Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Hướng đến ánh sáng

Hướng đến ánh sáng

Đăng lúc: 10:21 - 23/10/2016

Ở đời, mỗi người có một quan niệm về sống chết khác nhau. Có người nghĩ rằng, mình sống làm người, sau khi chết cũng sẽ làm người ở một cõi nào đó, và nếu là đàn ông sẽ tiếp tục làm đàn ông, phụ nữ tiếp tục làm phụ nữ v.v... Nhưng cũng có trường hợp không tin là chết sẽ có đời sau, họ tin chết là hết.
anhsang.jpg
Hướng về Đức Thế Tôn để làm sáng lòng và đi về phía an lạc, giải thoát - Ảnh minh họa

Vua Ba-tư-nặc từng nghĩ rằng: “Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn chết rồi có sinh trở lại dòng Bà-la-môn hay sinh vào nhà Sát-lị, Tỳ-xá, Thủ-đà-la?”. Đức Phật nói với vua Ba-tư-nặc: “Đại vương, sao được như vậy! Đại vương, nên biết, có bốn loại người. Những gì là bốn? Có một loại người từ tối vào tối, có một loại người từ tối vào sáng, có một loại người từ sáng vào tối, và có một loại người từ sáng vào sáng” (Kinh Tạp A-hàm, kinh số 1146).

Hạng người từ tối vào tối

Đó là người sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn, nghèo khổ, không được học hành, rồi lại tiếp tục sống bằng những nghề không lương thiện. Người này đã không biết đến Tam bảo, thấy người khác đi chùa lại sinh tâm phỉ báng. Sinh ra trong gia đình vốn không đạo đức, lại tiếp tục sống theo hạnh ác, tạo không biết bao nhiêu nghiệp xấu.

Đã nghèo khổ, bần tiện lại càng ích kỷ hẹp hòi; sinh ra có một thân thể không được đẹp đẽ xinh xắn lại còn hay ganh ghét, sân hận; có một thân thể bệnh tật, ốm đau lại thường giết hại chúng sinh; sinh ra vốn không có trí tuệ, thất học lại còn coi thường kinh sách của thánh hiền, lời dạy của thánh nhân v.v… Đó là từ tối đi vào tối, đã tối lại càng tối hơn. Tối đời này và cả đời sau, trầm luân trong đêm dài sinh tử. Hạng người này đáng thương nhất trong cuộc đời.

Hạng người từ tối vào sáng

Đó là những người sinh ra trong gia đình không hề biết kính tin Tam bảo, nhưng rồi họ đã gặp được Phật pháp, từ đó nỗ lực tu học, chuyển hóa thành một người Phật tử chân chính, biết hướng đến đạo đức, thương người, tạo phước, buông bỏ hận thù..., về sau họ từng bước thành công trong cuộc sống.

Hoặc có người sinh ở vùng thôn quê nghèo khổ, thiếu cơm áo, thiếu cả đời sống văn hóa, tinh thần. Nhờ còn chút phước duyên gặp được thầy hay và bạn tốt, người này quyết tâm học tập, vượt khó, và đã thay đổi số phận, trở nên thành đạt, hữu ích cho đời. Đó là sinh ra trong bóng tối nhưng lại đang đi vào nẻo sáng.

Hạng người từ sáng vào tối

Sinh ra được làm người, trong một gia đình có đạo đức, có một thân thể khỏe mạnh và xinh đẹp, nhưng không ý thức được phước báo của mình, lại phản bội truyền thống của tổ tiên, gia đình, trở nên hư hỏng, không vâng lời cha mẹ; sinh ra trong ánh sáng là biết đến Tam bảo, nhưng mà sau một thời gian đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, vì một lý do nào đó, người ấy đã bỏ chùa, bỏ thầy, bỏ bạn, không còn đi chùa nữa hay lấy chồng hay vợ theo ngoại đạo…, đó là hạng người bỏ sáng vào tối.

Khi mình sinh ra ở trong một gia đình giàu có, khá giả và làm ăn thành đạt là do thừa hưởng phước báo mà mình gieo trồng ở trong quá khứ. Nhưng khi mình giàu có rồi, lại không coi ai ra gì, khinh thường những người nghèo khó, cũng chẳng biết cho đi, giúp đỡ người, và cũng không biết bố thí cúng dường. Đó là hạng người sinh ra trong ánh sáng nhưng mà đang đi vào bóng tối, tối đời này và cả đời sau.

Hoặc sinh ra đời được quy y Tam bảo và lãnh thọ giới pháp, đó là sinh ra trong ánh sáng. Nhưng mình không biết trân trọng và giữ gìn giới pháp mà mình đã thọ, hủy hoại giới pháp làm cho phước đức suy giảm, đi vào con đường lầm lạc, đi vào bóng tối. Đó là hạng người đáng tiếc nhất, sinh ra trong ánh sáng mà lại tìm nẻo tối mà đi.

Hạng từ sáng vào sáng

Những người sinh ra ở trong gia đình giàu có, đạo đức, lương thiện, có một thân thể đẹp đẽ, khỏe mạnh là sinh ra trong ánh sáng. Sinh ra trong một gia đình biết kính tin Tam bảo, biết tu nhơn, tích đức, biết làm lành tránh dữ là sinh ra trong ánh sáng.

Người đó tiếp tục đi vào ánh sáng tức là biết tu tập, biết hướng thiện, biết làm lành tránh dữ. Mình sinh ra trong một gia đình đạo đức rồi, lại tiếp tục giữ gìn và phát huy truyền thống đạo đức của gia đình. Mình sinh ra trong gia đình có cha mẹ kính tin Tam bảo rồi, mình lại trở thành người Phật tử tiếp tục đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, như cha mẹ, ông bà của mình đã làm. Mình sinh ra vốn có một thân thể khỏe mạnh, xinh đẹp, lại tiếp tục giúp đỡ người khác, không ganh ghét, tị hiềm, không sát sinh - tức là tiếp tục gieo trồng cái nhân cho cái quả thân thể khỏe mạnh, xinh đẹp. Những người có thân thể khỏe mạnh không đau ốm, bệnh tật là nhờ không giết hại chúng sinh, bây giờ mình tiếp tục không giết hại chúng sinh ngược lại còn tích cực phóng sinh. Đó là người sinh ra trong ánh sáng lại tiếp tục đi vào ánh sáng, sáng trong đời này và cả đời sau.

Chúng ta đang thuộc hạng người nào?

Trong bốn hạng người trên đây, chúng ta đang thuộc hạng người nào? Chúng ta đang ở trong ánh sáng đi vào ánh sáng hay là trong ánh sáng đi vào bóng tối? Chúng ta vốn sinh ra trong bóng tối đang đi đến nẻo sáng hay sinh ra trong bóng tối lại tiếp tục đi vào bóng tối?

Đó là điều mà tất cả chúng ta cần phải nhìn lại, nhìn lại chính bản thân mình, nhìn lại cách giáo dục con cái của mình. Nếu như chúng ta biết quy hướng Tam bảo, biết rõ mình sinh ra trong ánh sáng và đi vào ánh sáng, nhưng chúng ta có đang hướng dẫn cho con em của mình đi vào ánh sáng như mình hay không? Mỗi chúng ta cần phải quán chiếu, cần phải nhìn lại đời sống của chính bản thân và coi lại cách giáo dục mà chúng ta đang dạy con cháu của mình để biết được rằng trong bốn hạng người đó, mình đang thuộc hạng người nào?

Trong bốn hạng người đó, Đức Phật nói, có hạng người tối thượng và có hạng người tối hạ, tức là có hạng người cao nhất và có hạng người thấp nhất. Hạng người cao nhất là hạng người sinh ra trong bóng tối mà biết tìm nẻo sáng mà đi. Trong giáo lý đạo Phật, không có giai cấp, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt tôn giáo, không kính trọng người giàu, ghét bỏ người nghèo, không đề cao người trí thức mà chê cười người không trí thức. Theo lời Phật dạy, mọi người sinh ra đều bình đẳng, điều quan trọng là người đó có hướng thượng hay không? Chính vì vậy, hạng người được Đức Phật đề cao và coi trọng là hạng người biết hướng thượng, biết tìm nẻo sáng mà đi, biết tìm đến con đường thành tựu giác ngộ, giải thoát.

Khi sinh ra ở đời, chúng ta không có quyền lựa chọn hoàn cảnh, quê hương, gia tộc, và cũng không có quyền lựa chọn ngay cả chính cha mẹ của mình. Mỗi người phải theo nghiệp mà thọ sinh. Do nghiệp thiện hay ác mà chúng ta đã gieo trồng trong quá khứ để hiện nay có một đời sống tương ưng, có một người cha, một người mẹ tương ưng với nghiệp lực của mình, có một hoàn cảnh đất nước tương ưng với nghiệp lực của mình. Chúng ta không có quyền lựa chọn khi ra đời nhưng chúng ta có quyền lựa chọn lối đi cho chính bản thân mình, mỗi người đều có toàn quyền lựa chọn đi vào ánh sáng hay đi vào nẻo tối.

Do đó, khi sinh ra trong hoàn cảnh tối tăm, khó khăn, nghèo khổ nhưng chúng ta biết phấn đấu, nỗ lực học hành và hướng thiện, siêng năng tu tập để thay đổi cuộc đời của mình, xây dựng cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng hơn. Đó là hạng người tối thượng.

Ngược lại là hạng người tối hạ, tức là hạng người thấp nhất, đáng thương nhất. Đó là hạng người sinh ra trong ánh sáng nhưng lại tìm bóng tối mà đi. Không ít người vốn sinh ra được làm người, ngoại hình dễ coi, thân thể khỏe mạnh, gia đình khá giả, được học hành, như vậy là đã sáng rồi. Vậy mà những người ấy không biết trân trọng những gì mà mình đang có, lại đua đòi gây tạo những nghiệp bất thiện: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, say nghiện. Đó là những người đáng thương nhất, thấp kém nhất, sinh ra trong ánh sáng mà lại tìm nẻo tối mà đi, tối đời này và cả những đời sau.
Thích Nguyên HùngỞ đời, mỗi người có một quan niệm về sống chết khác nhau. Có người nghĩ rằng, mình sống làm người, sau khi chết cũng sẽ làm người ở một cõi nào đó, và nếu là đàn ông sẽ tiếp tục làm đàn ông, phụ nữ tiếp tục làm phụ nữ v.v... Nhưng cũng có trường hợp không tin là chết sẽ có đời sau, họ tin chết là hết.
anhsang.jpg
Hướng về Đức Thế Tôn để làm sáng lòng và đi về phía an lạc, giải thoát - Ảnh minh họa

Vua Ba-tư-nặc từng nghĩ rằng: “Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn chết rồi có sinh trở lại dòng Bà-la-môn hay sinh vào nhà Sát-lị, Tỳ-xá, Thủ-đà-la?”. Đức Phật nói với vua Ba-tư-nặc: “Đại vương, sao được như vậy! Đại vương, nên biết, có bốn loại người. Những gì là bốn? Có một loại người từ tối vào tối, có một loại người từ tối vào sáng, có một loại người từ sáng vào tối, và có một loại người từ sáng vào sáng” (Kinh Tạp A-hàm, kinh số 1146).

Hạng người từ tối vào tối

Đó là người sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn, nghèo khổ, không được học hành, rồi lại tiếp tục sống bằng những nghề không lương thiện. Người này đã không biết đến Tam bảo, thấy người khác đi chùa lại sinh tâm phỉ báng. Sinh ra trong gia đình vốn không đạo đức, lại tiếp tục sống theo hạnh ác, tạo không biết bao nhiêu nghiệp xấu.

Đã nghèo khổ, bần tiện lại càng ích kỷ hẹp hòi; sinh ra có một thân thể không được đẹp đẽ xinh xắn lại còn hay ganh ghét, sân hận; có một thân thể bệnh tật, ốm đau lại thường giết hại chúng sinh; sinh ra vốn không có trí tuệ, thất học lại còn coi thường kinh sách của thánh hiền, lời dạy của thánh nhân v.v… Đó là từ tối đi vào tối, đã tối lại càng tối hơn. Tối đời này và cả đời sau, trầm luân trong đêm dài sinh tử. Hạng người này đáng thương nhất trong cuộc đời.

Hạng người từ tối vào sáng

Đó là những người sinh ra trong gia đình không hề biết kính tin Tam bảo, nhưng rồi họ đã gặp được Phật pháp, từ đó nỗ lực tu học, chuyển hóa thành một người Phật tử chân chính, biết hướng đến đạo đức, thương người, tạo phước, buông bỏ hận thù..., về sau họ từng bước thành công trong cuộc sống.

Hoặc có người sinh ở vùng thôn quê nghèo khổ, thiếu cơm áo, thiếu cả đời sống văn hóa, tinh thần. Nhờ còn chút phước duyên gặp được thầy hay và bạn tốt, người này quyết tâm học tập, vượt khó, và đã thay đổi số phận, trở nên thành đạt, hữu ích cho đời. Đó là sinh ra trong bóng tối nhưng lại đang đi vào nẻo sáng.

Hạng người từ sáng vào tối

Sinh ra được làm người, trong một gia đình có đạo đức, có một thân thể khỏe mạnh và xinh đẹp, nhưng không ý thức được phước báo của mình, lại phản bội truyền thống của tổ tiên, gia đình, trở nên hư hỏng, không vâng lời cha mẹ; sinh ra trong ánh sáng là biết đến Tam bảo, nhưng mà sau một thời gian đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, vì một lý do nào đó, người ấy đã bỏ chùa, bỏ thầy, bỏ bạn, không còn đi chùa nữa hay lấy chồng hay vợ theo ngoại đạo…, đó là hạng người bỏ sáng vào tối.

Khi mình sinh ra ở trong một gia đình giàu có, khá giả và làm ăn thành đạt là do thừa hưởng phước báo mà mình gieo trồng ở trong quá khứ. Nhưng khi mình giàu có rồi, lại không coi ai ra gì, khinh thường những người nghèo khó, cũng chẳng biết cho đi, giúp đỡ người, và cũng không biết bố thí cúng dường. Đó là hạng người sinh ra trong ánh sáng nhưng mà đang đi vào bóng tối, tối đời này và cả đời sau.

Hoặc sinh ra đời được quy y Tam bảo và lãnh thọ giới pháp, đó là sinh ra trong ánh sáng. Nhưng mình không biết trân trọng và giữ gìn giới pháp mà mình đã thọ, hủy hoại giới pháp làm cho phước đức suy giảm, đi vào con đường lầm lạc, đi vào bóng tối. Đó là hạng người đáng tiếc nhất, sinh ra trong ánh sáng mà lại tìm nẻo tối mà đi.

Hạng từ sáng vào sáng

Những người sinh ra ở trong gia đình giàu có, đạo đức, lương thiện, có một thân thể đẹp đẽ, khỏe mạnh là sinh ra trong ánh sáng. Sinh ra trong một gia đình biết kính tin Tam bảo, biết tu nhơn, tích đức, biết làm lành tránh dữ là sinh ra trong ánh sáng.

Người đó tiếp tục đi vào ánh sáng tức là biết tu tập, biết hướng thiện, biết làm lành tránh dữ. Mình sinh ra trong một gia đình đạo đức rồi, lại tiếp tục giữ gìn và phát huy truyền thống đạo đức của gia đình. Mình sinh ra trong gia đình có cha mẹ kính tin Tam bảo rồi, mình lại trở thành người Phật tử tiếp tục đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, như cha mẹ, ông bà của mình đã làm. Mình sinh ra vốn có một thân thể khỏe mạnh, xinh đẹp, lại tiếp tục giúp đỡ người khác, không ganh ghét, tị hiềm, không sát sinh - tức là tiếp tục gieo trồng cái nhân cho cái quả thân thể khỏe mạnh, xinh đẹp. Những người có thân thể khỏe mạnh không đau ốm, bệnh tật là nhờ không giết hại chúng sinh, bây giờ mình tiếp tục không giết hại chúng sinh ngược lại còn tích cực phóng sinh. Đó là người sinh ra trong ánh sáng lại tiếp tục đi vào ánh sáng, sáng trong đời này và cả đời sau.

Chúng ta đang thuộc hạng người nào?

Trong bốn hạng người trên đây, chúng ta đang thuộc hạng người nào? Chúng ta đang ở trong ánh sáng đi vào ánh sáng hay là trong ánh sáng đi vào bóng tối? Chúng ta vốn sinh ra trong bóng tối đang đi đến nẻo sáng hay sinh ra trong bóng tối lại tiếp tục đi vào bóng tối?

Đó là điều mà tất cả chúng ta cần phải nhìn lại, nhìn lại chính bản thân mình, nhìn lại cách giáo dục con cái của mình. Nếu như chúng ta biết quy hướng Tam bảo, biết rõ mình sinh ra trong ánh sáng và đi vào ánh sáng, nhưng chúng ta có đang hướng dẫn cho con em của mình đi vào ánh sáng như mình hay không? Mỗi chúng ta cần phải quán chiếu, cần phải nhìn lại đời sống của chính bản thân và coi lại cách giáo dục mà chúng ta đang dạy con cháu của mình để biết được rằng trong bốn hạng người đó, mình đang thuộc hạng người nào?

Trong bốn hạng người đó, Đức Phật nói, có hạng người tối thượng và có hạng người tối hạ, tức là có hạng người cao nhất và có hạng người thấp nhất. Hạng người cao nhất là hạng người sinh ra trong bóng tối mà biết tìm nẻo sáng mà đi. Trong giáo lý đạo Phật, không có giai cấp, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt tôn giáo, không kính trọng người giàu, ghét bỏ người nghèo, không đề cao người trí thức mà chê cười người không trí thức. Theo lời Phật dạy, mọi người sinh ra đều bình đẳng, điều quan trọng là người đó có hướng thượng hay không? Chính vì vậy, hạng người được Đức Phật đề cao và coi trọng là hạng người biết hướng thượng, biết tìm nẻo sáng mà đi, biết tìm đến con đường thành tựu giác ngộ, giải thoát.

Khi sinh ra ở đời, chúng ta không có quyền lựa chọn hoàn cảnh, quê hương, gia tộc, và cũng không có quyền lựa chọn ngay cả chính cha mẹ của mình. Mỗi người phải theo nghiệp mà thọ sinh. Do nghiệp thiện hay ác mà chúng ta đã gieo trồng trong quá khứ để hiện nay có một đời sống tương ưng, có một người cha, một người mẹ tương ưng với nghiệp lực của mình, có một hoàn cảnh đất nước tương ưng với nghiệp lực của mình. Chúng ta không có quyền lựa chọn khi ra đời nhưng chúng ta có quyền lựa chọn lối đi cho chính bản thân mình, mỗi người đều có toàn quyền lựa chọn đi vào ánh sáng hay đi vào nẻo tối.

Do đó, khi sinh ra trong hoàn cảnh tối tăm, khó khăn, nghèo khổ nhưng chúng ta biết phấn đấu, nỗ lực học hành và hướng thiện, siêng năng tu tập để thay đổi cuộc đời của mình, xây dựng cuộc sống tốt đẹp, tươi sáng hơn. Đó là hạng người tối thượng.

Ngược lại là hạng người tối hạ, tức là hạng người thấp nhất, đáng thương nhất. Đó là hạng người sinh ra trong ánh sáng nhưng lại tìm bóng tối mà đi. Không ít người vốn sinh ra được làm người, ngoại hình dễ coi, thân thể khỏe mạnh, gia đình khá giả, được học hành, như vậy là đã sáng rồi. Vậy mà những người ấy không biết trân trọng những gì mà mình đang có, lại đua đòi gây tạo những nghiệp bất thiện: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, say nghiện. Đó là những người đáng thương nhất, thấp kém nhất, sinh ra trong ánh sáng mà lại tìm nẻo tối mà đi, tối đời này và cả những đời sau.
Thích Nguyên Hùng

Muộn chồng hay vợ có thực là do duyên âm?

Muộn chồng hay vợ có thực là do duyên âm?

Đăng lúc: 06:41 - 04/08/2016

Hiện nay, không ít trai thanh nữ tú muộn tuổi dựng vợ gả chồng thường đi xem bói, các thầy đều phán chung chung rằng do duyên âm với người kiếp trước còn nặng. Bởi vậy, không ít người phải chi một khoản tiền lớn để "cắt tiền duyên", mong xây dựng được gia đình… Dân gian gọi đó là "duyên âm", "tình duyên" từ kiếp trước. Vậy duyên âm, tiền duyên có thực sự tồn tại hay chỉ là những băn khoăn trong cơn mê mị nhất thời?.
Muộn chồng có thực là do duyên âm?
Ảnh minh họa
Mối nhân duyên khiến cuộc sống lao đao
Các chuyên gia nghiên cứu về tâm linh cho rằng, tiền duyên là những mối nhân duyên của một người trần tục với người ở thế giới khác từ những kiếp trước đây. Nó được phân định thành hai dạng là tình duyên giữa người trần và những người ở thế giới khác từ những kiếp trước còn ảnh hưởng đến bây giờ, thường gọi là tiền duyên. Dạng thứ hai là tình duyên hiện tại giữa người trần và những người ở thế giới khác (thường là với các vong hoặc tà), thường được gọi là duyên âm.
Giải thích về vấn đề này, GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu, tác giả cuốn sách Khoa học và vấn đề tâm linh cho rằng, linh hồn tồn tại bất tử sau khi chết.
Nhiều nhà nghiên cứu các kiến thức y học Đông Phương và Tây phương đều cho rằng, cấu tạo con người gồm 7 phần: Cơ thể thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có thể xác là hữu hình được y học chính thống giảng dạy (năng lượng đặc). Sáu phần còn lại là năng lượng không đặc (vía) như thể xác. Khi chết chỉ là phần thể xác mất đi. Sáu phần còn lại mãi và giữ được nhân cách của con người - linh hồn.
GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu cho biết, một công trình điều tra của Viện Gallup (Mỹ) trên 12.000 người đã từng cận tử và chết lâm sàng cho hay, trong lịch sử tồn tại của loài người đã có khoảng 70 tỷ người đi qua cửa tử, tức là nhiều gấp 10 lần dân số thế giới hiện nay cho kết quả: Sau khi chết con người từ cõi trần vào cõi trung giới vô hình. Cõi này gồm 7 cảnh giới khác nhau từ nhẹ đến nặng.
Tùy theo nhân cách tư tưởng, đạo đức, lối sống của mỗi người khi sống mà sau khi chết họ ở cảnh giới tương ứng. Đa số vong linh có hình dáng như khi sống nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi trần.
Đặc biệt, theo công bố của một tiến sỹ người Anh chuyên nghiên cứu và đã có 10 năm tu luyện ở Viện Lạt – ma Tây Tạng cho hay, đối với một số người chết yểu, bất đắc kỳ tử, vong linh không chấp nhận mình đã chết, cố bám lấy sự sống ở trên đời. Vì thế, họ cứ nguyên trạng giống như khi còn sống, trong khi họ ở cõi âm.
Duyên âm thường xảy ra ở những người lúc còn sống có thú tính mạnh mẽ. Sau khi chết, hình dáng vong linh của họ biến đổi theo tư tưởng luôn oán hận, ham muốn, thường hay tìm cách trở về cõi trần theo "người cũ" hoặc một ai đó. Cũng có trường hợp tìm dục tính ở nơi buôn hương bán phấn và rung động theo những khoái cảm của những cặp trai gái...
Hầu hết ai cũng có tiền duyên
GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu cho biết, theo Phật giáo, chúng ta có kiếp luân hồi. Khi được chuyển kiếp người ta vẫn lưu giữ những ký ức về kiếp trước. Theo nghiên cứu của những người đã trải nghiệm cận tử (chết đi sống lại), địa vị xã hội không quan trọng sau khi chết. Chỉ có tình cảm với người khác là khó quên nhất. Khi sống, hầu hết con người ta ai cũng có tình cảm khác giới.
Ngoài tình cảm vợ chồng thì còn có những mối tình nam nữ. Nhưng vì một lý do nào đó mà họ không thành vợ chồng hoặc là vợ chồng rồi nhưng không được ở lâu dài với nhau... Vì thế, ai cũng có sự nhớ thương hoặc nếu bị phản bội, đối xử quá tệ bạc thì sẽ trở thành hận tình.
Tình yêu có sức mạnh vô biên, sức mạnh ấy đưa những linh hồn này đi tìm người mà mình yêu hiện đang sống ở trần tục để giúp đỡ hoặc cản trở, phá hoại (ghen) khiến người trần tục không thể lấy chồng hoặc lấy vợ. Nếu người trần tục vẫn lấy chồng hoặc lấy vợ được thì tìm cách phá hoại hạnh phúc của đôi vợ chồng này.
Từ trước đến nay người trần tục chỉ nghĩ rằng, những người không lấy được vợ hoặc chồng hay rất khó khăn trong việc tìm vợ tìm chồng thì mới có tiền duyên. Theo một vài nghiên cứu thì hầu như ai cũng có tiền duyên. Chỉ có điều, những tiền duyên đó đã ảnh hưởng tới cuộc sống tình cảm vợ chồng hiện nay đến mức nào.
Nhưng quan niệm về “duyên âm” không chỉ dừng lại ở những “phiền toái” xuất hiện ở chuyện tình duyên mà theo thạc sỹ Vũ Đức Huynh, tác giả của hơn chục cuốn sách về tâm linh và cổ học phương Đông cho biết, “ông bà tổ tiên phù hộ” cũng là một dạng thức “duyên âm”.
Ông lý giải rằng người chết chưa phải là hết mà vẫn còn phần hồn. Người và vong hồn luôn còn mối quan hệ giao thức sóng do cùng có nguồn gốc tần số xung động nào đó của các dòng hạt điện sinh học. Vong hồn nào cũng còn mối quan hệ giao thức với thân nhân tiền kiếp. Dân gian có quan niệm "ông bà tổ tiên phù hộ" chính là bắt nguồn từ điều này.
“Khắc phục” duyên âm
Việc nợ tiền duyên có muôn hình vạn trạng. Người còn bị nợ tiền duyên phải biết chính xác việc mình còn nợ nần như thế nào thì trả mới được đúng. ThS. Vũ Đức Huynh cũng cho biết, cắt tiền duyên chính là làm phép để cho vong hồn tỉnh ngộ mà rời cõi trần quay về cõi vong để tu luyện lên các bậc cao hơn.
Cắt tiền duyên là để cầu siêu cho linh hồn. Từ cổ chí kim đã có tục lệ cầu siêu cho oan hồn. Cầu siêu có sức mạnh tư tưởng mãnh liệt bất kể đối với người theo một tôn giáo hay một người vô thần. Liên hiệp quốc cũng làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân thảm họa quốc tế.
Cầu siêu không đòi hỏi nghi thức cầu kỳ, chỉ cần thành tâm và tiến hành trong 49 ngày đầu sau khi chết là lúc người chết đang ở trong trạng thái bất định, hoang mang, sự cầu nguyện khiến họ được an ủi, linh hồn trở nên sáng suốt hơn, để siêu thoát.
Như đã đề cập, phải tùy tình trạng nợ duyên đó như thế nào mà làm hình nhân thế mạng, thế duyên để trả nợ duyên. Có khi chỉ cần 1 hình nhân là đủ, nhưng cũng có thể phải cần đến 3-4 hình nhân thế mạng, thế duyên mới đủ. Lễ trả nợ tiền duyên được thực hiện tại các đền thờ Thánh Mẫu ở trong các Chùa, Các Đền, Điện, Phủ khác ngoài Chùa. Người có thể làm việc này là các Pháp Sư, Đồng Thầy Tứ Phủ, Thầy cúng Tứ Phủ.
Bên cạnh đó, nhiều người tìm hiểu chuyện hôn nhân trong tương lai hoặc hôn nhân hiện tại, thấy đoán số nói rằng “hai lần đò". Đây chính là trường hợp của những người nợ tiền duyên, những người nợ cô thần, quả tú hoặc là cả hai trường hợp đó mà chưa biết cách làm lễ trả.
Nhưng nhờ Duyên Phận Nhân Quả mà đến vận được kết hôn.Việc chung sống theo đó đương nhiên không thể nào hạnh phúc lâu dài, khó tránh khỏi sự rạn nứt tình cảm và tan vỡ hôn nhân...
Để tránh được điều này, theo quan niệm phải "cưới hai lần" để "giải ân, giải nợ". Làm đám cưới hai lần sẽ tránh được nghiệp Quả tiền Duyên. Nghĩa là tránh được sự ly tán, tan vỡ hạnh phúc gia đình. Đây là việc làm thuận theo hướng dẫn của Thiên Quy. Người cõi Âm dù còn vướng mắc ân tình với người Dương thế cũng không đi theo quấy quả nữa.
Mặc dù vẫn chưa hề được giải mã chặt chẽ, khoa học nhưng những câu chuyện về duyên âm vẫn đã và đang tồn tại từ đời này sang đời khác. Sự thật về sức ảnh hưởng, tốt xấu hay phiền toái đến đâu vẫn chưa được xác thực nhưng nét tín ngưỡng này đã mang đến màu sắc lý thú cho nền văn hóa Việt.
Còn nữa…
Bình luận 0 Hạnh Lê

Sự cố chấp của đàn ông vì quan niệm gia trưởng

Sự cố chấp của đàn ông vì quan niệm gia trưởng

Đăng lúc: 07:05 - 11/11/2015

Hỡi các em, các người trẻ, các em khi lớn khôn chuẩn bị bước vào đời hãy lắng nghe và suy ngẫm lại nhận thức của chính mình cho chín chắn. Thật ra người nữ có 5 cái khổ mà người đàn ông không thể nào giúp được. Cái khổ thứ nhất là lớn lên lấy chồng phải một mình về xứ lạ quê người làm dâu không người thân thuộc.


Cái khổ thứ hai khi có kinh nguyệt phải chịu nhọc nhằn, mệt mỏi trong ngày ấy. Cái khổ thứ ba phải chịu ốm nghén, nặng nề khi mang thai đứa con trong bụng. Cái khổ thứ tư là “vượt cạn” một mình trong đớn đau “banh da xẻ thịt”. Cái khổ thứ năm là hầu hạ đàn ông. Đó là 5 nỗi khổ thầm kín mà tất cả người nữ phải gánh chịu, những nỗi khổ này cánh đàn ông không thể nào thay thế được. Các em trai thanh niên trước khi lập gia đình cần phải quán chiếu sâu sắc về 5 nỗi khổ của phái đẹp để dễ bề thông cảm và yêu thương người bạn đời của mình nhiều hơn bằng trái tim hiểu biết.

Chuyện xưa kể có hai vợ chồng trẻ mới lấy nhau sống rất hạnh phúc thì đất nước bị chiến tranh, chàng trai phải lên đường nhập ngũ để lại người vợ với nỗi nhớ niềm thương cùng đứa con trong bụng. Chiến tranh đã làm ly tán đôi vợ chồng, kẻ ở người đi trong ngậm ngùi thương tiếc. Nàng giờ cô đơn lạc loài phải một mình làm lụng nuôi con trong âm thầm, lặng lẽ. Xưa nay ta thường nghe nói “gà trống nuôi con”, tức hàm ý khen ngợi đàn ông nuôi con một mình. Nhưng thật sự, người nữ có con và nuôi con một mình trong bối cảnh người chồng đi lính quả thật rất khó khăn. Việc nuôi con trong thời buổi chiến tranh loạn lạc không đơn giản và dễ dàng, vậy mà người phụ nữ ấy vẫn làm tròn sứ mệnh vừa làm mẹ, vừa làm cha.

Chiến tranh chấm dứt, 4 năm sau chàng được giải ngũ trở về, lòng tự nhủ thầm không biết con mình là trai hay gái, nếu nó là trai thì phải giống chàng như đúc, nếu là gái chắc giống nàng không sai. Về đến quê nhà chàng gặp lại vợ cùng đứa con trai kháu khỉnh lòng vô cùng sung sướng trong niềm hạnh phúc vô biên, chàng mừng thầm vì đã có con nối dõi tông đường. Hai người gặp lại trong xúc động nghẹn ngào đến nỗi vừa mừng vừa khóc. Người vợ sau đó đi chợ mua thức ăn để nấu cúng tổ tiên mừng gia đình đoàn tụ. Người chồng ở nhà gọi con lại bảo, “con của ba, con lại đây để ba hôn con nè!” Đứa con nghe vậy ngạc nhiên nói, “chú không phải là ba của con, ba của con ban đêm mới về, đêm nào ba cũng nói chuyện với mẹ rất lâu. Mẹ khóc ba cũng khóc theo, mẹ ngồi thì ba ngồi, mẹ nằm thì ba nằm, đêm nào ba và mẹ cũng vậy. Chú không phải là ba của con”.

Người cha trẻ nghe xong choáng váng cả mặt mày, sự thật quá phũ phàng, nàng đành thay lòng đổi dạ đến thế ư! Tim chàng bỗng nhiên chai cứng lại, lời trẻ thơ như gáo nước lạnh tạt vào mặt, bao nhiêu ước mơ được gặp lại vợ và con giờ tan thành mây khói. Chàng trai đau khổ tột cùng khi nghĩ vợ đã nằm trong vòng tay kẻ khác, đã ngoại tình và phản bội chàng. Chàng không thèm nhìn vợ, không thèm hỏi han, không thèm nói chuyện vì nghĩ vợ là người đàn bà mất nết. Khi dâng cơm cúng tổ tiên chàng vô cùng buồn bã mà quỳ lạy một mình, không cho vợ lạy chung. Người vợ đau khổ và xấu hổ vô cùng, nàng hỏi nguyên do nhưng chàng không nói, cúng xong chàng cũng không dùng cơm mà bỏ ra quán ngồi nhậu đến hai ba giờ sáng mới về.

Cứ như thế ngày nào cũng vậy, chàng bỏ mặc vợ và con côi cút, bơ vơ, thầm thương trộm nhớ. Chàng chỉ về nhà khi đã say mèm, chẳng thèm ăn cơm, chẳng chịu nói chuyện với vợ hay vui đùa cùng con. Ba ngày sau người vợ chịu không nổi cảnh tượng dửng dưng, khinh khỉnh, thầm lặng của chồng nên đâm đầu xuống sông tự tử. Đây là câu chuyện tình thuở xưa ông cha ta viết lại để khuyên người trẻ đừng vì thấy nghe sai lầm mà vội vàng ôm mối nghi ngờ, đành lòng kết án oan cho người bạn đời, để cuối cùng mình là nạn nhân của bao điều lầm lỗi, chưa vui sum họp đã sầu chia ly.

Hỡi các em, các người trẻ, các em khi lớn khôn chuẩn bị bước vào đời hãy lắng nghe và suy ngẫm lại nhận thức của chính mình cho chín chắn. Thật ra người nữ có 5 cái khổ mà người đàn ông không thể nào giúp được. Cái khổ thứ nhất là lớn lên lấy chồng phải một mình về xứ lạ quê người làm dâu không người thân thuộc. Cái khổ thứ hai khi có kinh nguyệt phải chịu nhọc nhằn, mệt mỏi trong ngày ấy. Cái khổ thứ ba phải chịu ốm nghén, nặng nề khi mang thai đứa con trong bụng. Cái khổ thứ tư là “vượt cạn” một mình trong đớn đau “banh da xẻ thịt”. Cái khổ thứ năm là hầu hạ đàn ông. Đó là 5 nỗi khổ thầm kín mà tất cả người nữ phải gánh chịu, những nỗi khổ này cánh đàn ông không thể nào thay thế được. Các em trai thanh niên trước khi lập gia đình cần phải quán chiếu sâu sắc về 5 nỗi khổ của phái đẹp để dễ bề thông cảm và yêu thương người bạn đời của mình nhiều hơn bằng trái tim hiểu biết.

Ngày xưa với quan niệm chồng chúa vợ tôi, vai trò người nữ bị khép kín trong phạm vi gia đình với bao điều phiền muộn, khổ đau. Họ phải chịu nhiều cay đắng, một mình đơn độc về làm dâu xứ lạ không người thân thích. Theo quan niệm “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ một chồng”, người nữ thời ấy chỉ một mực thờ chồng, thậm chí nhiều người phải đi cưới vợ bé cho chồng, nên có câu “thân gái 12 bến nước, trong nhờ đục chịu”. Chế độ chồng chúa vợ tôi nên người đàn ông được quyền lấy nhiều vợ và người phụ nữ nếu dan díu cùng người khác sẽ bị xử tội rất nặng. Đó là luật pháp thời xưa khiến người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi mà không có quyền bào chữa. Họ phải chấp nhận thân gái 12 bến nước, trong nhờ đục chịu là vì vậy.

Nhưng thói đời đục thường nhiều hơn trong, chỉ một vấn đề làm dâu hầu hạ cha mẹ chồng đã là một nỗi khổ lớn và phải lệ thuộc anh chị em nhà chồng. Người xưa quan niệm “đàn bà đái không qua ngọn cỏ”, đàn bà là loại cỏ dại chỉ có nhiệm vụ hầu chồng, thờ chồng, phụng sự gia đình chồng, sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường nhà chồng. Họ phải chấp nhận luật Tam tòng, khi chưa xuất giá phải thờ cha, khi có chồng phải thờ chồng, đến khi chồng chết chỉ biết thờ con, không được quyền tái giá. Đó chính là những bất công buộc người nữ phải chịu nhiều hệ lụy khổ đau mà không nói được. Các em ngày nay chuẩn bị bước vào đời để được sống yêu thương và hiểu biết, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ cần phải biết những nỗi khổ thầm kín ấy.

Trở lại câu chuyện chàng trai đi chiến trận trở về gặp lại người vợ và đứa con thơ dại. Đúng ra người cha khi nghe con nói vậy phải tìm hiểu kỹ càng, xác đáng sự việc. Chàng cứ nghĩ trẻ thơ đâu bao giờ nói sai sự thật nên cứ một mực tin càn, chẳng cần tìm hiểu nguyên nhân. Thật ra, khi chàng đi lính, đứa bé ở nhà một hôm hỏi mẹ “ai trong xóm này cũng có cha, sao con lại không có?” Người mẹ khi ấy chỉ vào cái bóng trên vách nói “cha con đó”. Đứa bé nghe mẹ nói vậy tưởng thật nên tin đó là cha mình. Một buổi tối trời đang mưa tầm tã, người vợ trẻ bồng đứa con trên tay dưới ánh đèn leo lét chợt nhớ người chồng bao năm xa cách mà cất tiếng khóc nghẹn ngào. Đứa bé thấy vậy mới hỏi, “bộ cha đánh mẹ hả?”, trẻ thơ thật thà nào có biết gì đâu.

Người vợ trẻ trong thời loạn lạc tình yêu thương chưa trọn vẹn mà phải gánh lấy trách nhiệm nặng nề. Một mình ôm đứa con trong bụng và phải tự mình nuôi dưỡng. Đây là nỗi khổ, niềm đau lớn lao của người vợ trẻ một mình vượt cạn, vừa làm mẹ, vừa làm cha. Một người vợ cùng chồng nuôi con vất vả một thì người vợ đơn phương nhọc nhằn hơn chục lần như thế. Vậy mà sử sách ít bao giờ tán dương phụ nữ mà chỉ tán dương đàn ông bằng câu nói “gà trống nuôi con”. Người vợ trẻ một mình nuôi con đêm ngày mong ngóng, mỏi mòn chờ chồng, thậm chí rất nhiều người phải khóc hận nuôi con vì chiến tranh loạn lạc đến hai ba chục năm mới gặp lại. Ấy thế mà chưa vui sum họp đã sầu chia ly, chàng trai ấy chưa cảm thông nỗi khổ niềm đau thầm kín của vợ trong 4 năm qua.

Đứa con tuy không có cha trực tiếp chăm sóc từ khi mở mắt chào đời, nhưng nhờ sự yêu thương, bảo bọc của mẹ đứa bé vẫn được sống an vui, hạnh phúc. Ngày chồng trở về tưởng được thêm phần hạnh phúc, thêm ấm nồng tình vợ chồng cùng đứa con thơ, thật không ngờ giông bão lại kéo đến. Người vợ quyên sinh vì sầu thương, buồn tủi, người chồng ở lại liệu có thể “gà trống nuôi con”? Người vợ trẻ ấy đã rất bơ vơ, lạc loài ôm bào thai trong bụng khi người chồng đi chinh chiến phương xa. Xưa có chồng ở nhà thì chẳng lo cơm áo gạo tiền, chỉ lo chu toàn mọi việc trong nhà, giờ một mình gánh thêm gánh nặng, phải bảo bọc, che chở đứa con, lần bước vào đời tìm chén cơm manh áo.

Chàng trai trẻ không có cơ hội quán chiếu sâu sắc về sự khó khăn và khốn khổ của vợ khi mình đi chinh chiến, nàng ở nhà nhận lãnh vai trò vừa làm mẹ, vừa làm cha và phải sống cô đơn, hiu quạnh một mình. Đến ngày khai hoa nở nhụy cũng chỉ mình nàng phải vượt cạn một mình, chỗ này đàn ông không thể nào thay thế, nên mới có câu “đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình”. Không có chồng ở nhà để động viên, khuyên nhủ, chăm sóc khi cần thiết, vậy mà nàng vẫn cố gắng chịu đựng để vượt qua mà vươn lên nuôi dạy con khôn lớn. Bao nhiêu năm nhọc nhằn, cực khổ nuôi con, mỗi lúc nhớ chồng nàng khóc một mình trong cô đơn, buồn tủi. Lúc nào nàng cũng ngóng trông, mong đợi và thầm cầu nguyện chiến tranh mau chấm dứt để có ngày được cùng chàng đoàn tụ.

Rồi cái ngày ấy cũng đến, người vợ trẻ mừng đến rơi nước mắt, bao nhiêu ước mơ bây giờ đã thành sự thật. Trong lòng nàng cứ nghĩ chắc chắn chàng sẽ bù đắp hạnh phúc cho nàng sau bao năm xa cách, vừa đi chợ, vừa tưởng tượng chắc chàng sẽ yêu thương mình nhiều hơn. Không ngờ mọi việc thật tréo ngoe, vừa đi chợ về nàng đã thấy chàng mặt lạnh như tiền, nàng hỏi gì chàng cũng không trả lời, chẳng thèm nói năng, ngó ngàng đến nàng. Sự thật là chàng đã hiểu lầm nàng, đứa bé vì muốn có cha nên nàng đã chỉ cái bóng trên vách mà nói “đó là cha con”. Cứ như thế đêm nào cũng vậy, nàng nhớ chồng da diết và phải chỉ bóng mình mà nói “cha của con về đó”. Bây giờ thì nàng đã vĩnh viễn ra đi, đã ôm mối hận thiên thu không thể nào trở lại, thần thức nàng có lẽ vẫn còn lẩn quẩn bên mái nhà xưa để được nhìn con thơ bé bỏng và mong chồng sẽ hiểu được lòng mình hơn. Đứa con thơ dại sau bao năm sống thiếu tình cha, giờ cha đã có nhưng mẹ lại không còn. Chàng trai ấy giờ đã biết mình sai, đã nhận ra điều lầm lẫn lớn lao nhưng vợ đâu còn nữa, giờ thật sự có ăn năn hối tiếc thì cũng quá muộn màng.

Các em hiện giờ có đầy đủ phúc duyên còn có cha, có mẹ, các em đang được sống hạnh phúc bên mái ấm gia đình. Vậy các em ngay tại đây và bây giờ phải biết trân quý, phải biết gìn giữ khi được sống trong vòng tay âu yếm của mẹ cha. Các em biết không, tôi nhờ vậy mà được làm người trở lại, nhờ sự chịu đựng hy sinh và hết lòng thương yêu của mẹ mà tôi bây giờ mới có cơ hội tâm tình, trao đổi với các em bằng tất cả tấm lòng chân thành tha thiết. Khi con người đã có những hiểu biết sai lầm thì nghi ngờ, giận dỗi, tự ái phát sinh làm cho ta không làm chủ bản thân mà phán xét mọi việc sai sự thật. Chàng trai ấy không có sự cảm thông nỗi khổ, niềm đau của người vợ trẻ phải ở nhà một mình vượt cạn, nuôi con; do đó cứ nghĩ trẻ thơ không bao giờ nói dối mà đem lòng oán trách vợ không một lời tìm hiểu, hỏi han để rồi chính tri giác sai lầm mà làm chết đi người vợ thủy chung oan uổng. Này các em, các người trẻ, các em nên đọc kỹ câu chuyện trên để có thời gian suy ngẫm, tìm hiểu trước khi muốn phán xét hay kết luận một điều gì. Các em nên tìm hiểu cho chín chắn, kỹ càng, nếu không như vậy sẽ vô tình làm khổ cho mình và tha nhân khi bước vào đời với bao phiền muộn, khổ đau.

Tri giác sai lầm thường làm con người mất hết lý trí sáng suốt, do đó nhận định và quyết đoán mọi điều không đúng với sự thật mà dẫn đến nhiều tai hại. Là người thanh niên hay người đàn ông trước khi bước vào đời các em phải định hướng, phải tìm hiểu chân lý sống cho rõ ràng. Thường cái gì cứng thì dễ gãy, cái gì mềm dẻo lại dễ tồn tại. Cụ thể nhất là răng cứng nên dễ gãy, lưỡi mềm nên dễ uốn. Các em vào đời cũng phải như vậy! Bao nhiêu cuộc tình đã đổ vỡ vì hiểu biết sai lầm, vì cố chấp, vì không biết cảm thông và tha thứ cho nhau. Vì vậy các em phải cần tìm hiểu cho chín chắn những gì mắt thấy tai nghe trước khi kết luận hay tin tưởng bất cứ việc gì.

Chàng trai ấy lẽ ra phải hỏi vợ mình sự thật ra sao, nếu chàng hỏi rõ thì đâu có chuyện làm đau lòng nhân thế. Nếu giả sử vợ chàng có như thế, cô ấy thật sự đã phản bội chàng thì chàng cũng nên nghĩ lại mà tha thứ, cũng nên cảm thông, độ lượng mà bao dung cho nàng. Suốt thời gian chinh chiến ai nuôi dạy con chàng, ai bảo bọc vợ chàng để còn sống mà chờ chàng đoàn tụ. Nếu có chàng cũng nên can đảm mà mạnh dạn cám ơn người ấy, vì người ấy đã cho con và vợ chàng một sự sống ấm no, trọn vẹn, nhờ vậy có ngày hôm nay chàng có cơ hội gặp lại vợ và con. Ấy vậy mà, vợ chàng xứng đáng là một người vợ ngoan hiền, mẫu mực, đạo đức, thủy chung, dù chịu cô đơn một mình ngậm đắng nuốt cay nàng cũng chấp nhận đi biển một mình để “mẹ tròn con vuông”. Chàng đâu hề biết trong suốt 4 năm ròng chinh chiến phương xa, vợ của chàng phải chịu nhiều đắng cay, khổ sở khi chấp nhận làm thuê làm mướn, cực khổ nhọc nhằn miễn có tiền nuôi con, bất chấp tiếng đời dèm pha, chê trách. Chàng chưa phải là một người đàn ông đích thực, chàng chưa phải là một người đàn ông bản lĩnh, chưa phải là một người chồng lý tưởng vì chỉ biết nghĩ đến mình quá nhiều.

Thật ra chàng sống quá ích kỷ, quá nhỏ nhoi, quá hèn mọn, quá tự ti, quá cố chấp, chàng không xứng đáng là một đấng nam nhi đại trượng phu. Vợ chàng đã mang đứa con trong bụng là giọt máu của chàng, nàng phải một mình mang nặng đẻ đau, tần tảo sớm hôm nuôi con thơ dại, một mình gặm nhấm cô đơn, nhớ chồng da diết, lặng lẽ ngóng trông mòn mỏi, khát khao chờ đợi ngày chàng trở về. Đúng ra vợ chồng xa cách đã 4 năm, khi gặp lại chàng phải thầm cám ơn vợ sao quá đỗi tuyệt vời, một thân một mình thức khuya, dậy sớm tần tảo nuôi con không quản ngại gian lao, khó nhọc; để ngày hôm nay chàng được gặp con, được có con mà nối dỗi tông đường. Chàng thật sự quá ư diễm phúc khi có được một người vợ như vậy, tại sao chàng không biết trân quý, tìm cách bù đắp lại cho cô ấy?

Tôi ngày xưa còn tệ bạc hơn nhiều, tôi bỏ vợ khi mới sinh con chỉ vừa đầy tháng cùng đứa con trai mới tròn 3 tuổi. Vậy mà cô ấy không hề uất hận, vẫn lặng lẽ một mình nuôi con lao nhọc trăm bề. Nhưng vợ chàng phải một mình mang nặng đẻ đau, một mình nuôi con trong thời chiến tranh loạn lạc cùng tiếng đời thị phị còn khó khổ trăm bề hơn thế, vậy mà chàng nỡ dửng dưng, lạnh lùng, không thương tiếc. Nếu chàng biết cởi mở, bao dung, mở rộng tấm lòng một chút thì làm sao có chuyện phải tiếc hận ngàn thu. Chàng có dám bảo đảm sẽ ở vậy nuôi con để được người đời tán dương, khen ngợi? Hiện giờ con chàng còn quá nhỏ, nó đâu biết vì sao mẹ chết, khi lớn khôn rồi phải giải thích ra sao?

Nó sẽ nghĩ gì khi biết sự thật về cách cư xử thiếu hiểu biết của cha nó, sẽ chấp nhận mọi chuyện thế nào đây? Tôi ngày xưa vì đam mê hưởng thụ quá đáng nên sai lầm do quá ngu si, mê muội; còn chàng sai lầm do quá cố chấp vào tri giác của mình. Tôi và chàng cả hai đều sai, trong cuộc đời này vẫn có những cái sai tương tự như thế tràn ngập khắp thế gian. Vì thế ngày nay tình trạng bạo hành học đường, bạo hành gia đình hầu như tràn lan khắp mọi miền đất nước. Con người do đam mê hưởng thụ, do cố chấp và bảo vệ thành trì bản ngã của mình; cái gì của mình thì cho là đúng nên chấp chặt, ai làm khác đi thì không được, từ đó phát sinh tự ái, giận hờn, phá bỏ, gây khổ đau cho nhau.

Trong cuộc sống khó ai không mắc sai lầm, nhưng có những sai lầm chúng ta có thể tháo gỡ và sửa chữa, cũng có những sai lầm sau khi biết được đã trở thành vết sẹo khổng lồ khó mà phai mờ trong tâm trí. Chàng trai trẻ giờ biết ra thì đã quá muộn màng, chồng vô tình giết chết vợ mình khiến con thơ phải lạc loài, mất mẹ. Liệu chàng có thể đứng vững mà “gà trống nuôi con”, hay sẽ rơi vào khủng hoảng, mất tự chủ để rồi dìm chết cuộc đời bằng những ly rượu đắng, sáng xỉn, chiều say, tối lai rai. Một thời trai trẻ tôi đã từng dìm mình dưới ao nước giữa ban đêm đến năm mười tiếng đồng hồ cũng vì chút hờn ghen bóng gió, tức quá nói không được nên đúng là khùng chẳng ra khùng, điên chẳng ra điên. Trong men say tình ái vì tri giác sai lầm mà không biết bao cuộc tình tan vỡ, tôi khi đó như con cú quạ lúc ban ngày. Giờ ngồi ngẫm lại cả một thời son trẻ không biết bao là lỗi lầm đáng tiếc.

Còn làm người, còn có sự sống là còn có sai lầm, khó có ai được hoàn hảo, ngoại trừ các bậc Thánh nhân, các bậc Bồ tát. Tôi ngày hôm nay có cơ hội làm lại cuộc đời nhờ gặp Phật pháp nên chỉ có đôi lời khuyên nhủ cùng các em, các em hãy nên chín chắn suy nghĩ kỹ càng khi bước vào dòng đời nghiệt ngã với muôn ngàn đắng cay. Các em đừng để tri giác sai lầm của mình làm chủ, sai sử như câu chuyện tôi đang kể cho các em nghe. Các em hãy tự hỏi mình từ đâu đến và sau khi chết đi về đâu? Các em hãy tự hỏi như vậy chứ không chỉ biết nam nữ lớn lên thì phải có vợ, có chồng rồi sinh con đẻ cái nối dõi tông đường. Nếu các em chỉ hiểu biết bấy nhiêu thôi thì chưa đủ, các em cần phải tiến xa thêm một bước nữa. Các em muốn duy trì giống nòi làm người để phục vụ nhân loại, đóng góp cho tha nhân là một điều tốt, nhưng các em cần phải biết làm thế nào để trở thành người tốt luôn sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

Thiền Sư Vạn Hạnh và Bài Sấm Ký Trên Cây Gạo

Thiền Sư Vạn Hạnh và Bài Sấm Ký Trên Cây Gạo

Đăng lúc: 20:48 - 01/08/2015

Sư Vạn Hạnh bèn dùng lối chiết tự phân tích và giảng nghĩa bài sấm ký cho dân làng nghe, đại ý vua yếu, tôi mạnh, nhà Lê đổ, họ Lý thành, phương đông vua xuất hiện, phương tây dân chúng mất, qua sáu bảy năm thì thiên hạ được thái bình.


Năm 980 nhà Tiền Lê thay thế nhà Đinh, năm 1009 nhà Lý thay thế nhà Tiền Lê. Hai cuộc thay ngôi đổi chủ cách nhau 29 năm nhưng tương đối giống nhau. Hai vua kế vị tiền triều đều còn bé, sự việc diễn ra trong hòa bình và hai vua mới đều được hai bà Thái hậu triều trước trân trọng mời vào cung trao long bào và ngôi báu. Chỉ khác nhau ở chỗ người chủ xướng thay đổi triều Đinh là một đại tướng quân có binh quyền, còn người chủ xướng thay đổi triều Tiền Lê là nhà sư trong tay không tấc sắt không tên quân.
Tháng 3 năm Ất Tỵ (1005) vua Lê Đại Hành băng hà, truyền ngôi cho Thái tử Lê Long Việt. Các hoàng tử khác tranh giành ngôi báu đem quân đánh nhau suốt 8 tháng trời mới yên, Thái tử đăng cơ chỉ được ba ngày thì bị em là Long Đỉnh giết hại, cướp ngôi.
Trong bốn năm trị vì (1005-1009) xét công luận tội thì Long Đỉnh tội nhiều hơn công. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét ”Ngọa Triều (Long Đỉnh) không những thích giết người lại còn oán vua cha không lập mình làm thái tử, đánh đau người Man để họ kêu gào, nhiều lần phạm đến tên húy của cha mà lấy làm thích” Còn sử thần Ngô Thì Sĩ thì :”Khai Minh Vương(Long Đỉnh) là dứa con hư của Đại Hành, là đứa em ngỗ nghịch của Trung Tông (Long Việt)…là kiếp sau của vua Kiệt vua Trụ, nhốt tù nhân dưới nước, đặt hình phạt ngọn cây, trác táng vì rượu gái, nhiều điều tối tăm hỗn loạn không thể nào hình dung”.
Khi Long Đỉnh chết, Ngô Thì Sĩ liên hệ đến triều Đinh và cho đó là quả báo nhãn tiền ”Long Đỉnh giết Long Việt thì cũng như Đinh Liễn giết Hạng Lang. Bọn Phạm Cự Lượng tôn Lê Đại Hành cũng như bọn Đào Cam Mộc phò Lý Thái Tổ lên ngôi. Quả báo của kẻ làm nhiều điều ác như xoay theo vòng tròn” Rồi ông tiết lộ một bí mật mà các sử gia khác không biết ”Lý Thái Tổ lại rất căm phẫn về tội ác giết anh cướp ngôi của Khai Minh Vương nhân lúc Khai Minh Vương bệnh tật, sai người vào đầu độc giết đi rồi dấu kín việc đó nên sử không được chép, nếu quả như vậy cũng là đạo trời hay báo ứng cho nên chép phụ vào đây để làm răn”. Thực hư ra sao không rõ, chỉ thấy Lý Công Uẩn lên ngôi hoàn toàn danh chánh ngôn thuận.
Trước khi Long Đỉnh qua đời, một hôm, ở làng Diên Uẩn có mưa to gió lớn, sét đánh trúng cây gạo cổ thụ làm tét một mãng da lớn. Vài ngày sau dân làng phát hiện chỗ sét đánh có nhiều chữ chi chít và cho đó là sấm ký của thần nhân. Bài sấm như sau “Thụ căn diểu diểu. Mộc biểu thanh thanh. Hòa đao mộc lạc. Thập bát tử thành. Đông A nhập địa. Mộc dị tái sinh. Chấn cung xuất nhật. Đoài cung ẩn tinh. Lục thất niên gian. Thiên hạ thái bình” (Gốc cây thăm thẳm. Ngọn cây xanh xanh. Hạt hòa đao rụng. Mười tám hạt thành. Đông A vào đất. Cây khác lại sanh. Đông mặt trời mọc. Tây sao náu mình. Khoảng sáu bảy năm. Thiên hạ thái bình)
Sư Vạn Hạnh bèn dùng lối chiết tự phân tích và giảng nghĩa bài sấm ký cho dân làng nghe, đại ý vua yếu, tôi mạnh, nhà Lê đổ, họ Lý thành, phương đông vua xuất hiện, phương tây dân chúng mất, qua sáu bảy năm thì thiên hạ được thái bình.
Bài sấm ký và lời bàn của Sư Vạn Hanh nhanh chóng lan truyền khắp trong thành ngoài nội, Sư nói với Lý Công Uẩn ”Gần đây cứ suy lời sấm thì họ Lý đáng nổi lên. Nay họ Lý trong nước có ai khoan từ nhân thứ rất được lòng người như Thân vệ, binh quyền trong tay, làm chủ muôn hộ, nếu bỏ Thân vệ thì còn ai đương nổi”.
Lúc bấy giờ Long Đỉnh còn tại vị, sợ sự việc tiết lộ mang họa sát thân, Công Uẩn không dám bàn đến việc đó mà còn đem Sư dấu ở Tiên Sơn. Sự cẩn thận của Công Uẩn không phải vô ích, Long Đỉnh cũng nghe biết bài sấm ký và lời bàn của Sư Vạn Hạnh, âm thầm sai thủ hạ thân tín tìm giết hết người họ Lý nhưng không hề đả động đến Công Uẩn thường xuyên kề cận bên mình. Có lẽ ông ta cho Công Uẩn không phải là người phản bội bởi khi ông ta giết Long Việt cướp ngôi, quần thần sợ hãi không ai dám phản ứng, chỉ có Công Uẩn ôm xác Long Việt khóc than thương tiếc được ông ta khen trung thành và thăng chức từ Đội trưởng cấm quân lên Tứ sương quân phó chỉ huy sứ rồi Tả Thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Long Đỉnh chết, con còn bé, Chi hậu Đào Cam Mộc nói với Công Uẩn ”Người trong nước đều biết họ Lý đáng nổi lên, lời sấm đã hiện ra, đó là cái họa không thể che dấu nổi, chuyển họa thành phúc chỉ một sớm một chiều. Đây là lúc trời trao mệnh và người hưởng ứng theo, Thân vệ còn ngờ gì nữa” Công Uẩn nói”Tôi biết rõ ý ông không khác ý Vạn Hạnh. Nếu đúng như lời ấy thì nên tính kế thế nào?” Biết Công Uẩn đồng ý, Cam Mộc bàn với quần thần, không ai có ý khác, bèn cùng nhau vào cung tâu với Thái hậu, bà đồng ý, vời Công Uẩn vào khuyên lên ngôi hoàng đế.
Thật ra thì bài sấm ký đó không phải của thần nhân ban cho mà tác giả chính là…Sư Vạn Hạnh. Sử thần Ngô Thì Sĩ viết ”Ôi! trời có nói gì đâu! Một tiếng sét thành ra chữ, chỉ bốn mươi chữ mà việc hưng phế của dòng họ các đời trong khoảng vài trăm năm đều khái quát vào đấy cả. Có lẽ Sư Vạn Hạnh giỏi về suy đoán, nhân sét đánh cây gạo, giả thác bài chữ sét đánh để tỏ sự thần dị”.
Sư Vạn Hạnh họ Nguyễn (không biết tên gì) sanh năm 938, người làng Cổ Pháp cùng quê với Công Uẩn. Năm 21 tuổi xuất gia tại chùa Lục Tổ, đệ tử sư Thiền Ông, thông minh, học nhiều biết rộng, tinh thông Tam giáo (Nho-Phật-Lão), từng làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành cả chánh trị lẫn quân sự, giúp vua chiến thắng quân Tống quân Chiêm xâm lược và quấy phá nước ta.
Nói Sư Vạn Hạnh giỏi suy đoán, tiên liệu việc như thần, nói đâu trúng đó cũng không ngoa, không cường điệu. Vì, Sư lăn lộn trong chính trường nhiều năm, giữ vị trí quan trong trong triều, thân cận bên vua nên không có việc gì không biết, không có biến cố nào không trải qua. Một người như thế chắc chắn tích lũy nhiều vốn sống, kinh nghiệm, nhìn vạn vật biển chuyển, thế sự thăng trầm, lòng người thay đổi là có thể đoán biết hồi kết như thế nào.
Lúc bấy giờ mọi người đều chán ghét sự hà khắc, bạo ngươc, tàn ác của Long Đỉnh, tiếng oán than, căm phẫn vang lên khắp nơi thì không chỉ có Sư mà bất cứ kẻ sĩ nào cũng biết nhà Lê đã suy vong nên thần dân ngoảnh mặt quay lưng không còn lưu luyến gì với triều đại xấu xa tàn ác đó. Thời cơ đã đến, nhân chuyện sét đánh cây gạo Sư bèn viết bài sấm ký để tác động tâm lý và kích thích lòng dân cùng khanh tướng, quan lại triều đình và cả Công Uẩn..
Công Uẩn lại được Sư nuôi dạy từ năm 7 tuổi đến trưởng thành theo sự phó thác của sư Khánh Văn. Sư nhận xét đứa học trò “Cậu bé nầy không phải là người thường, sau nầy lớn lên chắc sẽ giải quyết được nhiều việc khó, làm bậc vua sáng suốt trong thiên hạ”. Do vậy, tự thân không thể làm vua thì làm thầy vua, Sư quyết định đưa Công Uẩn lên ngôi cửu ngũ không phải bằng vũ lực mà bằng…văn chương! Việc làm của Sư xem ra khá mạo hiểm, liên quan đến an nguy sinh mạng của học trò vì Long Đỉnh có thể giết hại Công Uẩn bất cứ lúc nào để bảo vệ củng cố ngôi vị. Tuy nhiên, như đã nói trên, Sư đã từng trải nhiều năm trong triều đình, vốn sống phong phú, đầy đủ kinh nghiệm, biết người biết ta cho nên chuyện đó đã không xảy ra.
Sử thần Ngô Sĩ Liên khen Sư biết sự chuyển biến của thời vận, trí thức hơn người thường, còn sử thần Ngô Thì Sĩ thì nhận xét Sư có chí khí hơn đời, ôm tài thao lược phò tá nghiệp vương, có kiến thức, biết tính toán nên biết trước sự việc xảy ra “cũng là tay lỗi lạc trong giới thiền”.
Năm 1025 Sư viên tịch, để lại cho các đệ tử bài thơ :
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô.
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhâm vận thịnh suy vô bố úy.
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Thân người như ánh chớp có rồi không. Muôn cây mùa xuân tươi tốt mùa thu héo khô. Mặc cho thời vận thịnh suy không nên sợ hãi. Vận thịnh suy như hạt sương trên ngọn cỏ tan biến cấp kỳ).
Sau nầy, cảm kích công đức cao dày của Sư, vua Lý Nhân Tông có làm bài thơ khen tặng:
Vạn Hanh dung tam tế.
Chân phù cổ sấm ky.
Hương quan danh Cổ pháp.
Trụ tích trấn vương kỳ
(Vạn Hạnh thông ba kiếp. Phục hợp cổ sấm thi. Quê hương làng Cổ pháp. Cấm gậy trấn kinh kỳ). *./

Theo Đạo Phật ngày nay

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 200
  • Hôm nay 4,369
  • Tháng hiện tại 62,677
  • Tổng lượt truy cập 23,468,926