Đăng lúc: 08:44 - 12/08/2019
Đăng lúc: 08:11 - 24/03/2019
Đăng lúc: 22:12 - 12/08/2018
Cúng bái tổ tiên, ông bà, cha mẹ hoặc bà con thân quyến là một trong những lễ tiết quan trọng của đời sống tinh thần, tâm linh có truyền thống lâu đời, nhằm thể hiện sự tri ân, báo ân, lòng thương kính đối với người đã chết. ...
Đăng lúc: 21:14 - 01/07/2018
Tác nhân cơ bản và quan trọng nhất ảnh hưởng đến dung mạo xấu xí, khiếm khuyết là....
Đăng lúc: 09:14 - 26/01/2018
Một người bình thường ngoài đời cứ học hành xong, có công việc, tự lo cho bản thân được rồi, bắt đầu kết hôn, có gia đình. Người ta nói là đã trưởng thành.
Còn người tu, cũng vẫn học, tùy theo khả năng mỗi người mà học. Có người thì học mỗi Trung cấp Phật học, xong rồi thôi, coi như có vốn kiến thức tạm đủ về mà tu, hay là xác định học xong về ở với Thầy tổ, không cần trụ trì, nên học nhiều cũng không làm gì.
Cũng có người học lên Đại học, xác định học xong phải đi trụ trì một ngôi chùa nào đó, rồi hoằng pháp, dạy học, tiếp Tăng độ chúng.
Cũng có người học lên Thạc sĩ, có thêm kiến thức, ít ra giá trị cũng nằm ở cái bằng so với mặt bằng chung dừng ở mức độ Đại học. Để có thể làm giáo thọ của một trường Phật học nào đấy, làm giảng sư, cũng để có vị trí nhất định trong Giáo Hội tiếp tục kế thừa những vị lãnh đạo trước.
Cũng có người lên tới Tiến sĩ, học về trụ trì một lần hai-ba cái ngôi chùa, đi giảng chỗ này chỗ kia, tổ chức khóa tu này khóa tu nọ, có vị trí đáng nể trong đội ngũ lãnh đạo Giáo Hội.
Nhưng rồi học tới đâu đi chăng nữa cũng tùy vào trình độ, hay đơn giản là nhu cầu của địa phương sinh hoạt. Quan trọng nhất, cũng là tu kiểu gì.
FB IMG 1515400368457
Vậy đó. Người tu đủ tuổi thọ Đại giới xong, học hành cũng mãn, về lại chùa xưa, Thầy Tổ hay Giáo Hội giao cho ngôi chùa nào đó về trụ trì, tự lập. Bắt đầu sứ mạng tuyên dương chánh pháp… người ta mới gọi là trưởng thành.
Ở trường Trung cấp Huế, tôi ở cùng phòng với một sư huynh người Hà Tĩnh, mới thọ Đại Giới năm ngoái, đang học Học viện năm thứ III. Thọ giới về xong, sư phụ giao cho cái chùa ngoài Hà Tĩnh, chùa quê, nhưng ấm áp.
Thật sự ở cùng liêu nhưng tôi với thầy ấy chẳng nói chuyện nhiều là mấy, ngoài mấy câu hỏi đáp bâng quơ, nhưng chắc cũng cả mấy ngày mới hỏi, có lẽ là không hợp cho lắm. Vậy mà cũng chung liêu được gần 4 năm rồi. Nghĩ lại thấy cái duyên nó ngộ.
Cứ mỗi tuần học xong, thầy ấy lại tất bật chạy về Hà Tĩnh, phần lo cho chùa, cửa nẻo ra sao, mùa mưa bão nước có tạt không, bà con tu tập kiểu gì. Mỗi tuần trước ngày về, lại lỉnh kỉnh đi mua một mớ đồ, sắm cho chùa từng chút, cái chuông, cái mõ, ông Phật… đủ thứ.
Tháng nữa chuẩn bị Tết, thầy đi in lịch, tặng bà con trong làng cho vui. Tết người ta vào nhà chúc Tết, thấy cái lịch trên tường có tên nhà chùa tặng, cũng nở mày nở mặt.
In lịch xong, lấy về. Thầy ấy mở ra coi, săm soi từng tờ, lật lật, nâng niu như sợ nó rơi số ra ngoài. Đếm, rồi lại lật. Tôi ngồi bên giường, thầy ấy không nói, nhưng chắc là thầy vui lắm.
Vui vì lần đầu tiên mình đi tặng lịch Tết. Lần đầu tiên cho người ta cái thứ mà hồi nhỏ cứ nghĩ là phải làm gì ghê gớm lắm mới có lịch đem đi tặng.
Vui vì trên tờ lịch đó in tên chùa mình, mặc dù hổng phải tên mình, nhưng cũng vui, bởi chùa đó, mình trụ trì chớ ai.
Vui vì rồi cũng có ngày đường đường chính chính cầm tờ lịch trên tay đi tặng bà con, bạn bè với danh xưng ông trụ trì. Nhất là, về nhà đưa mẹ, con trai mẹ làm trụ trì rồi. Mẹ cầm tờ lịch, tay rờ rờ trên cái tên chùa, hổng có quà Tết năm nào mẹ vui như năm nay.
Nghĩ cũng lạ, trụ trì rồi, người ta cứ tất bật, nhưng cũng hay vui, vui từ mấy cái nhỏ nhất.
Trụ trì rồi, không còn là công tử ở với sư phụ nữa. Bắt đầu tung cánh, bay đi, bay đến nơi nào cần. Đi mà ban rải chánh pháp. Cũng đồng nghĩa với việc không còn nhõng nhẽo với sư phụ nữa, bây giờ có gì phải tự lo, tự xử với bất trắc của cuộc đời.
Trụ trì rồi, nghĩa là thời gian dành cho sư phụ cũng ít đi. Phải lo cho Phật tử riêng, trăn trở với việc chùa. Nghĩa là bữa cơm với sư phụ cũng ít dần, lâu lâu cũng chỉ là bữa cơm hội ngộ ngày có giỗ. Nghĩa là không còn nói chuyện tâm sự nhiều với sư phụ, vài ba bữa một cú điện thoại xa, hỏi thầy có khỏe không, thầy ăn cơm có ngon miệng không, huynh đệ ở chùa có làm thầy vui không, hay lâu rồi con không về thầy có buồn không. Rồi cũng có những cuộc điện thoại ngây thơ về sư phụ, đòi chỉ cách xử lý mấy việc không tên mà ngày xưa, sư phụ làm có bao giờ chịu hỏi.
Trụ trì rồi, tự nhiên nhiều lúc thấy nhớ chùa xưa da diết. Nhớ tiếng mõ lốc cốc của chúng điệu chiều công phu, nhớ tiếng hồng chung giật mình ngáy ngủ lúc 4 giờ sáng. Nhớ cái nhà bếp thầy trò ngồi ăn cơm mà rôm rả, cũng nhớ luôn cái ghế ngồi bao nhiêu năm trời muốn chai đít, hổng biết mình đi rồi, đứa nào ngồi chỗ đó. Cũng nhớ luôn bà nhà bếp nấu ăn, vui thì cười ha hả, buồn thì bỏ muối cho đậm đà món ăn. Nhớ mấy cái la rầy của ông sư phụ, mà không biết, sư phụ cả đống chuyện phải lo. Nhớ cây chôm chôm sau hè, bữa có trái cả chùa cứ quấn quanh khen chê đủ kiểu, bây giờ hổng biết mùa này chôm chôm có ngọt hông. Vậy đó, đêm về nằm trong căn phòng mới, tự nhiên bao nhiêu kỷ niệm ùa về, chảy nước mắt, tự nhiên thèm nhỏ miết, đừng có lớn để đi trụ trì, xa chi rồi nhớ…
Trụ trì rồi, là bao nhiêu việc phải lo, toàn là mấy việc trước giờ thấy sư phụ làm tưởng dễ lắm, bây giờ một chút thôi cũng mệt, tự nhiên thấy thương sư phụ quá chừng.
Trụ trì rồi, có Phật tử riêng, bắt đầu dạy bảo, hướng dẫn đủ điều, mới thấy chúng sanh khó độ, tự nhiên thấy hối hận ngày xưa thấy Phật tử chùa người ta, cứ bảo Phật tử chùa đó gì kỳ vậy.
Trụ trì rồi, được người ta gọi làm sư phụ. Mới biết gọi thì dễ mà làm hông có dễ, sư phụ thì phải đàng hoàng, sư phụ thì phải nghiêm khắc, sư phụ thì phải quan tâm, sư phụ thì thương nhưng vẫn đánh, tự nhiên thấy từ sư phụ sao thiêng liêng quá, ngẫm lại thấy sư phụ mình ghê thiệt.
Trụ trì rồi, bắt đầu gánh những điều tiếng, lời ra tiếng vào, thị phi dư luận đủ trò. Lần đầu mới thấy bị tổn thương, mới biết cảnh làm dâu trăm họ, mới hiểu thế nào là ức chế. Bây giờ mới hiểu chữ Nhẫn ngày xưa thầy dạy.
Trụ trì rồi, là có đệ tử, bắt đầu có con rồi. Mới biết có con mệt ra sao, trời lạnh không biết nó lạnh không, lặng lẽ tạt qua phòng kéo chăn lên cho nó, thấy nó ăn cơm ít, tưởng bệnh, đem dĩa mãn cầu mới hái xuống cho nó, kêu thầy không thích ăn mấy cái này. Làm thầy mới biết thấy nó hư, phải đánh, phải la, mà trong lòng đau như đứt. Làm thầy rồi là tập không biết khen, nó làm gì cũng chê, để dạy nó đừng kiêu ngạo nghe con… làm thầy rồi mới biết, ngày xưa hiểu lầm sư phụ đủ thứ, tự nhiên thèm chạy về ôm thầy quá chừng.
Trụ trì rồi, Tết không còn cảnh huynh đệ quầy quanh sư phụ xin lì xì, không nghe sư phụ chúc từng đứa nữa mà đổi lại năm nay, mình phải chuẩn bị tiền đặng lì xì người ta, xung quanh toàn mấy gương mặt mới, lạ nhưng ấm áp, có cái gì đó vui trong lòng.
Trụ trì rồi, có tiền hơn rồi, nhưng không phải để mua quyển sách ngày xưa thích đọc, hay may bộ đồ màu mới. Mà lại đi sắm đồ để ở chùa, mua cái chén cho Phật tử về ăn cơm, sắm cái mền cho người ta đắp, hay bắt thêm mấy bóng đèn ngoài sân sợ tối về tụng kinh họ hổng thấy đường.
Trụ trì rồi, hình như mắt sáng hơn. Cái lá rụng sau cửa chùa cũng thấy, vết bụi nhỏ trên tượng Phật trong chánh điện cũng thấy, cây chổi quét nhà gãy cán nhét vội sau vườn cũng thấy, kể cả trái ổi nâng niu mấy ngày trời chờ ngày thơm để hái mà chiều nay đâu mất tiêu… thấy rồi lại tự tay mà làm, tự cầm cây chổi quét cái lá, thấy nhớ cái thời làm điệu ngày xưa, tự nhiên thương cái chùa mình vô cùng, như bản thân mình vậy, dơ một chút, chịu không nổi.
Lạ vậy đó.
Trụ trì rồi tự nhiên con người ta khác đi, thấy mình trưởng thành hơn, biết nhẫn, biết đau, biết tổn thương, biết ngã, biết tự đứng lên… nghĩ cũng lạ.
Nói gì nói, tôi viết bài này cũng chưa làm trụ trì, thấy sao kể vậy. Nhưng viết xong rồi mới thấy mình may mắn, bởi chưa có trụ trì, để có thời gian trân trọng những thứ đó hơn, để sau này không phải tiếc nuối, ngồi trước cổng chùa cầm cái nón ngó về chùa xưa, chảy nước mắt mới giật mình, trụ trì rồi…
Tác giả bài viết: Mộc Trầm
Đăng lúc: 09:49 - 05/01/2018
Chiều ngày 17/11 Đinh Dậu, Nhân ngày Khánh Đản Đức Phật A Di Đà - chùa Đức Hậu tổ chức lễ quy y Tam Bảo cho hàng trăm quý thiện nam tín nữ. Đây là buổi lễ quan trọng, là buớc khởi đầu trên đường tu tập để đi đến mục đích giải thoát của chúng ta.
Đăng lúc: 07:14 - 09/12/2017
“Hãy ở đây và ngay bây giờ, và tận hưởng giây phút hiện tại chính là nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta”. Hãy để cho hương thơm của trà lấp đầy khoảng không trong tâm của bạn cho đến khi không còn chỗ cho những suy nghĩ. Hãy để cho “cái tâm hay suy nghĩ” trở thành “cái tâm thưởng trà”.
Đăng lúc: 07:58 - 25/11/2017
Đến lúc nằm trên giường bệnh, nhiều người lúc đó mới thấy chuyện người khác nghĩ gì, chê bai gì, là chuyện không quan trọng gì hết. Họ chỉ muốn được vui, được cười, được hạnh phúc.
Đăng lúc: 11:06 - 26/09/2017
Khóa tu chỉ có bảy người, trong đó có hai tu sĩ (đã xuất gia từ thuở nhỏ), còn lại là nam cư sĩ. Cả đoàn lặng lẽ lên núi, trú nhờ nơi gian nhà tổ của một ngôi chùa. Chùa xa và nghèo, nên chùa vắng; thuận tiện cho khóa tập; duy chỉ không có người “phục vụ” nên đoàn phải mang theo lương thực-thực phẩm đủ dùng cho hơn một tháng. Mỗi ngày, công việc chính của đoàn là bốn thời thiền tọa, mỗi thời khoảng hai giờ. Thời gian còn lại dành cho việc chẻ củi, lặt rau, bếp núc… Nghĩa là không có thời giờ trống…
aminhhoa.jpg
Ảnh minh họa
Khoảng giữa khóa thiền, một hôm có đôi vợ chồng đến gặp thầy, dắt theo người con gái để nhờ thầy trị bệnh. (Không biết do đâu mà dẫn đến việc nhờ trị bệnh này, vì khóa thiền diễn ra rất âm thầm!). Người con gái khoảng hơn hai mươi tuổi, sắc mặt hồng hào, không có vẻ gì là người có bệnh. Bệnh, theo lời đôi vợ chồng nói, là không hiểu sao, ngày nào người con gái cũng múa hát cười cợt lung tung…
Nhìn chăm chú người con gái giây lát, thầy hỏi: Có phải cháu thích ăn kẹo bánh và cứ chiều chiều, là cháu mới lên cơn, phải không? Đôi vợ chồng thưa: Quả thế thật. Cháu còn thích mặc áo quần đẹp nữa. Gia đình đã đi tìm thầy chữa hơn ba năm rồi mà thầy nào cũng… lắc đầu. Nhờ thầy làm ơn làm phước…
Thầy bảo hai vợ chồng đưa cháu về, vài hôm sau sẽ gặp lại.
Đêm ấy, thầy khó ngủ, cứ đi đi lại lại trước sân chùa…
Trong buổi uống trà sáng hôm sau, mấy huynh đệ được thầy cho biết, người con gái ấy bị một vong trẻ con đeo bám lâu ngày nên mới có những biểu hiện như thích ăn bánh kẹo, thích mặc áo quần mới… Thầy đang phân vân, chưa chọn được cách giải quyết chu toàn.
***
Mấy ngày sau, cả nhà người con gái ấy trở lên núi. Thầy cho bệnh nhân ngồi chính giữa bộ phản gỗ lớn đặt bên phải gian nhà Tổ, hai bên và phía sau bệnh nhân, thầy bảo ba huynh đệ cùng đặt tay lên lưng và hai vai người bệnh; thầy ngồi đối diện với người bệnh. Thầy bắt ấn, lâm râm trì chú rồi nói lớn: Đi, đi ra khỏi đây ngay, đi mà tìm nơi tu tập, nếu không ta sát! Vừa dứt lời, thầy đánh mạnh vào bệnh nhân…
***
Khi khóa thiền sắp kết thúc, gia đình bệnh nhân lại lên núi để báo tin, rằng sinh hoạt của con gái họ đang dần dần trở lại bình thường. Các huynh đệ đều chúc mừng, mong họ thêm vững lòng tin vào Phật pháp. Thầy cũng chân thành bày tỏ, rằng cái vong đeo bám cô gái là một vong hiền, nên thầy mới có thể “gọi” nó rời bỏ khỏi thân thể cô ấy. Và điều khiến thầy phải đắn đo khi trị bệnh, là làm sao vừa giúp được bệnh nhân mà vẫn không làm thương tổn đến cái vong ấy. Bởi vì nó cũng không có ác ý làm hại người bệnh, nó cũng chỉ là nạn nhân của chính những nghiệp quả đã gieo, đang trôi lăn trong dòng luân hồi u u minh minh bất tận. Thầy lưu ý cho tất cả huynh đệ hiểu-nhận sâu sắc rằng, mỗi một ấn quyết và thần chú đều có công năng riêng nhưng điều chủ yếu là phải dùng tâm từ để điều khiển khi sử dụng ấn chú vào những mục đích tốt đẹp nhằm cứu giúp người khác. Nếu đi lệch khỏi động cơ và mục đích ấy, mọi việc làm đều trở nên vô nghĩa, vô ích và có hại cho bản thân, vì nó chỉ làm tăng thêm cái “ngã” mà thôi. Và điều quan trọng nhất đối với mỗi người trong việc nhận thức về những thế giới tồn tại bên cạnh đời sống hàng ngày của con người, là sự tôn trọng đối với họ…
Buổi sớm mai, tiết trời se se. Còn lại mãi trong sâu xa của tất cả huynh đệ ngày ấy, là hình ảnh thầy vừa nâng tách trà nóng, vừa từ tốn: Đức Khổng phu tử đã từng dặn rằng: Kính quỷ thần nhi viễn chi! (Đối với quỷ thần thì kính trọng nhưng nên tránh xa). Ngài còn nói: Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã (Luận ngữ), có nghĩa là những kẻ vừa mới nghe giảng Đạo rồi đi thuật lại liền sau đó, thì xem như bỏ mất cái đức nơi mình, cũng có nghĩa là, người học Đạo cần phải có sự trải nghiệm chứ không chỉ nghe suông nói suông...
Nguyễn Đông Nhật
Đăng lúc: 08:17 - 20/09/2017
Hiếu thuận với cha mẹ, biết ơn và đền ơn là những phẩm tính đạo đức rất quan trọng. Có thể nói, ai khiếm khuyết những phẩm tính trên thì què quặt, là ngợm chẳng nên người.
Dĩ nhiên bình sinh không ai phủ nhận hiếu thuận nhưng thực tiễn đời sống thì lại khác. Tùy nhân duyên mà mỗi người thể hiện chữ hiếu khác biệt nhau theo nghiệp của mình. Nghiệp ở đây là trình độ, nhận thức, quan điểm của cá nhân về hiếu thuận để ứng dụng thực hành. Ngoài ra còn có nghiệp duyên quá khứ đeo đẳng, vay trả, chi phối lên vấn đề hiếu thuận mà người thường rất khó nhận ra hay lý giải về chúng.
Theo Thế Tôn, đối với hàng Phật tử thì trọn niềm tin Tam bảo, tịnh tín Phật-Pháp-Tăng là cơ sở quan trọng để thiết lập và thực hành hiếu đạo. Thoạt nhìn, tịnh tín Tam bảo và hiếu đạo là hai vấn đề khác nhau, ít liên quan với nhau nhưng kỳ thực chúng có liên hệ mật thiết với nhau. Đoạn kinh văn dưới đây ‘chúng sinh muốn… vâng nhận phụng sự cha mẹ, anh em’, tức là có hiếu thuận thì cần giữ vững niềm tin trong sạch ‘không di động’ vào Tam bảo, rất đáng để chúng ta lưu tâm suy gẫm.
a tinhtin.jpg
Nhen nhóm niềm tin Tam bảo - Ảnh minh họa
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Nếu cho chúng sanh muốn khởi tâm từ, có lòng tin thuần thành, vâng nhận phụng sự cha mẹ, anh em, dòng họ, nhà cửa, bằng hữu, tri thức nên đặt ở ba nơi khiến không di động. Thế nào là ba? Nên phát tâm hoan hỷ đối với Như Lai, tâm không di động, bậc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thuợng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư hiệu là Phật, Thế Tôn.
Lại nên phát ý ở trong Chánh pháp, pháp của Như Lai khéo thuyết, vô ngại, rất là vi diệu, do đây mà thành quả vị. Như thế người trí nên học để biết, cũng nên phát ý với Thánh chúng này, Thánh chúng của Như Lai thảy đều hòa hợp, không có lẫn lộn, pháp thành tựu, giới thành tựu, tam muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, giải thoát kiến tuệ thành tựu. Thánh chúng nghĩa là bốn đôi, tám bậc, mười hai Hiền Thánh. Đây là Thánh chúng của Như Lai, đáng kính, đáng quý. Đây là phước điền vô thượng của thế gian. Có các Tỳ-kheo học ba điều này thì thành tựu quả báo lớn. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 21. Tam bảo,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.362)
Tin Tam bảo là nấc thang đầu tiên trên đường đạo. Những tưởng chúng ta dễ dàng chinh phục bước căn bản này để vượt lên những thứ bậc cao hơn nhưng thực tiễn lại khác. Chúng ta đều tin Phật Thích Ca nhưng chư Phật quá khứ, vị lai thì chưa trọn (trong khi các truyền thống Phật giáo đều nói đến chư Phật trong ba đời). Chúng ta đều tin Pháp (theo truyền thống của mình, nhưng không hiểu và không chấp nhận các truyền thống khác) trong khi ‘Pháp của Như Lai khéo thuyết, vô ngại, rất là vi diệu, do đây mà thành quả vị’. Còn tin Tăng là điều khó hơn vì thánh hiền Tăng ngày càng hiếm hoi, trong khi phàm và tạp Tăng thì ngày càng nhiều. Nên việc giữ tâm ‘không di động’ với Tam bảo quả là khó khăn.
Tuy nhiên, dù khó khăn đến mấy thì ‘không di động’ với Tam bảo là thách thức mà hàng Phật tử tại gia lẫn xuất gia phải vượt qua. Vì tâm không tịnh tín (tin sâu, tin với trí tuệ), niềm tin Tam bảo mà ‘di động’ thì không thể tiến tu được. Tịnh tín rồi thì tự khắc chúng ta cảm nhận được tinh hoa, thánh thiện nơi Tam bảo, giống như nhìn đá thấy ngọc, nhìn quặng thấy vàng. Nhờ đó mà niềm tin Phật-Pháp-Tăng trong ta ngày càng sâu sắc và bất động. Từ nền tảng này, những thiện tâm như từ bi hỷ xả, tàm quý hổ thẹn sợ hãi với những đều xấu ác, tha thứ và bao dung, hiếu thuận với cha mẹ và anh chị em ngày một lớn dần thêm. Thế nên, để trọn niềm hiếu thuận với cha mẹ và anh em, người con Phật trước cần trau dồi đức tin, thâm tín Tam bảo.
Quảng Tánh
Đăng lúc: 21:54 - 17/09/2017
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạo là nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn. Trong đó, Chánh kiến tức nhận thức và quan điểm đúng Chánh pháp là chi phần quan yếu, có vị trí đứng đầu (Chánh kiến, …, Chánh định). Nhận thức và quan điểm đúng Chánh pháp sẽ quyết định sự nghiệp tu hành luôn đúng với lời Phật dạy, không bị thiên lệch, thẳng đến giải thoát Niết-bàn.
buddhism-2387822_960_720.jpg
Bát Chánh đạo là nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn
Thời Thế Tôn còn tại thế, vẫn có một số ít Tỳ-kheo nhận thức sai Chánh pháp. May thay, các vị này được Thế Tôn nghiêm trách và chấn chỉnh kịp thời. Ngày nay, chúng ta tu học trong thời đại cách Phật lâu xa, Thánh tăng ngày càng ít, trong khi hầu hết là phàm và tạp tăng, cùng với sự nhận thức và diễn giải kinh pháp theo tư kiến chủ quan ngày càng gia tăng khiến cho người sơ học gần như lạc lối trong rừng giáo pháp, mỗi người nói một phách nên chẳng biết theo ai, khó phân định đúng sai, tà chánh. Hơn lúc nào hết, người tu Phật hiện nay cần bám sát những lời dạy của Thế Tôn được bảo tồn trong Kinh tạng để thiết lập và nêu cao Chánh kiến.
Chánh kiến tuy có nhiều tầng ý nghĩa, sâu cạn khác nhau nhưng căn bản vẫn là: Tin hiểu Nhân quả-Nghiệp báo; Tin sâu Bốn Thánh đế; Thấy rõ thực tính Duyên khởi-Vô thường-Vô ngã của vạn pháp; xác quyết Giới-Định-Tuệ là cốt tủy của mọi pháp hành nhân danh Đức Phật. Nên những nhận thức, quan điểm, phương pháp tu tập và hành đạo mà xa lìa những đặc điểm then chốt này sẽ lập tức rơi vào tà kiến, phi Chánh pháp. Vấn đề đặt ra là mỗi người nên thiết lập Chánh kiến cho mình bằng cách nào? Văn-Tư-Tu là con đường làm cho tâm thông trí sáng. Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ hay tức Giới, tức Định, tức Tuệ cũng khiến vô minh diệt, minh sanh. Từ thức tri, tiến lên thắng tri và thành tựu liễu tri. Trong pháp thoại dưới đây, Thế Tôn đề xuất hai pháp “nhận lời dạy dỗ và suy nghĩ về Chỉ, Quán trong lòng” chính là “hai nhân, hai duyên khởi ra Chánh kiến”.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Có hai nhân, hai duyên khởi ra Chánh kiến. Thế nào là hai? Nhận lời dạy dỗ và suy nghĩ về Chỉ, Quán trong lòng. Như thế, Tỳ-kheo đối hai nhân, hai duyên khởi ra Chánh kiến. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 15.Hữu vô,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.198)
Theo Thế Tôn, muốn thành tựu Chánh kiến trước hết phải “nhận lời dạy dỗ” cho tứ chúng. Giảng dạy cho người đi sau, cho Phật tử và cho tất cả mọi người biết Chánh pháp. Thật là sai lầm khi không ít Tăng Ni chúng ta ngày nay có xu hướng phó thác việc giảng dạy này cho các vị giáo thọ, giảng sư. Mà đúng ra, mỗi vị Tăng Ni và Phật tử đều phải là giáo thọ, giảng sư. Chư Tăng Ni hiện nay tụng niệm nhiều nhưng ít khi thuyết pháp, giảng dạy trong các khóa lễ. Có thể chư vị biết mà không dạy nhưng cũng có thể không biết nhiều để dạy hay không nhận ra tầm quan trọng của việc giảng dạy giáo pháp. Nên Thế Tôn thật thâm thúy khi đưa ra nhân duyên “nhận lời dạy dỗ” này. Muốn dạy người thì trước hết tự thân mình phải học tập, nghiên tầm giáo pháp. Một khi đã có hiểu biết giáo pháp sâu sắc thì thiết lập được Chánh kiến. Nên giảng kinh, thuyết pháp, dạy người mà thực chất chính là xây dựng Chánh kiến cho mình.
Kế đến, muốn thành tựu Chánh kiến phải “suy nghĩ về Chỉ, Quán”. Tu tập thiền Định và thiền Tuệ, cách gọi khác của Chỉ Quán chính là cơ sở hình thành Chánh kiến. Nói rõ hơn là phải tu tập, thực hành giáo pháp thì Chánh kiến mới phát sinh. Tâm có định thì trí mới sáng, trí sáng tỏ rồi thì liền hết tà kiến, lầm mê. Như vậy, theo lời dạy của Thế Tôn, mỗi người con Phật dù là xuất gia hay tại gia cần phải đầy đủ pháp Học và pháp Hành thì mới có thể thành tựu Chánh kiến. Phật giáo chúng ta tự hào có Tam tạng Kinh-Luật-Luận đồ sộ, minh triết bậc nhất, nhưng thực tế thì không phải ai tự nhận theo Phật cũng có Chánh kiến. Vấn đề là, liệu chúng ta có “nhận lời dạy dỗ và suy nghĩ về Chỉ, Quán” hay không?
Quảng Tánh
Đăng lúc: 20:31 - 29/06/2017
HỎI: Nhà tôi chưa có bàn thờ Phật, muốn trì chú Đại bi có được không? Khi tôi ngồi trì chú mà trong đầu ý nghĩ lăng xăng, hoặc người hay lắc lư rồi buồn ngủ, vậy làm thế nào để khắc phục?
(TRỊNH HẢI, hai1233457@gmail.com)
trichu.jpg
Trạo cử và hôn trầm là những triền cái làm chướng ngại
công phu tu tập nên hành giả phải vượt qua - Ảnh minh họa
ĐÁP:
Bạn Trịnh Hải thân mến!
Nhà chưa có bàn thờ Phật, bạn vẫn tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tọa thiền… bình thường. Bạn cần chọn một nơi sạch sẽ, thoáng mát và yên tĩnh nhất nhà để trì chú, tu niệm.
Trong lúc tu niệm, hiện tượng “trong đầu ý nghĩ lăng xăng” gọi là trạo cử, và “người hay lắc lư rồi buồn ngủ” gọi là hôn trầm, các biểu hiện này liên tục xảy ra. Tất cả mọi người, khi thực hành công phu đều trải qua các hiện tượng trạo cử và hôn trầm này.
Việc đầu tiên, bạn hãy xem trạo cử và hôn trầm là một trong những điều rất bình thường của tâm. Từ trước đến nay, tâm của mình đã rối rắm như vậy, không phải bây giờ mới có. Nhờ tu tập nên mình có cơ hội nhận diện rõ hơn tâm của mình nhiều trạo cử, hôn trầm mà thôi.
Với trạo cử, bạn chỉ cần chú tâm vào đề mục, rõ biết các ý nghĩ lăng xăng đang trình hiện mà không nắm bắt hay phản ứng, chỉ chuyên tâm vào đề mục. Ở đây, đề mục của bạn là trì chú, vậy hãy chú tâm vào câu chú. Thân ngồi (hoặc đi, đứng, nằm) thư giãn và thoải mái, chú tâm đọc hay niệm chú đầy đủ không thiếu sót, tai nghe tiếng rõ ràng, nếu đọc thầm thì tâm cũng nghe biết tỏ tường. Các ý tưởng lăng xăng vẫn liên tục xuất hiện nhưng vì bạn chuyên tâm vào thần chú, không phản ứng lại (không nắm bắt hoặc xua đuổi) nên nó không có chỗ nương gá, tự sinh rồi tự diệt, tự đến rồi tự đi.
Khi mất chánh niệm, sự chú tâm bị gián đoạn thì tâm bị các ý niệm lăng xăng chi phối. Cần thấy rõ tâm mình đang trạo cử, đưa tâm trở về trạng thái chánh niệm bằng cách trì chú trở lại như lúc đầu. Sự chuyên chú càng lớn mạnh thì trạo cử càng yếu suy. Kiên trì, bền bỉ và tinh tấn lâu ngày ta sẽ dễ dàng làm chủ tâm, vọng tưởng thưa dần, tâm được an trú, tịnh chỉ.
Về hôn trầm, thường là khi trạo cử tạm lắng dịu thì hôn trầm xuất hiện, trạng thái thân tâm dật dờ dã dượi, buồn ngủ và ngủ gục. Khi mất chánh niệm, thiếu sự chú tâm thì hôn trầm liền chi phối. Để đối trị hôn trầm, hành giả cần điều hòa thân tâm, phối hợp cả phòng và chống. Trước hết hành giả phải thiết lập đời sống quân bình, làm việc vừa sức, ngủ đủ giấc. Kế, không ăn quá no, không uống rượu bia trước giờ công phu, áo quần cần mềm xốp, không quá chật, nới lỏng thắt lưng, ngồi nơi thoáng mát, giàu dưỡng khí. Khi ngồi cần giữ lưng thẳng, cổ thẳng, thả lỏng các cơ bắp, thân tâm thư giãn hoàn toàn. Quan trọng là luôn duy trì sự chú tâm vào thần chú, khi phát hiện bị hôn trầm, hãy khởi sự lại từ đầu.
Nếu hôn trầm kéo đến nhiều lần, hành giả có thể tạm dừng trì chú để đưa tay xoa mặt, vuốt mắt, nhéo tai, xoa bóp tay chân, xoay người qua lại cho máu huyết lưu thông. Sau đó tiếp tục trì niệm như ban đầu. Nếu hôn trầm chưa dứt, hành giả cần thay đổi oai nghi, đi rửa mặt và thiền hành (vừa đi vừa niệm chú) một lúc rồi quay về tiếp tục trì niệm. Sau nhiều nỗ lực mà vẫn hôn trầm, hành giả nên nằm nghỉ ngơi hoặc ngủ một lát, sau đó tiếp tục công phu sẽ tốt hơn.
Trạo cử và hôn trầm là những triền cái làm chướng ngại công phu tu tập nên hành giả phải vượt qua. Trong thời gian đầu khi tâm chưa thuần, hành giả cần tinh tấn, nỗ lực và kham nhẫn, không nên thối tâm và bỏ cuộc sớm. Khi hành giả thiết lập được chánh niệm, chú tâm vững chắc vào đề mục, tâm có phần an định thì hai chướng ngại này sẽ giảm thiểu dần. Tiếp tục công phu đắc định thì chúng sẽ chấm dứt.
Chúc bạn tinh tấn!
TỔ TƯ VẤN
Đăng lúc: 08:08 - 16/06/2017
Ăn chay trường là tốt nhưng ăn theo kiểu khổ hạnh khiến thân tâm đều kẹt thì cần điều chỉnh. Có một thời gian Đức Phật Thích Ca đi theo con đường tu tập khổ hạnh, có ngày chỉ ăn một hạt mè, nhưng không hề thấy kết quả tốt đẹp. Thế là Ngài thay đổi, xuống suối tắm gội sạch sẽ, và uống bát sữa của cô thôn nữ dâng cúng, rồi ngồi thiền 49 ngày đêm, đắc đạo. Bài học khổ hạnh ấy đáng cho chúng ta suy gẫm.
longbieton.jpg
Tu tập là làm cho bên trong mình sáng hơn chứ không phải làm cho bên ngoài mình cằn cỗi đi
Thân tâm đều kẹt
Hình như trong chúng ta, không ít người đã từng đi theo con đường khổ hạnh. Một số có thể thành công, nhưng một số lại sinh ra kẹt. Kẹt là vầy, cái thân thì suy kiệt, bệnh hoạn, còn cái tâm thì ngã mạn, kiêu căng. Chuyện đời khó mà lường hết được, cái tâm lại càng khó lường khi nó chuyển động…
Tôi cũng từng phát tâm ăn chay trường, và ăn được hai năm. Cái thuở mới biết đạo, tâm mình hùng dũng vô cùng, quyết đạp bằng mọi chướng ngại, bất kể quy luật của cuộc sống. Tôi làm cái nghề cứ phải đi công tác liên miên, có khi đi cả tuần mới về nhà, rồi lại đi tiếp. Mà cách đây 30 năm, ở tỉnh, ở huyện, ở các xã vùng sâu, làm gì có nhiều quán chay, thậm chí nhiều vùng không có quán chay nào. Cho nên tôi ăn chay theo kiểu khổ hạnh toàn ăn cơm với nước tương, muối tiêu. Hồi đó càng không có khái niệm ăn trứng. Nhưng tôi rất tự hào với sự kiên định của mình.
Ăn kiểu đó mà lặn lội mưa nắng, thức đêm thức hôm viết bài, chẳng mấy chốc tôi từ một phụ nữ mơn mởn đã biến thành một người má hóp, thân gầy, cao 1,6m mà nặng 32kg. Tệ nhất là, từ chỗ xông xáo vác ba-lô đi khắp nơi, tôi bỗng yếu xìu, leo lên tầng một ngôi nhà thôi đã chóng mặt, hoa mắt, thở hổn hển, thậm chí có lần suýt xỉu giữa đường. Coi như… mất sức chiến đấu.
Thế rồi… tôi sực tỉnh. Tôi nghĩ, phải chăng mình đang đi theo con đường khổ hạnh? Và nó có kết quả giải thoát hay không chưa biết, chứ biết chắc là mình sẽ chết. Tôi biết rõ cơ địa, nghiệp duyên và công việc của mình chưa đủ duyên để trường chay nên đành quay lại ăn chay kỳ mỗi tháng 10-15 ngày tùy theo tình hình đi công tác. Tôi hồi phục sức khỏe dần, năng động trở lại. Và tôi có sức để làm thêm công tác từ thiện, viết sách Phật, hoằng pháp.
Còn thêm một vấn đề nữa ngoài chuyện suy kiệt cơ thể do ăn chay kham khổ, mà tôi cho rằng vấn đề này mới thật sự quan trọng. Đó là cái tâm của tôi, khi ăn chay trường một cách kiên quyết và khổ hạnh như thế, tình cờ nó lại sinh ra ngã mạn. Từ chỗ tự hào bước qua kiêu căng, ngã mạn chỉ có một sợi tóc. Bởi vì mình thấy mình “hay” hơn người, mình thấy mình “tu” hơn người, mình nhìn mọi người chung quanh một cách coi thường, như là họ chẳng có sức tu như mình. Chưa hết, khi ăn chay trường thì tôi ngồi vô bàn tiệc với bạn bè khách khứa bằng gương mặt “cách biệt” lắm, làm như có một lằn ranh với họ, thậm chí sẵn sàng tranh luận về chuyện chay mặn, khiến nhiều lần mích lòng. Nhưng tôi chỉ thấy tôi đúng, tôi hay, còn lại mọi người là… đọa hết.
Chọn cách sống trung dung, cách ăn chay phù hợp
Vậy đó, cái tâm nó chuyển động lúc nào chúng ta không biết đâu. Và khi nó chuyển động có thể mình chẳng nhận ra. Rốt cuộc, tu cũng có nghĩa là nhận diện được tâm mình. Và tôi nhận ra, tu là càng tiến tới vô ngã, nhưng sao mình càng tu thì cái ngã của mình càng bự chảng? Vậy mình đi sai đường rồi. Tóm lại, tu kiểu này cái thân thì suy, cái tâm cũng tệ, vậy thôi… tu bình thường trở lại! Bình thường là chọn cách ăn chay phù hợp với cuộc sống người Phật tử, nhất là phù hợp với cơ thể, với công việc, là nhìn mọi người một cách dung dị, không cao thấp hơn thua. Tôi trở lại là người dễ gần, dễ cảm thông, và người ta thích tiếp xúc với tôi hơn trước.
Đó là một kinh nghiệm xương máu trên đường khổ hạnh của tôi. Sau đó tôi có quan sát thì thấy hình như một số người cũng mắc vào căn bệnh y như tôi. Vì vậy nói ra để chúng ta cùng tự điều chỉnh thân tâm.
Sinh hoạt ngoài đời cũng có những chuyện khổ hạnh. Nhiều bà mẹ, bà vợ cả đời chắt mót dành dụm lo hết cho chồng cho con, không hề nghĩ tới bản thân. Rất đáng ca ngợi. Tuy nhiên, có một số người do sống khắc nghiệt với bản thân nên tự nhiên sinh ra khắc nghiệt với người khác lúc nào không hay. Họ không dám ăn dám mặc dám chơi, cho nên khó chịu khi thấy người khác ăn mặc đi chơi thoải mái. Khó chịu, ganh tị, nói thị phi, ghét bỏ, thậm chí nổi sân, là những tâm lý có thật. Ngay cả bà mẹ chồng, sẽ thấy khó chịu khi nàng dâu ăn ngon mặc đẹp. Như vậy sự khổ hạnh vừa có ích lại có thể có hại. Chúng ta cần giải phóng bản thân khỏi sự ràng buộc này, nếu không, sẽ cứ quẩn quanh trong cái khổ của thân và tâm.
Có lần tôi mạnh dạn khuyên các bà mẹ và bà vợ rằng, trừ những trường hợp gia đình quá khổ, chứ nếu có chút ít điều kiện, thì hãy thương lấy bản thân chứ không cần khổ hạnh và khắc nghiệt. Thương bản thân thì có gì sai? Bản thân mình có đẹp, có khỏe, có năng lượng, có vui vẻ, thì mình mới đủ sức lo cho người khác. Mình như ngọn đèn muốn tỏa sáng ra chung quanh thì bản thân mình phải có năng lượng, phải nạp năng lượng.
Năng lượng từ đâu ra? Từ nhiều nguồn lắm. Ở đây, ngoài chuyện vô chùa tu hành, niệm Phật, áp dụng những phương pháp Phật dạy, thì tôi đề cập thêm chuyện Tục đế đời thường, bởi đa số ai cũng sống ngoài đời, mình nên nói những gì thực tế. Năng lượng mà một bà mẹ bà vợ có thể tìm là ăn ngon chút xíu, mặc đẹp chút xíu, thỉnh thoảng đi xem phim, xem hát, du lịch, gặp gỡ bạn bè, thậm chí thích đeo dây chuyền, cà rá thì cứ mua mà đeo cho vui, cho xinh, vì đó là đồng tiền do mình làm ra chính đáng. Một người phụ nữ tươi tắn như vậy chắc chắn ai cũng muốn gần. Bà vui, bà khỏe là người khác đỡ phiền rồi. Bà bố thí nụ cười cho chung quanh là tốt lắm rồi. Mà người như thế chắc chắn tấm lòng sẽ dễ chịu hơn, rộng mở hơn, sẽ giúp đỡ mọi người chứ không hề ích kỷ. Ở đây, tôi không nói bà phải sống xa hoa, chỉ cần bà sống cân đối thôi là được. Cân đối giữa thương mình và thương người, cân đối giữa tiết kiệm và chi xài, cân đối giữa khắc nghiệt và hưởng thụ… Cuộc sống đời thường cần sự cân đối hơn là cực đoan.
Tóm lại, khổ hạnh như ngài Ca Diếp là tuyệt vời, kính phục. Nhưng chúng ta chưa đạt tới trình độ đó, đẳng cấp đó, thì coi chừng… Thà tu, thà sống một cách bình thường, cân đối, thân tâm thăng bằng, trung đạo.
Diệu Kim
Đăng lúc: 06:31 - 02/05/2017
Tối ngày 01-5-2015 (06-4-Ất Mùi), tại chùa Phúc Thành ( xã Hưng Châu, Hưng Nguyên, Nghệ An), Trụ trì chùa Đại đức Thích Định Tuệ đã cử hành cho Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ lễ khai kinh Pháp hoa để toàn thể Tăng, Ni Phật tử trì tụng trong tuần lễ Phật đản.
Trong hình ảnh có thể có: 3 người, trong nhà
Lễ khai kinh và tụng kinh Pháp hoa suốt tuần lễ Phật đản với ý nghĩa cầu nguyện cho Tổ quốc vinh quang, đạo pháp trường tồn, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc - mở đầu cho tuần lễ Phật đản PL.2559.
Trong hình ảnh có thể có: đêm, bầu trời và ngoài trời
Năm nay, Đại lễ Phật đản tại tỉnh Nghệ An nói chung và chùa Phúc Thành, chùa Đức Hậu nói riêng được tổ chức với nhiều chương trình như lễ thắp sáng Ngọn Liên đăng trên đỉnh núi chùa Phúc Thành, từ thiện xã hội tại bệnh viện Ung Bướu, diễu hành xe hoa, lễ rước Phật...
Trong hình ảnh có thể có: đêm và ngoài trời
Cứ mỗi độ mùa sen tháng tư nở rộ là lòng người con Phật từ khắp mọi miền trên thế giới lại hân hoan hướng về ngày lễ trọng đại của Phật giáo - ngày đức Thế Tôn thị hiện ở cõi Ta Bà.
Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người, đám đông và trong nhà
Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, đâu đâu cũng thấy không khí tưng bừng rộn rã cùng với những biễu ngữ, pano, cờ hoa rực rỡ cúng dường lên đấng cha lành của bốn loài. Nghệ An là một trong những tỉnh thành trong cả nước đón mừng mùa Phật đản sớm nhất. Với thành công của lễ hội Hương Sen Xứ Nghệ do Ban Văn hoá trung ương kết hợp với Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Nghệ An đã tạo dấu ấn quan trọng trong lòng người dân xứ Nghệ. Đây là một khởi đầu cho mùa Phật Đản đầy ý nghĩa, tạo sự hứng khởi trong công tác tổ chức Phật Đản tại các chùa trong tỉnh Nghệ An.
Thái Quảng
Đăng lúc: 08:57 - 26/04/2017
Luôn quán niệm, nhớ nghĩ về ân đức Tam bảo, ba ngôi quý báu ở thế gian với tất cả lòng kính tin là một trong những điều kiện quan trọng để tiến tu trong Phật pháp. Với hầu hết mọi người con Phật, tin Phật là hiển nhiên, tin Pháp là đương nhiên nhưng tin Tăng thì khó hơn rất nhiều vì trong đó thánh phàm lẫn lộn.
niemtang.JPG
Tăng là đoàn thể đẹp, cùng đi trên đường vui...
Tăng-già hiểu theo nghĩa Sangha, hội chúng đệ tử Phật xuất gia gồm bốn người trở lên, hòa hợp và thanh tịnh ngày càng trở nên khó tìm. Tăng-già hiểu theo nghĩa tổ chức Giáo hội, Tăng đoàn lại càng khó để trọn niềm tin. Tăng-già là Thánh chúng (bốn đôi, tám bậc) thì cực kỳ hiếm hoi.
Thế nên, pháp Niệm Tăng hiện nay xem ra là pháp tu có nhiều điểm đáng bàn. Không niệm Tăng thì không thành tựu đức tin Tam bảo, mà niệm Tăng như lời Phật dạy dưới đây cũng chẳng dễ chút nào. Khi mà hội chúng xuất gia hiện nay hầu hết là phàm Tăng, chưa kể đến đội ngũ tạp Tăng, tìm mọi cách len lỏi vào Tăng đoàn với vô vàn lý do và mục đích khác nhau.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Hãy tu hành một pháp, hãy truyền bá rộng rãi một pháp. Tu hành, truyền bá rộng rãi một pháp rồi sẽ có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều lành đầy đủ, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, sẽ có thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Thế nào là một pháp? Nghĩa là niệm Tăng.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Thế nào là tu hành niệm Tăng sẽ có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều lành đầy đủ, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, sẽ có thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn?
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Căn bản các pháp đều do Như Lai nói. Cúi mong Thế Tôn, vì các Tỳ-kheo mà nói diệu nghĩa này. Các Tỳ-kheo nghe lời Như Lai nói rồi sẽ thọ trì.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các Thầy phân biệt rộng điều này.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn.
Các Tỳ-kheo vâng lời dạy rồi, Thế Tôn bảo rằng:
- Nếu có Tỳ-kheo chính thân, chính ý, ngồi kiết-già cột niệm trước mặt, không có tưởng khác, chuyên cần niệm Tăng (chúng): Thánh chúng của Như Lai nghiệp lành thành tựu, chất trực thuận nghĩa, không có nghiệp tà, trên dưới hòa mục, pháp pháp thành tựu, tam muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, độ tri kiến thành tựu. Thánh chúng là bốn đôi, tám bậc. Đó là thánh chúng của Như Lai, phải nên cung kính, thừa sự, lễ thuận. Vì sao thế? Vì họ là ruộng phước của đời. Ở trong chúng này đều đồng là pháp khí. Cũng vì tự độ mà độ người khác đến đạo Tam thừa. Nghiệp như thế gọi là Thánh chúng. Thế nên, các Tỳ-kheo, nếu có người niệm Tăng, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều lành đầy đủ, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, sẽ có thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Thế nên, các Tỳ-kheo, thường nên tư duy, chẳng lìa niệm Tăng, liền sẽ được các công đức lành này. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo, nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 3.Quảng diễn,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.47)
Nhìn vào hiện thực Tăng-già ở xứ ta hiện nay, hẳn thật khó để quán niệm về Thánh chúng với các phẩm chất “Nghiệp lành thành tựu, chất trực thuận nghĩa, không có nghiệp tà, trên dưới hòa mục, pháp pháp thành tựu, tam muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, độ tri kiến thành tựu. Thánh chúng là bốn đôi, tám bậc”. Có thể thấy rõ điều này qua một số hình ảnh thể hiện sự phân hóa, bất hòa, cát cứ, phiền não, chạy vạy, rối rắm đậm chất thế tục mà ai cũng biết với sự kìm nén đau lòng, thương cho Phật pháp.
Tuy vậy, về cá nhân của từng vị Tăng (Ni) hay các hội chúng đang ẩn dật nơi các thiền viện, tu viện, tịnh viện thì các phẩm chất của Thánh chúng nơi họ vẫn còn. Nhìn ra thế giới vẫn còn nhiều các bậc thầy đúng nghĩa, những hội chúng thanh tịnh đang tu tập giới định tuệ và tận lực hoằng hóa. Có thể xem đây là chiếc phao hy vọng cho những người con Phật bám víu để quán niệm về chúng Tăng với các phẩm chất hòa hợp, thanh tịnh mà khởi lòng kính tin.
Quảng Tánh
Đăng lúc: 10:46 - 17/04/2017
Hẳn ai cũng biết câu: “Cái vòng danh lợi cong cong/Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào”. Lợi và danh, những thứ mà thuở sơ tâm xuất gia ai cũng thấy bọt bèo. Buông bỏ hết những cái vụn vặt, tầm thường để hướng đến những chân trời cao rộng. Từ bỏ gia đình, cất bước du phương, như khúc gỗ trôi theo dòng sông nhưng không phải khúc gỗ nào cũng xuôi về biển cả. Vì nhiều nhân duyên, nghiệp dĩ nên người đốn củi kia tuy có vào rừng mà không lấy được lõi cây, chỉ mang về đôi chút cành lá mà thôi.
20-Duc-Phat-Thich-Ca-va-chuyen-khat-thuc-03.jpg
Khất thực thời Đức Phật - Tranh PGNN
Có ai thấu hiểu vì sao những thứ vốn tầm thường, vụn vặt của ngày xưa giờ đây lại trở thành quan trọng; luẩn quẩn không lợi thì danh, không danh thì lợi, hoặc cả hai. Phải chăng có một bộ phận không nhỏ người học Phật ngày nay bị bội thực bởi pháp học mà không nếm được vị ngọt của pháp hành nên đành chấp nhận với cái mà ngày xưa mình từng rẻ rúng là bèo bọt? Lợi dưỡng và cung kính ngày càng lớn dần theo lộ trình xuất gia, nhưng nó chính là con dao hai lưỡi, tồn tại và phát triển hay biến chất, hủ hóa cũng từ đây. Nên “Do phương tiện này mà biết lợi dưỡng rất nặng, khiến người chẳng đắc đạo Vô thượng Chánh chân” đã trở thành công án, là điều đáng suy ngẫm trong bối cảnh tu học hiện nay.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nhận lợi dưỡng của người thật chẳng dễ, khiến người chẳng đến được chỗ vô vi. Vì sao thế? Nếu Tỳ-kheo Tu-la-đà không tham lợi dưỡng thì đã không ở trong pháp mà xa ba pháp y để làm cư sĩ. Tỳ-kheo Tu-la-đà vốn tu hạnh A-lan-nhã, đến giờ khất thực, ở một nơi, ngồi một chỗ, hoặc ăn chính ngọ, ở dưới gốc cây, ngồi ngoài trời, thích chỗ nhàn cư, mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc thích ở gò mả, khắc khổ thân thể, hành hạnh đầu đà này. Lúc này, Tỳ-kheo Tu-la-đà thường nhận sự cúng dường của quốc vương Mãn Hô, hàng ngày cung cấp món ăn trăm vị.
Bấy giờ Tỳ-kheo kia ý nhiễm thức ăn này, dần dần bỏ hạnh A-lan-nhã, đến giờ khất thực, ở một nơi, ngồi một chỗ, ăn chính ngọ, ở dưới gốc cây, ngồi ngoài trời, ở chỗ nhàn cư, mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc thích ở gò mả, khắc khổ thân thể. Bỏ hết những điều này, bỏ ba pháp y; vị ấy trở lại làm người bạch y, giết trâu sát sanh chẳng thể tính kể, khi thân hoại mạng chung sanh vào địa ngục.
Các Tỳ-kheo, do phương tiện này mà biết lợi dưỡng rất nặng, khiến người chẳng đắc đạo Vô thượng Chánh chân. Nếu chưa sanh lợi dưỡng, hãy chế ngự khiến cho chẳng sanh; đã sanh thì tìm phương tiện khiến tiêu diệt liền. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm13.Lợi dưỡng,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr152)
Pháp thoại này, Thế Tôn đề cập đến chuyện Tỳ-kheo Tu-la-đà vì tham đắm lợi dưỡng đã từ bỏ đời sống phạm hạnh, tạo nhiều ác nghiệp nên chịu quả báo nơi địa ngục. Mới hay trong sự tu hành, thiếu lợi dưỡng thì không tu tập được mà tham đắm lợi dưỡng thì cũng tiêu vong. Thực tế cho thấy, người tu không chết vì sự nghèo thiếu mà thực sự ngộp trong sự cúng dường hậu hĩ của tín đồ.
Khi kinh tế xã hội phát triển thì sự cúng dường, lợi dưỡng ngày càng nhiều hơn. Hộ pháp bắt đầu từ đó mà hại pháp cũng xuất phát từ đây. Dĩ nhiên lợi dưỡng không có lỗi, tâm tham đắm lợi dưỡng của người tu mới là lầm lỗi. Nên lời cảnh tỉnh của Thế Tôn “Nếu chưa sanh lợi dưỡng, hãy chế ngự khiến cho chẳng sanh; đã sanh thì tìm phương tiện khiến tiêu diệt liền” trở nên thống thiết hơn bao giờ hết. Đây chính là chìa khóa, là bí quyết, là giải pháp cho sự phát triển ổn định của Phật giáo trong bối cảnh hiện nay.
Quảng Tánh
Đăng lúc: 11:21 - 15/04/2017
Một trong những biểu hiện cụ thể của người thực tu theo Chánh pháp là sống đời thiện lành; đoạn trước, đoạn giữa và đoạn sau tất cả đều thiện. Có không ít đệ tử Phật thường khái quát cách thức tu tập của mình là tu tâm. Ăn chay cũng do cái tâm, giữ giới cũng dựa trên cái tâm, làm phước cũng xuất phát từ cái tâm v.v...
Dĩ nhiên tu tâm là quá đúng. Nhưng vì chữ tâm trong đạo Phật có ý nghĩa vừa sâu kín lại vừa bao la, tâm vô hình vô tướng thoắt ẩn thoắt hiện, không phải ai cũng hiểu trọn cái tâm nên tuy thường nói tu tâm mà thực ra vô cùng lúng túng chẳng biết bắt đầu từ đâu.
devadatta-and-buddha31.jpg
Tạo mười nghiệp ác thì gọi là bất thiện, sẽ sinh về cõi ác súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục - Tranh PGNN
Theo lời dạy của Thế Tôn, tu tập hướng thiện phải thiết thực, cụ thể, tức chuyển hóa ba nghiệp thân miệng ý từ xấu ác sang thiện lành. Nói cách khác là tu mười nghiệp thiện, ba thiện nghiệp của thân, bốn thiện nghiệp của miệng, ba thiện nghiệp của ý. Và đây cũng chính là quy chuẩn về thiện và bất thiện theo quan điểm của Thế Tôn. Tạo mười nghiệp lành thì gọi là thiện, được sinh về cõi lành. Ngược lại tạo mười nghiệp ác thì gọi là bất thiện, sẽ sinh về cõi ác súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta sẽ nói về hạnh thiện và bất thiện. Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ đó!
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn.
Thế Tôn dạy:
- Thế nào gọi là bất thiện? Thế nào gọi là thiện? Nghĩa là: sát sanh là bất thiện, không sát sanh là thiện; lấy của không cho là bất thiện, lấy của cho là thiện; dâm là bất thiện, không dâm là thiện; nói dối là bất thiện, không nói dối là thiện; nói thêu dệt là bất thiện, không nói thêu dệt là thiện; nói hai lưỡi là bất thiện, không nói hai lưỡi là thiện, đấu loạn kia đây là bất thiện, không đấu loạn kia đây là thiện; tham của người là bất thiện, không tham của người là thiện; nổi giận là bất thiện, không nổi giận là thiện; tà kiến là bất thiện, chánh kiến là thiện. Như thế, này các Tỳ-kheo, hành điều ác này xong, đọa trong súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Nếu người làm lành liền sanh trong loài Người, lên Trời và trong các đường lành, A-tu-la. Thế nên, hãy xa lìa hạnh ác, tu tập hạnh lành. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm16.Hỏa diệt,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.211)
Qua pháp thoại trên, thiện và bất thiện được Thế Tôn phân định thật rõ ràng. Không sát hại, không trộm cướp, không tà hạnh (ba thiện nghiệp của thân); Không nói dối, không nói thô ác, không nói đâm thọc, không nói thêu dệt (bốn thiện nghiệp của miệng); Không tham lam, không sân hận, không tà kiến si mê (ba thiện nghiệp của ý) chính là thiện. Ngược lại là bất thiện. Tạo bất thiện thì sinh vào cõi ác, tu thiện thì sinh vào cõi lành.
Vẫn biết, trọng tâm của tu tập theo giáo pháp Thế Tôn là chứng đắc giải thoát Niết-bàn, thoát ly sinh tử luân hồi ngay trong đời này. Tuy nhiên, phân biệt rõ thiện ác và lập chí hành thiện để thành tựu công đức, phước báo trong hiện tại và vị lai cũng là một trong những mục tiêu tu tập quan trọng của hàng Phật tử. Nhờ nắm được pháp căn bản này, người đệ tử Phật khi chưa hội đủ duyên lành tu tập chỉ quán để lần lượt chứng đạt bốn Thánh quả thì có thể chuyển hóa thân tâm theo mười điều thiện, đảm bảo thành tựu kết quả “nay vui đời sau vui”.
Quảng Tánh
Đăng lúc: 10:28 - 14/03/2017
Không phải ngẫu nhiên mà câu “Cần tảo già-lam địa/Thời thời phước huệ sanh” (Siêng quét dọn chùa tháp/Phước trí ngày càng thêm) phổ biến trong chốn thiền môn. Nhất là những người phát tâm công quả hay tập sự xuất gia thì thuộc nằm lòng lời giáo huấn này.
Gần như người con Phật nào cũng từng quét dọn chùa tháp mà lòng tràn ngập niềm vui, dù công việc khá cực nhọc. Kể cũng lạ, quét dọn chùa tháp thì cũng như quét dọn nhà cửa thôi, sao lại có công đức?
Mới hay, tuy hình thức công việc thì giống mà nội tâm người làm việc thì khác nên dẫn đến kết quả khác nhau. Quét cửa dọn nhà cực quá, người thân lại không giúp nên dễ sinh phiền não. Còn quét chùa dọn tháp thì khác, đây là phụng sự Tam bảo được phước phần vô lượng nên không nề khó nhọc. Quan trọng là mượn cái hình thức quét tước bên ngoài để dọn dẹp nội tâm cho sạch đẹp. Khi rác bụi trong tâm không còn thì công đức, phước trí sinh ra là điều tất nhiên.
Suy nghiem.jpg
Gần như người con Phật nào cũng từng quét dọn chùa tháp
mà lòng tràn ngập niềm vui, dù công việc khá cực nhọc - Ảnh minh họa
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Phàm người quét tháp thì có năm việc chẳng được công đức. Thế nào là năm? Ở đây, có người quét tháp chẳng lấy nước rưới đất, chẳng trừ bỏ ngói đá, chẳng sửa đất cho bằng phẳng, chẳng quét đất nghiêm chính, chẳng trừ bỏ nhơ nhớp. Đó là, này Tỳ-kheo! Người quét tháp chẳng thành tựu năm công đức.
Tỳ-kheo nên biết! Người quét tháp thành tựu năm công đức. Thế nào là năm? Ở đây người quét tháp lấy nước rưới đất, trừ bỏ ngói đá, san bằng đất đai, quét đất nghiêm trang, trừ bỏ nhơ nhớp. Đó là, này Tỳ-kheo! Có năm việc khiến người quét tháp được công đức. Thế nên, các Tỳ-kheo! Muốn cầu công đức, nên hành năm việc này. Như thế, các Tỳ-kheo nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 33.Ngũ vương,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.290)
Kinh điển Phật giáo còn lưu truyền câu chuyện nổi tiếng, Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc nhờ quét đất, phủi bụi mà chứng đắc Thánh quả. Thế nên, không phải tụng niệm, lễ bái nơi chánh điện trang nghiêm hoặc ngồi yên trong thiền đường thanh tịnh, mà có thể tu tập ở mọi nơi, mọi chỗ. Quan trọng là thiết lập chánh niệm ngay đương tại, ngay bây giờ và ở đây. Thân và tâm phải đồng thời có mặt thì nơi nào cũng là đạo tràng, việc gì cũng tạo ra công đức.
Quét tháp với tâm hoang vu hay tâm chánh niệm cho kết quả khác nhau đến trời vực. Cùng việc ấy, nếu “người quét tháp lấy nước rưới đất, trừ bỏ ngói đá, san bằng đất đai, quét đất nghiêm trang, trừ bỏ nhơ nhớp” thì có công đức, ngược lại thì không. Nên người tu cũng sống và làm việc giống như mọi người, chỉ khác là tất cả hành vi của thân, miệng, ý đều được chánh niệm nuôi dưỡng và soi sáng, nhờ vậy mà giới-định-tuệ, công đức, phước báo ngày càng tăng thêm.
Thế nên trong nhà đạo rất chú trọng ở chỗ làm việc với các tâm nào, ô nhiễm hay thanh tịnh? Với tâm thanh tịnh mà làm thì việc đó là Phật sự, còn không là ma sự. Người hời hợt và nông cạn thì nhìn vào hình thức để đánh giá khen chê. Người sâu sắc, biết đạo thì cảm bằng cái tâm, hình thức không quan trọng. Tâm thành thì Phật chứng, tâm lành thì an vui. Hãy làm mọi việc với tâm không còn tham sân si, lợi mình và lợi người, tốt đẹp bây giờ và mai sau, chắc chắn việc đó công đức vô lượng.
Quảng Tánh
Đăng lúc: 06:47 - 09/03/2017
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: “Như vương thành ở biên giới có đầy đủ bảy điều kiện và bốn thứ lương thực sung túc dễ tìm không khó; do đó vương thành không bị ngoại địch đánh phá, ngoại trừ tự phá hoại từ bên trong. Cũng vậy, nếu Thánh đệ tử cũng được bảy thiện pháp và bốn tăng thượng tâm, dễ được không khó, vì thế Thánh đệ tử không bị ma vương lung lạc cũng không theo pháp ác bất thiện, không bị ô nhiễm bởi phiền não, không còn thọ sanh trở lại”1.
Bảy thiện pháp ấy là: tín kiên cố, tàm, quý, tinh tấn, học rộng nghe nhiều, chánh niệm, trí tuệ. Bốn tăng thượng tâm ở đây là bốn thiền, từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Bài viết này chỉ trình bày bảy lớp thành trì vững chắc bảo vệ người tu không bị ma vương lung lạc.
nhan qua.jpg
Phật dạy, bảy thiện pháp gồm tín kiên cố, tàm, quý, tinh tấn,
học rộng nghe nhiều, chánh niệm, trí tuệ như thành trì bảo vệ người tu
1. Thành trì thứ nhất là tín kiên cố, niềm tin vững chắc. Tín, tiếng Phạn là śraddhā, chỉ cho niềm tin trong sáng, thanh tịnh; đối với Phật, Bồ-tát, giáo pháp, Tăng-già không hề khởi niệm nghi ngờ. Tín là một trong mười pháp thiện địa, hay là một trong mười một tâm sở thiện. Tín kiên cố là niềm tin vững chắc, có gốc rễ, không bao giờ thay đổi, thối thất với nội hàm mười ý nghĩa: trong sáng, quyết định, hoan hỷ, không mệt mỏi, tùy hỷ, tôn trọng, tùy thuận, tán thán, bất hoại và ái lạc.
Trong quá trình tu học Phật pháp, tín tâm được xem là yếu tố tối quan trọng cho bước chân đầu tiên vào đạo. Bởi vậy, kinh Hoa nghiêm nói: “Niềm tin là mẹ đẻ của bao công đức, nó nuôi lớn mọi thiện pháp, xé toang lưới nghi, vượt thoát sông ái, khai mở cửa Niết-bàn vô thượng”2.
Luận Đại trí độ cũng nói, Phật pháp như biển lớn, có niềm tin ắt sẽ vào được. Lại nói, một người mà trong tâm có niềm tin thanh tịnh thì chắc chắn người đó sẽ vào được Phật pháp, nếu không có niềm tin thì không thể vào được3. Do đó, tín đứng đầu trong năm căn (tín, tấn, niệm, định và tuệ). Không có niềm tin vững chắc thì không có động lực siêng năng tu hành, không thể bảo vệ được mình trước những cám dỗ của cuộc đời, lại càng không thể thành tựu được đạo nghiệp giải thoát.
Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới xây cất vọng gác, đắp đất cho chắc không thể phá vỡ, để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử có tín kiên cố, tin sâu nơi Như Lai, tín căn đã lập, trọn không theo Sa-môn, Bà-la-môn, ngoại đạo, cũng như Thiên ma, Phạm thiên và các hạng thế gian khác. Đó là Thánh đệ tử có vọng gác tín tâm để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.
2. Thành trì thứ hai là tàm. Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới đào hào vét ao thật sâu rộng, sửa sang thật vững chắc, để có thể nương tựa, làm cho bên trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng thế, Thánh đệ tử luôn sống biết tàm, điều đáng xấu hổ biết xấu hổ, xấu hổ pháp ác, bất thiện, phiền não cấu uế, là thứ khiến thọ các ác báo, tạo gốc rễ sanh tử. Đó là Thánh đệ tử có hồ ao tàm sỉ, trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.
3. Thành trì thứ ba là quý. Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới dọn dẹp những con đường nối liền chung quanh cho bằng thẳng rộng rãi để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử luôn sống biết quý, điều đáng thẹn biết thẹn, thẹn pháp ác, bất thiện, phiền não cấu uế là thứ khiến thọ các ác báo, tạo gốc rễ sanh tử. Đó là Thánh đệ tử có con đường bằng thẳng hổ thẹn để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.
Như vậy, tàm là tự thấy xấu hổ với lỗi lầm của mình; quý là thấy hổ thẹn với người khác. Tàm quý nói một cách đơn giản là cảm thấy xấu hổ, hổ thẹn với những lỗi lầm của mình đã gây ra. Đây là hai trạng thái tâm lý (tâm sở) thiện lành, rất cần thiết đối với tất cả mọi người, và vô cùng quan trọng đối với người tu. Bởi khi một người không tự biết xấu hổ với những hành động lỗi lầm mà mình đã gây ra thì người đó không có cơ hội để hướng thượng, để phát triển tâm linh, không việc xấu nào lại không làm. Đức Thế Tôn nhận định đây là “Hai pháp tinh diệu thủ hộ thế gian. Nếu không có hai pháp này, thì thế gian sẽ không phân biệt có cha, có mẹ, có anh, có em, vợ con, tri thức, tôn trưởng, lớn nhỏ; sẽ cùng với lục súc heo, gà, chó, ngựa, dê… cùng một loại”4.
Tỳ-kheo nào không tàm, không quý thì làm tổn hại ái và kỉnh. Không có ái và kỉnh thì làm tổn hại tín. Không có tín thì làm tổn hại chánh tư duy. Không có chánh tư duy thì tổn hại chánh niệm, chánh trí. Không chánh niệm, chánh trí thì bị tổn hại việc thủ hộ các căn, thủ hộ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn5.
Tàm và quý có sức mạnh rất lớn, có khả năng chặn đứng nghiệp lực đưa tới quả báo thọ khổ đời sau. Kinh ghi: “Tàm lực là hổ thẹn, xấu hổ đối với pháp ác, bất thiện, các phiền não đã khởi, sẽ phải chịu các quả báo khổ bức bách của sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở trong đời vị lai. Quý lực là lấy làm thẹn các điều đáng thẹn, tự thẹn về các pháp ác, bất thiện, các số phiền não đã khởi, sẽ phải chịu các quả báo khổ bức bách của sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở trong đời vị lai”6.
4. Thành trì thứ tư là tinh tấn, tức siêng năng. Siêng năng tinh tấn trong nhà Phật có bốn phương diện, gọi là Tứ chánh cần hay Tứ ý đoạn:
- Một là siêng năng tinh tấn để đoạn trừ những điều xấu ác đã sanh, không cho nó phát triển.
- Hai là siêng năng tinh tấn đoạn trừ điều ác chưa sanh, tức những ý niệm ác đang còn ẩn nấp bên trong tiềm thức, dưới dạng chủng tử, khiến cho nó không được phát triển.
- Ba là nỗ lực tinh tấn để phát huy, khơi dậy những điều thiện, những đức tính tốt, những hạt giống tốt chưa được biểu hiện, làm cho nó biểu hiện.
- Bốn là nỗ lực tinh tấn làm cho những điều thiện, những đức tính tốt, những hạt giống tốt đã phát triển càng thêm phát triển, mỗi ngày một thêm lớn mạnh. Điều thiện ở đây được hiểu là các pháp đưa đến giải thoát khổ đau, như mười điều thiện, như vô tham, vô sân, vô si…
Trong kinh Tương ưng V, Đức Phật dạy: “Như sông Hằng chảy xuôi về phương Đông, Tứ chánh cần được tu tập sung mãn xuôi về Niết-bàn”. Ở một đoạn khác, Đức Phật dạy: “Để thắng tri, đoạn diệt, đoạn tận năm thượng phần kiết sử, Tứ chánh cần cần phải được tu tập”. Ngài kết luận: “Như làm việc cần phải có sức lực, như đi phải có hai chân, hành giả trên đường về giải thoát luôn luôn tu tập Tứ chánh cần để hoàn bị thiện pháp”.
Rõ ràng, Đức Phật đã khẳng định tinh tấn là yếu tố rất quan trọng trên bước đường tu tập và hành đạo. Người xuất gia như những chiến sĩ ra trận, cầm gươm báu trí tuệ xông pha chiến trường khổ đau sanh tử để giết giặc phiền não, si mê, tham lam, sân hận. Nếu không có đủ nghị lực, không nỗ lực tinh tấn, sẽ bị giặc phiền não đánh gục. Sự siêng năng tu tập của những người con Phật là để phá phiền não ác, nhiếp phục bốn loài ma, để vượt ra ba cõi. Đó gọi là Chánh tinh tấn. Còn mọi nỗ lực khác, vì một yếu tố gì đó, chẳng hạn như siêng năng tụng kinh để cầu phước, để người ta cúng dường, thì đó không phải là sự tinh tấn chân chính. Cho nên, tinh tấn là một năng lực tổng hợp của sự hiểu biết, ước muốn giải thoát và chánh niệm tỉnh giác. Nếu rời ba tính chất này thì sự mọi sự siêng năng không phải là Chánh tinh tấn.
Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới tập trung bốn binh chủng: tượng quân, mã quân, xa quân, bộ quân, để bên trong được an ổn và chế ngự địch quân ở bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử thường thực hành hạnh tinh tấn, đoạn trừ ác bất thiện, tu các thiện pháp, luôn gắng sức bền chí, chuyên nhất kiên cố, làm các điều thiện, không bỏ phương tiện, đoạn trừ ác bất thiện, tu các thiện pháp, hằng tự sách tấn, chuyên nhất, kiên cố, làm các gốc rễ thiện, không bỏ phương tiện. Đó là Thánh đệ tử có quân lực tinh tấn để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.
“Các thế lực xấu ác không ngừng bức não người tu. Chúng có thể mắng chửi, đập phá, bôi nhọ… Nếu mắng chửi, đánh đập, bôi nhọ mà không chi phối được người tu thì chúng sẽ phụng kính, cúng dường, lễ sự để lung lạc. Đó là bản chất xấu ác của ma binh, rất hung bạo và xảo quyệt, luôn tìm mọi cách để mưu hại, hoặc mua chuộc bằng tiền tài, danh lợi, địa vị, hoặc khủng bố bằng bạo lực… nhằm mục đích lung lạc chí hướng tu tập của những người tu. Nếu không đề cao cảnh giác, không có bản lĩnh phi thường, không xây dựng thành trì vững chắc, người tu sẽ dễ dàng bị rơi vào cạm bẫy của các thế lực xấu ác”.
5. Thành trì thứ năm là quảng học đa văn, tức học rộng nghe nhiều. Học rộng, nghe nhiều là học và nghe những gì để có thể thấy được đặc tính vô thường, vô ngã của các pháp. Học rộng nghe nhiều bằng cách đọc tụng, nghiên cứu, nghe giảng về kinh, luật, luận.
Đức Phật giảng dạy suốt 45 năm, kinh điển để lại như biển lớn có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quý báu lạ mắt được chứa đầy trong đó. Tên của các trân bảo đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, ma ni, trân châu, bích ngọc, san hô, hổ phách, mã não, đồi mồi, đá đỏ, tuyền châu…
Chánh pháp luật của Như Lai cũng giống như vậy, có rất nhiều trân bảo, vô lượng đồ quý báu lạ mắt được chứa đầy trong đó. Những pháp trân bảo đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Thánh đạo tám chi7…
Nếu không học rộng nghe nhiều, tức là không đọc tụng kinh điển, làm sao có thể thừa tự được kho tàng pháp bảo ấy? Cho nên, người Phật tử không những phải học rộng, nghe nhiều mà còn phải ghi nhớ không quên những pháp đã học, đã nghe.
Một người đa văn, là đệ tử của bậc Thánh, thì không để tâm dẫn đi, không để tâm nhiễm trước, không để tâm tự tại, người ấy không vâng theo sự tự tại của tâm, mà tâm tùy theo tự tại của người ấy. Một người đa văn là khi nghe, khi đọc bốn câu kệ mà biết nghĩa, biết pháp, thực hành pháp tùy pháp, thuận theo phạm hạnh8.
Quảng học đa văn không có nghĩa là lao đầu vào học hết trường này đến trường khác, không phải đọc hết sách này đến sách khác, chất chứa nhiều loại tri thức, từ đông tây kim cổ, đến nội ngoại điển đều thông, mà quảng học đa văn ở đây là Văn, Tư, Tu những gì có thể dẫn đến đoạn diệt phiền não, tiêu diệt các pháp ác bất thiện và làm phát khởi hạt giống trí tuệ nơi tâm của mình.
Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới, chuẩn bị binh khí, cung tên, mâu kích, để bên trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử học rộng nghe nhiều, ghi nhớ không quên, tích lũy sự nghe rộng. Các pháp nào là toàn thiện ở khoảng đầu, toàn thiện ở khoảng giữa, toàn thiện ở khoảng cuối, có nghĩa có văn, thanh tịnh trọn đủ, phạm hạnh hiển hiện, học rộng nghe nhiều các pháp như vậy; học đến cả ngàn lần, chú ý chuyên tâm quán sát, thấy rõ hiểu sâu. Đó là Thánh đệ tử có binh khí đa văn, để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.
6. Thành trì thứ sáu là chánh niệm. Niệm, Phạn ngữ smrti, là trạng thái chú tâm, sự hiện hữu của tâm trên đối tượng, là phát khởi và duy trì ý thức về một đối tượng. Niệm đơn giản là để tâm tới đối tượng và chỉ để tâm tới thôi, không cần phải suy tư, tưởng tượng và phân tích gì hết. Chánh niệm, samyak smrti, là sự ý thức và tập trung chân chính, rõ ràng, an tĩnh, sự ý thức về đối tượng bên trong và bên ngoài (của thân, thọ, tâm, pháp) một cách không chấp trước và vướng mắc, tức là sự ý thức đơn thuần để tiếp xúc thực tại như thật của nó (hiện lượng) mà không liên hệ đến các hoạt động lý luận, đánh giá và phân biệt.
Tu tập có nghĩa là làm chủ thân tâm. Để làm chủ thân tâm phải thực tập và duy trì chánh niệm. “Tỳ-kheo nào không chánh niệm, không tỉnh giác thì chánh niệm bị tổn hại. Nếu không chánh niệm, tỉnh giác thì làm tổn hại việc thủ hộ các căn, thủ hộ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn”. Ngược lại, “Nếu Tỳ-kheo nào không thường mất chánh niệm tỉnh giác thì thường xuyên có chánh niệm tỉnh giác. Nếu có chánh niệm tỉnh giác thì thường thủ hộ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu đã giải thoát liền chứng đắc Niết-bàn”9.
Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới lập vị đại tướng trấn thủ sáng suốt, thao lược, cơ trí, tháo vát, dũng mãnh, cương nghị, giỏi mưu chước, người hiền thì cho vào, kẻ bất lương thì ngăn cấm, để bên trong được an ổn và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử luôn sống chánh niệm, thành tựu chánh niệm, những gì đã từng thực tập từ lâu, đã từng nghe từ lâu, nhớ luôn không quên. Đó là Thánh đệ tử có đại tướng trấn thủ niệm để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.
7. Thành trì thứ bảy là trí tuệ. Tu học mà không có trí tuệ thì dễ lầm đường lạc lối. Cho nên, khác với người đời, vốn lấy tài sản, địa vị, quyền lực, danh vọng… làm sự nghiệp, người xuất gia theo đạo Phật lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp). Trí tuệ ở đây không phải là thứ kiến thức thu thập được từ học đường, từ sách vở và gói vào trong mảnh văn bằng, học vị cử nhân, tiến sĩ,… Những thứ ấy chỉ là tri thức, không dính dáng gì đến trí tuệ của nhà Phật.
Trí tuệ ở đây là sự hiểu biết tất cả các pháp, thấy rõ được bản chất của các pháp. Nói cách khác là trí tuệ thấy được bản chất khổ, vô thường, duyên sinh và vô ngã của các pháp. Trí tuệ này là động lực đưa chúng ta tìm cầu cái không sinh, không già, không bệnh, không chết, không sầu, không ô nhiễm; trí tuệ giải thoát.
Trí tuệ giải thoát vốn có trong tâm của mỗi chúng sanh. Cái vô minh nó nằm trong tâm của chúng sanh, mà cái minh (trí tuệ) nó cũng nằm trong tâm của mỗi chúng sanh. Do đó, để chặn đứng dòng chảy của vô minh thì phải làm phát khởi, làm khơi dậy cái minh, cái vô si trong tâm của chúng ta.
Sự tu học trong đạo Phật là làm thế nào để phát triển được hạt giống trí tuệ, cái minh trong mỗi chúng sanh, trong mỗi con người. Giáo dục của Phật giáo là con đường đưa đến vô minh diệt, minh sanh. Minh này chính là tự tính, là Phật tính nơi mỗi chúng sanh. Chỉ khi nào làm phát khởi được cái minh này, làm cho cái minh này hiển hiện thì lúc đó mới thành tựu được sự nghiệp tu học. Đó là mục đích của sự tu học.
Kinh ghi: “Như vương thành ở biên giới xây đắp tường cao cho thật kiên cố, trét bùn tô đất, để bên trong được an ổn, và chế ngự oán địch bên ngoài. Cũng vậy, Thánh đệ tử tu hành trí tuệ, quán pháp hưng suy. Bằng Thánh tuệ phân biệt tỏ tường và thấu suốt mà chân chánh diệt tận khổ. Đó là Thánh đệ tử có bức tường trí tuệ, để trừ ác và bất thiện, tu các thiện pháp”.
Tóm lại, bảy pháp tín kiên cố, tàm, quý, tinh tấn, học rộng nghe nhiều, chánh niệm, trí tuệ là bảy lớp thành trì vững chắc bảo vệ lâu đài điện các tâm linh trước mọi thế lực của ma binh mà mỗi người con Phật phải luôn xây đắp, giữ gìn. Cuộc sống là sống với sống cùng chứ không phải sống một mình. Không một cá thể nào tách rời đoàn thể mà có thể sống được. Đoàn thể đó có thể là một gia đình, một tổ chức xã hội, một đoàn thể tu học, có thể là rừng cây, bờ suối… Tất cả những thứ ấy đều là điều kiện nhân duyên cho sự sống tiếp tục phát triển.
Trong trùng trùng duyên khởi các điều kiện nhân duyên đó, có những thứ đã hấp dẫn, cuốn hút chúng ta vào con đường danh lợi, vào con đường tội lỗi; cũng có những thế lực vô minh, ma binh đang rập rình xâm nhập vào “nhà Như Lai”, lung lay lý tưởng tu học, phá hủy giới thân tuệ mạng… Vì vậy, chúng ta phải cẩn trọng, đề phòng. Cẩn trọng và đề phòng bằng bảy thiện pháp này chính là thành trì vững chắc nhất khiến “không bị Ma vương lung lạc, cũng không theo pháp ác bất thiện, không bị nhiễm bởi nhiễm ô, không còn thọ sanh trở lại”.
Các thế lực xấu ác không ngừng bức não người tu. Chúng có thể mắng chửi, đập phá, bôi nhọ… Nếu mắng chửi, đánh đập, bôi nhọ mà không chi phối được người tu thì chúng sẽ phụng kính, cúng dường, lễ sự để lung lạc. Đó là bản chất xấu ác của ma binh, rất hung bạo và xảo quyệt, luôn tìm mọi cách để mưu hại, hoặc mua chuộc bằng tiền tài, danh lợi, địa vị, hoặc khủng bố bằng bạo lực… nhằm mục đích lung lạc chí hướng tu tập của những người tu. Nếu không đề cao cảnh giác, không có bản lĩnh phi thường, không xây dựng thành trì vững chắc, người tu sẽ dễ dàng bị rơi vào cạm bẫy của các thế lực xấu ác.
Thích Nguyên Hùng
Đăng lúc: 07:27 - 08/03/2017
Có thể khẳng định, vấn nạn giả sư đã cướp đi cơ hội - phương tiện để mang hình ảnh đẹp của những nhà sư lặng lẽ xếp thành hàng trì bình vào những buổi sáng: bước vào cuộc đời, vào từng ngõ ngách xóm làng để tạo duyên cho người gieo duyên với Tam bảo ngay trên chính trên quê hương Việt Nam mình.
tribinh.jpg
Nét đẹp trì bình và gieo duyên với Tam bảo của người dân nước Phật giáo - Ảnh: Pixabay
Tôi đã trì bình khất thực ở Thái Lan...
Tôi đã từng yêu quý chiếc y và hình ảnh của một nhà sư ôm bát trì bình ngang qua nhà mình khi còn rất nhỏ, đó như là hình ảnh đánh thức hạt giống lành trong tiềm thức rồi sau đó phát tâm xuất gia để được trở thành hình ảnh đó. Thực sự không còn niềm hạnh phúc nào bằng khi tự mình đắp y mang bát đi khất thực trì bình vào những buổi sớm mai một cách tự do và không sợ bị dòm ngó thật-giả, đúng-sai như một sự thực tập đức hạnh khiêm cung cần có và tự nhắc mình là Khất sĩ - xin ăn tu học, lấy phẩm thực để nuôi thân, pháp hành để nuôi trí.
Với cơ duyên du học tại Thái Lan, ngoài những ngày học chính thức tại trường, vào những ngày cuối tuần hoặc ngày Phật nhật (4 ngày trong tháng - như ngày rằm tại VN) thì tôi có nhiều cơ hội để tiếp xúc và thực tập truyền thống tốt đẹp này ngay tại thủ đô Bangkok - một thành phố hiện đại bậc nhất của Thái Lan.
Khi trời vừa hừng sáng, đúng 5 giờ sáng là tôi thức dậy vệ sinh cá nhân, lấy y, ôm bát - bát ở đây được làm bằng bạc hoặc nhôm và được bao bọc bên ngoài bởi chiếc thẩu mây và có dây đeo ngang bên vai phải để đỡ mỏi tay khi ôm bát đi đường dài quanh khu vực chùa nơi mình cư trú hoặc xa hơn.
Vừa bước ra khỏi cổng là đã thấy người dân trải những chiếc chiếu nhỏ, quỳ bên lề đường, đặt một mâm thức ăn trước mặt để đợi Tăng đoàn đi ngang qua mà dâng cúng. Điều đặc biệt là họ phải thức dậy thật sớm, sớm hơn các nhà sư để chuẩn bị thức ăn cúng dường, thường là cơm, xôi, trái cây và vài cái bánh để thể hiện tấm lòng tôn kính cũng như sự chuẩn bị chu đáo cho phẩm thực cúng dường của mình. Đôi khi những Phật tử này phải thức cả đêm để gói bánh và ngồi canh nồi cơm chín.
Khi thấy các sư đi ngang qua, lần lượt người dân không ai bảo ai, tự lấy thức ăn bỏ vào trong bát dâng lên cúng dường và nhờ các sư chú nguyện.
Khi ấy, mọi người vừa thấy tôi bước đến thì nở nụ cười như ra hiệu muốn cúng dường, và thế là tôi nhẹ nhàng đứng lại để họ quỳ xuống chắp tay trang nghiêm theo nghi thức truyền thống cúng dường của người Thái. Sau khi bỏ thức ăn vào bát cho chư Tăng và mỗi tín chủ sẽ thọ nhận lại lời kinh cầu nguyện sớm mai từ sự gia tâm chú nguyện của Tăng đoàn (riêng tôi thì những ngày đầu còn nhiều bỡ ngỡ nên chưa thể tụng kinh bằng tiếng Pali, khi ấy tôi nhẹ nhàng tụng phẩm hồi hướng công đức bằng tiếng Việt để gửi trao năng lượng bình an đến họ - NV), cứ thế tôi lại thấy họ cười và hoan hỷ vô cùng như để bắt đầu một ngày mới ngập tràn niềm tin.
Sau khi nhận đủ thức ăn, tôi quay người trở lại con đường cũ để trở về chùa thọ dụng phần thực phẩm mà mình đã nhận được và phần nào còn dư lại tôi để dùng chung với thức ăn độ ngọ được nấu vào buổi trưa. Riêng, vào những ngày lễ lớn, thức ăn cúng dường hơi nhiều thì các vị cư sĩ hay còn gọi là hộ bát xách giỏ đi theo bên cạnh nhà sư trong lúc trì bình để hỗ trợ chư Tăng xách đồ, sau khi được chú nguyện xong thì họ mang chuỗi thức ăn dư về lại cho những người nghèo khó trong xóm hoặc gửi đến các trung tâm nuôi trẻ mồ côi - phúc lợi xã hội gần chùa như một sự cho - nhận tiếp nối, đầy nhân văn.
Xong buổi sáng khất thực vào ngày cuối tuần tại đất nước Thái Lan, tôi lại lên đường tiếp tục đi dạy tiếng Anh miễn phí cho trẻ em nghèo trong vùng. Lớp học được bắt đầu vào lúc 7 giờ sáng cuối tuần, hôm nào các em cũng tập trung lại từ rất sớm tại phòng học trong khu ký túc xá mà mình đang ở. Thấy tôi đến, các em vội đứng lên chắp tay chào và quỳ xuống làm lễ (lạy) theo truyền thống. Theo đó, sẽ có hai em đại diện dùng thau nước sạch và khăn để lau chân cho nhà sư mà cũng vừa là thầy giáo của mình để thể hiện niềm tôn kính.
Sở dĩ có truyền thống đó vì tại Thái Lan, Tăng sĩ đóng vai trò hết sức quan trọng trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước, tạo nên một mối liên hệ mật thiết lâu đời giữa các Tăng sĩ và quần chúng nơi mình đang ở. Các ngôi chùa sẽ là những trung tâm văn hóa, học thuật và giáo dục, trong đó các nhà sư luôn được coi là thầy giáo về mặt tâm linh lẫn học thức ở đời - để hướng dẫn, dìu dắt, nuôi dưỡng những thế hệ tiếp nối, phụng sự đất nước mình trên tinh thần đạo đức nhà Phật. Ngoài ra, Tăng sĩ còn được xem như “thẩm phán” để khuyên nhủ, giải quyết và giúp đỡ những mối quan hệ bất hòa trong gia đình và xã hội khi chưa thật sự cần đến sự can thiệp của pháp luật.
Mong ước đơn sơ của một Khất sĩ
Phải chăng, trăm vạn ngôn từ có khi không bằng một hình ảnh thảnh thơi bình dị thật sự chín muồi của một Tăng sĩ nhẹ nhàng, tươi mát, thật tu, thật học, đắp y - mang bát bước đi trên những cung đường đầy tấp nập của chợ-đời để trao truyền, tiếp nối và thức tỉnh cái duyên của đạo cho những ai đã gieo trồng từ vô thủy vô chung?
Thực ra, sự bình dị, khiêm cung từ lời nói đến hành động là bản chất vốn có của người xuất gia học Phật, khi luôn thấy mình nhỏ bé, cầu học và biết dừng lại đúng lúc - đó là những yếu tố trọng yếu cần có ở những người tu trẻ như tôi, thấy rằng phép khất thực là cách tự dạy, tự học, tự nhắc mình hữu hiệu nhất bằng thân giáo để yểm trợ và dưỡng nuôi chính mình từ bài học không lời mà mình phải ôn, phải luyện mỗi ngày từ các bậc tiền nhân đi trước. Khi ấy các ngài cũng đã từng mang đạo vào đời bằng chính đôi chân, bằng mảnh y, bằng chiếc bát của Phật để vân du trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này.
Mơ rằng, một ngày nào đó tôi và những huynh đệ có thể lại được tiếp tục thực hiện phép khất thực ngay trên chính quê hương mình chứ không phải thực hiện ở một nơi nào khác hay tại một đất nước nào đó như đã kể trên. Biết rằng vẫn còn nhiều những bất cập, những khó khăn nhưng đừng vì sự lợi dụng của những người giả sư để rồi “thỏa hiệp”, đánh mất đi hình ảnh thiêng liêng, bài học đạo-đời giá trị mà đã ít nhiều làm bừng tỉnh biết bao con tim khi có duyên lành được hội ngộ, được nhìn thấy và đem lòng kính phục, tiếp nối - trở thành những “thạch trụ tòng lâm” mai sau.
Và rằng đừng để phép khất thực được xem là điều tế nhị nữa, khi đấy là món ăn thực dưỡng tâm linh hết sức quan trọng và rất cần thiết cho những người xuất gia trẻ, chuyên chở bài học khiêm cung, bình dị và tập nhận diện chính mình giữa một xã hội ngày càng thêm trăm điều cám dỗ...