, vả lại chất xám của não nhiều hơn, do đó cải thiện được trí lực hơn.

Bảo vệ não là điều kiện quan trọng để sống lâu

Trong cuốn sách “101 cách sống đến 100 tuổi không bị mất trí nhớ” của mình, Giáo sư Shirasawa Takuji (Đại học Juntendo, Nhật bản), một chuyên gia nghiên cứu chống lão hóa nổi tiếng, cho rằng thói quen sinh hoạt lành mạnh là một trong những nhân tố chủ yếu giữ cho não trẻ, cũng là điều kiện quan trọng của sống thọ.

Shirasawa Takuji căn cứ vào kết quả nghiên cứu nhiều năm, phỏng vấn kỹ lưỡng nhiều người sống thọ của Nhật. Thông qua kiểm tra trạng thái sức khỏe, khả năng vận động, và các vấn đề hoóc-môn liên quan đến sống thọ trên cơ thể họ, ông đã phát hiện, những người không dễ mắc chứng bệnh mất trí sống lâu hơn.

Nếu như trong cuộc sống hàng ngày, ai có thể thực hành thói quen chống mất trí, chắc chắn có thể kéo dài tuổi thọ của mình.
Người sống lâu nhất nước Pháp Jeanne Calment, thọ 122 năm lẻ 5 tháng 14 ngày, đã phá kỷ lục guiness của Shigechiyo Izumi người Nhật Bản sống thọ 120 tuổi 37 ngày. Lúc Calment còn sống đã luôn nói, phải không ngừng sử dụng bộ não, muốn sống trường thọ cũng phải có đầu óc tỉnh táo.

Theo Đại Kỷ Nguyên Đài Loan

Phật tự tại trước mọi sóng gió cuộc đời

Phật tự tại trước mọi sóng gió cuộc đời

Đăng lúc: 21:53 - 15/06/2015

Đức Phật của chúng ta ngày xưa cũng bị nhiều người hủy nhục trước mặt vua quan, thần dân thiên hạ. Khi bị cô gái giả làm bụng bầu bêu xấu trước mặt mọi người: “Sa môn Cồ Đàm đã lấy em rồi mà ngày nay bỏ bê em như thế này để em phải bụng mang dạ chữa, sao anh đối với mọi người đều từ bi thương yêu bình đẳng mà lại để em thành ra nông nỗi.
Nếu anh không có thời gian để lo cho em thì hãy nên nhờ bà Tỳ Xá Khư chăm sóc, giúp đỡ cho em chứ?” Trước mặt đại chúng, Phật an nhiên trả lời “chuyện này chỉ có tôi biết, cô biết” mà không cần phải đính chính hay minh oan một lời nào. Sự thật vẫn là sự thật, trời xuôi đất khiến thế nào mà trong lúc cô ta đang diễn kịch thì cái bụng bầu giả bằng gối rớt xuống trước mặt mọi người. Cô gái quá xấu hổ nên nhanh chân bỏ chạy, nhiều người tức quá chạy chửi theo “đồ thứ con gái hư thân mất nết”.


Chuyện đó xảy ra không bao lâu thì một chuyện khác lại kinh hoàng, khủng khiếp và độc ác, dã man hơn làm rúng động lòng dân trong cả nước. Bọn người đê tiện, thấp hèn muốn hại Phật lần này đã tung một chiêu đòn quyết định, chúng muốn tẩy chay cả giáo đoàn đức Phật cho bằng được nên lập mưu bày kế tinh vi hơn lần trước gấp trăm ngàn lần. Kỳ này chúng mướn bọn nghiện rượu giết một cô gái đẹp rồi giấu trong Tịnh xá chỗ Phật ở và lên trình báo với vua quan cô gái ngoan đạo của họ một thời gian gần đây hay đến Tịnh xá của Phật nghe pháp và bây giờ đã bị mất tích.
Chúng yêu cầu nhà vua phải làm sao tìm cho được cô gái ngoan đạo ấy.Vua Ba Tư Nặc cho mở cuộc điều tra và cuối cùng tất cả mọi người đều phát giác ra cô đã bị giết và xác được chôn trong Tịnh xá. Sự thật đã quá rõ ràng, đâu còn ai nghi ngờ gì nữa vì mọi người đều tai nghe mắt thấy rõ ràng. Vậy ai là thủ phạm đã giết cô gái và chôn ở chỗ Phật?Phật à, không thể nào có chuyện đó xảy ra, đệ tử Phật cũng không thể nào làm như vậy.
Bọn người xấu lúc này lợi dụng thời cơ đem xác cô gái bỏ lên xe chở đi khắp thành Xá Vệ và rêu rao Sa môn Cồ đàm đã bức tử cô gái. Sự việc xảy ra quá bất ngờ làm cho vua Ba Tư Nặc không biết giải quyết ra sao vì ông biết chắc Phật trước kia là thái tử Sĩ Đạt Ta có vợ là hoa hậu đẹp nhất thời bấy giờ và có cả hàng trăm cung phi mỹ nữ tuyệt nhưng Ngài vẫn từ bỏ hết để sống đời tu hành đơn giản.
Nhà vua biết chắc đây là âm mưu sâu độc của bọn xấu ác vì lòng tham lam ích kỷ, ganh ghét tật đố mà làm chuyện tày trời như vậy để vu oan hủy nhục đức Phật. Những cuộc điều tra bắt đầu, nhà vua cho tung ra nhiều thám tử tài ba lỗi lạc có mặt khắp nơi để dò la tin tức. Bốn chúng đệ tử xuất gia và tại gia thì buồn rầu, lo lắng chờ đợi kết quả cuối cùng.
Riêng bọn người xấu ác thừa dịp này rêu rao tuyên truyền, tung tin rằng xác cô gái chết do sa môn Cồ Đàm quá thất nhơn ác đức đã hãm hiếp cô gái rồi giết luôn và chôn ngay chỗ ở. Lúc này những người hiểu biết đạo chỉ biết trông chờ kết quả điều tra để minh oan cho Phật. Người không hiểu đạo thì nguyền rủa đức Phật sao mà quá tàn ác, nhẫn tâm. Kẻ bếu rếu, người chửi bới làm náo loạn khắp cả thành Xá Vệ.
Lệnh khẩn cấp được ban hành giới nghiêm 24/24, toàn thể chư Tăng đều phải ở yên một chỗ, không ai được rời khỏi trú xứ cho đến khi nào điều tra được vụ án, nếu ai vi phạm sẽ bị xử trảm ngay. Một ngày trôi qua, hai ngày trôi qua nhưng vẫn không có tin tức gì sáng sủa. Nhiều người đang bất mãn, buồn chán, thất vọng, lo âu về sự thật quá phũ phàng, từ xưa đến nay có bao giờ xảy ra vụ án mạng tày trời như thế.
Nhưng trời đâu có hại người ngay, nhân quả rất công bằng, gieo gió thì gặt bão, giết người thì bị người giết lại. Đến ngày thứ ba thì ban chuyên án đã tìm ra manh mối để đem lại sự trong sạch cho Phật và giáo đoàn. Ai hay tin cũng thở phào nhẹ nhõm và mừng thầm trong bụng vì đã qua cơn đại nạn.
Số là bọn nghiện rượu sau khi giết cô gái xong đã nhận được số tiền lớn từ tay bọn xấu ác, nhưng do ăn chia không đồng đều nên trong lúc ăn nhậu cùng nhau, chúng đã cãi cọ, tranh giành nhiều ít và bị quan quân phát giác, tóm cổ.
Thế là cả bọn đều được đưa về cung vua chờ lệnh xét xử, bọn chúng sợ quá nên đã khai hết. Có một số người ngoại đạo đã mướn họ giết cô gái để tẩy chay giáo đoàn của Phật. Vua tức giận quá cho người bắt ngay kẻ chủ mưu quăng liền vào hầm lửa để thiêu sống, những tên giết mướn đều bị giam vào ngục chờ lệnh xét xử sau.
Chuyện xảy ra như vậy mà Phật vẫn bình tĩnh, an nhiên, không mảy may dao động trước sự phao du hủy nhục quá nặng nề. Phật không hề đính chính hay minh oan mà vẫn âm thầm lặng lẽ chờ đợi kết quả hiện thực. Phật an nhiên, tự tại, bất động trước Tám cơn gió lốc cuộc đời nên ngày hôm nay ta thờ Phật, cung kính lễ lạy Phật vì nhân cách siêu phàm vượt Thánh của Ngài mà cố gắng bắt chước tu tập để vượt qua cạm bẫy cuộc đời trước Tám ngọn gió được-mất, khen-chê, danh thơm-tiếng xấu và khổ-vui.
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh. Thứ đến Ngài tùy căn cơ chúng sinh mà nói pháp thích hợp để giúp họ chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Bất kể là thành phần nào trong xã hội khi gặp Phật đều được lợi lạc, an vui.
Chính vì việc làm và hành động cao thượng của Ngài đã để lại tiếng thơm muôn thuở cho đời giúp chúng ta biết cách làm chủ bản thân mà sống bình yên, hạnh phúc. Hương thơm của các loài hoa có ngào ngạt cách mấy cũng không bằng hương thơm của người đức hạnh luôn bay ngược chiều gió để lại cho đời bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
An nhiên tự tại trước đám đông khi bị hủy nhục
Ngày xưa, có một vị cao Tăng đức độ nuôi dạy gần 500 đồ chúng, đến khi tuổi già sức yếu bệnh hoạn mà chưa chọn được người kế thừa. Để tìm kiếm bậc Pháp khí trong nhà Thiền, vị cao Tăng bày ra kế điệu hổ ly sơn, tung tin bị mất trộm tiền Tam bảo làm trong chúng ai cũng hoang mang nghi ngờ lẫn nhau.
Một hôm khi chúng đang ngủ trong giờ trưa, vị cao Tăng la lớn: “Ăn trộm, ăn trộm.” Mọi người hoảng hốt chạy theo tiếng la, vị đệ tử lớn chạy vào liền bị vị cao Tăng thộp cổ áo mà nói lớn: “Ta bắt được trộm rồi”. Chú đệ tử nói: “Dạ không, con không phải là tên ăn trộm, con nghe la ăn trộm nên con chạy vô phụ thầy bắt ăn trộm.” Bằng chứng sờ sờ trước mắt nên không thể nào chối cãi, chư huynh đệ pháp lữ trong chúng ai cũng thấy thầy tay thộp cổ áo sư huynh mà la “ăn trộm, ăn trộm”.
Cho nên, vị đệ tử lớn liền bị khai trừ ra khỏi chùa ngay tức khắc mà không hề được minh oan. Trục xuất xong vị thầy còn viết giấy truyền cho các chùa khác không được chứa chấp thầy ấy vì tội ăn trộm đồ của Tam bảo. Vị đệ tử này xưa nay được Tăng chúng tín nhiệm chức thượng thủ trong chùa, chú còn là người mô phạm dạy dỗ chúng Tăng. Đột nhiên bữa nay lại bị mang danh tên ăn trộm và bị đích thân thầy mình viết giấy khai trừ khỏi Tăng chúng một cách công khai, thử hỏi ai nằm trong hoàn cảnh ấy mà không đau khổ.
Chỉ trong thoáng chốc bao nhiêu tiếng xấu đổ dồn vào vị sư huynh và bị mọi người khinh chê, coi thường, ai rơi vào hoàn cảnh này mới thấy thật tội nghiệp cho vị sư huynh ấy. Đường đường cũng là một vị Tăng tướng dung mạo trang nghiêm mà giờ đây chịu nuốt lệ đau thương ngậm ngùi, cay đắng trước một sự thật không thể ngờ.
Bị thầy hủy nhục như vậy trước mặt đồ chúng nên bao nhiêu uy tín từ xưa đến nay bỗng phút chốc tan tành theo mây khói. Vậy mà chú đệ tử ấy không hề buồn giận, trách móc hay thể hiện một nét mặt nào tỏ thái độ oán ghét vị thầy.
Chú vẫn một lòng cung kính và tôn trọng thưa: “Xin thầy hãy từ bi cho con ngủ đỡ ngoài cổng Tam quan cũng được, để mỗi ngày con còn được học hỏi và phụ giúp chúng Tăng làm việc”. Ấy vậy mà vị thầy cũng không chịu buông tha nên nói rằng nếu ở đó thì phải chịu trả tiền ngủ nhờ.
Dù bị thầy hủy nhục, hành hạ, làm khó dễ đủ điều nhưng chú vẫn một lòng tôn kính thầy mà siêng năng gia trì tinh tấn tu hành.Thời gian như vậy kéo dài gần 3 tháng, chú vẫn một lòng tín tâm, không một lời than vãn hay trách móc điều gì.
Cuối cùng, vị cao Tăng cũng tìm ra được bậc chân truyền, hôm đó ông đã chính thức tuyên bố trước đại chúng: “Ta bây giờ đã tìm được người kế thừa, mong đại chúng sau này khi ta viên tịch rồi thì hãy nghe theo lời chỉ dạy của sư huynh các người.” Nói xong ông thầy từ giã đại chúng rồi an nhiên ra đi.
Trong lịch sử nhân loại từ xưa nay biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền Thánh vẫn thường bị vu oan giá họa nhưng các ngài vẫn bình tĩnh, an nhiên chứng minh cho đời sự trong sạch của mình bằng chất liệu của từ bi, vô ngã, vị tha. Vị đệ tử đó nếu không gặp hoàn cảnh khắc nghiệt như thế thì vị cao Tăng làm sao biết được đệ tử của mình đã vượt qua Tám gió thật sự và để tất cả đại chúng có đủ niềm tin mà nương tựa học hỏi, tu hành.
Nếu gặp thầy nào còn quá yếu thì khi bị vu oan giá họa như vậy chắc có lẽ sẽ hận vị thầy của mình suốt cả đời.Nhờ thử thách đó mà vị thầy biết rõ đệ tử của mình đã qua được Tám gió được-mất, khen-chê, danh thơm-tiếng xấu và khổ-vui. Nghịch cảnh hay chướng duyên đối với người trí chỉ là thử thách nên họ vẫn bình thản, an nhiên khi bị hủy nhục sai sự thật trước mặt mọi người.
Giả sử như lúc đó tôi đang ở trong hoàn cảnh này thì có lẽ tôi sẽ đùng đùng nỗi giận mà oán ghét ông thầy của mình rồi bỏ đi không một lời từ giã. Tám gió thổi chẳng động là thước đo để kiểm nghiệm người tu hành chân chánh, nếu ta không trải qua những hoàn cảnh đau thương, nghiệt ngã như thế thì làm sao ta biết mình có bị gió thổi hay không.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 7
  • Hôm nay 4,263
  • Tháng hiện tại 40,718
  • Tổng lượt truy cập 23,446,967