Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Chuyển hóa đố kỵ

Chuyển hóa đố kỵ

Đăng lúc: 04:33 - 10/07/2017

Đố kỵ là tâm lượng hẹp hòi, khó chịu, bực bội, ganh ghét những ai có sắc đẹp, danh vọng, quyền lợi, may mắn và thành công hơn mình. Khi chưa dự vào Hiền Thánh thì ai cũng mang trong mình tâm xấu đố kỵ này. Chỉ khác nhau là người nhiều kẻ ít, người bộc lộ hết ra bên ngoài còn kẻ thì giấu nhẹm một phần hay giấu hết vào bên trong. Thậm chí ngay cả những lời chia vui chúc tụng chân thành lắm khi cũng là bề ngoài, còn nội tâm thế nào thì mỗi người tự biết.
doky.jpg
Người đời hơn thua nhau từng chút một, người tu mang tâm đố kỵ cũng chẳng phải là hiếm- Ảnh minh họa

Tâm đố kỵ ở đời thì quá rõ ràng, dễ hiểu. Điều khiến ta bất ngờ là trong đạo, người tu mang tâm đố kỵ cũng chẳng phải là hiếm. Và khó hiểu nhất là “đố kỵ Phạm hạnh”. Phạm hạnh có nghĩa là thực hành đạo đức, giới hạnh, tịnh hạnh, Thánh hạnh. Thì ra đố kỵ có mặt khắp nơi, trong môi trường tài sắc danh lợi thì có đố kỵ theo tài sắc danh lợi; trong môi trường tu học, thực hành đạo đức thì cũng có đố kỵ theo cách riêng. Nghĩa là, một người chuyên trau dồi đạo đức, thực hành giới hạnh trọn vẹn thanh tịnh, thay vì người này được tán thán, cung kính, lễ bái, cúng dường thì đôi khi lại trở thành đối tượng bị cô lập, bị gièm pha công kích, bị đố kỵ rằng “thấy vậy mà… không phải vậy”. Nói rõ ra, một người thành công về đạo đức, giới hạnh thì vẫn có thể bị đồng đạo vụng tu đố kỵ như thường.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Ta ở trong đây, không thấy một pháp nào mau đưa đến hoại diệt như là ganh ghét, đố kỵ Phạm hạnh. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy tu hành từ nhẫn, thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm12. Nhập đạo,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.140)

Thời Thế Tôn, sự đố kỵ Phạm hạnh đã xảy ra. Đơn giản vì, người có đạo đức và giới hạnh càng cao thì tứ chúng quy ngưỡng ngày càng nhiều, khiến người thiếu Phạm hạnh sút giảm tín đồ nên không vui, sinh tâm ghét ganh, đố kỵ. Theo Thế Tôn, đố kỵ có nhiều thứ bậc nhưng riêng đố kỵ Phạm hạnh rất nguy hiểm, khiến cho đạo pháp “mau đưa đến hoại diệt” nhất. Bởi lẽ, người có đạo tâm khi đối trước bậc Phạm hạnh luôn sinh tâm kính ngưỡng. Nếu xét đạo đức và giới hạnh của mình chưa bằng thì sinh tâm hổ thẹn, tự trách và răn mình cố gắng hơn. Ngược lại sinh tâm đố kỵ với bậc Phạm hạnh thì đạo tâm của mình đã hủ hóa, không chỉ riêng mình thối đọa mà đố kỵ còn khiến cho đạo tình bị sứt mẻ, đạo pháp bị tổn thương.

Thế nên, khi giác tỉnh nhận ra đố kỵ dấy khởi nơi tâm mình thì hãy nhanh chóng rải tâm từ để hóa giải. Từ là tâm yêu thương, mong cho mọi người đều tốt đẹp, an lành. Thấy rõ nguyên nhân vì sao người thành công, và vì cái gì mà ta chưa thành công? Nhờ thấy rõ mọi sự với tuệ tri cùng với vận dụng lời dạy “Hãy tu hành từ nhẫn” của Thế Tôn nên tâm đố kỵ được tưới tẩm yêu thương và nhanh chóng lắng dịu. Dặn lòng nhẫn nhịn, hãy khoan hoặc bớt đố kỵ. Mở lòng yêu thương, mong mọi người thành công từ trong suy nghĩ cho đến lời nói và việc làm. Được vậy thì tâm đố kỵ tan biến, bản thân mình an vui và mọi người cũng an vui.
Quảng Tánh

Trói mở do tâm

Trói mở do tâm

Đăng lúc: 08:36 - 28/03/2017

Giáo điển nhà Phật có câu “Nhất thiết duy tâm tạo”. Không nói đến nghĩa lý sâu xa của duy tâm, duy thức, chỉ hiểu một cách đơn giản là mọi việc đều lưu xuất từ tâm, trói hay mở cũng do tâm. Tâm khởi kiết sử tham lam, sân hận, si mê…; tâm vọng động thì lập tức liền bị ma trói buộc. Ngược lại, tâm không động, không dính mắc kiết sử phiền não thì ra ngoài cảnh giới ma; vượt thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, sầu, lo, khổ, não.

hoasen.jpg
Phiền não, khổ đau hay an vui, giải thoát do chính mình - Ảnh minh họa
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ngày xưa Thích-đề-hoàn-nhân bảo trời Ba mươi ba: Nếu lúc chư Hiền cùng A-tu-la chiến đấu, nếu A-tu-la chẳng bằng, chư Thiên thắng được, các ông hãy bắt A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la trói năm vòng mang đến đây!

Lúc đó A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la lại bảo các A-tu-la:

- Các khanh hôm nay cùng chư Thiên chiến đấu, nếu thắng được hãy trói Thích-đề-hoàn-nhân đưa đến đây!

Tỳ-kheo nên biết! Bấy giờ hai bên đánh nhau, chư Thiên thắng, A-tu-la thua, trời Ba mươi ba bắt A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la trói lại đem đến chỗ Thích-đề-hoàn-nhân, đặt ngoài trung môn, tự quán sát trói đủ năm vòng. Bấy giờ vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la liền nghĩ rằng: ‘Chư Thiên này có pháp chính đáng, còn A-tu-la hành phi pháp. Nay ta chẳng ưa làm A-tu-la’. Ngay đó vua liền ở trong cung các vị Trời. Khi đó, A-tu-la vương sanh niệm này: ‘Pháp chư Thiên chánh đáng, A-tu-la phi pháp. Tôi muốn trụ nơi đây’.

Nghĩ như vậy rồi, vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la liền biết thân mình chẳng còn bị trói, vui thú ngũ dục. Nếu vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la sanh niệm này: ‘Chư Thiên phi pháp, pháp A-tu-la chánh đáng. Ta không cần trời Ba mươi ba này, muốn trở về cung A-tu-la’, thì khi ấy thân vua A-tu-la liền bị trói năm vòng, ngũ dục vui thú tự nhiên tiêu diệt.

Tỳ-kheo nên biết, sự trói buộc mau chóng không gì hơn việc này. Bị ma trói buộc cũng mau hơn thế. Nếu khởi kiết sử, thì liền bị ma trói buộc; động thì ma trói buộc, không động thì không bị ma trói buộc. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên cầu phương tiện khiến tâm chẳng bị trói. Hãy ưa chỗ nhàn vắng. Sở dĩ như thế là vì các kiết sử này là cảnh giới ma. Nếu các Tỳ-kheo ở trong cảnh giới ma, thì trọn không thể giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết; chẳng thoát sầu, lo, khổ, não. Nay Ta nói về mé khổ này. Nếu lại có Tỳ-kheo tâm không di động, chẳng dính mắc các kiết sử, thì liền thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, sầu, lo, khổ, não. Nay Ta thuyết mé khổ này. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên học như vầy: không có kiết sử thì vượt ra khỏi cảnh giới ma. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 34.Đẳng kiến,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.350)

Lời Phật dạy thật rõ ràng. Vì tâm còn kiết sử phiền não, vọng động dấy khởi tham ái nên chúng ta bị ma trói buộc không thể giải thoát. Nếu tâm an trú chánh niệm không vọng động, tâm giác tỉnh chiếu soi phiền não quyết không dính mắc thì hành giả ra khỏi sanh tử.

Trói hay mở là do tâm. Tu tâm chính là giữ tâm không động (Định), không dính mắc phiền não (Tuệ). Theo kinh nghiệm của Thế Tôn, người tu mà có Chỉ, có Quán hay có Định, có Tuệ thì thành tựu giải thoát, đây chính là điều mà các Tỳ-kheo cần phải học.

Thế Tôn luôn cảnh tỉnh “Các Tỳ-kheo, nên cầu phương tiện khiến tâm chẳng bị trói. Hãy ưa chỗ nhàn vắng. Sở dĩ như thế là vì các kiết sử này là cảnh giới ma” và khuyến tấn “Các Tỳ-kheo! Nên học như vầy: không có kiết sử thì vượt ra khỏi cảnh giới ma”. Những lời dạy tha thiết ấy trải qua mấy ngàn năm vẫn luôn đồng vọng, nhắc chúng ta tu tập Giới-Định-Tuệ nhằm thoát khỏi trói buộc của ma, thành tựu giải thoát.
Quảng Tánh

Vũ điệu ý niệm trong cơn đau bản thể

Vũ điệu ý niệm trong cơn đau bản thể

Đăng lúc: 07:03 - 11/11/2015

Loài thỏ khoái cà rốt, nhưng nhiều lúc chúng vẫn ăn nhầm củ cải trắng bởi đeo kính màu. Khoa học cũng đưa ra hiện tượng “mù màu” khi con người nhìn về chân tướng vũ trụ; bắt đầu bằng những báo cáo về cấu tạo mắt của động vật.


Mỗi loài, qua sự lồi lõm tròng mắt sẽ quy định cái nhìn khác nhau; ngay trong cùng loài, mắt nhìn sự vật như một cái kính lồi, chỉ cần xê dịch tí xíu hiện tượng đã biến đổi. Để thấy, mỗi người đều nhìn sự vật hiện tượng qua con mắt của riêng mình không ai hoàn toàn giống ai. Năm đứa con, đều thấy mẹ mình tốt nhất, song sâu xa trong mỗi đứa đều lưu một hình ảnh mẹ khác xa. Công án Thiền về Tô Đông Pha. Sở dĩ họ Tô nhìn sư Phật Ấn ngồi thiền như một đống phân, đơn giản vì ngay lúc đó tâm thi/cư sĩ này nhơ bẩn; còn sư Phật Ấn nhìn Tô Đông Pha giống Phật, bởi tâm của sư tịnh sáng [như Phật].

Ở tầng cấp cao hơn, kinh Lăng Nghiêm mô tả về loài quỷ chạy bên bờ sông Hằng vẫn kêu gào khát cháy, vì ở cảnh giới của chúng nơi mênh mông nước ấy lại là sa mạc. Vấn đề đặt ra: Liệu ta đã hiểu về đối tượng mà mình có thói quen phán xét? Câu trả lời là không. Vợ chồng sống gắn bó từ lúc cưới đến đầu bạc nói hiểu nhau chân tơ kẻ tóc, thực tế họ chỉ hiểu phần tảng băng nổi. Khoa học cho biết mắt người chỉ thấy [hiểu] được 2000/400 tỉ = 1/200 triệu tức 0,0000005% thực tại. Tiến sĩ khoa học Joseph Dispenza: “Chúng ta chẳng biết gì về thực tại cả và tất cả cảm nhận về cái gọi là thực tại ngoài kia đều đã được sàng lọc qua các giác quan của con người. Não bộ xử lý 400 tỉ bit thông tin trong 1 giây nhưng chúng ta chỉ nhận biết được 2000 bit trong số đó”. Soi vào Phật pháp, ta chỉ cảm được phần tướng, còn tánh muốn thấy phải chứng ngộ, ngoài ra không còn cách nào khác.

Tánh là Tâm Phật. Tâm Phật vốn thâu toàn vũ trụ, câu thông với vạn thể. Về mặt tinh thần, chúng ta đang sử dụng vọng tâm chứ không phải chân tâm. Vọng tâm như sóng trên mặt biển không ngừng dao động, và nghiệp lực là dòng cuồng lưu phía dưới, nó dễ hợp với duyên (gió, bão…) tạo nên sóng thần, động đất. Còn thể xác chúng ta trên địa cầu nhỏ đến mức không thể so sánh với một hạt cát trong vũ trụ. Trong vũ trụ, vọng tâm lại biến hiện ra vô lượng vũ trụ khác. Chỉ lúc người tu đại ngộ mới thoát vọng tâm, trở về chân tâm, hiểu sơ đẳng giống như một người đang giữa trận cuồng phong tàn phá kinh hoàng, bỗng trời yên biển lặng. Như trong cơn ác mộng thức giấc, mồ hôi còn đầm đìa. Bỗng à lên, thì ra mơ. Sợ quá. Khiếp quá. Đây không phải so sánh, mà thật. Đại ngộ là tỉnh mộng. (Đại sư Vĩnh Gia: “Trong mộng rõ ràng có sáu cõi, tỉnh mộng rồi không cả đại thiên”).

Chúng sanh đều đang trong một giấc mộng lớn. Hãy kiểm thảo, hiếm ai trong mơ lại biết mình đang mơ. Vậy chúng ta đi đứng nằm ngồi, chúng ta véo mình thấy đau, sao gọi là mơ. Điều này Duy Thức Phật giáo giải thích cặn kẽ, hiện thời còn được ngành vật lý lượng tử minh tường. Chẳng hạn bóng đèn nê-ông bật sáng, dưới ánh nhìn khoa học thực nghiệm, ấy là sự tắt và đỏ của liên tục các điện tử nối tiếp. Trong Kinh còn nêu thí dụ, quay tròn ngọn đuốc, ta thấy một vòng lửa, thật ra đó là sự tương tục của vô vàn điểm nối ngọn đuốc với nhau, nhanh quá nên mắt thường không nhận ra. Trong phim nhân vật bước một bước, đó là sự nối ghép của 24 hình/1 giây.

Một giây, 24 hình tương tự [nối nhau] ẩn hiện đã lừa được nhục nhãn; huống hồ trong một giây vọng tâm phát xuất hàng tỉ ý niệm vi tế. Sự tiếp nối đó tạo nên vạn vật chuyển động. Chuyển động sinh năng lượng. Năng lượng sinh vật chất. Vẫn là mộng. Lúc ai nằm mơ, là mộng trong mộng, thậm chí trong mộng của mộng lại có mộng nữa, mộng đến khôn cùng. Địa ngục chính là những cơn ác mộng nối nhau không ngừng; nó là sự phản chiếu của nghiệp lực ta gây trong kiếp trước và kiếp này. Sự công bằng của con tạo khiến người đời không thể tin nổi. Tin, chính ở phước duyên sâu dày chủ yếu nhờ đời trước đã gieo nhân Phật pháp, đã tu.

Ta đều đang nhìn thấy một phần nhỏ chân lý tối thượng mà thôi. Trái đất lớn bằng ngôi sao, thì dải ngân hà có hàng tỉ ngôi sao; con người đã biết được mấy ngôi sao theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa (như vừa chân ướt chân ráo đặt lên sao Hỏa); nói gì đến trong vũ trụ có vô lượng tỉ tỉ dải ngân hà. Ta thiển cận về toàn thể vũ trụ như thế nào thì thiển cận với nhân sinh như vậy. Ngay đến thiên tài, họ cũng mới tận/sử dụng những tài năng phàm thường trong kho tàng vi diệu cuộc đời, và cũng thiển cận về bổn tâm mà thôi. Mỗi ta đều có chân/Phật tâm, cả vũ trụ nằm trong ấy, ta sẽ không hề chạm tới được [nếu chẳng nỗ lực tu hành]. A-lại-da thức chúng ta tích lũy vô vàn nghiệp lực thiện ác, dẫu qua bao nhiêu kiếp đầu thai đều y nguyên. Một lượng thông tin khổng lồ, lượng nghiệp lực khổng lồ “có hình tướng sẽ đầy cả hư không” nếu gặp duyên sẽ hiện cảnh quá lợi hại. Phật giảng: không ân oán, không đền nợ trả nợ đời trước sẽ không trở thành vợ chồng con cái trong kiếp này.

Là sự hút nhau tự nhiên như một dạng sóng cùng tần số. Trả nợ thì con hiếu thuận, đòi nợ thì con bất hiếu; thậm chí còn trường hợp, con ngoan hiền song ốm yếu bệnh tật, cha mẹ bán hết gia sản đến mạt vận, cũng là một cách đòi nợ! Duy hướng vào Phật pháp mới chuyển được nghiệp bất hiếu [từ kiếp trước] thành có hiếu [trong kiếp này]. Rồi nữa, một ngày bỗng gặp người lạ giúp đỡ mình, ngược lại lần đầu tiên gặp mặt người đã muốn đẩy ta đến đường cùng, đích thị duyên nợ từ tiền kiếp. Ta không nhận ra trước đã gây nhiễu gì cho họ; họ cũng không hề biết, song nghiệp lực trong tàng thức nó “có mắt”, biết nhận dạng do đó nó thôi thúc họ phải trả thù. Tuy nhiên, sự đòi nợ thường rất ít, gần như qua kiếp này oan gia chỉ đòi phần lãi (xóa phần nợ gốc). Đòi lãi, ta [do mờ nhân quả] nên tìm cách trả đũa mạnh bạo hơn, thế là dư báo! Chính ý nghĩ đòi lại “công bằng” là đầu mối của lục đạo, phần nhiều luân hồi trong cõi quỷ, cõi loài vật và địa ngục. Người giàu sang danh vọng, trước hết là nhờ sự quy đổi từ phước trong mạng nhiều đời; không hiểu không tin, ngỡ nhờ tài năng của mình nên mặc sức phình bản ngã tiêu pha hưởng thụ, mặc sức coi khinh những người yếu hèn nghèo đói; không dùng phước ấy làm phước, gặp đại họa, đời sau mang lông đội sừng...

Tiêu tiền hưởng thụ, vốn là tiêu phước. Phước mỏng dần nghiệp báo sẽ hiện, mà tai nạn, bệnh tật luôn là thước đo. Một nhân vật lừng danh, bỗng gặp nạn, thân liệt trí mờ, bấn loạn mộng mị triền miên; giữa lúc ngoài kia sản phẩm dán mác của họ vẫn ngồn ngộn đẻ ra tiền bạc. Họ chìm vào cõi cô đơn tận cùng cho tới lúc hồn dứt khỏi xác đau như “rùa sống lột mai”. Cũng khoan nói chuyện thức nhập thai loài gì. Thân mất, thức ấy không chịu quy định bởi vật chất thế gian nữa mà quy định bởi phước đức. Hãy tưởng đến cảnh thân vừa mất, ta thấy ngay xác mình nằm đó dần thối rữa. Ta biết mọi sự diễn ra, thấy họ hàng thân quyến đó lại bất lực trao đổi bất lực sờ chạm. Ta đói không ăn được đồ cúng kiếng ngon lành bốc khói; ta lạnh được cúng áo ấm đốt lửa vẫn lạnh, ta nóng [hồn] chui vào tủ đông vẫn nóng. Và nếu [linh hồn] vẫn chấp trước về quan tài đắt tiền, nấm mồ sang trọng, cái ngã sẽ giữ họ ở lại trong cảnh giới thân trung ấm chịu đau khổ bội bội lần thảm cảnh cuối đời, không thể siêu thăng lên cõi thanh bình.

Phật vô ngã. Chúng sanh sở ngã. Cái Ngã to đùng và nó không ngừng lớn mạnh theo chút tài sắc bé mọn. Ngã chấp càng lớn vô minh càng dày, càng che khuất phần minh tuệ trong căn mạng. Cống cao ngã mạn nhờ nói lưu loát vài thứ tiếng? Xin phép gạn ra lớp váng mê tín dị đoan để nêu sự thật: một người nông dân lúc lên đồng, vong nhập vào liền tuôn ra trôi chảy nhiều thứ tiếng. Lúc hồn kia xuất lập tức họ trở về sự thể ban đầu là người một chữ [ngoại ngữ] cắn đôi không biết! Đó dẫu sao vẫn là tục đế. Xét về chân đế, người chứng quả Thánh đầu tiên đã có thiên nhãn thông, nhìn thấu cảnh trời và địa ngục; chứng thêm nhị, tam, tứ quả liền thấu suốt ý nghĩ của bất cứ ai (Tha tâm thông), rồi Thần túc thông, hễ khởi ý niệm muốn tới đâu liền có mặt ở đó.

Người Niệm Phật đạt nhất tâm bất loạn có thể “tiền trạm” tới Tây phương Cực Lạc, thế giới của Vô Lượng Thọ, muốn bất cứ gì liền có nấy, không muốn tự biến mất. Nhưng trong nhà Phật không phải khuyên tu để đạt những thứ ấy đi lòe thiên hạ. Những vị chứng càng cao, chúng ta sẽ càng không thể biết! Người được xem và tự cho mình thông minh tỉnh táo hơn các bậc đại đạo sư, cho mình luôn làm chủ bản thân, thực chất nhầm lẫn. Khiến tự ngã thêm lớn. Một khi ta không ít nhất sai khiến được tập khí phiền não, đơn giản và cụ thể như không làm chủ không hóa giải nổi cơn nóng giận, là đang sống trong sự lôi dẫn của nghiệp lực. Con người sống bằng vọng tâm, gọi đúng danh từ là con rối của nghiệp lực.
Chúng ta có mặt trên đời bởi sự hội tụ kết tinh nghiệp từ tiền kiếp. Có những đứa trẻ mở mắt sống chưa bao lâu đã nhận ngay nghiệp dữ quá khứ; lý do khiến người đời thường gọi “trời không có mắt” gây oan giá họa.

Thực tế nhân quả tơ hào không sai. Lộ trình từ nhân tới quả biến hóa khôn lường; quả có thể méo mó biến dạng khiến ta không nhận ra, tuy nhiên hiển nhiên nhân xấu đã gieo, không sớm thì muộn quả xấu sẽ ập đến. Thường tội lỗi [nhân đời trước] chưa hiện, ta lớn dần theo cái nhìn và ý nghĩ của gia đình; lớn thêm bị quy định thêm qua tâm thái nhìn nhận của bè bạn, xóm làng; với những người nổi tiếng họ còn “nối mạng tư tưởng” với rất nhiều người trên địa cầu. Ý niệm câu thông khắp vũ trụ, còn mạnh hơn bất kỳ loại sóng nào khoa học từng khám phá. Khoa học, với những mệnh đề kiểu như “hiệu ứng cánh bướm” đã trở lên dễ hiểu. Do vậy ý niệm là yếu tố tiên quyết làm nền móng tương lai mỗi sinh mệnh. Lúc thai nhi hình thành phải được thai giáo. Người mẹ chẳng những nên sống trong một không gian nền nếp khuôn phép không có tạp âm mà ngay đến ý nghĩ của mình cũng luôn thiện lương hòa ái. Ý niệm là mấu chốt gieo nên nghiệp lực [xấu ác] mạnh mẽ nhất.

Tin nhân quả là điều trọng yếu. Tin nhân quả là bước đầu làm chủ vận mạng. Nhân quả phải là bài học đầu tiên và xuyên suốt đời người. Được giáo dục về nhân quả, đứa trẻ sẽ không nghĩ/nói xấu ác, vu oan giá họa cho ai, sẽ không ăn cắp ăn trộm thứ không phải của mình, lớn lên sẽ không sa đà rượu chè hút chích, sẽ không tà niệm với kẻ ngoài vợ mình. Đứa trẻ từ nhỏ được dạy không sát hại động vật kể cả côn trùng muỗi kiến, ngược lại còn yêu thương động vật từ mèo chó trong nhà đến những loài vật hoang trong rừng, làm sao chúng có thể khởi ý niệm hại [giết] người cho được. Nhân quả cũng giống như giới luật. Sống trong nhân quả tức đang sống trong một không gian thanh tịnh. Ta chưa hề thấy cố nội, qua ảnh cũng không, nhưng chắc chắn tin có cố nội. Có cố mới có ông, có ông mới có cha,… Nhân quả đời trước cũng vậy, ta không thấy song phải tin sâu sắc. Phật dạy nhân quả xuyên ba đời.

Tin chắc tất cả mọi sự việc không như ý gặp phải tuyệt đối chẳng ngẫu nhiên, mà do nhân từ đời trước, phải tin và quán, và quán như thế mới không khởi tâm oán hận người đã gây hại cho mình, không khởi tâm báo thù trả đũa. Người kia gây hại dù lớn đến đâu sẽ có nhân quả vũ trụ quản lý, sẽ bị báo ứng trừng trị chẳng sớm thì muộn, chớ bao giờ khởi niệm "thay trời hành đạo", muốn chỉnh sửa, giáo huấn, trừng trị y. Khởi ý niệm này nguy hiểm vô cùng, trước hết là gây tổn phước báu cho mình, nữa là làm cho mạng lưới nhân duyên cộng đồng cũng bị tổn hại và chính ta lúc mạng chung sẽ lọt vào đọa xứ. Chưa hết, khởi loại ý niệm này các oan gia trái chủ vô hình trong nhiều đời sẽ có dịp thuận tiện càng tác ý giúp thêm cho ý niệm xấu của ta mãnh liệt. Mỗi người cơ bản đều có số lượng lớn oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp âm thầm theo sát; nhờ phước ta còn dày, họ chưa thể làm gì; không tu phần đông nghiệp sẽ nhào tới lúc lâm chung. Nhớ hồi học đại học, tôi luôn mua thức ăn của một dì bán thịt heo đã ba chục năm. Bẵng đi rất lâu, một ngày hay tin dì bị ung thư, tôi liền tới thăm.

Dì nói thường thấy ai cầm dao băm chặt dưới chân... Thật mừng, những ngày cuối đời dì được đạo hữu gần đó khuyên niệm Phật, lúc tôi đến thăm dì còn bảo đọc Chú Đại Bi cho dì nghe... Có người khác, cận kề cái chết đã thấy rành rành oan gia nghiệp báo, sợ đến biến dạng mặt mày lật mình xuống giường, mà nào có trốn được. Pháp gọi hiện tượng này là hoa báo; hoa báo hiệu cho quả phía bên kia đời. Lúc sống, ai từng vùng mình khỏi cơn ác mộng (như bị truy đuổi chém giết, bị tra tấn hành hạ…), sẽ cảm được chút ít về địa ngục. Hơn thế, trí não ta chỉ mới tưởng đến cảnh hành lạc, tưởng đến cảnh sẽ phương hại “kẻ thù” như thế nào, vào địa ngục cũng hiện lên như vậy để thọ nhận. Bạn trong đời không đánh đập ai, song đã từng giết một con cá hay bất kỳ loài vật nào như thế nào, lúc mất thân, hồn vào địa ngục sẽ [hiện] chịu lại nỗi đau như thế; chủ tâm giết tổ kiến từng con từng con, vào hỏa đồ nhận lại như vậy. Ở đời cắt xẻ thịt động vật chiên xào ra sao, vào địa ngục ta bị chặt khúc rán lên như vậy. Đây chỉ là điểm xuyến thoáng qua cảnh tượng nhân quả điệp trùng Phật thuyết trong kinh Địa Tạng.

Đau đớn đến trời đất cũng ứa máu! Biết làm sao. Nghiệp ấy tự tạo tự chịu, không ai quy định cả. Đó là quy luật vĩnh hằng trong vũ trụ, người phát hiện ra chính là Phật. Phật nói lên sự thật, ai không tin đành thọ nghiệp dữ. Một sự thật quá thảm, sự thật vượt khỏi lối suy niệm thông thường, nên nó trở thành hoang đường. Nhưng cái hoang đường đó vẫn thường ngày nhỡn tiền sống động trong nhân sinh thế tục, sống động tuyệt đỉnh trong mắt của bậc chân tu.

Nhân quả hữu hình đã vậy, nhân quả vô hình quả đáng sợ biết báo - đó là Ý Niệm. Ý niệm cũng có đồng minh bè phái. Ý niệm xấu khởi ra, lập tức chiêu cảm cùng loại cuộn về như lốc tố, chiêu cảm các ác niệm cùng loại của các ác thần ác quỷ, la sát. Ngược lại ta khởi tâm lành, nhẫn nhục, tha thứ cho đối phương thì nghiệp chướng tiêu nhanh, sức khỏe ngày càng kiện khang trường thọ. Trong nhiều buổi giảng cho Phật tử và giới trí thức, tiến sĩ Nguyễn Tường Bách cũng đặc biệt nhấn mạnh điều này. Các bậc đại đức hiện thời thì kết hợp với những khám phá của khoa học để hướng người đời cứu thế giới bằng việc giữ ý niệm thiện, thay thế và loại trừ tà niệm.

Ai không tin có thể đặt hai bát cơm, hai bát nước, hai loại trái cây hay bất cứ “vật vô tri” nào ở hai căn phòng, một nghĩ xấu về nó, một phát ý nghĩ yêu thương, một thời gian sẽ thấy thứ vô tri đó biến đổi thế nào, tươi ngon hay thối úng. Xin mở ngoặc, chỉ phát ý niệm thiện hay ác là đủ, không cần chưởi rủa hay nói lời yêu thương. Những loại “vô tri” trên sẽ [bắt sóng] hiểu và biến đổi theo ý niệm của chúng ta. Qua đây cũng cho thấy ý niệm phát từ tâm mới trọng yếu, trí não sẽ nhận tín hiệu sau đó mới sai sử chân tay miệng tạo tác. Ý niệm chính là nhiên liệu tạo nên bản chất mỗi người. Nếu ý niệm không thể hiện ra chân tay miệng, bề ngoài trong đời sống y không làm hại ai song chớ nhầm tưởng y thiện lương. Trong tâm y mang ý niệm sân hận, luôn muốn người ấy người kia sớm thân bại danh liệt mau già mau chết; và bởi góp vào vũ trụ loại từ trường cực xấu, chẳng những y hại một người mà còn [góp phần] hại đến cả nhân loại. Thầy Tuệ Hải trong một buổi giảng về Nhân Quả có đoạn:

"Theo kinh Địa Tạng, chúng ta chỉ cần tác ý liền có nhân quả. Mỗi khi mình nghĩ tốt, sẽ tạo một dạng sóng trường tốt đưa ra vũ trụ, nghĩ xấu sẽ tạo sóng trường xấu mang theo một dạng màu. Nghĩ thiện lành sẽ cho ra màu trong sáng, êm ái nhẹ nhàng, đi hoài trong không gian không mất, thứ hai cái sóng trường thanh bình đó sẽ chạm tới các cõi có chúng sanh đau khổ, khiến được mát dịu; ta được nhận ngay phước. Nhưng mỗi lần sân si nghĩ xấu, sẽ tạo một sóng trường bất an mang theo khí xấu, mang theo sự khó chịu cho người, khiến ta tổn phước. Thử lắng tâm nghĩ xấu đến ai, là họ cảm giác khó chịu khi nghĩ tới mình liền… Trong Kinh nói nhất niệm xuyên tam giới là sự thật. Một ý niệm chúng ta đi khắp tam giới chứ không phải chỉ tới một vài người bình thường; và trong khoảng cách từ mình đến đối phương còn có rất nhiều cõi, nhiều loài chạm phải, thì đã có nghiệp, có quả báo dành cho ta rồi”.

Nên nghĩ tốt về người. Loại ra những điều xấu của người và thay bằng những lời nói, cử chỉ tốt của họ dẫu chỉ là tí ti. Hành giả Tịnh tông, không cứ thiện ác, cứ phát tâm từ ái niệm (tai nghe rõ) “A Di Đà Phật” ắt lợi đôi đường cả Đời lẫn Đạo. Sao niệm Phật tai phải nghe rõ từng chữ? Bởi niệm Phật (dẫu là niệm thầm) tai không nghe là miệng niệm chứ không phải tâm niệm, cũng bằng ta đang nhờ người khác niệm hộ; để tâm ta nhảy múa vũ điệu tập khí trần ai.

Niệm Phật tai không chịu lắng nghe [câu mình niệm] là tu bề ngoài, chỉ ngửi mùi chứ không thực được ăn món ấy. Niệm Phật như vậy miệng niệm nhưng tâm vẫn nhìn lỗi thế gian, đu theo mà phê bình hê hả. Lục tổ Huệ Năng khuyến “bậc chân tu không nhìn lỗi thế gian”. Người tu nào còn tin Ngài, với lời khai thị này hẳn phải chạm khắc vào máu huyết. Còn nhìn lỗi thế gian, nên hiểu ngay [lúc đó] chưa phải chân tu! Khoa học lượng tử lúc thấu tỏ lý này quả thực thấy… đau đầu; cuối cùng đưa ra hướng giải quyết thật khế hợp với tinh thần kinh điển: Thay vì chống chiến tranh, hãy ủng hộ hòa bình.

Tu, trước nhất ở Tâm; là sự thay thế ý niệm, khiến mọi vọng niệm thế gian quy về chân niệm. Mức thấp nhất, hễ nghĩ ác nghĩ xấu lập tức biết để thay vào những ý nghĩ thiện. Ý nghĩ chuyển, hành vi mới chuyển. Người lo chuyển hành vi lại không chuyển ý niệm là gãi ngứa ngoài dày, đầu đội đất chân đòi đạp trời. Hãy hướng vào nội giới, hướng vào kiểm thảo từng ý niệm tung hoành tạo tác trong tâm. Hãy nhìn lỗi mình sửa lỗi mình, chớ nhìn lỗi người lo sửa lỗi người trong lúc mình [soi gương tạo dáng nhiều] lại nhìn bản tâm quá ít. Hễ thấy anh kia rượu chè phè phỡn là chê bai bại hoại, lại không nhìn mình đóng cổng tà hạnh (ở đây chỉ nhấn mạnh việc quá mức với vợ, chưa cần mở đến dan díu bóng hồng). Thấy bà kia nhiều chuyện lại không thấy mình nịnh nọt bợ đỡ.

Thấy kẻ tham ăn lại không thấy mình tham ngủ nghỉ, tham quyền cố vị. Thấy người gặp nạn liền cho chắc hắn ở cơ quan sống chẳng ra gì, lại không nhìn nhân xấu mình thường gieo và ngay vừa khởi cái ý niệm hả hê đó... Quán sâu sắc chân lý tuyệt đối, rằng ta chỉ hiểu người được một phần tỉ tỉ, không thể khởi ý niệm phê bình. Thế gian chẳng thiếu hàng Bồ tát nghịch hạnh, những vị Phật thị hiện tướng “ác” tùy duyên độ cho những chúng sanh đặc biệt, ta không biết nên cứ mặc nhiên phạm thượng chư Phật và Bồ tát. Một vị Tổ khuyên xem tất cả chúng sanh đều là Phật, ngoại trừ ta [là phàm phu]. Tâm đạt đến mức này mới mong về nước Phật.

Tâm đạt chuyên nhất tinh ròng niệm câu hồng danh “A Di Đà Phật”, mới mong rời Ta bà về Cực Lạc. Tâm loạn, cần dụ tâm niệm theo chuỗi 5 hoặc 10 câu hoặc bao câu tùy, cứ niệm hết một chuỗi liền quay lại từ đầu. Không nên niệm một câu thì đếm một, mà phải dụng tâm nhớ. Niệm một chuỗi 9 câu, thì cứ ước niệm 3 câu, rồi 3 câu, rồi 3 câu nữa - xong một chuỗi. Hễ nhận thấy, ồ ta niệm đến câu thứ mấy [trong 9 câu] rồi, đó là vọng đang trỗi, phải xóa ngay vòng đó niệm lại từ đầu. Ta lạc vào một nơi có trường lực xấu, có sao khi trong tâm cứ niệm Phật.

Ta phải sống trong ngôi nhà trái phong thủy, hay ngôi miếu được cho nhiều ma quỷ chướng khí, có sao, cứ niệm Phật. Sóng phát ra từ câu “A Di Đà Phật” là siêu thiệu, ta vô nhiễm lại thanh lọc được cả không gian rộng lớn. Tu như vậy có đơn giản? Thực tế hiếm có pháp nào trong tám vạn bốn ngàn pháp môn đơn giản hơn. Kết quả lại quá tối thắng. Trên thế gian nhiều hành giả niệm “A Di Đà Phật” biết trước ngày giờ được về nước Phật trước ba ngày, trước ba tháng, trước nhiều năm. Đúng ngày giờ Phật hẹn (mà đương sự đã thông báo với đại chúng trước đó), hành giả không bệnh tật, tỉnh táo niệm Phật mà đi, để lại thân tướng sáng rỡ. Sự này, không lời tôn vinh nào đủ xứng đáng, đành phải dùng cụm từ: “Không thể nghĩ bàn”.

Điều đơn giản nhất cũng là thâm mật. Sao phải niệm Phật?, bởi đó mới chính đang làm chủ nghiệp lực, làm chủ vận mạng. Còn không chúng ta sống bởi sự hội tụ của tất cả ý niệm từ vô vàn người quen; kể cả những người thân nhất - cũng đang làm hại ta! Hiển nhiên. Một đứa con hư, ta liền chì chiết đồ bất hiếu nghịch tử, lúc nào cũng ý nghĩ này, và câu này sẽ phát ngay hễ nó bỗng phạm một lỗi khác. Một kẻ phạm tội ăn trộm vào trại giam, được ân xá về quê; anh ta thay đổi hoàn lương, song đến nhà bạn, bạn có đề phòng? có cất ngay ví tiền và những đồ quý trước lúc xuống nhà dưới. Tâm đề phòng xuất phát từ ý nghĩ trong tâm đen, rằng hắn, kẻ ăn trộm.

Tên ăn trộm, hãy đề phòng! Ý niệm này đã xuyên vào bản thể anh ta khơi dậy hạt giống nhòm ngó tài vật của người. Bỏ qua đức tính tốt của người, cứ chăm chăm nhìn lỗi, ý nghĩ xấu này sẽ góp phần bồi đắp lỗi thành bản chất, và dĩ nhiên nó sẽ phương hại chính mình. Từ trường ý niệm chẳng khác lúc ta hét vào một hang động, rồi nó sẽ dội lại chính ta. Cứ tưởng đến cảnh tay hốt rác vứt qua hàng xóm, sẽ biết ngay tay mình dơ trước; hay đó là cảnh ngậm máu phun người theo cách diễn của triết lý dân gian, sẽ hiểu. Tâm chao đảo, nhân loại trên trái đất và vũ trụ hiện từ cõi mê chao đảo.

Bậc chân tu thường ngày vẫn miên mật hạ thủ công phu lấy đó hồi hướng cho những người Đức Phật gọi với tận cùng tình thương yêu là “đáng thương xót”, nhưng dẫu sao vẫn là cứu vãn tình thế, trong lúc gốc bệnh của chúng sanh không ngừng gia tăng thông qua cấp số nhân của ý niệm bất chánh. Đây, là nguyên nhân sâu xa khiến ngay đến bậc đại triệt đại ngộ với năng lực vô biên cũng đành “bó tay”, không thể ngày một ngày hai cứu nổi chúng sanh thoát Lục Đạo.

Mỗi câu chuyện một bài học (hay)

Mỗi câu chuyện một bài học (hay)

Đăng lúc: 20:20 - 05/07/2015

Đôi lúc bạn cứ khăng khăng rằng chuyện này phải làm thế này mới là đúng, nhưng đôi khi người khác lại không nghĩ thế, hãy đặt bản thân mình vào vị trí của đối phương, bạn sẽ có được những suy nghĩ mới, biết đâu khi đó bạn chợt “tỉnh ngộ” và thốt lên “à thì ra là thế”.

cay-du

Mượn dù

Một ngày kia, Khổng Tử đi ra ngoài, bỗng trời muốn đổ mưa, nhưng ông không có mang theo dù, có người kiến nghị rằng: “Tử Hạ có dù, thầy có thể mượn của Tử Hạ”.

Khổng Tử vừa nghe xong, liền nói: “Không được, con người của Tử Hạ vốn rất keo kiệt, nếu như Thầy mượn mà y không cho, người khác sẽ trách móc rằng y không tôn trọng thầy của mình; còn nếu đưa cho thầy, trong lòng y nhất định sẽ khó chịu”.

Giao thiệp với người ta, thì cần phải hiểu rõ khuyết điểm lẫn ưu điểm của ngươi ta thì mới được, đừng có bao giờ khuấy động hoặc đùa cợt với khuyết điểm của họ, nếu không thì tình cảm của đôi bên sẽ không thể kéo dài được.

Thỉnh kinh

Ngựa và lừa nghe nói Đường Tăng sẽ đi Tây Thiên thỉnh kinh, con lừa cảm thấy chuyến đi này khó nạn trùng trùng, liền bỏ cuộc; còn ngựa thì lập tức đuổi theo sau, trải qua 81 kiếp nạn, cuối cùng đã thỉnh được chân Kinh trở về.

Con lừa hỏi: “Người anh em, có phải là rất vất vả không?”.

Ngựa nói: “Kỳ thực, trong khoảng thời gian tôi đi sang Tây Thiên thỉnh kinh, con đường mà cậu đi nếu đem so với tôi thì cũng không kém cạnh gì, ngoài ra cậu còn bị người ta bịt mắt, đánh đập. Thật ra, tôi thấy sống những tháng ngày không có lý tưởng thì còn mệt mỏi hơn”.

Mệt mỏi thật sự đến từ sự vô tri và mê mờ trong tâm của mỗi người.

Đậu xe

Trụ sở chính của công ty Volvo Thụy Sĩ có hơn hai nghìn chỗ đậu xe, những người đến sớm luôn đậu xe ở khu vực cách xa văn phòng làm việc nhất, mỗi ngày đều như vậy cả.

Một người hỏi: “Chỗ đậu xe của các vị là cố định hay sao?”.

Họ trả lời: “Chúng tôi đến tương đối sớm, có thời gian thì hãy đi bộ nhiều một chút. Các đồng nghiệp đến muộn hoặc đến trễ, họ nên là những người cần được đậu xe ở gần văn phòng làm việc hơn”.

Khi ta nghĩ nhiều đến người khác, con đường đi được sẽ nhiều và xa hơn.

chia-khoa

Hợp tác

Một ngày nọ, đêm khuya thanh vắng, ổ khóa gọi chìa khóa dậy, rồi oán trách: “Tôi mỗi ngày phải vất vả cực nhọc mà canh gác nhà cửa cho chủ nhân, vậy mà chủ nhân chỉ thích cậu thôi, lúc nào cũng mang cậu theo bên mình, thật là ngưỡng mộ cậu quá!”

Thế là chìa khóa cũng bất mãn, nói: “Cậu mỗi ngày chỉ ngồi ở nhà chờ đợi, thật là an nhàn thoải mái biết bao! Còn tôi hàng ngày phải đi theo chủ nhân, dầm mưa dãi nắng, khổ sở biết chừng nào! Mình phải hâm mộ cậu thì đúng hơn”.

Một lần kia, chiếc chìa khóa cũng muốn được sống những tháng ngày an nhàn, thế là liền giấu bản thân mình vào chỗ khác. Người chủ sau khi trở về thì không thấy chìa khóa đâu cả, trong lúc bực bội đã kêu thợ đến phá khóa, rồi tiện tay quăng luôn ổ khóa vào đống rác.

Sau khi vào nhà, chủ nhà đã tìm thấy chiếc chìa khóa, tức giận nói: “Ổ khóa cũng đã đập bỏ rồi, bây giờ giữ ngươi lại thì còn có ích gì nữa”. Nói xong, ông cũng tiện tay quăng chiếc chìa khóa vào trong đống rác.

Ở trong đống rác, ổ khóa và chìa khóa gặp nhau, bất giác tự cảm thán rằng: “Hôm nay, chúng ta rơi vào tình cảnh này, đều vì trong quá khứ, chúng ta không có nhìn thấy giá trị và phó xuất của đối phương, mà chỉ biết đứng núi này trông núi nọ, đôi bên chỉ biết so đo tính toán, đố kỵ và ngờ vực lẫn nhau”.

Rất nhiều lúc, mối quan hệ giữa con người với nhau đều là bổ sung cho nhau, những cuộc cãi vã, tranh đấu chỉ có thể mang lại thương tổn cho đôi bên, chỉ có phối hợp với nhau, tán thưởng, đoàn kết, ủng hộ, tín nhiệm, trân quý nhau, chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hợp tác thành công được.

Tiểu Thiện

“Người mù thắp đèn, phí dầu chăng?”

“Người mù thắp đèn, phí dầu chăng?”

Đăng lúc: 19:39 - 13/06/2015

Phật tính cũng giống như một ngọn đèn, chỉ cần ta thắp sáng nó, dù cho ta không nhìn thấy Phật, thì Phật cũng sẽ nhìn thấy ta.

thien3

Trong màn đêm tối đen như mực, có một vị tăng nhân tu khổ hạnh bôn ba nghìn dặm tìm Phật, đến một ngôi làng hoang vắng, trên đường xá tối đen như mực, người dân trong làng đang đi đi lại lại rất tấp nập.

Khổ hạnh tăng đi đến một con hẻm nhỏ, ông trông thấy một chiếc đèn lồng sáng choang, từ nơi sâu thẳm trong một con hẻm vắng lặng, từ từ chiếu rọi qua đây. Một người trong thôn la lên: “Thằng mù đến rồi kìa!”.

“Mù ư?“, khổ hạnh tăng sửng sốt, ông hỏi một thôn dân bên cạnh : “Người xách chiếc lồng đèn kia có thật là bị mù không?”.

Người đàn ông gật đầu khẳng định.

Vị tăng nhân khổ hạnh nghĩ mãi nhưng vẫn nghĩ không ra, một người đã bị mù cả hai mắt, anh ta vốn dĩ không có khái niệm ngày hay đêm, anh không nhìn thấy sông chảy từ núi cao, cũng không được xem phong cảnh hữu tình cùng vạn sự vạn vật trên thế gian, thậm chí anh còn không biết ánh đèn là như thế nào, vậy anh ta xách theo chiếc đèn lồng, không phải khiến người ta cười chê sao?

Chiếc đèn lồng đó càng lúc càng đến gần, ánh đèn sáng choang, từ từ trong con hẻm tiến đến, chiếu sáng lên đôi giày của vị tăng nhân. Vị tăng nhân nghĩ mãi nhưng vẫn nghĩ không ra, nên bèn hỏi: “Dám hỏi thí chủ, cậu có thật là một người mù không ?”.

Chàng trai mù xách theo ngọn đèn lồng trả lời: “Đúng vậy, từ khi đến thế gian này, hai mắt tôi đã không trông thấy gì nữa”.

Vị tăng nhân hỏi: “Nếu cậu đã không trông thấy gì cả, vậy tại sao lại xách theo chiếc đèn lồng?”.

Chàng trai mù đáp: “Bây giờ là buổi tối phải không? Tôi nghe nói, trong màn đêm mà không có ánh đèn chiếu sáng, vậy thì mọi người trên thế gian này cũng đều sẽ giống như tôi, không trông thấy gì cả, vậy nên tôi đã thắp một ngọn đèn”.

Vị tăng nhân dường như có phần hiểu ra, nói: “Thì ra cậu là vì muốn chiếu sáng cho những người khác?”.

Thế nhưng, chàng trai mù lại nói: “Không, tôi là vì chính mình”.

“Vì chính cậu ư?”, vị tăng nhân lại càng sửng sốt.

Chàng trai mù chậm rãi nói: “Ông có bao giờ đi trong đêm tối, mà bị những người đi đường khác đụng phải chưa?”.

Vị tăng nhân nói: “Đúng vậy, cũng như lúc nãy, tôi không có để ý nên đã bị hai người khác đụng phải“.

Chàng trai mù nghe xong, trầm lặng nói: “Nhưng tôi thì lại không bị, tuy tôi là kẻ mù, cái gì tôi cũng không trông thấy, nhưng tôi xách theo chiếc đèn lồng này, vừa để soi sáng đường cho những người khác, nhưng quan trọng hơn là để người khác trông thấy tôi. Như vậy, họ sẽ không vì không trông thấy mà đụng phải tôi”.

Khổ hạnh tăng nghe xong, lập tức ngộ ra. Ông ngửa mặt lên trời thở dài, nói: “Ta đã đi khắp chân trời góc biển, bôn ba nghìn dặm tìm Phật, thật không ngờ rằng Phật đang ở bên cạnh ta. Thì ra, Phật tính cũng giống như một ngọn đèn, chỉ cần ta thắp sáng nó, dù cho ta không nhìn thấy Phật, thì Phật cũng sẽ nhìn thấy ta thôi!”.

Thế nên, vì người khác, hãy thắp sáng ngọn đèn sinh mệnh của chính mình! Như vậy, trong bóng đêm của đời người, chúng ta mới có thể tìm thấy bình an và sự chói lọi của chính mình.



Tiểu Thiện, dịch từ Epoch Times

Thân và tâm cái nào quan trọng?

Thân và tâm cái nào quan trọng?

Đăng lúc: 22:41 - 04/06/2015

Thân và tâm, tức thể xác và tinh thần, cái nào quan trọng hơn? Đa số chúng ta thường lo cho thể xác hay lo cho tinh thần? Chúng ta ai cũng lo cho thân làm sao được sạch đẹp, sung mãn, đầy đủ; còn phần tinh thần ít ai quan tâm tới. Nhưng thử hỏi, chúng ta lo cho thể xác được sung mãn, đầy đủ thì nó có bền bỉ, lâu dài được không? Rất tiếc, dù ta lo cho nó cách mấy thì thân này cũng phải già-bệnh-chết.


Ta lo cho thân đầy đủ để rồi ngày mai nó sẽ mất. Vậy lo cho thân như thế là mình khôn hay dại? Ấy vậy mà ai cũng lo, lo giữ cái không thể bền bỉ, lâu dài mà vô tâm, không để ý đến phần chủ động để mặc tình nó ra sao thì ra. Chúng ta hành động như vậy là sáng suốt hay si mê? Ta nào là lo nhà cửa, lo cơm ăn áo mặc, lo tiền bạc của cải làm sao cho có thật nhiều; nhưng khi nhắm mắt ta chỉ mang theo nghiệp tốt hoặc xấu, tất cả những thứ đó ta đều phải bỏ lại hết, mà nghiệp tốt hay xấu là do tâm tạo tác mà ra.
Khi muốn làm gì thì ý phải nghĩ trước rồi thân này mới hành động. Tinh thần là cái chỉ huy, sắp đặt mọi việc trong cuộc sống nên chúng ta phải làm sao lo cho nó được thánh thiện, tốt đẹp, cao quý mới phải. Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
Lâu nay chúng ta cho thân người là thật, tâm suy tư nghĩ tưởng cũng là thật. Do mê lầm, chấp chặt như vậy nên chúng ta cứ lo tìm cách gom góp tài sản, của cải cho mình và con cháu mai sau. Đầu tiên ta chấp cảnh, sau mình chấp thân và tâm là thường, là ngã.
Vì tình chấp như thế nên Phật dạy thân người do bốn chất đất-nước-gió-lửa giả hợp mà có, song bốn chất này thường xung khắc nhau; đất ngăn ngại nước, nước xói mòn đất, nước làm tắt lửa, gió thổi thì đất rung rinh. Chúng xung khắc mà phải hợp lại nên thường sanh ra những hiện tượng bất hòa như đau yếu, bệnh hoạn. Khi chúng không dung hợp nhau được nữa thì tan rã, tứ đại phân ly; nên mới nói “có thân là có khổ”. Ai cũng có thể biết vậy nhưng làm việc gì cũng lo cho thân, ăn uống bồi bổ cũng vì thân.
Thân chúng ta những chất cứng như da, thịt, gân, xương, tóc, răng thuộc về đất. Những chất lỏng như máu, mủ, mồ hôi, nước mắt thuộc về nước. Những vật có tính động như hơi thở vô, hơi thở ra thuộc về gió. Nhiệt độ trong thân như hơi ấm thuộc về lửa.
Khoa học hiện đại ngày nay phân tích thân người có hằng hà vô số tế bào, song cũng từ bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp thành. Từ lâu chúng ta lầm tưởng thân này là thật tôi, là của tôi, rồi cứ chấp chặt vào đó. Nếu ai đụng chạm đến “cái tôi” này thì ta liền phản ứng chống trả lại hoặc tìm đủ mọi cách để bảo vệ, vun bồi cho nó được đầy đủ, thỏa mãn.
Nhưng với tuệ giác của Phật thì Ngài thấy rõ thân do đất-nước-gió-lửa hợp lại mà thành, nếu thiếu một trong bốn chất ấy thì thân này tan rã. Song, mỗi ngày chúng ta muốn duy trì thân để được tồn tại phải ăn cơm, uống nước, hít thở không khí. Cứ thế ta vay mượn đất-nước-gió-lửa bên ngoài để bồi bổ, thay thế cho đất-nước-gió-lửa bên trong. Suốt cả cuộc đời chúng ta sống bằng sự vay mượn liên tục, khi hết vay mượn thì mạng sống dừng.
Hơi thở trả về với gió. Hơi ấm trả về với lửa. Máu, nước miếng, nước mắt trả về với nước. Da, thịt, gân xương trả về với đất. Tất cả đều rã tan, trở thành một cái xác thúi chẳng còn gì gọi là thân mạng nữa. Vậy mà ai cũng cố tâm lo cho chúng mà quên hẳn phần tinh thần.


Thích Đạt ma Phổ Giác

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 9
  • Hôm nay 4,369
  • Tháng hiện tại 63,294
  • Tổng lượt truy cập 23,469,543