Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Một ngày an vui theo giáo lý nhà Phật

Một ngày an vui theo giáo lý nhà Phật

Đăng lúc: 20:52 - 27/06/2016

Với người biết tu thì tránh xa những thú vui làm khổ người, khổ mình, thay vào đó là vui với những thú vui của hạnh nghiệp lương thiện, phù hợp đạo lý, vui mà không làm phiền làm khổ ai cả.
Một ngày an vui theo giáo lý nhà Phật
Đạo Phật là đạo diệt khổ, đem vui đến cho chúng sinh.
Ví dụ như ăn chay, mỗi tháng người Phật tử ăn chay hai ngày, hoặc sáu ngày, hoặc mười ngày... Thoạt nhìn, thấy ăn chay là khổ, vì không được ăn uống tự do, phải hạn chế thức ăn, ăn không ngon miệng, mau đói...
Vui phàm, vui thánh
Song, đối với người biết tu, ăn chay được họ lấy làm vui, vì không giết hại sinh vật để bồi bổ cho xác thịt của mình. Một ngày không giết hại là một ngày không làm khổ chúng sinh. Một ngày không làm khổ chúng sinh là một ngày an vui. Cái vui của người ăn chay là cái vui tránh khổ cho loài vật, nhờ vậy mà lòng từ tăng trưởng.
Ăn chay là tránh sát sinh, không làm tổn hại sinh mạng loài vật là vui chứ không phải hôm nay là ngày chay, nhiều người kiêng ăn thịt cá nên cá thịt rẻ, ra chợ mua, nhất là mua cá đem về để mai mốt ăn cho đỡ tốn kém.
Ăn chay cốt không làm tổn hại sinh mạng chúng sinh, tránh được tội lỗi, làm được điều tốt, tiết dục không ham muốn nhiều.
Người không biết tu thì vui trên cái khổ của kẻ khác hoặc của loài vật; còn người biết tu thì vui khi tránh được điều ác, không làm tổn hại người vật, làm được việc thiện lợi mình, lợi người. Thế nên nói người tu được cái vui thoát tục, tức là vượt khỏi cái vui tầm thường của người thế gian.
Ở thế gian có những người thanh niên trẻ tuổi, sống với cái vui thoát tục xa lìa ngũ dục, ăn chay lo tu tỉnh, thì bị những người thọ hưởng ngũ dục phê bình châm biếm cho là ngu dại, không biết thụ hưởng thú vui ở đời.
Cứ nghiệm xét lại người uống rượu, hút ma túy, cờ bạc...không thấy hậu quả việc làm của mình, cứ chạy theo thị hiếu, thỏa mãn lòng tham muốn, cuối cùng tự chuốc khổ họa vào thân thì không khôn, không phải là người trí. Người trí biết cờ bạc, rượu chè, hút sách... là cái nhân đưa đến nghèo đói, bệnh hoạn, khổ đau nên tránh, tự thân không bị khổ và không làm phiền lụy cho người khác.
Trong Kinh A Hàm, Phật dạy: “Sắc, thinh, hương, vị, xúc, tất cả những pháp này khả lạc, khả hỷ, khả ý. Khi nào chúng ta hiện hữu, thế giới chư thiên xem chúng là khả lạc, khi chúng bị hoại diệt mới thấy chúng là khổ”.
Ở đây Phật dạy rằng, người đời khi được những món ngũ dục, sắc, thinh, hương, vị, xúc thì cảm thấy vừa ý cho là vui. Người trời thấy ngũ dục là vui nhưng khi chúng bị hoại diệt, tức là khi chúng mất đi thì chừng đó mới thấy khổ.
Còn bậc Thánh thấy vui, khi mình đoạn diệt được tham trước ngũ dục lạc, là cái mầm dẫn đi trong luân hồi sinh tử. Cái vui khi dứt mầm sinh tử mới là cái vui chân thật vĩnh viễn.
Cái vui của bậc thánh khác với cái vui của phàm phu; cái vui của phàm phu bậc thánh cho là khổ, cái vui của thánh nhân, phàm phu cho là khổ.
Thí dụ một tu sĩ ăn mặc đơn sơ thường tọa thiền dưới cội cây, người nhậu nhẹt ăn chơi cho rằng sống tiết chế kham khổ như thế là ngu không biết thụ hưởng thú vui của đời. Ngược lại, bậc thánh thấy người đời vui say ngũ dục ăn chơi trà đình tửu điếm, cho đó là mê mờ thiếu trí tuệ, đem lòng thương xót.
Thế nên, người đời phải khéo biết cái vui nào là cái vui chân thật trường cửu, để duy trì và gìn giữ; cái vui nào trá hình của khổ đau để tránh. Nhược bằng cứ chạy theo cái vui trá hình của khổ đau, thì vui trong chốc lát mà khổ lâu dài, sống như vậy là mê mờ thiếu trí tuệ.
Tỉnh mà vui, vui mà tỉnh
Thế những cái vui của người tỉnh là gì? Người biết tu tỉnh khi tâm hồn bình thản, thanh tịnh thì vui. Lúc ngồi dưới gốc cây, bên sườn núi, cảnh vắng vẻ, nhìn trời mây, nhìn cây cỏ hoa lá, tâm hồn thanh thản an định, cảm nhận một niềm vui tràn khắp thân tâm cảnh vật.
Người tỉnh tu khi tâm thanh tịnh, vui trên sự thanh bình của vạn vật, không làm tổn hại bất cứ loài vật nào, không tổn hại sức khỏe, cũng không hao tiền tốn của.
Lại nữa, người tỉnh tu vui khi phá được vô minh phiền não. Giả sử có người gièm pha chỉ trích, nói lời nhạo báng Phật pháp, người tu nghe qua khởi niệm bực bội, muốn nói lại cho đã giận nhưng liền khi đó tỉnh giác, biết giận là phiền não mê mờ, nói lời xúc phạm gây buồn đau cho người là tội lỗi.
Cơn giận sẽ từ từ lắng xuống, tâm được bình an, lòng vui sướng thấy mình chiến thắng được phiền não sân giận. Nếu không thắng được cơn giận thì phát ngôn bừa bãi, nói ra những lời đau đầu nhức óc, kẻ nói qua người trả lại; lúc đầu thì đấu khẩu, sau đó thì đấu tay chân... như vậy, chỉ là khổ, chẳng lợi ích gì!
Giờ đây tự phản tỉnh, thấy rõ từng tâm niệm của mình, niệm sân vừa khởi liền biết, không chạy theo nó, đó là tự thắng mình, thắng được phiền não sân giận. Thế là mình được an ổn và mối quan hệ giữa mình và người bình thường vui vẻ, không có chuyện buồn ghét xảy ra.
Thế nên nói người biết tu, vui khi thắng được phiền não, một cơn giận một niệm buồn khởi lên, liền biết dừng ngay. Cứ thế mà tu tỉnh hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm thì sự an vui cũng thường có trọn giờ, trọn ngày, trọn tháng, trọn năm... Ngược lại, hễ ai đụng tới là buồn giận, không phản tỉnh, không biết dừng thì buồn khổ mãi.
Lại nữa, người tỉnh tu vui khi làm lợi ích cho người. Ví dụ người làm việc từ thiện xã hội đem được gạo tiền, thuốc men, quần áo... đến tận vùng bão lụt, đưa tận tay cho người mắc nạn, giúp cho họ được no lòng, ấm thân... thì thấy lòng mình vui sướng, vì đã làm được điều lợi ích cho người. Người tỉnh giác càng làm lợi ích cho người, càng giúp cho người sáng ra là càng vui, niềm vui chân thật lâu dài.

Người đã phát tâm tu theo đạo Phật thì suốt đời phải tinh tấn tu hành
Gắng gỏi mà tu
Như vậy, bạn đọc nhận thấy tu là vui hay khổ? Nếu thấy tu là vui, thì hãy nỗ lực cố gắng tu, để trở về cái chân thật hằng hữu được cái vui bất tuyệt. Ở thế gian này có ai giàu có thọ hưởng ngũ dục một cách đầy đủ mà khỏi đau bệnh, già yếu, chết chóc không?
Từ ngàn xưa đến nay không ai tránh khỏi! Thế mà hưởng được cái vui giàu sang sung sướng chỉ được mấy mươi năm, chúng ta tưởng là lâu dài, rồi cứ mãi mê đuổi bắt nó. Khi nào chúng ta thoát ra khỏi cái khổ sinh tử thì mới được cái vui chân thật lâu dài.
Nếu còn ở trong sinh tử dầu có nhiều tiền lắm của rồi cũng tiêu hoại. Chỉ có người biết trở về cái chân thật, tâm hết vô minh phiền não mới thoát khỏi mọi khổ đau, được cái vui chân thật bất diệt.
Qua những dữ kiện vừa nêu, cho chúng ta thấy người đời không sáng suốt lấy cái khổ của người làm cái vui của mình; vui trên sự đau khổ của người và vật. Còn người chân chính tu hành hằng sáng suốt không bao giờ thừa nhận mình vui trên sự đau khổ của người vật, mà ngược lại lấy cái vui của mình, đem sự an vui đến cho người vật.
Tất cả chúng ta phát tâm tu là phát nguyện sống đời an vui bất tận, chẳng những trong đời này mà vĩnh viễn về sau. Muốn được như thế phải nỗ lực tu hành. Người tu hành thoạt nhìn thấy như thiệt thòi khổ sở vì không thọ hưởng những cái vui sướng của thế gian, lại khép mình trong giới điều nghiêm ngặt để tinh tiến tu hành.
Vậy, người đã phát tâm tu theo đạo Phật thì suốt đời phải tinh tấn tu hành, chứ không phải tu một thời gian rồi ngừng nghỉ không tu nữa. Nhất là người già phải nỗ lực tu nhiều hơn, vì già cái khổ tử vong gần kề, nếu không lo tu hành khi cái chết đến làm sao trở tay kịp?
Thế nên người phát tâm tu chẳng những khi còn trẻ lo tu hành mà lúc già lại phải tu nhiều hơn, như thế mới có được nguồn an vui chân thật, dứt mọi khổ đau.
Tóm lại, đạo Phật là đạo diệt khổ, đem vui đến cho chúng sinh, và chính đạo Phật là chỗ an bình, là chỗ nương tựa an vui chân thật, muôn đời của tất cả loài người…
Bình luận 0 Thích Thanh Từ

Tâm hồng danh chiếu ra miền Cực lạc

Tâm hồng danh chiếu ra miền Cực lạc

Đăng lúc: 08:56 - 29/11/2015

Hãy tưởng đến cảnh, người Phật tử ngang qua ngọn núi, thấy một tượng Phật liền dừng chân lễ bái. Lễ xong tới gần, chạm tay vào, bỗng giật mình. Hư không. Tìm hiểu mới hay tượng Phật cổ này vốn bị kẻ ác phá hủy, những nghệ sĩ đích thực tiếc nuối liền cúng dường bằng cách dùng ánh sáng 3D chiếu ra một hình tượng Phật (ảo) y như cũ.

Con người cũng đang liên tục phát xuất ý niệm (chiếu ra) từ vọng tâm, chiếu vào nhau, “mặc định” tính cách cho nhau. Cho đến một ngày tu hành chứng quả, vọng tâm vụt tắt, an trú trong chân tâm và do đó trước mắt “họ” chúng sanh đều mất, thay vào ai cũng đều cùng Phật (tánh).

anhmh.jpeg
Vọng tâm mỗi chúng ta có đầy đủ đức tính của bất cứ người nào; nói ngược lại, thực chất phàm nhân trên trái đất là do vọng tâm ta chiếu (ảnh) ra mà có. Người kia báng Phật, trong ta có chủng tử này, chỉ là nhờ công phu nên không khởi hiện. Mụ B độc ác - trong vọng tâm ta có chủng tử này; anh X hiền lương nhẫn nhịn - vọng tâm ta có đức tính này; cô hàng xóm hay xỏ xiên ganh tỵ - vọng tâm ta cũng chứa mẫu hình này, v.v... và v.v... Hết thảy nói chung, bởi là hàng xóm, là họ không thân thích lắm với ta nên cũng ảnh hưởng không nhiều với bản mệnh của ta.

Ta tác ý đến đối tượng, đối tượng liền thay đổi. Ta tác ý xấu đến nước, nước chuyển xấu (độc), và ngược lại; điều này khoa học đã chứng minh. Ta tác ý đến người, người biến đổi chăng? Có. Bởi người đa phần là nước, là từ vô vàn phân tử cấu thành. Tác ý đến cục đá, cục đá biến đổi chăng? Là có. Chỉ do mắt ta không nhìn thấy thôi. Bởi cục đá là duyên hội tụ của các hạt lượng tử. Các hạt siêu nhỏ ấy luôn không ngừng dao động song mắt thường nào có thấy. Nghệ sĩ nhiếp ảnh, chưa nói họ chụp cảnh động, chụp tĩnh vật cùng một góc, sẽ có sự khác nhau. Là do mỗi người tác ý vào tĩnh vật ý niệm không đồng. Chẳng những người, cục đá, nước bị ảnh hưởng theo ý nghĩ, mà cả vũ trụ đang biến đổi theo ý niệm tác khởi từ tâm chúng sanh trong các cõi.

Ngược lại, cái tạo nên bản tính cố hữu của ta lại chính là sự cộng gộp của những người ít nhiều có mối liên hệ (thông qua lục căn) với ta đó. Chẳng hạn Z hay rượu chè, thiếu trách nhiệm với gia đình và cơ quan. Ban đầu chỉ là thói quen, nhưng làng xóm hễ thấy Z hoặc nghe đến tên Z liền khởi ý nghĩ: ờ, gã ấy nát rượu lắm, bê trễ lắm; họ giữ chặt ý nghĩ này. Hỏi trong tất cả những người quen thân với Z, mấy người có cái nhìn tiến bộ. Kể đến những người mới quen Z, nghe qua liền nắm ngay ý nghĩ (mang tính “chân lý” đám đông) đó, vậy là Z nhận thêm từ trường xấu. Điều này thực sự nghiêm trọng. Z không biết đang sống bởi sự quy định nghiệp xấu từ cảm quan (“vô thức tập thể”) quanh mình. Ý niệm tạo vật chất, tạo cảnh giới, bởi xét đến cùng ý niệm cũng là vật chất, một loại vật chất mắt thường không thể thấy. Sự hội tụ của ý niệm sẽ kết thành năng lượng siêu nhiên dẫn dắt tương lai của chúng sanh.

Hồi tôi ở Thủy Dương, có hai mẹ con, mỗi lần đứa con gây gổ với ai hay rượu chè be bét, bà liền tung câu: “Ôi Ch. ơi tau chết theo mi. Tau chết theo mi liền Ch. ơi”. Rồi tối đó Ch. tông xe vào cột điện chết. Đưa xác Ch. về đến nhà độ nửa tiếng, bà mẹ nom vẫn tỉnh táo, mua nhang về, bỗng hét “Ôi Ch. ơi...” và chết. Hai quan tài đặt song song trong ngôi nhà nhỏ. Quá thảm! Xưa nghe câu cửa miệng của bà mẹ trên đến mỏi tai, chả để ý, bây giờ học Phật, nhớ lại chuyện này tôi không phải giật mình, mà rùng mình!

Trở lại với Z, y cứ thế nát rượu, cứ thế bê trễ trách nhiệm với gia đình xã hội, để rồi chút ý chí mong manh không thể chống lại “trường năng lượng” chung quanh. Rõ hơn, ta có thể xem Z như một tác phẩm tượng mới hơi hướm hình dạng, được trưng diện để mọi người cùng tô đắp, đa phần sẽ theo hình dạng hiển lộ ban đầu. Mỗi người góp vào một bay hồ, Z lần một hiện rõ hình dạng và nhân cách. Bây giờ hãy nghĩ khác. Rằng Z chuyển đến một nơi xa xôi, (tốt nhất gần thiên nhiên), tạm thời không gặp không liên lạc với những người quen cũ. Lâu dần họ sẽ quên Z. Z tới vùng đất mới với những người mới, họ có cái nhìn khác về Z. Cốt yếu là ngay từ lúc gặp hàng xóm, Z phải chỉnh sửa thân tâm, gieo ấn tượng tốt. Người ta nhìn Z khác đi, đẹp đẽ sinh khí hơn, có ích hơn, một lan ra mười người… cứ thế Z tự nhiên được bao bọc bởi một trường năng lượng sạch. Nhưng đây chưa là cứu cánh, chưa thể nói Z đổi được tương lai xán lạn.

Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực để cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết. Ý dẫn đầu các pháp. Cải đổi vận mạng, phải từ gốc cải đổi ý niệm, từ bất thiện qua thiện, từ thiện quy về kinh điển, quy về một câu chú, câu Phật hiệu, từ có (niệm ấy) trở về vô niệm. Tâm rỗng rang. Tuy, niệm Phật, không hẳn ai cũng biết cách. Đơn giản nhất cũng phải nghe rõ chữ mình niệm, từng câu nối nhau không đứt. Hơn thế, nếu cứ duy trì tâm niệm này dễ rơi vào tâm đề phòng (vọng niệm), khởi bực lúc niệm xấu xen vào, theo đó niệm ác bị coi khinh, bị đè nén để thế vào niệm thiện v.v...; là ta đã đặt vào đó một “người quan sát”, để tạo nên hoặc tiếp nguồn năng lượng cho cái gọi vọng tâm. Xét ở thiền, ban đầu ta khởi ý diệt trừ vọng ác thay bằng vọng thiện; lúc thiện niệm đã tăng, một niệm ác khởi sẽ làm ta khó chịu hơn trước.

Rốt ráo ở thế gian pháp, chân tâm trở thành vọng tâm là bởi ta đặt vào người quan sát (bát phong), thực tế chân tâm vốn dĩ cũng là cuộc tương tục của ý niệm (tịnh khiết). Bởi, thường trong nhà Thiền hay nghe câu: Chân tâm vô niệm! Một bậc chân tu từng khai thị: “Chớ nghĩ không có một niệm gì mơi được gọi chân tâm, đấy chỉ là cảnh giới vô tưởng thiên, ở đây vô niệm cần phải hiểu là không tà niệm, không có niệm phân biệt thiện ác, chẳng dính hai bên, trung đạo cũng không lập, khi đó thì niệm niệm đều tuôn chảy tương ứng với tự tánh bất nhị, đấy là cái theo ngài Huệ Năng gọi là Đạo tự nhiên, theo Krishnamurti thì là trạng thái sáng tạo khi không còn người quan sát - vốn khi không tự dựng ra để tự triền phược mình, xung đột với chính mình, nhưng đấy chẳng phải là chỗ kẻ sơ cơ có thể sờ đến được; trong kinh Hoa nghiêm gọi là vô công dụng đạo, chính là cảnh giới sơ trụ Bồ-tát. Kẻ sơ học tưởng chỉ nên biết qua thôi còn chỗ dụng công của mình phải nên y pháp của ngài Thần Tú mơi là đắc lực: Ngày ngày thường lau chùi chớ để dính bụi”.

Cũng là từ lý kinh “phiền não tức Bồ-đề”, chân vọng vốn không hai. Lúc vào tu, Phật pháp sẽ soi thấy mình xấu, vậy là người quan sát liền bê về một người tốt đòi thay vào bằng được. Giống như ta thừa tiền (phước) nên thuê một người về gác cổng nhà mình; từ đây tạo nên tâm phân biệt, tâm đề phòng lúc nào không hay. Bên trong luôn đề phòng niệm xấu ác, rồi đề phòng bất cứ niệm gì ngoài kinh; bên ngoài thì đề phòng kẻ trộm, nhà lúc nào cũng khóa, đồ vật hở chút là sợ đánh cắp. Lý này tưởng trái ngược thiền, song là cần thiết tham khảo đối với những người đã, tạm gọi vào được công phu.

Quán niệm, ta phải phân định thiện hay bất thiện, cái nào giữ cái nào không, dần dà mới vượt lên niệm thiện niệm ác. Niệm Phật thì ngay từ lúc nhập môn đã không cần phân biệt niệm thuộc loại gì, giữ hay không, cứ mặc nhiên luồn vào câu Phật hiệu (theo vọng tâm).

Hễ khởi niệm là thay bằng “A Di Đà Phật”; thay một cách nhẹ nhàng; kết hợp có hình ảnh xấu hiện lên, ta luồn ngay vào khuôn mặt Phật, Bồ-tát hoặc Tổ sư Đại đức thờ phụng trong nhà. Sự thế vào này dĩ nhiên niệm vọng không biết (đã bị thay); “người quan sát” cũng không biết, nên dần dà nó thành đồ thừa, tự khắc tự sa thải.

Tâm giống như dòng nước tuôn chảy không ngừng, việc của ta là gửi vào câu Phật hiệu, gửi càng lúc càng dày, đến một lúc sông tâm không (còn) thấy nước cũng không thấy rác, mà toàn “A Di Đà Phật”. Thể tánh của sông vốn là nước, giờ thể tánh của sông tâm là “hồng danh”. Dòng sông tâm thức A Di Đà Phật mênh mông sáng rực không bờ bến, ào ạt chảy về Tây phương Cực lạc; là cảnh giới Tam muội (minh tâm).

Vũ trụ chuyển động không ngừng, trái đất chuyển động không ngừng, tâm ta cũng không ngừng vọng động. Nó vọng động bởi quá nhiều tạp niệm. Ai đó hãy thử ngồi xuống nhắm mắt cố tĩnh tâm, cố gắng không nghĩ gì mới biết thế nào là tạp niệm. Tâm ta nghĩ quá nhiều, mà phần lớn đều bất thiện. Người dừng được tất thảy vọng niệm, chỉ khởi một câu chú hay câu Phật hiệu A Di Đà, dần dần pháp đó cũng mờ, mất dần, trả lại sự trong lặng tuyệt tĩnh mà tâm vẫn hằng sáng, họ có thể ngồi như vậy hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, thậm chí nhiều thế kỷ, gọi là cảnh giới Niết-bàn, muốn tác ý “sống” trở lại thì sống, muốn về cõi Phật thì về, muốn để lại nhục thân bất hoại thì để. An nhiên cùng cực.

Bởi là tâm phóng chiếu, người tu thực sự đạt định thì nhìn đâu cũng yên bình. Hành giả Tịnh tông nhìn ai cũng thấy (tâm họ) là A Di Đà Phật. Bởi là tâm phóng chiếu, nhỡ có bị chửi, thì với họ, người chửi kia thực đang niệm hồng danh; nhỡ ai đó đang báng pháp mình theo, thì với họ người kia cũng thực đang niệm A Di Đà Phật vậy.
Hồ Dụy

Tự lực là con đường dẫn đến thành công

Tự lực là con đường dẫn đến thành công

Đăng lúc: 06:51 - 29/07/2015

Trong cuộc sống, chúng ta làm việc cũng giống như quả bóng bằng cao su, khi rơi xuống đất nó sẽ tưng lên. Chính vì thế, ta có thể thay đổi nghề nghiệp sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Gia đình, sức khỏe, bạn bè và tinh thần, lại được ví như những quả bóng bằng thủy tinh, nếu lỡ tay đánh rơi thì chúng sẽ trầy trụa, bị nứt, bị hư hoặc bị vỡ nát. Khi đó, ta khó mà hàn gắn và sửa chữa lại được.


Cũng vậy, khi ta không biết giữ gìn sức khỏe mà lao vào những thú chơi vô ích, thức suốt sáng thâu đêm để cờ bạc, rượu chè, hút chích, đàn điếm mà lãng phí thời gian một cách vô tích sự. Ai đã lỡ vướng vào vòng này thì thân tàn ma dại, sống thì làm khổ gia đình người thân, chết thì bị đọa lạc vào ba đường dữ, chịu khổ báo vô số kiếp không có ngày cùng.
Đến khi trở lại làm người thì thân thể xấu xí, đen đúa, bệnh tật, cô đơn, không người nuôi dưỡng. Gia đình là tổ ấm để chúng ta nương tựa, là nền tảng vững chắc nhằm phát triển một xã hội tốt đẹp.
Một con người tốt, một gia đình đạo đức, một xóm làng sống có nghĩa tình, biết thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, thì thế gian này sẽ là thiên đường hạnh phúc. Ngược lại, nếu ta sống không hiếu thuận với ông bà cha mẹ, không biết kính trên nhường dưới, vợ chồng không biết thông cảm và tha thứ cho nhau, không biết nuôi dạy con cái làm điều thiện lành tốt đẹp, không biết sống có chừng mực đạo đức, “muốn ít biết đủ”, thì ta sẽ dễ dàng bị tha hóa, sa đọa, mà bị dòng đời cuốn trôi.
Một khi con người đã sống thiếu hiểu biết thì rất nguy hại cho gia đình, xã hội, tình cha nghĩa mẹ không còn, tình chồng vợ cũng bị phôi phai, chia lìa, con cái cũng bị ảnh hưởng mà không có chỗ tựa nương. Nói chung, một con người hư hại làm khổ lụy bao nhiêu người thân và làm xã hội thêm nhiều gánh nặng.
Nhiều người dính vào tệ nạn xã hội dẫn đến trộm cướp, lường gạt, giết hại lẫn nhau. Có tệ nạn xã hội, có phạm pháp thì phải có chỗ dung chứa tội nhân, nên cứ thế con người mãi nghèo nàn, lạc hậu và trình trạng đạo đức, nhân phẩm con người càng bị xuống cấp trầm trọng. Đó là nỗi đau chung cả nhân loại phải gánh lấy, dần rồi tình người không còn nữa và con người dễ dàng sống trong vô cảm.
Chính chủ nghĩa tiêu thụ vật chất quá lừng lẫy làm con người mỗi lúc mỗi xa rời nhau, bởi thời gian ngồi lại bên nhau tâm tình, sẻ chia không có. Gia đình là nền tảng của xã hội, vậy mà ba thế hệ ông bà, cha mẹ, con cái không có cơ hội để sống yêu thương, hiểu biết. Xã hội càng nghèo nàn lạc hậu thì con người càng mê tín, mù mờ, càng sống theo chủ nghĩa tiêu thụ vật chất nên tình người dần rồi không còn nữa.
Chính vì vậy mà Phật dạy ta phải “muốn ít biết đủ” để có cơ hội cùng giúp đỡ sẻ chia, mà cùng cảm thông nỗi đau của người khác. Cái gì cần xài ta mới xài, để có dư chút đỉnh mà mở rộng tấm lòng, với tinh thần lá lành đùm lá rách. Khi đau yếu, bệnh hoạn, ta mới thấy sức khỏe là quý. Khi sa cơ, thất thế, ta mới thấy tình người là quan trọng. Vậy mà đa số con người chỉ biết sống vì tiền bạc, tài sản, vật chất mà đành lòng giết hại lẫn nhau.

Thế giới này là một vòng lẩn quẫn của sự hơn thua, phải quấy, tốt xấu, nên hư, thành bại. Ta cứ mãi tranh giành các thứ vật chất vô tri phù phiếm xa hoa, mà làm mất đi tình nghĩa của một con người. Vật chất là vô tri, con người là hiểu biết, là tri giác, con người là nền tảng của gia đình và xã hội. Do đó, ta cần sự yêu thương bằng trái tim hiểu biết, biết cảm thông và tha thứ, biết khoan dung và độ lượng, nhưng ta lại mặc tình làm ngơ, dửng dưng, lạnh lùng, vô cảm.
Cuộc sống này sở dĩ xây dựng mở mang phát triển cũng chỉ nhằm mục đích phục vụ lợi ích con người, ấy thế mà có mấy ai có được tấm lòng rộng mở vì tha nhân? Phật dạy, “trong bầu vũ trụ bao la này, từ con người cho đến muôn loài, muôn vật đều phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống”.
Ta không làm ruộng nhưng vẫn có cơm ăn, kẻ thiếu phước thì phải cày sâu cuốc bẩm, phơi mình trong nắng mưa vậy mà đôi khi vẫn bị thiếu ăn. Ta không nuôi tằm, dệt vải, nhưng vẫn có áo quần và ta cứ như thế mà có đủ các thứ phục vụ nhu cầu cần thiết trong đời sống hằng ngày.
Sức khỏe của ta và những người thân yêu nếu để mất đi thì khó tìm lại được. Bạn bè cũng rất quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, nó là nhịp cầu nối kết để cùng nhau chia vui, sớt khổ. Có gia đình, có bè bạn, có sức khỏe, ta có thể sống vui, sống khỏe mà cùng nhau gầy dựng sự nghiệp giống nòi nhân loại.
Tinh thần lại càng quan trọng hơn hết, ta có hiểu biết, ta có nhận thức sáng suốt, nên biết tiếp nhận những thứ gì cần thiết. Nhờ vậy, ta sống có định tĩnh chừng mực nên khi được lợi lộc ta không vì nó mà tham đắm, mê mờ. Ngược lại, khi bị mất mát ta cũng không quá sầu bi, khổ não, do đó ít bị hai thứ được mất, hơn thua làm tổn hại tinh thần, nhờ ta thường xuyên biết quay lại chính mình mà thân tâm luôn được an ổn.
Tóm lại, ta muốn thành đạt trong cuộc sống thì trước tiên phải có ý chí và nghị lực, biết tranh thủ tận dụng hoàn cảnh sống của mình vì ta có hai bàn tay và khối óc. Như anh ăn mày cụt tay kia, nếu không được bà già cho một liều thuốc bổ tự lực cánh sinh, thì chắc có lẽ anh sẽ chịu chết chìm trong cuộc đời bần cùng, đói rách. Lần đầu tiên rinh gạch một tay gần hai tiếng đồng hồ, anh chắc phải chịu nhức mỏi, ê ẩm cả người. Nhờ vậy, anh học được cách thức làm người “sống phải có lòng tự trọng”.
Khi còn nhỏ dại, ta đương nhiên phải nương nhờ vào sự giúp đỡ của cha mẹ. Nhưng nếu bất hạnh, ta không có người thân thì sao? Ta vẫn phải chấp nhận một mình đơn độc, tự mình bươn chải, để làm sao có miếng ăn mà tồn tại với đời.
Cũng như có hai đứa bé một con nhà giàu, một con nhà nghèo. Đứa con nhà giàu khi bị té ngã sẽ khóc thét lên, chờ cha mẹ đỡ dậy. Cha mẹ vì thương con nên mọi cái đều đỡ đần chu đáo khiến đứa trẻ trở nên ỷ lại, cái gì cũng đều trông chờ người khác. Ngược lại, đứa trẻ con nhà nghèo khi bị té ngã không có ai nâng đỡ, nó không khóc ré như đứa con nhà giàu, mà tự đứng lên tiếp tục bước đi.
Cũng vậy, ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai mà vững vàng đi tới, không chịu khuất phục bởi một áp lực nào.
Người Phật tử chân chính khi đến với đạo pháp, ban đầu phải nhờ vào tha lực, nhờ sự hướng dẫn của quý Thầy Cô, đến khi hiểu biết rồi phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, hành trì theo chánh Pháp. Chính vì vậy, Lục Tổ Huệ Năng nói, “Khi mê thì Thầy độ - Khi ngộ thì tự độ”.
Nhiều người chỉ hiểu biết suông nên lúc nào cũng van xin cầu cạnh người khác, cứ nghĩ rằng trời Phật sẽ ban ơn hay gia hộ cho mình, nên đành chấp nhận cuộc sống như bèo dạt, mây trôi. Họ chẳng biết suy nghĩ, tìm tòi nghĩa lý sự thật của cuộc đời, thấy ai làm sao thì mình làm vậy mà không biết đúng sai, phải trái. Tuy nhiên, sự sống này ta vẫn cần “tha lực”. Khi chưa có hiểu biết hay đủ khả năng, ta vẫn cần sự trợ giúp của người khác. Khi đã biết rồi thì chính ta phải tự lực vươn lên.
Chính vì vậy mà Phật thường nói, “ta chỉ là người Thầy dẫn đường, còn có chịu tu hay không là do ý chí và nghị lực của mọi người”. Tha lực tuy rất cần thiết cho con người bước đầu vượt qua khó khăn, thử thách nhưng nếu muốn đạt được thành công viên mãn thì ta phải tự lực vươn lên bằng chính đôi bàn tay và khối óc của mình.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 11
  • Hôm nay 1,363
  • Tháng hiện tại 63,117
  • Tổng lượt truy cập 23,469,366