Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
VG (8)

TP.HCM: Trọng thể lễ mit-tinh kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN

Đăng lúc: 11:13 - 05/11/2016

Đông đảo quý khách, Tăng Ni, Phật tử đến Việt Nam Quốc Tự, quận 10, TP.HCM tham dự lễ mit-tinh kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN (7-11-1981 – 7-11-2016) diễn ra trọng thể do Trung ương Giáo hội kết hợp Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM tổ chức vào sáng nay, 5-11.

aaa (3).JPG
Chư tôn đức niêm hương tạ Tam bảo

aaa (4).JPG
Tại chánh điện mới của Công trình Việt Nam Quốc Tự
Dự lễ mit-tinh có sự hiện diện chư tôn giáo phẩm: HT.Thích Đức Nghiệp, Phó Pháp chủ HĐCM; HT.Thích Trí Quảng, Phó Pháp chủ HĐCM, Trưởng ban Trị sự PG TP.HCM, Trưởng ban Tổ chức Đại lễ tại TP.HCM và chư tôn đức HĐCM; HT.Yoshimizu Daichi, nguyên Hội trưởng Hội Tịnh độ tông - Nhật Bản; HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS GHPGVN, cùng chư tôn đức Ban Thường trực HĐTS GHPGVN, Văn phòng II TƯGH; ban, viện T.Ư; BTS PG TP.HCM, BTS PG các tỉnh, thành; BTS PG quận, huyện, Tăng Ni sinh Học viện PGVN tại TP.HCM, Trường TCPH TP, chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử các tự viện TP.HCM tham dự.

Đại diện các cơ quan ban, ngành có sự hiện diện của ông Trương Tấn Sang, nguyên Chủ tịch nước CHXHCNVN; Thượng tướng Phạm Dũng, Thứ trưởng Bộ Công an; Lê Thanh Hải, nguyên UV Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy TP.HCM; bà Võ Thị Dung, Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM; ông Đỗ Văn Phớn, Phó Vụ trưởng Vụ Tôn giáo Ban Dân vận T.Ư; Võ Văn Thiện, Trưởng ban Công tác phía Nam - Ủy ban T.ƯMTTQVN; Huỳnh Cách Mạng, Phó Chủ tịch UBND TP; bà Nguyễn Thị Lệ, Trưởng ban Dân vận Thành ủy TP; ông Nguyễn Hoàng Năng, Chủ tịch UBMTTQVN TP; Phạm Quang Đồng, Trưởng ban Tôn giáo TP; Đặng Quốc Toàn, Bí thư Quận ủy Q.10, đại diện các tôn giáo bạn, cùng đại diện các ban, ngành đoàn thể TP, Q.10.

Tri ân Tam bảo, chư tôn đức tiền bối hữu công, trước khi chính thức khai mạc lễ mit-tinh, chư tôn đức giáo phẩm đã niêm hương trước tôn tượng Đức Bổn sư Thích Ca tại chánh điện mới của Việt Nam Quốc Tự.

aaa (5).JPG
Nghi thức chào Quốc kỳ, Đạo kỳ

aaa (6).JPG
Không khí thiêng liêng của Đại lễ

Le ky niem 35 nam (9).JPG
HT.Thích Trí Quảng tuyên đọc Thông điệp Đại lễ của Đức Pháp chủ GHPGVN

Sau nghi thức chào Quốc kỳ, Đạo kỳ, HT.Thích Trí Quảng tuyên đọc Thông điệp Đại lễ của Đức Pháp chủ GHPGVN - Đại lão HT.Thích Phổ Tuệ gửi Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử trong nước và ở nước ngoài, lời chúc mừng đại hoan hỷ, đại đoàn kết hòa hợp, đại thành tựu trong sứ mệnh phụng sự Đạo pháp và Dân tộc của GHPGVN nhân Đại lễ Kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN.

Thông điệp gửi gắm, Giáo hội cần phải phát huy hơn nữa truyền thống hộ quốc an dân, đồng hành cùng dân tộc của Phật giáo Việt Nam. Không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại văn hóa tôn giáo, chăm lo đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, thông qua đó giới thiệu tới bạn bè quốc tế hiểu biết sâu rộng về lịch sử, văn hóa, đất nước và con người Việt Nam góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định nhằm xây dựng và phát triển đất nước, giữ vững chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

“Nhân Kỷ niệm 35 năm ngày thành lập GHPGVN, tôi tha thiết mong muốn các cấp Giáo hội, các Ban, Viện ở Trung ương và địa phương, các sơn môn, hệ phái, Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử hãy nêu cao tinh thần đoàn kết, hòa hợp, trưởng dưỡng đạo tâm để trang nghiêm Giáo hội. Hơn lúc nào hết, Tăng Ni cần phải trau dồi giới đức, phẩm hạnh của một Tỷ-kheo, hạnh nguyện của một sứ giả Như Lai hành Bồ-tát đạo, tùy duyên bất biến giữ gìn giá trị nhân văn, bản sắc và sự trong sáng của đạo Phật trong thời đại ngày nay”, thông điệp nhấn mạnh.

aaa (7).JPG
Đại lễ mit-tinh diễn ra trang trọng

aaa (8).JPG
Nhiều đại diện cơ quan, ban, ngành T.Ư, TP.HCM tham dự

aaa (16).JPG
HT.Thích Thiện Nhơn đọc diễn văn Đại lễ 35 năm thành lập GHPGVN

Tiếp đó, HT.Thích Thiện Nhơn đọc diễn văn Đại lễ 35 năm thành lập GHPGVN, Hòa thượng nêu quá trình hình thành và phát triển GHPGVN trong 35 năm qua, đồng thời thành kính tri ân đến chư tôn đức tiền bối lãnh đạo Giáo hội qua các thời kỳ đã cống hiến công đức to lớn xây dựng Giáo hội.

Qua đó, cho thấy 35 năm qua, GHPGVN luôn đoàn kết, hòa hợp các Hệ phái Phật giáo trong ngôi nhà chung GHPGVN và vui mừng với những thành tựu Phật sự 35 năm qua của Tăng Ni, Phật tử cả nước với 13 ban, viện, 63 Ban Trị sự PG tại 63 tỉnh, thành. Hòa thượng tin tưởng với đường hướng đồng hành cùng dân tộc, GHPGVN tiếp tục làm lợi tích cho Đạo pháp và Dân tộc, chúng sinh, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh.

aaa (14).JPG
Chư tôn đức tham dự

aaa (12).JPG
Đại diện các ban, ngành TP

aaa (19).JPG
ĐĐ.Thích Quang Thạnh báo cáo đôi nét thành tựu của Phật giáo TP.HCM

ĐĐ.Thích Quang Thạnh, Phó Thư ký kiêm Chánh Văn phòng Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM báo cáo đôi nét thành tựu của Phật giáo TP.HCM. Báo cáo cho biết, thời kỳ đầu mới thành lập GHPGVN trên nền tảng 28 Ban Trị sự PG tỉnh, thành, THPG TP.HCM giữ vai trò tiên phong và quan trọng nhất cho sự nghiệp hình thành, phát triển mọi công tác Phật sự tại địa bàn TP nói riêng và cả nước nói chung.

Tại TP.HCM, sau nhiệm kỳ I kết thúc, kể từ nhiệm kỳ II đến nhiệm kỳ V, THPG TP do HT.Thích Thiện Hào làm Trưởng ban Trị sự, đến tháng 9-1997, HT.Thích Trí Quảng đảm nhiệm Quyền Trưởng ban, tháng 2-2000, HT.Thích Trí Quảng chính thức đảm nhiệm Trưởng BTS PG TP, từ đó đến nay với chủ trương “trẻ hóa năng lực”, hoạt động Phật sự BTS PG TP phát triển ổn định toàn diện với 12 ban, ngành trực thuộc. Hiện nay, TP có 1.325 cơ sở Giáo hội, 8.700 Tăng Ni và trên 15.000 Phật tử. Công tác từ thiện xã hội trong 35 năm qua đạt hơn 2.600 tỷ đồng.

aaa (13).JPG
Chư tôn đức Ni

aaa (18).JPG
Đại diện các cơ quan, ban, ngành T.Ư, TP.HCM tham dự

Do những thành tích đáng trân trọng của Phật giáo TP, HĐTS GHPGVN, UBND TP, UBMTTQVN TP đã tặng Bằng Tuyên dương công đức, Bằng khen đến tập thể BTS PG TP, các cá nhân.

Đại diện giới Tăng Ni, Phật tử trẻ, tại lễ mit-tinh, ĐĐ.Thích Thiện Quý, Chánh Thư ký BTS PG TP đã phát biểu tri ân chư tôn thiền đức tiền bối hữu công đã đặt nền móng vững chắc cho GHPGVN. Tăng Ni, Phật tử trẻ kế thừa hôm nay, nguyện cống hiến đức, tài, tri thức của mình để tiếp tục xây dựng, phát triển GHPGVN trong thời đại hội nhập, đáp đền công ơn to lớn của chư tôn thiền đức tiền bối.

aaa (33).JPG
ĐĐ.Thích Thiện Quý đại diện Tăng Ni trẻ phát biểu tri ân

aaa (34).JPG
Ông Nguyễn Hoàng Năng, đại diện các cấp chính quyền phát biểu

Tại lễ mit-tinh, ông Nguyễn Hoàng Năng, đại diện các cấp chính quyền phát biểu, ghi nhận và trân trọng thành quả của GHPGVN đạt được trong 35 năm qua. “Phật giáo Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử, thời kỳ nào Phật giáo cũng lấy đức từ bi, hỷ, xả, lấy chân -thiện-mỹ để giáo hóa chúng sanh, lấy trí tuệ và phụng sự đất nước làm sự nghiệp và phương châm hành đạo; giáo lý Phật giáo đã thấm nhuần trong đời sống của đông đảo nhân dân, những giá trị tốt đẹp của Phật giáo đã góp phần hun đúc nên những giá trị của con người Việt Nam, lịch sử Việt Nam ghi nhận Phật giáo Việt Nam có những đóng góp xứng đáng trong sự nghiệp bảo vệ, và xây dựng đất nước…

Trong xu thế hội nhập của đất nước, MTTQVN tin tưởng Giáo hội cần phát huy hơn nữa truyền thống hộ quốc an dân, đồng hành cùng dân tộc của Phật giáo, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc , chăm lo đời sống, tâm linh cho cộng đồng Phật tử và người mộ đạo. Mong rằng, Tăng Ni, Phật tử cần trau dồi giới đức và phẩm hạnh gìn giữ giá trị nhân văn bản sắc và sự trong sáng của Đạo Phật Việt Nam”, ông Năng nhấn mạnh.

aaa (28).JPG
HT.Thích Trí Quảng nhận Bằng Tuyên dương công đức của TƯGH

aaa (31).JPG
Ông Huỳnh Cách Mạng trao Bằng khen của Ủy ban Nhân dân TP

aaa (29).JPG
HT.Thích Trí Quảng nhận Bằng khen

Đại lễ mit-tinh Kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN, Ban Tổ chức đón nhận nhiều lẵng hoa chúc mừng của HĐTS GHPGVN, TƯ MTTQVN, Ban Dân vận T.Ư, Ban Tôn giáo Chính phủ, Chủ tịch nước Trần Đại Quang, nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, gia đình nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, nguyên Bí thư Thành ủy Lê Thanh Hải, Thượng tướng Phạm Dũng, gia đình Thiếu tướng Trần Quốc Liêm, các tổng lãnh sự quán các nước tại TP.HCM, các ban, viện T.Ư, BTS PG các tỉnh, thành…

Tại lễ mit-tinh, Ban Tổ chức trao 1 tỷ đồng ủng hộ Quỹ "Vì người nghèo" của Ủy ban MTTQVN TP.HCM.

Đại lễ mit-tinh Kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN kết thúc sau phần phát biểu cảm tạ của HT.Thích Thiện Tánh, Phó Chủ tịch HĐTS, Phó ban Thường trực Ban Tổ chức.

Dịp này, Ban Tổ chức triển lãm hình ảnh thành tựu nổi bật của các ban, ngành T.Ư và TP.HCM, một số ảnh các ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đổi mới của Nhiếp ảnh Võ Văn Tường và ảnh nghệ thuật Phật giáo gắn với môi trường của các họa sĩ TP.HCM (phóng viên Giác Ngộ Online sẽ cập nhật thông tin đến bạn đọc)

Kính mời bạn đọc xem thêm chùm ảnh Đại lễ:

aaa (21).JPG
HT.Thích Thiện Pháp trao lẵng hoa chúc mừng của HĐTS GHPGVN

aaa (22).JPG
Ông Võ Văn Thiện trao tặng hoa của TƯMTTQVN

aaa (24).JPG
Ông Trần Tấn Hùng trao tặng lẵng hoa của Ban Tôn giáo Chính phủ

aaa (25).JPG
Bà Võ Thị Dung đại diện Thành ủy TP.HCM tặng hoa chúc mừng

aaa (26).JPG
Ông Đặng Quốc Toàn tặng hoa của Quận ủy Quận 10

aaa (12).JPG

aaa (9).JPG
Quý khách tham dự Đại lễ

aaa (8).JPG
Quý khách và đông đảo Tăng Ni, Phật tử

aaa (20).JPG
HT.Daichi từ Nhật Bản

aaa (32).JPG
Chư tôn đức nhận Bằng khen của UBND TP

aaa (15).JPG
Đại diện các tôn giáo bạn

aaa (27).JPG
TT.Thích Thiện Thống đọc quyết định Tuyên dương công đức cho BTS PG TP

aaa (2).JPG
BTS PG TP trao bảng ủng hộ Quỹ "Vì người nghèo" TP

aaa (35).JPG
HT.Thích Thiện Tánh phát biểu cảm tạ

aaa (10).JPG
Hội trường Việt Nam Quốc Tự không đủ không gian cho Đại lễ

VG (10).JPG

VG (4).JPG
Đông đảo chư tôn đức Tăng Ni tham dự Đại lễ

VG (5).JPG

VG (6).JPG

VG (9).JPG
Đại lễ diễn ra trang nghiêm, trọng thể

VG (8).JPG
Quang cảnh Đại lễ Mit-tinh sáng nay

_MG_3418.JPG
Do sáng sớm nay trời mưa, Ban Tổ chức phải tổ chức trong hội trường
thay vì ngoài trời như dự kiến

VG (11).JPG
Phật tử phải ngồi ngoài sân

VG (12).JPG
Sân trước Việt Nam Quốc Tự sáng nay

H.Diệu - Ảnh: Bảo Toàn, V.Giang

Nói sự thực thì không sợ hãi

Nói sự thực thì không sợ hãi

Đăng lúc: 08:05 - 27/09/2016

Khi chúng ta có tri kiến/nhận thức một cách thấu suốt về lẽ không thực của tự ngã, chúng ta có thể vượt qua được những khổ đau (không thực) tác động (một cách không thực) lên thân tâm chúng ta. Nhưng thực trạng khổ đau của con người, của chúng sinh vẫn tiếp diễn trong nhận thức điên đảo mộng tưởng của họ. Vận dụng cái thấy như thực về tự ngã (trí) để dấy khởi lòng thương (bi) đối với thế giới chúng sinh, là con đường của kẻ giác ngộ (Bồ-tát).
Từ năm 2001, đầu thế kỷ 21, ngôn ngữ truyền thông bắt đầu nhắc đến nhiều từ ngữ “khủng bố”, “chủ nghĩa khủng bố” (terror/terrorism). Đây không phải là từ ngữ mới, nhưng nó được nhấn mạnh và sử dụng nhiều sau sự kiện 11/9/2001, với tòa tháp đôi ở New York sụp đổ hoàn toàn do những chiếc phi cơ bị những kẻ khủng bố Al-Qaeda dùng bạo lực cưỡng chế phi hành đoàn, điều hướng đâm vào.

Trước đó 6 tháng, vào ngày 10 tháng 3 năm 2001, lực lượng Taliban ở A-phú-hãn (Afghanistan) đã cho nổ bom làm sụp đổ hai tượng Phật khổng lồ khắc trong núi đá, có niên đại hơn 1500 năm. Hành động phá hủy tượng Phật lúc đó dù là hành vi bạo động nhưng không bị xem như là khủng bố, mà là hành động hủy diệt văn hóa nhân loại nghiêm trọng (theo sự lên án của Tổ chức Văn hóa – Khoa học và Giáo dục LHQ - UNESCO).

Vậy, có thể hiểu “khủng bố” là lời nói hay hành vi đe dọa trực tiếp đến mạng sống và đời sống của con người; nhẹ thì từ những cá nhân với mục đích trục lợi, tống tiền; nặng thì từ các tổ chức tôn giáo, chính trị để nêu cao lý tưởng của họ, hoặc từ các nhà cầm quyền nhằm ngăn chặn tiếng nói đối lập để giữ vững chế độ.


Từ “khủng bố” cũng được nghe quen từ bản Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh do Pháp sư Trần Huyền Trang (Đường Tam Tạng) dịch từ Prajñā Pāramitā Sūtra vào năm 649, sau được cô đọng lại thành bản Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh 260 chữ. Trong kinh văn nầy, chữ “khủng” và “bố” đều mang nghĩa đơn giản là (bị) sợ hãi, đe dọa; mà để không bị sợ hãi, đe dọa, tâm phải tịch lặng, an nhiên, không bị vướng mắc, trở ngại (tâm vô quái ngại). Tâm không bị vướng mắc, ngăn ngại là tâm vô trụ (ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm); tâm vô trụ là tâm không có tự ngã, là tâm bản nhiên, tâm bất sanh. Chỉ với cái tâm như thế, mới không còn sợ hãi.

Trong hoàn cảnh mà nhan nhản chung quanh chỉ toàn là những lời hư dối, người ta sợ phải nói những điều trung thực; nói ra có thể bị bắt bớ, đánh đập, tù đày; nói ra có thể bị mất việc, mất chức, mất địa vị, mất danh tiếng, mất cả tài chánh để nuôi thân và gia đình, mất cả cơ sở sinh hoạt (chùa chiền, nhà thờ…). Cá nhân đã không dám nói lời trung thực, mà ngay cả tổ chức mà cá nhân đó tham dự cũng không dám bày tỏ điều gì khác với những hư dối chung quanh. Nghĩa là từ cá nhân đến tập thể, từ những tổ chức nhỏ đến những tổ chức lớn quy tụ hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn thành viên, có mặt với sứ mệnh văn hóa, giáo dục, phục vụ lợi ích số đông… mà trong một xã hội đạo đức băng hoại, tụt dốc, và trong nguy cơ mất nước, mất chủ quyền, cũng không thể mạnh dạn nói lên một lời trung thực.

Điều gì đã làm chúng ta sợ hãi không dám lên tiếng bảo vệ sự thực, không dám bày tỏ thẳng thắn mối ưu tư của mình về tình trạng môi sinh đang bị hủy hoại, không dám đưa ra quan điểm của mình về hiểm họa lãnh thổ và biển đảo bị xâm lấn?

Chỉ vì bảo vệ tự ngã của mình mà thôi.

Sợ hãi là phản ứng của một người trước một sự kiện hay ấn tượng mà họ đã trải nghiệm, hoặc tiên đoán (nhờ rút tỉa từ kinh nghiệm), sẽ gây thiệt hại đến nhân thân (sức khoẻ, sinh mệnh) hoặc tổn thương, suy giảm đến những gì mình sở hữu (danh dự, tài sản, sự nghiệp…).

Phản ứng này là do chấp vào một cái tôi (ngã chấp) ngay từ khi mới chào đời, rồi được bồi đắp và làm cho kiên cố, sâu nặng thêm theo thời gian với những gì được tạo dựng, sở hữu (ngã sở).

Cái tôi càng lớn, sợ hãi càng sâu.

Cái sợ nầy đến từ bên trong. Những đe dọa, khủng bố từ kẻ khác chỉ là phụ thuộc.

Đập vỡ cái vỏ của tự ngã thì không còn sợ hãi, âu lo; không ai có thể đe dọa, khủng bố chúng ta được nữa.

Nhưng để làm được điều nầy, phải thấy được cả thân và tâm đều là ảo ảnh, không thực. Thân nầy không thực, tâm nầy (cảm giác, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức) cũng không thực.

Thân và tâm nầy không thực thì cả thế gian nầy cũng không thực.

(Đã không thực thì có cần phải lên tiếng về một sự thực, về nỗi thống khổ của số đông hay không?)

Bản chất của tự ngã, của thế gian chỉ là ảo ảnh, chỉ là giấc mộng huyễn hóa. Nhưng tác động nhân duyên của tự ngã và thế giới chúng sinh là có thực. Thống khổ của nhân sinh là có thực.

Khi chúng ta có tri kiến/nhận thức một cách thấu suốt về lẽ không thực của tự ngã, chúng ta có thể vượt qua được những khổ đau (không thực) tác động (một cách không thực) lên thân tâm chúng ta. Nhưng thực trạng khổ đau của con người, của chúng sinh vẫn tiếp diễn trong nhận thức điên đảo mộng tưởng của họ. Vận dụng cái thấy như thực về tự ngã (trí) để dấy khởi lòng thương (bi) đối với thế giới chúng sinh, là con đường của kẻ giác ngộ (Bồ-tát).

Khi kẻ lữ hành cô độc thong dong bước ngang những lầu đài tráng lệ và những xó xỉnh sình lầy bẩn nhơ, nhân sinh vẫn cất lên tiếng than khóc về nỗi trầm thống bất tận của họ.

Một lời nói để đắp thêm tiếng thơm hay lợi lạc cho tự thân: không cần thiết; nhưng bày tỏ trung thực về thực trạng khổ đau của kiếp người: rất nên.

California, ngày 24 tháng 9 năm 2016

Cư sĩ Vĩnh Hảo

Sự cố chấp của đàn ông vì quan niệm gia trưởng

Sự cố chấp của đàn ông vì quan niệm gia trưởng

Đăng lúc: 07:05 - 11/11/2015

Hỡi các em, các người trẻ, các em khi lớn khôn chuẩn bị bước vào đời hãy lắng nghe và suy ngẫm lại nhận thức của chính mình cho chín chắn. Thật ra người nữ có 5 cái khổ mà người đàn ông không thể nào giúp được. Cái khổ thứ nhất là lớn lên lấy chồng phải một mình về xứ lạ quê người làm dâu không người thân thuộc.


Cái khổ thứ hai khi có kinh nguyệt phải chịu nhọc nhằn, mệt mỏi trong ngày ấy. Cái khổ thứ ba phải chịu ốm nghén, nặng nề khi mang thai đứa con trong bụng. Cái khổ thứ tư là “vượt cạn” một mình trong đớn đau “banh da xẻ thịt”. Cái khổ thứ năm là hầu hạ đàn ông. Đó là 5 nỗi khổ thầm kín mà tất cả người nữ phải gánh chịu, những nỗi khổ này cánh đàn ông không thể nào thay thế được. Các em trai thanh niên trước khi lập gia đình cần phải quán chiếu sâu sắc về 5 nỗi khổ của phái đẹp để dễ bề thông cảm và yêu thương người bạn đời của mình nhiều hơn bằng trái tim hiểu biết.

Chuyện xưa kể có hai vợ chồng trẻ mới lấy nhau sống rất hạnh phúc thì đất nước bị chiến tranh, chàng trai phải lên đường nhập ngũ để lại người vợ với nỗi nhớ niềm thương cùng đứa con trong bụng. Chiến tranh đã làm ly tán đôi vợ chồng, kẻ ở người đi trong ngậm ngùi thương tiếc. Nàng giờ cô đơn lạc loài phải một mình làm lụng nuôi con trong âm thầm, lặng lẽ. Xưa nay ta thường nghe nói “gà trống nuôi con”, tức hàm ý khen ngợi đàn ông nuôi con một mình. Nhưng thật sự, người nữ có con và nuôi con một mình trong bối cảnh người chồng đi lính quả thật rất khó khăn. Việc nuôi con trong thời buổi chiến tranh loạn lạc không đơn giản và dễ dàng, vậy mà người phụ nữ ấy vẫn làm tròn sứ mệnh vừa làm mẹ, vừa làm cha.

Chiến tranh chấm dứt, 4 năm sau chàng được giải ngũ trở về, lòng tự nhủ thầm không biết con mình là trai hay gái, nếu nó là trai thì phải giống chàng như đúc, nếu là gái chắc giống nàng không sai. Về đến quê nhà chàng gặp lại vợ cùng đứa con trai kháu khỉnh lòng vô cùng sung sướng trong niềm hạnh phúc vô biên, chàng mừng thầm vì đã có con nối dõi tông đường. Hai người gặp lại trong xúc động nghẹn ngào đến nỗi vừa mừng vừa khóc. Người vợ sau đó đi chợ mua thức ăn để nấu cúng tổ tiên mừng gia đình đoàn tụ. Người chồng ở nhà gọi con lại bảo, “con của ba, con lại đây để ba hôn con nè!” Đứa con nghe vậy ngạc nhiên nói, “chú không phải là ba của con, ba của con ban đêm mới về, đêm nào ba cũng nói chuyện với mẹ rất lâu. Mẹ khóc ba cũng khóc theo, mẹ ngồi thì ba ngồi, mẹ nằm thì ba nằm, đêm nào ba và mẹ cũng vậy. Chú không phải là ba của con”.

Người cha trẻ nghe xong choáng váng cả mặt mày, sự thật quá phũ phàng, nàng đành thay lòng đổi dạ đến thế ư! Tim chàng bỗng nhiên chai cứng lại, lời trẻ thơ như gáo nước lạnh tạt vào mặt, bao nhiêu ước mơ được gặp lại vợ và con giờ tan thành mây khói. Chàng trai đau khổ tột cùng khi nghĩ vợ đã nằm trong vòng tay kẻ khác, đã ngoại tình và phản bội chàng. Chàng không thèm nhìn vợ, không thèm hỏi han, không thèm nói chuyện vì nghĩ vợ là người đàn bà mất nết. Khi dâng cơm cúng tổ tiên chàng vô cùng buồn bã mà quỳ lạy một mình, không cho vợ lạy chung. Người vợ đau khổ và xấu hổ vô cùng, nàng hỏi nguyên do nhưng chàng không nói, cúng xong chàng cũng không dùng cơm mà bỏ ra quán ngồi nhậu đến hai ba giờ sáng mới về.

Cứ như thế ngày nào cũng vậy, chàng bỏ mặc vợ và con côi cút, bơ vơ, thầm thương trộm nhớ. Chàng chỉ về nhà khi đã say mèm, chẳng thèm ăn cơm, chẳng chịu nói chuyện với vợ hay vui đùa cùng con. Ba ngày sau người vợ chịu không nổi cảnh tượng dửng dưng, khinh khỉnh, thầm lặng của chồng nên đâm đầu xuống sông tự tử. Đây là câu chuyện tình thuở xưa ông cha ta viết lại để khuyên người trẻ đừng vì thấy nghe sai lầm mà vội vàng ôm mối nghi ngờ, đành lòng kết án oan cho người bạn đời, để cuối cùng mình là nạn nhân của bao điều lầm lỗi, chưa vui sum họp đã sầu chia ly.

Hỡi các em, các người trẻ, các em khi lớn khôn chuẩn bị bước vào đời hãy lắng nghe và suy ngẫm lại nhận thức của chính mình cho chín chắn. Thật ra người nữ có 5 cái khổ mà người đàn ông không thể nào giúp được. Cái khổ thứ nhất là lớn lên lấy chồng phải một mình về xứ lạ quê người làm dâu không người thân thuộc. Cái khổ thứ hai khi có kinh nguyệt phải chịu nhọc nhằn, mệt mỏi trong ngày ấy. Cái khổ thứ ba phải chịu ốm nghén, nặng nề khi mang thai đứa con trong bụng. Cái khổ thứ tư là “vượt cạn” một mình trong đớn đau “banh da xẻ thịt”. Cái khổ thứ năm là hầu hạ đàn ông. Đó là 5 nỗi khổ thầm kín mà tất cả người nữ phải gánh chịu, những nỗi khổ này cánh đàn ông không thể nào thay thế được. Các em trai thanh niên trước khi lập gia đình cần phải quán chiếu sâu sắc về 5 nỗi khổ của phái đẹp để dễ bề thông cảm và yêu thương người bạn đời của mình nhiều hơn bằng trái tim hiểu biết.

Ngày xưa với quan niệm chồng chúa vợ tôi, vai trò người nữ bị khép kín trong phạm vi gia đình với bao điều phiền muộn, khổ đau. Họ phải chịu nhiều cay đắng, một mình đơn độc về làm dâu xứ lạ không người thân thích. Theo quan niệm “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ một chồng”, người nữ thời ấy chỉ một mực thờ chồng, thậm chí nhiều người phải đi cưới vợ bé cho chồng, nên có câu “thân gái 12 bến nước, trong nhờ đục chịu”. Chế độ chồng chúa vợ tôi nên người đàn ông được quyền lấy nhiều vợ và người phụ nữ nếu dan díu cùng người khác sẽ bị xử tội rất nặng. Đó là luật pháp thời xưa khiến người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi mà không có quyền bào chữa. Họ phải chấp nhận thân gái 12 bến nước, trong nhờ đục chịu là vì vậy.

Nhưng thói đời đục thường nhiều hơn trong, chỉ một vấn đề làm dâu hầu hạ cha mẹ chồng đã là một nỗi khổ lớn và phải lệ thuộc anh chị em nhà chồng. Người xưa quan niệm “đàn bà đái không qua ngọn cỏ”, đàn bà là loại cỏ dại chỉ có nhiệm vụ hầu chồng, thờ chồng, phụng sự gia đình chồng, sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường nhà chồng. Họ phải chấp nhận luật Tam tòng, khi chưa xuất giá phải thờ cha, khi có chồng phải thờ chồng, đến khi chồng chết chỉ biết thờ con, không được quyền tái giá. Đó chính là những bất công buộc người nữ phải chịu nhiều hệ lụy khổ đau mà không nói được. Các em ngày nay chuẩn bị bước vào đời để được sống yêu thương và hiểu biết, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ cần phải biết những nỗi khổ thầm kín ấy.

Trở lại câu chuyện chàng trai đi chiến trận trở về gặp lại người vợ và đứa con thơ dại. Đúng ra người cha khi nghe con nói vậy phải tìm hiểu kỹ càng, xác đáng sự việc. Chàng cứ nghĩ trẻ thơ đâu bao giờ nói sai sự thật nên cứ một mực tin càn, chẳng cần tìm hiểu nguyên nhân. Thật ra, khi chàng đi lính, đứa bé ở nhà một hôm hỏi mẹ “ai trong xóm này cũng có cha, sao con lại không có?” Người mẹ khi ấy chỉ vào cái bóng trên vách nói “cha con đó”. Đứa bé nghe mẹ nói vậy tưởng thật nên tin đó là cha mình. Một buổi tối trời đang mưa tầm tã, người vợ trẻ bồng đứa con trên tay dưới ánh đèn leo lét chợt nhớ người chồng bao năm xa cách mà cất tiếng khóc nghẹn ngào. Đứa bé thấy vậy mới hỏi, “bộ cha đánh mẹ hả?”, trẻ thơ thật thà nào có biết gì đâu.

Người vợ trẻ trong thời loạn lạc tình yêu thương chưa trọn vẹn mà phải gánh lấy trách nhiệm nặng nề. Một mình ôm đứa con trong bụng và phải tự mình nuôi dưỡng. Đây là nỗi khổ, niềm đau lớn lao của người vợ trẻ một mình vượt cạn, vừa làm mẹ, vừa làm cha. Một người vợ cùng chồng nuôi con vất vả một thì người vợ đơn phương nhọc nhằn hơn chục lần như thế. Vậy mà sử sách ít bao giờ tán dương phụ nữ mà chỉ tán dương đàn ông bằng câu nói “gà trống nuôi con”. Người vợ trẻ một mình nuôi con đêm ngày mong ngóng, mỏi mòn chờ chồng, thậm chí rất nhiều người phải khóc hận nuôi con vì chiến tranh loạn lạc đến hai ba chục năm mới gặp lại. Ấy thế mà chưa vui sum họp đã sầu chia ly, chàng trai ấy chưa cảm thông nỗi khổ niềm đau thầm kín của vợ trong 4 năm qua.

Đứa con tuy không có cha trực tiếp chăm sóc từ khi mở mắt chào đời, nhưng nhờ sự yêu thương, bảo bọc của mẹ đứa bé vẫn được sống an vui, hạnh phúc. Ngày chồng trở về tưởng được thêm phần hạnh phúc, thêm ấm nồng tình vợ chồng cùng đứa con thơ, thật không ngờ giông bão lại kéo đến. Người vợ quyên sinh vì sầu thương, buồn tủi, người chồng ở lại liệu có thể “gà trống nuôi con”? Người vợ trẻ ấy đã rất bơ vơ, lạc loài ôm bào thai trong bụng khi người chồng đi chinh chiến phương xa. Xưa có chồng ở nhà thì chẳng lo cơm áo gạo tiền, chỉ lo chu toàn mọi việc trong nhà, giờ một mình gánh thêm gánh nặng, phải bảo bọc, che chở đứa con, lần bước vào đời tìm chén cơm manh áo.

Chàng trai trẻ không có cơ hội quán chiếu sâu sắc về sự khó khăn và khốn khổ của vợ khi mình đi chinh chiến, nàng ở nhà nhận lãnh vai trò vừa làm mẹ, vừa làm cha và phải sống cô đơn, hiu quạnh một mình. Đến ngày khai hoa nở nhụy cũng chỉ mình nàng phải vượt cạn một mình, chỗ này đàn ông không thể nào thay thế, nên mới có câu “đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình”. Không có chồng ở nhà để động viên, khuyên nhủ, chăm sóc khi cần thiết, vậy mà nàng vẫn cố gắng chịu đựng để vượt qua mà vươn lên nuôi dạy con khôn lớn. Bao nhiêu năm nhọc nhằn, cực khổ nuôi con, mỗi lúc nhớ chồng nàng khóc một mình trong cô đơn, buồn tủi. Lúc nào nàng cũng ngóng trông, mong đợi và thầm cầu nguyện chiến tranh mau chấm dứt để có ngày được cùng chàng đoàn tụ.

Rồi cái ngày ấy cũng đến, người vợ trẻ mừng đến rơi nước mắt, bao nhiêu ước mơ bây giờ đã thành sự thật. Trong lòng nàng cứ nghĩ chắc chắn chàng sẽ bù đắp hạnh phúc cho nàng sau bao năm xa cách, vừa đi chợ, vừa tưởng tượng chắc chàng sẽ yêu thương mình nhiều hơn. Không ngờ mọi việc thật tréo ngoe, vừa đi chợ về nàng đã thấy chàng mặt lạnh như tiền, nàng hỏi gì chàng cũng không trả lời, chẳng thèm nói năng, ngó ngàng đến nàng. Sự thật là chàng đã hiểu lầm nàng, đứa bé vì muốn có cha nên nàng đã chỉ cái bóng trên vách mà nói “đó là cha con”. Cứ như thế đêm nào cũng vậy, nàng nhớ chồng da diết và phải chỉ bóng mình mà nói “cha của con về đó”. Bây giờ thì nàng đã vĩnh viễn ra đi, đã ôm mối hận thiên thu không thể nào trở lại, thần thức nàng có lẽ vẫn còn lẩn quẩn bên mái nhà xưa để được nhìn con thơ bé bỏng và mong chồng sẽ hiểu được lòng mình hơn. Đứa con thơ dại sau bao năm sống thiếu tình cha, giờ cha đã có nhưng mẹ lại không còn. Chàng trai ấy giờ đã biết mình sai, đã nhận ra điều lầm lẫn lớn lao nhưng vợ đâu còn nữa, giờ thật sự có ăn năn hối tiếc thì cũng quá muộn màng.

Các em hiện giờ có đầy đủ phúc duyên còn có cha, có mẹ, các em đang được sống hạnh phúc bên mái ấm gia đình. Vậy các em ngay tại đây và bây giờ phải biết trân quý, phải biết gìn giữ khi được sống trong vòng tay âu yếm của mẹ cha. Các em biết không, tôi nhờ vậy mà được làm người trở lại, nhờ sự chịu đựng hy sinh và hết lòng thương yêu của mẹ mà tôi bây giờ mới có cơ hội tâm tình, trao đổi với các em bằng tất cả tấm lòng chân thành tha thiết. Khi con người đã có những hiểu biết sai lầm thì nghi ngờ, giận dỗi, tự ái phát sinh làm cho ta không làm chủ bản thân mà phán xét mọi việc sai sự thật. Chàng trai ấy không có sự cảm thông nỗi khổ, niềm đau của người vợ trẻ phải ở nhà một mình vượt cạn, nuôi con; do đó cứ nghĩ trẻ thơ không bao giờ nói dối mà đem lòng oán trách vợ không một lời tìm hiểu, hỏi han để rồi chính tri giác sai lầm mà làm chết đi người vợ thủy chung oan uổng. Này các em, các người trẻ, các em nên đọc kỹ câu chuyện trên để có thời gian suy ngẫm, tìm hiểu trước khi muốn phán xét hay kết luận một điều gì. Các em nên tìm hiểu cho chín chắn, kỹ càng, nếu không như vậy sẽ vô tình làm khổ cho mình và tha nhân khi bước vào đời với bao phiền muộn, khổ đau.

Tri giác sai lầm thường làm con người mất hết lý trí sáng suốt, do đó nhận định và quyết đoán mọi điều không đúng với sự thật mà dẫn đến nhiều tai hại. Là người thanh niên hay người đàn ông trước khi bước vào đời các em phải định hướng, phải tìm hiểu chân lý sống cho rõ ràng. Thường cái gì cứng thì dễ gãy, cái gì mềm dẻo lại dễ tồn tại. Cụ thể nhất là răng cứng nên dễ gãy, lưỡi mềm nên dễ uốn. Các em vào đời cũng phải như vậy! Bao nhiêu cuộc tình đã đổ vỡ vì hiểu biết sai lầm, vì cố chấp, vì không biết cảm thông và tha thứ cho nhau. Vì vậy các em phải cần tìm hiểu cho chín chắn những gì mắt thấy tai nghe trước khi kết luận hay tin tưởng bất cứ việc gì.

Chàng trai ấy lẽ ra phải hỏi vợ mình sự thật ra sao, nếu chàng hỏi rõ thì đâu có chuyện làm đau lòng nhân thế. Nếu giả sử vợ chàng có như thế, cô ấy thật sự đã phản bội chàng thì chàng cũng nên nghĩ lại mà tha thứ, cũng nên cảm thông, độ lượng mà bao dung cho nàng. Suốt thời gian chinh chiến ai nuôi dạy con chàng, ai bảo bọc vợ chàng để còn sống mà chờ chàng đoàn tụ. Nếu có chàng cũng nên can đảm mà mạnh dạn cám ơn người ấy, vì người ấy đã cho con và vợ chàng một sự sống ấm no, trọn vẹn, nhờ vậy có ngày hôm nay chàng có cơ hội gặp lại vợ và con. Ấy vậy mà, vợ chàng xứng đáng là một người vợ ngoan hiền, mẫu mực, đạo đức, thủy chung, dù chịu cô đơn một mình ngậm đắng nuốt cay nàng cũng chấp nhận đi biển một mình để “mẹ tròn con vuông”. Chàng đâu hề biết trong suốt 4 năm ròng chinh chiến phương xa, vợ của chàng phải chịu nhiều đắng cay, khổ sở khi chấp nhận làm thuê làm mướn, cực khổ nhọc nhằn miễn có tiền nuôi con, bất chấp tiếng đời dèm pha, chê trách. Chàng chưa phải là một người đàn ông đích thực, chàng chưa phải là một người đàn ông bản lĩnh, chưa phải là một người chồng lý tưởng vì chỉ biết nghĩ đến mình quá nhiều.

Thật ra chàng sống quá ích kỷ, quá nhỏ nhoi, quá hèn mọn, quá tự ti, quá cố chấp, chàng không xứng đáng là một đấng nam nhi đại trượng phu. Vợ chàng đã mang đứa con trong bụng là giọt máu của chàng, nàng phải một mình mang nặng đẻ đau, tần tảo sớm hôm nuôi con thơ dại, một mình gặm nhấm cô đơn, nhớ chồng da diết, lặng lẽ ngóng trông mòn mỏi, khát khao chờ đợi ngày chàng trở về. Đúng ra vợ chồng xa cách đã 4 năm, khi gặp lại chàng phải thầm cám ơn vợ sao quá đỗi tuyệt vời, một thân một mình thức khuya, dậy sớm tần tảo nuôi con không quản ngại gian lao, khó nhọc; để ngày hôm nay chàng được gặp con, được có con mà nối dỗi tông đường. Chàng thật sự quá ư diễm phúc khi có được một người vợ như vậy, tại sao chàng không biết trân quý, tìm cách bù đắp lại cho cô ấy?

Tôi ngày xưa còn tệ bạc hơn nhiều, tôi bỏ vợ khi mới sinh con chỉ vừa đầy tháng cùng đứa con trai mới tròn 3 tuổi. Vậy mà cô ấy không hề uất hận, vẫn lặng lẽ một mình nuôi con lao nhọc trăm bề. Nhưng vợ chàng phải một mình mang nặng đẻ đau, một mình nuôi con trong thời chiến tranh loạn lạc cùng tiếng đời thị phị còn khó khổ trăm bề hơn thế, vậy mà chàng nỡ dửng dưng, lạnh lùng, không thương tiếc. Nếu chàng biết cởi mở, bao dung, mở rộng tấm lòng một chút thì làm sao có chuyện phải tiếc hận ngàn thu. Chàng có dám bảo đảm sẽ ở vậy nuôi con để được người đời tán dương, khen ngợi? Hiện giờ con chàng còn quá nhỏ, nó đâu biết vì sao mẹ chết, khi lớn khôn rồi phải giải thích ra sao?

Nó sẽ nghĩ gì khi biết sự thật về cách cư xử thiếu hiểu biết của cha nó, sẽ chấp nhận mọi chuyện thế nào đây? Tôi ngày xưa vì đam mê hưởng thụ quá đáng nên sai lầm do quá ngu si, mê muội; còn chàng sai lầm do quá cố chấp vào tri giác của mình. Tôi và chàng cả hai đều sai, trong cuộc đời này vẫn có những cái sai tương tự như thế tràn ngập khắp thế gian. Vì thế ngày nay tình trạng bạo hành học đường, bạo hành gia đình hầu như tràn lan khắp mọi miền đất nước. Con người do đam mê hưởng thụ, do cố chấp và bảo vệ thành trì bản ngã của mình; cái gì của mình thì cho là đúng nên chấp chặt, ai làm khác đi thì không được, từ đó phát sinh tự ái, giận hờn, phá bỏ, gây khổ đau cho nhau.

Trong cuộc sống khó ai không mắc sai lầm, nhưng có những sai lầm chúng ta có thể tháo gỡ và sửa chữa, cũng có những sai lầm sau khi biết được đã trở thành vết sẹo khổng lồ khó mà phai mờ trong tâm trí. Chàng trai trẻ giờ biết ra thì đã quá muộn màng, chồng vô tình giết chết vợ mình khiến con thơ phải lạc loài, mất mẹ. Liệu chàng có thể đứng vững mà “gà trống nuôi con”, hay sẽ rơi vào khủng hoảng, mất tự chủ để rồi dìm chết cuộc đời bằng những ly rượu đắng, sáng xỉn, chiều say, tối lai rai. Một thời trai trẻ tôi đã từng dìm mình dưới ao nước giữa ban đêm đến năm mười tiếng đồng hồ cũng vì chút hờn ghen bóng gió, tức quá nói không được nên đúng là khùng chẳng ra khùng, điên chẳng ra điên. Trong men say tình ái vì tri giác sai lầm mà không biết bao cuộc tình tan vỡ, tôi khi đó như con cú quạ lúc ban ngày. Giờ ngồi ngẫm lại cả một thời son trẻ không biết bao là lỗi lầm đáng tiếc.

Còn làm người, còn có sự sống là còn có sai lầm, khó có ai được hoàn hảo, ngoại trừ các bậc Thánh nhân, các bậc Bồ tát. Tôi ngày hôm nay có cơ hội làm lại cuộc đời nhờ gặp Phật pháp nên chỉ có đôi lời khuyên nhủ cùng các em, các em hãy nên chín chắn suy nghĩ kỹ càng khi bước vào dòng đời nghiệt ngã với muôn ngàn đắng cay. Các em đừng để tri giác sai lầm của mình làm chủ, sai sử như câu chuyện tôi đang kể cho các em nghe. Các em hãy tự hỏi mình từ đâu đến và sau khi chết đi về đâu? Các em hãy tự hỏi như vậy chứ không chỉ biết nam nữ lớn lên thì phải có vợ, có chồng rồi sinh con đẻ cái nối dõi tông đường. Nếu các em chỉ hiểu biết bấy nhiêu thôi thì chưa đủ, các em cần phải tiến xa thêm một bước nữa. Các em muốn duy trì giống nòi làm người để phục vụ nhân loại, đóng góp cho tha nhân là một điều tốt, nhưng các em cần phải biết làm thế nào để trở thành người tốt luôn sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

Thông báo: V/v Đại lễ hiệp kỵ liệt vị Tổ sư và Khai giảng lớp giáo lý Phật học Hoa sen

Thông báo: V/v Đại lễ hiệp kỵ liệt vị Tổ sư và Khai giảng lớp giáo lý Phật học Hoa sen

Đăng lúc: 05:12 - 25/04/2015

Vào ngày 14 tháng 9 âm lịch hàng năm, theo tinh thần uống nước nhớ nguồn, tri ân liệt vị Tổ sư đã có công khai sơn tạo tự, Tùng lâm Diệc cổ long trọng tổ chức Đại lễ liệt vị Tổ sư chùa Diệc. Đồng thời, thực hiện sứ mệnh truyền đăng tục diệm, tiếp nối ngọn đèn chính pháp, nhân dịp đại lễ Hiệp kỵ liệt vị Tổ sư, Ban Hoằng Pháp tỉnh Nghệ An tổ chức khai giảng lớp giáo lý Phật học Hoa sen dành cho các Phật tử trong tỉnh (tuổi từ 20 đến 65) vào sáng chủ nhật hàng tuần.

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 19
  • Hôm nay 4,369
  • Tháng hiện tại 62,151
  • Tổng lượt truy cập 23,468,400