Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Làm chủ thời gian của chính mình

Làm chủ thời gian của chính mình

Đăng lúc: 21:18 - 24/06/2017

Dzigar Kongtrul Rinpoche sinh ra ở miền Bắc Ấn Độ, nhưng hiện sống ở miền Nam Colorado, Hoa Kỳ. Ông là sáng lập viên của Mangala Shri Bhuti, tổ chức chuyên nghiên cứu và thực hành giáo lý của dòng truyền thừa Longchen Nyingthik thuộc Phật giáo Tây Tạng.
*

Biết nhìn nhận thực tại

Ngày nay, những người ở độ tuổi bảy mươi vẫn thấy mình còn thời giờ để tiêu pha. Tôi không biết do đâu mà họ được vậy. Có lẽ vì trong các xã hội tân tiến, người ta sống khỏe hơn, luôn hoạt động và di chuyển nhiều hơn, nhờ thực phẩm tốt hơn, có nhiều thuốc bổ và nhiều phương pháp chữa bệnh hơn. Người già cũng có nhiều thứ để giải trí, để bận rộn hơn như: các tour du thuyền, các hội thảo và nhiều loại hoạt động thể lực khác. Bạn sẽ nghe họ nói, “Những người bốn mươi là người ba mươi mới, và những người năm mươi là bốn mươi mới…”. Ai cũng cố gắng để giữ được sự trẻ trung hay cái nhìn trẻ trung. Cách suy nghĩ này đã thay đổi quan điểm và cách chúng ta liên tưởng đến tuổi già.

hourglass.jpg
Việc chúng ta sử dụng thời gian như thế nào tùy thuộc vào việc ta sắp xếp thời gian,
và việc đó lại tùy thuộc vào việc ta phác họa cuộc sống của mình như thế nào - Ảnh minh họa

Khi tôi mới đến phương Tây, phần đông đệ tử của tôi đều khá trẻ, chỉ trừ một nhóm phụ nữ rất chí thành ở độ tuổi bốn mươi hay lớn hơn. Họ lập nhóm để học pháp, mà họ vui vẻ gọi nhau là nhóm Các bà lão. Khi tôi hỏi một đệ tử khác, trong độ tuổi bảy mươi, có muốn gia nhập với nhóm Các bà lão không, thì người này nổi giận. Con người thường như thế, tưởng là mọi thứ đều vĩnh viễn.

Trong các nền văn hóa truyền thống, bảy mươi đã coi là già, và người ta không có vấn đề gì khi nói lên điều đó. Các nền văn hóa này xem tuổi già là lúc để ta sửa soạn cho cái chết. Nhiều người thời tuổi trẻ có những hành động ngông cuồng, bất thiện thường bắt đầu chỉnh sửa lại, và hướng đến việc thực hành tâm linh lúc tuổi xế chiều. Thay vì tiếp tục làm điều bất thiện, họ dốc hết những năm tháng còn lại trong đời để đọc kinh, lễ sám. Tôi thấy những điều này thường xảy ra, ngay nơi bản thân tôi.

Ở Tây Tạng, khi cha mẹ già đi, con cái sẽ nói, “Cha/mẹ già rồi, hãy lo trì tụng kinh kệ, đi chùa chiền!”. Điều này có hai lợi thế: con cái biết làm thế thì cha mẹ khỏi vướng bận họ, nhưng đó cũng là do áp lực của xã hội thúc đẩy người ta chuẩn bị cho cái chết. Khi người già chuẩn bị cho điều đó; nó giúp họ ở tư thế sẵn sàng.

Biết nhìn nhận thực tại tốt hơn là bắt nó phải theo ý mình. Biết chăm sóc thân là điều khôn ngoan; ta không muốn già, không muốn bất lực trước tuổi. Ta không muốn đánh mất lòng tin yêu cuộc sống, sự nhiệt tâm. Nhưng chăm chú lo kéo dài cuộc sống hơn là chấp nhận cái chết là vô vọng. Tuổi trẻ chóng qua, rồi đến tuổi trung niên, rồi tuổi già. Tóm gọn lại là thế. Rinpoche Patrul khuyên ta nhìn sự xoay vần của cuộc sống như thời gian của một ngày: trẻ con ở buổi bình minh, tuổi mới lớn là những giờ phút của buổi sáng, trưởng thành buổi trưa, và già nua buổi hoàng hôn. Nếu bạn muốn chuẩn bị tâm thức cho cái chết, thì việc quán sát thời gian là điều nên làm.

Lập thời dụng biểu

Bản tính tôi không phải là người có óc tổ chức, nhưng mấy năm trước đây tôi nhận thấy nếu tôi không biết làm chủ thời gian, thì nó sẽ làm chủ tôi. Vì thế, giờ tôi làm đầy thời gian biểu của mình với càng nhiều pháp hành càng tốt. Tôi lên kế hoạch cho cả năm - điền đầy cả cuốn lịch với quyết tâm, rồi tôi thực hành theo đó. Tôi biết mình có tất cả bao nhiêu giờ trong ngày và tôi dành thời gian để làm các việc đó. Tôi nhận định, đây là cuộc đời tôi, nếu tôi không làm chủ nó thì ai sẽ làm đây. Tôi thấy mình suy nghĩ nhiều về thời gian, quán sát mình còn bao nhiêu thời gian và mình muốn làm gì với chúng.

Thực tế ra mà nói, ta chỉ có hai mươi bốn giờ một ngày. Vậy ta muốn dùng chúng vào việc gì? Ta cần thời gian để ngủ. Nhưng thực sự ta cần ngủ bao nhiêu tiếng? Bảy hay tám tiếng không thích hợp với ta rồi, trừ khi ta đang ở tuổi mới lớn. Đa số đều có việc làm. Ta thường phải làm cơ bản tám, chín tiếng một ngày. Vậy là ta chỉ còn lại bảy hay tám giờ. Nhưng rồi ta còn những bổn phận đối với gia đình, ta cần dành thời gian với họ. Như thế với thời gian còn lại, ta làm thế nào để tu tập trong đời sống?

Tôi là người thuộc về đêm, nên tôi hành thiền vào đêm khuya. Có người lại thích bắt đầu trước bình minh. Đó là những giờ yên tĩnh - những giờ dễ tu tập - vì người khác đang yên giấc hay có thể cũng đang tu tập. Đôi khi thực hành vào ban đêm tôi cũng cảm thấy buồn ngủ, nhưng qua giai đoạn đó, tôi tìm được nguồn năng lực mới giúp tôi hoàn tất được việc thực hành của mình. Bất cứ điều gì có thể giúp ta tập trung sẽ tạo năng lực, đem lại ý nghĩa cho cuộc sống của ta. Trước đây tôi thường bị mất ngủ, nhưng giờ khi đã có thời gian thực hành thường xuyên, tôi thường có giấc ngủ sâu.

Thiết lập mục tiêu rõ ràng

Nếu ta có nguyện vọng thực hành, ta cần thiết lập mục tiêu rõ ràng để thực hiện điều đó. Tâm lưỡng lự không giúp gì cho ta. Ở Tây Tạng có câu nói: Yi nyi te tsom. Yi nyi, có nghĩa là khi ta có hai tâm, sẽ có sự mâu thuẫn trong lựa chọn. Ta sẽ không chắc chắn nên phải làm gì. Ta có thể muốn tu tập nhưng không đủ ý chí để thực hiện điều đó.

Nhiều người muốn tu tập mà không tìm ra thời gian. Điều đó ảnh hưởng đến lòng tự trọng của họ. Trong trường hợp đó, ta cần tự hỏi điều gì đã cản trở ta thực hiện ý nguyện của mình? Ta có sống tốt không, hay chỉ lây lất qua ngày? Ta sử dụng thời gian của mình như thế nào? Ta có biết đúng, sai? Ta có hướng tham vọng của mình đến một đời sống có ý nghĩa, hay tránh né nó? Nếu đúng, thì tại sao lại như vậy?

Việc chúng ta sử dụng thời gian như thế nào tùy thuộc vào việc ta sắp xếp thời gian, và việc đó lại tùy thuộc vào việc ta phác họa cuộc sống của mình như thế nào. Một khi ta đã trả lời được những câu hỏi này, và đã quyết định rõ ràng để có thời gian thực hành trong cuộc sống, thì ta phải cố gắng hết sức hơn là để tâm chạy rông, vô tổ chức, chỉ đợi điều gì đó xảy ra cho mình.

Đề phòng sự xao lãng

Sự xao lãng ngụy trang dưới nhiều hình thức. Đôi khi ta cảm thấy như mình phải gánh vác chuyện của người khác. Nếu ta có khuynh hướng hay làm việc đó thì thế nào cũng có người bằng cách này hay cách khác, níu áo ta. Họ cần một lời khuyên, nhưng họ không thực sự lắng nghe ta. Họ chỉ muốn có chỗ để giải tỏa, trút bầu tâm sự. Họ cảm thấy căng thẳng, rồi khiến ta bị căng thẳng lây, rốt cục không có ai được lợi lộc gì. Hoặc giả, trong công việc, nếu chúng ta quá chú trọng đến chi tiết và muốn mọi thứ phải hoàn hảo, thì có thể ta chẳng bao giờ làm xong chuyện gì, mà cũng không còn thời giờ để tu tập. Chúng ta cũng có thể cảm thấy mình là người duy nhất biết làm bất cứ việc gì, nên cuối cùng là ta phải gánh vác mọi việc. Có người lại không bao giờ biết từ chối. Các hình thức gây xao lãng này còn chưa kể đến nhu cầu phải được giải trí, được tiêu khiển không ngừng của ta, cũng như những thứ xa lạ, đòi hỏi nhiều sự quan tâm mà ta mang vào cuộc sống của mình như là thú nuôi, các hệ thống giải trí cá nhân và các loại máy vi tính cầu kỳ.

Ngay cả trong các khóa tu, người ta cũng tìm đủ cách để bận rộn, để lẩn tránh việc tu tập, như mỗi ngày bỏ ra hằng giờ để lên danh sách mua sắm. Ở Ấn Độ, người ta nói, “Bạn chỉ cần hai chiếc bánh mì mỗi ngày”. Tôi không nghĩ điều đó có nghĩa là ta phải qua ngày bằng hai chiếc bánh mì, như một nhà tu khổ hạnh. Đây chỉ là ám chỉ cho sự buông xả. Thực sự chúng ta cần gì? Đã bao lần ta bị xao lãng bởi các tham vọng, bởi sự tìm tòi phương cách để đạt được chúng? Chúng ta có thể giải phóng bản thân khỏi những xao lãng này bằng cách không cần đến chúng? Dầu với lý do gì, đổ lỗi cho người khác vì sự xao lãng của mình đều không hay ho gì. Kunchyen Longchenpa đã nói, “Các tham vọng thì vô hạn; chỉ khi ta buông chúng thì chúng mới biến mất”.

Tâm cởi mở - bình an

Nếu không có mục tiêu, ta chỉ loanh quanh như một con hổ bất an, không thể tìm thấy yên ổn trong bất cứ thứ gì. Ta lăn trở trên giường, vặn truyền hình, chuyển đổi các kênh, ăn khi không đói, rồi điện thoại liên miên. Ta định làm gì thế? Ta đang cố gắng để kết nối với thế giới vật chất bên ngoài. Nhưng làm sao ta có thể làm điều đó, khi ta còn chưa thể kết nối với nội tâm mình?

Những lúc ta không cảm thấy kết nối với nội tâm là lúc tốt nhất để tu tập. Khi tâm ta không bình ổn, cũng giống như khi bị đau răng. Ta bị hành hạ, chi phối bởi tư tưởng, tình cảm và sự sợ hãi. Ta cũng nghĩ ra đủ thứ cảm xúc vật lý. Tôi đau cổ, rồi nhảy qua đau lưng, đau chân. Rồi bỗng nhiên, ta nghe tiếng nói bên tai, hay mắt ta đang ngứa? Sự thật hơi đáng ngờ, phải không bạn?

Ta cần thời gian để năng lượng bất ổn, căng thẳng này hạ xuống nơi thân. Khi thân an, tâm an. Khi tâm an, các cảm xúc an, và ta cảm nhận sự tự tại, thư giãn, hay shenjong. Khi tâm thư giãn, nó có mặt cho ta, phục vụ ta hay ít nhất cũng giúp ta hiểu việc gì đang xảy ra. Không gian của shenjong ít có biến động, nên tư tưởng, cảm xúc không thể xô đẩy, làm tổn hại ta như chúng thường làm. Tất cả những nỗi mệt nhọc tan biến đi. Tâm ta trong sáng. Thân cảm thấy nhẹ nhàng như mảy lông.

Cần có sức mạnh và sự rõ ràng

Ta cần chút ít sức mạnh để chống lại thói quen chạy theo ngoại cảnh, ngay cả khi ta đã mất khá nhiều thời gian vào đó. Đừng như chú cá heo bơi theo dòng nước, dầu đã bơi nửa đường vào miệng gấu, thay vì thối lui ra, lại nghĩ, “Dầu gì, ta cũng đi được nửa chặng đường”. Thoát ra được sự xao lãng đòi hỏi ta phải có ý chí và sự rõ ràng.

Có nhiều người nói, “Tôi quá lười và quá yêu bản thân nên không thể bỏ thì giờ tu tập”. Loại người lười biếng và thiếu ý chí như vậy sẽ chẳng bao giờ được giải thoát. Đức Phật đã nói, loài ruồi, giòi, vi trùng, nếu chúng có khả năng khao khát được giác ngộ, chúng cũng sẽ làm được. Thật đáng xấu hổ nếu điều đó xảy ra, phải không? Giòi mà còn đạt được giác ngộ huống là ta. Trong kinh nói, “Vạn pháp do duyên khởi”. Các duyên mà ta cần được tạo ra do ý chí và sự rõ ràng của dự tính, và cách ta áp dụng chúng trong đời sống.

Không phải là ta không tinh tấn. Chuông báo thức reo, 4 giờ sáng. Nhiệt độ đã xuống hàng đơn vị. Chúng ta không muốn ngồi dậy, nhưng đó là ngày thứ hai và ta sẽ phải lãnh hậu quả, nếu không ngồi dậy. Phải dậy thôi. Rồi phải quét tuyết trên cửa xe, làm ấm xe, và thẳng tới chỗ làm, ở đó chín hay mười tiếng. Phải làm những việc này mỗi sáng cũng cần chút tầm nhìn, chút ý chí và sự sáng suốt. Nếu ta có thể làm tất cả những thứ đó, chắc chắn ta sẽ tìm ra được thời gian để thực hành.

Cánh đồng xoài hiện đại

Nếu ta có thể quán sát thời gian một cách thực tế, xếp đặt thời khóa biểu, tránh sự xao lãng với ý chí, tâm sáng suốt, và suy nghĩ về những gì khiến cuộc sống có ý nghĩa, chúng ta chắc chắn sẽ tìm ra thời gian để thực hành, để thư giãn tâm. Thông thường, khi thư giãn có nghĩa là đem tâm ra khỏi những công việc hàng ngày, nằm nghỉ ngơi, xem truyền hình hay ngủ nghỉ. Thường thư giãn có nghĩa là tách ra khỏi những căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng dầu ta có bỏ ra nửa cuộc đời để ngủ vẫn chẳng bao giờ thấy thư giãn. Đó là vì ta không chú tâm vào việc thư giãn tâm.

Có gì giúp ta thư giãn hơn là sự buông bỏ những âu lo, những toan tính? Có cách gì tốt hơn là quan sát Bồ-đề tâm để giảm thiểu sự bám víu? Để giải phóng những hy vọng và sợ hãi, có gì tốt hơn là hãy để chúng khởi lên, rồi tự chúng hoại diệt một cách tự nhiên trong không gian của tâm cởi mở? Thiền tạo không gian cho mọi thứ: tất cả những hy vọng, sợ hãi, âu lo cũng như niềm vui và khát vọng. Không cần phải kiểm soát tư tưởng, vì khi thực hành, ta đã tự nguyện để chúng như chúng là - không phán xét chúng tốt hay xấu, có ích hay có hại, tâm linh hay vật chất. Có những hoạt động nào khác có thể hỗ trợ cho tâm và các phát khởi của nó theo cách này không? Chắc chắn là không.

Điều duy nhất ta cần để thực hành là tìm một nơi yên tĩnh để ngồi: một căn phòng, một ghế ngồi nơi công viên, hay chính chiếc giường của mình. Trong các kinh diễn tả một cánh đồng xoài yên tĩnh như là một nơi lý tưởng để thực hành. Đức Phật và các đệ tử của Ngài đã hành thiền ở những nơi như thế. Nếu bạn nghĩ về điều đó, đang giữa một ngày bận rộn, bất cứ một chỗ yên tĩnh nào để ngồi cũng có thể là cánh đồng xoài hiện đại.

DZIGAR KONGTRUL RINPOCHE
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển ngữ từ Take charge of your practice, Tricycle, 5-5-2017)

Tỉnh giác với lợi dưỡng

Tỉnh giác với lợi dưỡng

Đăng lúc: 21:46 - 17/04/2017

Hẳn ai cũng biết câu: “Cái vòng danh lợi cong cong/Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào”. Lợi và danh, những thứ mà thuở sơ tâm xuất gia ai cũng thấy bọt bèo. Buông bỏ hết những cái vụn vặt, tầm thường để hướng đến những chân trời cao rộng. Từ bỏ gia đình, cất bước du phương, như khúc gỗ trôi theo dòng sông nhưng không phải khúc gỗ nào cũng xuôi về biển cả. Vì nhiều nhân duyên, nghiệp dĩ nên người đốn củi kia tuy có vào rừng mà không lấy được lõi cây, chỉ mang về đôi chút cành lá mà thôi.

20-Duc-Phat-Thich-Ca-va-chuyen-khat-thuc-03.jpg
Khất thực thời Đức Phật - Tranh PGNN
Có ai thấu hiểu vì sao những thứ vốn tầm thường, vụn vặt của ngày xưa giờ đây lại trở thành quan trọng; luẩn quẩn không lợi thì danh, không danh thì lợi, hoặc cả hai. Phải chăng có một bộ phận không nhỏ người học Phật ngày nay bị bội thực bởi pháp học mà không nếm được vị ngọt của pháp hành nên đành chấp nhận với cái mà ngày xưa mình từng rẻ rúng là bèo bọt? Lợi dưỡng và cung kính ngày càng lớn dần theo lộ trình xuất gia, nhưng nó chính là con dao hai lưỡi, tồn tại và phát triển hay biến chất, hủ hóa cũng từ đây. Nên “Do phương tiện này mà biết lợi dưỡng rất nặng, khiến người chẳng đắc đạo Vô thượng Chánh chân” đã trở thành công án, là điều đáng suy ngẫm trong bối cảnh tu học hiện nay.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nhận lợi dưỡng của người thật chẳng dễ, khiến người chẳng đến được chỗ vô vi. Vì sao thế? Nếu Tỳ-kheo Tu-la-đà không tham lợi dưỡng thì đã không ở trong pháp mà xa ba pháp y để làm cư sĩ. Tỳ-kheo Tu-la-đà vốn tu hạnh A-lan-nhã, đến giờ khất thực, ở một nơi, ngồi một chỗ, hoặc ăn chính ngọ, ở dưới gốc cây, ngồi ngoài trời, thích chỗ nhàn cư, mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc thích ở gò mả, khắc khổ thân thể, hành hạnh đầu đà này. Lúc này, Tỳ-kheo Tu-la-đà thường nhận sự cúng dường của quốc vương Mãn Hô, hàng ngày cung cấp món ăn trăm vị.

Bấy giờ Tỳ-kheo kia ý nhiễm thức ăn này, dần dần bỏ hạnh A-lan-nhã, đến giờ khất thực, ở một nơi, ngồi một chỗ, ăn chính ngọ, ở dưới gốc cây, ngồi ngoài trời, ở chỗ nhàn cư, mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc thích ở gò mả, khắc khổ thân thể. Bỏ hết những điều này, bỏ ba pháp y; vị ấy trở lại làm người bạch y, giết trâu sát sanh chẳng thể tính kể, khi thân hoại mạng chung sanh vào địa ngục.

Các Tỳ-kheo, do phương tiện này mà biết lợi dưỡng rất nặng, khiến người chẳng đắc đạo Vô thượng Chánh chân. Nếu chưa sanh lợi dưỡng, hãy chế ngự khiến cho chẳng sanh; đã sanh thì tìm phương tiện khiến tiêu diệt liền. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm13.Lợi dưỡng,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr152)

Pháp thoại này, Thế Tôn đề cập đến chuyện Tỳ-kheo Tu-la-đà vì tham đắm lợi dưỡng đã từ bỏ đời sống phạm hạnh, tạo nhiều ác nghiệp nên chịu quả báo nơi địa ngục. Mới hay trong sự tu hành, thiếu lợi dưỡng thì không tu tập được mà tham đắm lợi dưỡng thì cũng tiêu vong. Thực tế cho thấy, người tu không chết vì sự nghèo thiếu mà thực sự ngộp trong sự cúng dường hậu hĩ của tín đồ.

Khi kinh tế xã hội phát triển thì sự cúng dường, lợi dưỡng ngày càng nhiều hơn. Hộ pháp bắt đầu từ đó mà hại pháp cũng xuất phát từ đây. Dĩ nhiên lợi dưỡng không có lỗi, tâm tham đắm lợi dưỡng của người tu mới là lầm lỗi. Nên lời cảnh tỉnh của Thế Tôn “Nếu chưa sanh lợi dưỡng, hãy chế ngự khiến cho chẳng sanh; đã sanh thì tìm phương tiện khiến tiêu diệt liền” trở nên thống thiết hơn bao giờ hết. Đây chính là chìa khóa, là bí quyết, là giải pháp cho sự phát triển ổn định của Phật giáo trong bối cảnh hiện nay.
Quảng Tánh

Cách hóa giải đau buồn khi vô tình tổn hại chúng sinh?

Cách hóa giải đau buồn khi vô tình tổn hại chúng sinh?

Đăng lúc: 18:16 - 04/04/2017

HỎI: Trong lúc đi lại, do vô tình đạp chết côn trùng (phạm giới sát sinh) khiến tôi thực sự buồn và rất đau lòng. Xin quý Báo hướng dẫn tôi phải làm sao để hóa giải tâm trạng này.
(THỦY TIÊN,
roisechetthoi@gmail.com)

susong.jpg
Tôn trọng sự sống của mọi loài - Ảnh minh họa

ĐÁP:

Bạn Thủy Tiên thân mến!

Bạn cần biết rằng, tội nghiệp sát sinh được tạo ra khi hội đủ năm điều kiện: 1-Có một loài hữu tình (người, súc vật), 2-Người giết biết rõ về chúng, 3-Người giết có dụng ý giết, 4-Giết bằng một phương tiện thích hợp, 5-Hữu tình ấy bị giết chết. Do đó, vô tình giẫm đạp chết côn trùng thì chỉ khuyết giới mà thôi chứ không hội đủ nhân duyên phạm giới, không tạo nghiệp sát sinh.

Không riêng bạn, mà bất cứ ai cũng đã từng giẫm đạp làm tổn hại côn trùng. Trong kinh Đức Phật dạy, động chân cất bước là tạo nghiệp chính là ý này. Vì thế, mỗi nửa tháng bạn nên tham dự các khóa lễ sám hối để chuyển hóa sự khuyết giới này. Mặt khác bạn cần nỗ lực làm các việc lành, nhất là phóng sinh, tích cực bảo vệ môi trường để vun bồi phước đức.

Bạn quá “buồn và đau lòng” khi vô tình làm tổn hại côn trùng vì chưa hiểu rõ vấn đề khuyết giới và phạm giới. Phạm khuyết giới vì không tác ý, vô tâm nên tội nghiệp rất nhẹ, thành tâm sám hối sẽ thanh tịnh. Hiểu biết và thực hành được như vậy thì tội diệt phước sinh, thân tâm an lạc.

Chúc các bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN

Sa-môn Thích tử

Sa-môn Thích tử

Đăng lúc: 15:39 - 03/04/2017

Sa-môn là danh xưng của người xuất gia, cạo bỏ râu tóc, dứt trừ các điều ác, siêng làm các việc lành, tu tập thiền định để thú hướng Niết-bàn. Trước thời Đức Phật, các vị đạo sĩ sống đời xuất thế đã được gọi là Sa-môn (Bà-la-môn). Khi Đức Phật ra đời, các đệ tử xuất gia của Ngài cũng gọi là Sa-môn nhưng để phân biệt với ngoại đạo nên gọi thêm là Sa-môn Thích tử (Sa-môn con dòng họ Thích, Sa-môn đệ tử của Phật Thích Ca).
Như nước của trăm sông, khi về xuôi thì hòa nhập thành một là biển cả mênh mông rộng lớn. Nước của các sông kia cũng trở nên thuần một vị mặn mà. Cũng vậy, người trong thiên hạ tuy xuất thân từ những dòng tộc, hoàn cảnh, giai cấp khác nhau nhưng khi đã quy Phật xuất gia thì rũ bỏ hết mọi khác biệt, trở thành Sa-môn Thích tử, tất cả đều chung một mục tiêu duy nhất là thú hướng giải thoát, Niết-bàn.

samon.jpg
Tất cả đều chung một mục tiêu duy nhất là thú hướng giải thoát, Niết-bàn - Ảnh minh họa

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay có bốn dòng sông lớn từ suối A-nậu-đạt chảy ra. Những gì là bốn? Đó là Hằng-già, Tân-đầu, Bà-xoa, Tư-đà. Nước sông Hằng-già từ miệng trâu chảy ra về hướng Đông. Nước Tân-đầu từ miệng sư tử chảy về hướng Nam. Nước Tư-đà từ miệng voi chảy về hướng Tây. Nước Bà-xoa từ miệng ngựa chảy về hướng Bắc. Bốn dòng sông lớn nhiễu quanh hồ A-nậu-đạt, Hằng-già vào biển Đông, Tân-đầu và biển Nam, Bà-xoa vào biển Tây, Tư-đà vào biển Bắc. Bốn sông lớn vào biển rồi, không còn tên cũ, chỉ gọi là biển.

Đây cũng như thế, có bốn dòng họ. Những gì là bốn? Dòng Sát-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Ở chỗ Như Lai cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, không còn dòng họ cũ, chỉ gọi là Sa-môn Thích tử. Vì cớ sao? Chúng của Như Lai ví như biển lớn. Bốn dòng họ như bốn sông lớn, trừ bỏ kiết sử vào thành Niết-bàn Vô úy. Thế nên, các Tỳ-kheo! Có các vị thuộc bốn dòng cạo bỏ râu tóc, do niềm tin kiên cố, xuất gia học đạo, họ sẽ bỏ tên cũ, tự xưng Thích tử. Vì sao thế? Nay Ta chính là Thích tử, từ trong dòng họ Thích xuất gia học đạo.

Tỳ-kheo nên biết! Muốn luận nghĩa sanh con, nên gọi là Sa-môn con dòng họ Thích. Vì sao thế? Sanh đều do Ta sanh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu. Thế nên Tỳ-kheo! Nên cầu phương tiện được làm con dòng họ Thích. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 29.Khổ lạc,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.102)

Ngày nay mỗi người xuất gia đều được vinh hạnh mang dòng họ Thích cao quý của Đức Phật, nguyện làm con của Ngài, là “Sa-môn con dòng họ Thích”. Về hình thức, người xuất gia chính là Sa-môn Thích tử nhưng trong nội dung chúng ta thực sự có “cầu phương tiện được làm con dòng họ Thích” hay không, mới là chỗ đáng bàn.

Có câu “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Khi tự nhận là Thích tử, làm con của Đức Phật, thiết nghĩ chúng ta cũng nên tự soi xét lại mình có chút gì tương ưng với bậc Cha hiền (Từ phụ) của mình hay không? Bởi Thế Tôn đã từng căn dặn: “Muốn luận nghĩa sanh con, nên gọi là Sa-môn con dòng họ Thích. Vì sao thế? Sanh đều do Ta sanh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu”.

Thế nên, từ bỏ dòng họ thế tục để mang dòng họ Thích là điều không khó. Đích thực là con dòng họ Thích, “do Đức Phật sinh, từ Pháp khởi lên, từ Pháp mà thành tựu” mới là điều khó. Khó mà làm được mới đáng gọi là Sa-môn Thích tử.
Quảng Tánh

Nét đẹp trì bình khất thực trên đất Thái Lan

Nét đẹp trì bình khất thực trên đất Thái Lan

Đăng lúc: 19:27 - 08/03/2017

Có thể khẳng định, vấn nạn giả sư đã cướp đi cơ hội - phương tiện để mang hình ảnh đẹp của những nhà sư lặng lẽ xếp thành hàng trì bình vào những buổi sáng: bước vào cuộc đời, vào từng ngõ ngách xóm làng để tạo duyên cho người gieo duyên với Tam bảo ngay trên chính trên quê hương Việt Nam mình.
tribinh.jpg
Nét đẹp trì bình và gieo duyên với Tam bảo của người dân nước Phật giáo - Ảnh: Pixabay

Tôi đã trì bình khất thực ở Thái Lan...

Tôi đã từng yêu quý chiếc y và hình ảnh của một nhà sư ôm bát trì bình ngang qua nhà mình khi còn rất nhỏ, đó như là hình ảnh đánh thức hạt giống lành trong tiềm thức rồi sau đó phát tâm xuất gia để được trở thành hình ảnh đó. Thực sự không còn niềm hạnh phúc nào bằng khi tự mình đắp y mang bát đi khất thực trì bình vào những buổi sớm mai một cách tự do và không sợ bị dòm ngó thật-giả, đúng-sai như một sự thực tập đức hạnh khiêm cung cần có và tự nhắc mình là Khất sĩ - xin ăn tu học, lấy phẩm thực để nuôi thân, pháp hành để nuôi trí.

Với cơ duyên du học tại Thái Lan, ngoài những ngày học chính thức tại trường, vào những ngày cuối tuần hoặc ngày Phật nhật (4 ngày trong tháng - như ngày rằm tại VN) thì tôi có nhiều cơ hội để tiếp xúc và thực tập truyền thống tốt đẹp này ngay tại thủ đô Bangkok - một thành phố hiện đại bậc nhất của Thái Lan.

Khi trời vừa hừng sáng, đúng 5 giờ sáng là tôi thức dậy vệ sinh cá nhân, lấy y, ôm bát - bát ở đây được làm bằng bạc hoặc nhôm và được bao bọc bên ngoài bởi chiếc thẩu mây và có dây đeo ngang bên vai phải để đỡ mỏi tay khi ôm bát đi đường dài quanh khu vực chùa nơi mình cư trú hoặc xa hơn.

Vừa bước ra khỏi cổng là đã thấy người dân trải những chiếc chiếu nhỏ, quỳ bên lề đường, đặt một mâm thức ăn trước mặt để đợi Tăng đoàn đi ngang qua mà dâng cúng. Điều đặc biệt là họ phải thức dậy thật sớm, sớm hơn các nhà sư để chuẩn bị thức ăn cúng dường, thường là cơm, xôi, trái cây và vài cái bánh để thể hiện tấm lòng tôn kính cũng như sự chuẩn bị chu đáo cho phẩm thực cúng dường của mình. Đôi khi những Phật tử này phải thức cả đêm để gói bánh và ngồi canh nồi cơm chín.

Khi thấy các sư đi ngang qua, lần lượt người dân không ai bảo ai, tự lấy thức ăn bỏ vào trong bát dâng lên cúng dường và nhờ các sư chú nguyện.

Khi ấy, mọi người vừa thấy tôi bước đến thì nở nụ cười như ra hiệu muốn cúng dường, và thế là tôi nhẹ nhàng đứng lại để họ quỳ xuống chắp tay trang nghiêm theo nghi thức truyền thống cúng dường của người Thái. Sau khi bỏ thức ăn vào bát cho chư Tăng và mỗi tín chủ sẽ thọ nhận lại lời kinh cầu nguyện sớm mai từ sự gia tâm chú nguyện của Tăng đoàn (riêng tôi thì những ngày đầu còn nhiều bỡ ngỡ nên chưa thể tụng kinh bằng tiếng Pali, khi ấy tôi nhẹ nhàng tụng phẩm hồi hướng công đức bằng tiếng Việt để gửi trao năng lượng bình an đến họ - NV), cứ thế tôi lại thấy họ cười và hoan hỷ vô cùng như để bắt đầu một ngày mới ngập tràn niềm tin.

Sau khi nhận đủ thức ăn, tôi quay người trở lại con đường cũ để trở về chùa thọ dụng phần thực phẩm mà mình đã nhận được và phần nào còn dư lại tôi để dùng chung với thức ăn độ ngọ được nấu vào buổi trưa. Riêng, vào những ngày lễ lớn, thức ăn cúng dường hơi nhiều thì các vị cư sĩ hay còn gọi là hộ bát xách giỏ đi theo bên cạnh nhà sư trong lúc trì bình để hỗ trợ chư Tăng xách đồ, sau khi được chú nguyện xong thì họ mang chuỗi thức ăn dư về lại cho những người nghèo khó trong xóm hoặc gửi đến các trung tâm nuôi trẻ mồ côi - phúc lợi xã hội gần chùa như một sự cho - nhận tiếp nối, đầy nhân văn.

Xong buổi sáng khất thực vào ngày cuối tuần tại đất nước Thái Lan, tôi lại lên đường tiếp tục đi dạy tiếng Anh miễn phí cho trẻ em nghèo trong vùng. Lớp học được bắt đầu vào lúc 7 giờ sáng cuối tuần, hôm nào các em cũng tập trung lại từ rất sớm tại phòng học trong khu ký túc xá mà mình đang ở. Thấy tôi đến, các em vội đứng lên chắp tay chào và quỳ xuống làm lễ (lạy) theo truyền thống. Theo đó, sẽ có hai em đại diện dùng thau nước sạch và khăn để lau chân cho nhà sư mà cũng vừa là thầy giáo của mình để thể hiện niềm tôn kính.

Sở dĩ có truyền thống đó vì tại Thái Lan, Tăng sĩ đóng vai trò hết sức quan trọng trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước, tạo nên một mối liên hệ mật thiết lâu đời giữa các Tăng sĩ và quần chúng nơi mình đang ở. Các ngôi chùa sẽ là những trung tâm văn hóa, học thuật và giáo dục, trong đó các nhà sư luôn được coi là thầy giáo về mặt tâm linh lẫn học thức ở đời - để hướng dẫn, dìu dắt, nuôi dưỡng những thế hệ tiếp nối, phụng sự đất nước mình trên tinh thần đạo đức nhà Phật. Ngoài ra, Tăng sĩ còn được xem như “thẩm phán” để khuyên nhủ, giải quyết và giúp đỡ những mối quan hệ bất hòa trong gia đình và xã hội khi chưa thật sự cần đến sự can thiệp của pháp luật.

Mong ước đơn sơ của một Khất sĩ

Phải chăng, trăm vạn ngôn từ có khi không bằng một hình ảnh thảnh thơi bình dị thật sự chín muồi của một Tăng sĩ nhẹ nhàng, tươi mát, thật tu, thật học, đắp y - mang bát bước đi trên những cung đường đầy tấp nập của chợ-đời để trao truyền, tiếp nối và thức tỉnh cái duyên của đạo cho những ai đã gieo trồng từ vô thủy vô chung?

Thực ra, sự bình dị, khiêm cung từ lời nói đến hành động là bản chất vốn có của người xuất gia học Phật, khi luôn thấy mình nhỏ bé, cầu học và biết dừng lại đúng lúc - đó là những yếu tố trọng yếu cần có ở những người tu trẻ như tôi, thấy rằng phép khất thực là cách tự dạy, tự học, tự nhắc mình hữu hiệu nhất bằng thân giáo để yểm trợ và dưỡng nuôi chính mình từ bài học không lời mà mình phải ôn, phải luyện mỗi ngày từ các bậc tiền nhân đi trước. Khi ấy các ngài cũng đã từng mang đạo vào đời bằng chính đôi chân, bằng mảnh y, bằng chiếc bát của Phật để vân du trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này.

Mơ rằng, một ngày nào đó tôi và những huynh đệ có thể lại được tiếp tục thực hiện phép khất thực ngay trên chính quê hương mình chứ không phải thực hiện ở một nơi nào khác hay tại một đất nước nào đó như đã kể trên. Biết rằng vẫn còn nhiều những bất cập, những khó khăn nhưng đừng vì sự lợi dụng của những người giả sư để rồi “thỏa hiệp”, đánh mất đi hình ảnh thiêng liêng, bài học đạo-đời giá trị mà đã ít nhiều làm bừng tỉnh biết bao con tim khi có duyên lành được hội ngộ, được nhìn thấy và đem lòng kính phục, tiếp nối - trở thành những “thạch trụ tòng lâm” mai sau.

Và rằng đừng để phép khất thực được xem là điều tế nhị nữa, khi đấy là món ăn thực dưỡng tâm linh hết sức quan trọng và rất cần thiết cho những người xuất gia trẻ, chuyên chở bài học khiêm cung, bình dị và tập nhận diện chính mình giữa một xã hội ngày càng thêm trăm điều cám dỗ...

Đức lớn mới thực sự lớn

Đức lớn mới thực sự lớn

Đăng lúc: 20:18 - 15/01/2017

Người đời thường căn cứ vào tuổi đời, địa vị xã hội, vai vế trong dòng tộc để phân định thứ bậc lớn nhỏ, vị trí cao thấp. Người tu thì căn cứ vào tuổi đạo, ai vào đạo trước (thọ giới trước) thì người đó lớn, đi trước, ngồi trên; ai vào sau thì nhỏ nên đi sau, ngồi dưới. Lệ thường là thế, song kỳ thực, tuổi đạo lớn hay nhỏ cũng không phải là vấn đề, quan trọng là vị ấy có giới đức phạm hạnh hay không.

“Một thời Tôn giả Đại Ca-chiên-diên dạo đến nước Bà-na, ở bên bờ ao sâu cùng với chúng năm trăm Đại Tỳ-kheo.

Bấy giờ Tôn giả Ca-chiên-diên danh vang khắp bốn phương. Trưởng lão Bà-la-môn Gian-trà đang du hóa ở đây. Lúc ấy Bà-la-môn nghe Tôn giả Ca-chiên-diên cùng năm trăm Tỳ-kheo du hóa bên ao này, nghĩ rằng: 'Tôn giả trưỡng lão công đức đầy đủ, nay ta có thể đến thăm hỏi Tôn giả'.

Bấy giờ Bà-la-môn Thượng Sắc đem năm trăm đệ tử đến chỗ Tôn giả Ca-chiên diên, thăm hỏi nhau xong, ngồi một bên. Lúc ấy, Bà-la-môn kia hỏi Tôn giả Ca-chiên-diên:

- Như Ca-chiên-diên đây không hành đúng pháp luật. Là Tỳ-kheo trẻ tuổi mà chẳng chịu làm lễ các bậc cao đức Bà-la-môn của chúng tôi.

Tôn giả Ca-chiên-diên nói:

- Bà-la-môn nên biết, Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác thuyết hai địa vị này. Thế nào là hai địa vị? Một là địa vị già cả, hai là địa vị trai tráng.

Bà-la-môn hỏi:

- Thế nào là địa vị già cả? Thế nào là địa vị trai tráng?

Ca-chiên-diên đáp:

- Cho dù, này Bà-la-môn, người ở tuổi tám mươi, hay chín mươi, không dừng được dâm dục, làm các hạnh ác. Này Bà-la-môn, đây là người tuy có thể bảo là già, mà nay ở địa vị trai tráng.

Bà-la-môn hỏi:

- Thế nào là tuổi trai tráng mà ở địa vị già cả?

Ca-chiên-diên đáp:

- Bà-la-môn, nếu có Tỳ-kheo độ hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi tuổi. Người ấy chẳng tập quen dâm dục, cũng chẳng tạo hạnh ác. Đó là, Bà-la-môn, trai tráng mà ở địa vị già cả.

Bà-la-môn hỏi:

- Trong đại chúng này có một Tỳ-kheo không hành dâm dục, chẳng tạo ác hạnh không?

Ca-chiên-diên đáp:

- Trong đại chúng này không có một Tỳ-kheo nào tập dục, làm ác cả.

Bà-la-môn liền từ chỗ ngồi đứng lên, lạy các Tỳ-kheo mà nói:

- Nay các ông tuổi niên thiếu mà ở địa vị già cả, còn tôi tuổi già mà ở địa vị niên thiếu.

Bấy giờ Bà-la-môn kia đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên cúi lạy và tự trình bày:

- Nay con xin quy y Tôn giả Ca-chiên-diên và Tỳ-kheo Tăng, suốt đời không sát sanh...”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 19. Khuyến thỉnh [trích],
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.312)
Cuộc đối thoại giữa Tôn giả Ca-chiên-diên và Bà-la-môn Thượng Sắc cho thấy, trong nhà đạo, phẩm vị cao thấp của một người dựa trên đạo đức, phạm hạnh của chính vị ấy. Cụ thể, “không hành dục, chẳng tạo ác hạnh” là cơ sở để xác định “địa vị già cả” của vị Sa-môn, xuất sĩ trong hội chúng. Ngược lại, người thiếu phạm hạnh, giới đức khiếm khuyết thì dù là gì đi nữa cũng chỉ ở “địa vị niên thiếu” mà thôi.

Liên hệ đến thực tế sinh hoạt Tăng-già trong xứ ta hiện nay, dường như chúng ta đang quá chú trọng về chức vụ. Người có chức vụ càng cao trong Giáo hội thì mặc định là có “địa vị già cả”, ngồi trên, đi trước. Vẫn biết, vì sự việc có tính “hành chánh” nên phải phương tiện như vậy. Vấn đề là, nương theo phương tiện mãi nên không ít người nhầm tưởng đó là cứu cánh (là ‘thiếu niên’ mà cứ nghĩ mình ‘già cả’). Đâu biết, cái hình thức mà mọi người đều biết ấy cần liên hệ với cái nội dung của riêng mình để hổ thẹn, tàm quý mà tự xác định địa vị của mình trong chúng Tăng.

Nhà đạo có câu “Chân thật bất hư”. Danh không xứng với thực thì chỉ là hư danh. Giới đức, phạm hạnh mới thật sự là nền tảng của phẩm vị trên, trước trong Tăng-già. Nhất là phẩm vị ấy phải được chúng Tăng thẩm sát, đánh giá rồi bình chọn và suy tôn mới thực sự giành được sự tôn trọng và quy ngưỡng trong bốn chúng.

Quảng Tánh

9 câu nói hóa giải những khó khăn trong cuộc đời

9 câu nói hóa giải những khó khăn trong cuộc đời

Đăng lúc: 21:20 - 24/12/2016

Đời người có rất nhiều điều khó khăn cần chúng ta lựa chọn và đưa ra quyết định. Đứng trước mỗi lựa chọn và khó khăn ấy, làm sao để chúng ta có quyết định đúng đắn? Hãy tham khảo 9 câu nói của bên Phật gia dưới đây:


1. Khi bạn mất đi một thứ gì đó, có nhất định phải theo đuổi để giành lại không?

Kỳ thực, khi bạn mất đi một thứ gì đó là bởi vì thứ ấy chưa bao giờ thực sự thuộc về bạn, cho nên đừng quá nuối tiếc và theo đuổi nữa.

2. Khi bạn cảm thấy sống quá mệt mỏi, làm sao để sống được thoải mái hơn?

Kỳ thực, cuộc sống quá mệt mỏi là bởi vì phần nhỏ là do cuộc sống và phần lớn là do dục vọng (lòng tham) và sự phàn nàn của chúng ta tạo ra.


3. Quá khứ và hiện tại, chúng ta nên nắm giữ như thế nào?

Đừng để ngày hôm qua chiếm cứ quá nhiều ngày hôm nay của chúng ta.

4.Chúng ta nên đối xử với chính bản thân và đối xử với người khác như thế nào?

Khi đối đãi với bản thân, chúng ta nhất định phải trân quý và đối xử thật tốt, bởi vì đời người không dài và thân người là khó được nhất.

Khi đối đãi với người khác, chúng ta càng cần phải trân quý và đối xử tốt hơn nữa, bởi vì nhân duyên kiếp này, kiếp sau khó gặp lại.

5. Như thế nào là giải thích một cách lễ phép?

Khi giải thích một điều gì thì luôn nhớ rằng, “xin lỗi” là một loại chân thành, không có liên quan đến phong độ hay thể diện của một người. Nếu chúng ta cho đi sự chân thành thì cuối cùng sẽ nhận lại được sự chân thành.

6. Làm sao để cân bằng giữ vui vẻ và bi thương?

Mỗi người chỉ có một trái tim nhưng lại được chia thành bên trái và bên phải. Một bên là nơi cư trú của niềm vui, niềm hạnh phúc. Một bên lại là nơi cư trú của bi thương và đau khổ. Cho nên, đừng vui vẻ quá mức, cười quá lớn mà đánh thức bên bi thương.

7. Đừng xem nhẹ và cũng đừng tự mãn về bản thân

Chỉ cần chân của chúng ta còn ở trên mặt đất thì đừng quá khinh xuất, tùy tiện mà xem nhẹ mình. Chỉ cần chúng ta còn sống trong địa cầu này thì cũng đừng coi bản thân mình quá to lớn.

8. Có phải tình yêu thương sẽ bị hòa tan bởi thời gian?

Tình yêu thương có thể khiến con người quên đi thời gian nhưng thời gian cũng có thể khiến con người quên mất tình yêu thương.

9. Trân quý mỗi lần gặp gỡ

Hai người yêu thương nhau nhưng không thể ở gần nhau thì sẽ không thể đi cùng nhau. Đời người tưởng dài nhưng kỳ thực lại quá ngắn ngủi! Hãy quý trọng mỗi lần gặp mặt.

Suy rộng ra một chút, đối với người thân, bạn bè hãy trân quý mỗi lần gặp gỡ, bởi vì đời của một người không phải là sẽ kéo dài mãi mãi…


Mai Trà biên dịch - Theo Secretchina

Làm sao gỡ dính mắc?

Làm sao gỡ dính mắc?

Đăng lúc: 10:59 - 19/12/2016

Trong lúc gửi đi một cái email nhẹ nhàng không có file đính kèm, tôi chợt nhớ - và gần như đó là phút giây giác ngộ tức thì - về quan điểm không dính mắc trong đạo Phật.

godinhmac.jpg
Chúng ta bị dính mắc nhiều thứ thuộc về năm món dục của thế gian
(danh, sắc, tài, thực - ăn uống, thùy - ngủ nghỉ), nên cần quán niệm để gỡ dần - Ảnh minh họa

Có một ngày nọ, vì rơi vào cao điểm của công việc, tôi phải xử lý mấy chục cái email quan trọng, mà cái nào cũng có rất nhiều thông tin hình ảnh gửi qua file đính kèm (attachment). Đó lại là khoảng thời gian mạng bị hư suốt, chập chờn lúc được lúc không, còn tài liệu thì cái nào cũng gấp. Chúng tôi tìm mọi cách để chuyển các file đính kèm đi, các bên than phiền nhau, không ai hài lòng về nhau… Đối với những việc tối quan trọng hay đối tác lớn, tôi phải cử người chạy đến trực tiếp đưa cái ổ đĩa cứng vì không thể gửi chúng qua internet.
Suốt một ngày cả văn phòng phải tập trung toàn bộ tâm trí vào cái tài liệu đến nỗi vào cuối ngày, không ai nói với ai một lời, vẻ mặt mệt mỏi gần như nhau. Tôi rời văn phòng trong trạng thái đờ đẫn, đầu óc cứ chập chờn hình ảnh tài liệu…

Ngày hôm sau, khi mọi việc được giải quyết ổn thỏa, tôi không còn phải gửi gì qua lại cho đối tác nữa. Email lúc này chỉ đơn giản gọn nhẹ vài dòng. Trong lúc gửi đi một cái email nhẹ nhàng không attachment, tôi chợt nhớ - và gần như đó là phút giây giác ngộ tức thì - về quan điểm không dính mắc (non-attachment) trong đạo Phật.

Rõ ràng, gửi một cái email không có file đính kèm thì bao giờ cũng nhanh gọn hơn là có file đính kèm. Cuộc sống cũng không khác gì về điều này.

Chúng ta dính mắc vào quá nhiều thứ trong cuộc sống, đó là điều tất yếu không thể tránh khỏi. Vì sống là tương quan giao tế giữa nhiều mối quan hệ trong cộng đồng. Các nhu cầu sống, dù cơ bản hay nâng cao, thì đều có những thứ ta cần đến không bao giờ dứt được.

Chúng ta dính mắc vào internet. Không có internet một ngày, chúng ta cuống cuồng lên, loay hoay trong mớ thông tin ứ đọng. Internet đã mang đến cho con người sự thuận tiện thì cũng giam con người trong chính cái lồng tưởng rộng lớn của nó. Một ngày không có internet, văn phòng loạn xạ, công việc ngưng trệ, con người cau có với nhau. Ai cũng sẵn sàng nói những lời bực dọc.

Chúng ta dính mắc các tiêu dùng. Cô bạn thân của tôi có thói quen chỉ mua giày và túi xách hàng hiệu. Thời hoàng kim, thu nhập tốt giúp cô thỏa mãn việc bất cứ lúc nào cô cũng có thể mua những món đồ trong cửa hiệu sang trọng. Thói quen này còn đưa đến cho cô ấy một tính cách khá kỳ cục, là nếu cô thấy ai mang giày và túi xách mà không phải hàng hiệu, thì cô sẽ nhìn họ cười nhẹ, hoặc tỏ ra chê bai. Cho đến một ngày, cô thất nghiệp và ly hôn, hai thứ đó đến một lúc và kéo dài cả năm trời. Thời gian đầu, cô không chấp nhận nổi điều đó. Cô than thở, cô khóc lóc thường xuyên. Có lần tôi còn thấy cô điên cuồng đi mua sắm để thể hiện đẳng cấp của mình, bởi cô không muốn ai nhìn thấy mình trong bộ dạng thất bại. Nhưng cuộc sống có những dòng chảy riêng không theo ý mình. Khi những đồng tiền để dành đã cạn, cô giật mình trở về thực tại. Cô ru rú ở nhà một mình không gặp ai, bạn bè rủ đi chơi cô đều từ chối, vì lý do, nếu đi mà không mua sắm đúng đẳng cấp thì mất thể diện lắm.

Chúng ta dính mắc vào ái tình. Anh bạn thân của tôi từ bé, rất tốt tính, chơi với bạn bè thoải mái phóng khoáng không chê trách điều gì. Anh ấy đã có gia đình đầm ấm nhưng vẫn có thói quen có tình nhân bên ngoài. Vì tôi là bạn thân từ bé nên anh ấy rất hay kể lể. Có đôi khi đi chơi với tình nhân về, nỗi ân hận lên ngôi lại gọi tôi ra cà-phê để chia sẻ như hai thằng đàn ông. Anh ta khẳng định rằng anh ta không hề thấy hạnh phúc thực sự khi ngoại tình, nhất là khi bước vào nhà đối diện với các con. Nhưng anh ta bảo rằng những cuộc tình như vậy nó dính vào người anh không thể dứt, chúng giúp anh giải tỏa những căng thẳng từ gia đình và công việc một cách tạm thời. Những lúc tỉnh táo, anh cũng biết là mình đang sai, nhưng cái cảm xúc thú vị của những cuộc tình bên ngoài làm anh không thể dứt ra.

Cũng một người bạn khác của tôi, giữ một vị trí rất lớn trong một tập đoàn đa quốc gia. Cô ấy làm việc một ngày hơn 16 tiếng đồng hồ trong suốt 10 năm liên tục như thế. Cô ấy bị bệnh đau dạ dày nặng và thoát vị đĩa đệm. Tôi đã khuyên cô ấy rất nhiều lần rằng cần phải nghỉ ngơi để bảo vệ sức khỏe, thứ quý giá nhất của bản thân. Cô ấy bỏ ngoài tai mọi lời khuyên cho đến ngày cô ấy không thể ngồi dậy được nữa, phải nằm một chỗ. Trong lúc nằm cô ấy vẫn nghĩ đến núi công việc và cứ bị nỗi ám ảnh là nếu mình nằm như thế quá lâu thì vị trí của cô sẽ bị thay thế. Quyền lực là một nỗi đam mê rất lớn trong đời sống này.

Một vài ví dụ để thấy rằng khi ta dính mắc vào một điều gì nào đó, thì chính là nỗi khổ đang ôm lấy ta. Có người nhận ra mình đang khổ, có người không nhận ra. Từ khi sinh ra cho đến khi mất đi, ta sẽ vướng vào vô số dính mắc, mà nếu không nhìn thấy ánh sáng thì ta sẽ đi như vậy cho đến lúc ta đi đến chỗ không thể quay đầu.

Làm thế nào để gỡ dính mắc? Hãy bắt đầu từ những bước nhỏ nhất, cụ thể với 3 điều sau:

• Quán vô thường: Vạn vật vô thường và ta cũng không ngoại lệ. Ta và những cái chung quanh ta đều sẽ thay đổi theo thời gian. Đừng để cảm xúc và tâm trí của bản thân trú ngụ hoàn toàn vào một điều nào đó. Trong lúc đang vui hay đau khổ, hãy nhớ rằng những việc đó rồi sẽ có lúc thay đổi. Chuẩn bị tâm thế đó giúp ta sớm nhìn thấy những tia sáng đầu tiên của việc thoát khỏi dính mắc.

• Quán vô dục: Hãy nhìn sâu vào những nhu cầu, những cơn thèm khát của bản thân từ mọi phía, từ vật chất đến tình cảm, để thấy rằng chúng có hai mặt, một mặt tươi đẹp mà mắt thường và tâm vô minh sẽ dễ thấy. Và một mặt khác, sâu hơn, đó là những khổ đau do chúng mang lại, mặt này khó thấy hơn. Ngạn ngữ Pháp có câu đơn giản: Cái gì nhiều quá cũng không tốt (tout excès est mauvais). Hiểu vậy để thấy biết đủ với mọi nhu cầu. Khởi đầu của biết đủ là khởi đầu của hành trình thoát khỏi dính mắc.

• Quán hơi thở: Quan sát hơi thở để thấy rằng, đó là nguồn sống, là gia tài cốt lõi của bạn. Nhờ có hơi thở mà bạn biết bạn đang hiện diện ở đây, trong cuộc đời này. Không có hơi thở, những dính mắc cũng chỉ là những hạt bụi bay giữa luân hồi.
Xuân Phượng

Bố thí ba-la-mật trong thời hiện đại

Bố thí ba-la-mật trong thời hiện đại

Đăng lúc: 18:27 - 01/12/2016

Xin các bạn nhớ cho rằng: Chúng ta đều là người du hành đến thế giới này. Đến một thời điểm nào đó, tất cả chúng ta đều phải ra đi! Cái chúng ta để lại cho đời như lòng từ bi, bố thí mà không cần đền trả là một di sản quý giá, một bài học giá trị cho đời.





Phật dạy bố thí mà còn ý nghĩ có người cho, người nhận, và vật thí là chưa rốt ráo vì bố thí mà còn tính toán là bố thí có ý mong cầu.

Thường khi mình bố thí là do có đối tượng (nhu cầu), nên mình mới cho (cung cấp); và vật thí càng có giá trị cao và nhiều chừng nào thì bố thí sẽ có nhiều công đức lớn. Tất nhiên, hễ có bố thí là mình đã có phước báo rồi! Ở đây, chúng ta muốn học hạnh bố thí không chỉ có phước mà luôn cả huệ nữa! Cái khó ở đây là bố thí mà không thấy có cầu và có cung thì bố thí cái gì, và bố thí cho ai?

Để chuyên chở đầy đủ tinh thần ba-la-mật, bố thí phải mang ý nghĩa của ‘tam luân không tịch’ có nghĩa là 3 không (không thấy người cho, không thấy người nhận, và không thấy vật thí) và được luân chuyển liên tục, không dứt. Phần nhiều, chúng ta quan niệm là phải bố thí cho đúng người và đúng cách. Nhưng theo tinh thần Bát-nhã là bố thí mà không thấy có cho, có nhận, và có vật thí. Khi mình phát tâm muốn cho là mình cứ cho. Bất kể người kia là ai, và vật thí là gì, tài thí hay pháp thí, v.v… không quan trọng.

Để đạt được tinh thần "tam luân không tịch" chúng ta phải thay đổi cách suy nghĩ và thái độ của mình. Thay vì nghĩ về mình, chúng ta nghĩ nhiều về người và tự đặt câu hỏi mình có thể làm được gì cho người khác. Các bậc hiền nhân trên thế giới đều làm vậy. Họ luôn đặt tinh thần phụng sự người khác lên trên hết; thậm chí họ không cần biết người mà họ phụng sự là ai. Họ chỉ cần biết là việc đó đang cần giúp đỡ. Thế là họ ra tay ngay! Sỡ dĩ họ cho mà không cần đền trả và cũng không cần biết người nhận là ai chỉ vì họ tìm thấy niềm vui, và hạnh phúc thật sự trong khi cho.

Việc bố thí ba-la-mật, không cần biết người nhận, cũng như người cho đã được thực hiện tại nhiều nơi. Chẳng hạn, có một nhóm người thiện nguyện đã thành lập một quán ăn, gọi là Karma Kitchen, tạm dịch là Bếp ăn Nghiệp quả tại thành phố Berkeley, ở miền Bắc California, Hoa Kỳ. Họ phục vụ khách hàng như tất cả mọi quán ăn khác, nhưng mỗi khi khách hàng chuẩn bị trả tiền thì họ được cho biết là đã có người trả trước cho họ rồi!

Nếu muốn noi theo cử chỉ của vị khách ăn trước họ thì họ có thể trả tiền cho người ăn sau. Cứ vậy mà luân lưu. Người khách ăn không cần biết là đã ăn bao nhiêu và sẽ phải trả bao nhiêu cho xứng. Nếu họ không muốn trả thì cũng không sao cả! Nói chung, phần ăn của họ đã được người ăn trước trả xong cả rồi. Cũng tại Hoa Kỳ, ở thành phố Bluffton, South Carolina, từng có một người khách hàng của quán cà-phê trả 100 đô-la cho phần cà-phê của mình và xin bao trả hết trên số tiền đó, cho những ai đến mua sau ông.

Dụng ý của những hành động trên là muốn mọi người thực tập hạnh bố thí, cho mà không cần phải có một mục đích rõ rệt! Chỉ cần chúng ta học cách cho. Còn cho ai và cho như thế nào, cũng như cho cái gì thì không quan trọng. Nếu mỗi người đều thực tập theo phương cách này thì rõ ràng ‘sự cho’ sẽ không đứt đoạn (tam luân không tịch). Và mọi người đều xem đây là một cử chỉ bình thường trong cuộc sống.

Giống như chuyện một nhà thám hiểm đến một xứ ở châu Phi để làm nghiên cứu. Vì đường sá của quốc gia này rất giới hạn, nên họ chọn đường sông để di chuyển khắp nơi. Một hôm tàu của họ bị chết máy và mắc cạn. Họ dùng đủ mọi cách để đưa con tàu ra khỏi vùng cạn, đều không hiệu quả. Bỗng dưng từ đâu có một chiếc tàu đánh cá chạy đến kéo tàu họ ra khỏi chỗ cạn và còn cho thêm xăng dầu cũng như giúp sửa máy để tàu họ đi tiếp.

Sau khi làm xong, chiếc tàu đánh cá nọ rồ máy chạy thẳng trước sự kinh ngạc của các nhà thám hiểm vì họ dự định sẽ nói lời chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của chiếc tàu nọ, hoặc trả một ít tiền chi phí. Khi hỏi một nhân viên người bản xứ, các nhà thám hiểm mới hiểu rằng: Ở xứ sở này, khi ai thấy người khác gặp nạn thì phải giúp đỡ ngay, không cần nhờ vả hay nói lời cảm ơn. Thật là một phong tục đáng quý!

Chúng ta thường quan niệm rằng chỉ các bậc Bồ-tát thượng nhân mới có thể làm những việc bố thí ba-la-mật vô thượng như vậy! Nhưng những ví dụ trên cho ta thấy tất cả mọi người nếu muốn phát tâm tu hạnh bố thí ba-la-mật đều có thể làm được.

Một số người lại lo rằng nếu mình bố thí không đúng chỗ sẽ không những làm tổn thương người nhận mà còn làm xót xa lẫn người cho. Chính vì những nguyên nhân lo lắng này mà hạnh bố thí ba-la-mật trở nên khó thực hiện. Như chúng ta đã thấy ở trên, tại sao một người vào tiệm cà-phê tặng 100 đô-la cho những người mình không quen biết, và có thể, là họ không cần số tiền bố thí này? Như vậy dụng ý của người cho tiền này là gì? Hay là vì ông ta có quá nhiều tiền nên đem cho chơi để làm vui?

Theo một nghiên cứu ở Đại học Harvard, Hoa kỳ năm 2009 cho thấy: người càng hạnh phúc bố thí nhiều hơn và càng bố thí khiến họ vui hơn. Các nhà nghiên cứu đưa đến kết luận rằng: Hạnh phúc và bố thí có một sự hỗ tương tích cực cho nhau. Nghĩa là, càng cho thì càng hạnh phúc, và càng hạnh phúc thì cho nhiều hơn!

Chính vì là mật hạnh của một Bồ-tát nên bố thí ba-la-mật không phải là một hình thức bố thí tầm thường. Ngoại trừ, chúng ta đừng để tâm âu lo về người nhận và vật thí làm trở ngại bồ-đề tâm của mình; bằng không mình sẽ khó thực hiện được hạnh này. Như chúng ta thường nghe về hạnh từ bi thực sự. Nó có nghĩa là thương yêu người và tất cả mọi loài mà không cần phải có điều kiện, không có một lý do, và tất nhiên là không cần phải có lợi về phần mình. Thế mới biết để tu hạnh bố thí "tam luân không tịch", chúng ta phải học hiểu và thử qua.

Sau khi làm xong, nếu thấy vẫn còn vướng mắc, phiền não thì rõ ràng là tâm mình vẫn còn lệ thuộc vào một điều kiện nào đó mới có thể thực hiện được. Điều kiện ở đây có nghĩa là người kia phải nghèo khổ, phải cần thứ mình cho, phải đúng đối tượng mà mình muốn cho, v.v... và v.v… Nếu còn nói đến điều kiện thì hạnh bố thí ba-la-mật sẽ không thể thực hiện được!

Để hạnh bố thí theo tinh thần "tam luân không tịch" được thực hiện và trải rộng khắp nơi, chúng ta phải có niềm tin nơi con người. Nó có nghĩa là chúng ta không cần biết vật thí của mình được dùng vào việc gì. Chúng ta tin rằng người nhận sẽ học được tinh thần bố thí và tìm cách làm như vậy khi họ thấy người khác cũng cần sự giúp đỡ của họ. Ngoài ra, mình cũng tin rằng việc lành, việc tốt sẽ dễ khiến người khác bắt chước làm theo vì, như Phật dạy, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, nghĩa là đều có những đức tính tốt. Chỉ cần đức tính tốt đó được thực hiện và phơi bày cho họ thấy thì họ sẽ làm theo.

Một bà cụ nọ nhân ngày sinh nhật 85 tuổi đã nghĩ ra một ý hay là tặng 85 đô-la, mỗi lần 5 đô-la cho người đi đường nào bà cụ gặp và tùy ý người đó muốn dùng số tiền vào việc gì thì cứ tùy nghi. Có người hỏi tại sao bà làm vậy thì bà trả lời rằng bà cụ muốn trải rộng lòng tốt bụng (kindness) đến cho mọi người. Nếu có ai đó học được gì từ hành động của bà thì điều đó đã làm mãn nguyện hy vọng của bà. Bà muốn mọi người luôn biết thương yêu quý mến nhau vì thế giới đã đầy khổ đau này cần có thêm những tấm lòng tốt.

Đừng nhìn thế gian này bằng cặp mắt bi quan rồi chán chường, mệt mỏi. Chung quanh ta đang có biết bao nhiêu người đang tìm cách thực hiện hạnh bố thí ba-la-mật với ý định muốn mọi người thấy rằng thế gian mình đang sống vẫn còn có rất nhiều người tốt, muốn làm những việc gì đó để cống hiến cho đời, làm cuộc đời đẹp thêm và đáng sống. Như Phật dạy: "Đừng xem thường những việc thiện nhỏ vì việc thiện nhỏ có khi lại mang đến kết quả lành lớn. Cũng vậy, đừng xem thường những hành động xấu ác nhỏ vì hành động ác nhỏ có thể mang đến khổ đau to lớn."

Những ví dụ ở trên của bài viết này đều phát xuất từ những hành động nhỏ nhưng những tiếng vang nhỏ này đang lan tỏa đến khắp nơi và mọi người đang dần dần thấy rõ kết quả của chúng. Thế giới chúng ta sống đang thu hẹp nhỏ dần lại vì những phương tiện truyền thông hiện đại. Một việc làm nhỏ, dù là từ một ngõ ngách xa xôi nào, có thể tác động đến thế giới khi nó được ghi lại và phát tán trên các kênh thông tin điện tử như "youtube" hay "facebook"...

Xin các bạn nhớ cho rằng: Chúng ta đều là người du hành đến thế giới này. Đến một thời điểm nào đó, tất cả chúng ta đều phải ra đi! Cái chúng ta để lại cho đời như lòng từ bi, bố thí mà không cần đền trả là một di sản quý giá, một bài học giá trị cho đời.

Thiện Ý

Hà Nội: Trọng thể kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN

Hà Nội: Trọng thể kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN

Đăng lúc: 22:10 - 07/11/2016

Sáng nay 7-11, Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN đã trọng thể và trang nghiêm diễn ra tại hội trường Bảo tàng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội (huyện Sóc Sơn, TP.Hà Nội).

H1.jpg
Đức Pháp chủ - Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ quang lâm - ảnh: Bảo Thiên

Đại lễ cung đón Đức Pháp chủ - Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ cùng chư tôn giáo phẩm Phó pháp chủ HĐCM quang lâm chứng minh.

HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS; chư tôn giáo phẩm Phó Chủ tịch HĐTS cùng chư tôn đức lãnh đạo Phật giáo 63 tỉnh, thành; ông Vũ Đức Đam, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ cùng các vị lãnh đạo nhà nước, nguyên lãnh đạo nhà nước CHXHCN Việt Nam; đại diện các bộ ngành trung ương và TP.Hà Nội đến dự và chúc mừng.

H2.jpg
Cung nghinh chư tôn đức và đại biểu - ảnh: Bảo Thiên

H4.jpg
TT.Thích Huệ Thông dẫn chương trình - ảnh: Lương Hòa

H3.jpg
Nghi thức chào cờ - ảnh: Lương Hòa

Đại lễ bắt đầu bằng nghi thức cung nghinh trang trọng giữa tiếng nhạc hùng hồn, tiếng trống kèn rộn ràng với đoàn rước lễ đầy sắc màu do chư Tăng Ni sinh và các em Phật tử thủ đô phụ trách. Ngay sau đó là phần chào quốc kỳ, đạo kỳ, tưởng niệm các vị tiền bố hữu công, anh hùng liệt sĩ đã cống hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc.

Thay mặt cho Đức Pháp chủ, Hòa thượng Phó Pháp chủ Thích Trí Quảng đã tuyên đọc thông điệp gởi chư tôn túc Tăng Ni, quý Phật tử trong và ngoài nước nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội.

Bức thông điệp nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết, hòa hợp của các thành viên trong ngôi chung Giáo hội suốt 35 năm qua - đã tạo nên những thành tựu Phật sự quan trọng trên các mặt công tác, phục vụ nhân sinh, phát triển đất nước, góp phần kiến tạo hòa bình, an lạc cho nhân loại.

Qua đó, Đức Pháp chủ cũng khẳng định, Giáo hội đã thực sự lớn mạnh, đủ sức tiến hành các Phật sự trọng đại, hòa mình vào dòng chảy và sự phát triển chung của Phật giáo thế giới khi tổ chức thành công nhiều sự kiện Phật giáo tầm quốc tế. Dịp này, Đức Pháp chủ gởi lời tri ân đến các cơ quan nhà nước, bạn bè quốc tế và đồng bào các giới trong nước đã đồng hành, giúp sức Giáo hội để hoàn thành Phật sự từ ngày thành lập đến nay.

H7.jpg
HT.Thích Trí Quảng tuyên đọc thông điệp của Đức Pháp chủ - ảnh: Lương Hòa

H5.jpg
Chư tôn giáo phẩm các ban ngành T.Ư dự lễ - ảnh: Lương Hòa

H6.jpg
Lãnh đạo các cấp chính quyền dự lễ - ảnh: Lương Hòa

Tuyên đọc diễn văn Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội, Hòa thượng Chủ tịch HĐTS Thích Thiện Nhơn khái quát lại quá trình hình thành, kiện toàn và điều hành Phật sự của Giáo hội suốt 35 năm qua; đồng thời khẳng định những tinh thần đoàn kết, hòa hợp, đồng hành và phụng sự là những giá trị cao quý của các cấp Giáo hội.

“Những thành tựu của Giáo hội trong 35 năm qua là liên tục, ổn định, rõ nét và qua đó khẳng định với kinh nghiệm sẵn có, tự thân mỗi thành viên của Giáo hội sẽ khắc phục khó khăn, tham gia sâu rộng những việc làm lợi đạo ích đời, tiếp tục đóng góp tích cực vào sự xương minh đạo pháp, hưng thịnh đất nước” - Hòa thượng Chủ tịch HĐTS nhấn mạnh.

H9.jpg
HT.Thích Thiện Nhơn đọc diễn văn đại lễ - ảnh: Lương Hòa

Trong bài diễn văn cũng khẳng định, lịch sử đã cho thấy kể từ thời Đức Phật tại thế cho đến nay, hễ Nhà nước ủng hộ Phật giáo thì Phật giáo hưng thịnh và đất nước cũng hưng thịnh phú cường. Văn hóa dân tộc có sự đóng góp lớn lao của Phật giáo về văn học, triết học, giáo dục, mỹ học, kiến trúc, nghệ thuật…, nhất là duy trì và phát huy truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam có tiếp thu, chọn lọc một số nguồn văn hóa khác.

Trong phút giây trang trọng hướng về mốc lịch sử cách nay 35 năm, Hòa thượng Chủ tịch HĐTS đề nghị toàn thể đại biểu thành kính tưởng nhớ và niệm ân đến chư tôn đức tiền bối lãnh đạo Giáo hội qua các nhiệm kỳ - đã có công lao lớn trong việc xây dựng, củng cố và phát triển Giáo hội từ nhiệm kỳ đầu tiên của Giáo hội và chư vị cố Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Ni trưởng, Ni sư, quý vị cư sĩ trong Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự từ trung ương đến địa phương của Giáo hội qua các nhiệm kỳ.

H10.jpg
TT.Thích Đức Thiện báo cáo kết quả Phật sự 35 năm của Giáo hội - ảnh: Lương Hòa

Thay mặt Ban Thư ký, TT.Thích Đức Thiện, Tổng Thư ký HĐTS đã báo cáo kết quả công tác Phật sự của Phật giáo cả nước từ ngày thành lập đến nay.

Theo đó, khi mới thành lập (tháng 11-1981), nhiệm kỳ đầu là thời kỳ xây dựng, Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm 2 hội đồng: Hội đồng Chứng minh 50 thành viên, Hội đồng Trị sự 49 thành viên, có 6 ban ngành trung ương và 28 Ban Trị sự tỉnh, thành hội Phật giáo hoạt động.

Từ nhiệm kỳ II đến nhiệm kỳ IV là thời kỳ ổn định và xây dựng, nhiệm kỳ V và nhiệm kỳ VI là thời kỳ củng cố và phát triển.

Trải qua 35 năm, nhiệm kỳ VII là nhiệm kỳ kế thừa, ổn định và phát triển bền vững, kiện toàn và đổi mới tổ chức.

H13.jpg
Hình ảnh chư tôn đức và đại biểu nhìn từ trên cao - ảnh: Lương Hòa

“Hiện nay tổ chức GHPGVN có 89 thành viên HĐCM, 199 Ủy viên Hội đồng Trị sự và 66 Ủy viên dự khuyết. Hệ thống tổ chức Giáo hội gồm 13 ban, viện trung ương hoạt động chuyên ngành; thống nhất từ trung ương đến các địa phương khi đã thành lập Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh tại 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Kiện toàn và nâng tầm hệ thống quản lý hành chính Phật giáo cấp quận, huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh; quản lý 8 Hội Phật tử Việt Nam ở nước ngoài theo Hiến chương GHPGVN”, TT.Thích Đức Thiện thông tin.

Báo cáo cũng điểm qua những thành tựu nổi bật của 13 ban ngành hoạt động của Giáo hội gồm: Tăng sự, Giáo dục Tăng Ni, Hướng dẫn Phật tử, Hoằng pháp, Nghi lễ, Văn hoá, Kinh tế - Tài chính, Phật giáo quốc tế, Từ thiện xã hội, Pháp chế, Kiểm soát, Thông tin - Truyền thông, Viện Nghiên cứu Phật học.

Hiện tại, cả nước có 49.493 Tăng Ni tu học tại 17.376 cơ sở tự viện và hàng chục triệu tín đồ Phật tử cùng với hơn 50 triệu những người yêu mến đạo Phật; 4 học viện, 8 lớp cao đẳng và 31 trường trung cấp Phật học; gởi 476 Tăng Ni du học nước ngoài; 890 Tăng Ni giảng sinh tốt nghiệp khóa đào tạo giảng sư; 1.003 đơn vị GĐPT với 8.560 huynh trưởng và 65.650 đoàn sinh; 1.150 đạo tràng tu học dành cho Phật tử tại gia; nhiều ấn phẩm văn hóa và báo chí, thông tin điện tử; 150 Tuệ Tĩnh đường, 655 phòng chẩn trị y học dân tộc, 1 phòng khám đa khoa, thực hiện công tác từ thiện khoảng 7.000 tỷ đồng; Giáo hội là thành viên của nhiều tổ chức Phật giáo quốc tế.

Trong phương hướng thời gian đến, TT.Thích Đức Thiện đã trình bày 11 điểm cần tập trung thực hiện để đưa Giáo hội phát triển trong giai đoạn mới và hội nhập quốc tế.

H11.jpg
Ông Vũ Đức Đam phát biểu - ảnh: Lương Hòa

Đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại buổi lễ - khẳng định - trong quá khứ nhiều nhân vật ghi danh tên tuổi với lịch sử dựng nước và giữ nước xuất thân từ Phật giáo. Nói về sự kiện thành lập và những giá trị đóng góp của Giáo hội sau 35 năm, Phó Thủ tướng cho rằng đó là những đóng góp quan trọng, tạo sự ổn định trong đời sống và làm giàu các nét đẹp văn hóa.

Cuối bài phát biểu, Phó Thủ tướng đề nghị, Giáo hội, chư Tăng Ni, Phật tử cần tăng trưởng Phật chất để tiếp tạo sự trang nghiêm, phát huy các tiềm lực, làm chỗ dự tâm linh vững chắc cho dân tộc.

Dịp này, Giáo hội đã trang trọng đón nhận Huân chương Lao động hạng nhất do Chủ tịch nước trao tặng.

Nhiều lẵng hoa, phần quà do lãnh đạo cấp cao của nhà nước, nguyên lãnh đạo nhà nước, các cơ quan trung ương, TP.Hà Nội, tổ chức, cá nhân gởi đến chúc mừng.

Giáo hội trao tặng 500 triệu đến Quỹ khuyến học Việt Nam do bà Nguyễn Thị Doan, nguyên Phó Chủ tịch nước làm chủ tịch.

H12.jpg
Ông Vũ Đức Đam trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất đến Giáo hội - ảnh: Lương Hòa

H15.jpg
Lãnh đạo UBTƯ MTTQVN tặng hoa chúc mừng - ảnh: Lương Hòa

H16.jpg
Giáo hội tặng 500 triệu đến Quỹ khuyến học Việt Nam - ảnh: Lương Hòa

Buổi lễ khép lại sau phần cảm tạ của Ban Tổ chức do HT.Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS đọc. Chư tôn đức lãnh đạo và quý đại biểu hoan hỷ chụp ảnh lưu niệm nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội.

H17.jpg
HT.Thích Thanh Nhiễu cảm tạ - ảnh: Lương Hòa

H14.jpg
Hình ảnh chư tôn đức và đại biểu nhìn từ trên cao - ảnh: Lương Hòa

H8.jpg
Toàn cảnh đại lễ - ảnh: Lương Hòa

Bảo Thiên

Phương cách đối phó với bệnh tật

Phương cách đối phó với bệnh tật

Đăng lúc: 19:58 - 21/10/2016

Trước hết chúng ta phải hiểu rằng bệnh hoạn là điều không tránh được. Tất cả chúng ta đều phải bệnh. Một khi ta đã được sinh ra trong vòng luân hồi với thân chịu ảnh hưởng của những xung đột tâm lý và nghiệp, thì bệnh là điều chắc chắn phải xảy ra. Đó là bản chất của thân - nó già đi và bệnh. Cuối cùng nó sẽ hoàn toàn ngừng hoạt động. Nó chết và tâm thức đi tái sinh.
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Phản ứng thông thường của chúng ta đối với bệnh là cảm thấy thương thân, trách người và sân hận. Các phản ứng này chỉ khiến bản thân chúng ta và người xung quanh thêm khổ sở. Chúng có chữa được bệnh không? Không, dĩ nhiên là không.

sick-monk-with-buddha-and-ananda.jpg
Đức Phật chăm sóc một Tỳ-kheo bị bệnh - Tranh PGNN

Đức Phật khuyên chúng ta nhìn bệnh từ một quan điểm rộng rãi hơn; đó là dầu ta có tìm được phương thuốc phù hợp để chữa bệnh, ta cũng cần tìm hiểu nguồn gốc của bệnh. Bệnh xảy ra khi con người phải sinh ra trong vòng luân hồi. Một khi đã được sinh ra, chúng ta sẽ phải có bệnh, trừ khi cái chết đã đến trước rồi. Nguyên nhân gì khiến ta tái sinh trong vòng luân hồi? Chính là tâm bám víu vào tham, sân, si và nghiệp (các hành động ở thân, ở miệng và ở ý). Những thứ này hợp lại để thành nguyên nhân chính: là sự bám víu vào ngã, là vô minh. Vô minh khiến ta không hiểu về bản chất của thực tại. Do đó giải thoát bản thân khỏi sự vô minh này là điều tiên quyết.

Phần đông chúng ta đồng ý, “Đúng, đúng, tôi phải loại bỏ si mê. Nhưng, tôi sẽ làm điều đó sau này. Hiện giờ tôi đang mạnh khỏe. Tôi trẻ trung và cuộc đời đang ở phía trước. Tôi có thể làm rất nhiều thứ. Tôi muốn ở bên cạnh những người tôi quan tâm. Tôi cần trải nghiệm cuộc sống. Tôi muốn có một nghề nghiệp. Tôi muốn du lịch. Tôi muốn có những dục lạc mới. Tôi muốn sáng tạo nghệ thuật, hay thể thao. Tôi muốn làm điều này và điều nọ. Tôi sẽ quan tâm về vòng luân hồi sau này”.

Qua hàng tỷ kiếp, chúng ta đã dùng dằng khi đối mặt với nguyên nhân gây ra đau khổ cho ta. Sự dùng dằng kéo dài và những lời biện hộ đã đưa chúng ta đi đâu? Chúng ta cứ tiếp tục nói như thế từ kiếp này sang kiếp khác. Tại sao chúng ta trì hoãn? Bởi vì tham ái.

Khổ bắt nguồn từ si mê và tham ái. Để loại bỏ chúng, trước tiên chúng ta phải thấy toàn cảnh luân hồi như thế nào một cách rõ ràng. Điều này liên quan đến việc phát triển lòng can đảm to lớn để quán sát nội tâm, để truy tìm nguồn gốc của luân hồi, các giải pháp khác (giải thoát), và con đường đến giải thoát. Chúng ta phải học về và dồn sức lực vào việc nhận thức bản chất tột cùng của thực tại, sự trống vắng của hiện hữu của tất cả mọi người và mọi vật. Chỉ có như thế, thì chúng ta mới có thể loại bỏ si mê là nguồn gốc tạo ra sinh, già, bệnh và chết.

Tôi sẽ nói thêm về những cách quen thuộc để đối phó với bệnh, nhưng vì theo sát giáo lý của Đức Phật, tôi muốn trước hết bàn đến đề tài này trong cái nhìn đúng đắn. Bỏ qua việc giải thích vòng luân hồi để giúp bạn được ích lợi đối với những vấn đề ngay trước mắt sẽ là dối gạt bạn. Tái sinh trong luân hồi mới đích thực là vấn đề và nhận thức được bản chất thực sự của thực tại một cách trực tiếp mới là giải pháp của vấn đề. Tuy nhiên, cho tới khi chúng ta đạt đến điểm đó, cho tới khi chúng ta nhận thức được sự trống vắng của hiện hữu, thì đây là một số cách khác để đối phó với bệnh hoạn:

1. Bấm nút dừng sợ hãi

Hãy quán sát tâm và nhìn xem chúng ta phản ứng như thế nào đối với bệnh. Tôi không biết bạn có giống như thế không, nhưng khi bệnh, tâm tôi rất sợ hãi và thường nghĩ đến “tình trạng tệ hại nhất” để kết luận. Thí dụ, tôi có cảm giác lạ ở ngực thì liền nghĩ rằng tôi sẽ bị đột quỵ. “Nếu tim có vấn đề khi tôi đang ở trong thất của mình thì sẽ như thế nào? Biết có ai tìm ra tôi kịp không? Liệu họ có đưa tôi đến bệnh viện đủ nhanh không? Ở Mỹ, chúng tôi không có chương trình bảo trợ sức khỏe rẻ tiền, nên những tổn phí về sức khỏe sẽ như thế nào?”. Chỉ là một cảm giác khác lạ nhỏ, nhưng tâm tôi đã phóng đại nó, “Liệu bệnh tim này có đe dọa cuộc sống của tôi không!”. Lại một màn khác: bụng của ta hơi khó chịu, ta liền nghĩ, “Đây chắc là ung thư bao tử rồi”. Khi đầu gối ta đau lúc ngồi thiền, ta liền nghĩ, “Tôi phải chuyển tư thế ngay lập tức, nếu không tôi sẽ bị tàn phế cả đời”. Tâm của bạn có trở nên hoang dại và tạo ra những câu chuyện khủng khiếp như thế không?

Lúc bắt đầu, chỉ là một cảm giác khó chịu ở trong thân - một cảm giác vật lý. Tùy thuộc vào việc chúng ta xem cảm giác vật lý đó như thế nào, chúng ta có thể tạo ra rất nhiều khổ tâm. Nếu chúng ta có thể bấm cái nút “Dừng lại” trên tâm sợ hãi và chỉ ý thức về cảm giác vật lý, ta sẽ không tạo ra phiền não cho tâm. Đó chỉ là một cảm giác, không có gì đáng sợ. Chúng ta không phải căng thẳng. Cảm giác chỉ là cảm giác, hãy để nó như thế.

Khi hành thiền, chúng ta trải nghiệm những cảm giác vật lý khác. Nếu ta gán cho một cảm giác là “đau”, thì mọi thứ thực sự bắt đầu đau. Tuy nhiên, nếu ta chỉ nói “cảm giác”, và không tạo ra một cái tưởng mạnh mẽ hay hình dung trong tâm về đầu gối của mình, thì nó chỉ là cảm giác. Hãy quán niệm: Đâu là cảm giác? Đâu là thân?

Hãy thử nghiệm nhiều cách với cái đau nơi thân khi hành thiền, thay vì lặp lại thói quen trở nên căng thẳng và sợ hãi khi đau.

2. Điều gì khiến cảm giác này là “của tôi”?

Có bao giờ bạn tự hỏi điều gì đã khiến bạn căng thẳng, sợ hãi khi bạn trải nghiệm một cảm giác nào đó? Nếu quán sát, ta sẽ thấy đó là vì ta gán cho nó là của tôi, “Tôi đau. Lưng tôi nhói buốt”. Ngay khi được dán nhãn “của tôi”, thì một cảm giác mạnh mẽ về “cái tôi” phát khởi, và cảm giác đau đó trở thành ghê gớm. Trong lúc hành thiền, chúng ta có thể tự hỏi mình, “Điều gì khiến cảm giác này là của tôi? Cái gì là tôi hay của tôi trong cảm giác này?”. Khi tâm quán chiếu sâu xa về điều này, là cách ta chất vấn ý thức mạnh mẽ về một “cái tôi” bền vững. “Cái tôi” và “Của tôi” có hiện hữu đúng như ta tưởng không? Từ đó ta quán về sự không có mặt của một hiện hữu độc lập hay một chủ thể thường hằng.

3. Hãy nghĩ, “Tốt! Bệnh cũng tốt!”

Một cách khác để đối phó với bệnh là hãy nghĩ, “Tôi bệnh à, tốt thôi!”. Đây là một cực đoan đối nghịch với cách chúng ta thường suy nghĩ phải không? Thuốc chữa của Pháp đối với hầu hết những khó khăn của chúng ta đều chính là sự đối nghịch lại đối với những gì tâm ta thường tự động nghĩ. Đức Phật khuyên ta làm ngược lại với những gì mà bản ngã muốn làm. Trong trường hợp này khi bệnh, ta nên nhủ, “Tốt! Có bệnh tôi cũng vui!”.

Có thể bạn sẽ nghĩ, “Điên à? Làm sao có thể nói, tôi vui khi bị bệnh?”. Hãy nhìn sự việc theo cách này: bệnh của ta là do nghiệp xấu mà ta đã tạo ra trong quá khứ. Giờ thì nghiệp đó đã ra quả dưới hình thức bệnh, nó không còn che mờ tâm trí ta nữa. Có thể nghiệp xấu đó có năng lực khiến ta phải tái sinh đọa vào những nơi ghê gớm (như địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh) một thời gian dài, nhưng thay vào đó giờ nó chỉ trổ quả mà nếu so sánh thì ít khổ hơn nhiều. Nếu ta quán chiếu như thế, thì căn bệnh mà ta hiện đang mang thực sự trở nên khá bình thường. Không có gì phải làm ầm ĩ. Không đến nỗi tệ; nếu so với một kiếp sống đọa đày hàng tỷ kiếp, thì việc này chỉ như cơn gió nhẹ! Thực ra, nếu có thể thanh tịnh hóa những nghiệp xấu đáng kinh của ta dễ dàng như thế, thì ta không màng nếu có phải bệnh nặng hơn chút đỉnh!

Một sư tỷ của tôi lúc đang nhập thất, bị một mụt hạch to nổi lên ở miệng. Rất đau. Khi cô đang đi bách bộ sau một thời khóa thiền, cô gặp sư phụ chúng tôi, ngài Lama Zopa Rinpoche. Ngài hỏi, “Cô khỏe không?”. Cô rên rỉ, “Con bị mụt hạch…”. Rinpoche trả lời, “Tốt! Tuyệt vời! Cô may mắn quá!”. Dĩ nhiên, cô chẳng muốn nghe những lời như thế. Cô cần những lời thương hại. Nhưng Rinpoche lại tiếp, “Tốt quá! Cô đang trả quả cho những nghiệp xấu đến nỗi có thể khiến cô phải đọa đày, chỉ bằng bị một mụt hạch. Cô thật may mắn!”.

Nếu nhìn sự việc theo cách đó, ta sẽ nhận thấy rằng căn bệnh hay cái đau mình đang mang thực sự không quá tệ. Ta có thể chịu đựng khi nghĩ rằng nó còn có thể trổ nghiệp tệ hơn. Thêm nữa, ta cảm thấy may mắn vì nghiệp này đã chín, nó không còn ám ảnh tâm trí ta nữa. Không còn bị nó che mờ tâm, thì việc thực hiện được con đường giải thoát sẽ dễ dàng hơn. Đây là một phương cách khác mà ta có thể sử dụng khi đau bệnh.

4. Hãy tử tế với người

Mấy năm trước đây, một người bạn tôi ở tuổi chớm ba mươi đi khám bệnh vì cô không thấy khỏe. Bác sĩ chẩn đoán là cô đang mắc một căn bệnh nan y, cô sẽ phải bệnh một thời gian dài và có thể phải chết.

Phản ứng tức thì của cô bạn ngay lúc đó, dĩ nhiên, là sợ hãi, phiền muộn. Cô bắt đầu rơi vào trạng thái trầm cảm, tự thương hại và cáu gắt. Rồi bất chợt, cô dừng lại và tự hỏi, “Nếu Đức Đạt-lai Lạt-ma ở trong hoàn cảnh như mình, thì ngài sẽ cảm thấy thế nào? Ngài sẽ ứng xử thế nào trong hoàn cảnh đó?”. Suy nghĩ nhiều về điều đó, cuối cùng cô nghĩ là ngài sẽ kết luận, “Hãy sống tử tế”.

Do đó, cô chấp nhận “Hãy sống tử tế” như một câu châm ngôn. Cô nghĩ, “Mình sẽ phải vào ở trong bệnh viện một thời gian và sẽ gặp đủ loại người ở đó - y tá, y sĩ, điều trị viên, bác sĩ, nhân công, các bệnh nhân khác, người thân trong gia đình và nhiều người khác nữa. Tôi sẽ tử tế với tất cả mọi người”. Cô quyết tâm sẽ tử tế với tất cả những ai cô gặp trong quá trình ở bệnh viện và ở khu điều trị.

Một khi tâm đã quyết sống tử tế, nó trở nên bình an. Cô đã chấp nhận bệnh của mình, và cô đã có phương thức hành động, đó là sống tử tế. Cô nhận ra rằng dầu khi bị bệnh, cuộc đời của cô cũng có thể mang lại lợi ích cho người. Cô có thể chia sẻ sự tử tế với người khác để cải tiến chất lượng cuộc sống của họ. Cô có thể là một bệnh nhân biết hợp tác, vui vẻ và biết ơn, người có thể mang hạnh phúc đến cho các nhân viên bệnh viện và các bệnh nhân khác.

Cuối cùng câu chuyện kết thúc là, sau khi bác sĩ của cô làm thêm các xét nghiệm, ông thông báo là sự chẩn đoán đầu tiên không chính xác: Cô không bị bệnh hiểm nghèo đến thế. Dĩ nhiên là cô thấy nhẹ nhõm khi nghe như thế, nhưng cô nói rằng việc rèn luyện tâm để đối mặt với bệnh là một kinh nghiệm quý báu đối với cô. Giờ bệnh không còn nguy hiểm đến tính mệnh thì việc tử tế với mọi người càng trở nên dễ dàng hơn.

5. Luyện tâm để sống cho xứng đáng

Trong những năm 1987 và 1988 khi sống tại Singapore, tôi được gặp một thanh niên trẻ rất dễ thương, nhưng đang đối mặt với căn bệnh ung thư giai đoạn cuối. Anh đang ở vào những năm cuối của tuổi hai mươi mà trước khi phát bệnh, cuộc đời anh tràn đầy niềm vui. Anh vừa được nhận vào học cao học tại một trường đại học ở Mỹ, và anh đang rất háo hức được du học xa. Nhưng sau khi ngã bệnh, tất cả mọi dự tính đều ngưng giữa dòng. Một lần tôi đến thăm, anh buồn rầu nói, “Giờ con chỉ là người vô dụng. Muốn ngồi dậy đi ra khỏi phòng cũng không được”. Chúng tôi đang ngồi cạnh cửa sổ, nên tôi nói, “Hãy nhìn ra cửa sổ. Có rất nhiều người lái xe qua lại, hay di chuyển đến các nhà ga, bận rộn đi chỗ này, chỗ kia. Anh có nghĩ là cuộc sống của họ rất xứng đáng? Họ có thể bận rộn đi đây, đi đó với bao nhiêu công việc, nhưng có phải vì thế mà cuộc đời của họ đáng sống hơn không?”. Rồi tôi tiếp tục giải thích rằng một cuộc đời đáng sống không phải là nhờ luôn bận rộn. Sống xứng đáng tùy thuộc vào việc ta sử dụng tâm mình như thế nào. Ngay như thân ta có bị bại liệt, nếu ta dùng tâm trí mình để hành Pháp, thì cuộc sống của ta cũng trở nên rất hữu ích. Không cần phải đủ sức khỏe mới hành Pháp được.

Dĩ nhiên, nếu có sức khỏe thì việc tu tập sẽ dễ dàng hơn, tuy nhiên nếu bệnh, ta vẫn có thể sử dụng bất cứ thời gian nào, năng lực nào còn lại để tu hành. Ngay cả khi ta không thể ngồi dậy nổi, phải nằm liệt giường, ngay cả khi ta bị hôn mê nhiều giờ, ngay cả khi ta yếu sức, không còn nhìn thấy rõ, ta vẫn có thể nghĩ đến những điều thiện lành và quán tưởng đến bản chất thực sự của thực tại. Chúng ta có thể quán về nghiệp và an trú trong Tam bảo (Phật, Pháp và Tăng). Có bao nhiêu pháp hành ta có thể thực hành ngay cả khi ta đang đau bệnh. Khi ta lợi dụng hoàn cảnh này để thực hành những điều Phật dạy, là ta đang khiến cuộc sống của mình tràn đầy ý nghĩa.

Đừng nghĩ rằng cuộc đời của bạn có ý nghĩa chỉ vì bạn chạy đây chạy đó làm những việc không tên. Đừng nghĩ rằng vì có tiền, vì bận rộn công việc, sở hữu bao nhiêu thứ và có biết bao bạn bè là chất lượng của một cuộc sống có ý nghĩa. Đôi khi, nhìn bề ngoài cuộc sống của chúng ta có vẻ tuyệt vời. Chúng ta có nhiều bằng khen, nhiều của cải vật chất để làm biểu tượng cho những nỗ lực của ta, nhưng trong quá trình tạo ra chúng, ta có thể đã tạo ra bao nghiệp xấu ác. Nghiệp xấu đó không phải là sản phẩm hữu ích trong các hoạt động của ta. Thí dụ, do có nhiều ham muốn hay tham vọng chấp ngã để được danh tiếng, chúng ta có thể dối trá, lường gạt người khác. Ta có thể nói xấu người khác, làm bại hoại danh tiếng của họ, phá hủy tình bằng hữu và nói xấu kẻ khác để đạt được điều mình muốn. Dù ta có thể thỏa mãn những ước vọng của mình, tất cả những dấu hiệu thành công bên ngoài rồi sẽ phai nhòa, đến khi ra đi, chỉ có nghiệp sẽ đi theo ta mà thôi.

Trái lại, chúng ta có thể bị bệnh, phải nằm một chỗ, nhưng nếu ta dùng tâm mình để tạo ra những nghiệp xây dựng tích cực, là ta đang tạo ra nhân cho sự tái sinh tốt đẹp. Nếu ta quán từ bi, hành thiền cũng như chỉ bày cho người hành thiền khi đang nằm một chỗ, tâm ta sẽ trở nên gần gũi hơn với giác ngộ, giải thoát. Về lâu về dài, điều đó làm cho cuộc sống của chúng ta vô cùng ý nghĩa.

Chớ coi thường sức mạnh của tâm. Tâm rất dũng mãnh. Ngay cả khi ta bệnh, uy lực của những tư tưởng tích cực mà ta tạo tác cũng có thể ảnh hưởng đến những người quanh ta. Những tư tưởng và tình cảm tử tế, khôn ngoan cũng có thể mang đến các sự tái sinh tốt đẹp và đưa ta đến con đường giác ngộ.

Ni sư THUBTEN CHODRON
Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Từ Dealing With Life’s Issues)

Một khuôn mặt trong sáng

Một khuôn mặt trong sáng

Đăng lúc: 22:25 - 29/09/2016

Nếu cảm nhận được các cảm giác trên khuôn mặt mình khi ngồi thiền, bạn sẽ biết được là mình có thư giãn hay không. Khi bạn chú tâm quá mức, nó sẽ thể hiện ra trên nét mặt của bạn. Khi một người thực sự thư giãn, thoải mái, gương mặt sẽ rất trong sáng, mềm dịu và tĩnh lặng.


Sayadaw U Tejaniya
Sayadaw U Tejaniya

Có lần, sau khoá thiền trưa tại văn phòng của tôi, nhóm thiền sinh của chúng tôi theo thang máy, đi xuống để ăn trưa. Và chúng tôi bất ngờ nhận được một nhận xét từ các đồng nghiệp: “Các bạn trông giống như mới đi xông hơi về.” Đó thực sự là một lời khen. Theo tôi, đó cũng là lý do tại sao các thiền sinh miên mật có xu hướng giữ được sự tươi trẻ không chỉ ở trên nét mặt mà còn cả ở cơ thể và tâm trí của họ. Một việc chắc chắn thiền sinh cần phải làm là phải thư giãn thân và tâm trong khoá thiền. Sự nghĩ ngơi đầy uy lực đó giúp cho cơ thể chúng ta có thể nghỉ ngơi, chữa lành lại những chấn thương tạo ra bởi căng thẳng, áp lực. Và sự chữa lành đó thể hiện rõ nhất ở khuôn mặt thư thái và tươi mới. Lần đầu tiên tôi hành thiền với các đồng nghiệp của tôi tại văn phòng, tôi đã không kìm nổi sự tò mò, mở mắt ra và quan sát những người xung quanh. Thật là tuyệt vời. Trước đó, khi chưa vào khoá thiền, nhiều đồng nghiệp của tôi vẫn thể hiện một vài sự lo âu trên khuôn mặt (có thể do công việc hoặc gia đình). Những khi tiếng chuông thiền cất lên để bắt đầu khoá thiền, những gì tôi có thể thấy được là những khuôn mặt phúc hậu, yên bình, trong sáng.

Tôi cũng thường hay đùa với giới phụ nữ rằng đừng nên mất công đầu tư vào việc phẫu thuật thẩm mỹ. Thứ nhất là những kết quả của phẫu thuật thẩm mỹ không thể tồn tại lâu dài được, nếu như không nói là sẽ trông rất thảm hại khi tuổi tác bắt đầu lớn. Thứ hai là mọi vẻ đẹp cuốn hút đều là các nét đẹp tự nhiên, vẻ đẹp tự nhiên của thân và tâm. Điều cần nhớ rằng, nếu bạn có được một tâm trong sáng, điều đó sẽ thể hiện ra được qua ánh mắt, nụ cười, nét mặt của bạn. Đó chính là vẻ đẹp mà bạn mong muốn có được, không phải thông qua tạo hình của phẫu thuật thẩm mỹ. Tôi thường khuyên các cô, các bà nên hành thiền để có thể có được sự trẻ trung, tươi mới không chỉ trên khuôn mặt mà cả trong ý nghĩ, hành động và lời nói. Vừa tiết kiệm, vừa có kết quả mỹ mãn dài lâu.

Hãy hành thiền.

Nghiệp và tái sinh

Nghiệp và tái sinh

Đăng lúc: 19:01 - 27/09/2016

Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên phần đông thường không màng chi đến điều đó, mà thản nhiên nói về nghiệp “của tôi”, sự tái sinh “của tôi”. Nhất là sự tái sinh “của tôi”, thật vô cùng kỳ quặc. Họ muốn nói về kiếp trước hay kiếp tương lai? Bạn có nghĩ nó sẽ lại là “tôi” nữa không?

Thật ra, ta không có nhiều lựa chọn khi sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, tuy nhiên điều nói ra cũng phát xuất từ quá trình tư duy của ta.

Người ta thường hỏi, nếu không phải là “tôi” thì cái gì đã tái sinh? Nghiệp như những hệ quả còn sót lại trong tâm thức tái sinh đã được sinh trở lại, nhưng chắc chắn là nó không có dáng hình hay hành động giống như người mà ta biết, không cùng tên, có thể không cùng giới tính, có thể không phải là người. Nó không có liên hệ gì khác hơn là nghiệp. Vì ta có thể thấy rõ ràng rằng con người tái sinh chỉ kết nối với kiếp sống trước qua nghiệp trong thức tái sinh, ta cũng có thể thấy rõ ràng như thế rằng nghiệp là vô ngã, không có danh tánh. Khi ta nói về nghiệp “của tôi”, đó thực sự là một chu trình không có tự tánh. Nghiệp không phải là tội và hình phạt, dầu nó có vẻ là như thế, và là quan niệm được nhận định rộng rãi. Nhiều quan điểm mà chúng ta bám chặt vào đã ăn sâu vào tâm thức đến nỗi rất khó để ta chấp nhận điều gì quá khác biệt.

Thực sự ra nghiệp chỉ có nghĩa là hành động. Vào thời Đức Phật còn tại thế, ở Ấn Độ người ta đã hiểu như thế. Để thức tỉnh người nghe về nghiệp thực sự là gì, Đức Phật đã nói: “Nghiệp, này các Tỳ-kheo, Ta bảo là sự chủ tâm”. Đầu tiên nghiệp phát khởi trong tâm, rồi chuyển ra thành lời, thành hành động. Đức Phật đã cho nghiệp một định nghĩa mới, vì nó thường bị hiểu lầm, bị coi đó là tiền định.

Có nhiều vị thầy vào thời Đức Phật cũng đã dạy như thế, nhưng Đức Phật bác bỏ điều này, xem đó là tà kiến, là quan điểm sai lầm, dễ đưa đến các quả bất thiện. Tuy nhiên, quan điểm xem nghiệp như là tiền định vẫn còn phổ biến vào thời này cũng như ở thời Đức Phật còn tại thế. Nó thường được phát biểu như sau: “Đó là nghiệp của tôi. Tôi không thể làm được gì”. Đó là niềm tin dại khờ nhất mà ta có thể chấp vào, vì ta đã đặt trọng trách của việc chủ tâm vào điều mơ hồ nào đó mà ta cũng chẳng rõ. Nói cách khác, ta không muốn chịu trách nhiệm cho hành động của chính mình, là điều sai lầm thường xảy ra.

Khó gặp được người có trách nhiệm hơn là vô trách nhiệm. Phần đông nếu không thành công trong cuộc đời, họ không muốn chịu trách nhiệm cho việc đó. Từ sự bất hạnh của mình, họ đã nảy sinh ý nghĩ về một số phận đã được định sẵn. “Tôi có thể làm gì được chứ? Đâu phải lỗi tại tôi, là do nghiệp của tôi mà ra”. Vậy những gì công phu tu tập có thể mang đến đều vô nghĩa? Đức Phật đã nói: “Nếu đúng là như thế, thì đâu cần sống có giới hạnh, cũng không cần phải được giác ngộ”. Đó là tà kiến mà ta trước hết phải nhanh chóng gạt bỏ ra khỏi sự suy nghĩ của mình, nếu ta muốn trau dồi đời sống tâm linh.

Nghiệp là chủ tâm, và sự chủ tâm là ở hiện tại, có nghĩa là nghiệp đang được tạo ra ngay bây giờ, trong từng giây phút tỉnh thức của ta. Tuy nhiên khi hai người thực hiện cùng một hành động, quả của hành động của họ có thể không giống nhau. Đây là điều Đức Phật đã nhấn mạnh. Vì nghiệp không thuộc tự ngã, nên nó chỉ tùy thuộc vào dòng chảy của các sự kiện, và chính chúng tự tạo ra quả nghiệp. Đó là vấn đề của nhân và quả. Tất cả chỉ có vậy, do đó đôi khi giáo lý của Đức Phật được gọi là giáo lý về nhân quả.

Đôi khi ta biết những người rất hiền từ, đến một con ruồi họ cũng không nỡ làm hại, vậy mà họ toàn gặp những bất hạnh. Trong khi có những người rất khó thương, nhưng mọi điều may mắn đều xảy ra cho họ. Sao lại có thể như thế? Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào sự tích lũy các nghiệp tốt hay xấu, giờ chúng trổ quả trong tâm tục sinh của họ. Đức Phật đã đưa ra một ẩn dụ như sau: “Nếu ta bỏ một muỗng muối vào ly nước, thì ly nước đó không còn uống được nữa. Nhưng nếu ta bỏ muỗng muối đó xuống sông Hằng thì nước sông chẳng có gì thay đổi”. Do đó nếu ta tạo nhiều nghiệp xấu mà chỉ có một ly nghiệp tốt; kết quả sẽ thảm hại biết bao. Nhưng nếu ta có cả sông nghiệp tốt để hỗ trợ bản thân, thì quả xấu sẽ chẳng lớn lao gì. Vì thế ta không thể so sánh nghiệp quả của con người với nhau vì ta không biết về quá khứ của họ.

Tâm thức tích lũy, tương tục mà ta mang theo từ kiếp này sang kiếp khác chắc chắn có ảnh hưởng đến kiếp sống này, nhất là nơi chốn ta sinh ra, trong hoàn cảnh nào, trong gia đình nào. Đức Phật đã cho ta một ẩn dụ như sau: “Nếu có một đàn bò bị nhốt trong chuồng, khi cửa chuồng mở ra, con mạnh nhất sẽ ra trước. Nếu không có con bò nào như thế, thì con đầu đàn sẽ ra trước; nếu không có con nào như thế thì con gần cửa nhất sẽ ra trước. Nếu không có con nào như thế, thì tất cả sẽ cố chen ra cửa cùng một lúc”. Ẩn dụ này mô tả những giây phút cuối của tâm thức trước khi chết. Vì cái chết có thể xảy ra cho bất cứ ai không kể tuổi tác, cho nên việc chuẩn bị cho cái chết ngay bây giờ là một điều khôn ngoan.

Ý nghĩ sau cùng lúc hấp hối sẽ ảnh hưởng đến thức tái sinh để đưa ta đến nơi ta sẽ tái sinh. Ta có thể so sánh điều đó với việc trước khi đi ngủ, ta nghĩ là sẽ thức dậy lúc bốn giờ sáng hôm sau. Phần đông chúng ta có thể dễ dàng thức đúng như thế. Và ý nghĩ cuối cùng trước khi ngủ trở thành ý nghĩ đầu tiên khi thức dậy. Khi chết cũng giống như thế, chỉ khác là khi tái sinh ta sẽ có một thân mới, khác với thân hiện tại. Phần đông sẽ tái sinh với thân người, trừ khi nghiệp ác của họ quá lớn, khiến họ không thể trở lại thành người. Dầu ai cũng muốn được tái sinh vào cõi chư thiên, nhưng phần đông có lẽ đều trở lại kiếp người.

Ý nghĩ cuối cùng trước khi chết thường liên quan đến trải nghiệm gì nổi trội nhất trong kiếp sống này. Thí dụ nếu ta giết người thì đó sẽ là một ký ức hằn sâu trong tâm, và có thể là điều ta nhớ đến trước lúc ra đi. Hoặc nếu ta có công đức xây chùa, tu viện thì đó cũng có thể là một ký ức mãnh liệt. Hoặc việc ta luôn biết giữ gìn giới hạnh cũng có thể là ý nghĩ cuối cùng ở giờ phút lâm chung. Tóm lại, bất cứ điều gì mãnh liệt nhất trong tâm thì điều đó dễ phát khởi lên nhất. Nếu không thì những gì ta thường nghĩ đến sẽ xảy ra. Thí dụ nếu ta thường bực bội, sân si, thì điều đó sẽ hiện ra trong tâm. Trái lại, nếu ta có lòng thương yêu, từ bi, hay giúp đỡ người khác thì những ý nghĩ đó sẽ xuất hiện.

Nếu không có thói quen suy nghĩ gì đặc biệt, thì điều gì xảy đến ở các cửa giác quan vào lúc lâm chung sẽ lãnh phần ưu tiên. Giác quan cuối cùng ra đi là thính giác. Do đó, phần đông các tôn giáo đều có những bài kinh tụng, hát tụng do các vị sư hay các tu sĩ thực hiện để giúp người sắp ra đi có những ý nghĩ cuối cùng hướng thiện. Nếu các tâm hành trước phút lâm chung thiện lành thì sự tái sinh sẽ được tốt đẹp. Điều đó không có nghĩa là các nghiệp quả khác sẽ biến mất. Nó chỉ có nghĩa là những gì bộc phát ở giờ phút lâm chung sẽ có một số ảnh hưởng đến sự tái sinh của ta. Do đó những tư tưởng cuối cùng trước khi lâm chung vô cùng quan trọng.

Nếu bạn là người rất rộng lượng, đó có thể là ý nghĩ cuối cùng của bạn. Do đó, việc nhắc nhở cho người sắp ra đi về những điều thiện lành họ đã làm trước đây được coi là vô cùng ích lợi. Thí dụ như sự rộng rãi của họ; việc họ đã nuôi dạy con cái thành đạt; lòng tử tế, vân vân, vì người thế tục thường hay có những ăn năn, hối tiếc trước lúc ra đi. Chỉ mới gần đây người ta mới nhận thức rằng chết cũng là một phần quan trọng trong cuộc sống, dầu người Tây phương không tin vào tái sinh. Ai cũng quá sốt sắng, quan tâm đến sự có mặt của em bé mới sinh, vì em bé đó sẽ ở bên họ một thời gian dài và sẽ là một thành viên quan trọng trong gia đình. Nhưng ít ai để ý đến giây phút cận tử, vì theo họ, khi người chết rồi thì xong, chấm dứt. Giờ người ta hiểu rằng đó không phải là cách đối xử tốt đẹp đối với người ra đi. Hiện nay ở Tây phương cũng có nhiều bệnh viện dành cho những người bị bệnh chờ chết hay người sắp chết. Ở đó người ta chú tâm nhiều đến các trạng thái tâm, để làm giảm bớt hay diệt trừ sự sợ hãi, lo âu trước cái chết. Rất ít người ở Tây phương tin vào tái sinh, dẫu thế, chết cũng được coi là việc rất quan trọng.

Một yếu tố nữa cũng làm ảnh hưởng đến kinh nghiệm cận tử của chúng ta. Đó là hiện nay chúng ta khá tiến bộ về kỹ thuật, nên trong một số trường hợp, người đã chết lâm sàng, có thể hồi sinh nhờ vào các phương tiện tối tân trong các bệnh viện ở phương Tây. Có người đã nói với các bác sĩ về sự trải nghiệm “cái chết” của họ. Một số bác sĩ, nhất là bác sĩ Moody1, đã viết về các hiện tượng này. Nét nổi bật của các câu chuyện kể, là các khía cạnh quan trọng gần như giống hệt nhau. Thêm một ghi nhận về trạng thái vô ngã (anatta). Tất cả, không ngoại trừ ai, đều rất tự tại với “cái chết” của mình, và hầu như không muốn trở lại trần thế. Có người tỉnh lại tỏ thái độ giận dữ với bác sĩ vì đã sử dụng phương tiện tân tiến trong việc thiết lập lại dòng sinh tục cho họ.

Tất cả các trải nghiệm đều liên quan đến một luồng ánh sáng rực rỡ, chứa đựng tâm hoàn toàn tỉnh thức, nhưng thiếu thân. Mọi người đều có thể thấy chính thân họ đang ở trên giường bệnh, rồi tiến tới luồng ánh sáng đó, trong lúc hoàn toàn ý thức đến những gì đang xảy ra, kể cả việc quan sát các bác sĩ đang làm việc. Sau đó họ tự rời khỏi bệnh viện để tiến vào một không gian của hạnh phúc, tĩnh lặng và an lạc. Có người còn nhắc đến những người họ gặp gỡ. Phần đông tả về một người đặc biệt là ‘nguồn sáng’. Trong các câu chuyện kể không có biểu tượng của bất cứ tôn giáo nào nhưng chúng rất giống nhau, một số hoàn toàn trùng lặp. Khi những cuốn sách như thế được nhiều người biết đến thì giây phút cận tử mới được coi là quan trọng.

Trong năm điều mà Đức Phật dạy ta phải quán tưởng hàng ngày là ai cũng phải chết. Đức Phật thuyết về giây phút cận tử là vô cùng quan trọng, do đó ta cần phải suy gẫm về chúng ngay bây giờ, chứ đợi đến khi gần chết thì quá muộn. Những suy nghĩ thiện lành của ta đều liên quan đến các tâm từ, bi, hỷ, xả. Nếu ta khởi phát các tâm này ngay bây giờ, để tạo thành thói quen thì ta có thể mang chúng theo đến tận giờ lâm chung. Như thế, ta không những có thể chắc chắn về một sự tái sinh tốt đẹp, mà chí ít cũng được sự an bình, hạnh phúc ngay trong kiếp sống này. Điều đó giúp ta dễ có điều kiện tu tập trở lại. Nếu ta sinh ra trong một gia đình quá nghèo khó, không đủ ăn, thì khó thể có cơ hội ngồi xuống hành thiền, vì trong gia đình nghèo, ai cũng phải lao động cật lực để kiếm sống. Hoặc nếu ta tái sinh trong một xã hội mà thiền không hiện hữu, thì cũng khó để ta tiếp tục thực hành. Do đó, nếu ta đợi đến lúc già, lúc sắp chết để suy nghĩ đúng đắn, là quá dại khờ. Suy nghĩ đúng đắn bao gồm việc biết tâm hành của mình, qua chánh niệm và chú tâm.

Sự có mặt của ta trên trái đất này rất ngắn ngủi - ngay cả 70 năm cũng không phải là dài lâu - nên ta có thể nghĩ về mình như là một vị khách được mời đến để biểu diễn, lúc nào cũng chờ đợi được cổ vũ. Dĩ nhiên điều đó sẽ khiến cuộc sống thêm khó khăn. Đầu tiên là ta cảm giác sợ sân khấu. Không biết mình có diễn xuất tốt hay không? Có được vỗ tay tán thưởng không? Nếu không, ta sẽ cảm thấy vô cùng thất vọng. Biết mình chỉ là người khách diễn tuồng trên trái đất này là suy nghĩ chân chính, nhưng chờ đợi được vỗ tay tán thưởng là một tà kiến. Nếu ta tự biết mình đã cố gắng với tất cả khả năng, ta không phải đợi ai tán thưởng. Ta luôn có chủ tâm đúng đắn. Đó mới là điều đáng kể nhất, vì sự chủ tâm hướng đến điều thiện liên quan không chỉ đến bản thân mà cả người chung quanh. Bớt quan tâm đến bản thân sẽ giúp ta có thể quan tâm đến người.

Chúng ta không được xao lãng việc học Pháp và thực hành thiền, vì chỉ khi bản thân ta đã tiến bộ đến một mức độ nào đó, ta mới có thể giúp đỡ người khác, nếu không là ta đã hành động trong vô minh, sẽ đem lại những kết quả không tốt.

Nếu ta quá quan tâm đến sự tái sinh sắp tới của mình, thì ta thực sự đang sống trong mộng. Vì người đang tạo ra nghiệp hiện tại không phải là người sẽ lãnh quả. Sự kết nối duy nhất chỉ là những gì còn sót lại của nghiệp, là quả của nghiệp (vipaka). Ngay cả sự nối kết này cũng rất mong manh vì ta có thể phá vỡ các mắt xích. Nếu ai đó đã tạo nhiều nghiệp xấu nhưng trong kiếp tái sinh lại tạo nhiều nghiệp tốt hơn, thì các quả xấu có thể không bao giờ tựu thành trái, ngược lại cũng thế.

Thí dụ như Angulimala (Vô Não) đã giết 999 mạng người mà vẫn có thể trở thành A-la-hán, vì ông đã được trở thành đệ tử của Phật, được sống trong tu viện của Đức Phật, nơi mà nghiệp xấu của ông không có cơ hội trổ quả. Tuy nhiên, ngài Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên), dầu đã là một A-la-hán, vẫn bị kẻ cướp giết và tán xương ngài ra tro, do nghiệp xấu trong quá khứ. Chúng ta khó thể thiết lập một thống kê tương ưng giữa nghiệp thiện với các tình huống có thể xảy ra, vì ta không có quyền hạn gì đối với người sẽ kế thừa nghiệp mà ta đã làm trong kiếp sống này. Nhưng hiện tại làm việc thiện, sẽ mang đến kết quả ngay, đó là hạnh phúc và niềm vui trong tâm, và thường cũng là hạnh phúc cho người. Nếu ta có thể mang hạnh phúc đến cho người, thì đó cũng là nhân để ta được có niềm vui.

Không ích lợi gì để nghĩ về nghiệp trong quá khứ hay nghiệp sẽ tạo trong đời sống tương lai. Không ai biết được gì về kiếp sống tới, hay nhớ được gì từ kiếp đã qua. Vậy thì lo lắng về chúng để làm gì? Chỉ có giây phút này, ngay đây, là quan trọng. Quá khứ thì giống như một giấc mộng và tương lai thì chưa tới. Khi tương lai thực sự xảy ra, thì nó luôn là hiện tại. Ngày mai sẽ không bao giờ đến; khi nó đến, nó được gọi là hôm nay. Ta không thể sống trong tương lai hay quá khứ. Ta chỉ có thể sống ngay trong giây phút này. Nếu ta thực sự chú tâm đến từng giây phút một, ta sẽ có thể hành thiền tốt. Ta sẽ không nghi ngờ gì về vô thường. Thực ra ta còn có thể nhìn thấy điều đó thật rõ ràng, nhờ vậy ta có thể buông bỏ tất cả mọi bám víu, chấp chứa.

Chúng ta có thể quán chiếu như thế này: “Tôi có sử dụng mỗi giây phút sống một cách tốt nhất không?”. Nếu đã tạo ra nghiệp xấu trong quá khứ, ta có thể nhanh chóng thực hiện một số việc thiện. Đó có thể là điều đáng giá duy nhất mà quá khứ có thể mang đến cho ta. Nếu không, tính chất nhanh chóng, hiệu quả của vô thường sẽ khiến ta tách rời khỏi các ý nghĩ, lời nói và hành động một cách nhanh chóng đến nỗi ta không thể nhớ chúng, nói gì đến chuyện giữ chúng lại.

Vậy mà ta lại cố giữ người khác lại, chấp vào sự suy nghĩ, quan điểm và ý kiến của ta; chúng ta bám víu vào thân này, vào các thân hành, tâm hành sai lạc, và cố biến chúng thành thường hằng. Điều đó là không tưởng, không thể thực hiện, vì chỉ có từng giây phút này. Với đồng hồ kỹ thuật số, ta có thể dễ dàng thấy từng giây phút đến rồi đi như thế nào. Thử quan sát đồng hồ trong năm phút để cảm nhận rằng năm phút giây quý báu của cuộc đời bạn đã qua đi. Quá khứ bị lãng quên, chỉ trừ một vài sự kiện nổi bật, bằng không nó đã qua mất rồi. Điều đó cho ta thấy rõ ràng rằng chúng ta chỉ là những dòng chảy, không có thực thể. Do nhận xét sai lầm về thực tại một cách hoàn toàn vô căn cứ, ta cho là nó có thực thể và sống dựa vào đó. Giống như nhà hát tuồng, một sáng tạo của chúng ta, nơi các nghệ sĩ vận xiêm áo, nói lời thoại và tin rằng đó là cuộc sống thực. Chúng ta muốn nhà hát mãi sáng đèn, nhưng không thể được, vì mỗi người đều có nỗi khổ không thể diệt trừ bằng sự bất cần hay vô minh. Ta chỉ có thể làm điều đó bằng cách thay đổi quan điểm, ý thức.

Sự tạo nghiệp phát khởi từ trong tâm. Các tâm hành tạo ra nghiệp của ta. Nếu không thể làm chủ tâm, ta khó tránh khỏi việc tạo ra các nghiệp xấu. Tâm luôn có nguy cơ nghĩ đến những điều bất thiện. Các trạng thái tâm tiêu cực không thể kể xiết: “Tôi không thích, không thể chịu đựng nổi; tôi sợ, tôi chán…”. Tất cả đều là những trạng thái của tâm sân. “Tôi muốn mua, muốn giữ, muốn làm mới”, cũng là nghiệp xấu, liên quan đến tâm tham. Tất cả đều từ tâm phát khởi.

Rất ít người chịu quan sát tâm. Họ nghĩ rằng điều đó khó làm, khá mệt. Nhưng tạo ra nghiệp xấu còn mệt mỏi hơn, vì quả sẽ nặng nề, khó chịu. Rất ít người có được sự sôi nổi bên trong, dấu hiệu của niềm vui tự thân. Đa số nản lòng do tâm tiêu cực gây ra, chứ không phải do hoàn cảnh bên ngoài. Hãy quan sát tâm bạn. Hãy đoan chắc rằng bạn luôn thực hành Tứ chánh cần. Đó là điều tốt nhất mà bạn có thể làm cho bản thân, để đạt được nghiệp lành.

Từ ý phát sinh ra lời nói và hành động. Ta không thể nói mà không có nghĩ trước, không thể hành động mà không có rắp tâm để làm điều đó. Dầu đôi khi dường như ta nói hay hành động một cách bản năng đến nỗi ta không ý thức rằng ý nghĩ đó đã chạy qua đầu. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng không có mặt trong tâm trước. Nó chỉ có nghĩa là ta thiếu chánh niệm và hiểu biết rõ ràng. Tâm là tài sản quý báu nhất mà ta được sở hữu. Không có vàng bạc, châu báu nào có thể so sánh với nó, vì tâm chứa đựng hạt giống giác ngộ. Nếu ta không sử dụng nó đúng mục đích là ta đã dại khờ đem chôn châu báu dưới đất đen. Tuy nhiên, chúng sanh thường làm thế, chính vì họ không được khuyên bảo ngược lại.

Khi nhận thức được rằng ta sở hữu tâm châu báu quý giá này, ta sẽ gìn giữ để nó không bị trầy rụa, lấm láp, đạp dẫm, làm mất sự sáng chói của nó. Ngược lại ta gìn giữ sao cho nó mãi được thanh khiết, chiếu sáng để tạo ra các nghiệp thiện lành. Đức Phật dạy rằng, hành động không phải là yếu tố quan trọng nhất, mà chính là sự chủ tâm đằng sau đó. Ngay cả sự độ lượng cũng có thể phát xuất từ một động lực xấu. Thí dụ, nếu chủ tâm làm việc thiện để tích lũy công đức cho tương lai, thì điều đó khá ích kỷ. Nếu hành động đó được thực hiện vì lòng bi mẫn đối với những người thiếu thốn, thì mới là lý tưởng. Tuy nhiên, dầu có hành động với chủ tâm không thiện lành, thì bố thí vẫn tốt hơn là không. Vẫn có nghiệp lành trong hành động đó, vì người bố thí đã buông bỏ vật sở hữu của mình.

Người bảo vệ tâm cho ta, người đảm bảo rằng tất cả mọi việc ta làm đều với chủ tâm tốt đẹp là Chánh tư duy (chi thứ hai trong Bát chánh đạo), kim chỉ nam của ta. Nghiệp được tạo ra tùy vào tâm, và tâm thanh tịnh tùy vào thiền định. Nếu chúng ta hành thiền đều đặn, tinh tấn, dần dần ta sẽ nhìn thấy những gì diễn ra trong tâm một cách rõ ràng. Một số người hoàn toàn mãn nguyện nếu chỉ đạt được chút an lạc, dẫu thế đó cũng đã là một sự thuận lợi và tiến bộ. Nếu ta quan sát được tâm khi thiền tập, ta cũng sẽ tập được cách quan sát tâm trong đời sống hàng ngày. Rồi thì ta sẽ có nhiều cơ hội để tạo ra các nghiệp thiện lành.

Nếu ta đã nhàm chán với cái vòng luẩn quẩn của được, mất, khen, chê, thành công, thất bại, hạnh phúc và khổ đau (tám pháp thế gian), thì ta cần phải hạ quyết tâm nỗ lực buông bỏ tham ái, bám víu. Nỗ lực này được thiền tập hỗ trợ, nhưng không chỉ có thế. Thiền là phương tiện để giúp ta có khả năng loại trừ các chủng tử tham, sân trong ta. Quy trình thiền tập đem lại cho tâm sự sáng suốt để nhận ra các hạt giống này trong ta, để ta có thể có cách đối trị chúng.

Bổn phận của chúng ta trong kiếp sống này với tư cách là một chúng sanh có đầy đủ giác quan, thân không khiếm khuyết, có duyên lành được nghe Chánh pháp, là bảo vệ tâm và chứng nghiệm được chân tánh của tâm là thuần khiết, chói sáng, nhu nhuyến. Với tâm như thế ta có thể tiến sâu vào đạo, nơi ta sẽ thấy không có ai làm chủ tâm này.

Ni sư Ayya Khema
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển ngữ theo Karma Is Intention

Mạng người trong hơi thở

Mạng người trong hơi thở

Đăng lúc: 20:58 - 22/09/2016

Niệm chết hay tưởng chết là một trong những đề mục tu tập quan trọng trong giáo pháp Thế Tôn. Mạng người chỉ trong hơi thở, thở ra mà không thở vào tức qua đời khác. Thường tư duy, nhớ nghĩ, tưởng niệm về sự mong manh của đời người như thế thì “sẽ thoát sanh, già, bệnh, chết, sầu lo khổ não”.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các thầy hãy tu hành về tưởng chết, tư duy tưởng chết.

Khi ấy có Tỳ-kheo Thượng tọa bạch Thế Tôn:

- Con thường tu hành tư duy tưởng chết.

Thế Tôn bảo:

- Thầy tư duy tu hành tưởng chết thế nào?

Tỳ-kheo bạch Phật:

- Con tư duy tưởng chết rằng: 'Chỉ còn sống bảy ngày nữa, nên tư duy thất giác ý, ở trong pháp Như Lai có nhiều lợi ích, sau khi chết không hối hận'. Bạch Thế Tôn, con tư duy tưởng chết như thế.

Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Đây chẳng phải tu hành về tưởng chết. Đây gọi là pháp phóng dật.

Lại có Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

- Con có thể kham nhẫn tu hành tưởng chết.

Thế Tôn bảo:

- Thầy tu hành tư duy tưởng chết thế nào?

Tỳ-kheo bạch Phật:

- Nay con nghĩ rằng: 'Ý muốn còn có sáu ngày, suy nghĩ Chánh pháp Như Lai rồi sẽ chết. Điều này có ích'. Con tư duy tưởng chết như thế.

Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Thầy cũng theo pháp phóng dật, chẳng phải là tư duy tưởng chết.

Lại có Tỳ-kheo bạch Phật: 'Muốn còn năm ngày, hoặc bốn ngày, hoặc ba ngày, hai ngày, một ngày'.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Đây cũng là pháp phóng dật, chẳng phải là tư duy tưởng chết.

Khi ấy lại có một Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:

- Con có thể kham nhẫn tu hành tưởng chết như vầy: Con đến giờ đắp y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, xong lại ra khỏi thành Xá-vệ trở về chỗ mình. Về trong thất vắng, con tư duy thất giác ý rồi mạng chung. Đây là tư duy tưởng chết.

Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi, Tỳ-kheo! Đây cũng chẳng phải tư duy tu hành tưởng chết. Lời nói của các Thầy đều là hạnh phóng dật, chẳng phải là pháp tu hành tưởng chết.

Lúc đó Thế Tôn lại bảo Tỳ-kheo:

- Người có thể làm được như Tỳ-kheo Bà-ca-lợi. Đây gọi là tư duy tưởng chết. Tỳ-kheo ấy khéo hay tư duy tưởng chết, chán ghét thân này là nhơ nhớp bất tịnh. Nếu Tỳ-kheo tư duy tưởng chết, buộc ý ở trước, tâm không di động, nhớ số hơi thở ra vào, qua lại, trong đó tư duy thất giác ý, thì ở trong pháp Như Lai được nhiều lợi ích. Vì sao thế? Tất cả các hạnh đều không, đều tịch; khởi và diệt đều là huyễn hóa, không chân thật. Thế nên Tỳ-kheo! Nên ở trong hơi thở ra vào mà tư duy tưởng chết thì sẽ thoát sanh, già, bệnh, chết, sầu lo khổ não. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học như vậy!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm 40.Thất nhật [2.trích],
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.49)

Có không ít người nghĩ rằng, luôn niệm tưởng về sự chết sẽ khiến cho người ta chán sống, không có ý chí phấn đấu vươn lên. Kỳ thực, ai không nhớ nghĩ về sự chết thì người ấy mới không thực sự sống, ảo tưởng về sự sống. Sinh mạng vô thường, giây phút trước còn phút giây sau mất là sự thật, không ai có thể dám chắc về giây phút tiếp theo.

Người luôn nhớ nghĩ về sự thật này, họ biết rõ giá trị và trân quý từng phút giây hiện tại của sự sống. Lúc này, người ấy sống với tâm thái nhẹ nhàng hơn, biết rõ vô thường nên tùy duyên mà nắm bắt hay buông xả. Người ta khổ đau nhiều vì vô tình hay cố ý quên đi sự thật này. Mọi tham lam, thù hận, si mê sẽ giảm bớt nếu ta nhận ra sự sống của mình chỉ trong hơi thở.

Mặt khác, khi nhớ nghĩ về sự mong manh của kiếp người, chúng ta cố gắng làm ngay những gì có thể cho mình, cho người thân và xã hội mà không hẹn hay lần lữa. Mỗi ngày đi qua thì đời sống ngắn lại, đến gần với sự chết hơn. Rõ biết vô thường nên người đệ tử Phật sống trọn vẹn, sống hết mình, tu học càng tinh tấn hơn.
Quảng Tánh

Chánh niệm là phương thuốc chữa bệnh tốt nhất

Chánh niệm là phương thuốc chữa bệnh tốt nhất

Đăng lúc: 14:43 - 16/09/2016

Sau mười ba năm xuất gia, Sư Cô Đặng Nghiêm nhìn lại sự nghiệp của mình trong ngành y và nhận ra rằng việc tu học trong tự viện và ngành y thực sự không khác gì nhau.


Tôi đã tốt nghiệp trường y và có gia đình, rồi tôi gặp Thiền sư Thích Nhất Hạnh cùng với cộng đồng tu viện của Ngài. Chẳng bao lâu sau đó, bạn đời của tôi đột ngột qua đời trong một tai nạn. Cái chết của anh ấy đã giúp tôi quyết tâm sống cuộc đời thiền định của một Phật tử. Tôi rời bỏ ngành y sau bảy năm đào tạo và trở thành một sư cô.


Cho đến nay, tôi đã sống đời tu sĩ được mười ba năm và tôi nhận thấy rằng bạn không cần phải lìa bỏ nghề nghiệp của mình để sống một cuộc đời chánh niệm. Cho dù là ngành y hay bất cứ một công việc nào khác, bạn luôn có thể sống chánh niệm trong từng hơi thở và trong chính thân này. Bạn có thể kết hợp thân và tâm làm một thay vì để chúng tách rời nhau. Khi bạn đứng lên, bạn biết rằng bạn đang đứng lên. Khi bạn duỗi người ra, bạn có thể theo dõi hơi thở và chuyển động của chính mình. Với sự chánh niệm và nhận thức được chính thân tâm của mình, bạn có thể lắng lòng để nghe một cách sâu sắc và bạn ý thức hơn về những gì đang xảy ra xung quanh. Sau đó, hãy mang nhận thức đó vào cuộc sống hàng ngày và công việc của bạn.


Hãy tưởng tượng rằng bạn là một bác sĩ và bạn đang lắng nghe một bệnh nhân. Nếu khi đang lắng nghe mà bạn lại suy nghĩ về các bệnh nhân khác trong phòng, và bạn hỏi bệnh nhân cùng một câu hỏi nhiều lần, điều này sẽ chỉ làm tăng thêm bệnh tật và nỗi sợ hãi của họ. Các bệnh nhân đã cảm thấy bị tổn thương vì phải nằm viện. Bây giờ họ cảm thấy rằng bạn không thực sự có mặt ở đó vì họ. Nếu bạn đang khám bệnh cho một người nhưng không để tâm vào đó mà tâm trí lại suy nghĩ về những bệnh nhân khác, bạn đang lãng phí thời gian của chính mình và của các bệnh nhân.


Giây phút hiện tại chính là giây phút duy nhất chúng ta có.


Đó là thời điểm duy nhất mà chúng ta có thể tạo sự khác biệt cho chính mình và cho những người khác. Cho dù chúng ta đang làm gì và với bất kỳ ai - cho dù là với chính mình, bệnh nhân, khách hàng, bạn bè, hay người lạ - nếu chúng ta thật sự đặt tâm trí mình vào từng hơi thở và cơ thể của chúng ta, chúng ta có thể sống trong thời điểm này một cách sâu sắc và thu được nhiều lợi ích.


Khi còn là một sinh viên y khoa, tôi đã khám cho một bệnh nhân bị ung thư túi mật giai đoạn cuối. Người ta mới chẩn đoán căn bệnh này ba tháng trước nhưng căn bệnh đã hoàn toàn bộc phát. Người bệnh nhân ở độ tuổi sáu mươi đã trở nên trầm cảm và không ăn uống gì. Ông ta trở nên thô lỗ và khắc nghiệt đối với các y tá và bác sĩ.


Ban đầu, ông cũng không thân thiện với tôi, nhưng dần dần ông đã mở lòng ra. Sau đó ông được hỏi ý kiến xem có đồng ý giải phẫu để chữa dứt căn bệnh ung thư một cách an toàn hay không. Ông cảm thấy rất miễn cưỡng và lo lắng. Tôi nói với ông rằng tôi hoàn hoàn ủng hộ ông đối với bất cứ quyết định nào mà ông đưa ra. Ông đã quyết định phẫu thuật nhưng thật không may, khi vừa mới bắt đầu, các bác sĩ nhận thấy rằng ung thư đã di căn đến các cơ quan lân cận và họ ngay lập tức đóng lại vết mổ và ngưng cuộc phẫu thuật.


Đêm đó tôi nhận được cuộc gọi và đã đến thăm ông vào lúc hai giờ sáng. Phòng có hai bệnh nhân và người bệnh nhân kia đã ngủ. Nguồn sáng duy nhất trong phòng là từ hành lang hắt vào. Tôi ngồi lặng lẽ bên cạnh giường của ông. Ông nói với tôi, "Bạn biết đấy, các bác sĩ, tôi không còn hy vọng ở họ nữa. Tuy nhiên, thật kỳ lạ là giờ này đây tôi cảm thấy bình an hơn bao giờ hết".


Tôi chỉ ngồi với ông. Trước khi phẫu thuật, tôi đã kể cho ông nghe về cái chết của bà tôi ở Việt Nam. Bà biết bà sẽ chết và cảm thấy rất bình an. Bà gọi tất cả các con của mình tụ tập xung quanh bà và nhắc họ đừng để cho tôi và em trai của tôi biết việc bà qua đời, bởi vì chúng tôi ở Mỹ và bà không muốn việc học của chúng tôi bị ảnh hưởng.


Bà tôi vẫn tỉnh táo và bình yên trong những giờ cuối cùng của cuộc đời mình. Khi tôi biết được thông tin sáu tháng sau khi bà mất, tôi đã thay đổi cách suy nghĩ về cái chết. Khi chúng ta sống tốt và ra đi thật yên bình, đó chính là một món quà cho chính chúng ta, và cũng là một món quà cho những người chứng kiến ​​cuộc sống và sự ra đi của chúng ta. Món quà của sự vô úy thật sự là món quà lớn nhất mà chúng ta có thể dành tặng cho những người thân yêu.


Tôi nói với bệnh nhân của mình "bà của tôi ra đi trong bình an và thanh thản. Ông cũng có thể chọn cách ra đi an nhiên như thế. Ông hãy nhớ lại tất cả những hồng ân mà ông đã nhận được trong suốt cuộc đời của mình và cảm tạ về những điều đó. Ông có thể ra đi, nhận biết được thời gian của cái chết trong sự an nhiên."


Khi bệnh nhân của tôi được chuyển về nhà, ông ta được tiêm morphine để giảm đau. Ông đã trở nên hoảng hốt và bạo lực. Vợ ông cảm thấy rất sợ hãi và đau buồn. Tuy nhiên, trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, ông đã trở nên sáng suốt, minh mẫn. Bà vợ gọi cho tôi vào ngày hôm sau và nói rằng, "Anh ấy ra đi thật yên lành và thanh bình. Mặc dù không thể nói chuyện với tôi, anh ấy biết tôi đang ở bên cạnh, và điều đó làm tôi rất hạnh phúc! "Ít nhất hai lần cô ấy nói với tôi rằng cô ấy đang hạnh phúc.


Trong khi tu học với tư cách là một sư cô, tôi không cảm thấy rằng tôi đã rời bỏ ngành y. Thật ra, chánh niệm là phương thuốc tốt nhất mà tôi có thể sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của tôi để chăm sóc bản thân mình, và đó cũng là phương thuốc tốt nhất tôi dùng để chữa trị cho mọi người. Tôi không hối tiếc vì đã dành hai mươi bốn năm ở trường rồi sau đó trở thành một sư cô. Không có gì phải hối tiếc khi bạn tận tâm làm việc hết sức. Nếu bạn dồn tâm huyết để làm một việc gì đó, rồi thì cơ duyên khiến bạn chuyển sang một giai đoạn mới, làm một công việc mới, không có gì phải hối tiếc cả. Mỗi khoảnh khắc là một cơ hội để sống và khám phá bản thân.


Việt Dịch: Vi Trần

Thiền giữa đời thường

Thiền giữa đời thường

Đăng lúc: 22:02 - 11/09/2016

Trong cuộc sống hiện đại, kỹ thuật ngày càng tối tân, con người càng quay như chong chóng theo các công việc, gần như không có thời gian cho việc quán sát nội tại, tìm hiểu bản chất thật của mọi việc cũng như chính bản thân mình. Do đó, nhiều người thân đau, tâm khổ, buồn phiền,… lâu dài dẫn đến lao tâm, lao lực, trầm cảm, bệnh tâm thần và bi kịch hơn nữa là đi đến tổn hại chính mình và người khác.

Đứng trước một thực trạng như thế, hơn bao giờ hết, vấn đề tâm linh, tìm về một cõi bình an trong mỗi con người là nhân tố hàng đầu để quyết định sự tồn sinh và nguồn hạnh phúc chân thật cho nhân loại. Trên ý nghĩa đó, Thiền là một nhu cầu cần thiết, như một chiếc phao cứu vớt con người thời hiện đại ra khỏi đại dương của tham vọng, khát ái và si mê.

b1.jpg

Cốt lõi của Thiền chính là làm cho tâm lặng. Tâm có lặng thì trí mới sáng. Có trí sáng thì con người mới làm chủ được mình. Làm chủ được mình mới làm chủ được hoàn cảnh, hướng cuộc sống đến chân, thiện, mỹ. Hơn nữa, làm chủ được mình là tự chiến thắng mình. Và tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất của người chiến sĩ trên trận mạc tâm linh. Đồng thời có làm chủ được mình mới thấy rõ và nắm vững cơ chế vận hành của nghiệp, biết rõ đường đi lối về của cái vòng sanh, lão, bệnh, tử, nhân quả luân hồi... Đó là lý do vì sao Đức Phật đã thiền định suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ-đề. Đến khi sao Mai vừa mọc, thực tướng của vạn pháp bừng sáng trước con mắt trí tuệ của đấng Giác ngộ. Thế Tôn đã tỉnh thức hoàn toàn sau giấc mộng dài vô minh. Chẳng những Đức Phật đã hoàn toàn giải thoát mà còn có khả năng truyền bá giáo lý đã chứng ngộ cho tất cả chúng sanh.

Chúng ta đều biết, không có vị thầy nào dạy Đức Phật một phương pháp tu học để đạt đến giác ngộ viên mãn. Chính sự tự nỗ lực thiền quán mà Ngài thành tựu được trí tuệ, chấm dứt dòng sanh tử luân hồi từ vô lượng kiếp. Đêm tối đã tan và ánh sáng đã đến; vô minh diệt, minh sanh. Đức Phật nói chỉ có dừng tâm lại, thực sự biết dừng lại và chiếu soi bằng con đường Thiền mới mong giải quyết được vấn đề.

Thiền không phải chỉ là pháp hành dành riêng cho Đức Thế Tôn hay của các thiền sư mà đối với tất cả chúng ta, những con người đang chìm đắm trong sân hận, si mê vẫn có thể thực tập và chứng đạt. Vì chỉ có Thiền mới hóa giải những ô trược tồn đọng trong tâm, làm cho đầu óc con người bớt căng thẳng trước những bế tắc cuộc sống luôn đổi thay sanh diệt. Một ngày bôn ba rong ruổi với cuộc mưu sinh vất vả, con người chịu áp lực quá nặng nề để được sống còn. Vậy thì dành ra được ít phút buông thư tất cả, hít sâu và thở sạch, để thân tâm lắng dịu và hồi sinh là một điều rất cần thiết cho mọi người, nhất là người đệ tử Phật.

Thiền là suối nguồn của tình thương và sự giác ngộ. Thiền một mặt sẽ mang lại kết quả là đoạn tận phiền não tham, sân, si vốn luôn luôn lôi kéo chúng ta trôi lăn trong ba đường ác đạo để rồi lãnh chịu đau khổ. Đồng thời cũng làm tăng trưởng Ðịnh và Tuệ, là pháp có thể đưa chúng ta tới giải thoát Niết-bàn.

Hành giả cần phải chánh niệm, sáng suốt, tinh tấn, cẩn trọng trong từng việc nhỏ nhiệm nhất. Đó chính là con đường giữ giới thu thúc sáu căn. Ý thức rằng những lời ta đang nói có mặt của tham lam, sân hận hay không. Bởi vì ngôn từ mà ta nói ra đều phát xuất từ những tâm tư, suy nghĩ của mình. Khi nói biết mình đang nói gì, chính sự có mặt của chánh niệm sẽ giúp mình kiểm soát được ngôn ngữ, làm cho sự cảm thông thêm sâu sắc giữa mình với những người xung quanh, đặc biệt là không cố ý gây chia rẽ bằng lời nói đôi chiều khiến người chống trái nhau theo lời nói của mình. Thân không trộm cướp, không làm những điều tà hạnh, xâm chiếm hạnh phúc của người. Ý đang khởi tham, sân, si mình rõ biết đang khởi tham, sân, si. Nói chung là giữ cho ba nghiệp thanh tịnh, không bị các vọng tưởng dấy khởi, thấy biết rõ ràng từng hành vi, cử chỉ… Khi ăn biết ăn, khi đi biết rõ từng bước chân, rõ biết như vậy để cảm nhận được trọn vẹn trong giây phút hiện tại. Sống như vậy là sống trong chánh niệm, sống trong tỉnh thức và trong an lạc. Ý thức về bước đi của mình để thấy rằng ta đang đi giữa đất trời mây nước, với cỏ cây hoa lá chim muông... Mỗi bước đi của ta đang hòa với cảnh vật, không gian và thời gian, hòa với cả vũ trụ bao la, và vũ trụ bao la đang có mặt trong mỗi bước đi của mình.

Trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta bị chi phối bởi quá khứ và tương lai. Do vậy, chúng ta không thưởng thức được hạnh phúc ngay phút giây hiện tại. Nhiều lúc có người đang ngồi trong giảng đường nghe pháp, nhưng tâm người ấy đang nghĩ đến tính chuyện làm ăn để kiếm tiền cho giàu sang bằng người khác. Thử hỏi người ấy có cảm nhận trọn vẹn nguồn pháp lạc hay đang vun đắp cho một mối lo toan sầu khổ? Vì vậy, ý nghĩa thật sự của việc tỉnh thức đối với hoạt động của thân là sống với hành động hiện tại. Chỉ có phút giây hiện tại mình sống thật trọn vẹn thì đó là cõi Tịnh độ ngay tại thế gian này. Khi ngồi nghe pháp biết rõ những điều giảng sư truyền đạt mình thâm nhập giáo pháp của Phật tư duy để tu tập. Khi đối diện với những điều ưa thích biết lòng mình đang tham đắm và ngược lại với những điều không ưa thích biết mình đang chán ngán, chẳng ưa, tâm mình khởi niệm gì mình đều biết rõ không bị cảnh trần lôi kéo như vậy là chơn tâm hiện tiền. Cho nên trong nhà Thiền thường nói: “Chỉ cần biết vọng không cần tìm chơn” là thế.

Giữa bao nhiêu phiền toái của cuộc đời tâm chúng ta không bị chi phối mà lúc nào cũng biết dừng lại, trở về với chính mình. Chúng ta phải đưa Thiền đi vào trong đời sống mới thực sự có nhiều lợi ích. Nếu như ngồi thiền theo dõi từng hơi thở để cho tâm tư được tĩnh lặng, tự chủ, an lạc thì chúng ta cũng phải biết ứng dụng Thiền như thế nào để khi làm việc trong nhà bếp hay lúc làm việc ở văn phòng, trong xe hơi, khi ở trung tâm mua bán đông người, hay khi ngồi chờ tàu chạy trong nhà ga xe lửa, tâm của chúng ta cũng được như vậy. Trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào chúng ta cũng hành thiền; không đợi đến lúc ngồi thiền chúng ta mới tu tập được. Cũng như khi vị bác sĩ tiêm một mũi thuốc bổ vào cánh tay của chúng ta, không phải chỉ cánh tay mà cả toàn thân chúng ta đều được hưởng mũi thuốc đó. Khi hành giả thực hành thiền trong các oai nghi thì sự an lạc mà hành giả có trong một giờ phải được tỏa rạng và ảnh hưởng trong suốt hai mươi bốn giờ chứ không phải chỉ trong lúc đang ngồi thiền. Chúng ta phải thực tập như thế nào để không còn thấy ranh giới giữa lúc ngồi thiền và không ngồi thiền thì sự thiền tập mới thực sự mang lại lợi ích.

Hành thiền trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, mọi công việc trong đời sống hàng ngày chính là lúc trở về với nội tâm, quán chiếu và thanh lọc để nội tâm được an lạc, thanh tịnh, sáng tỏ, chứ không phải là chạy trốn chính mình hay chạy trốn thực tại. Mỗi ngày chúng ta đều hành thiền để quán chiếu mọi sự việc đang xảy ra với một tâm tư hoàn toàn tỉnh thức.

Nếu như lúc ăn, lúc nói, lúc làm việc, lúc ngủ nghỉ khi nào chúng ta cũng hành thiền cả, thì đời sống của chúng ta là đời sống Thiền. Thiền là sống tỉnh thức, sống có chánh niệm trong từng phút giây một cách trọn vẹn với chính mình, với mọi người xung quanh. Thiền là sự sống hiện thực sinh động chứ không phải là một ý tưởng mơ hồ xa vời và tách khỏi cuộc sống.

Như vậy, Thiền qua các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi nhằm giúp ta kiểm soát hoạt động của thân bằng chánh niệm, để thực tập oai nghi chánh hạnh, đưa ta trở về sống với hiện tại, xa lìa lối sống tìm cầu hạnh phúc bằng tưởng tượng, bằng mong cầu và bằng hồi tưởng. Hơi thở chánh niệm giúp cho ta khôi phục lại thân tâm của mình một cách trọn vẹn bất cứ ở đâu, trong tư thế nào (đi, đứng, nằm, ngồi), ta cũng thực tập thở và quán chiếu được cả.
Thích nữ Đức Tuệ

Tu khẩu là không nên nói những điểm sai, thiếu sót của người khác

Tu khẩu là không nên nói những điểm sai, thiếu sót của người khác

Đăng lúc: 17:43 - 04/08/2016

Theo Phật giáo, khẩu nghiệp là một trong những nghiệp nặng nề nhất mà một người có thể tạo ra. Vết thương bạn gây ra trên thân thể người khác còn có ngày lành, còn vết thương gây ra do lời nói thì chẳng biết khi nào mới lành lặn được.

Khẩu là cái miệng, chỉ cho lời ăn tiếng nói. Trong nhà Phật thì Khẩu Nghiệp (xấu) là một trong những nghiệp nặng nhất, vì nó dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, nó dẫn đến sự đổ vỡ, dẫn đến sự đau khổ tột cùng, dẫn tới mọi sự phiền não… một lời nói vô tình có thể làm mình và người khác đau khổ ray rứt cả cuộc đời.

Giữa hai vợ chồng một lời nói cũng làm tan vỡ một gia đình, giữa nhân viên với chủ lời nói có thể làm mất việc, mất công danh sự nghiệp, giữa anh em bạn bè người thân có thể gây mâu thuẫn, bất mãn, thù ghét, câm hận, giữa hai vị đứng đầu một lãnh thổ có thể gay ra chiến tranh…

Trong Thập Thiện Nghiệp (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không tham, không sân, không si, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời ác).

Tu khẩu là không nên nói về những điểm sai, thiếu sót của người khác
Khẩu nghiệp là cần tu cả đời
Câu chuyện nổi tiếng của học giả Ngô Hạ

Ngô Hạ, một học giả nổi tiếng của triều đại nhà Tống, có một người mẹ rất khắt khe về kỷ luật những người con của bà.

Một ngày nọ, mẹ của ông tình cờ nghe được Ngô Hạ nói chuyện với một vị khách mời về những thiếu sót khuyết điểm của những người khác. Bà đã trở nên rất nóng giận, và sau khi người khách rời đi, bà đã đánh ông một trăm roi. Một người họ hàng đã cố trấn tĩnh bà và nói: “Nói về những điểm mạnh hay những thiếu sót khuyết điểm của người khác là điều bình thường trong giới học giả. Có gì sai đâu? Không cần phải đánh như thế.”

Mẹ của ông thở dài và nói: “Tôi nghe nói rằng nếu cha mẹ thực sự yêu con gái của họ, họ phải cố làm lễ cưới cho cô ấy với một học giả mà rất thận trọng về những điều mà anh ta nói ra. Tôi chỉ có một mình nó là con trai. Tôi đang cố gắng làm cho nó hiểu về những luân lý đạo đức và cuộc sống. Nếu nó không thận trọng về những điều được nói ra, tức là nó đang quên mẹ của nó. Đây là cách mà nó phải sống về lâu dài.” Mẹ của ông đã khóc và không ăn uống.

Văn hoá sáng tạo bởi thần tán thành việc một người phải thận trọng về điều mà anh ta nói. Trong giới tu luyện, có nhấn mạnh về tu khẩu, vì một lời bình luận có thể làm tổn thương những người khác không khác gì một con dao sắc hay một khẩu súng. Hơn nữa, khi lời nói được phát ra, thì không thể lấy lại được, và chúng có thể tạo nghiệp và tạo ra sự thù hận. Nên nó mang lại tai hoạ cho người nói. Bởi vậy, một người theo luân lý họ trân trọng đạo đức, chú ý đến tu khẩu và thường không tập trung vào hay nói về những khiếm khuyết của người khác sau lưng họ. Một người như vậy sẽ cho người khác một cơ hội để chính lại và sửa chữa chính họ trong một phong thái rộng mở và cao thượng, và họ cũng hướng nội nhìn vào bên trong để xem họ có thiếu sót khuyết điểm như vậy không.

Dưới sự kỷ luật nghiêm khắc của mẹ ông, Ngô Hạ đã thực hiện việc thận trọng trong lới nói, và từ đó ông giữ mình theo tiêu chuẫn khắt khe và tập trung vào tu đức và những nguyên lý đạo đức. Cuối cùng ông trở thành một trong những học giả nổi tiếng trong thời đại của ông.

Muộn chồng hay vợ có thực là do duyên âm?

Muộn chồng hay vợ có thực là do duyên âm?

Đăng lúc: 17:41 - 04/08/2016

Hiện nay, không ít trai thanh nữ tú muộn tuổi dựng vợ gả chồng thường đi xem bói, các thầy đều phán chung chung rằng do duyên âm với người kiếp trước còn nặng. Bởi vậy, không ít người phải chi một khoản tiền lớn để "cắt tiền duyên", mong xây dựng được gia đình… Dân gian gọi đó là "duyên âm", "tình duyên" từ kiếp trước. Vậy duyên âm, tiền duyên có thực sự tồn tại hay chỉ là những băn khoăn trong cơn mê mị nhất thời?.
Muộn chồng có thực là do duyên âm?
Ảnh minh họa
Mối nhân duyên khiến cuộc sống lao đao
Các chuyên gia nghiên cứu về tâm linh cho rằng, tiền duyên là những mối nhân duyên của một người trần tục với người ở thế giới khác từ những kiếp trước đây. Nó được phân định thành hai dạng là tình duyên giữa người trần và những người ở thế giới khác từ những kiếp trước còn ảnh hưởng đến bây giờ, thường gọi là tiền duyên. Dạng thứ hai là tình duyên hiện tại giữa người trần và những người ở thế giới khác (thường là với các vong hoặc tà), thường được gọi là duyên âm.
Giải thích về vấn đề này, GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu, tác giả cuốn sách Khoa học và vấn đề tâm linh cho rằng, linh hồn tồn tại bất tử sau khi chết.
Nhiều nhà nghiên cứu các kiến thức y học Đông Phương và Tây phương đều cho rằng, cấu tạo con người gồm 7 phần: Cơ thể thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có thể xác là hữu hình được y học chính thống giảng dạy (năng lượng đặc). Sáu phần còn lại là năng lượng không đặc (vía) như thể xác. Khi chết chỉ là phần thể xác mất đi. Sáu phần còn lại mãi và giữ được nhân cách của con người - linh hồn.
GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu cho biết, một công trình điều tra của Viện Gallup (Mỹ) trên 12.000 người đã từng cận tử và chết lâm sàng cho hay, trong lịch sử tồn tại của loài người đã có khoảng 70 tỷ người đi qua cửa tử, tức là nhiều gấp 10 lần dân số thế giới hiện nay cho kết quả: Sau khi chết con người từ cõi trần vào cõi trung giới vô hình. Cõi này gồm 7 cảnh giới khác nhau từ nhẹ đến nặng.
Tùy theo nhân cách tư tưởng, đạo đức, lối sống của mỗi người khi sống mà sau khi chết họ ở cảnh giới tương ứng. Đa số vong linh có hình dáng như khi sống nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi trần.
Đặc biệt, theo công bố của một tiến sỹ người Anh chuyên nghiên cứu và đã có 10 năm tu luyện ở Viện Lạt – ma Tây Tạng cho hay, đối với một số người chết yểu, bất đắc kỳ tử, vong linh không chấp nhận mình đã chết, cố bám lấy sự sống ở trên đời. Vì thế, họ cứ nguyên trạng giống như khi còn sống, trong khi họ ở cõi âm.
Duyên âm thường xảy ra ở những người lúc còn sống có thú tính mạnh mẽ. Sau khi chết, hình dáng vong linh của họ biến đổi theo tư tưởng luôn oán hận, ham muốn, thường hay tìm cách trở về cõi trần theo "người cũ" hoặc một ai đó. Cũng có trường hợp tìm dục tính ở nơi buôn hương bán phấn và rung động theo những khoái cảm của những cặp trai gái...
Hầu hết ai cũng có tiền duyên
GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu cho biết, theo Phật giáo, chúng ta có kiếp luân hồi. Khi được chuyển kiếp người ta vẫn lưu giữ những ký ức về kiếp trước. Theo nghiên cứu của những người đã trải nghiệm cận tử (chết đi sống lại), địa vị xã hội không quan trọng sau khi chết. Chỉ có tình cảm với người khác là khó quên nhất. Khi sống, hầu hết con người ta ai cũng có tình cảm khác giới.
Ngoài tình cảm vợ chồng thì còn có những mối tình nam nữ. Nhưng vì một lý do nào đó mà họ không thành vợ chồng hoặc là vợ chồng rồi nhưng không được ở lâu dài với nhau... Vì thế, ai cũng có sự nhớ thương hoặc nếu bị phản bội, đối xử quá tệ bạc thì sẽ trở thành hận tình.
Tình yêu có sức mạnh vô biên, sức mạnh ấy đưa những linh hồn này đi tìm người mà mình yêu hiện đang sống ở trần tục để giúp đỡ hoặc cản trở, phá hoại (ghen) khiến người trần tục không thể lấy chồng hoặc lấy vợ. Nếu người trần tục vẫn lấy chồng hoặc lấy vợ được thì tìm cách phá hoại hạnh phúc của đôi vợ chồng này.
Từ trước đến nay người trần tục chỉ nghĩ rằng, những người không lấy được vợ hoặc chồng hay rất khó khăn trong việc tìm vợ tìm chồng thì mới có tiền duyên. Theo một vài nghiên cứu thì hầu như ai cũng có tiền duyên. Chỉ có điều, những tiền duyên đó đã ảnh hưởng tới cuộc sống tình cảm vợ chồng hiện nay đến mức nào.
Nhưng quan niệm về “duyên âm” không chỉ dừng lại ở những “phiền toái” xuất hiện ở chuyện tình duyên mà theo thạc sỹ Vũ Đức Huynh, tác giả của hơn chục cuốn sách về tâm linh và cổ học phương Đông cho biết, “ông bà tổ tiên phù hộ” cũng là một dạng thức “duyên âm”.
Ông lý giải rằng người chết chưa phải là hết mà vẫn còn phần hồn. Người và vong hồn luôn còn mối quan hệ giao thức sóng do cùng có nguồn gốc tần số xung động nào đó của các dòng hạt điện sinh học. Vong hồn nào cũng còn mối quan hệ giao thức với thân nhân tiền kiếp. Dân gian có quan niệm "ông bà tổ tiên phù hộ" chính là bắt nguồn từ điều này.
“Khắc phục” duyên âm
Việc nợ tiền duyên có muôn hình vạn trạng. Người còn bị nợ tiền duyên phải biết chính xác việc mình còn nợ nần như thế nào thì trả mới được đúng. ThS. Vũ Đức Huynh cũng cho biết, cắt tiền duyên chính là làm phép để cho vong hồn tỉnh ngộ mà rời cõi trần quay về cõi vong để tu luyện lên các bậc cao hơn.
Cắt tiền duyên là để cầu siêu cho linh hồn. Từ cổ chí kim đã có tục lệ cầu siêu cho oan hồn. Cầu siêu có sức mạnh tư tưởng mãnh liệt bất kể đối với người theo một tôn giáo hay một người vô thần. Liên hiệp quốc cũng làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân thảm họa quốc tế.
Cầu siêu không đòi hỏi nghi thức cầu kỳ, chỉ cần thành tâm và tiến hành trong 49 ngày đầu sau khi chết là lúc người chết đang ở trong trạng thái bất định, hoang mang, sự cầu nguyện khiến họ được an ủi, linh hồn trở nên sáng suốt hơn, để siêu thoát.
Như đã đề cập, phải tùy tình trạng nợ duyên đó như thế nào mà làm hình nhân thế mạng, thế duyên để trả nợ duyên. Có khi chỉ cần 1 hình nhân là đủ, nhưng cũng có thể phải cần đến 3-4 hình nhân thế mạng, thế duyên mới đủ. Lễ trả nợ tiền duyên được thực hiện tại các đền thờ Thánh Mẫu ở trong các Chùa, Các Đền, Điện, Phủ khác ngoài Chùa. Người có thể làm việc này là các Pháp Sư, Đồng Thầy Tứ Phủ, Thầy cúng Tứ Phủ.
Bên cạnh đó, nhiều người tìm hiểu chuyện hôn nhân trong tương lai hoặc hôn nhân hiện tại, thấy đoán số nói rằng “hai lần đò". Đây chính là trường hợp của những người nợ tiền duyên, những người nợ cô thần, quả tú hoặc là cả hai trường hợp đó mà chưa biết cách làm lễ trả.
Nhưng nhờ Duyên Phận Nhân Quả mà đến vận được kết hôn.Việc chung sống theo đó đương nhiên không thể nào hạnh phúc lâu dài, khó tránh khỏi sự rạn nứt tình cảm và tan vỡ hôn nhân...
Để tránh được điều này, theo quan niệm phải "cưới hai lần" để "giải ân, giải nợ". Làm đám cưới hai lần sẽ tránh được nghiệp Quả tiền Duyên. Nghĩa là tránh được sự ly tán, tan vỡ hạnh phúc gia đình. Đây là việc làm thuận theo hướng dẫn của Thiên Quy. Người cõi Âm dù còn vướng mắc ân tình với người Dương thế cũng không đi theo quấy quả nữa.
Mặc dù vẫn chưa hề được giải mã chặt chẽ, khoa học nhưng những câu chuyện về duyên âm vẫn đã và đang tồn tại từ đời này sang đời khác. Sự thật về sức ảnh hưởng, tốt xấu hay phiền toái đến đâu vẫn chưa được xác thực nhưng nét tín ngưỡng này đã mang đến màu sắc lý thú cho nền văn hóa Việt.
Còn nữa…
Bình luận 0 Hạnh Lê

Học hạnh vô tranh

Học hạnh vô tranh

Đăng lúc: 09:35 - 25/07/2016

Lục hòa là một trong những nội dung tu tập quan trọng trong giáo pháp của Thế Tôn. Thanh tịnh và hòa hợp là bản thể của Tăng-già đồng thời là cơ sở để tiến tu nhằm thành tựu giới, định, tuệ và tăng trưởng tín tâm cho tín đồ Phật tử.
Sáu pháp lục hòa kính là gì

\luc-hoa.jpg

Thanh tịnh và hòa hợp là bản thể của Tăng-già, đồng thời là cơ sở để tiến tu nhằm thành tựu giới, định, tuệ

Được sống trong không khí hòa hợp, chung vui là niềm hạnh phúc của mọi người. Nhất là người xuất gia, nguyện sống không gia đình nên được sống vui trong sự bảo bọc, che chở, ấm áp đạo tình của Tăng-già là niềm hạnh phúc lớn.

Thế nhưng, vì nghiệp lực nên có người rơi vào những hội chúng nhiều bất hòa, thường nghi kỵ, tranh giành, đấu đá lẫn nhau. Nguyên nhân của tranh đấu thì rất nhiều nhưng căn bản vẫn là lợi và danh. Lúc mới xuất gia, với sơ tâm dũng mãnh thì lợi và danh thật bọt bèo. Nhưng rồi, chúng vẫn là cội nguồn để người ta tranh chấp. Thế mới biết tâm vô thường, đổi thay đến chóng mặt. Không phải bây giờ mà từ thời Thế Tôn, thời của Chánh pháp mà các Tỳ-kheo đã từng “có lúc dùng dao gậy đập nhau”.

“Một thời Phật ở thành Câu-thâm trong vườn Cù-sư-la.

Bấy giờ Tỳ-kheo ở Câu-thâm hằng ưa tranh tụng, phạm các hạnh ác, đối mặt cãi cọ, hoặc có lúc dùng dao gậy đập nhau. Bấy giờ Thế Tôn sáng sớm đến chỗ các Tỳ-kheo ấy. Đến rồi, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo các thầy, cẩn thận chớ gây gổ, chớ tranh phải trái với nhau. Này các Tỳ-kheo, nên cùng hòa hợp, là bạn bè cùng một thầy, đồng nhất như nước với sữa, sao lại gây gổ?

Khi ấy Tỳ-kheo ở Câu-thâm bạch Thế Tôn:

- Cúi mong Thế Tôn chớ lo việc này, chúng con tự lo liệu lẽ này. Lỗi lầm như thế, chúng con tự biết tội này.

Thế Tôn bảo:

- Thế nào, các thầy vì vua mà hành đạo, hay vì sợ hãi mà hành đạo, hay vì đời sống thiếu thốn mà hành đạo?

Các Tỳ-kheo đáp:

- Không phải thế, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

- Thế nào các Tỳ-kheo, các thầy há chẳng phải muốn xa lìa sanh tử, cầu đạo vô vi mà hành đạo sao? Nhưng thân ngũ ấm thật chẳng thể bảo toàn.

Các Tỳ-kheo đáp:

- Đúng vậy, Thế Tôn, như lời Thế Tôn dạy. Chúng con là con nhà vọng tộc, sở dĩ xuất gia học đạo vì cầu đạo vô vi, diệt thân ngũ ấm, thế nên học đạo.

Thế Tôn bảo:

- Các Tỳ-kheo không chịu học đạo mà lại tranh đấu đấm, đánh nhau, đối mặt gây phải trái, nói ác với nhau. Các thầy phải nên thành tựu hạnh này. Cùng đồng một pháp, một thầy dạy, cũng nên hành pháp lục hòa này, cũng nên hành thân, khẩu, ý hành này, cũng nên hành việc cúng dường những vị Phạm hạnh.

Các Tỳ-kheo đáp:

- Đây là việc của chúng con. Thế Tôn chớ lo việc này.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo ở Câu-thâm:

- Thế nào, các người ngu, các thầy chẳng tin lời của Như Lai sao mà nói Như Lai chớ lo việc này? Các thầy sẽ tự chịu quả báo tà kiếp này…”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 24.Cao tràng 3 [trích],
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.513)

Đành rằng, khi chưa thành tựu các Thánh quả thì đôi lúc người tu cũng bị phiền não chi phối. Nhưng vì tham ái lợi danh che mắt mà dẫn tới đấu đá và tranh giành trong chốn thiền môn thì thật xót xa. Bởi không thấy được những tác động tiêu cực nhiều chiều từ việc tranh chấp kiên cố của mình, nghĩ rằng mình làm như vậy là đúng rồi kiên quyết bảo vệ quan điểm bạo động, tranh đấu, gây bất hòa. Cũng như các Tỳ-kheo ở thành Câu-thâm, trước lời khuyên của Thế Tôn mà vẫn ngoan cố “Đây là việc của chúng con. Thế Tôn chớ lo việc này”. Sự việc căng đến nỗi Thế Tôn phải cứng rắn “Thế nào, các người ngu, các thầy chẳng tin lời của Như Lai sao mà nói Như Lai chớ lo việc này? Các thầy sẽ tự chịu quả báo tà kiếp này”.

Hình ảnh các Tỳ-kheo thường tranh đấu, bất hòa với nhau như thế tục đã cho chúng ta nhiều suy ngẫm. Xét cho cùng thì vấn đề cũng không ngoài tham ái và vô minh, nguyên nhân căn bản của khổ đau. Nên xả buông với danh lợi thì tranh chấp, đấu đá sẽ giảm. Sống chung với nhau mà bất hòa là “oán tắng hội khổ”. Nên mỗi người hãy tự buông bỏ một phần chấp ngã, tham ái thì cơ hội hòa hợp sẽ mở ra. Buông hết thì mới thực sự lục hòa, thanh tịnh và an vui.

Khai mở tâm thức

Khai mở tâm thức

Đăng lúc: 12:09 - 16/07/2016

Trong kinh Điều lành lớn (Maha-Mangala Sutta), một vị A-la-hán được mô tả như là: “… dù bị ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh thế tục, tâm vị ấy không hề lay động”. Bậc Giác Ngộ dầu sống trong thế tục, hành động như mọi người khác, cũng ăn, ngủ, tắm giặt, trò chuyện với người, nhưng tâm Ngài không lay động. Tâm đó luôn mát mẻ và bình an.

Khai mở tâm thức
Chúng ta có khả năng chuyển đổi thân, thì đối với tâm cũng thế. Thân có thể thay đổi như khi ta ăn ít hơn để giảm ký, hay ăn nhiều hơn để tăng trọng lượng; uống nhiều rượu thì hại gan, hút thuốc nhiều thì hại phổi. Ta có thể tập thể dục để có bắp thịt, hay luyện tập để chạy nhanh hơn, nhảy cao hơn, hay tập dượt để có thể đánh tennis hay đá cầu. Thân có thể làm được nhiều thứ mà một người bình thường không biết mình có thể làm được vì họ không được tập luyện. Thí dụ, chúng ta biết có những người có thể nhảy hai hay ba lần cao hơn bình thường, hay chạy nhanh gấp mười lần người khác. Thật vậy, nhiều người có thể làm những điều phi thường với cơ thể họ. Tương tự, cũng có những người có thể sử dụng tâm họ trong những cách dường như rất kỳ diệu, mà thật ra tất cả đều do tập luyện.
Thiền là cách rèn luyện duy nhất dành cho tâm. Muốn huấn luyện thân phải có những kỷ luật về thân. Tâm cũng cần những kỷ luật về tâm, như thực hành thiền.
Trước hết ta cần chuyển hóa tâm từ những suy nghĩ bất thiện thành thiện. Cũng giống như người muốn trở thành vận động viên phải bắt đầu bằng việc rèn luyện cơ thể, ta cũng cần phải làm thế với việc rèn tâm. Đầu tiên chúng ta giải quyết những điều bình thường, sau đó mới đến những điều cao xa hơn. Việc quán tưởng về cái chết của bản thân sẽ giúp chúng ta nhận thức rằng tất cả những gì đang xảy ra, sẽ sớm chấm dứt, vì tất cả chúng ta sẽ chết đi. Dầu chúng ta không thể biết chính xác ngày giờ, điều đó chắc chắn sẽ xảy ra. Khi luôn quán tưởng về cái chết trong tâm, những gì xảy ra quanh ta không quan trọng mấy nữa, vì tất cả chỉ quan trọng trong một thời gian rất giới hạn.
Chúng ta có thể thấy rằng chỉ việc tạo nghiệp mới quan trọng, do đó hãy làm những điều tốt nhất mà ta có thể làm trong từng ngày, từng giây phút. Giúp đỡ người khác trở thành ưu tiên. Không có gì có thể thay thế điều đó. Tha nhân có thể được lợi ích nhờ tài năng hay sở hữu của ta vì ta không thể giữ hay mang chúng theo mình. Tốt hơn hết là ta cho đi tất cả càng sớm càng tốt.
Một trong những định luật của vũ trụ là bạn càng cho ra nhiều, thì bạn được vô nhiều hơn. Dầu đó là luật nhân quả, nhưng có mấy ai tin điều đó. Đó là lý do tại sao ai cũng cố gắng kiếm nhiều tiền hơn và sở hữu nhiều thứ hơn nữa. Nếu ta tin và sống dựa vào nhân quả, thì chẳng bao lâu ta sẽ khám phá ra sự thật. Tuy nhiên điều đó chỉ hiệu nghiệm nếu việc bố thí được làm với tâm trong sạch. Chúng ta có thể chia sẻ thời gian, sự quan tâm, chăm sóc vì lợi ích của kẻ khác. Chúng ta cũng được lợi ích ngay, đó là hạnh phúc trong lòng, khi ta thấy được niềm vui mà ta đã tạo ra cho người. Đây có thể là niềm hạnh phúc duy nhất ta có thể tìm thấy trên cõi đời này mà nó không nhanh chóng qua đi, vì chúng ta có thể hồi tưởng lại việc thiện và niềm hạnh phúc của riêng mình.
Nếu chúng ta thực sự tin rằng cái chết lơ lửng trên đầu, không chỉ bằng lời nói, thì thái độ của chúng ta đối với người và sự việc sẽ hoàn toàn thay đổi. Chúng ta sẽ không còn như trước nữa: Con người mà chúng ta từng là, cho đến bây giờ không mang đến cho ta sự hài lòng, bình an và hạnh phúc trọn vẹn. Chẳng thà là ta trở nên một con người khác, với cái nhìn mới mẻ. Chúng ta sẽ không còn cố gắng để duy trì thứ gì dài lâu, vì ta biết tính chất tạm bợ của việc ta làm. Do đó không có gì còn quan trọng nữa.
Có thể so sánh với việc ta mời bạn bè đến nhà dùng cơm. Chúng ta lo lắng, quan tâm không biết các món ăn có vừa miệng khách, họ có thoải mái không và có gì sơ sót chăng. Nhà cửa phải sạch bóng cho khách. Khi có khách, chúng ta rất quan tâm, lo cho khách có đầy đủ những thứ họ cần. Sau đó chúng ta lại quan tâm không biết họ có thích nhà ta không, có thoải mái ở đó không, có nói lại với những người bạn khác rằng bữa tiệc đó thật vui. Đó là các thái độ của ta vì ta sở hữu chỗ đó, vì ta là chủ. Nếu ta là khách, ta chẳng quan tâm đến món ăn vì đó là việc của chủ nhà. Ta chẳng quan tâm xem mọi thứ có chỉn chu không vì đó không phải là nhà của ta.
Thân này không phải là nhà của ta, dầu ta có sống bao lâu trong đó. Nó chỉ là một chỗ tạm bợ, không đáng quan tâm. Không có gì thuộc về ta, ta chỉ là khách ở đây. Có thể ta chỉ có mặt một tuần hay một năm nữa, hay mười, hai mươi năm nữa. Nhưng chỉ làm thân khách, thì mọi sự diễn ra thế nào có quan trọng gì đâu? Điều duy nhất ta có thể làm khi là khách trong nhà ai đó, là cố gắng hòa nhã, làm lợi ích cho những người ở quanh ta. Mọi thứ còn lại đều hoàn toàn vô nghĩa, nếu không thần thức ta sẽ dính mắc lại nơi phố thị.
Hơn nữa, chẳng phải là việc nâng cao tâm thức và tỉnh giác tới mức độ ta có thể nhìn xa hơn những mối bận tâm trước mắt mới là điều quan trọng sao? Lúc nào cũng là những việc giống nhau: thức dậy, điểm tâm, vệ sinh, thay đồ, nghĩ ngợi, lên kế hoạch, nấu ăn, mua sắm, trò chuyện, đi làm, đi ngủ, rồi lại thức dậy... Cứ thế lặp đi, lặp lại. Vậy có đáng cho một kiếp người? Tất cả chúng ta đều cố gắng tìm điều gì đó trong những sinh hoạt hàng ngày có thể mang đến niềm vui cho mình. Nhưng không có gì lâu bền, hơn nữa mọi thứ đều liên quan đến việc ta phải hướng ra ngoài để tìm thứ gì đó. Nếu mỗi buổi sáng ta đều nhớ là cái chết chắc chắn sẽ đến, nhưng giờ ta có thêm một ngày để sống, thì lòng biết ơn và ý chí có thể phát khởi để giúp ta làm điều gì đó ích lợi trong ngày.
Điều quán tưởng thứ hai của ta có thể là về việc làm thế nào để chuyển hóa tâm từ sân hận, tổn thương, bất hạnh, sang những điều ngược lại. Việc nhớ đi, nhớ lại sẽ giúp ta dần dần thay đổi được tâm. Ta không thể thay đổi thân qua đêm, để trở thành vận động viên, thì tâm cũng không thể chuyển đổi ngay lập tức. Nhưng nếu ta không liên tục rèn luyện nó, thì nó sẽ mãi giống như xưa, không thể đưa ta đến một cuộc sống hài hòa, hạnh phúc. Phần đông đều thấy cuộc sống đầy bất hạnh, lo âu và sợ hãi. Sợ hãi là một bản chất của con người, do ảo tưởng về ngã tạo nên. Ta sợ rằng cái ngã của mình sẽ bị hủy diệt, xóa bỏ.
Ý muốn chuyển hóa tâm sẽ giúp ta có thể sống một cách có ý nghĩa mỗi ngày, là sự khác biệt giữa còn sống và thực sự sống. Chúng ta sẽ có thể làm ít nhất một việc mỗi ngày, hoặc là thúc đẩy sự phát triển tâm linh cho bản thân, hoặc quan tâm, làm lợi ích cho người, tốt nữa là cả hai. Nếu ngày này qua ngày khác, ta đều sống có ý nghĩa, thì rốt cục ta sẽ có một cuộc sống có ý nghĩa. Nếu không ta sẽ có một cuộc sống vị kỷ, không bao giờ biết thỏa mãn. Nếu ta quên nghĩ đến những ham muốn hay ghét bỏ của bản thân, mà chỉ quan tâm đến sự phát triển tâm linh và đem lại hữu ích cho người, thì cái khổ (dukkha) của ta giảm đáng kể. Nó sẽ đi đến chỗ mà nó chỉ còn là một tính chất tiềm ẩn trong tất cả mọi hiện hữu, chứ không còn là cái khổ, hay bất hạnh riêng của cá nhân. Khi nào ta còn đau khổ, bất hạnh, thì cuộc sống của ta không có ích lợi gì. Khổ sở, đau đớn, than khóc không có nghĩa là ta rất nhạy cảm, mà đúng ra là ta không thể tìm ra giải pháp cho vấn đề.
Chúng ta dành bao nhiêu thời gian để mua thực phẩm, nấu nướng, ăn uống, sau đó dọn dẹp, rồi lại lo nghĩ cho bữa ăn kế tiếp. Hai mươi phút quán tưởng xem ta nên sống thế nào, sẽ không tiêu tốn nhiều thời gian của ta. Dĩ nhiên, ta cũng có thể dành nhiều thời gian hơn cho việc quán tưởng này, là phương cách giúp tâm có một hướng đi mới. Không có sự rèn luyện, tâm sẽ ù lì, thiếu thiện xảo, nhưng khi ta chỉ cho tâm hướng đi mới, thì sau đó ta sẽ học được cách bảo vệ hạnh phúc của riêng mình. Điều này không liên hệ với việc ta có được điều ta muốn hay loại bỏ được điều ta không mong muốn. Đó chỉ là sự thiện xảo của tâm khi nhận biết điều gì là lợi ích và mang lại hạnh phúc.
Phương hướng mới này, phát khởi từ quán tưởng, có thể đem ứng dụng vào trong hành động. Chúng ta thực sự có thể làm gì? Mọi người chúng ta đã nghe quá nhiều những mỹ từ, nhưng chỉ nói suông không thôi thì chẳng lợi ích gì. Phải nhận thức rằng những lời này cần đi kèm theo hành động nơi thân hay tâm. Đức Phật nhắc nhở ta rằng nếu ta nghe pháp mà có lòng tin vào chân lý đó, thì trước tiên ta phải nhớ lý thuyết. Sau đó ta phải xét xem mình có thể thực hiện được những gì mà bài pháp đòi hỏi ta phải làm.
Nếu ta quán niệm để giải thoát khỏi sân hận, ta có thể hồi tưởng lại quyết chí đó nhiều lần. Bước kế tiếp là: Làm sao ta thực hiện điều đó? Trong cuộc sống hàng ngày, ta phải để ý xem sân hận có phát khởi, nếu có, ta phải thay thế nó với tình thương và lòng bi mẫn. Đó là cách huấn luyện tâm. Lúc đó tâm không còn cảm thấy quá nặng nề, quá chấp chặt vào các thành kiến vì ta biết rằng chuyển hóa là điều có thể xảy ra. Khi tâm cảm thấy nhẹ nhàng, trong sáng hơn, nó có thể khai mở. Ứng dụng giáo lý của Đức Phật giúp tâm tỉnh giác, nên các hoạt động bình thường, hàng ngày không còn quá quan trọng. Chúng chỉ cần thiết để giúp thân sinh động và tâm biết đến những sự phát triển trên nhiều phương diện ở thế gian.
Từ đó phát khởi sự nhận thức rằng nếu chúng ta đã có thể thay đổi tâm đến dường ấy, thì có thể còn có nhiều điều trên vũ trụ này mà ta chưa thể thấy với tâm bình thường. Từ đó ta có thể quyết chí đạt đến những điều siêu phàm. Cũng giống như với vận động viên, việc giữ thăng bằng, kỷ luật và sức mạnh của thân là điều có thể, thì tâm cũng có thể làm như thế. Đức Phật đã nói về sự tỉnh giác sâu xa do kết quả của việc hành thiền đúng đắn, liên tục. Chánh định có nghĩa là sự chuyển đổi của tâm thức vì lúc đó ta không còn kết nối với cái biết bình thường, tương đối. Khi đã có thể chuyển đổi đường hướng của tâm, chúng ta không còn chìm đắm trong những vấn đề tầm thường, mà biết rằng còn có nhiều thứ hơn thế nữa.
Vì đã được rèn luyện, làm tăng thêm sức mạnh, khéo thăng bằng nên tâm có thể thể hiện ý thức, sự tỉnh giác dường như khá đặc biệt, nhưng đó chỉ là kết quả của quá trình rèn luyện. Có nghĩa là ta đã thoát khỏi sự sáo mòn của tâm. Nếu ta cứ lái xe trên một con đường trơn ướt, thì vết xe lún ngày càng sâu hơn, cuối cùng có ngày xe sẽ bị dính chặt vào đó. Đó cũng giống như các phản ứng theo thói quen trong đời sống hằng ngày của ta. Công phu hành thiền sẽ kéo chúng ta ra khỏi những vũng lầy đó vì tâm giờ có các định hướng mới. Thiền tập và hành động theo đó tạo nên con đường mới trong cuộc sống của chúng ta, trong khi các vũng lầy cũ bị ta bỏ lại phía sau… Đó là những phản ứng đối với các duyên khởi của nghe, thấy, nếm, ngửi, xúc chạm và tưởng. Thật uổng phí nếu ta để kiếp làm người quý báu này để chỉ làm kẻ phản ứng (reactor). Trái lại làm người chủ động (creator) thì ích lợi hơn, có nghĩa là suy nghĩ, nói năng và hành động có tính toán.
Dần dần ta có thể không cần đến đối tượng thiền quán. Nó chỉ là chìa khóa, hay cái móc để treo tâm lên đó, để nó không chạy theo việc thế gian. Khi định đã phát khởi, thì cũng giống như chiếc chìa khóa đã tìm được ổ khóa, và ta đã mở được cửa vào. Khi mở cửa chánh định, ta thấy được ngôi nhà với tám phòng, là tám tầng thiền định (jhanas). Đã vào được phòng thứ nhất, thì không có lý do gì, với sự thiền tập, ý chí và tinh tấn, ta không thể dần dần đi vào được tất cả. Lúc ấy tâm thức sẽ buông bỏ mọi quá trình suy tưởng trước kia và chuyển qua trạng thái trải nghiệm sự việc.
Điều đầu tiên xảy ra khi định phát khởi là một cảm giác tự tại. Đáng tiếc là có quan niệm sai lầm cho rằng các tầng thiền định không thể đạt được mà cũng không cần thiết. Quan niệm đó trái ngược lại với giáo lý của Đức Phật. Bất cứ lời dạy nào của Ngài về con đường đi đến giải thoát luôn bao gồm các tầng thiền định (samma-samadhi). Đó là tám bước trong Bát Thánh đạo. Cũng sai lầm khi tin rằng không thể đạt được chánh định. Những hành giả này cần được hỗ trợ và tư vấn để phát triển nỗ lực. Thiền tập phải bao gồm các tầng thiền định vì chúng là sự khai mở của tâm thức đưa đến một thế giới hoàn toàn khác với những gì ta từng biết qua.
Trạng thái tâm phát khởi qua các tầng thiền định giúp ta có thể sống mỗi ngày với ý thức được gì là quan trọng, gì là không. Thí dụ, đã nhìn thấy ta có thể trồng cây to, không ai còn tin rằng cây luôn nhỏ, dầu các cây trong vườn nhà ta nhỏ xíu, vì đất xấu. Nếu ta đã nhìn thấy những cây đại thụ, ta biết rằng chúng hiện hữu, và ta có thể cố gắng tìm nơi có thể trồng chúng. Các trạng thái tâm cũng thế. Đã nhìn thấy khả năng khai mở tâm thức, ta không còn tin rằng chỉ có tâm thức bình thường hiện hữu, hay chỉ có hơi thở là đối tượng thiền quán duy nhất.
Hơi thở là chiếc móc để ta treo tâm lên đó, để ta có thể mở cánh cửa đến với thiền chân chánh. Đã mở được cánh cửa, ta trải nghiệm được thân tự tại, thể hiện qua nhiều cách khác nhau. Có thể là một cảm giác nhẹ nhàng hay mãnh liệt, nhưng nó gắn với cảm giác dễ chịu. Đức Phật đã nói về sự dễ chịu đó như sau: “Đây là lạc mà Ta cho phép mình được hưởng thụ”. Trừ khi ta trải nghiệm được niềm vui của trạng thái thiền định, là điều hoàn toàn không tùy thuộc vào các điều kiện bên ngoài, và ta cuối cùng có thể nói: “Thế gian với bao quyến rũ tầm thường không còn làm bận lòng ta”, và tâm nhàm chán sẽ phát sinh. Nếu không, tại sao người ta lại phải từ bỏ cái đôi khi cũng mang lại khoái lạc cho họ, nếu họ không có gì khác ngoài những thứ đó? Làm sao người ta có thể làm điều đó? Khó thể buông bỏ tất cả những lạc thú mà thế gian có thể mang đến cho ta, nếu ta không có gì để thay thế chúng. Đó là lý do đầu tiên tại sao trong giáo lý của Đức Phật các tầng thiền định chiếm vị thế quan trọng. Ta sẽ không thể buông bỏ khi vẫn còn nghĩ rằng với thân này và các giác quan này ta có thể đạt được điều mình kiếm tìm, có tên gọi là hạnh phúc.
Đức Phật khuyến khích ta tìm hạnh phúc, nhưng ta phải tìm đúng hướng. Ngài cho rằng ta có khả năng bảo vệ hạnh phúc của riêng mình. Ngay giây phút đầu tiên khi đạt được sự thoải mái nơi thân lúc hành thiền cũng đã minh họa cho sự thật là có điều gì đó bên trong chúng ta đem lại hỷ lạc, hạnh phúc. Sự tự tại nơi thân cũng khơi lên ý thích sự dễ chịu đó để giữ ta ngồi lại gối thiền. Dầu đó cũng là một cảm giác nơi thân, nhưng nó không phải là cảm giác mà ta thường biết đến. Nó khác vì nó phát xuất từ nguồn khác. Những cảm giác vật lý dễ chịu quen thuộc đến từ sự xúc chạm, còn cảm giác này đến từ thiền định. Rõ ràng là vì có nguồn gốc khác nhau, các kết quả cũng khác nhau. Sự xúc chạm thì thô, định thì vi tế. Do đó cảm giác đến từ thiền cũng có đặc tính tâm linh vi tế hơn là cảm giác dễ chịu đến từ sự xúc chạm. Đã biết rõ ràng rằng điều kiện duy nhất cần thiết để được hạnh phúc là thiền định, thì ta sẽ kiềm chế những sự chạy đuổi, tìm kiếm đối tượng thích hợp, món ngon, thời tiết tốt, tiền tài, và không phung phí năng lượng tâm linh cho những thứ này. Do đó, đây là bước đầu tiên cần thiết để tiến tới sự nhàm chán.
Giờ chúng ta đang bước vào các trạng thái tâm vượt lên trên những vấn đề thế tục hàng ngày… Tất cả chúng ta đều biết đến cái tâm hay gắn với những điều bình thường. Tâm đó lo lắng về đủ mọi thứ chuyện, bồn chồn, toan tính, hy vọng, nhớ tưởng, mơ mộng, ưa, ghét và phản ứng. Đó là một tâm bận rộn. Có thể đây là lần đầu tiên ta làm quen với một tâm không có những đặc tính này. Sự thư thái thoải mái không có những suy tưởng bám theo, đó là một trải nghiệm. Cuối cùng ta nhận ra rằng loại suy tưởng mà ta quen thuộc không mang đến cho ta những kết quả mà ta mong muốn. Nó chỉ có ích trong việc giúp ta lập ý nguyện hành thiền. Chúng ta biết, ngay ở bước đầu tiên đó, rằng cuộc sống thế gian không thể mang đến cho ta những gì mà thiền có thể. Hạnh phúc không tùy thuộc vào những điều kiện bên ngoài mang đến sự thỏa mãn hơn bất kỳ thứ gì có thể tìm thấy trên thế gian này. Chúng ta cũng được thấy là tâm có khả năng khai mở vào một tâm thức khác mà ta chưa từng biết qua, do đó ta có được kinh nghiệm tự chứng về việc thiền là phương tiện cho vấn đề giải phóng tâm linh.
Do đã có được cảm giác dễ chịu này, niềm hỷ lạc nội tâm sẽ phát khởi. Điều này tạo cho thiền giả niềm tin rằng con đường đến “vô ngã” là con đường của hỷ lạc chứ không phải khổ đau. Từ đó phản ứng bản năng chống lại “vô ngã” sẽ giảm đi đáng kể. Nhiều người không thể chấp nhận ý nghĩ rằng họ “không là ai cả”, ngay cả khi họ hiểu điều đó bằng tri thức. Nhưng khi đã có thể trải nghiệm được hai đặc tính đầu tiên của thiền, ta sẽ nhận thức rõ ràng rằng điều đó chỉ có thể khi “cái ngã” luôn suy tư, được tạm thời dẹp qua một bên. Vì khi cái ngã hoạt động, nó lập tức thốt lên, “Ồ, thật tuyệt vời”, và ngay lập tức ta không còn định tĩnh. Nó phải có mặt và trải nghiệm ở nơi không có gì nói “Tôi đang trải nghiệm”. Sự giải thích và tìm hiểu về những gì ta đã trải nghiệm có thể thực hiện sau.
Đó là sự nhận thức rõ ràng rằng, không có “cái ngã”, niềm hỷ lạc nội tâm sẽ lớn và sâu sắc hơn nhiều so với bất cứ hạnh phúc nào mà ta đã biết ở thế gian. Do đó sự quyết tâm để thực sự nắm bắt những điều dạy của Đức Phật sẽ thành quả. Cho đến lúc đó, đa số chúng ta chỉ chọn một vài khía cạnh của Pháp, mà ta đã được nghe qua, và nghĩ rằng vậy là đủ. Có thể đó là sự cúng dường, tán tụng, lễ hội, làm điều thiện, hay giữ giới, tất cả đều tốt, nhưng thực tại của giáo lý là một bức tranh ghép vĩ đại, nơi tất cả những mảnh ghép khác nhau sẽ tụ lại thành một tổng thể khổng lồ, bao gồm tất cả. Mà tâm điểm là “vô ngã” (anatta). Nếu ta chỉ sử dụng một vài mảnh ghép này, ta sẽ chẳng bao giờ có được bức tranh toàn cảnh. Nhưng có khả năng hành thiền mang lại sự khác biệt lớn lao trong phương cách ta tiến đến với cái tổng thể của giáo lý, nó trùm phủ cả thân và tâm, và thay đổi hoàn toàn người hành theo đó.
Chúng ta phải dựa vào khả năng hành thiền của mình trên từng ngày. Ta không thể hy vọng là mỗi khi ngồi xuống, ta sẽ thành công, nếu ta chỉ lo nghĩ chuyện thế gian, và nếu như ta không cố gắng giảm bớt sân, ghen tỵ, tham, chống đối trong cuộc sống hàng ngày. Nếu ta sử dụng chánh niệm, tỉnh giác rõ ràng và lắng lòng dục, là ta có nền tảng để hành thiền. Khi chúng ta thực hành đem thiền vào công việc hàng ngày, ta sẽ thấy sự thay đổi dần dần trong ta, giống như một vận động viên đang trong thời kỳ luyện tập. Tâm sẽ trở nên mạnh mẽ, và hướng đến những vấn đề quan trọng trong cuộc sống. Nó không bị xao động bởi bất cứ điều gì xảy ra.
Nếu mỗi ngày ta đều dành thời gian quán niệm, hành thiền và không quên chánh niệm, ta sẽ có một bắt đầu tốt đẹp cho việc khai mở tâm thức. Dần dà vũ trụ và bản thân chúng ta sẽ chuyển đổi, dựa trên sự thay đổi quan điểm của ta. Có câu nói trong thiền là: “Lúc đầu núi là núi, sau đó núi không còn là núi, rồi cuối cùng núi lại là núi”. Đầu tiên ta nhìn thấy mọi thứ với cái thực tại tương đối của chúng; mỗi người là một cá nhân riêng lẻ, mỗi cây là một loại khác nhau, mọi thứ phần nào đều có tầm quan trọng trong cuộc sống của ta. Rồi khi bắt đầu tu hành, bỗng nhiên ta thấy ra một thực tại khác, toàn cầu và rộng mở. Ta trở nên rất chú tâm vào việc hành thiền của mình, không còn để ý nhiều đến những gì xảy ra quanh ta. Ta cảm nhận được sự khai mở, thăng hoa của tâm thức, biết rằng các phản ứng hàng ngày của ta không quan trọng. Có lúc ta chỉ chú tâm đến thiền, và dường như sống trong một thực tại khác. Nhưng cuối cùng, ta lại trở về ngay nơi ta từng có mặt, làm tất cả mọi thứ như trước kia, nhưng không còn để chúng lay động lòng mình. Núi lại chỉ là núi. Mọi thứ lại trở về với bản chất bình thường như xưa, chỉ có điều là chúng không còn cá biệt hay quan trọng nữa.
Trong kinh Điều lành lớn (Maha-Mangala Sutta), một vị A-la-hán được mô tả như là: “… dù bị ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh thế tục, tâm vị ấy không hề lay động”. Bậc Giác Ngộ dầu sống trong thế tục, hành động như mọi người khác, cũng ăn, ngủ, tắm giặt, trò chuyện với người, nhưng tâm Ngài không lay động. Tâm đó luôn mát mẻ và bình an.

Nguyên tác: Ni sư AYYA KHEMA | Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Theo Expansion in Consciousness, một trong mười Pháp thoại của sách TO BE SEEN: HERE AND NOW)

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 97
  • Hôm nay 3,661
  • Tháng hiện tại 40,116
  • Tổng lượt truy cập 23,446,365