Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Con gà trong góc nhìn Phật giáo

Con gà trong góc nhìn Phật giáo

Đăng lúc: 20:06 - 03/01/2017

Tết Nguyên đán bước sang năm mới 2017 theo chu kỳ can chi là tết Đinh Dậu, Tết con gà. Trong đời thường lẫn văn học nghệ thuật dân gian, hình tượng con gà gắn bó mật thiết với hình ảnh của sự chăm chỉ, dũng mãnh “gà trống gọi mặt trời”, tình mẫu tử “gà mẹ xù lông bảo vệ con” hay như một lời chúc cho cho gia đình con cháu đề huề, vợ chồng mới cưới sớm có con qua bức tranh “Đàn gà mẹ con” của dòng tranh Đông Hồ nổi tiếng…

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Việt Nam cũng là đất nước gắn bó mật thiết với Phật giáo với hơn hai nghìn năm hình thành và phát triển của đạo Phật. Vậy thì con gà có vai trò gì từ góc nhìn Phật giáo hay không? Đây là câu hỏi được nhiều người đặt ra và nhất là thời điểm này, Tết con gà Đinh Dậu 2017 đang đến rất gần…

Gà trống – biểu tượng của tham?

Nhằm trả lời câu hỏi này, tháng 2/2016 tác giả Nguyễn Kim Sơn đã có một bài viết về hình tượng con gà trong kinh điển Phật giáo. Có thể đây chỉ là quan điểm cá nhân, nhưng những thông tin cung cấp trong bài viết cũng khá thú vị, đáng để tham khảo.

Theo đó, tác giả Nguyễn Kim Sơn cho rằng, có ba con vật mà kinh điển Phật giáo nói tới nhiều lần và được xem như những biểu tượng quan trọng, đó là con gà trống, rắn độc và con lợn. Ba con vật này là biểu tượng của Tam độc, đó là Tham – Sân - Si (贪、瞋、痴 - tham dục, oán hận và ngu độn). Gọi là Tam độc vì nó là độc tố của tâm, hủy hoại tinh thần và thể xác, ngăn cản con người ngộ đạo. Tam độc là nguồn gốc của khổ đau và phiền não.

Cụ thể, gà trống – biểu tượng của lòng tham. Con gà trống thích một mình quản lãnh đàn gà mái đông như phi tần trong cung vua. Để bảo vệ quyền sở hữu đám gà mái, nó sẵn sàng xù lông dương cựa đánh đuổi bất kỳ con gà trống nào khác xâm nhập lãnh thổ của nó. Đó là tham ái, tham dục.

Gà trống mổ thức ăn nó nhìn thấy như một sự đánh dấu sở hữu, dẫu nó đã no không thể ăn được nữa. Đó là sự tham luyến vật dục không giới hạn. Phật giáo quan niệm “tham” là động cơ gốc, là căn cội của sự thất vọng, không thỏa mãn, bất hạnh, là nguyên nhân của chiến tranh, tàn ác, cướp bóc tranh giành và những thói xấu. Tham tức là khổ. Giảm lòng tham là phép giải độc tố cho tâm, khiến cho nó trong trẻo an lạc.

Rắn độc – biểu tượng của sân hận, giận giữ, oán thù và sự nguy hiểm. Con rắn độc mang sẵn trong mình nó nọc độc. Nó dùng nọc độc để hạ gục con mồi, hạ gục đối phương. Nó dùng độc để tự vệ, dùng độc để đối đãi với kẻ khác và đặc biệt hơn nữa là nó đem độc để đối đãi đời, đối đãi với đời bằng răng nanh và túi nọc độc.

Con rắn độc sẽ có con khác độc hơn trị nó. Thấy rắn độc người ta xa lánh hay tìm cách tiêu diệt nó. Bản thân nó tồn tại với tư cách một nguy cơ nên bất an và không chung sống an hòa, với muôn loài. Lòng sân hận và oán thù trong tâm người là một loại độc tố. Nó thiêu đốt tâm người ta khiến người ta không yên, nó gây ra sự bất hòa, thậm chí là tội ác.

Bản thân kẻ ôm ấp thù hận và sự giận giữ trong lòng cũng tự hủy hoại tâm mình. Đem oán thù mà đáp trả oán thù thì oán thù chỉ càng thêm chồng chất. Người ta thường nói có ba thứ nên quên, đó là tuổi tác, bệnh tật và oán thù. Buông bỏ oán thù, hỷ xả với giận giữ, tha thứ cho lỗi lầm của người khác vừa tốt cho người vừa thải độc được cho tâm ta.

Con lợn – biểu tượng của sự ngu si tăm tối. Người đời đã tổng kết “ngu như lợn”, biểu tượng sinh động của sự ngu. Nó ăn tích mỡ tích thịt và đợi tới ngày bị người ta mổ thịt. Phật giáo không nhấn mạnh sự ngu ở chỗ thiểu năng trí tuệ hay sự kém cỏi có tính di truyền của tính loài. Bản thân sự ngu cũng không phải là tội.

Phật giáo muốn lưu ý tới việc con người chìm đắm trong bến mê mà không tự biết, ở trong sự nguy mà không biết nguy. Người đời chạy theo vật dục mà không biết nó là nguy hiểm, ngày ngày sân hận mà không biết đó là độc nhiễm. Đáng dừng mà không biết dừng.

Cứ yên trong mê mà lầm là sáng suốt khôn ngoan, có năng lực tự thức ngộ mà không biết khởi phát để nhận thức thấu triệt được bản chân của tồn tại nghĩa là si.

Si là nhầm lẫn, u tối, tưởng thỏa được vật dục là sung sướng, tưởng tranh cạnh hơn người là thông minh. Cái trí tuệ mà đẩy con người dài theo tham sân thì đó vẫn là si. Chỉ một trí tuệ bát nhã, thứ trí tuệ giúp người ta giải được độc của tham ái, của sân hận, của u tối lầm lẫn mới là trí tuệ đích thực.

Có hay không sự quả báo cho những người sát sinh gà?

Trong giáo lý của mình, đạo Phật khuyên không nên sát sinh quả báo của việc sát sinh là vô cùng đau khổ, đó cũng chính là lý do tại sao, sát sinh là một trong năm giới cấm mà người Phật tử tại gia khi quy y Tam bảo phải quyết tâm thực hiện. Lý thuyết của Phật giáo sau này khoa học đã chứng minh khi các nghiên cứu cho rằng hầu hết súc vật đều có bộ não và hệ thần kinh như con người.

Chúng cũng có cảm giác, biết nóng lạnh, sợ hãi, tham sống và sợ chết. Khi sợ hãi, nhịp tim của chúng đập mạnh, áp suất máu lên cao, hơi thở hổn hển, thậm chí nhiều con còn chảy nước mắt. Thế nên, tước bỏ mạng sống của một con vật là việc làm không nên và quả báo của việc sát sinh sẽ vô cùng nặng nề.

Quay trở lại với chuyện con gà, cư sĩ Trịnh Tùng trong quyển sách “Nhân quả báo ứng những điều mắt thấy tai nghe” đã viết về sự quả báo cho những người sát sinh gà.

Theo đó, tại Thiên Thai – Đông Bắc có một vị bác sĩ mới ra nghề nhưng rất giỏi. Một ngày nọ, có người phụ nữ hơn 40 tuổi tìm đến khám bệnh. Cô ta bảo bị đau trong yết hầu, nhờ bác sĩ chữa trị.

Bác sĩ xem kỹ bộ dáng của cô, người bệnh nhân này có tiếng nói “Oát, oát” giống như tiếng gà kêu, đồng thời thân thể run run, còn hai tay thì cứ với với như hai cánh của con gà đang đập. Bác sĩ lại khám trong yết hầu của cô, nhưng phía trong yết hầu lại không có bệnh gì cả, việc này khiến vị bác sĩ vô cùng khó hiểu.

Bác sĩ là người Nùng Vĩ, hơn nữa lại là một Phật tử thuần thành. Anh có một gia đình rất hạnh phúc. Mọi người trong gia đình anh từ lớn đến nhỏ đều quy y Tam Bảo, giữ giới tu hành. Anh thấy căn bệnh của người phụ nữ rất giống trạng thái con gà khi bị cắt tiết nên anh đoán ra cô ta đã ăn thịt gà quá nhiều, hai là cô có thể là người buôn bán gà.

Sau khi hỏi kỹ, quả nhiên đúng như những gì anh đã tiên đoán, cô là chủ của một tiệm bán gà ở gần đó. Vì vậy anh nói: “Theo tôi khám thì thấy cô không bệnh về thân, mà đây là bệnh nghiệp, nên có lẽ tôi không có cách để chữa trị cho cô được”. Nghe xong, người phụ nữ này vẫy vẫy hai tay giống như hai cánh gà, miệng thì kêu “oát, oát” giống y như hình trạng con gà đang giẫy chết. Vừa về tới nhà thì cô ngã ngửa ra tắt thở.

Bên cầu Nhật Bản mọc lên tiệm bán gà, lúc mới mở tiệm này do hai người hùn vốn lại làm ăn, nhưng một thời gian sau đó thì tách ra riêng. Khi người chủ được 50 tuổi thì người vợ qua đời, không bao lâu thì đứa con gái đầu và con gái thứ đều lần lượt chết, ông chủ cũng mắc phải căn bệnh quái ác.

Ông đi đủ thầy, tìm đủ thuốc, tốn rất nhiều tiền của nên bệnh mới dần dần bình phục. Bảy năm sau, bệnh ông bỗng nhiên tái phát dữ dội, càng ngày bệnh càng trầm trọng hơn, thuốc bao nhiêu cũng không còn tác dụng nữa. Ông gọi con trai cả cùng con dâu đến bên cạnh và nói: “Ba đau quá! Mau lên, mau lên, các con hãy đuổi những con gà ở xung quanh ba đi!”.

Ông vừa nói vừa tỏ ra rất đau đớn. Con cháu hỏi lý do vì sao ông lại nói như thế, ông nén cơn đau bảo: “ Các con không thấy sao? Do trước kia ba giết gà, nên bây giờ những con gà bị giết nó xúm lại quanh ba. Có con còn dùng chân cào lên mình ba, có con mổ khắp người ba. Đau nhức quá! Các con ơi, làm ơn đuổi những con gà giùm ba đi. Đau quá, sợ quá! Kiếm tiền nhiều để làm gì mà không trị được bệnh đây trời ơi. Không, không nên làm cái nghề này nữa”. Nói xong thì tắt thở, từ đó con cháu ông sợ nên bỏ nghề, không còn dám bán gà nữa.

Những câu chuyện trên có thể có thật hoặc chỉ là một sự đúc kết để hướng tới một thông điệp: Không nên sát sinh! Nhưng dù thế nào thì cũng có thể thấy cho dù bạn là ai, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, có tin nhân quả hay không tin thì bạn vẫn phải chịu sự chi phối của định luật nhân quả.

Gieo nhân thiện gặt quả thiện, gieo nhân ác nhất định sẽ gặt ác báo, không sớm thì muộn. Luật nhân quả không bỏ sót một mảy lông, một bụi trần. Tin sâu và luật nhân quả, ngăn ngừa ý nghĩ ác, lời nói ác và việc làm ác thì cuộc sống của mỗi người mới được an vui trên cõi trần ngắn như chớp mắt này.

Linh Thụy

Để an vui hơn giữa cõi vô thường

Để an vui hơn giữa cõi vô thường

Đăng lúc: 21:12 - 24/12/2016

Ngay khi còn rất nhỏ, từ những bước chân đầu tiên vui chơi, tình bạn đã là một phần của cuộc đời mỗi chúng ta. Theo dữ liệu khảo sát năm 2004 của Gallup tại Hoa Kỳ, có 98% dân số Hoa Kỳ cho biết họ có ít nhất một người bạn thân (với số bạn trung bình là 9 người bạn).
Ngày nay, cùng với mặt trái của sự phát triển công nghệ, các quan hệ và tương tác xã hội thật sự và đúng nghĩa của mỗi người dường như có phần hờ hững hơn trước đây. Tuy nhiên, kết bạn không chỉ mang lại niềm vui mà còn tốt cho sức khỏe của chúng ta.

anh PGTT 876.jpg
Ăn cơm có canh, tu hành có bạn - Ảnh minh họa

Dưới đây là tóm lược 7 lợi ích lớn mang lại cho sức khỏe khi ta có tình bạn tốt đẹp từ nghiên cứu và chia sẻ của các chuyên gia, đăng tải trên trang online Live Science.

1 - Tình bạn giúp kéo dài tuổi thọ

Người có sự tương tác xã hội tốt sẽ có ít nguy cơ đột tử hơn người ít bạn bè. Điều này được khẳng định qua một phân tích từ các nghiên cứu có liên quan năm 2010, tác động của các mối quan hệ xã hội đối với tuổi thọ của chúng ta cao gấp đôi so với tập thể dục hay so với việc cai nghiện thuốc lá.

Theo đó, các nhà nghiên cứu xem xét 148 nghiên cứu về các tương tác xã hội và nguy cơ tử vong với sự tham gia của 300.000 người. Các nghiên cứu này đều “đo” sức mạnh của các mối quan hệ xã hội, từ số lượng bạn bè cho đến sự hòa nhập của mỗi cá nhân đối với xã hội. Tất cả các yếu tố này đều có liên quan đến hạ giảm nguy cơ tử vong.

Các chuyên gia cho rằng tình bạn và sức khỏe có liên quan đến quá trình xử lý stress, giúp xử lý stress tốt hơn. Stress kinh niên có thể tạo ra sự tách biệt, cô lập ở mỗi cá nhân và theo thời gian, thói quen xấu này sẽ được phát triển, gây ra sự mệt mỏi về thể chất và tinh thần.

2 - Bạn bè giúp ta khỏe mạnh hơn

Các chuyên gia nghiên cứu tác động của tình bạn đối với sức khỏe thông qua việc so sánh các trạng thái sinh học ở các giai đoạn trong cuộc đời của những người có thói quen sống cách ly và tách biệt mọi người với người có nhiều bạn bè.

Các nghiên cứu này có số lượng hàng trăm ngàn người tham gia, tuổi từ 12-91. Các chỉ số sinh học được khảo sát là huyết áp, chỉ số khối cơ thể BMI, số đo vòng bụng và mức protein viêm nhiễm (C-reactive protein).

Kết quả cho thấy các chỉ số đo sự khỏe mạnh xấu hơn ở người có các tương tác xã hội yếu.

3 - Tình bạn giúp cho trí não nhạy bén hơn

Một nghiên cứu năm 2012 cho thấy nguy cơ mất trí nhớ của người cao tuổi cao dần nếu họ có cảm giác cô đơn.

Nghiên cứu quan sát 2.000 người Hà Lan có tuổi từ 65 trở lên trong vòng 3 năm. Khi bắt đầu nghiên cứu, không có ai bị chứng mất trí nhớ, nhưng có 13,4% người cho biết họ cảm thấy cô đơn khi nghiên cứu bắt đầu và phát triển chứng mất trí nhớ sau 3 năm, so với 7,5% người tham gia không có cảm giác cô đơn.

Cô đơn hay cảm thấy cô đơn đều có liên quan đến bệnh mất trí nhớ và sự “thiếu vắng” các tương tác xã hội tích cực làm suy giảm khả năng tư duy - theo tạp chí Neurology, Neurosurgery & Psychiatry.

4 - Tình bạn có sự tác động đến mỗi chúng ta

Béo phì hiện đang là một vấn nạn sức khỏe lớn của xã hội. Nghiên cứu năm 2007 chỉ ra rằng, nếu một người tăng ký thì bạn của họ cũng có khả năng tăng ký theo. Tuy nhiên, nếu bạn mình giảm cân được thì mình cũng có xu hướng giảm cân được - ghi nhận từ tạp chí y khoa New England.

Đáng ngạc nhiên là nếu một người bị béo phì thì bạn bè thân thiết của họ có thể có 57% khả năng béo phì theo. Chuyên gia nghiên cứu James Fowler, Đại học California (San Diego) nhấn mạnh khi bạn bè tập thể dục hoặc có chế độ ăn lành mạnh để giảm cân thì mình cũng có xu hướng làm theo.

5 - Bạn tốt đồng hành cùng ta qua những giai đoạn khó khăn

Một nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư cho thấy, khi tình hình bệnh tật trở nặng thì bạn bè là người có thể giúp chia sẻ. Tạp chí Lancet năm 1989 cho thấy bệnh nhân mắc ung thư vú nếu thường xuyên có sự tương trợ và chia sẻ từ các nhóm bệnh nhân ung thư vú khác có được chất lượng cuộc sống tốt đẹp hơn và sống lâu hơn.

Sau đó, nhiều nghiên cứu khác được tiến hành và khẳng định mối tương trợ giữa các nhóm bệnh nhân giúp kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân. Trong đó, một nghiên cứu năm 2014 cũng cho thấy bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt cũng có chất lượng cuộc sống tốt hơn và sống lâu hơn nếu có sự tương trợ của nhóm bệnh nhân khác.

6 - Khi bị bỏ rơi, ta cần bạn bè ở bên

Không phải quan hệ nào cũng được suôn sẻ và khi ta gặp các vấn đề trong các mối quan hệ, bạn bè có thể giúp đỡ ta rất nhiều. Nghiên cứu năm 2011 trên học sinh lớp 4 cho thấy bạn đồng lứa có thể giúp trẻ vượt qua stress do bị bạn bè hắt hủi, bỏ rơi.

Các chuyên gia kết luận rằng ở các trẻ bị bỏ rơi thì mức hormone stress cortisol (được đo thấy trong nước bọt) cao hơn. Tuy nhiên, mức hormone này thấp hơn khi trẻ có nhiều bạn hơn và chất lượng tình bạn tốt hơn dù ở trong tình trạng bị bỏ rơi, hắt hủi.

Nghiên cứu cho thấy bạn bè dù không thể giúp loại bỏ hoàn toàn stress khỏi môi trường học đường nhưng bạn bè giúp giảm thiểu tình trạng này - tác giả Marianne Riksen-Walraven, chuyên gia tâm lý học phát triển Đại học Radboud (Hà Lan) chia sẻ.

7 - Tình bạn có thể bền vững đến cuối đời

Ở trong thời đại mà người ta phải lăn xả để thành công trong học hành, công việc… như hiện nay thì duy trì một tình bạn tốt đẹp có thể là điều không dễ dàng. Tuy nhiên, với một tình bạn chân chính thì khoảng cách không là vấn đề cản trở.

Một nghiên cứu bắt đầu từ năm 1983, tìm hiểu tình bạn và sự gần gũi của những người bạn thời đại học. Kết quả cho thấy khoảng cách địa lý không ảnh hưởng đến sự gần gũi về mặt cảm xúc qua nhiều năm tháng. Điện thoại và email giúp bạn bè kết nối với nhau mãi đến 20 năm sau đó, đặc biệt là những người bạn có sở thích.

Đối với người học Phật, thì tình bạn giữa những người đồng tu không chỉ giúp sách tiến nhau trên bước đường sửa ý-khẩu-thân trong đời này mà còn là duyên lành cho đời sau...

Trần Trọng Hiếu

Hà Nội: Trọng thể kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN

Hà Nội: Trọng thể kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN

Đăng lúc: 22:10 - 07/11/2016

Sáng nay 7-11, Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN đã trọng thể và trang nghiêm diễn ra tại hội trường Bảo tàng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội (huyện Sóc Sơn, TP.Hà Nội).

H1.jpg
Đức Pháp chủ - Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ quang lâm - ảnh: Bảo Thiên

Đại lễ cung đón Đức Pháp chủ - Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ cùng chư tôn giáo phẩm Phó pháp chủ HĐCM quang lâm chứng minh.

HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS; chư tôn giáo phẩm Phó Chủ tịch HĐTS cùng chư tôn đức lãnh đạo Phật giáo 63 tỉnh, thành; ông Vũ Đức Đam, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ cùng các vị lãnh đạo nhà nước, nguyên lãnh đạo nhà nước CHXHCN Việt Nam; đại diện các bộ ngành trung ương và TP.Hà Nội đến dự và chúc mừng.

H2.jpg
Cung nghinh chư tôn đức và đại biểu - ảnh: Bảo Thiên

H4.jpg
TT.Thích Huệ Thông dẫn chương trình - ảnh: Lương Hòa

H3.jpg
Nghi thức chào cờ - ảnh: Lương Hòa

Đại lễ bắt đầu bằng nghi thức cung nghinh trang trọng giữa tiếng nhạc hùng hồn, tiếng trống kèn rộn ràng với đoàn rước lễ đầy sắc màu do chư Tăng Ni sinh và các em Phật tử thủ đô phụ trách. Ngay sau đó là phần chào quốc kỳ, đạo kỳ, tưởng niệm các vị tiền bố hữu công, anh hùng liệt sĩ đã cống hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc.

Thay mặt cho Đức Pháp chủ, Hòa thượng Phó Pháp chủ Thích Trí Quảng đã tuyên đọc thông điệp gởi chư tôn túc Tăng Ni, quý Phật tử trong và ngoài nước nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội.

Bức thông điệp nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết, hòa hợp của các thành viên trong ngôi chung Giáo hội suốt 35 năm qua - đã tạo nên những thành tựu Phật sự quan trọng trên các mặt công tác, phục vụ nhân sinh, phát triển đất nước, góp phần kiến tạo hòa bình, an lạc cho nhân loại.

Qua đó, Đức Pháp chủ cũng khẳng định, Giáo hội đã thực sự lớn mạnh, đủ sức tiến hành các Phật sự trọng đại, hòa mình vào dòng chảy và sự phát triển chung của Phật giáo thế giới khi tổ chức thành công nhiều sự kiện Phật giáo tầm quốc tế. Dịp này, Đức Pháp chủ gởi lời tri ân đến các cơ quan nhà nước, bạn bè quốc tế và đồng bào các giới trong nước đã đồng hành, giúp sức Giáo hội để hoàn thành Phật sự từ ngày thành lập đến nay.

H7.jpg
HT.Thích Trí Quảng tuyên đọc thông điệp của Đức Pháp chủ - ảnh: Lương Hòa

H5.jpg
Chư tôn giáo phẩm các ban ngành T.Ư dự lễ - ảnh: Lương Hòa

H6.jpg
Lãnh đạo các cấp chính quyền dự lễ - ảnh: Lương Hòa

Tuyên đọc diễn văn Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội, Hòa thượng Chủ tịch HĐTS Thích Thiện Nhơn khái quát lại quá trình hình thành, kiện toàn và điều hành Phật sự của Giáo hội suốt 35 năm qua; đồng thời khẳng định những tinh thần đoàn kết, hòa hợp, đồng hành và phụng sự là những giá trị cao quý của các cấp Giáo hội.

“Những thành tựu của Giáo hội trong 35 năm qua là liên tục, ổn định, rõ nét và qua đó khẳng định với kinh nghiệm sẵn có, tự thân mỗi thành viên của Giáo hội sẽ khắc phục khó khăn, tham gia sâu rộng những việc làm lợi đạo ích đời, tiếp tục đóng góp tích cực vào sự xương minh đạo pháp, hưng thịnh đất nước” - Hòa thượng Chủ tịch HĐTS nhấn mạnh.

H9.jpg
HT.Thích Thiện Nhơn đọc diễn văn đại lễ - ảnh: Lương Hòa

Trong bài diễn văn cũng khẳng định, lịch sử đã cho thấy kể từ thời Đức Phật tại thế cho đến nay, hễ Nhà nước ủng hộ Phật giáo thì Phật giáo hưng thịnh và đất nước cũng hưng thịnh phú cường. Văn hóa dân tộc có sự đóng góp lớn lao của Phật giáo về văn học, triết học, giáo dục, mỹ học, kiến trúc, nghệ thuật…, nhất là duy trì và phát huy truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam có tiếp thu, chọn lọc một số nguồn văn hóa khác.

Trong phút giây trang trọng hướng về mốc lịch sử cách nay 35 năm, Hòa thượng Chủ tịch HĐTS đề nghị toàn thể đại biểu thành kính tưởng nhớ và niệm ân đến chư tôn đức tiền bối lãnh đạo Giáo hội qua các nhiệm kỳ - đã có công lao lớn trong việc xây dựng, củng cố và phát triển Giáo hội từ nhiệm kỳ đầu tiên của Giáo hội và chư vị cố Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Ni trưởng, Ni sư, quý vị cư sĩ trong Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự từ trung ương đến địa phương của Giáo hội qua các nhiệm kỳ.

H10.jpg
TT.Thích Đức Thiện báo cáo kết quả Phật sự 35 năm của Giáo hội - ảnh: Lương Hòa

Thay mặt Ban Thư ký, TT.Thích Đức Thiện, Tổng Thư ký HĐTS đã báo cáo kết quả công tác Phật sự của Phật giáo cả nước từ ngày thành lập đến nay.

Theo đó, khi mới thành lập (tháng 11-1981), nhiệm kỳ đầu là thời kỳ xây dựng, Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm 2 hội đồng: Hội đồng Chứng minh 50 thành viên, Hội đồng Trị sự 49 thành viên, có 6 ban ngành trung ương và 28 Ban Trị sự tỉnh, thành hội Phật giáo hoạt động.

Từ nhiệm kỳ II đến nhiệm kỳ IV là thời kỳ ổn định và xây dựng, nhiệm kỳ V và nhiệm kỳ VI là thời kỳ củng cố và phát triển.

Trải qua 35 năm, nhiệm kỳ VII là nhiệm kỳ kế thừa, ổn định và phát triển bền vững, kiện toàn và đổi mới tổ chức.

H13.jpg
Hình ảnh chư tôn đức và đại biểu nhìn từ trên cao - ảnh: Lương Hòa

“Hiện nay tổ chức GHPGVN có 89 thành viên HĐCM, 199 Ủy viên Hội đồng Trị sự và 66 Ủy viên dự khuyết. Hệ thống tổ chức Giáo hội gồm 13 ban, viện trung ương hoạt động chuyên ngành; thống nhất từ trung ương đến các địa phương khi đã thành lập Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh tại 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Kiện toàn và nâng tầm hệ thống quản lý hành chính Phật giáo cấp quận, huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh; quản lý 8 Hội Phật tử Việt Nam ở nước ngoài theo Hiến chương GHPGVN”, TT.Thích Đức Thiện thông tin.

Báo cáo cũng điểm qua những thành tựu nổi bật của 13 ban ngành hoạt động của Giáo hội gồm: Tăng sự, Giáo dục Tăng Ni, Hướng dẫn Phật tử, Hoằng pháp, Nghi lễ, Văn hoá, Kinh tế - Tài chính, Phật giáo quốc tế, Từ thiện xã hội, Pháp chế, Kiểm soát, Thông tin - Truyền thông, Viện Nghiên cứu Phật học.

Hiện tại, cả nước có 49.493 Tăng Ni tu học tại 17.376 cơ sở tự viện và hàng chục triệu tín đồ Phật tử cùng với hơn 50 triệu những người yêu mến đạo Phật; 4 học viện, 8 lớp cao đẳng và 31 trường trung cấp Phật học; gởi 476 Tăng Ni du học nước ngoài; 890 Tăng Ni giảng sinh tốt nghiệp khóa đào tạo giảng sư; 1.003 đơn vị GĐPT với 8.560 huynh trưởng và 65.650 đoàn sinh; 1.150 đạo tràng tu học dành cho Phật tử tại gia; nhiều ấn phẩm văn hóa và báo chí, thông tin điện tử; 150 Tuệ Tĩnh đường, 655 phòng chẩn trị y học dân tộc, 1 phòng khám đa khoa, thực hiện công tác từ thiện khoảng 7.000 tỷ đồng; Giáo hội là thành viên của nhiều tổ chức Phật giáo quốc tế.

Trong phương hướng thời gian đến, TT.Thích Đức Thiện đã trình bày 11 điểm cần tập trung thực hiện để đưa Giáo hội phát triển trong giai đoạn mới và hội nhập quốc tế.

H11.jpg
Ông Vũ Đức Đam phát biểu - ảnh: Lương Hòa

Đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại buổi lễ - khẳng định - trong quá khứ nhiều nhân vật ghi danh tên tuổi với lịch sử dựng nước và giữ nước xuất thân từ Phật giáo. Nói về sự kiện thành lập và những giá trị đóng góp của Giáo hội sau 35 năm, Phó Thủ tướng cho rằng đó là những đóng góp quan trọng, tạo sự ổn định trong đời sống và làm giàu các nét đẹp văn hóa.

Cuối bài phát biểu, Phó Thủ tướng đề nghị, Giáo hội, chư Tăng Ni, Phật tử cần tăng trưởng Phật chất để tiếp tạo sự trang nghiêm, phát huy các tiềm lực, làm chỗ dự tâm linh vững chắc cho dân tộc.

Dịp này, Giáo hội đã trang trọng đón nhận Huân chương Lao động hạng nhất do Chủ tịch nước trao tặng.

Nhiều lẵng hoa, phần quà do lãnh đạo cấp cao của nhà nước, nguyên lãnh đạo nhà nước, các cơ quan trung ương, TP.Hà Nội, tổ chức, cá nhân gởi đến chúc mừng.

Giáo hội trao tặng 500 triệu đến Quỹ khuyến học Việt Nam do bà Nguyễn Thị Doan, nguyên Phó Chủ tịch nước làm chủ tịch.

H12.jpg
Ông Vũ Đức Đam trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất đến Giáo hội - ảnh: Lương Hòa

H15.jpg
Lãnh đạo UBTƯ MTTQVN tặng hoa chúc mừng - ảnh: Lương Hòa

H16.jpg
Giáo hội tặng 500 triệu đến Quỹ khuyến học Việt Nam - ảnh: Lương Hòa

Buổi lễ khép lại sau phần cảm tạ của Ban Tổ chức do HT.Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS đọc. Chư tôn đức lãnh đạo và quý đại biểu hoan hỷ chụp ảnh lưu niệm nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội.

H17.jpg
HT.Thích Thanh Nhiễu cảm tạ - ảnh: Lương Hòa

H14.jpg
Hình ảnh chư tôn đức và đại biểu nhìn từ trên cao - ảnh: Lương Hòa

H8.jpg
Toàn cảnh đại lễ - ảnh: Lương Hòa

Bảo Thiên

Hội thảo “GHPGVN 35 năm hình thành và phát triển”

Hội thảo “GHPGVN 35 năm hình thành và phát triển”

Đăng lúc: 21:35 - 02/11/2016

Sáng nay, 2-11, tại Học viện PGVN tại TP.HCM (Q.Phú Nhuận, TP.HCM) chính thức khai mạc Hội thảo khoa học “GHPGVN 35 năm hình thành và phát triển” do Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam kết hợp Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, thuộc Đại học Quốc gia TP.HCM tổ chức, đây là một trong các sự kiện hướng đến Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN.

ANHB (10).JPG
HT.Thích Trí Quảng phát biểu khai mạc hội thảo
Hội thảo có sự hiện diện chứng minh, tham dự của chư tôn đức giáo phẩm: HT.TS Thích Trí Quảng, Phó Pháp chủ HĐCM, Viện Trưởng Viện nghiên cứu Phật học VN, Trưởng BTC Hội thảo; cùng chư tôn đức giáo phẩm HĐCM; HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS GHPGVN cùng chư tôn đức Ban Thường trực HĐTS, Viện nghiên cứu PHVN, Hội đồng Điều hành Học viện PGVN tại TP.HCM, đại diện ban, viện T.Ư...

Hội thảo có sự hiện diện của ông Lê Thanh Hải, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy TP.HCM; Trần Tấn Hùng, Phó Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ; Nguyễn Ngọc Phong, Phó Trưởng ban Dân vận Thành ủy TP.HCM; Phó GS.TS Võ Văn Sen, Hiệu trưởng Trường ĐH KHXH & NV TP, đồng Trưởng BTC Hội thảo, cùng các học giả, nhà nghiên cứu.

Phát biểu khai mạc, HT.Thích Trí Quảng nhấn mạnh: “Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại, với chủ trương Phật giáo đồng hành cùng với dân tộc, các Giáo hội Phật giáo của Việt Nam trước đây đã nỗ lực thống nhất Phật giáo 5 lần. Mỗi lần thống nhất Phật giáo, dù ở phạm vi vùng miền hay ở phạm vi quốc gia, đều có chung mục đích hướng đến là thiết lập con đường xây dựng Phật giáo toàn quốc vững mạnh. GHPGVN phát triển toàn diện như ngày hôm nay chính là thành quả tất yếu của tiến trình lịch sử đó”.

Hòa thượng khẳng định, Hội thảo khoa học “GHPGVN 35 năm hình thành và phát triển” thu hút nhiều học giả của Việt Nam gồm các Tăng sĩ Phật giáo và nhân sĩ trí thức, mở ra một triển vọng mới trong việc hợp tác nghiên cứu liên ngành và đa ngành về những vấn đề Phật giáo cũng như mối quan hệ giữa Phật giáo với xã hội ngày nay. Đồng thời tin tưởng, dưới góc độ nghiên cứu liên ngành và các góc tiếp cận khác nhau cùng với sự nhiệt huyết và hiểu biết sâu sắc của các học giả, các vấn đề nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của GHPGVN được sáng tỏ hơn, các giá trị đóng góp tích cực và vô cùng to lớn của GHPGVN sẽ được khẳng định nhiều hơn. Những kết quả nghiên cứu và ý tưởng đạt được qua Hội thảo này sẽ tạo nguồn cảm hứng và tiền đề cho các nghiên cứu chuyên sâu về Phật giáo đồng hành với dân tộc, Phật giáo nhập thế, Phật giáo và trách nhiệm xã hội và nhiều chủ đề mang tính thời sự khác.

ANHB (12).JPG
PGS.TS Võ Văn Sen phát biểu chào mừng

ANHB (14).JPG
Chư tôn đức Tăng Ni tham dự hội thảo
Sau phát biểu chào mừng của PGs.TS Võ Văn Sen, TT.TS Thích Nhật Từ, Tổng Thư ký Viện Nghiên cứu PHVN trình bày đề dẫn hội thảo. Theo đó, Ban Tổ chức hội thảo thu hút 120 bài tham luận của chư tôn đức, học giả, nhà nghiên cứu gởi đến, Ban Tổ chức đã chọn ra 80 bài có nội dung phù hợp với 4 nhóm chủ đề.

Các diễn giả, nhà nghiên cứu tập trung trình bày tham luận, thảo luận tại 4 nhóm diễn đàn: Các phong trào thống nhất Phật giáo và sự hình thành GHPGVN, Các hệ phái trực thuộc và các hoạt động tiêu biểu của GHPGVN, GHPGVN đồng hành cùng dân tộc và phụng sự nhân sinh, GHPGVN từ tinh thần dân tộc đến hội nhập thế giới. Từ góc độ nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại, với nhiều phương pháp nghiên cứu: so sánh, phân tích, chứng minh, chư tôn đức Tăng Ni, các học giả, nhà nghiên cứu khẳng định sự thống nhất các Hệ phái, tổ chức Phật giáo Việt Nam hình thành một tổ chức duy nhất GHPGVN - là một quy luật tất yếu. Mục đích của hội thảo để các học giả, nhà nghiên cứu đánh giá khách quan, độc lập về những đóng góp của GHPGVN trong sứ mệnh tiếp nối truyền thống của Phật giáo Việt Nam hơn 2000 năm lịch sử luôn đồng hành cùng dân tộc với tinh thần “Hộ quốc an dân” và phụng sự nhân sinh.

ANHB (5).JPG
Chư tôn đức chủ tọa đoàn và quý khách

ANHB (13).JPG
Quý khách, học giả, nhà nghiên cứu

Phiên khai mạc, HT.Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS GHPGVN đã trình bày tham luận với đề tài: “Tính ưu việt của công cuộc thống nhất Phật giáo Việt Nam”. Các phiên thảo luận của hội thảo, chư tôn đức, các diễn giả, học giả, nhà nghiên cứu: HT.TS.Thích Gia Quang, HT.TS.Thích Thiện Tâm, HT.Thích Thiện Tánh, HT.TS.Thích Giác Toàn, HT.Thích Thường Quang, TT.TS.Thích Hạnh Bình, TT.TS.Thích Quang Thạnh, TT.TS.Thích Giác Duyên, GS.TS.Ngô Văn Lệ, SC.Ths.TN Đồng Hòa, NS.TN Như Thảo, TS.Nguyễn Quốc Tuấn, PGS.TS Trần Hồng Liên, GS.TS Nguyễn Hồng Dương, TS.Nguyễn Nghị Thanh, PGS.TS Lê Cung, HT.Thích Minh Thiện, TT.Thích Huệ Thông, PGS.TS Nguyễn Công Lý, ĐĐ.TS Nguyên Hạnh, PGS.TS Phan Thị Hồng, PGS.TS Đặng Văn Thắng, PGS.TS Đỗ Thu Hà, NT.Thích nữ Huệ Từ, NS.TS Thích nữ Như Nguyệt, Ths.Đinh Thị Phương… trình bày tham luận, thảo luận tại 4 diễn đàn với các nhóm chủ đề trên.

ANHB (15).JPG
TT.Thích Nhật Từ trình bày đề dẫn hội thảo

ANHB (9).JPG
Toàn cảnh hội thảo khoa học "GHPGVN 35 năm hình thành và phát triển"

ANHB (16).JPG
HT.Thích Thiện Nhơn phát biểu tại hội thảo

Phát biểu tại phiên khai mạc hội thảo, HT.Thích Thiện Nhơn nêu đôi nét về tiến trình thống nhất Phật giáo Việt Nam, sự đóng góp của các hệ phái Phật giáo Việt Nam trong công cuộc thống nhất Phật giáo dẫn đến thành lập GHPGVN. Trong suốt quá trình hình thành, phát triển của mình, GHPGVN luôn gắn liền với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc. Hòa thượng tin tưởng với nhiều phương pháp nghiên cứu, sáng tạo, góc nhìn đa diện, các học giả đánh giá khách quan sự đóng góp to lớn của GHPGVN trong lòng dân tộc.

ANHB (19).JPG
HT.Thích Thanh Nhiễu trình bày tham luận tại phiên khai mạc

ANHB (21).JPG
Chủ tọa diễn đàn "Các phong trào thống nhất PG và sự hình thành GHPGVN"

ANHB (23).JPG
Tại diễn đàn "GHPGVN: Các hệ phái trực thuộc và các hoạt động tiêu biểu"

ANHB (25).JPG
TT.Thích Hạnh Bình tại diễn đàn "Đồng hành cùng dân tộc và phụng sự nhân sinh"

ANHB (22).JPG
Thảo luận tại diễn đàn "Các phong trào thống nhất PG và sự hình thành GHPGVN"

ANHB (1).JPG
Diễn đàn "GHPGVN: Từ tinh thần dân tộc đến hội nhập thế giới"

Các phiên trình bày tham luận, thảo luận, Hội thảo làm sáng rõ các phong trào thống nhất Phật giáo và tiến trình lịch sử dẫn đến sự hình thành GHPGVN, đó là 4 dấu mốc thống nhất Phật giáo quan trọng tại Việt Nam trong thời cận đại: Sự ra đời của “Tổng hội Phật giáo Việt Nam” vào năm 1951, năm 1958, các sơn môn pháp phái ở miền Bắc thành lập “Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam”. Biến cố Phật giáo năm 1963 đã thúc đẩy lãnh đạo Phật giáo ở miền Trung và miền Nam thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) với 13 tổ chức Phật giáo tại miền Trung và miền Nam vào đầu tháng 4 năm 1964.

Đất nước hoàn toàn thống nhất vào 30-4-1975, điều kiện khách quan thuận lợi, lãnh đạo Phật giáo Việt Nam sau vài năm vận động đã thống nhất Phật giáo thành hiện thực. Sự ra đời của GHPGVN vào ngày 7-11-1981 từ 9 hệ phái, tổ chức Phật giáo là sự ra đời tất yếu.

ANH AA (5).JPG
HT.Thích Minh Thiện trình bày tham luận

ANH AA (4).JPG
ĐĐ.TS Thích Nguyên Hạnh với "Dấu ấn Đại tạng kinh Việt Nam"

ANH AA (3).JPG
Ths.Dương Hoàng Lộc trình bày tham luận

Khẳng định mạnh mẽ sự đóng góp của các Hệ phái PG trong ngôi nhà GHPGVN, sự đóng góp này không chỉ với tư cách thành viên sáng lập, mà còn góp phần tạo nên những thành tựu và phát triển nhất định của Phật giáo Việt Nam. Cùng với GHPGVN, tổ chức Phật giáo hợp pháp duy nhất tại Việt Nam, các hệ phái Phật giáo trực thuộc Giáo hội đã hội nhập toàn diện. Các hệ phái trong ngôi nhà GHPGVN đã chứng minh sự phát triển bền vững của mình trong lòng Phật giáo và dân tộc Việt Nam. Ban Tổ chức hội thảo và các nhà nghiên cứu còn nhấn mạnh các đóng góp của GHPGVN về các lĩnh vực: văn hóa, ngoại giao quốc tế và từ thiện xã hội… của 13 Ban, Viện.

Khẳng định truyền thống hộ quốc an dân có từ nghìn đời, chủ trương nhập thế của Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng, theo khuynh hướng đồng hành cùng dân tộc. Đó là sự đồng hành của Phật giáo Việt Nam trong khối đoàn kết dân tộc, đã có những đóng góp to lớn về văn hóa và xã hội của đất nước.

ANH AA (6).JPG
NNC.Trần Đình Sơn đóng góp thảo luận

ANH AA (7).JPG
PGS.TS Lê Cung thảo luận

Hội thảo cũng đề cập đến những thuận lợi và thách thức của tiến trình hội nhập thế giới mà GHPGVN đã, đang và tiếp tục thực hiện từ nền tảng của tinh thần dân tộc.Tính ưu việt của GHPGVN trong việc đề cao tinh thần dân tộc, phục vụ dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã dựa vào “bản sắc dân tộc” để hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu, nhằm tạo nên hình ảnh đất nước con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, khép lại quá khứ, xóa bỏ hận thù, vượt qua dị biệt, hài hòa hợp tác vì lợi ích chung của các dân tộc.

ANH AA (10).JPG
HT.Thích Giác Toàn chia sẻ kỷ niệm về thời kỳ thành lập GHPGVN cùng chư tôn đức

ANH AA (13).JPG
HT.Thích Thiện Tâm chia sẻ kỷ niệm

Tại phiên bế mạc, HT.Thích Giác Toàn, HT.Thích Thiện Tâm, đồng Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN với tư cách là chứng nhân lịch sử đã chia sẻ những kỷ niệm với chư tôn giáo phẩm trong các hệ phái Phật giáo Việt Nam và Hội nghị thống nhất Phật giáo thành lập GHPGVN (4 đến 7-11-1981).

PGS.TS Võ Văn Sen nhận xét, hội thảo không những khẳng định thành tựu, đóng góp to lớn của GHPGVN xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc mà còn khẳng định lớn lao hơn, đó là GHPGVN là hạt nhân, nền tảng trong nền văn minh mới, văn minh thời đại hội nhập.

ANH AA (15).JPG
TS.Nguyễn Quốc Tuấn nhận xét hội thảo

ANH AA (9).JPG
Phiên bế mạc

TS.Nguyễn Quốc Tuấn, Viện Trưởng Viện nghiên cứu Tôn giáo VN nhận định, hội thảo thu được kết quả tốt đẹp - đề cập toàn diện sự phát triển 35 năm của GHPGVN. Hội thảo không chỉ khẳng định được thành tựu của GHPGVN mà còn nghiêm túc đặt ra nhiều vấn đề, làm thế nào để GHPGVN là một thực thể, thiết chế hùng mạnh, hóa giải nhiều thách thức, xây dựng, kiện toàn hệ thống Giáo hội phát triển mạnh mẽ, uyển chuyển, đáp ứng trước đòi hỏi mới của xã hội hội nhập.

ANH AA (16).JPG
HT.Thích Trí Quảng phát biểu đúc kết hội thảo

Trong lời phát biểu đúc kết hội thảo, HT.Thích Trí Quảng đã cảm ơn sự đóng góp tích cực của chư tôn đức, học giả, nhà nghiên cứu, thiện tri thức, đặc biệt Trường ĐH KHXH & NV TP góp phần cho thành công của hội thảo.

Hòa thượng nêu lại những bài học kinh nghiệm thăng trầm trong việc thống nhất Phật giáo trong nước và quốc tế, khát vọng thống nhất Phật giáo Việt Nam từ 5 lần thống nhất. GHPGVN có thế đứng trong lòng dân tộc với sự đóng góp cho xã hội… đó là sự hy sinh, cống hiến công đức to lớn của chư tôn tiền bối cho đạo pháp và dân tộc.

ANH AA (14).JPG
PGS.TS Võ Văn Sen

ANH AA (12).JPG

ANH AA (11).JPG
Chư tôn đức Tăng Ni tham gia phiên bế mạc hội thảo

H.Diệu - Ảnh: Bảo Toàn

Phái đoàn TV. Tường Vân thăm tặng quà cho đồng bào lũ lụt tại Nghệ An.

Phái đoàn TV. Tường Vân thăm tặng quà cho đồng bào lũ lụt tại Nghệ An.

Đăng lúc: 21:29 - 02/11/2016

Hôm ngày 31/10/2016 đoàn từ thiện, cứu trợ đồng bào lũ lụt tỉnh miền Trung, Từ tu viện Tường Vân đã đến thăm hỏi và tặng quà cho đồng bào bị thiệt hại do lũ lụt vừa qua, đoàn đã đi từ Quảng Bình và từ thiện tại tỉnh Hà Tĩnh. Hôm nay đã có mặt tại chùa Phúc Thành, Chùa Long Hoa huyện Hưng Châu, Hưng Nguyên, Nghệ An và Chùa Chí Linh - Quỳnh Lưu , Nghệ An. Hòa Thượng Thích Phước Tiến - trưởng đoàn từ thiện và các nhà hảo tâm cùng các Phật tử tại Chùa Tường Vân. Với tinh thần chia sẻ, và động viên bà con vượt qua những khó khăn để ổn định cuộc sống hằng ngày .


Tiếp đoàn có Đại Đức Thích Định Tuệ : trụ trì Chùa Phúc Thành, Chùa Đức Hậu đã thay mặt các Phật Tử và bà con vùng lũ lụt cảm ơn sâu sắc tới Hòa Thượng Thích Phước Tiến và phái đoàn đã đến thăm và tặng quà cho các Phật Tử và bà con bị lũ lụt tại Nghệ An. Và kính chúc Hòa Thượng cùng phái đoàn lời chúc sức khỏe, và lời cám ơn sâu sắc nhất.
Phái đoàn đã tặng cho xã Hưng Châu tại Chùa phúc Thành 500 suất quà,Chùa Long Hoa 200 suất quà, Chùa Chí Linh 400 suất quà, , mỗi suất trị giá 600.000đ.









Tại Chùa Long Hoa , các Phật Tử và người dân nơi đây được gặp lại Hòa Thượng Thích Phước Tiến. Tu Viện Tường Vân đã chia sẻ những hoàn cảnh khó khăn về chén cơm manh áo của đồng bào trong lúc bị lũ lụt vừa qua và ban bố một thời Pháp nhằm khơi dậy lòng từ bi, nhân ái, nhân văn của người dân Việt Nam với câu ca dao: " Nhiễu điều phủ lấy giá gương - Người trong một nước phải thương nhau cùng " . Hòa Thượng đã nhấn mạnh về tinh thần yêu thương, đùm bọc, gắn bó ,chia sẻ trên toàn thể đồng bào cả nước.
Lãnh đạo chính quyền huyện Hưng Châu, đã thay mặt người dân tỉnh Nghệ An, cảm ơn Hòa Thượng và Phái đoàn đã chia se những lúc khó khăn, dộng viên kịp thời về tinh thàn lẫn vật chất , nhằm ổn định cuộc sống của người dân sau lũ lụt .

Sau đây là một số hình ảnh;
































Tác giả bài viết: Hồng NGa

Mong muốn chính đáng

Mong muốn chính đáng

Đăng lúc: 21:10 - 12/10/2016

Người học Phật ai cũng biết, để thăng hoa tiến đạo thì phải thiểu dục, muốn ít. Vì ham muốn là cội nguồn của mọi khổ đau. Nhưng trong đường đạo bước đầu cũng cần thiết lập những mong muốn chính đáng. Dục định trong giáo lý Tứ như ý túc là một điển hình. Đó là lòng mong muốn, là nhiệt tình, là khát khao loại bỏ mọi thứ ngăn che thiền định, loại bỏ mọi lòng dục về các trần để đi vào thiền định.


Mong muốn chính đáng
Ở pháp thoại dưới đây Thế Tôn cũng răn dạy “Tỳ-kheo của Ta cũng nghĩ đến năm việc đáng muốn. Thế nào là năm? Nghĩa là: Cấm giới, đa văn, thành tựu tam-muội, trí tuệ, trí tuệ giải thoát. Đó là Tỳ-kheo có năm việc đáng mong muốn này”. Mong muốn chính đáng chính là hoài bão, sự phát thệ hướng đến điều thiện, un đúc chí nguyện tu tập để vượt qua mọi chướng ngại nhằm chứng đạt Thánh quả.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Đàn bà có năm dục tưởng. Thế nào là năm? Sanh nhà hào quý, được gả cho nhà phú quý, chồng sẽ làm theo lời, có nhiều con cái, ở nhà tất cả do một mình mình.

Đó là, này các Tỳ-kheo! Đàn bà có tư tưởng về năm việc đáng muốn này. Như thế, này Tỳ-kheo! Tỳ-kheo của Ta cũng nghĩ đến năm việc đáng muốn. Thế nào là năm? Nghĩa là: Cấm giới, đa văn, thành tựu tam-muội, trí tuệ, trí tuệ giải thoát. Đó là Tỳ-kheo có năm việc đáng mong muốn này.

Thế Tôn liền nói kệ: “Ta sanh dòng hào tộc/ Cũng về nhà phú quý/ Hay sai khiến ông chồng/ Chẳng phước, không đạt được. Khiến ta nhiều con cái/ Hương hoa tự trang sức/ Tuy có tưởng niệm này/ Không phước khó thu được. Tín, giới mà thành tựu/ Tam-muội không di động/ Trí tuệ cũng thành tựu/ Giải đãi thì chẳng được. Muốn được thành đạo quả/ Chẳng dạo vực sanh tử/ Mong muốn đến Niết-bàn/ Giải đãi thì chẳng được”.

Như thế, các Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện thực hành pháp lành, trừ bỏ pháp bất thiện, dần dần tiến tới, không có tâm hối hận giữa chừng. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 35.Tà tư,

VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.363)

Trong nỗ lực loại trừ những ham muốn của thế thường, Tỳ-kheo vẫn luôn mong muốn được thành tựu Thánh giới. Người có giới thì luôn an ổn. Giới là nền tảng của định và tuệ. Sống trọn vẹn với Thánh giới là một phúc phần, là mong muốn chính đáng.

Kế đến là mong muốn đa văn. Đa văn không đơn thuần chỉ là nghe nhiều mà chính là thấu triệt giáo pháp, thông cả pháp học lẫn pháp hành. Người học Phật luôn mong muốn hiểu để tin và thực hành đúng Chánh pháp.

Thành tựu Thánh giới và tin hiểu Chánh pháp tức là “con đã có đường đi” rồi. Thực hành Pháp để thành tựu tam-muội, tức chánh định là một việc vô cùng khó khăn. Các chướng ngại tâm rất nhiều nên mong muốn loại bỏ ngăn che, trở ngại để thành tựu thiền định thật chính đáng.

Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ. Định tuệ vốn tương tức, hỗ tương và làm nên nhau. Trí tuệ có nhiều cấp độ, ở đây là thấy rõ và tin sâu về nhân quả, về bốn sự thật, về duyên khởi… Tuệ này do tư duy, quán chiếu mà thành tựu.

Trí tuệ giải thoát chính là liễu tri, phá tan màn vô minh, diệt tận mọi tham ái và chấp thủ. Bậc Thánh A-la-hán trở lên mới có trí tuệ giải thoát này. Thành tựu trí tuệ giải thoát là đã sang bờ kia.

Đặc biệt là, để những mong muốn chính đáng ấy được thành tựu, hành giả phải nỗ lực, tinh cần. Thế Tôn đã nhấn mạnh “Giải đãi thì chẳng được”. Nên tinh tấn, chuyên cần thực hành Pháp một cách bền bỉ là yếu tố quan trọng để thành tựu phạm hạnh, giải thoát.

Quảng Tánh

Hãy chạm tới giá trị của từng trái tim

Hãy chạm tới giá trị của từng trái tim

Đăng lúc: 21:55 - 10/10/2016

Đầu tuần qua, ngày 26-9, rapper, nhà thơ, nhà sản xuất phim kiêm nghệ sĩ hùng biện nổi tiếng người Mỹ Prince Ea đã đăng trên tài khoản Facebook của mình đoạn video clip dài 5 phút về một phiên tòa giả định, trong đó “bị cáo” là hệ thống giáo dục hiện đại. Video clip “I just sued the school system!” - (Tôi kiện hệ thống giáo dục!) ngay lập tức thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng trên toàn thế giới, chỉ sau 24 giờ đã có 7 triệu lượt xem; đến nay con số đó gần chạm ngưỡng 16 triệu với khoảng 200.000 lượt thích, 40.000 bình luận.
Prince Ea buộc tội sự lỗi thời của hệ thống giáo dục, cho rằng học sinh đang bị ép vào khuôn mẫu, bị đánh giá không đúng về khả năng. Ông so sánh hệ thống giáo dục với sự phát triển của xe hơi, điện thoại trong 150 năm qua và kết luận: “Lớp học ngày nay không khác gì 150 năm trước, hệ thống giáo dục đang tạo ra những con robot thay vì kích thích sự sáng tạo”. Ông nhấn mạnh: “Nếu bác sĩ phát thuốc giống hệt nhau cho mọi bệnh nhân, thì sẽ thật thảm kịch, rất nhiều người sẽ bệnh nặng”.

Quả thực, việc giáo dục hướng đến cá nhân nghe như một giấc mơ; song giấc mơ đó, những đất nước như Phần Lan, Singapore ngày nay đã làm được.

Prince Ea nhận thấy hệ thống giáo dục “không mấy thay đổi trong suốt 150 năm qua”. Nhưng nếu trông xa hơn nữa, hơn 2.500 năm về trước, có lẽ ông đã nghĩ khác: giáo dục hiện đại đã không học được những cái hay của tiền nhân, bằng cách “chạm tới giá trị của từng trái tim trong từng lớp học”, như những thánh nhân Ấn Độ cổ đại đã từng làm.

Trở lại Ấn Độ thời Đức Phật, nền giáo dục hướng đến từng cá nhân theo kiểu Upanisad - đến gần và ngồi xuống bên thầy. Xem lại kinh văn, chúng ta thấy cách dạy hướng đến từng cá nhân thời ấy rất thịnh hành, có thể phát huy hết khả năng tiềm ẩn của học trò, không cứng nhắc, khuôn mẫu theo kiểu “bắt cá leo cây”. Trong Jataka - kinh Tiểu bộ, chúng ta thường thấy hình ảnh Bồ-tát (tiền thân Đức Phật) được giáo dục theo cách này và luôn đạt được những kết quả tốt đẹp.

Bản thân Đức Phật cũng luôn hướng đến lối giáo dục thích hợp với căn cơ của mỗi người. Ngài ví chúng sanh cũng như hoa sen, có hoa còn ngập trong bùn, có hoa tuy đã ngoi lên khỏi bùn nhưng vẫn còn trong nước, có hoa vươn lên khỏi bùn khỏi nước và tỏa hương ngạt ngào. Pháp của Ngài do đó trở thành phương tiện thích hợp với mỗi người. Người thích dịu ngọt, người ưa cứng rắn, người mê bay bổng, kẻ chịu giản đơn… trong phương tiện của Ngài đều có đủ. Đặc biệt, Đức Phật không chỉ đợi học trò đến ngồi gần bên cạnh để được nghe giảng mà Ngài còn chủ động đến tìm học trò khi biết chắc rằng người học trò đó có khả năng hiểu và sáng tỏ, thực chứng những lời Ngài dạy. Khi trong giảng đường, lúc dưới bóng cây, lắm khi ngay cả bên vệ đường, Đức Phật đều có thể thuyết pháp. Lối giáo dục của Ngài hết sức linh động, sinh động và hiệu quả, luôn “chạm tới giá trị của từng trái tim”.

Hệ thống giáo dục hiện đại quả thực “lỗi thời” - như cách nói của Prince Ea. Trong khi đó, lối giáo dục của Đức Phật tuy “cổ” nhưng không “lỗi”, như một trong năm đặc tính giáo pháp của Ngài - siêu việt thời gian - nên ngày nay chúng ta cần phải học tâp.

Tuy nhiên, Đức Phật không dạy cho học trò trở thành học giả, nhồi nhét cho họ đầy ắp kiến thức; Ngài luôn hướng học trò đến sự thực hành, thực chứng - học đi đôi với hành. Đó là điều mà hệ thống giáo dục ngày nay, nhất là ở nước ta - kể cả Phật giáo - ít nhiều đánh mất…

Quảng Kiến

Nói sự thực thì không sợ hãi

Nói sự thực thì không sợ hãi

Đăng lúc: 19:05 - 27/09/2016

Khi chúng ta có tri kiến/nhận thức một cách thấu suốt về lẽ không thực của tự ngã, chúng ta có thể vượt qua được những khổ đau (không thực) tác động (một cách không thực) lên thân tâm chúng ta. Nhưng thực trạng khổ đau của con người, của chúng sinh vẫn tiếp diễn trong nhận thức điên đảo mộng tưởng của họ. Vận dụng cái thấy như thực về tự ngã (trí) để dấy khởi lòng thương (bi) đối với thế giới chúng sinh, là con đường của kẻ giác ngộ (Bồ-tát).
Từ năm 2001, đầu thế kỷ 21, ngôn ngữ truyền thông bắt đầu nhắc đến nhiều từ ngữ “khủng bố”, “chủ nghĩa khủng bố” (terror/terrorism). Đây không phải là từ ngữ mới, nhưng nó được nhấn mạnh và sử dụng nhiều sau sự kiện 11/9/2001, với tòa tháp đôi ở New York sụp đổ hoàn toàn do những chiếc phi cơ bị những kẻ khủng bố Al-Qaeda dùng bạo lực cưỡng chế phi hành đoàn, điều hướng đâm vào.

Trước đó 6 tháng, vào ngày 10 tháng 3 năm 2001, lực lượng Taliban ở A-phú-hãn (Afghanistan) đã cho nổ bom làm sụp đổ hai tượng Phật khổng lồ khắc trong núi đá, có niên đại hơn 1500 năm. Hành động phá hủy tượng Phật lúc đó dù là hành vi bạo động nhưng không bị xem như là khủng bố, mà là hành động hủy diệt văn hóa nhân loại nghiêm trọng (theo sự lên án của Tổ chức Văn hóa – Khoa học và Giáo dục LHQ - UNESCO).

Vậy, có thể hiểu “khủng bố” là lời nói hay hành vi đe dọa trực tiếp đến mạng sống và đời sống của con người; nhẹ thì từ những cá nhân với mục đích trục lợi, tống tiền; nặng thì từ các tổ chức tôn giáo, chính trị để nêu cao lý tưởng của họ, hoặc từ các nhà cầm quyền nhằm ngăn chặn tiếng nói đối lập để giữ vững chế độ.


Từ “khủng bố” cũng được nghe quen từ bản Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh do Pháp sư Trần Huyền Trang (Đường Tam Tạng) dịch từ Prajñā Pāramitā Sūtra vào năm 649, sau được cô đọng lại thành bản Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh 260 chữ. Trong kinh văn nầy, chữ “khủng” và “bố” đều mang nghĩa đơn giản là (bị) sợ hãi, đe dọa; mà để không bị sợ hãi, đe dọa, tâm phải tịch lặng, an nhiên, không bị vướng mắc, trở ngại (tâm vô quái ngại). Tâm không bị vướng mắc, ngăn ngại là tâm vô trụ (ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm); tâm vô trụ là tâm không có tự ngã, là tâm bản nhiên, tâm bất sanh. Chỉ với cái tâm như thế, mới không còn sợ hãi.

Trong hoàn cảnh mà nhan nhản chung quanh chỉ toàn là những lời hư dối, người ta sợ phải nói những điều trung thực; nói ra có thể bị bắt bớ, đánh đập, tù đày; nói ra có thể bị mất việc, mất chức, mất địa vị, mất danh tiếng, mất cả tài chánh để nuôi thân và gia đình, mất cả cơ sở sinh hoạt (chùa chiền, nhà thờ…). Cá nhân đã không dám nói lời trung thực, mà ngay cả tổ chức mà cá nhân đó tham dự cũng không dám bày tỏ điều gì khác với những hư dối chung quanh. Nghĩa là từ cá nhân đến tập thể, từ những tổ chức nhỏ đến những tổ chức lớn quy tụ hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn thành viên, có mặt với sứ mệnh văn hóa, giáo dục, phục vụ lợi ích số đông… mà trong một xã hội đạo đức băng hoại, tụt dốc, và trong nguy cơ mất nước, mất chủ quyền, cũng không thể mạnh dạn nói lên một lời trung thực.

Điều gì đã làm chúng ta sợ hãi không dám lên tiếng bảo vệ sự thực, không dám bày tỏ thẳng thắn mối ưu tư của mình về tình trạng môi sinh đang bị hủy hoại, không dám đưa ra quan điểm của mình về hiểm họa lãnh thổ và biển đảo bị xâm lấn?

Chỉ vì bảo vệ tự ngã của mình mà thôi.

Sợ hãi là phản ứng của một người trước một sự kiện hay ấn tượng mà họ đã trải nghiệm, hoặc tiên đoán (nhờ rút tỉa từ kinh nghiệm), sẽ gây thiệt hại đến nhân thân (sức khoẻ, sinh mệnh) hoặc tổn thương, suy giảm đến những gì mình sở hữu (danh dự, tài sản, sự nghiệp…).

Phản ứng này là do chấp vào một cái tôi (ngã chấp) ngay từ khi mới chào đời, rồi được bồi đắp và làm cho kiên cố, sâu nặng thêm theo thời gian với những gì được tạo dựng, sở hữu (ngã sở).

Cái tôi càng lớn, sợ hãi càng sâu.

Cái sợ nầy đến từ bên trong. Những đe dọa, khủng bố từ kẻ khác chỉ là phụ thuộc.

Đập vỡ cái vỏ của tự ngã thì không còn sợ hãi, âu lo; không ai có thể đe dọa, khủng bố chúng ta được nữa.

Nhưng để làm được điều nầy, phải thấy được cả thân và tâm đều là ảo ảnh, không thực. Thân nầy không thực, tâm nầy (cảm giác, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức) cũng không thực.

Thân và tâm nầy không thực thì cả thế gian nầy cũng không thực.

(Đã không thực thì có cần phải lên tiếng về một sự thực, về nỗi thống khổ của số đông hay không?)

Bản chất của tự ngã, của thế gian chỉ là ảo ảnh, chỉ là giấc mộng huyễn hóa. Nhưng tác động nhân duyên của tự ngã và thế giới chúng sinh là có thực. Thống khổ của nhân sinh là có thực.

Khi chúng ta có tri kiến/nhận thức một cách thấu suốt về lẽ không thực của tự ngã, chúng ta có thể vượt qua được những khổ đau (không thực) tác động (một cách không thực) lên thân tâm chúng ta. Nhưng thực trạng khổ đau của con người, của chúng sinh vẫn tiếp diễn trong nhận thức điên đảo mộng tưởng của họ. Vận dụng cái thấy như thực về tự ngã (trí) để dấy khởi lòng thương (bi) đối với thế giới chúng sinh, là con đường của kẻ giác ngộ (Bồ-tát).

Khi kẻ lữ hành cô độc thong dong bước ngang những lầu đài tráng lệ và những xó xỉnh sình lầy bẩn nhơ, nhân sinh vẫn cất lên tiếng than khóc về nỗi trầm thống bất tận của họ.

Một lời nói để đắp thêm tiếng thơm hay lợi lạc cho tự thân: không cần thiết; nhưng bày tỏ trung thực về thực trạng khổ đau của kiếp người: rất nên.

California, ngày 24 tháng 9 năm 2016

Cư sĩ Vĩnh Hảo

Nghiệp và tái sinh

Nghiệp và tái sinh

Đăng lúc: 19:01 - 27/09/2016

Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên phần đông thường không màng chi đến điều đó, mà thản nhiên nói về nghiệp “của tôi”, sự tái sinh “của tôi”. Nhất là sự tái sinh “của tôi”, thật vô cùng kỳ quặc. Họ muốn nói về kiếp trước hay kiếp tương lai? Bạn có nghĩ nó sẽ lại là “tôi” nữa không?

Thật ra, ta không có nhiều lựa chọn khi sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, tuy nhiên điều nói ra cũng phát xuất từ quá trình tư duy của ta.

Người ta thường hỏi, nếu không phải là “tôi” thì cái gì đã tái sinh? Nghiệp như những hệ quả còn sót lại trong tâm thức tái sinh đã được sinh trở lại, nhưng chắc chắn là nó không có dáng hình hay hành động giống như người mà ta biết, không cùng tên, có thể không cùng giới tính, có thể không phải là người. Nó không có liên hệ gì khác hơn là nghiệp. Vì ta có thể thấy rõ ràng rằng con người tái sinh chỉ kết nối với kiếp sống trước qua nghiệp trong thức tái sinh, ta cũng có thể thấy rõ ràng như thế rằng nghiệp là vô ngã, không có danh tánh. Khi ta nói về nghiệp “của tôi”, đó thực sự là một chu trình không có tự tánh. Nghiệp không phải là tội và hình phạt, dầu nó có vẻ là như thế, và là quan niệm được nhận định rộng rãi. Nhiều quan điểm mà chúng ta bám chặt vào đã ăn sâu vào tâm thức đến nỗi rất khó để ta chấp nhận điều gì quá khác biệt.

Thực sự ra nghiệp chỉ có nghĩa là hành động. Vào thời Đức Phật còn tại thế, ở Ấn Độ người ta đã hiểu như thế. Để thức tỉnh người nghe về nghiệp thực sự là gì, Đức Phật đã nói: “Nghiệp, này các Tỳ-kheo, Ta bảo là sự chủ tâm”. Đầu tiên nghiệp phát khởi trong tâm, rồi chuyển ra thành lời, thành hành động. Đức Phật đã cho nghiệp một định nghĩa mới, vì nó thường bị hiểu lầm, bị coi đó là tiền định.

Có nhiều vị thầy vào thời Đức Phật cũng đã dạy như thế, nhưng Đức Phật bác bỏ điều này, xem đó là tà kiến, là quan điểm sai lầm, dễ đưa đến các quả bất thiện. Tuy nhiên, quan điểm xem nghiệp như là tiền định vẫn còn phổ biến vào thời này cũng như ở thời Đức Phật còn tại thế. Nó thường được phát biểu như sau: “Đó là nghiệp của tôi. Tôi không thể làm được gì”. Đó là niềm tin dại khờ nhất mà ta có thể chấp vào, vì ta đã đặt trọng trách của việc chủ tâm vào điều mơ hồ nào đó mà ta cũng chẳng rõ. Nói cách khác, ta không muốn chịu trách nhiệm cho hành động của chính mình, là điều sai lầm thường xảy ra.

Khó gặp được người có trách nhiệm hơn là vô trách nhiệm. Phần đông nếu không thành công trong cuộc đời, họ không muốn chịu trách nhiệm cho việc đó. Từ sự bất hạnh của mình, họ đã nảy sinh ý nghĩ về một số phận đã được định sẵn. “Tôi có thể làm gì được chứ? Đâu phải lỗi tại tôi, là do nghiệp của tôi mà ra”. Vậy những gì công phu tu tập có thể mang đến đều vô nghĩa? Đức Phật đã nói: “Nếu đúng là như thế, thì đâu cần sống có giới hạnh, cũng không cần phải được giác ngộ”. Đó là tà kiến mà ta trước hết phải nhanh chóng gạt bỏ ra khỏi sự suy nghĩ của mình, nếu ta muốn trau dồi đời sống tâm linh.

Nghiệp là chủ tâm, và sự chủ tâm là ở hiện tại, có nghĩa là nghiệp đang được tạo ra ngay bây giờ, trong từng giây phút tỉnh thức của ta. Tuy nhiên khi hai người thực hiện cùng một hành động, quả của hành động của họ có thể không giống nhau. Đây là điều Đức Phật đã nhấn mạnh. Vì nghiệp không thuộc tự ngã, nên nó chỉ tùy thuộc vào dòng chảy của các sự kiện, và chính chúng tự tạo ra quả nghiệp. Đó là vấn đề của nhân và quả. Tất cả chỉ có vậy, do đó đôi khi giáo lý của Đức Phật được gọi là giáo lý về nhân quả.

Đôi khi ta biết những người rất hiền từ, đến một con ruồi họ cũng không nỡ làm hại, vậy mà họ toàn gặp những bất hạnh. Trong khi có những người rất khó thương, nhưng mọi điều may mắn đều xảy ra cho họ. Sao lại có thể như thế? Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào sự tích lũy các nghiệp tốt hay xấu, giờ chúng trổ quả trong tâm tục sinh của họ. Đức Phật đã đưa ra một ẩn dụ như sau: “Nếu ta bỏ một muỗng muối vào ly nước, thì ly nước đó không còn uống được nữa. Nhưng nếu ta bỏ muỗng muối đó xuống sông Hằng thì nước sông chẳng có gì thay đổi”. Do đó nếu ta tạo nhiều nghiệp xấu mà chỉ có một ly nghiệp tốt; kết quả sẽ thảm hại biết bao. Nhưng nếu ta có cả sông nghiệp tốt để hỗ trợ bản thân, thì quả xấu sẽ chẳng lớn lao gì. Vì thế ta không thể so sánh nghiệp quả của con người với nhau vì ta không biết về quá khứ của họ.

Tâm thức tích lũy, tương tục mà ta mang theo từ kiếp này sang kiếp khác chắc chắn có ảnh hưởng đến kiếp sống này, nhất là nơi chốn ta sinh ra, trong hoàn cảnh nào, trong gia đình nào. Đức Phật đã cho ta một ẩn dụ như sau: “Nếu có một đàn bò bị nhốt trong chuồng, khi cửa chuồng mở ra, con mạnh nhất sẽ ra trước. Nếu không có con bò nào như thế, thì con đầu đàn sẽ ra trước; nếu không có con nào như thế thì con gần cửa nhất sẽ ra trước. Nếu không có con nào như thế, thì tất cả sẽ cố chen ra cửa cùng một lúc”. Ẩn dụ này mô tả những giây phút cuối của tâm thức trước khi chết. Vì cái chết có thể xảy ra cho bất cứ ai không kể tuổi tác, cho nên việc chuẩn bị cho cái chết ngay bây giờ là một điều khôn ngoan.

Ý nghĩ sau cùng lúc hấp hối sẽ ảnh hưởng đến thức tái sinh để đưa ta đến nơi ta sẽ tái sinh. Ta có thể so sánh điều đó với việc trước khi đi ngủ, ta nghĩ là sẽ thức dậy lúc bốn giờ sáng hôm sau. Phần đông chúng ta có thể dễ dàng thức đúng như thế. Và ý nghĩ cuối cùng trước khi ngủ trở thành ý nghĩ đầu tiên khi thức dậy. Khi chết cũng giống như thế, chỉ khác là khi tái sinh ta sẽ có một thân mới, khác với thân hiện tại. Phần đông sẽ tái sinh với thân người, trừ khi nghiệp ác của họ quá lớn, khiến họ không thể trở lại thành người. Dầu ai cũng muốn được tái sinh vào cõi chư thiên, nhưng phần đông có lẽ đều trở lại kiếp người.

Ý nghĩ cuối cùng trước khi chết thường liên quan đến trải nghiệm gì nổi trội nhất trong kiếp sống này. Thí dụ nếu ta giết người thì đó sẽ là một ký ức hằn sâu trong tâm, và có thể là điều ta nhớ đến trước lúc ra đi. Hoặc nếu ta có công đức xây chùa, tu viện thì đó cũng có thể là một ký ức mãnh liệt. Hoặc việc ta luôn biết giữ gìn giới hạnh cũng có thể là ý nghĩ cuối cùng ở giờ phút lâm chung. Tóm lại, bất cứ điều gì mãnh liệt nhất trong tâm thì điều đó dễ phát khởi lên nhất. Nếu không thì những gì ta thường nghĩ đến sẽ xảy ra. Thí dụ nếu ta thường bực bội, sân si, thì điều đó sẽ hiện ra trong tâm. Trái lại, nếu ta có lòng thương yêu, từ bi, hay giúp đỡ người khác thì những ý nghĩ đó sẽ xuất hiện.

Nếu không có thói quen suy nghĩ gì đặc biệt, thì điều gì xảy đến ở các cửa giác quan vào lúc lâm chung sẽ lãnh phần ưu tiên. Giác quan cuối cùng ra đi là thính giác. Do đó, phần đông các tôn giáo đều có những bài kinh tụng, hát tụng do các vị sư hay các tu sĩ thực hiện để giúp người sắp ra đi có những ý nghĩ cuối cùng hướng thiện. Nếu các tâm hành trước phút lâm chung thiện lành thì sự tái sinh sẽ được tốt đẹp. Điều đó không có nghĩa là các nghiệp quả khác sẽ biến mất. Nó chỉ có nghĩa là những gì bộc phát ở giờ phút lâm chung sẽ có một số ảnh hưởng đến sự tái sinh của ta. Do đó những tư tưởng cuối cùng trước khi lâm chung vô cùng quan trọng.

Nếu bạn là người rất rộng lượng, đó có thể là ý nghĩ cuối cùng của bạn. Do đó, việc nhắc nhở cho người sắp ra đi về những điều thiện lành họ đã làm trước đây được coi là vô cùng ích lợi. Thí dụ như sự rộng rãi của họ; việc họ đã nuôi dạy con cái thành đạt; lòng tử tế, vân vân, vì người thế tục thường hay có những ăn năn, hối tiếc trước lúc ra đi. Chỉ mới gần đây người ta mới nhận thức rằng chết cũng là một phần quan trọng trong cuộc sống, dầu người Tây phương không tin vào tái sinh. Ai cũng quá sốt sắng, quan tâm đến sự có mặt của em bé mới sinh, vì em bé đó sẽ ở bên họ một thời gian dài và sẽ là một thành viên quan trọng trong gia đình. Nhưng ít ai để ý đến giây phút cận tử, vì theo họ, khi người chết rồi thì xong, chấm dứt. Giờ người ta hiểu rằng đó không phải là cách đối xử tốt đẹp đối với người ra đi. Hiện nay ở Tây phương cũng có nhiều bệnh viện dành cho những người bị bệnh chờ chết hay người sắp chết. Ở đó người ta chú tâm nhiều đến các trạng thái tâm, để làm giảm bớt hay diệt trừ sự sợ hãi, lo âu trước cái chết. Rất ít người ở Tây phương tin vào tái sinh, dẫu thế, chết cũng được coi là việc rất quan trọng.

Một yếu tố nữa cũng làm ảnh hưởng đến kinh nghiệm cận tử của chúng ta. Đó là hiện nay chúng ta khá tiến bộ về kỹ thuật, nên trong một số trường hợp, người đã chết lâm sàng, có thể hồi sinh nhờ vào các phương tiện tối tân trong các bệnh viện ở phương Tây. Có người đã nói với các bác sĩ về sự trải nghiệm “cái chết” của họ. Một số bác sĩ, nhất là bác sĩ Moody1, đã viết về các hiện tượng này. Nét nổi bật của các câu chuyện kể, là các khía cạnh quan trọng gần như giống hệt nhau. Thêm một ghi nhận về trạng thái vô ngã (anatta). Tất cả, không ngoại trừ ai, đều rất tự tại với “cái chết” của mình, và hầu như không muốn trở lại trần thế. Có người tỉnh lại tỏ thái độ giận dữ với bác sĩ vì đã sử dụng phương tiện tân tiến trong việc thiết lập lại dòng sinh tục cho họ.

Tất cả các trải nghiệm đều liên quan đến một luồng ánh sáng rực rỡ, chứa đựng tâm hoàn toàn tỉnh thức, nhưng thiếu thân. Mọi người đều có thể thấy chính thân họ đang ở trên giường bệnh, rồi tiến tới luồng ánh sáng đó, trong lúc hoàn toàn ý thức đến những gì đang xảy ra, kể cả việc quan sát các bác sĩ đang làm việc. Sau đó họ tự rời khỏi bệnh viện để tiến vào một không gian của hạnh phúc, tĩnh lặng và an lạc. Có người còn nhắc đến những người họ gặp gỡ. Phần đông tả về một người đặc biệt là ‘nguồn sáng’. Trong các câu chuyện kể không có biểu tượng của bất cứ tôn giáo nào nhưng chúng rất giống nhau, một số hoàn toàn trùng lặp. Khi những cuốn sách như thế được nhiều người biết đến thì giây phút cận tử mới được coi là quan trọng.

Trong năm điều mà Đức Phật dạy ta phải quán tưởng hàng ngày là ai cũng phải chết. Đức Phật thuyết về giây phút cận tử là vô cùng quan trọng, do đó ta cần phải suy gẫm về chúng ngay bây giờ, chứ đợi đến khi gần chết thì quá muộn. Những suy nghĩ thiện lành của ta đều liên quan đến các tâm từ, bi, hỷ, xả. Nếu ta khởi phát các tâm này ngay bây giờ, để tạo thành thói quen thì ta có thể mang chúng theo đến tận giờ lâm chung. Như thế, ta không những có thể chắc chắn về một sự tái sinh tốt đẹp, mà chí ít cũng được sự an bình, hạnh phúc ngay trong kiếp sống này. Điều đó giúp ta dễ có điều kiện tu tập trở lại. Nếu ta sinh ra trong một gia đình quá nghèo khó, không đủ ăn, thì khó thể có cơ hội ngồi xuống hành thiền, vì trong gia đình nghèo, ai cũng phải lao động cật lực để kiếm sống. Hoặc nếu ta tái sinh trong một xã hội mà thiền không hiện hữu, thì cũng khó để ta tiếp tục thực hành. Do đó, nếu ta đợi đến lúc già, lúc sắp chết để suy nghĩ đúng đắn, là quá dại khờ. Suy nghĩ đúng đắn bao gồm việc biết tâm hành của mình, qua chánh niệm và chú tâm.

Sự có mặt của ta trên trái đất này rất ngắn ngủi - ngay cả 70 năm cũng không phải là dài lâu - nên ta có thể nghĩ về mình như là một vị khách được mời đến để biểu diễn, lúc nào cũng chờ đợi được cổ vũ. Dĩ nhiên điều đó sẽ khiến cuộc sống thêm khó khăn. Đầu tiên là ta cảm giác sợ sân khấu. Không biết mình có diễn xuất tốt hay không? Có được vỗ tay tán thưởng không? Nếu không, ta sẽ cảm thấy vô cùng thất vọng. Biết mình chỉ là người khách diễn tuồng trên trái đất này là suy nghĩ chân chính, nhưng chờ đợi được vỗ tay tán thưởng là một tà kiến. Nếu ta tự biết mình đã cố gắng với tất cả khả năng, ta không phải đợi ai tán thưởng. Ta luôn có chủ tâm đúng đắn. Đó mới là điều đáng kể nhất, vì sự chủ tâm hướng đến điều thiện liên quan không chỉ đến bản thân mà cả người chung quanh. Bớt quan tâm đến bản thân sẽ giúp ta có thể quan tâm đến người.

Chúng ta không được xao lãng việc học Pháp và thực hành thiền, vì chỉ khi bản thân ta đã tiến bộ đến một mức độ nào đó, ta mới có thể giúp đỡ người khác, nếu không là ta đã hành động trong vô minh, sẽ đem lại những kết quả không tốt.

Nếu ta quá quan tâm đến sự tái sinh sắp tới của mình, thì ta thực sự đang sống trong mộng. Vì người đang tạo ra nghiệp hiện tại không phải là người sẽ lãnh quả. Sự kết nối duy nhất chỉ là những gì còn sót lại của nghiệp, là quả của nghiệp (vipaka). Ngay cả sự nối kết này cũng rất mong manh vì ta có thể phá vỡ các mắt xích. Nếu ai đó đã tạo nhiều nghiệp xấu nhưng trong kiếp tái sinh lại tạo nhiều nghiệp tốt hơn, thì các quả xấu có thể không bao giờ tựu thành trái, ngược lại cũng thế.

Thí dụ như Angulimala (Vô Não) đã giết 999 mạng người mà vẫn có thể trở thành A-la-hán, vì ông đã được trở thành đệ tử của Phật, được sống trong tu viện của Đức Phật, nơi mà nghiệp xấu của ông không có cơ hội trổ quả. Tuy nhiên, ngài Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên), dầu đã là một A-la-hán, vẫn bị kẻ cướp giết và tán xương ngài ra tro, do nghiệp xấu trong quá khứ. Chúng ta khó thể thiết lập một thống kê tương ưng giữa nghiệp thiện với các tình huống có thể xảy ra, vì ta không có quyền hạn gì đối với người sẽ kế thừa nghiệp mà ta đã làm trong kiếp sống này. Nhưng hiện tại làm việc thiện, sẽ mang đến kết quả ngay, đó là hạnh phúc và niềm vui trong tâm, và thường cũng là hạnh phúc cho người. Nếu ta có thể mang hạnh phúc đến cho người, thì đó cũng là nhân để ta được có niềm vui.

Không ích lợi gì để nghĩ về nghiệp trong quá khứ hay nghiệp sẽ tạo trong đời sống tương lai. Không ai biết được gì về kiếp sống tới, hay nhớ được gì từ kiếp đã qua. Vậy thì lo lắng về chúng để làm gì? Chỉ có giây phút này, ngay đây, là quan trọng. Quá khứ thì giống như một giấc mộng và tương lai thì chưa tới. Khi tương lai thực sự xảy ra, thì nó luôn là hiện tại. Ngày mai sẽ không bao giờ đến; khi nó đến, nó được gọi là hôm nay. Ta không thể sống trong tương lai hay quá khứ. Ta chỉ có thể sống ngay trong giây phút này. Nếu ta thực sự chú tâm đến từng giây phút một, ta sẽ có thể hành thiền tốt. Ta sẽ không nghi ngờ gì về vô thường. Thực ra ta còn có thể nhìn thấy điều đó thật rõ ràng, nhờ vậy ta có thể buông bỏ tất cả mọi bám víu, chấp chứa.

Chúng ta có thể quán chiếu như thế này: “Tôi có sử dụng mỗi giây phút sống một cách tốt nhất không?”. Nếu đã tạo ra nghiệp xấu trong quá khứ, ta có thể nhanh chóng thực hiện một số việc thiện. Đó có thể là điều đáng giá duy nhất mà quá khứ có thể mang đến cho ta. Nếu không, tính chất nhanh chóng, hiệu quả của vô thường sẽ khiến ta tách rời khỏi các ý nghĩ, lời nói và hành động một cách nhanh chóng đến nỗi ta không thể nhớ chúng, nói gì đến chuyện giữ chúng lại.

Vậy mà ta lại cố giữ người khác lại, chấp vào sự suy nghĩ, quan điểm và ý kiến của ta; chúng ta bám víu vào thân này, vào các thân hành, tâm hành sai lạc, và cố biến chúng thành thường hằng. Điều đó là không tưởng, không thể thực hiện, vì chỉ có từng giây phút này. Với đồng hồ kỹ thuật số, ta có thể dễ dàng thấy từng giây phút đến rồi đi như thế nào. Thử quan sát đồng hồ trong năm phút để cảm nhận rằng năm phút giây quý báu của cuộc đời bạn đã qua đi. Quá khứ bị lãng quên, chỉ trừ một vài sự kiện nổi bật, bằng không nó đã qua mất rồi. Điều đó cho ta thấy rõ ràng rằng chúng ta chỉ là những dòng chảy, không có thực thể. Do nhận xét sai lầm về thực tại một cách hoàn toàn vô căn cứ, ta cho là nó có thực thể và sống dựa vào đó. Giống như nhà hát tuồng, một sáng tạo của chúng ta, nơi các nghệ sĩ vận xiêm áo, nói lời thoại và tin rằng đó là cuộc sống thực. Chúng ta muốn nhà hát mãi sáng đèn, nhưng không thể được, vì mỗi người đều có nỗi khổ không thể diệt trừ bằng sự bất cần hay vô minh. Ta chỉ có thể làm điều đó bằng cách thay đổi quan điểm, ý thức.

Sự tạo nghiệp phát khởi từ trong tâm. Các tâm hành tạo ra nghiệp của ta. Nếu không thể làm chủ tâm, ta khó tránh khỏi việc tạo ra các nghiệp xấu. Tâm luôn có nguy cơ nghĩ đến những điều bất thiện. Các trạng thái tâm tiêu cực không thể kể xiết: “Tôi không thích, không thể chịu đựng nổi; tôi sợ, tôi chán…”. Tất cả đều là những trạng thái của tâm sân. “Tôi muốn mua, muốn giữ, muốn làm mới”, cũng là nghiệp xấu, liên quan đến tâm tham. Tất cả đều từ tâm phát khởi.

Rất ít người chịu quan sát tâm. Họ nghĩ rằng điều đó khó làm, khá mệt. Nhưng tạo ra nghiệp xấu còn mệt mỏi hơn, vì quả sẽ nặng nề, khó chịu. Rất ít người có được sự sôi nổi bên trong, dấu hiệu của niềm vui tự thân. Đa số nản lòng do tâm tiêu cực gây ra, chứ không phải do hoàn cảnh bên ngoài. Hãy quan sát tâm bạn. Hãy đoan chắc rằng bạn luôn thực hành Tứ chánh cần. Đó là điều tốt nhất mà bạn có thể làm cho bản thân, để đạt được nghiệp lành.

Từ ý phát sinh ra lời nói và hành động. Ta không thể nói mà không có nghĩ trước, không thể hành động mà không có rắp tâm để làm điều đó. Dầu đôi khi dường như ta nói hay hành động một cách bản năng đến nỗi ta không ý thức rằng ý nghĩ đó đã chạy qua đầu. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng không có mặt trong tâm trước. Nó chỉ có nghĩa là ta thiếu chánh niệm và hiểu biết rõ ràng. Tâm là tài sản quý báu nhất mà ta được sở hữu. Không có vàng bạc, châu báu nào có thể so sánh với nó, vì tâm chứa đựng hạt giống giác ngộ. Nếu ta không sử dụng nó đúng mục đích là ta đã dại khờ đem chôn châu báu dưới đất đen. Tuy nhiên, chúng sanh thường làm thế, chính vì họ không được khuyên bảo ngược lại.

Khi nhận thức được rằng ta sở hữu tâm châu báu quý giá này, ta sẽ gìn giữ để nó không bị trầy rụa, lấm láp, đạp dẫm, làm mất sự sáng chói của nó. Ngược lại ta gìn giữ sao cho nó mãi được thanh khiết, chiếu sáng để tạo ra các nghiệp thiện lành. Đức Phật dạy rằng, hành động không phải là yếu tố quan trọng nhất, mà chính là sự chủ tâm đằng sau đó. Ngay cả sự độ lượng cũng có thể phát xuất từ một động lực xấu. Thí dụ, nếu chủ tâm làm việc thiện để tích lũy công đức cho tương lai, thì điều đó khá ích kỷ. Nếu hành động đó được thực hiện vì lòng bi mẫn đối với những người thiếu thốn, thì mới là lý tưởng. Tuy nhiên, dầu có hành động với chủ tâm không thiện lành, thì bố thí vẫn tốt hơn là không. Vẫn có nghiệp lành trong hành động đó, vì người bố thí đã buông bỏ vật sở hữu của mình.

Người bảo vệ tâm cho ta, người đảm bảo rằng tất cả mọi việc ta làm đều với chủ tâm tốt đẹp là Chánh tư duy (chi thứ hai trong Bát chánh đạo), kim chỉ nam của ta. Nghiệp được tạo ra tùy vào tâm, và tâm thanh tịnh tùy vào thiền định. Nếu chúng ta hành thiền đều đặn, tinh tấn, dần dần ta sẽ nhìn thấy những gì diễn ra trong tâm một cách rõ ràng. Một số người hoàn toàn mãn nguyện nếu chỉ đạt được chút an lạc, dẫu thế đó cũng đã là một sự thuận lợi và tiến bộ. Nếu ta quan sát được tâm khi thiền tập, ta cũng sẽ tập được cách quan sát tâm trong đời sống hàng ngày. Rồi thì ta sẽ có nhiều cơ hội để tạo ra các nghiệp thiện lành.

Nếu ta đã nhàm chán với cái vòng luẩn quẩn của được, mất, khen, chê, thành công, thất bại, hạnh phúc và khổ đau (tám pháp thế gian), thì ta cần phải hạ quyết tâm nỗ lực buông bỏ tham ái, bám víu. Nỗ lực này được thiền tập hỗ trợ, nhưng không chỉ có thế. Thiền là phương tiện để giúp ta có khả năng loại trừ các chủng tử tham, sân trong ta. Quy trình thiền tập đem lại cho tâm sự sáng suốt để nhận ra các hạt giống này trong ta, để ta có thể có cách đối trị chúng.

Bổn phận của chúng ta trong kiếp sống này với tư cách là một chúng sanh có đầy đủ giác quan, thân không khiếm khuyết, có duyên lành được nghe Chánh pháp, là bảo vệ tâm và chứng nghiệm được chân tánh của tâm là thuần khiết, chói sáng, nhu nhuyến. Với tâm như thế ta có thể tiến sâu vào đạo, nơi ta sẽ thấy không có ai làm chủ tâm này.

Ni sư Ayya Khema
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển ngữ theo Karma Is Intention

Xúc động khi chia sẻ về “Những thằng già nhớ mẹ”

Xúc động khi chia sẻ về “Những thằng già nhớ mẹ”

Đăng lúc: 05:33 - 19/09/2016

“Trong mắt của bà, tôi mãi là đứa con chưa trưởng thành. Dù các con tôi đã lớn, đã tốt nghiệp và đi làm, nhưng thằng cha chúng vẫn bị bà nội đưa vào diện cần quan tâm đặc biệt, ra ngoài vẫn bị nhắc nhở quên nón, mang theo áo mưa…” - đó là một đoạn trích trong tạp bút “Những thằng già nhớ mẹ” của tác giả Vũ Thế Thành vừa ra mắt độc giả chiều qua, 17-9, tại đường sách Nguyễn Văn Bình.
vuthethanh1.jpg
Tác giả Vũ Thế Thành (cầm micro), cùng khách mời - nhà văn Nguyễn Đông Thức,
bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và nhà thơ Đỗ Trung Quân - giao lưu cùng bạn đọc - Ảnh: Nhã An

Tác giả cho biết: “Tôi không phải là nhà văn, tôi có thể viết báo, viết về khoa học về các sự kiện chứ tôi không có khả năng hư cấu như các nhà văn, đám bạn xúi thì tôi viết, bài viết Những thằng già nhớ mẹ là bài tùy bút đầu tiên của tôi” sau khi mẹ mất”. Và sau bài viết đầu tiên cùng sự... xúi giục của bạn bè thì cuốn sách gồm 12 bài tạp bút đã ra mắt.

Những đứa con nhớ mẹ thì không có tuổi tác, nhưng tác giả muốn nhấn mạnh đến đối tượng 40, 50 tuổi “là tuổi đã chững chạc, lúc đó họ đang thành công trên đường đời, lúc đó công việc của họ rất nhiều, thời gian này là thời gian họ xù mẹ rất nhiều, tức là bận quá - hứa tuần sau về, rồi lại hứa…, về được vài ba phút rồi đi, tuổi này là tuổi nhận thức được”.

Đối với tác giả không hẳn càng già mới càng nhớ mẹ, “vì thương mẹ tiềm tàng trong con người mình rồi, chỉ có điều người ta già rồi thì người ta thấm đòn hơn”.

vuthethanh2.jpg
Ca sĩ Cẩm Vân hát ca khúc Lòng mẹ trong buổi giao lưu

Nói về cuốn sách, nhà văn Nguyễn Đông Thức chia sẻ trong buổi giao lưu “những bài viết của Vũ Thế Thành về mẹ làm cho tôi xúc động rất nhiều, bởi vì nó được viết từ trái tim, từ cảm xúc rất chân thật. Và anh cũng có một tâm trạng đặc biệt - rất giống tôi - khi mẹ mất thì mình không chấp nhận cái chết đó, mình không bao giờ nghĩ mẹ mình có thể mất và cái cảm giác đó ám ảnh mình trong thời gian rất lâu.

Những người con khi mẹ mình già lúc nào cũng mong mang cho bà thức ăn ngon, quần áo đẹp... nhưng mẹ đâu cần những thứ đó vì mẹ chỉ cần tình thương, sự quan tâm của con cái… Khi mẹ tôi mất đi, tôi mới được xem nhật ký của mẹ, mẹ tôi viết “sao mấy tuần nay thằng Thông (tên gọi của Nguyễn Đông Thức ở nhà - PV) không về thăm mình, tôi nhớ nó quá”, lúc đó tôi đã 50 tuổi” - nhà văn xúc động.

vuthethanh3.jpg
Tác giả Vũ Thế Thành ký tặng sách

Trong buổi giao lưu ra mắt sách, bạn đọc còn được giao lưu với nhà thơ Đỗ Trung Quân, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nghe những ca khúc về mẹ do ca sĩ Cẩm Vân, Đông Tùng, Thu Vàng trình bày.

Tạp bút Những thằng già nhớ mẹ của Vũ Thế Thành do NXB Hội Nhà văn ấn hành, đơn vị liên doanh là Công ty TNHH sách Phương Nam. Đa số các bài viết trong tuyển tập này được tác giả viết giữa hai mùa Vu lan 2011 (mẹ mất) và 2012.

“Có vài bài đang nói chuyện này, lại xen chuyện bà mẹ vào một chút. Bạn đọc nào may mắn còn mẹ xin được bỏ qua cho. Nỗi đau còn mới quá! Riêng với các bạn đã mất mẹ, xin lỗi, tôi… xả chấp” - tác giả chia sẻ trong lời đầu sách.

vuthethanh4.jpg
Sách “Những thằng già nhớ mẹ” - Ảnh: Nhã An

Vũ Thế Thành sinh ra lớn lên và làm việc tại Sài Gòn, hiện sống tại Đà Lạt. Với chuyên môn về Hóa học và Quản trị chất lượng. Tác giả viết báo cũng gần được 20 năm và cộng tác với các báo Tia sáng, Sài Gòn tiếp thị (cũ), Quán văn, khoahocnet.com…

Nhã An

Thủ tướng Ấn Độ giao lưu với tăng, ni Học viện Phật giáo Việt Nam

Thủ tướng Ấn Độ giao lưu với tăng, ni Học viện Phật giáo Việt Nam

Đăng lúc: 18:23 - 03/09/2016

Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã đến thăm chùa Quán Sứ (Hà Nội), Trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam chiều 3/9 và giao lưu với các tăng, ni là học viên của Học viện Phật giáo Việt Nam.

Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi gặp gỡ các phật tử. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Tham dự có Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam; Hòa thượng, Tiến sỹ Thích Thiện Nhân, Chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Đại sứ Ấn Độ tại Hà Nội và Đại sứ Việt Nam tại New Dehli cùng đông đảo tăng, ni Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Phát biểu tại buổi giao lưu, Hòa thượng Thích Thiện Nhân thay mặt hơn 50 nghìn tăng, ni và hàng chục triệu phật tử khắp Việt Nam chào đón Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã đến thăm Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhấn mạnh đây là sự kiện vô cùng đặc biệt, qua đó khẳng định vai trò của Phật giáo ở Việt Nam từ lịch sử quá khứ hơn hai nghìn năm trước cho đến ngày nay, Hòa thượng Thích Thiện Nhân cho rằng, Phật giáo luôn luôn là cầu nối quan trọng trong tình hữu nghị bền chắc giữa nhân dân Ấn Độ và nhân dân Việt Nam.


Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi nói chuyện với các tăng ni, phật tử. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Nhắc lại lịch sử ra đời và quá trình phát triển của Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng Thích Thiện Nhân khẳng định, các nhà sư Ấn Độ là những nhà truyền giáo đầu tiên đem Phật giáo vào Việt Nam thông qua con đường thương mại biển, tạo nên sự liên kết giữa văn hóa Ấn Độ và văn hóa bản địa Việt Nam, trở thành thành tố văn hóa không thể thiếu trong văn hóa Việt Nam. Phật giáo đóng vai trò khơi nguồn trong mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Mối quan hệ đó được thắt chặt trên nền tảng tình hữu nghị giữa Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ Jawaharlal Nehru và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hòa thượng Thích Thiện Nhân tin tưởng, nhân dân và đất nước Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Nerandra Modi, sẽ phát triển phồn vinh, thịnh vượng. Ấn Độ sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng môi trường hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và thế giới.

Giao lưu với các tăng, ni, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi khẳng định: “Thế gian cần hòa bình. Đi trên con đường hòa bình sẽ mang đến hạnh phúc cho muôn loài. Chiến tranh chỉ mang lại tàn phá, độc ác, chết chóc. Đạo Phật mang lại niềm hy vọng, ánh sáng, niềm tin, hòa bình”.


Thủ tướng Modi thăm chùa Quán Sứ, trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Thủ tướng Narendra Modi bày tỏ mong muốn ngày càng nhiều tăng, ni Việt Nam tiếp tục sang Ấn Độ học Phật giáo. Tại Varanasi, một địa phương của Ấn Độ cũng có chùa của Việt Nam . Thủ tướng bày tỏ hy vọng sẽ được đón tiếp các tăng, ni Việt Nam khi sang Ấn Độ học Phật giáo; mời các tăng, ni Việt Nam ngồi thiền tại cây bồ đề và suy ngẫm về Đạo Phật.

Thu Phương (TTXVN

Phật giáo Nghệ An long trọng tổ chức Lễ Mãn Hạ và Vu lan báo hiếu

Phật giáo Nghệ An long trọng tổ chức Lễ Mãn Hạ và Vu lan báo hiếu

Đăng lúc: 21:42 - 29/08/2016

Sáng 29/8, tại Chùa Đại Tuệ (Nam Đàn) BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An đã long trọng tổ chức lễ Mãn hạ kết thúc 3 tháng An cư Kiết hạ và đại lễ Vu lan báo hiếu. Năm nay khóa an cư kiết hạ dành cho Chư Tăng được đưa lên non thiêng Chùa Đại Tuệ đánh dấu một mốc quan trọng, cũng là nơi để Chư Tăng có một thời gian tĩnh tu một cách tốt đẹp nhất . Trải qua 90 ngày được thực hiện nhiệm vụ của hàng xuất gia đầu Phật đến nay đã kết thúc khóa an cư kiết hạ, Chư Tăng được cộng thêm 1 tuổi Đạo đánh dấu sự tu hành vững chắc trên con đường " Hoằng Pháp Lợi Sanh " .
Về tham dự và chứng minh có : Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu, phó Chủ tịch Thường trực HĐTS TWGHPGVN kiêm trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An. Thượng tọa Thích Thọ Lạc, UVTTHĐTS phó trưởng ban TTBVHTW, phó trưởng ban TTBTS GHPGVN tỉnh Nghệ An. Cùng các Chư Tôn Đức trong Ban Trị sự GHPGVN tỉnh , Chư Tôn Đức Tăng Ni hai hạ trường Chùa Đại Tuệ, Chùa Cần Linh
Về phía chính quyền có : Ông Võ Văn Tiến , phó chủ tịch UBMTTQ Việt Nam tỉnh Nghệ An. Bà Hoàng Thị Quỳnh Anh , phó Giám đốc Sở thể thao và du lịch tỉnh Nghệ An. Ông Nguyễn Văn Long , phó ban tôn giáo sở Nội vụ tỉnh Nghệ An.
Đại diện lãnh đạo các sở, ban ngành, UBMTTQVN tỉnh, công an tỉnh, Ban Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ cùng đại diện lãnh đạo chính quyền huyện Nam Đàn và địa phương cùng đông đảo bà con phật tử gần xa.
Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS TWGHPGVN kiêm trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An chủ trì buổi lễ .



Lễ Mãn hạ nhằm đánh giá công tác tu tập của Tăng, Ni trong 3 tháng An cư Kiết hạ (tháng tư đến tháng 7 âm lịch) theo truyền thống của Phật giáo. Mùa An cư Kiết hạ năm nay tại Nghệ An có 31 hành giả (30 Tỷ khiêu, 1 Sa di) tại trường hạ chùa Đại Tuệ và 12 vị Chư Ni tại trường hạ chùa Cần Linh. Ban TSGHPGVN Tỉnh đã tạo điều kiện cho các Tăng, Ni tu tập và đã cấp giấy chứng nhận cho Tăng, Ni tham gia tu tập trong lễ Mãn hạ này. Ý nghĩa của truyền thống tu tập trong 3 tháng an cư kiết hạ của người xuất gia, trong đó nhấn mạnh Giới luật là trọng tâm của lời Phật dạy cần phải giữ gìn. Sau khi hoàn thành khóa hạ, chư hành giả được trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản về Kinh, Luật, Luận và cũng được nghiên cứu về chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến tôn giáo - từ đó phát huy hiệu quả cao hơn vai trò của Phật giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong khuôn khổ của chương trình, Ban Trị sự GHPG tỉnh đã tổ chức đại lễ Vu lan báo hiếu, với thời khóa tụng kinh Vu Lan và nghi thức cài hoa hồng. Đây là một nghi lễ bày tỏ lòng hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ. Lễ vu lan ngày càng được biết đến như một dịp đền đáp công đức sinh thành . Nhân dịp này Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu ban đạo từ về ý nghĩa Vu Lan báo hiếu công ơn Cha Mẹ .
Vu Lan thắng Hội năm nay với nhiều chương trình phong phú nhằm dâng lên Hai Đấng sinh thành và báo đền ân nghĩa Tổ Tiên Từ ngàn xưa ,truyền thống hiếu thảo đối với Cha Mẹ đã trỡ thành một nét đẹp văn hóa của dân tộc VN ,Sau lễ Vu Lan hàng Phật tử tại gia đã dâng cúng tịnh tài, tịnh vật lên Chư Tôn Đức Tăng, Ni trong ý nghĩa hộ trì Tam bảo trên bước đường truyền trì mạng mạch, thắp sáng đèn thiền, truyền đăng tục diệm, tiếp dẫn hậu lai, giúp cho giới cư sĩ tu tập ngày càng tinh tấn.
Sau đây là một số hình ảnh :





































































Thượng Tọa Thích Thọ Lạc đọc diễn văn khai mạc buổi Lễ

Đại Đức Thích Minh Hải đọc báo cáo tổng kết 3 tháng An Cư Kiết Hạ



Đại diện hàng Phật Tử đọc lời cảm niệm về Cha Mẹ



lễ cài hoa hồng lên Chư Tôn Đức Tăng Ni































Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu bao Đạo Từ




































Chụo ảnh lưu niệm.







Chụp ảnh lưu niệm




Tác giả bài viết: Hữu Tình- Hồng Nga

Tu khẩu là không nên nói những điểm sai, thiếu sót của người khác

Tu khẩu là không nên nói những điểm sai, thiếu sót của người khác

Đăng lúc: 17:43 - 04/08/2016

Theo Phật giáo, khẩu nghiệp là một trong những nghiệp nặng nề nhất mà một người có thể tạo ra. Vết thương bạn gây ra trên thân thể người khác còn có ngày lành, còn vết thương gây ra do lời nói thì chẳng biết khi nào mới lành lặn được.

Khẩu là cái miệng, chỉ cho lời ăn tiếng nói. Trong nhà Phật thì Khẩu Nghiệp (xấu) là một trong những nghiệp nặng nhất, vì nó dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, nó dẫn đến sự đổ vỡ, dẫn đến sự đau khổ tột cùng, dẫn tới mọi sự phiền não… một lời nói vô tình có thể làm mình và người khác đau khổ ray rứt cả cuộc đời.

Giữa hai vợ chồng một lời nói cũng làm tan vỡ một gia đình, giữa nhân viên với chủ lời nói có thể làm mất việc, mất công danh sự nghiệp, giữa anh em bạn bè người thân có thể gây mâu thuẫn, bất mãn, thù ghét, câm hận, giữa hai vị đứng đầu một lãnh thổ có thể gay ra chiến tranh…

Trong Thập Thiện Nghiệp (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không tham, không sân, không si, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời ác).

Tu khẩu là không nên nói về những điểm sai, thiếu sót của người khác
Khẩu nghiệp là cần tu cả đời
Câu chuyện nổi tiếng của học giả Ngô Hạ

Ngô Hạ, một học giả nổi tiếng của triều đại nhà Tống, có một người mẹ rất khắt khe về kỷ luật những người con của bà.

Một ngày nọ, mẹ của ông tình cờ nghe được Ngô Hạ nói chuyện với một vị khách mời về những thiếu sót khuyết điểm của những người khác. Bà đã trở nên rất nóng giận, và sau khi người khách rời đi, bà đã đánh ông một trăm roi. Một người họ hàng đã cố trấn tĩnh bà và nói: “Nói về những điểm mạnh hay những thiếu sót khuyết điểm của người khác là điều bình thường trong giới học giả. Có gì sai đâu? Không cần phải đánh như thế.”

Mẹ của ông thở dài và nói: “Tôi nghe nói rằng nếu cha mẹ thực sự yêu con gái của họ, họ phải cố làm lễ cưới cho cô ấy với một học giả mà rất thận trọng về những điều mà anh ta nói ra. Tôi chỉ có một mình nó là con trai. Tôi đang cố gắng làm cho nó hiểu về những luân lý đạo đức và cuộc sống. Nếu nó không thận trọng về những điều được nói ra, tức là nó đang quên mẹ của nó. Đây là cách mà nó phải sống về lâu dài.” Mẹ của ông đã khóc và không ăn uống.

Văn hoá sáng tạo bởi thần tán thành việc một người phải thận trọng về điều mà anh ta nói. Trong giới tu luyện, có nhấn mạnh về tu khẩu, vì một lời bình luận có thể làm tổn thương những người khác không khác gì một con dao sắc hay một khẩu súng. Hơn nữa, khi lời nói được phát ra, thì không thể lấy lại được, và chúng có thể tạo nghiệp và tạo ra sự thù hận. Nên nó mang lại tai hoạ cho người nói. Bởi vậy, một người theo luân lý họ trân trọng đạo đức, chú ý đến tu khẩu và thường không tập trung vào hay nói về những khiếm khuyết của người khác sau lưng họ. Một người như vậy sẽ cho người khác một cơ hội để chính lại và sửa chữa chính họ trong một phong thái rộng mở và cao thượng, và họ cũng hướng nội nhìn vào bên trong để xem họ có thiếu sót khuyết điểm như vậy không.

Dưới sự kỷ luật nghiêm khắc của mẹ ông, Ngô Hạ đã thực hiện việc thận trọng trong lới nói, và từ đó ông giữ mình theo tiêu chuẫn khắt khe và tập trung vào tu đức và những nguyên lý đạo đức. Cuối cùng ông trở thành một trong những học giả nổi tiếng trong thời đại của ông.

Suy nghiệm lời Phật: Mong muốn chính đáng

Suy nghiệm lời Phật: Mong muốn chính đáng

Đăng lúc: 21:16 - 30/05/2016

Người học Phật ai cũng biết, để thăng hoa tiến đạo thì phải thiểu dục, muốn ít. Vì ham muốn là cội nguồn của mọi khổ đau. Nhưng trong đường đạo bước đầu cũng cần thiết lập những mong muốn chính đáng. Dục định trong giáo lý Tứ như ý túc là một điển hình. Đó là lòng mong muốn, là nhiệt tình, là khát khao loại bỏ mọi thứ ngăn che thiền định, loại bỏ mọi lòng dục về các trần để đi vào thiền định.
conduonggiacngo.jpg
Đức Phật - Bậc Giác ngộ hoàn toàn, Trí và Bi viên mãn

Ở pháp thoại dưới đây Thế Tôn cũng răn dạy “Tỳ-kheo của Ta cũng nghĩ đến năm việc đáng muốn. Thế nào là năm? Nghĩa là: Cấm giới, đa văn, thành tựu tam-muội, trí tuệ, trí tuệ giải thoát. Đó là Tỳ-kheo có năm việc đáng mong muốn này”. Mong muốn chính đáng chính là hoài bão, sự phát thệ hướng đến điều thiện, un đúc chí nguyện tu tập để vượt qua mọi chướng ngại nhằm chứng đạt Thánh quả.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Đàn bà có năm dục tưởng. Thế nào là năm? Sanh nhà hào quý, được gả cho nhà phú quý, chồng sẽ làm theo lời, có nhiều con cái, ở nhà tất cả do một mình mình.

Đó là, này các Tỳ-kheo! Đàn bà có tư tưởng về năm việc đáng muốn này. Như thế, này Tỳ-kheo! Tỳ-kheo của Ta cũng nghĩ đến năm việc đáng muốn. Thế nào là năm? Nghĩa là: Cấm giới, đa văn, thành tựu tam-muội, trí tuệ, trí tuệ giải thoát. Đó là Tỳ-kheo có năm việc đáng mong muốn này.

Thế Tôn liền nói kệ: “Ta sanh dòng hào tộc/ Cũng về nhà phú quý/ Hay sai khiến ông chồng/ Chẳng phước, không đạt được. Khiến ta nhiều con cái/ Hương hoa tự trang sức/ Tuy có tưởng niệm này/ Không phước khó thu được. Tín, giới mà thành tựu/ Tam-muội không di động/ Trí tuệ cũng thành tựu/ Giải đãi thì chẳng được. Muốn được thành đạo quả/ Chẳng dạo vực sanh tử/ Mong muốn đến Niết-bàn/ Giải đãi thì chẳng được”.

Như thế, các Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện thực hành pháp lành, trừ bỏ pháp bất thiện, dần dần tiến tới, không có tâm hối hận giữa chừng. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 35.Tà tư,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.363)

Trong nỗ lực loại trừ những ham muốn của thế thường, Tỳ-kheo vẫn luôn mong muốn được thành tựu Thánh giới. Người có giới thì luôn an ổn. Giới là nền tảng của định và tuệ. Sống trọn vẹn với Thánh giới là một phúc phần, là mong muốn chính đáng.

Kế đến là mong muốn đa văn. Đa văn không đơn thuần chỉ là nghe nhiều mà chính là thấu triệt giáo pháp, thông cả pháp học lẫn pháp hành. Người học Phật luôn mong muốn hiểu để tin và thực hành đúng Chánh pháp.

Thành tựu Thánh giới và tin hiểu Chánh pháp tức là “con đã có đường đi” rồi. Thực hành Pháp để thành tựu tam-muội, tức chánh định là một việc vô cùng khó khăn. Các chướng ngại tâm rất nhiều nên mong muốn loại bỏ ngăn che, trở ngại để thành tựu thiền định thật chính đáng.

Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ. Định tuệ vốn tương tức, hỗ tương và làm nên nhau. Trí tuệ có nhiều cấp độ, ở đây là thấy rõ và tin sâu về nhân quả, về bốn sự thật, về duyên khởi… Tuệ này do tư duy, quán chiếu mà thành tựu.

Trí tuệ giải thoát chính là liễu tri, phá tan màn vô minh, diệt tận mọi tham ái và chấp thủ. Bậc Thánh A-la-hán trở lên mới có trí tuệ giải thoát này. Thành tựu trí tuệ giải thoát là đã sang bờ kia.

Đặc biệt là, để những mong muốn chính đáng ấy được thành tựu, hành giả phải nỗ lực, tinh cần. Thế Tôn đã nhấn mạnh “Giải đãi thì chẳng được”. Nên tinh tấn, chuyên cần thực hành Pháp một cách bền bỉ là yếu tố quan trọng để thành tựu phạm hạnh, giải thoát.
Quảng Tánh

TT-Huế: Thảo luận Phật sự Phân ban Ni giới T.Ư

TT-Huế: Thảo luận Phật sự Phân ban Ni giới T.Ư

Đăng lúc: 11:06 - 14/03/2016

Chiều 13-3, trong khuôn khổ chương trình lễ tưởng niệm Thánh tổ Kiều Đàm Di, Phân ban Ni giới T.Ư GHPGVN đã tổ chức buổi thảo luận Phật sự của Phân ban tại Ni viện Diệu Đức (P.Trường An, TP.Huế).

1.jpg
Chư vị giáo phẩm Ni chủ tọa

NT.Thích nữ Diệu Tấn, Chứng minh Phân ban Ni giới TT-Huế; NT.Thích nữ Chơn Hiền, Chứng minh Phân ban Ni Giới T.Ư; NT.Thích nữ Tịnh Nguyện, Phó ban Thường trực Phân ban Ni giới T.Ư; NT.Thích nữ Tân Liên, NT.Thích nữ Huệ Hương, NT.Thích nữ Như Châu, NT.Thích nữ Như Minh, đồng Phó phân ban Ni giới T.Ư chủ tọa; tham dự có đông đảo chư Ni, Phật tử 35 Phân ban Ni giới tỉnh thành trong cả nước.

3.jpg
NT.Thích nữ Như Châu đọc diễn văn khai mạc

Mở đầu buổi thảo luận, NT.Thích nữ Như Châu tuyên đọc diễn văn khai mạc. Theo đó, Ni trưởng nhấn mạnh: “Ni giới Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Phân ban Ni giới đã và đang tích cực hỗ trợ, sách tấn nhau, chia sẻ kinh nghiệm giáo dục, hướng dẫn đàn hậu học theo đúng oai nghi Phật dạy để luôn khéo léo hoàn thành tốt các công tác Phật sự làm lợi ích cho số đông. Với sự quan tâm hướng dẫn đúng cách của các bậc trưởng thượng, các bậc thầy, chúng tôi tin tưởng rằng giới Ni trẻ sẽ thấy rõ phương hướng và mục đích tu tập, kịp thời điều chỉnh thân tâm để có thể tiếp nối theo bước chân của chư vị tiền bối, đóng góp một cách xứng đáng cho ngôi nhà Phật pháp ngày thêm kiên cố… Muốn đạt được điều này, Phân ban Ni giới cần phải nhờ vào sự đồng lòng hiệp sức của Ni giới, sự chiếu cố cao cả của chư tôn đức HĐTS GHPGVN”…

5.jpg
Đông đảo chư Ni các tỉnh thành về tham dự

Tại buổi thảo luận, chư Ni đã trình bày ba bài tham luận đại diện Ni giới ở ba miền Bắc-Trung-Nam, chú trọng vào vấn đề sinh hoặt và tham gia công tác Phật sự của Ni chúng. Ban điều phối nhận được những câu hỏi, thắc mắc của đại biểu các tỉnh Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bạc Liêu, Quảng Trị, Cần Thơ, Cà Mau… về các Phật sự còn vướng mắc như: Một số Phân ban Ni giới các tỉnh chưa được cấp con dấu; Ni trẻ khi ở với Thầy và bỏ Thầy đi đến ở chùa khác không được sự chấp thuận của Thầy thì giải quyết như thế nào? Có chế tài gì khi Ni trẻ đi học xa sau khi hoàn thành không trở lại địa phương tham gia Phật sự… Ban điều phối đã có những trả lời thấu đáo và hướng dẫn cách giải quyết những vướng mắc mà các Phân ban Ni giới các tỉnh đặt ra. Trong đó, điều quan trọng nhất là lấy Giới luật làm đầu, có những việc ngoài tầm của Ni giới địa phương, T.Ư thì cần phải trình lên Trung ương Giáo hội để được chỉ đạo giải quyết.

Đạo từ buổi thảo luận, NT.Thích Nữ Huệ Hương đánh giá cao tinh thần của Ni chúng và Phật tử đã cùng nhau trở về Huế tham dự lễ tưởng niệm đức Thánh tổ. Đồng thời, niệm ân BTS PG TT-Huế đã tạo điều kiện Ni giới tại Huế tổ chức đại lễ một cách trang nghiêm, long trọng.

Qua buổi thảo luận đã có mười hai câu hỏi được đặc ra thể hiện tinh thần trăn trở của Ni chúng đối với việc xây dựng ngôi nhà Ni giới Việt Nam cũng như về định hướng cho Ni trẻ trong vấn đề tu tập trong tinh thần đoàn kết, hòa hợp.

11.jpg
NT.Thích nữ Như Minh cảm tạ

NT.Thích nữ Như Minh đọc lời cảm tạ, thành kính đảnh lễ chư tôn đức, niệm ân sâu sắc chư Ni trưởng dù tuổi đã cao vẫn tham dự chứng minh buổi lễ. Ni trưởng cũng đã cảm tạ chính quyền địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi, quý Phật tử phát tâm yểm trợ để buổi lễ thành công viên mãn.

2.jpg
Buổi thảo luận diễn ra tại Ni viện Diệu Đức

8.jpg
Nhiều câu hỏi được đại biểu nêu ra tại buổi thảo luận

9.jpg
Chủ tọa lần lượt trả lời các câu hỏi của chư Ni đại biểu

44.JPG

40.JPG
Quảng Điền

ImageView

TP. HCM Đại giới đàn Trí Đức chính thức khảo hạch giới tử

Đăng lúc: 19:19 - 23/11/2015

Từ sáng sớm nay, 22-11 (nhằm ngày 11-10-Ất Mùi), gần 500 giới tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đã vân tập tại Tuyển Phật trường - chùa Huê Nghiêm, P.Bình Khánh, Q.2 tham gia kỳ khảo hạch nhằm tuyển chọn các giới tử đủ điều kiện thọ giới tại các đàn truyền giới của 8 giới trường thuộc Đại giới đàn Trí Đức PL.2559 - DL.2015 do BTS GHPGVN TP.HCM tổ chức.

Quang lâm chứng minh và tham dự lễ khai mạc kỳ khảo hạch có sự hiện diện của chư tôn đức giáo phẩm: HT.Thích Trí Quảng, Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Trị sự GHPGVN TP.HCM,Trưởng ban Tổ chức Đại giới đàn Trí Đức; HT.Thích Thiện Tánh, Phó Chủ tịch HĐTS, Phó Trưởng ban Thường trực BTS GHPGVN TP.HCM, Phó ban Thường trực Ban Tổ chức Đại giới đàn Trí Đức; HT.Thích Minh Thông, Phó BTS kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN TP.HCM; HT.Thích Thiện Minh, Phó Thường trực Ban Tăng sự GHPGVN TP.HCM; TT.Thích Hiển Đức, Tổng Giám thị; quý Ni trưởng Phân ban Ni giới TP.HCM cùng chư tôn đức BTS GHPGVN TP.HCM, Ban Tổ chức Đại giới đàn, Hội đồng Giám khảo, Ban Giám khảo giới tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ban Giám thị… đã quang lâm Tuyển Phật trường.

>>> Tuyển Phật trường Huê Nghiêm khảo hạch giới tử Sa-di, Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na


HT.Thích Trí Quảng, Chủ tịch Hội đồng Giám khảo đã phát biểu khai mạc


Giới tử Tỳ-kheo Bắc tông

HT.Thích Trí Quảng, Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Trị sự GHPGVN TP.HCM, Chủ tịch Hội đồng Giám khảo đã phát biểu khai mạc nhắc lại thời kỳ Đức Phật xây dựng giáo đoàn và Đức Phật chế định giới luật nhằm bảo vệ những tu sĩ có mục tiêu cao cả.

Hòa thượng nhấn mạnh, kỳ khảo hạch lần này nhằm tuyển chọn những người tài đức, gánh vác Phật sự cho Giáo hội. Hòa thượng nhắc nhở giới tử nếu là những người thật tu thật học, Ban Kiến đàn luôn luôn hỗ trợ còn nếu những người vì mục tiêu khác thì Ban Giám khảo sẽ công minh loại ra khỏi giới trường.

Hòa thượng tin tưởng vào hồng ân của Đức Phật gia hộ để giới tử vượt qua kỳ khảo hạch đạt kết quả tốt để đủ điều kiện được tấn đàn thọ giới tại các giới trường Đại giới đàn Trí Đức.


HT.Thích Trí Quảng thỉnh một hồi kẻng dài khai mạc kỳ khảo hạch


TT.Thích Hiển Đức đánh 3 tiếng kẻng lệnh, Ban Giám khảo chính thức khảo hạch

TT.Thích Hiển Đức, Tổng Giám thị Đại giới đàn Trí Đức, thay mặt Ban Tổ chức, Ban Giám khảo, Ban Giám thị thông báo những nội quy của kỳ khảo hạch, những điều nên và không nên làm đối với giới tử để kỳ thi tuyển diễn ra trang nghiêm và công bằng.

Sau một hồi kẻng dài của HT.Thích Trí Quảng chính thức khai mạc kỳ khảo hạch và 3 tiếng kẻng lệnh của TT.Thích Hiển Đức, đúng 7 giờ 30, Ban Giám khảo tại Tuyển Phật trường chính thức khảo hạch giới tử.

478 giới tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thuộc các Hệ phái Bắc tông, Nam tông Kinh, Khất sĩ (và 8 tu nữ Hệ phái Nam tông Kinh) bước vào kỳ khảo hạch phần luật, Phật pháp căn bản và phần tụng niệm.


Giới tử trả lời trước Ban Giám khảo


Giới tử Tỳ-kheo Hệ phái Nam tông Kinh trả lời vấn đáp

Tuyển Phật trường chia làm 11 nhóm Giám khảo Tỳ-kheo và 11 nhóm Giám khảo Tỳ-kheo-ni. Từng giới tử lần lượt đối trước Ban Giám khảo trả lời các câu hỏi trực tiếp (vấn đáp).

Nội dung khảo thí Đại giới đàn Trí Đức có hai phần: Ban Giám khảo tập trung vào khảo hạch giới luật, giới tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni gồm nội dung trong 4 quyển Luật Trường hàng (Tỳ-ni, Sa-di, Oai nghi, Cảnh sách) và khảo hạch nội dung giáo lý trong 4 quyển đầu của bộ Phật học phổ thông và nội dung về tụng niệm.


Giới tử Tỳ-kheo Hệ phái Khất sĩ trả lời trước Ban Giám khảo


Giới tử Tỳ-kheo-ni Hệ phái Khất sĩ

Phụ trách khảo hạch giới tử Tỳ-kheo: HT.Thích Trí Quảng, Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Trị sự GHPGVN TP.HCM, Chủ tịch Hội đồng Giám khảo; HT.Thích Minh Thông, Trưởng ban Tăng sự GHPGVN TP.HCM, đứng đầu Ban Giám khảo giới tử Tỳ-kheo (phần luật); HT.Thích Như Niệm, Phó ban Trị sự GHPGVN TP.HCM, đứng đầu Ban Giám khảo giới tử Tỳ-kheo (phần Phật pháp căn bản); HT.Thích Thiện Nhân, đứng đầu Giám khảo giới tử Tỳ-kheo Hệ phái Nam tông Kinh (phần luật và Phật pháp căn bản); HT.Thích Giác Hà, đứng đầu Giám khảo giới tử Tỳ-kheo Hệ phái Khất sĩ (phần luật và Phật pháp căn bản);

Phụ trách giới tử Tỳ-kheo-ni: NT.Thích Tịnh Nguyện, Phó ban Thường trực Phân ban Ni giới T.Ư, đứng đầu Ban Giám khảo giới tử Tỳ-kheo-ni (phần Luật); NT.Thích Như Châu, Trưởng Phân ban Ni giới TP.HCM, đứng đầu Ban Giám khảo giới tử Tỳ-kheo-ni (phần Phật pháp căn bản); NT.Thích Viên Liên, đứng đầu Giám khảo giới tử Tỳ-kheo-ni Hệ phái Khất sĩ (phần luật và Phật pháp căn bản).


Giới tử Tỳ-kheo-ni Bắc tông trả lời khảo hạch của Ban Giám khảo


Tuyển Phật trường diễn ra kỳ khảo hạch trang nghiêm
Tại Tuyển Phật trường, TT.Thích Hiển Đức, Tổng Giám thị Đại giới đàn Trí Đức cho biết: “Tuyển Phật trường Huê Nghiêm sáng nay được tổ chức trang nghiêm tạo niềm tin quý báu cho giới tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.

Kỳ khảo hạch đã diễn ra nghiêm túc tạo không gian tĩnh lặng để giới tử tư duy đến giáo điển, luật học của Đức Phật. Các vị trong Ban Giám khảo thực thi nhiệm vụ, chức năng của mình một cách nghiêm túc và tròn vẹn. Qua tinh thần nghiêm túc đó, Ban Giám khảo rất hoan hỷ và hài lòng khi ngồi ở cương vị của mình.

BTS GHPGVN TP.HCM nếu tổ chức các Đại giới đàn sau này, Ban Kiến đàn nên duy trì phong cách tổ chức này để tạo cho giới tử niềm tin trong Chánh pháp”.

Chiều nay, 596 giới tử Sa-di, Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na sẽ vân tập tại Tuyển Phật trường Huê Nghiêm vào lúc 13 giờ để tham gia kỳ khảo hạch.

Kết quả khảo hạch, Ban Kiến đàn sẽ thông báo kèm giấy báo trúng tuyển về đơn vị Phật giáo (BTS GHPGVN quận, huyện) nơi giới tử đăng ký hồ sơ thọ giới.


Giới tử Tỳ-kheo trước Ban Giám khảo


Giới tử Hệ phái Nam tông Kinh và Khất sĩ tại Tuyển Phật trường

Theo chương trình Đại giới đàn Trí Đức, vào lúc 6 giờ ngày 28-11 (nhằm ngày 17-10-Ất Mùi), tất cả các giới tử vượt qua kỳ khảo hạch sẽ vân tập làm thủ tục nhập giới trường học các nghi thức thiền môn để chuẩn bị thọ giới.

Theo đó, giới tử Tỳ-kheo tại giới trường chùa Huệ Nghiêm (Q.Bình Tân); Sa-di tại giới trường chùa Huê Nghiêm (Q.2); Tỳ-kheo-ni tại giới trường chùa Từ Nghiêm (Q.10); Thức-xoa-ma-na tại giới trường chùa Kim Sơn (Q.Phú Nhuận); Sa-di-ni tại giới trường chùa Huê Lâm (Q.11).

Giới tử Tỳ-kheo, Sa-di Hệ phái Phật giáo Nam tông Kinh tại Giới trường biệt truyền chùa Bửu Quang (Q.Thủ Đức); Giới tử Tỳ-kheo, Sa-di Hệ phái Khất sĩ tại giới trường tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh); Giới tử Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni Hệ phái Khất sĩ tại giới trường tịnh xá Ngọc Phương (Q.Gò Vấp).

Đại giới đàn Trí Đức PL.2559 do BTS GHPGVN TP.HCM tổ chức từ ngày 1 đến ngày 6-12-2015 (nhằm ngày 20 đến 25-10-Ất Mùi) với 1.082 giới tử từ 24 BTS PG quận, huyện và các tỉnh, thành.

Đại giới đàn Trí Đức chính thức khai mạc vào 8 giờ, ngày 2-12 (nhằm ngày 21-10-Ất Mùi) tại Đại giới trường - chùa Huê Nghiêm, quận 2.
H.Diệu
Ảnh: Bảo Toàn

Đa số các giới tử trả lời khá tốt nội dung khảo hạch

*Giới tử Tỳ-kheo Thích Ngộ Đức, thuộc BTS GHPGVN quận 10: “Tôi được Ban Giám khảo hỏi 3 câu, trong đó có phần giới luật và Phật pháp căn bản. Tôi cũng khá tự tin đánh giá phần trả lời của mình là khá tốt và hy vọng sẽ vượt qua kỳ khảo hạch, có tên trong danh sách trúng tuyển để được thọ giới lần này”.

*Giới tử Tỳ-kheo Thích Hạnh Nguyện thuộc Hệ phái Nam tông Kinh: “Kỳ khảo hạch lần này giới tử đông nhưng Ban Kiến đàn tổ chức rất trang nghiêm, tạo không gian tĩnh lặng cho giới tử tập trung trả lời vấn đáp. Tôi cũng rất hoan hỷ và kỳ vọng với các câu trả lời của mình trước Ban Giám khảo, tôi sẽ đạt được kết quả tốt, hy vọng được thọ giới Đại giới đàn Trí Đức”.

*Giới tử Tỳ-kheo-ni Thích nữ Liên Thuần thuộc Hệ phái Khất sĩ: “Dù có hơi hồi hộp nhưng tôi cũng hoàn thành 4 câu hỏi của Ban Giám khảo đặt ra, trong đó có phần giới luật, Phật pháp và phần về tụng niệm. Tôi cũng có hy vọng sẽ được thọ giới trong Đại giới đàn Trí Đức lần này”.

*Giới tử Tỳ-kheo-ni Thích nữ An Huệ, giới tử tỉnh Lâm Đồng: “Dù thọ giới hơi muộn so với các giới tử khác, tôi vẫn nuôi chí nguyện được thọ giới lần này. Các câu hỏi của Ban Giám khảo đưa ra về phần luật và Phật pháp căn bản tôi trả lời tương đối tốt. Từ tỉnh Lâm Đông, tôi có duyên được tham gia kỳ khảo hạch lần này, tôi hy vọng mình sẽ có tên trong danh sách được thọ giới Đại giới đàn Trí Đức”.

Hội Phật giáo Hàn Quốc thăm MTTQ Việt Nam

Hội Phật giáo Hàn Quốc thăm MTTQ Việt Nam

Đăng lúc: 18:44 - 28/10/2015

Ngày 28- 10, ông Wuam Jinwon đã dẫn đầu đoàn đại biểu tôn giáo, đại diện cho Hội Phật giáo Hàn Quốc đến thăm UBTW MTTQ Việt Nam. Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch- Tổng thư ký Vũ Trọng Kim đã thân mật đón tiếp.

Gửi

Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký Vũ Trọng Kim tại buổi tiếp
ông Wuam Jinwon, dẫn đầu đoàn đại biểu tôn giáo, đại diện cho Hội Phật giáo Hàn Quốc

Tại buổi tiếp, Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký Vũ Trọng Kim đánh giá cao chuyến thăm của đoàn tại Mặt trận- ngôi nhà Đại đoàn kết – nơi gắn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Đặc biệt, đối với các tôn giáo, Mặt trận luôn là một địa chỉ tin cậy phản ánh các ý kiến, kiến nghị của đồng bào Tôn giáo đến với cơ quan Đảng, chính quyền từ trung ương đến địa phương.

Với hơn 23 triệu tín đồ tôn giáo trên cả nước, ông Vũ Trọng Kim khẳng định, hoạt động tôn giáo tại Việt Nam ngày càng được Nhà nước tạo điều kiện, cơ sở thờ tự được sửa chữa, xây mới khang trang, đặc biệt với việc xây dựng Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo càng khẳng định rõ hơn việc Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do, tín ngưỡng của đồng bào tôn giáo.

Trong những năm qua, mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nhà nước Việt Nam và Hàn Quốc trên nhiều lĩnh vực chính là tiền đề để thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa, tôn giáo. Phó Chủ tịch- Tổng thư ký Vũ Trọng Kim nhấn mạnh, MTTQ Việt Nam sẽ là cầu nối giao lưu giữa phật giáo Việt Nam và Hàn Quốc từ đó góp phần thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp giữa Phật giáo hai nước, góp phần phát triển mạnh mẽ mối quan hệ giữa hai nhà nước Việt Nam và Hàn Quốc.

Thay mặt đoàn, ông Wuam Jinwon bày tỏ lời cảm ơn Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký Vũ Trọng Kim đã dành thời gian tiếp đoàn và mong muốn trong thời gian tới, UBTWMTTQ Việt Nam sẽ là địa chỉ tin cậy để kết nối giao lưu văn hóa, tôn giáo giữa Việt Nam và Hàn Quốc, đặc biệt trong những dịp lễ Phật đản, những ngày lễ lớn của quốc gia.

Hương Diệp

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 9
  • Hôm nay 216
  • Tháng hiện tại 61,970
  • Tổng lượt truy cập 23,468,219