Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Sự cố chấp của đàn ông vì quan niệm gia trưởng

Sự cố chấp của đàn ông vì quan niệm gia trưởng

Đăng lúc: 07:05 - 11/11/2015

Hỡi các em, các người trẻ, các em khi lớn khôn chuẩn bị bước vào đời hãy lắng nghe và suy ngẫm lại nhận thức của chính mình cho chín chắn. Thật ra người nữ có 5 cái khổ mà người đàn ông không thể nào giúp được. Cái khổ thứ nhất là lớn lên lấy chồng phải một mình về xứ lạ quê người làm dâu không người thân thuộc.


Cái khổ thứ hai khi có kinh nguyệt phải chịu nhọc nhằn, mệt mỏi trong ngày ấy. Cái khổ thứ ba phải chịu ốm nghén, nặng nề khi mang thai đứa con trong bụng. Cái khổ thứ tư là “vượt cạn” một mình trong đớn đau “banh da xẻ thịt”. Cái khổ thứ năm là hầu hạ đàn ông. Đó là 5 nỗi khổ thầm kín mà tất cả người nữ phải gánh chịu, những nỗi khổ này cánh đàn ông không thể nào thay thế được. Các em trai thanh niên trước khi lập gia đình cần phải quán chiếu sâu sắc về 5 nỗi khổ của phái đẹp để dễ bề thông cảm và yêu thương người bạn đời của mình nhiều hơn bằng trái tim hiểu biết.

Chuyện xưa kể có hai vợ chồng trẻ mới lấy nhau sống rất hạnh phúc thì đất nước bị chiến tranh, chàng trai phải lên đường nhập ngũ để lại người vợ với nỗi nhớ niềm thương cùng đứa con trong bụng. Chiến tranh đã làm ly tán đôi vợ chồng, kẻ ở người đi trong ngậm ngùi thương tiếc. Nàng giờ cô đơn lạc loài phải một mình làm lụng nuôi con trong âm thầm, lặng lẽ. Xưa nay ta thường nghe nói “gà trống nuôi con”, tức hàm ý khen ngợi đàn ông nuôi con một mình. Nhưng thật sự, người nữ có con và nuôi con một mình trong bối cảnh người chồng đi lính quả thật rất khó khăn. Việc nuôi con trong thời buổi chiến tranh loạn lạc không đơn giản và dễ dàng, vậy mà người phụ nữ ấy vẫn làm tròn sứ mệnh vừa làm mẹ, vừa làm cha.

Chiến tranh chấm dứt, 4 năm sau chàng được giải ngũ trở về, lòng tự nhủ thầm không biết con mình là trai hay gái, nếu nó là trai thì phải giống chàng như đúc, nếu là gái chắc giống nàng không sai. Về đến quê nhà chàng gặp lại vợ cùng đứa con trai kháu khỉnh lòng vô cùng sung sướng trong niềm hạnh phúc vô biên, chàng mừng thầm vì đã có con nối dõi tông đường. Hai người gặp lại trong xúc động nghẹn ngào đến nỗi vừa mừng vừa khóc. Người vợ sau đó đi chợ mua thức ăn để nấu cúng tổ tiên mừng gia đình đoàn tụ. Người chồng ở nhà gọi con lại bảo, “con của ba, con lại đây để ba hôn con nè!” Đứa con nghe vậy ngạc nhiên nói, “chú không phải là ba của con, ba của con ban đêm mới về, đêm nào ba cũng nói chuyện với mẹ rất lâu. Mẹ khóc ba cũng khóc theo, mẹ ngồi thì ba ngồi, mẹ nằm thì ba nằm, đêm nào ba và mẹ cũng vậy. Chú không phải là ba của con”.

Người cha trẻ nghe xong choáng váng cả mặt mày, sự thật quá phũ phàng, nàng đành thay lòng đổi dạ đến thế ư! Tim chàng bỗng nhiên chai cứng lại, lời trẻ thơ như gáo nước lạnh tạt vào mặt, bao nhiêu ước mơ được gặp lại vợ và con giờ tan thành mây khói. Chàng trai đau khổ tột cùng khi nghĩ vợ đã nằm trong vòng tay kẻ khác, đã ngoại tình và phản bội chàng. Chàng không thèm nhìn vợ, không thèm hỏi han, không thèm nói chuyện vì nghĩ vợ là người đàn bà mất nết. Khi dâng cơm cúng tổ tiên chàng vô cùng buồn bã mà quỳ lạy một mình, không cho vợ lạy chung. Người vợ đau khổ và xấu hổ vô cùng, nàng hỏi nguyên do nhưng chàng không nói, cúng xong chàng cũng không dùng cơm mà bỏ ra quán ngồi nhậu đến hai ba giờ sáng mới về.

Cứ như thế ngày nào cũng vậy, chàng bỏ mặc vợ và con côi cút, bơ vơ, thầm thương trộm nhớ. Chàng chỉ về nhà khi đã say mèm, chẳng thèm ăn cơm, chẳng chịu nói chuyện với vợ hay vui đùa cùng con. Ba ngày sau người vợ chịu không nổi cảnh tượng dửng dưng, khinh khỉnh, thầm lặng của chồng nên đâm đầu xuống sông tự tử. Đây là câu chuyện tình thuở xưa ông cha ta viết lại để khuyên người trẻ đừng vì thấy nghe sai lầm mà vội vàng ôm mối nghi ngờ, đành lòng kết án oan cho người bạn đời, để cuối cùng mình là nạn nhân của bao điều lầm lỗi, chưa vui sum họp đã sầu chia ly.

Hỡi các em, các người trẻ, các em khi lớn khôn chuẩn bị bước vào đời hãy lắng nghe và suy ngẫm lại nhận thức của chính mình cho chín chắn. Thật ra người nữ có 5 cái khổ mà người đàn ông không thể nào giúp được. Cái khổ thứ nhất là lớn lên lấy chồng phải một mình về xứ lạ quê người làm dâu không người thân thuộc. Cái khổ thứ hai khi có kinh nguyệt phải chịu nhọc nhằn, mệt mỏi trong ngày ấy. Cái khổ thứ ba phải chịu ốm nghén, nặng nề khi mang thai đứa con trong bụng. Cái khổ thứ tư là “vượt cạn” một mình trong đớn đau “banh da xẻ thịt”. Cái khổ thứ năm là hầu hạ đàn ông. Đó là 5 nỗi khổ thầm kín mà tất cả người nữ phải gánh chịu, những nỗi khổ này cánh đàn ông không thể nào thay thế được. Các em trai thanh niên trước khi lập gia đình cần phải quán chiếu sâu sắc về 5 nỗi khổ của phái đẹp để dễ bề thông cảm và yêu thương người bạn đời của mình nhiều hơn bằng trái tim hiểu biết.

Ngày xưa với quan niệm chồng chúa vợ tôi, vai trò người nữ bị khép kín trong phạm vi gia đình với bao điều phiền muộn, khổ đau. Họ phải chịu nhiều cay đắng, một mình đơn độc về làm dâu xứ lạ không người thân thích. Theo quan niệm “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ một chồng”, người nữ thời ấy chỉ một mực thờ chồng, thậm chí nhiều người phải đi cưới vợ bé cho chồng, nên có câu “thân gái 12 bến nước, trong nhờ đục chịu”. Chế độ chồng chúa vợ tôi nên người đàn ông được quyền lấy nhiều vợ và người phụ nữ nếu dan díu cùng người khác sẽ bị xử tội rất nặng. Đó là luật pháp thời xưa khiến người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi mà không có quyền bào chữa. Họ phải chấp nhận thân gái 12 bến nước, trong nhờ đục chịu là vì vậy.

Nhưng thói đời đục thường nhiều hơn trong, chỉ một vấn đề làm dâu hầu hạ cha mẹ chồng đã là một nỗi khổ lớn và phải lệ thuộc anh chị em nhà chồng. Người xưa quan niệm “đàn bà đái không qua ngọn cỏ”, đàn bà là loại cỏ dại chỉ có nhiệm vụ hầu chồng, thờ chồng, phụng sự gia đình chồng, sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường nhà chồng. Họ phải chấp nhận luật Tam tòng, khi chưa xuất giá phải thờ cha, khi có chồng phải thờ chồng, đến khi chồng chết chỉ biết thờ con, không được quyền tái giá. Đó chính là những bất công buộc người nữ phải chịu nhiều hệ lụy khổ đau mà không nói được. Các em ngày nay chuẩn bị bước vào đời để được sống yêu thương và hiểu biết, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ cần phải biết những nỗi khổ thầm kín ấy.

Trở lại câu chuyện chàng trai đi chiến trận trở về gặp lại người vợ và đứa con thơ dại. Đúng ra người cha khi nghe con nói vậy phải tìm hiểu kỹ càng, xác đáng sự việc. Chàng cứ nghĩ trẻ thơ đâu bao giờ nói sai sự thật nên cứ một mực tin càn, chẳng cần tìm hiểu nguyên nhân. Thật ra, khi chàng đi lính, đứa bé ở nhà một hôm hỏi mẹ “ai trong xóm này cũng có cha, sao con lại không có?” Người mẹ khi ấy chỉ vào cái bóng trên vách nói “cha con đó”. Đứa bé nghe mẹ nói vậy tưởng thật nên tin đó là cha mình. Một buổi tối trời đang mưa tầm tã, người vợ trẻ bồng đứa con trên tay dưới ánh đèn leo lét chợt nhớ người chồng bao năm xa cách mà cất tiếng khóc nghẹn ngào. Đứa bé thấy vậy mới hỏi, “bộ cha đánh mẹ hả?”, trẻ thơ thật thà nào có biết gì đâu.

Người vợ trẻ trong thời loạn lạc tình yêu thương chưa trọn vẹn mà phải gánh lấy trách nhiệm nặng nề. Một mình ôm đứa con trong bụng và phải tự mình nuôi dưỡng. Đây là nỗi khổ, niềm đau lớn lao của người vợ trẻ một mình vượt cạn, vừa làm mẹ, vừa làm cha. Một người vợ cùng chồng nuôi con vất vả một thì người vợ đơn phương nhọc nhằn hơn chục lần như thế. Vậy mà sử sách ít bao giờ tán dương phụ nữ mà chỉ tán dương đàn ông bằng câu nói “gà trống nuôi con”. Người vợ trẻ một mình nuôi con đêm ngày mong ngóng, mỏi mòn chờ chồng, thậm chí rất nhiều người phải khóc hận nuôi con vì chiến tranh loạn lạc đến hai ba chục năm mới gặp lại. Ấy thế mà chưa vui sum họp đã sầu chia ly, chàng trai ấy chưa cảm thông nỗi khổ niềm đau thầm kín của vợ trong 4 năm qua.

Đứa con tuy không có cha trực tiếp chăm sóc từ khi mở mắt chào đời, nhưng nhờ sự yêu thương, bảo bọc của mẹ đứa bé vẫn được sống an vui, hạnh phúc. Ngày chồng trở về tưởng được thêm phần hạnh phúc, thêm ấm nồng tình vợ chồng cùng đứa con thơ, thật không ngờ giông bão lại kéo đến. Người vợ quyên sinh vì sầu thương, buồn tủi, người chồng ở lại liệu có thể “gà trống nuôi con”? Người vợ trẻ ấy đã rất bơ vơ, lạc loài ôm bào thai trong bụng khi người chồng đi chinh chiến phương xa. Xưa có chồng ở nhà thì chẳng lo cơm áo gạo tiền, chỉ lo chu toàn mọi việc trong nhà, giờ một mình gánh thêm gánh nặng, phải bảo bọc, che chở đứa con, lần bước vào đời tìm chén cơm manh áo.

Chàng trai trẻ không có cơ hội quán chiếu sâu sắc về sự khó khăn và khốn khổ của vợ khi mình đi chinh chiến, nàng ở nhà nhận lãnh vai trò vừa làm mẹ, vừa làm cha và phải sống cô đơn, hiu quạnh một mình. Đến ngày khai hoa nở nhụy cũng chỉ mình nàng phải vượt cạn một mình, chỗ này đàn ông không thể nào thay thế, nên mới có câu “đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình”. Không có chồng ở nhà để động viên, khuyên nhủ, chăm sóc khi cần thiết, vậy mà nàng vẫn cố gắng chịu đựng để vượt qua mà vươn lên nuôi dạy con khôn lớn. Bao nhiêu năm nhọc nhằn, cực khổ nuôi con, mỗi lúc nhớ chồng nàng khóc một mình trong cô đơn, buồn tủi. Lúc nào nàng cũng ngóng trông, mong đợi và thầm cầu nguyện chiến tranh mau chấm dứt để có ngày được cùng chàng đoàn tụ.

Rồi cái ngày ấy cũng đến, người vợ trẻ mừng đến rơi nước mắt, bao nhiêu ước mơ bây giờ đã thành sự thật. Trong lòng nàng cứ nghĩ chắc chắn chàng sẽ bù đắp hạnh phúc cho nàng sau bao năm xa cách, vừa đi chợ, vừa tưởng tượng chắc chàng sẽ yêu thương mình nhiều hơn. Không ngờ mọi việc thật tréo ngoe, vừa đi chợ về nàng đã thấy chàng mặt lạnh như tiền, nàng hỏi gì chàng cũng không trả lời, chẳng thèm nói năng, ngó ngàng đến nàng. Sự thật là chàng đã hiểu lầm nàng, đứa bé vì muốn có cha nên nàng đã chỉ cái bóng trên vách mà nói “đó là cha con”. Cứ như thế đêm nào cũng vậy, nàng nhớ chồng da diết và phải chỉ bóng mình mà nói “cha của con về đó”. Bây giờ thì nàng đã vĩnh viễn ra đi, đã ôm mối hận thiên thu không thể nào trở lại, thần thức nàng có lẽ vẫn còn lẩn quẩn bên mái nhà xưa để được nhìn con thơ bé bỏng và mong chồng sẽ hiểu được lòng mình hơn. Đứa con thơ dại sau bao năm sống thiếu tình cha, giờ cha đã có nhưng mẹ lại không còn. Chàng trai ấy giờ đã biết mình sai, đã nhận ra điều lầm lẫn lớn lao nhưng vợ đâu còn nữa, giờ thật sự có ăn năn hối tiếc thì cũng quá muộn màng.

Các em hiện giờ có đầy đủ phúc duyên còn có cha, có mẹ, các em đang được sống hạnh phúc bên mái ấm gia đình. Vậy các em ngay tại đây và bây giờ phải biết trân quý, phải biết gìn giữ khi được sống trong vòng tay âu yếm của mẹ cha. Các em biết không, tôi nhờ vậy mà được làm người trở lại, nhờ sự chịu đựng hy sinh và hết lòng thương yêu của mẹ mà tôi bây giờ mới có cơ hội tâm tình, trao đổi với các em bằng tất cả tấm lòng chân thành tha thiết. Khi con người đã có những hiểu biết sai lầm thì nghi ngờ, giận dỗi, tự ái phát sinh làm cho ta không làm chủ bản thân mà phán xét mọi việc sai sự thật. Chàng trai ấy không có sự cảm thông nỗi khổ, niềm đau của người vợ trẻ phải ở nhà một mình vượt cạn, nuôi con; do đó cứ nghĩ trẻ thơ không bao giờ nói dối mà đem lòng oán trách vợ không một lời tìm hiểu, hỏi han để rồi chính tri giác sai lầm mà làm chết đi người vợ thủy chung oan uổng. Này các em, các người trẻ, các em nên đọc kỹ câu chuyện trên để có thời gian suy ngẫm, tìm hiểu trước khi muốn phán xét hay kết luận một điều gì. Các em nên tìm hiểu cho chín chắn, kỹ càng, nếu không như vậy sẽ vô tình làm khổ cho mình và tha nhân khi bước vào đời với bao phiền muộn, khổ đau.

Tri giác sai lầm thường làm con người mất hết lý trí sáng suốt, do đó nhận định và quyết đoán mọi điều không đúng với sự thật mà dẫn đến nhiều tai hại. Là người thanh niên hay người đàn ông trước khi bước vào đời các em phải định hướng, phải tìm hiểu chân lý sống cho rõ ràng. Thường cái gì cứng thì dễ gãy, cái gì mềm dẻo lại dễ tồn tại. Cụ thể nhất là răng cứng nên dễ gãy, lưỡi mềm nên dễ uốn. Các em vào đời cũng phải như vậy! Bao nhiêu cuộc tình đã đổ vỡ vì hiểu biết sai lầm, vì cố chấp, vì không biết cảm thông và tha thứ cho nhau. Vì vậy các em phải cần tìm hiểu cho chín chắn những gì mắt thấy tai nghe trước khi kết luận hay tin tưởng bất cứ việc gì.

Chàng trai ấy lẽ ra phải hỏi vợ mình sự thật ra sao, nếu chàng hỏi rõ thì đâu có chuyện làm đau lòng nhân thế. Nếu giả sử vợ chàng có như thế, cô ấy thật sự đã phản bội chàng thì chàng cũng nên nghĩ lại mà tha thứ, cũng nên cảm thông, độ lượng mà bao dung cho nàng. Suốt thời gian chinh chiến ai nuôi dạy con chàng, ai bảo bọc vợ chàng để còn sống mà chờ chàng đoàn tụ. Nếu có chàng cũng nên can đảm mà mạnh dạn cám ơn người ấy, vì người ấy đã cho con và vợ chàng một sự sống ấm no, trọn vẹn, nhờ vậy có ngày hôm nay chàng có cơ hội gặp lại vợ và con. Ấy vậy mà, vợ chàng xứng đáng là một người vợ ngoan hiền, mẫu mực, đạo đức, thủy chung, dù chịu cô đơn một mình ngậm đắng nuốt cay nàng cũng chấp nhận đi biển một mình để “mẹ tròn con vuông”. Chàng đâu hề biết trong suốt 4 năm ròng chinh chiến phương xa, vợ của chàng phải chịu nhiều đắng cay, khổ sở khi chấp nhận làm thuê làm mướn, cực khổ nhọc nhằn miễn có tiền nuôi con, bất chấp tiếng đời dèm pha, chê trách. Chàng chưa phải là một người đàn ông đích thực, chàng chưa phải là một người đàn ông bản lĩnh, chưa phải là một người chồng lý tưởng vì chỉ biết nghĩ đến mình quá nhiều.

Thật ra chàng sống quá ích kỷ, quá nhỏ nhoi, quá hèn mọn, quá tự ti, quá cố chấp, chàng không xứng đáng là một đấng nam nhi đại trượng phu. Vợ chàng đã mang đứa con trong bụng là giọt máu của chàng, nàng phải một mình mang nặng đẻ đau, tần tảo sớm hôm nuôi con thơ dại, một mình gặm nhấm cô đơn, nhớ chồng da diết, lặng lẽ ngóng trông mòn mỏi, khát khao chờ đợi ngày chàng trở về. Đúng ra vợ chồng xa cách đã 4 năm, khi gặp lại chàng phải thầm cám ơn vợ sao quá đỗi tuyệt vời, một thân một mình thức khuya, dậy sớm tần tảo nuôi con không quản ngại gian lao, khó nhọc; để ngày hôm nay chàng được gặp con, được có con mà nối dỗi tông đường. Chàng thật sự quá ư diễm phúc khi có được một người vợ như vậy, tại sao chàng không biết trân quý, tìm cách bù đắp lại cho cô ấy?

Tôi ngày xưa còn tệ bạc hơn nhiều, tôi bỏ vợ khi mới sinh con chỉ vừa đầy tháng cùng đứa con trai mới tròn 3 tuổi. Vậy mà cô ấy không hề uất hận, vẫn lặng lẽ một mình nuôi con lao nhọc trăm bề. Nhưng vợ chàng phải một mình mang nặng đẻ đau, một mình nuôi con trong thời chiến tranh loạn lạc cùng tiếng đời thị phị còn khó khổ trăm bề hơn thế, vậy mà chàng nỡ dửng dưng, lạnh lùng, không thương tiếc. Nếu chàng biết cởi mở, bao dung, mở rộng tấm lòng một chút thì làm sao có chuyện phải tiếc hận ngàn thu. Chàng có dám bảo đảm sẽ ở vậy nuôi con để được người đời tán dương, khen ngợi? Hiện giờ con chàng còn quá nhỏ, nó đâu biết vì sao mẹ chết, khi lớn khôn rồi phải giải thích ra sao?

Nó sẽ nghĩ gì khi biết sự thật về cách cư xử thiếu hiểu biết của cha nó, sẽ chấp nhận mọi chuyện thế nào đây? Tôi ngày xưa vì đam mê hưởng thụ quá đáng nên sai lầm do quá ngu si, mê muội; còn chàng sai lầm do quá cố chấp vào tri giác của mình. Tôi và chàng cả hai đều sai, trong cuộc đời này vẫn có những cái sai tương tự như thế tràn ngập khắp thế gian. Vì thế ngày nay tình trạng bạo hành học đường, bạo hành gia đình hầu như tràn lan khắp mọi miền đất nước. Con người do đam mê hưởng thụ, do cố chấp và bảo vệ thành trì bản ngã của mình; cái gì của mình thì cho là đúng nên chấp chặt, ai làm khác đi thì không được, từ đó phát sinh tự ái, giận hờn, phá bỏ, gây khổ đau cho nhau.

Trong cuộc sống khó ai không mắc sai lầm, nhưng có những sai lầm chúng ta có thể tháo gỡ và sửa chữa, cũng có những sai lầm sau khi biết được đã trở thành vết sẹo khổng lồ khó mà phai mờ trong tâm trí. Chàng trai trẻ giờ biết ra thì đã quá muộn màng, chồng vô tình giết chết vợ mình khiến con thơ phải lạc loài, mất mẹ. Liệu chàng có thể đứng vững mà “gà trống nuôi con”, hay sẽ rơi vào khủng hoảng, mất tự chủ để rồi dìm chết cuộc đời bằng những ly rượu đắng, sáng xỉn, chiều say, tối lai rai. Một thời trai trẻ tôi đã từng dìm mình dưới ao nước giữa ban đêm đến năm mười tiếng đồng hồ cũng vì chút hờn ghen bóng gió, tức quá nói không được nên đúng là khùng chẳng ra khùng, điên chẳng ra điên. Trong men say tình ái vì tri giác sai lầm mà không biết bao cuộc tình tan vỡ, tôi khi đó như con cú quạ lúc ban ngày. Giờ ngồi ngẫm lại cả một thời son trẻ không biết bao là lỗi lầm đáng tiếc.

Còn làm người, còn có sự sống là còn có sai lầm, khó có ai được hoàn hảo, ngoại trừ các bậc Thánh nhân, các bậc Bồ tát. Tôi ngày hôm nay có cơ hội làm lại cuộc đời nhờ gặp Phật pháp nên chỉ có đôi lời khuyên nhủ cùng các em, các em hãy nên chín chắn suy nghĩ kỹ càng khi bước vào dòng đời nghiệt ngã với muôn ngàn đắng cay. Các em đừng để tri giác sai lầm của mình làm chủ, sai sử như câu chuyện tôi đang kể cho các em nghe. Các em hãy tự hỏi mình từ đâu đến và sau khi chết đi về đâu? Các em hãy tự hỏi như vậy chứ không chỉ biết nam nữ lớn lên thì phải có vợ, có chồng rồi sinh con đẻ cái nối dõi tông đường. Nếu các em chỉ hiểu biết bấy nhiêu thôi thì chưa đủ, các em cần phải tiến xa thêm một bước nữa. Các em muốn duy trì giống nòi làm người để phục vụ nhân loại, đóng góp cho tha nhân là một điều tốt, nhưng các em cần phải biết làm thế nào để trở thành người tốt luôn sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

ngcan (3)

Đức tin liệu cũng có ba bảy đường?

Đăng lúc: 07:18 - 05/11/2015

Với sự quan sát và cách nhìn của một Phật tử trí thức về các hiện tượng Phật giáo trong xã hội hiện tại, trong mong ước xây dựng một nền Phật giáo chánh tín, GN trân trọng giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Phạm Văn Nga, pháp danh Nguyên Cẩn về vấn đề đức tin và chánh tín.
Khi xã hội trống vắng niềm tin

Cách đây nhiều năm trong một chuyến công tác ở Moscow - Liên bang Nga, ông chú tôi, một quan chức trong ngành điện lực, sau cuộc hội thảo chuyên môn, giờ giải lao, một cán bộ cấp cao, một nữ phó tiến sĩ người Nga tâm sự: “Các anh may mắn hơn chúng tôi, các anh có niềm tin vào tôn giáo hay một thứ tín ngưỡng nào đó, còn chúng tôi, sau khi Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu tan rã, chỉ còn sự trống rỗng, hầu như chúng tôi chẳng biết tin vào điều gì bây giờ!”.

ngcan (2).jpg
Ở các nước phát triển, nhiều người tìm đến với Phật giáo vì đó là lối sống có thể ứng dụng
mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích thiết thực cho mình, cho người, cho môi trường...

Niềm tin tôn giáo

Là một trí thức XHCN, chắc bà ấy khi đề cập đến niềm tin không nhắm đến những tín ngưỡng như những nghi thức cầu nguyện hay những điều huyền nhiệm mà cũng không phải là triết lý theo truyền thống Tây phương, vì theo Edward Conze “Ở châu Âu, chúng ta hầu như đã quen với lỗ hổng rất lớn giữa lý thuyết của các nhà triết học và và sự thực hành của họ. Chẳng hạn như Schopenhauer và Herbert Spencer,… là những ví dụ nổi bật. Nếu một nhà triết học ở đây chứng minh được rằng không có cái ta, lập tức họ buông bỏ điều đó và hành xử như một người có bản ngã… Thật không dễ gì bài bác một nhà triết học bằng cách chỉ ra rằng ông ta thô lỗ với vợ ông ta, ganh tị với bạn đồng nghiệp, đã may mắn hơn ông ta, và đỏ mặt tức bực khi bị phản bác… Trái lại trong Phật giáo tầm quan trọng là do lối sống, một đời sống thánh thiện, buông bỏ sự dính mắc đối với thế giới này…” (*) .

Vậy cái niềm tin tôn giáo bà nói ở đây hẳn là những nguyên tắc sống, thái độ sống, hành xử với tha nhân, cái nhìn về cuộc đời. Nói như nhiều nhà nghiên cứu phương Tây, Phật giáo là một tôn giáo thực tế. Vì họ hiểu giá trị của một ý tưởng phải được đánh giá và phê phán qua việc bạn có thể vận dụng thế nào ý tưởng đó. Bất cứ nơi nào, hay ở bất kỳ ai, nếu người ta thấy những tính cách từ bi, hỷ xả, tử tế, thanh thản, tự tin, người ta sẽ hiểu cái “triết lý” thực tế phía sau những thái độ ấy và mức độ tu chứng của hành giả, không cứ là tu sĩ hay cư sĩ…

Thế nhưng niềm tin của chúng ta hôm nay ở đâu khi nhìn lại xã hội chúng ta những năm gần đây, người ta không khỏi lo âu, ái ngại vì nhiều thông tin cho thấy các mặt của đời sống đều xuống cấp, nhất là văn hóa mà ánh xạ của nó thể hiện qua các mặt ngôn ngữ, truyền thông và nhất là cách hành xử bạo lực từ nhà trường ra đường phố, công sở… Ngay cả trong tình yêu người ta cũng phũ phàng khi sẵn sàng giết, tạt a-xít, trói rồi đốt người yêu, người vợ và thậm chí con mình (!). Sân hận dễ dàng bộc phát, tràn lan nhiều nơi.

Gương mặt người Việt Nam theo một số nhà xã hội học từ lâu nay đã biến mất vẻ an nhiên, thay vào đó là những nét đề phòng. Họ căng thẳng vì đời sống chăng? Có thể nhưng ngày xưa cha ông còn nghèo hơn chúng ta bây giờ mà? Họ học theo phim ảnh Âu Mỹ hay những game bạo lực chăng? Nhưng ở những nước sản xuất ra phim hay game đó, tỷ lệ tội ác thấp hơn chúng ta nhiều? Vậy thì vì đâu, cơ chế thị trường chăng? Không, cái cơ chế ấy chỉ làm cho một số người trở nên giàu có, phát triển lòng tham lệch lạc vì thiếu sức mạnh răn đe của luật pháp hay người thi hành nương tay vì lý do gì đó (?).

Lòng tham hôm nay thể hiện qua sự nhũng nhiễu của một bộ phận quan chức, qua hành vi thiếu lương tâm làm hàng gian hàng giả, hay kê giá lên nhiều lần của một lớp tư sản đỏ, có sự tiếp tay của thể chế “lợi ích nhóm” lũng đoạn đời sống.

Và niềm tin đặt sai chỗ

Nhưng có thật xã hội hôm nay thiếu niềm tin tôn giáo không? Có người sẽ tranh luận rằng Phật giáo, chưa nói đến các tôn giáo khác, đang trong giai đoạn “phồn vinh”, được bá tánh hết sức quan tâm và có rất nhiều tín đồ. Cứ nhìn vào các lễ hội, người ta thấy chen chúc từ đầu năm đến cuối năm…Không cứ chùa Hương, chùa Bái Đính hay những chùa nổi tiếng khác, mà dịp lễ Tết, chùa nào cũng đông, người người đi chùa như trẩy hội, ngày rằm mồng một nhiều chùa tấp nập, khói hương mờ một góc đường... Đáng mừng chăng?

Phật giáo, như chúng ta biết, không chỉ là triết lý sống thực tế mà còn có những nghi lễ - nội dung tín ngưỡng, tôn giáo. Dù muốn dù không, những loại hình nghi lễ đã phát triển xung quanh giáo lý của Ðức Phật.
“Ðiều tối quan trọng ngày nay là nhận biết giá trị bức thông điệp của Ðức Phật và sống theo những lời dạy ấy. Đó là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không sử dụng các chất kích thích làm mê mờ tâm trí. Đức hạnh cao hơn là bố thí, giữ giới - những nguyên tắc đạo đức căn bản và thực hành thiền định.
Giáo đoàn của Ngài cũng đã trở thành một tôn giáo mà người ta sẵn sàng trung thành, một tôn giáo có nghi lễ, tổ chức, đường lối, tiêu chuẩn riêng để quyết định điều gì đúng điều gì không đúng, về mặt lịch sử, đó là một loại Phật giáo khác với hình thức kết tập thuyết giảng ban đầu của Phật.

Ngày đó, người tu Phật chỉ hướng đến những chân lý mà Phật chỉ dạy với tâm trí rộng mở, và tự do tư tưởng vì Phật giáo chủ trương giải thoát chúng ta khỏi một đấng Thượng đế vô hình - toàn năng hay những ràng buộc siêu nhiên, và nói chung khỏi mọi giáo điều. Thế nhưng, trong khi thực hiện những nghi lễ, có không ít người đã lầm tưởng một số hình thức hay những cách biểu hiện -phi-Phật giáo là nghi lễ chính thống hay tông phái “duy nhất” đưa đến giác ngộ.

Và hiện nay, nhiều pha tạp khác len lỏi vào đời sống tôn giáo của đạo Phật, gây nhiều ngộ nhận về giá trị “tâm linh” như ngoại cảm, đồng cốt, lịch số, dâng sao - giải hạn…

Chúng ta có thể kể đến một hiện tượng được bàn tán, sôi nổi viết thành sách, trên mạng, trên báo chí, là ngoại cảm. Xuất phát từ ước vọng tìm lại hài cốt những chiến sĩ tử trận trong chiến trường, đã dấy lên phong trào “Đi tìm đồng đội”. Rồi một đồn mười, mười đồn trăm, người ta đổ xô đi tìm và trao niềm tin cho những “nhà ngoại cảm”. Thực hư cũng còn mơ hồ vì đã xảy ra những vụ lọc lừa như vụ “cậu Thủy”, kẻ làm giả rất nhiều hài cốt, mập mờ đánh lận con đen, để rồi vừa bị tuyên án chung thân cách đây một tuần. Có cả những vị tu sĩ cũng tham gia vào hiện tượng ngoại cảm này.

Với vấn đề đồng cốt, một hiện tượng không những không bị cấm mà còn được xem như loại hình văn hóa “phi vật thể”.Hòa thượng Thích Thanh Từ có lần giảng dạy: “Những kẻ làm ông đồng, bà cốt đều là người sống trong trạng thái bất bình thường. Bản thân họ đã mất hết khả năng tự chủ, họ bị sai sử bởi một ma lực huyền bí nào đó. Khi ma lực ấy dựa vào họ, liền lạm dụng các danh hiệu thánh, những bậc vĩ nhân của thuở xưa dùng mạo xưng để lừa bịp người đời. Những kẻ yếu vía dễ tin nghe xưng danh hiệu Phật, Bồ-tát hay những vị tiên thánh liền khiếp đảm kính tin. Họ không dám phê phán đó là tà hay chánh…”.

Hòa thượng nhấn mạnh: “Không khi nào các bậc Thánh phải gá vào thân kẻ phàm tục khác làm việc giáo hóa. Vì các ngài đầy đủ thần thông biến hóa vô ngại. Như thế, những ma lực tựa vào đồng cốt đều là sức của quỷ thần. Vì sợ người đời không tin, nên chúng mạo xưng những danh hiệu cho to để gây uy tín. Biết rõ tính cách ma mị của chúng, người Phật tử phải tránh xa, tuyệt đối không được phụ họa với chúng, huống là quy kính. Có thế mới tỏ ra là người Phật tử chân chánh”(**).

Trong thực tế lâu nay, với nhu cầu về tín ngưỡng dân gian, nhiều người đến chùa xin các thầy ngày giờ chôn cất, khởi sự công trình, khai trương, cúng nhà mới…

Trong tạng kinh bộ Anguttaranikaya, Phật dạy: “Này các Tỳ-khưu, chúng sanh hãy làm cho thân được trong sạch, khẩu được trong sạch, ý được trong sạch. Thân khẩu ý trong sạch trong buổi sáng là ta có giờ an lành trong buổi sáng, thân khẩu ý trong sạch trong buổi chiều thì ta có giờ an lành trong buổi chiều”.

Ngài Maha Thongkham Medhivongs diễn giải thêm: “Người làm việc lành giờ nào thì ngày giờ ấy là giờ lành. Người mong cầu an vui mà biết bố thí, cúng dường đến các bậc xứng đáng cúng dường, các bậc phạm hạnh - sẽ được an vui. Sự cữ kiêng, cúng kiếng, cầu xin đều là những việc làm không bổ ích chi cả. Người có chánh kiến không nên làm những việc vô ích, vô bổ như thế” (***). Chúng ta thấy những việc như xin xăm, bói quẻ cũng như những hình thức cầu may. Rủi may là điều xảy ra không có duyên cớ. Phó thác hành động của mình, cho đến phó thác cả quyết định của mình vào một lời giải đáp âm u được gán cho “tâm linh” - chỉ tin mà không cần cơ sở lý luận. Cái gì không thành tựu thì đều đổ lên “số”, “vận”, “khắc tuổi”…

Nếu hiểu nguyên lý nhân quả, thân tổng báo của chúng ta có lẫn lành với dữ, khi nhân lành đến thì hưởng quả lành, nhân dữ chịu quả dữ. Người mê tín gửi gắm tâm hồn vào sự huyền bí, vào thế giới vô hình, nhiều người mất hết suy lý thực tế, phó thác cuộc đời của mình cho những “vì sao”, nghi lễ cầu đảo bị dẫn dắt bởi những thầy cúng.

Một vấn nạn khác đang diễn ra, đó là hiện nay có nhiều người, kể cả có học hành, địa vị xã hội thiếu nhận thức căn bản về Phật giáo, nhầm lẫn Mật tông với những hình thức như thần quyền, sử dụng bùa chú và tin mãnh liệt rằng đó là con đường ngắn nhất đưa đến giải thoát, giác ngộ, siêu việt mọi phương pháp khác, bất chấp trì giới, thiền định, phát triển trí tuệ, gạn lọc tham sân si. Đây là một ngộ nhận rất lớn mà Phật giáo chưa thấy một sự hướng dẫn nào rõ ràng từ Giáo hội, các bậc cao tăng qua các phương tiện truyền thông mạnh dạn lý giải và hướng dẫn họ một cách chính thống.

Xây dựng chánh tín từ đâu?
“Tư tưởng căn bản của Phật giáo là lý Nhân quả, Duyên khởi, Tứ diệu đế, nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim cương thừa - Mật tông, vốn đã hiện diện hàng ngàn năm nay trong đời sống người dân Việt. Còn những hiện tượng hay nghi lễ gì đó mà không dựa trên những đạo lý này thì mãi mãi chỉ là hình thức thức phù phiếm và không phải là “chánh đạo”. Mong mọi người cẩn trọng!
Ðức Phật đã từng dạy: “Ðừng vội tin tưởng điều gì vì dựa vào một tập quán lưu truyền. Ðừng vội tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vịn vào uy tín và thẩm quyền của một người nào đó. Ðừng tin tưởng điều gì vì có được nhiều người nói đi nhắc lại. Hãy tin tưởng vào những gì mà người ta đã từng trải, kinh nghiệm, thấy là đúng, thấy có lợi cho mình và người khác”.

Ðây là một thái độ dân chủ, khoa học mà những ai theo Phật cần tiếp nhận, thấy rõ quyền tự do tư tưởng của chính mình.

Có người còn cho rằng Phật giáo không giống như một tôn giáo (religion), không phải là học thuyết (doctrine), cũng không hẳn là triết lý (philosophy) hay luân lý học (ethics) như quan niệm Tây phương, mà là lời giảng giải của một bậc giác ngộ về con đường xây dựng hạnh phúc tương đối và hạnh phúc thực sự trong cuộc đời, tự tại trong sinh tử. Nói cách khác, con đường đó đưa đến diệt ham muốn, buông bỏ chứ không trói buộc, giảm lợi chứ không tăng, đưa đến con người thiểu dục, xã hội tri túc, chứ không tạo ra những kẻ tham lam vơ vét, khiến bất công tăng lên.

Đức Phật theo quan niệm một số triết gia là thầy thuốc - vô thượng y vương, đã tìm ra nguyên nhân, đã đưa ra thuốc chữa và liệu pháp chữa trị, được tóm tắt trong giáo lý Tứ Thánh đế. Ngài chỉ ra nguyên nhân của khổ, bản chất của đời sống, cách diệt khổ. Tuy nhiên nếu có nghe, đọc, tranh luận, mà không thực hành thì những lời dạy đó cũng vô nghĩa và không hiệu quả thiết thực. Nhất là khi chúng ta đang sống trong một xã hội trống vắng niềm tin mà ngày xưa chúng ta từng có, rất mạnh, rực rỡ như thời Lý-Trần hay cũng mạnh mẽ trong những thời kỳ sau đó.

Chiến tranh qua đi, lẽ ra chúng ta phải xây dựng lại niềm tin hay đức tin ấy nhưng buồn thay, nhiều hiện tượng khiến cho chúng ta thấy rằng mọi chuyện lại đang đi về phía ngược lại. Khi người ta chạy theo những nghi thức mê tín mà không còn tin vào lý nhân quả, vào duyên khởi, vào sự giải thoát và hạnh phúc chân chính ngay trong kiếp sống này thì người ta sẽ làm bất cứ điều gì mà không hề ăn năn sám hối, thành thực sửa sai, tránh làm điều sai quấy.

Chỉ cầu nguyện - có hiệu lực chăng?

Nhiều người quan niệm cầu nguyện tất yếu phải là chánh tín nhưng thử hỏi nếu chúng ta chỉ cầu nguyện thôi thì mọi ước mơ ích kỷ đều được toại nguyện, thì xin thưa, đó là mê tín. Vì nếu chỉ cầu nguyện mà được, thì không cần nói đến nhân quả nghiệp báo. Nhưng nếu mọi sự kiện xảy ra đều do nhân quả thì cầu nguyện khó mà toại nguyện, vậy thì cầu nguyện làm gì?

Khi cầu nguyện, dù mang nghiệp nặng hay nhẹ, chúng ta cũng đã thực hiện hành trì một trong những pháp môn căn bản vì chúng ta phải nghĩ tới Đức Phật, các vị Bồ-tát khi niệm danh hiệu của các Ngài. Hành giả sẽ tin rằng vị Phật hay Bồ-tát mình vừa cầu nguyện có năng lực làm mờ, làm biến đi những ác niệm trong tâm hồn mình. Nhất là niềm tin đó phải chí thành. Hành giả phải nhận thức sâu sắc tội lỗi của mình và hồi hướng công đức về thế giới của phẩm chất an lành.

Khi chánh tín tâm thành tựu, bạn sẽ thanh tịnh hóa cuộc sống thực tế của mình từ trong ý niệm. Hiểu và tin lý nhân quả, chúng ta khéo chuyển cái xấu trở thành tốt, cái dở trở thành hay, nắm chắc quyền tự chủ, tạo dựng tương lai tươi đẹp cho chính mình. Lý nhân quả vừa là khoa học vừa là sức mạnh chuyển biến con người. “Có trời mà cũng có ta”.

Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng ta có thể chuyển nghiệp ngay trong kiếp sống này. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá nhân là đến được trí tuệ tối hậu. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là bắt đầu thay đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp thân, khẩu và ý của chính mỗi cá nhân.

ngcan (3).jpg

Niềm tin vào duyên sinh

Chúng ta hiểu vạn vật trong vũ trụ đều duyên sinh. Không một vật nào tự thân có thể tạo ra chính mình mà phải là tập hợp gồm nhiều thành phần, đơn vị. Lý duyên khởi vì thế rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hiểu được lý duyên khởi, chúng ta thấy rõ muôn vật trên thế gian đều tương sinh, tương tức với nhau như nước và mây, như cây và hạt. Chúng ta không thể tách một cá thể đứng ngoài xã hội, ngoài nhân loại. Hạnh phúc chung của một gia đình, một cộng đồng phải là hạnh phúc tổng hòa của từng cá nhân gộp lại. Những quốc gia mà giàu nghèo cách biệt quá xa không thể là một quốc gia hạnh phúc khi ‘kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra’. Người ta không tính GDP mà GNH (Gross National Happiness - Tổng hạnh phúc quốc gia).

Tin vào duyên khởi là tin bằng trí tuệ, bằng nhãn quan khoa học. Đó là chánh tín. Người có chánh tín là người có trí tuệ, người có trách nhiệm, vì hiểu lý nhân quả và duyên khởi. Chúng ta xét một hiện tượng, một sự việc tốt xấu, phát xuất từ nhân nào, sẽ chịu quả gì và sửa đổi lại điều kiện hay duyên tạo ra nó vì mình là chủ nhân của mọi thành bại, đau khổ an vui. Nhờ đức tín, con người mới cố gắng chuyển đổi, vươn lên trong mọi lĩnh vực. Một dân tộc có đức tự tín, không bao giờ cam chịu khuất phục, chậm tiến. Có tự tín là có một sức mạnh phi thường. Có tự tín, sự tu hành mới không thối chuyển.

Hòa thượng Thanh Từ có viết: “Bản chất của đạo Phật là trí tuệ, là giác ngộ, làm sao dung nạp được mê tín. Nếu người ta thấy trong chùa chiền hiện nay còn những hiện tượng mê tín, vội phê bình đạo Phật mê tín. Đây là những oan tình của đạo Phật. Tất cả những kinh Phật không có nói những việc mê tín ấy, chẳng qua một số người vì tùy tục, vì thiếu hiểu Phật pháp vẽ bày ấy thôi.

Người học Phật chân chánh phải gan dạ loại bỏ những tập tục sai lầm ấy, can đảm dứt khoát đập tan mọi tệ đoan làm suy giảm giá trị Phật pháp. Có khi dẹp bỏ những điều đó, có thể thiệt thòi chút ít quyền lợi của mình. Song chúng ta cương quyết vì Chánh pháp, chớ không vì lợi dưỡng, vì đưa người ra khỏi đường mê, không vì sợ mất mát bản đạo. Được thế, chúng ta mới xứng đáng là người lãnh đạo tín đồ mới”(**).

Đạo Phật đem lại một lối sống mà mình có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích cho mình. Người nào quy y Phật, Pháp và Tăng với niềm tin như vậy thì họ sẽ trở thành người Phật tử mà không cần một lễ nghi nào, không một loại hình thức nào, không đăng ký, không thể lệ nào để phải làm theo. Vì vậy mà, F.L Woodword, một trong những dịch giả nổi tiếng về những lời dạy của Ðức Phật, đã từng nói Phật giáo là “tôn giáo tự mình làm lấy” (a do-it-yourself religion).

Ðiều tối quan trọng ngày nay là nhận biết giá trị bức thông điệp của Ðức Phật và sống theo những lời dạy ấy. Đó là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không sử dụng các chất kích thích làm mê mờ tâm trí. Đức hạnh cao hơn là bố thí, giữ giới - những nguyên tắc đạo đức căn bản và thực hành thiền định.

Tư tưởng căn bản của Phật giáo là lý Nhân quả, Duyên khởi, Tứ diệu đế, nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim cương thừa - Mật tông, vốn đã hiện diện hàng ngàn năm nay trong đời sống người dân Việt. Còn những hiện tượng hay nghi lễ gì đó mà không dựa trên những đạo lý này thì mãi mãi chỉ là hình thức thức phù phiếm và không phải là “chánh đạo”. Mong mọi người cẩn trọng!

Nguyên Cẩn

Năm Tháng Không Đợi Đừng Hẹn Ngày Mai

Năm Tháng Không Đợi Đừng Hẹn Ngày Mai

Đăng lúc: 20:59 - 21/06/2015

Trên con đường tu hành, việc niệm Phật là một việc vừa cần thiết, vừa cấp bách. Hễ gặp dịp tu là tu liền, gặp dịp niệm được là niệm ngay, chớ nên chần chờ để cho thời gian luống trôi qua một cách vô ích.



Phật dạy mạng người ở trong một hơi thở, thở ra mà không thở vào nữa là đời tàn! Bất luận lúc nào, giờ phút nào, con người cũng có thể chết được, không một ai có đủ tài năng bảo đảm đời sống vững chắc lâu dài. Thế gian có câu ca rằng: “Đời người khác thể bóng câu, sớm còn tối mất biết đâu mà lường”.

Sự thật đơn giản và phũ phàng ấy, từ Thánh nhân cho đến thế tục, không ai là không xác nhận. Sinh hữu hạn, tử vô kỳ, cho nên muốn kịp thời đối phó với cái chết bất thần, ta không nên để lỡ một thời gian nào trôi qua mà không tu niệm. Bất cứ lúc nào tu được, niệm được thì phải gấp rút và tinh tấn hành trì; có thế lúc lâm chung mới tránh khỏi cảnh hoang mang tay quàng chân rối, lúng túng chẳng biết về đâu!

Có một số thường nghĩ sai lầm rằng tay chân còn tráng kiện, đời sống còn dài, việc tu niệm xin để gác lại, đợi khi nào già yếu sẽ bắt đầu hạ thủ công phu cũng không muộn gì. Trong sự tu niệm bằng cách sắp đặt tính toán như trên thường hay đưa đến hỏng việc.

Ngày xưa, có người đến nhà bạn là Trương tổ Lưu khuyên niệm Phật. Trương nghe theo, nhưng xin khất lại một ngày khác vì có ba việc chưa làm xong: một là cha mẹ đang còn cần phải lo phụng dưỡng, hai là con cái chưa dựng gả xong, ba là việc nhà chưa thu xếp gọn. Trương hẹn khi nào làm xong ba việc ấy, sẽ hạ thủ công phu, nhất tâm niệm Phật. Sau khi cáo ra về được vài ba tháng, người kia trở lui thăm với chủ ý khiến ông bạn đừng nên chần chờ nữa, nhưng than ôi! Khi đến mới biết rằng bạn đã là người thiên cổ! Bèn ngậm ngùi than thở và làm một bài thơ điếu rằng:

“Ngô hữu danh vi Trương tổ Lưu,
Khuyến y niệm Phật thuyết tam điều,
Khước hận Diêm công vô phân hiểu,
Tam điều vị liễu tiện lai câu.”

Tạm dịch là:

“Ông bạn tôi tên Trương tổ Lưu,
Tôi khuyên niệm Phật hẹn ba điều,
Diêm vương ác hại không thèm hiểu,
Ba việc chưa xong vội bắt liều.”

Người đời dù quyền cao chức trọng đến đâu, vẫn không thể bảo đảm cho tương lai đời mình một cách chắc chắn được. Trường hợp như Trương tổ Lưu trên đây không phải là hiếm, vì thế nếu đã có chí tu hành thì tâm phải cho quyết và phải biết lợi dụng thời gian mới khỏi để ân hận về sau. Vậy, lúc nào tu được là nên tu liền, phút nào niệm được là phải niệm ngay.
Trích PHÁP MÔN TỊNH ÐỘ
Hòa Thượng Thích Trí Thủ biên tập

Phật tự tại trước mọi sóng gió cuộc đời

Phật tự tại trước mọi sóng gió cuộc đời

Đăng lúc: 10:53 - 15/06/2015

Đức Phật của chúng ta ngày xưa cũng bị nhiều người hủy nhục trước mặt vua quan, thần dân thiên hạ. Khi bị cô gái giả làm bụng bầu bêu xấu trước mặt mọi người: “Sa môn Cồ Đàm đã lấy em rồi mà ngày nay bỏ bê em như thế này để em phải bụng mang dạ chữa, sao anh đối với mọi người đều từ bi thương yêu bình đẳng mà lại để em thành ra nông nỗi.
Nếu anh không có thời gian để lo cho em thì hãy nên nhờ bà Tỳ Xá Khư chăm sóc, giúp đỡ cho em chứ?” Trước mặt đại chúng, Phật an nhiên trả lời “chuyện này chỉ có tôi biết, cô biết” mà không cần phải đính chính hay minh oan một lời nào. Sự thật vẫn là sự thật, trời xuôi đất khiến thế nào mà trong lúc cô ta đang diễn kịch thì cái bụng bầu giả bằng gối rớt xuống trước mặt mọi người. Cô gái quá xấu hổ nên nhanh chân bỏ chạy, nhiều người tức quá chạy chửi theo “đồ thứ con gái hư thân mất nết”.


Chuyện đó xảy ra không bao lâu thì một chuyện khác lại kinh hoàng, khủng khiếp và độc ác, dã man hơn làm rúng động lòng dân trong cả nước. Bọn người đê tiện, thấp hèn muốn hại Phật lần này đã tung một chiêu đòn quyết định, chúng muốn tẩy chay cả giáo đoàn đức Phật cho bằng được nên lập mưu bày kế tinh vi hơn lần trước gấp trăm ngàn lần. Kỳ này chúng mướn bọn nghiện rượu giết một cô gái đẹp rồi giấu trong Tịnh xá chỗ Phật ở và lên trình báo với vua quan cô gái ngoan đạo của họ một thời gian gần đây hay đến Tịnh xá của Phật nghe pháp và bây giờ đã bị mất tích.
Chúng yêu cầu nhà vua phải làm sao tìm cho được cô gái ngoan đạo ấy.Vua Ba Tư Nặc cho mở cuộc điều tra và cuối cùng tất cả mọi người đều phát giác ra cô đã bị giết và xác được chôn trong Tịnh xá. Sự thật đã quá rõ ràng, đâu còn ai nghi ngờ gì nữa vì mọi người đều tai nghe mắt thấy rõ ràng. Vậy ai là thủ phạm đã giết cô gái và chôn ở chỗ Phật?Phật à, không thể nào có chuyện đó xảy ra, đệ tử Phật cũng không thể nào làm như vậy.
Bọn người xấu lúc này lợi dụng thời cơ đem xác cô gái bỏ lên xe chở đi khắp thành Xá Vệ và rêu rao Sa môn Cồ đàm đã bức tử cô gái. Sự việc xảy ra quá bất ngờ làm cho vua Ba Tư Nặc không biết giải quyết ra sao vì ông biết chắc Phật trước kia là thái tử Sĩ Đạt Ta có vợ là hoa hậu đẹp nhất thời bấy giờ và có cả hàng trăm cung phi mỹ nữ tuyệt nhưng Ngài vẫn từ bỏ hết để sống đời tu hành đơn giản.
Nhà vua biết chắc đây là âm mưu sâu độc của bọn xấu ác vì lòng tham lam ích kỷ, ganh ghét tật đố mà làm chuyện tày trời như vậy để vu oan hủy nhục đức Phật. Những cuộc điều tra bắt đầu, nhà vua cho tung ra nhiều thám tử tài ba lỗi lạc có mặt khắp nơi để dò la tin tức. Bốn chúng đệ tử xuất gia và tại gia thì buồn rầu, lo lắng chờ đợi kết quả cuối cùng.
Riêng bọn người xấu ác thừa dịp này rêu rao tuyên truyền, tung tin rằng xác cô gái chết do sa môn Cồ Đàm quá thất nhơn ác đức đã hãm hiếp cô gái rồi giết luôn và chôn ngay chỗ ở. Lúc này những người hiểu biết đạo chỉ biết trông chờ kết quả điều tra để minh oan cho Phật. Người không hiểu đạo thì nguyền rủa đức Phật sao mà quá tàn ác, nhẫn tâm. Kẻ bếu rếu, người chửi bới làm náo loạn khắp cả thành Xá Vệ.
Lệnh khẩn cấp được ban hành giới nghiêm 24/24, toàn thể chư Tăng đều phải ở yên một chỗ, không ai được rời khỏi trú xứ cho đến khi nào điều tra được vụ án, nếu ai vi phạm sẽ bị xử trảm ngay. Một ngày trôi qua, hai ngày trôi qua nhưng vẫn không có tin tức gì sáng sủa. Nhiều người đang bất mãn, buồn chán, thất vọng, lo âu về sự thật quá phũ phàng, từ xưa đến nay có bao giờ xảy ra vụ án mạng tày trời như thế.
Nhưng trời đâu có hại người ngay, nhân quả rất công bằng, gieo gió thì gặt bão, giết người thì bị người giết lại. Đến ngày thứ ba thì ban chuyên án đã tìm ra manh mối để đem lại sự trong sạch cho Phật và giáo đoàn. Ai hay tin cũng thở phào nhẹ nhõm và mừng thầm trong bụng vì đã qua cơn đại nạn.
Số là bọn nghiện rượu sau khi giết cô gái xong đã nhận được số tiền lớn từ tay bọn xấu ác, nhưng do ăn chia không đồng đều nên trong lúc ăn nhậu cùng nhau, chúng đã cãi cọ, tranh giành nhiều ít và bị quan quân phát giác, tóm cổ.
Thế là cả bọn đều được đưa về cung vua chờ lệnh xét xử, bọn chúng sợ quá nên đã khai hết. Có một số người ngoại đạo đã mướn họ giết cô gái để tẩy chay giáo đoàn của Phật. Vua tức giận quá cho người bắt ngay kẻ chủ mưu quăng liền vào hầm lửa để thiêu sống, những tên giết mướn đều bị giam vào ngục chờ lệnh xét xử sau.
Chuyện xảy ra như vậy mà Phật vẫn bình tĩnh, an nhiên, không mảy may dao động trước sự phao du hủy nhục quá nặng nề. Phật không hề đính chính hay minh oan mà vẫn âm thầm lặng lẽ chờ đợi kết quả hiện thực. Phật an nhiên, tự tại, bất động trước Tám cơn gió lốc cuộc đời nên ngày hôm nay ta thờ Phật, cung kính lễ lạy Phật vì nhân cách siêu phàm vượt Thánh của Ngài mà cố gắng bắt chước tu tập để vượt qua cạm bẫy cuộc đời trước Tám ngọn gió được-mất, khen-chê, danh thơm-tiếng xấu và khổ-vui.
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh. Thứ đến Ngài tùy căn cơ chúng sinh mà nói pháp thích hợp để giúp họ chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Bất kể là thành phần nào trong xã hội khi gặp Phật đều được lợi lạc, an vui.
Chính vì việc làm và hành động cao thượng của Ngài đã để lại tiếng thơm muôn thuở cho đời giúp chúng ta biết cách làm chủ bản thân mà sống bình yên, hạnh phúc. Hương thơm của các loài hoa có ngào ngạt cách mấy cũng không bằng hương thơm của người đức hạnh luôn bay ngược chiều gió để lại cho đời bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
An nhiên tự tại trước đám đông khi bị hủy nhục
Ngày xưa, có một vị cao Tăng đức độ nuôi dạy gần 500 đồ chúng, đến khi tuổi già sức yếu bệnh hoạn mà chưa chọn được người kế thừa. Để tìm kiếm bậc Pháp khí trong nhà Thiền, vị cao Tăng bày ra kế điệu hổ ly sơn, tung tin bị mất trộm tiền Tam bảo làm trong chúng ai cũng hoang mang nghi ngờ lẫn nhau.
Một hôm khi chúng đang ngủ trong giờ trưa, vị cao Tăng la lớn: “Ăn trộm, ăn trộm.” Mọi người hoảng hốt chạy theo tiếng la, vị đệ tử lớn chạy vào liền bị vị cao Tăng thộp cổ áo mà nói lớn: “Ta bắt được trộm rồi”. Chú đệ tử nói: “Dạ không, con không phải là tên ăn trộm, con nghe la ăn trộm nên con chạy vô phụ thầy bắt ăn trộm.” Bằng chứng sờ sờ trước mắt nên không thể nào chối cãi, chư huynh đệ pháp lữ trong chúng ai cũng thấy thầy tay thộp cổ áo sư huynh mà la “ăn trộm, ăn trộm”.
Cho nên, vị đệ tử lớn liền bị khai trừ ra khỏi chùa ngay tức khắc mà không hề được minh oan. Trục xuất xong vị thầy còn viết giấy truyền cho các chùa khác không được chứa chấp thầy ấy vì tội ăn trộm đồ của Tam bảo. Vị đệ tử này xưa nay được Tăng chúng tín nhiệm chức thượng thủ trong chùa, chú còn là người mô phạm dạy dỗ chúng Tăng. Đột nhiên bữa nay lại bị mang danh tên ăn trộm và bị đích thân thầy mình viết giấy khai trừ khỏi Tăng chúng một cách công khai, thử hỏi ai nằm trong hoàn cảnh ấy mà không đau khổ.
Chỉ trong thoáng chốc bao nhiêu tiếng xấu đổ dồn vào vị sư huynh và bị mọi người khinh chê, coi thường, ai rơi vào hoàn cảnh này mới thấy thật tội nghiệp cho vị sư huynh ấy. Đường đường cũng là một vị Tăng tướng dung mạo trang nghiêm mà giờ đây chịu nuốt lệ đau thương ngậm ngùi, cay đắng trước một sự thật không thể ngờ.
Bị thầy hủy nhục như vậy trước mặt đồ chúng nên bao nhiêu uy tín từ xưa đến nay bỗng phút chốc tan tành theo mây khói. Vậy mà chú đệ tử ấy không hề buồn giận, trách móc hay thể hiện một nét mặt nào tỏ thái độ oán ghét vị thầy.
Chú vẫn một lòng cung kính và tôn trọng thưa: “Xin thầy hãy từ bi cho con ngủ đỡ ngoài cổng Tam quan cũng được, để mỗi ngày con còn được học hỏi và phụ giúp chúng Tăng làm việc”. Ấy vậy mà vị thầy cũng không chịu buông tha nên nói rằng nếu ở đó thì phải chịu trả tiền ngủ nhờ.
Dù bị thầy hủy nhục, hành hạ, làm khó dễ đủ điều nhưng chú vẫn một lòng tôn kính thầy mà siêng năng gia trì tinh tấn tu hành.Thời gian như vậy kéo dài gần 3 tháng, chú vẫn một lòng tín tâm, không một lời than vãn hay trách móc điều gì.
Cuối cùng, vị cao Tăng cũng tìm ra được bậc chân truyền, hôm đó ông đã chính thức tuyên bố trước đại chúng: “Ta bây giờ đã tìm được người kế thừa, mong đại chúng sau này khi ta viên tịch rồi thì hãy nghe theo lời chỉ dạy của sư huynh các người.” Nói xong ông thầy từ giã đại chúng rồi an nhiên ra đi.
Trong lịch sử nhân loại từ xưa nay biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền Thánh vẫn thường bị vu oan giá họa nhưng các ngài vẫn bình tĩnh, an nhiên chứng minh cho đời sự trong sạch của mình bằng chất liệu của từ bi, vô ngã, vị tha. Vị đệ tử đó nếu không gặp hoàn cảnh khắc nghiệt như thế thì vị cao Tăng làm sao biết được đệ tử của mình đã vượt qua Tám gió thật sự và để tất cả đại chúng có đủ niềm tin mà nương tựa học hỏi, tu hành.
Nếu gặp thầy nào còn quá yếu thì khi bị vu oan giá họa như vậy chắc có lẽ sẽ hận vị thầy của mình suốt cả đời.Nhờ thử thách đó mà vị thầy biết rõ đệ tử của mình đã qua được Tám gió được-mất, khen-chê, danh thơm-tiếng xấu và khổ-vui. Nghịch cảnh hay chướng duyên đối với người trí chỉ là thử thách nên họ vẫn bình thản, an nhiên khi bị hủy nhục sai sự thật trước mặt mọi người.
Giả sử như lúc đó tôi đang ở trong hoàn cảnh này thì có lẽ tôi sẽ đùng đùng nỗi giận mà oán ghét ông thầy của mình rồi bỏ đi không một lời từ giã. Tám gió thổi chẳng động là thước đo để kiểm nghiệm người tu hành chân chánh, nếu ta không trải qua những hoàn cảnh đau thương, nghiệt ngã như thế thì làm sao ta biết mình có bị gió thổi hay không.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 47
  • Hôm nay 2,987
  • Tháng hiện tại 60,372
  • Tổng lượt truy cập 23,466,621