Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
1

Ai cũng có thể thành Bụt?

Đăng lúc: 10:46 - 31/10/2017

Bây giờ mình cũng đã là Bụt rồi nhưng là Bụt rất nhỏ. Khi nào cái hiểu và cái thương của mình lớn thì mình mới thật sự là Bụt lớn. Mỗi người đều có khả năng làm cho cái hiểu và thương trong con người mình lớn lên

Khổ hạnh, canh chừng thân tâm

Khổ hạnh, canh chừng thân tâm

Đăng lúc: 19:08 - 16/06/2017

Ăn chay trường là tốt nhưng ăn theo kiểu khổ hạnh khiến thân tâm đều kẹt thì cần điều chỉnh. Có một thời gian Đức Phật Thích Ca đi theo con đường tu tập khổ hạnh, có ngày chỉ ăn một hạt mè, nhưng không hề thấy kết quả tốt đẹp. Thế là Ngài thay đổi, xuống suối tắm gội sạch sẽ, và uống bát sữa của cô thôn nữ dâng cúng, rồi ngồi thiền 49 ngày đêm, đắc đạo. Bài học khổ hạnh ấy đáng cho chúng ta suy gẫm.

longbieton.jpg
Tu tập là làm cho bên trong mình sáng hơn chứ không phải làm cho bên ngoài mình cằn cỗi đi
Thân tâm đều kẹt

Hình như trong chúng ta, không ít người đã từng đi theo con đường khổ hạnh. Một số có thể thành công, nhưng một số lại sinh ra kẹt. Kẹt là vầy, cái thân thì suy kiệt, bệnh hoạn, còn cái tâm thì ngã mạn, kiêu căng. Chuyện đời khó mà lường hết được, cái tâm lại càng khó lường khi nó chuyển động…

Tôi cũng từng phát tâm ăn chay trường, và ăn được hai năm. Cái thuở mới biết đạo, tâm mình hùng dũng vô cùng, quyết đạp bằng mọi chướng ngại, bất kể quy luật của cuộc sống. Tôi làm cái nghề cứ phải đi công tác liên miên, có khi đi cả tuần mới về nhà, rồi lại đi tiếp. Mà cách đây 30 năm, ở tỉnh, ở huyện, ở các xã vùng sâu, làm gì có nhiều quán chay, thậm chí nhiều vùng không có quán chay nào. Cho nên tôi ăn chay theo kiểu khổ hạnh toàn ăn cơm với nước tương, muối tiêu. Hồi đó càng không có khái niệm ăn trứng. Nhưng tôi rất tự hào với sự kiên định của mình.

Ăn kiểu đó mà lặn lội mưa nắng, thức đêm thức hôm viết bài, chẳng mấy chốc tôi từ một phụ nữ mơn mởn đã biến thành một người má hóp, thân gầy, cao 1,6m mà nặng 32kg. Tệ nhất là, từ chỗ xông xáo vác ba-lô đi khắp nơi, tôi bỗng yếu xìu, leo lên tầng một ngôi nhà thôi đã chóng mặt, hoa mắt, thở hổn hển, thậm chí có lần suýt xỉu giữa đường. Coi như… mất sức chiến đấu.

Thế rồi… tôi sực tỉnh. Tôi nghĩ, phải chăng mình đang đi theo con đường khổ hạnh? Và nó có kết quả giải thoát hay không chưa biết, chứ biết chắc là mình sẽ chết. Tôi biết rõ cơ địa, nghiệp duyên và công việc của mình chưa đủ duyên để trường chay nên đành quay lại ăn chay kỳ mỗi tháng 10-15 ngày tùy theo tình hình đi công tác. Tôi hồi phục sức khỏe dần, năng động trở lại. Và tôi có sức để làm thêm công tác từ thiện, viết sách Phật, hoằng pháp.

Còn thêm một vấn đề nữa ngoài chuyện suy kiệt cơ thể do ăn chay kham khổ, mà tôi cho rằng vấn đề này mới thật sự quan trọng. Đó là cái tâm của tôi, khi ăn chay trường một cách kiên quyết và khổ hạnh như thế, tình cờ nó lại sinh ra ngã mạn. Từ chỗ tự hào bước qua kiêu căng, ngã mạn chỉ có một sợi tóc. Bởi vì mình thấy mình “hay” hơn người, mình thấy mình “tu” hơn người, mình nhìn mọi người chung quanh một cách coi thường, như là họ chẳng có sức tu như mình. Chưa hết, khi ăn chay trường thì tôi ngồi vô bàn tiệc với bạn bè khách khứa bằng gương mặt “cách biệt” lắm, làm như có một lằn ranh với họ, thậm chí sẵn sàng tranh luận về chuyện chay mặn, khiến nhiều lần mích lòng. Nhưng tôi chỉ thấy tôi đúng, tôi hay, còn lại mọi người là… đọa hết.

Chọn cách sống trung dung, cách ăn chay phù hợp

Vậy đó, cái tâm nó chuyển động lúc nào chúng ta không biết đâu. Và khi nó chuyển động có thể mình chẳng nhận ra. Rốt cuộc, tu cũng có nghĩa là nhận diện được tâm mình. Và tôi nhận ra, tu là càng tiến tới vô ngã, nhưng sao mình càng tu thì cái ngã của mình càng bự chảng? Vậy mình đi sai đường rồi. Tóm lại, tu kiểu này cái thân thì suy, cái tâm cũng tệ, vậy thôi… tu bình thường trở lại! Bình thường là chọn cách ăn chay phù hợp với cuộc sống người Phật tử, nhất là phù hợp với cơ thể, với công việc, là nhìn mọi người một cách dung dị, không cao thấp hơn thua. Tôi trở lại là người dễ gần, dễ cảm thông, và người ta thích tiếp xúc với tôi hơn trước.

Đó là một kinh nghiệm xương máu trên đường khổ hạnh của tôi. Sau đó tôi có quan sát thì thấy hình như một số người cũng mắc vào căn bệnh y như tôi. Vì vậy nói ra để chúng ta cùng tự điều chỉnh thân tâm.

Sinh hoạt ngoài đời cũng có những chuyện khổ hạnh. Nhiều bà mẹ, bà vợ cả đời chắt mót dành dụm lo hết cho chồng cho con, không hề nghĩ tới bản thân. Rất đáng ca ngợi. Tuy nhiên, có một số người do sống khắc nghiệt với bản thân nên tự nhiên sinh ra khắc nghiệt với người khác lúc nào không hay. Họ không dám ăn dám mặc dám chơi, cho nên khó chịu khi thấy người khác ăn mặc đi chơi thoải mái. Khó chịu, ganh tị, nói thị phi, ghét bỏ, thậm chí nổi sân, là những tâm lý có thật. Ngay cả bà mẹ chồng, sẽ thấy khó chịu khi nàng dâu ăn ngon mặc đẹp. Như vậy sự khổ hạnh vừa có ích lại có thể có hại. Chúng ta cần giải phóng bản thân khỏi sự ràng buộc này, nếu không, sẽ cứ quẩn quanh trong cái khổ của thân và tâm.

Có lần tôi mạnh dạn khuyên các bà mẹ và bà vợ rằng, trừ những trường hợp gia đình quá khổ, chứ nếu có chút ít điều kiện, thì hãy thương lấy bản thân chứ không cần khổ hạnh và khắc nghiệt. Thương bản thân thì có gì sai? Bản thân mình có đẹp, có khỏe, có năng lượng, có vui vẻ, thì mình mới đủ sức lo cho người khác. Mình như ngọn đèn muốn tỏa sáng ra chung quanh thì bản thân mình phải có năng lượng, phải nạp năng lượng.

Năng lượng từ đâu ra? Từ nhiều nguồn lắm. Ở đây, ngoài chuyện vô chùa tu hành, niệm Phật, áp dụng những phương pháp Phật dạy, thì tôi đề cập thêm chuyện Tục đế đời thường, bởi đa số ai cũng sống ngoài đời, mình nên nói những gì thực tế. Năng lượng mà một bà mẹ bà vợ có thể tìm là ăn ngon chút xíu, mặc đẹp chút xíu, thỉnh thoảng đi xem phim, xem hát, du lịch, gặp gỡ bạn bè, thậm chí thích đeo dây chuyền, cà rá thì cứ mua mà đeo cho vui, cho xinh, vì đó là đồng tiền do mình làm ra chính đáng. Một người phụ nữ tươi tắn như vậy chắc chắn ai cũng muốn gần. Bà vui, bà khỏe là người khác đỡ phiền rồi. Bà bố thí nụ cười cho chung quanh là tốt lắm rồi. Mà người như thế chắc chắn tấm lòng sẽ dễ chịu hơn, rộng mở hơn, sẽ giúp đỡ mọi người chứ không hề ích kỷ. Ở đây, tôi không nói bà phải sống xa hoa, chỉ cần bà sống cân đối thôi là được. Cân đối giữa thương mình và thương người, cân đối giữa tiết kiệm và chi xài, cân đối giữa khắc nghiệt và hưởng thụ… Cuộc sống đời thường cần sự cân đối hơn là cực đoan.

Tóm lại, khổ hạnh như ngài Ca Diếp là tuyệt vời, kính phục. Nhưng chúng ta chưa đạt tới trình độ đó, đẳng cấp đó, thì coi chừng… Thà tu, thà sống một cách bình thường, cân đối, thân tâm thăng bằng, trung đạo.
Diệu Kim

Nuôi dưỡng lòng yêu nước

Nuôi dưỡng lòng yêu nước

Đăng lúc: 20:41 - 06/04/2017

Lòng yêu nước là một tình cảm tự nhiên và rất đỗi thiêng liêng của con người. Được tẩm ướp từ tình cảm gia đình, làng xã đến quốc gia xã hội, mỗi người lớn lên đều mang trong mình “tinh chất” của quê hương xứ sở. Tinh chất đó góp phần quy định nên tính cách của một con người, phân biệt với con người của một quốc gia khác. Đất nước, do đó, không đơn thuần chỉ là đất và nước, mà nó là hồn thiêng của dân tộc. Hồn thiêng được góp nên từ những mảnh tình gần gụi, từ những điệu hát ru, từ tiếng sáo diều, từ tấm áo nâu của mẹ, từ hình ảnh chân lấm tay bùn của bác nông phu…

gioto.jpg
Dâng hương Quốc Tổ Hùng Vương trong lễ giỗ sáng nay, 6-4 tại đền Hùng (Phú Thọ) - Ảnh: Dân Trí
Trong Tình ca (1952), Phạm Duy đã cụ thể hóa tình yêu đất nước thành tiếng nói, thành những con người…, tha thiết một cách tài tình: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi / Mẹ hiền ru những câu xa vời / À à ơi ! Tiếng ru muôn đời / Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui / Khóc cười theo vận nước nổi trôi, nước ơi / Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi / Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi…”. Và: “Tôi yêu biết bao người / Lý, Lê, Trần... và còn ai nữa / Những anh hùng của ngày xa xưa / Những anh hùng của một ngày mai…”. Cùng với dãy Trường Sơn, cùng với sông Cửu Long, sông Hương, sông Hồng, ông đã vẽ nên một dải đất nước nối liền. Với mỗi con người bình thường, quê hương đất nước gần gụi và giản dị thế ấy, nhưng nó là một phần của máu thịt, đi đâu cũng phải thương yêu, nhớ về.

Nỗi nhớ, hẳn nhiên gắn với nỗi tự hào. Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui ấy, khởi từ Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế Thần nông, kết hôn với Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục (Kinh Dương Vương); Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình Quân, sinh ra Sùng Lãm (Lạc Long Quân); Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm con; 50 người con theo mẹ lên núi, người con trưởng làm vua, xưng hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Các vua Hùng đã dựng nước như thế, tiếp nối qua 18 đời. Biết bao con người “mình đồng da sắt” đã vừa cấy cày, vừa giữ gìn “non sông gấm vóc”…

Dưới mái Đền Hùng, trên sườn Nghĩa Lĩnh, ngày 18-9-1954, Hồ Chủ tịch đã nói với các chiến sĩ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Ấy chính là lời “hịch”, nhắc nhở về niềm tự hào dân tộc, về lòng yêu nước, giữ nước và cũng là một lời tri ân sâu sắc đối với các bậc tiền nhân.

Yêu nước không chỉ đơn thuần thể hiện tình cảm đối với giống nòi, tổ tiên; không phải chỉ giữ nước khỏi sự tham tàn của ngoại xâm, mà phải dựng xây đất nước ngày thêm hùng mạnh. Nó là hành động. Hành động đó phải được cụ thể hóa qua những việc làm thiết thực để một quốc gia hùng mạnh thật sự cả “chất” lẫn “lượng”.

Điều này đã được Đức Phật khái quát qua 7 yếu tố: một quốc gia mà người dân thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau; tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc trong niệm đoàn kết; người cầm quyền không ban hành những luật lệ không nên ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân tộc; người dân biết tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão (tức những bậc đạo đức, trí tuệ) và nghe theo lời dạy của những vị này; không bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ phải sống với mình; tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp; bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán (các vị hiền thánh), khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc (theo kinh Đại Bát Niết-bàn, Trường Bộ kinh). Một quốc gia nào làm được như thế, quốc gia đó ắt sẽ hùng mạnh.

Cần phải nói rằng, Phật giáo đã có mặt ở nước ta từ thời Hùng Vương cùng với các vị Tăng và thương nhân Ấn Độ. Truyện “Nhất dạ trạch” trong Lĩnh Nam chích quái kể vào thời Hùng Vương đời thứ 3, vua Hùng có con gái là Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử là một chàng trai nghèo không một mảnh khố che thân. Tiên Dung và Chử Đồng Tử đã được một vị Tăng tên Ngưỡng Quang dạy cho phép Phật, cả hai đều ngộ đạo. Chử Đồng Tử, “người Phật tử đầu tiên” của ta ấy, đã góp phần đem đạo vào đời; dân ta hơn hai ngàn năm qua đã thấm nhuần lời Phật dạy. Lời dạy của Phật không chỉ hướng đến giải thoát giác ngộ, mà giúp con người sống hiền lương, yêu nước, giữ nước và xây dựng quốc gia hùng mạnh. Trong bốn ơn nặng mà bất kỳ người con Phật nào cũng phải tâm niệm, ơn quốc gia xã hội được đặt lên hàng đầu.

Theo Phật giáo, mỗi con người sống trong đời này đều gắn với hai thứ quả báo, đó là chánh báo và y báo. Chánh báo chính là nghiệp quả tạo nên con người họ, và y báo chính là hoàn cảnh chung quanh họ. Hoàn cảnh ấy đâu xa lạ, chính là quốc gia, xã hội. Chánh báo và y báo ràng buộc chặt chẽ với nhau. Chánh báo cũng là mình và y báo cũng là mình. Cho nên, quốc gia xã hội cũng chính là một phần của mình, và chúng ta chia sẻ y báo đó cùng với dân tộc mình, tất cả đều là một phần của nhau.

Giáo lý này đã dạy cho chúng ta biết yêu giống, thương nòi, dạy cho chúng ta biết yêu và bảo vệ giang san, tổ quốc. Tổ quốc lâm nguy, chúng ta đều có một phần trách nhiệm. Thay vì tủi hổ bởi sự yếu kém của quốc gia, dân tộc, chúng ta phải cùng nhau xây dựng đất nước, kiên quyết chống lại những cái “bất thiện”, bảo vệ cái thiện, tức bảo vệ những điều mang lại lợi ích cho mình và cho người. Đó mới là tinh thần yêu nước đúng nghĩa.

Được sinh ra là con người Việt Nam, mang dòng giống con Lạc cháu Hồng, có một ông Tổ chung là các vua Hùng, chúng ta cần phải thương yêu nhau và cùng nhau bảo vệ tổ quốc, cùng tri ân những bậc tiền hiền để Việt Nam vẫn là Việt Nam hùng mạnh ngàn năm:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng Ba

Khắp miền truyền mãi câu ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.
Quảng Kiến

Biết ơn - nền tảng của hướng thiện

Biết ơn - nền tảng của hướng thiện

Đăng lúc: 21:38 - 03/12/2016

Biết ơn, tiếng Pāli là kataññutā và thường đi đôi với từ katavedi. Kataññutā nghĩa là khởi tâm biết ơn khi mình có được lợi ích từ việc thọ nhận vật gì hay sự tử tế nào đó từ người khác, còn katavedi nghĩa là thể hiện sự biết ơn đó qua lời nói hay hành động. Kataññutā khi đứng một mình bao hàm cả nghĩa của từ katavedi.

Biết ơn, tiếng Anh là gratitude, xuất phát từ gốc La-tinh là gratia, nghĩa là ơn huệ, biết ơn. Theo Pruyser (1976), tất cả những từ xuất phát từ gốc gratia đều có nghĩa là “Phải làm tất cả mọi điều với lòng tốt, tâm lượng rộng rãi, như là một món quà, cao đẹp trong việc cho và nhận một cái gì đó một cách không vụ lợi” (tr.69).

Emmons và Shelton (2002) định nghĩa biết ơn là “cảm giác kỳ diệu, cảm giác mang ơn và ghi nhận giá trị cuộc sống” (tr.460). Trên phương diện đạo đức, biết ơn là cơ sở để hình thành và nuôi dưỡng các tâm niệm lành, các hành động thiện và những suy nghĩ tích cực trên con đường hướng thiện được cụ thể hóa qua các nội dung sau:
Biết ơn giúp chúng ta đối xử tốt với mọi người

Trong Phật giáo, biết ơn là khái niệm dùng để chỉ cảm giác mang ơn và có ý muốn đền ơn khi chúng ta thọ nhận một hành vi tốt từ một người nào đó. Tachibana giải thích rằng, hình thức đền ơn căn bản và quan trọng nhất liên hệ đến việc chu toàn bổn phận của người con đối với cha mẹ; trái lại, bất hiếu với cha mẹ là một trong những tội ác lớn nhất của con người (tr.235). Do đó, người biết ơn là người thực hiện hành vi đền ơn với tất cả như một người con làm tròn bổn phận đối với cha mẹ, hay ít ra là xem tất cả như người thân của mình. Cách đền ơn toàn tâm toàn ý như vậy đáng được thực hành và nhân rộng trong cộng đồng xã hội. Mỗi người đều nên khởi tâm biết ơn người khác như một bổn phận báo đền công ơn thọ nhận trong cuộc sống. Do đó, trong các mối quan hệ xã hội, quá trình cho-nhận được thiết lập và thường xuyên diễn ra thì sự thương yêu, tôn trọng và sẵn lòng làm tất cả những gì tốt đẹp cho người khác là việc làm tất nhiên của những con người biết suy nghĩ và quán chiếu.

nsgn.jpg

Cuộc sống là một mạng lưới mà mỗi người là một mắt xích. Do vậy, chúng ta thọ ơn không chỉ với những người thân hay những người mình trực tiếp có được lợi ích về vật chất hay phi vật chất. Trong hàng ngàn các mối quan hệ chằng chịt và phức tạp, trực tiếp cũng như gián tiếp, chúng ta thọ ơn ngay cả những người xa xôi mà chúng ta chưa hề quen biết. Chúng ta không chỉ thọ ơn những người cùng thời đại với mình mà còn chịu ơn những người của bao thế hệ trước nữa. Theo tinh thần Phật giáo, “Khoảng cách về không gian và thời gian không làm ngăn ngại các mối quan hệ. Giáo lý luân hồi của các tôn giáo Ấn Độ, đặc biệt là Phật giáo, dạy chúng ta hiểu rằng, trên thực tế, chúng ta không chỉ có quan hệ với con người mà còn với tất cả chúng sanh” (Tachibana, tr.228).

Một sự thật rằng, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi nói lời cảm ơn ai đó, hoặc đón nhận lời cảm ơn từ người khác. Chúng ta sẽ phấn chấn khi có ai đó nói rằng, chính mình làm cho họ thay đổi theo hướng tích cực và họ biết ơn về điều này. Chúng ta cũng xúc động không kém khi mình đang gặp việc rắc rối, có người tự nguyện tạm gác lại việc của họ để lăn xả vào cuộc giúp mình mà không tính toán so đo. Cảm giác phấn chấn ấy có mặt vì chúng ta thấy việc mình làm đem lại lợi ích thiết thực cho người khác. Cảm giác xúc động ấy là biểu hiện lòng biết ơn của chúng ta dành cho người trải lòng chia sẻ trong lúc mình cần nhất. Trong cả hai trường hợp, biết ơn và được biết ơn đều đem đến cho chúng ta niềm vui, tâm lý an ổn và có cảm xúc cân bằng hơn. Khi chúng ta nhận được lợi ích từ công sức và thiện chí của người khác dành cho mình, tâm niệm biết ơn có mặt, và khi ấy, chúng ta trở nên tử tế hơn, vì hiểu rằng, không lúc này thì lúc khác, không cách này thì cách khác, chúng ta đã, đang hoặc sẽ mang ơn mọi người. Ý niệm này giúp chúng ta sống tử tế hơn với tất cả mọi người.

Biết ơn giúp chúng ta tận tụy hơn trong công việc

Tấm gương sinh động nhất về sự tận tụy trong công việc là Đức Phật. Sau khi thành đạo, việc đầu tiên của Đức Phật là thể hiện lòng biết ơn đối với cây bồ-đề đã che mưa chắn nắng cho Ngài trong suốt thời gian Ngài tu tập cho đến khi chứng nghiệm đạo quả giác ngộ. Nhiều sử liệu kể lại rằng, sau khi hưởng pháp lạc giải thoát, Ngài dành một tuần để đứng trước cây bồ-đề, nhìn về gốc cây với ánh mắt tri ân. Ngài thể hiện lòng biết ơn giáo pháp Ngài vừa tìm được một cách thiết thực nhất là tìm phương pháp để chuyển tải pháp giải thoát đến số đông dân chúng vốn nhiều tầng lớp với đủ các trình độ khác nhau. Khi đã tận tâm tận lực tìm được phương pháp truyền đạt hiệu quả, Ngài bắt đầu cuộc hành trình hoằng truyền giáo pháp, một hành trình đền ơn không có điểm dừng!

Đối tượng đầu tiên Ngài nghĩ đến để trao gởi thông điệp giải thoát là hai vị thầy tâm linh đầu tiên Ngài đã theo học trên con đường tìm cầu chân lý, đó là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Mặc dù Ngài không chứng đạt giác ngộ khi theo học giáo lý từ hai vị này, nhưng họ là những vị ân nhân trợ duyên không nhỏ trên lộ trình tâm linh của Ngài. Sau khi quán chiếu và biết cả hai vị đều đã mất, Ngài liền nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước đó. Đây cũng là những người Ngài từng chịu ơn bởi lẽ nhờ họ mà Ngài biết đến các hình thức khổ hạnh để Ngài tự chiêm nghiệm trong lúc hành trì. Cho dù đây chưa phải là con đường rốt ráo đưa đến giác ngộ giải thoát, nhưng những trải nghiệm này là động cơ giúp Ngài toàn tâm toàn trí để tìm ra lối đi riêng cho mình.

Một thời gian sau, Ngài bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp trong tinh thần biết ơn đến những đối tượng khác. Đó là Ngài trở về hoàng cung hóa độ người thân của mình cũng trong tinh thần biết ơn. Ngài độ các vị vua đương thời cũng trong tinh thần báo đáp. Suốt một cuộc đời tận tâm tận lực không mệt mỏi, Ngài thực hiện cuộc hành trình độ sinh trong tinh thần tri ân vô hạn. Thế nhưng, chúng ta quen nhìn Đức Phật là một bậc Đại giác ngộ, Đại từ bi, Đại công đức mà mấy ai thấy Ngài là bậc Đại tri ân đáng cho chúng ta học hỏi trọn đời. Không chỉ thể hiện hành vi giáo dục người khác qua hành động của chính mình, Đức Phật còn thể hiện tinh thần tri ân trong nhiều bài kinh. Trong kinh Điềm lành tối thượng (Mangala sutta - kinh số 4, phẩm Nhỏ, kinh Tập), Đức Phật dạy, biết ơn là một trong các điềm lành tối thượng để tiến bộ trên lộ trình tâm linh.

Lòng biết ơn lại được thể hiện rõ nét qua tấm gương của Tôn giả Sāriputta (Xá Lợi Phất), một trong các vị đệ tử lớn của của Đức Phật. Sau khi gặp Tôn giả Assaji (Ác Bệ), Tôn giả Sāriputta hiểu được lý nhân duyên và tỏ ngộ chân lý. Từ đó, Tôn giả Sāriputta cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình trong sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp để đền đáp ơn lành được gặp Chánh pháp. Tôn giả có trí tuệ siêu tuyệt và phương pháp giảng dạy giáo pháp của Tôn giả thật là đặc biệt. Tôn giả là một trong số ít các đệ tử của Đức Phật có thể thay Đức Phật thuyết pháp cho đại chúng, giảng giải chi tiết, phân tích cụ thể các vấn đề giáo pháp sau khi được Đức Thế Tôn tuyên thuyết một cách vắn tắt và các bài pháp thoại ấy đều được ghi lại trong một số kinh Nikāya (điển hình như Trung bộ kinh số 5: kinh Không uế nhiễm; Trung bộ kinh số 144: kinh Giáo giới Chanda; Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương X, kinh Sāriputta-Kotthika; Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm IV, kinh số 5: Đất; Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm III, kinh số 21: Chứng thực với thân; chương III, phẩm XIII, kinh số 128: Anuruddha; chương III, phẩm XVI, kinh số 158: Thối đọa; chương IV, phẩm XVIII, kinh số 173: Phân tích). Tôn giả là cánh tay đắc lực của Đức Phật trong quá trình truyền bá Chánh pháp. Tấm gương tri ân và báo ân của Ngài thật đáng để chúng ta ngưỡng mộ và noi theo.

Như vậy, biết ơn và dốc lòng tận tụy sống một cuộc đời đem lại lợi ích cho mọi người để đền ơn là đặc tính tự nhiên của bậc trí, tựa như chúng ta hít thở khí trời. Người trí thực hành lòng biết ơn và đền ơn trong tinh thần phục vụ như một bản năng, một bổn phận. Với trí tuệ siêu phàm và tâm từ rộng lớn, người trí rõ biết và cảm nhận được những lợi ích có được từ con người và cuộc sống xung quanh. Nếu không cảm nhận được điều này từ bản chất, việc phát khởi tâm biết ơn là một điều không phải dễ dàng, và càng khó hơn là thể hiện tâm biết ơn đó bằng sự tận tụy và hết lòng trong công việc.

Biết ơn giúp chúng ta thực hành pháp bố thí tốt hơn

Chính vì muốn nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn các thành phần xã hội trong cộng đồng để tiến bộ và từng bước hoàn thiện nhân cách của mình, Đức Phật dạy các đệ tử của Ngài cần phải bố thí như là biểu hiện của lòng biết ơn. Mình biết nhận từ người khác và có được lợi ích từ sự thọ lãnh này thì cần phải khởi tâm ban tặng như một quy luật của cuộc sống. Ngài dạy “Có hai loại bố thí, đó là bố thí tài vật và bố thí pháp. Trong hai loại bố thí này, pháp thí tối thắng hơn” (Pháp cú, câu 354; Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm XIII: Bố thí). Người đệ tử xuất gia của Ngài chuyên tâm học pháp và hành pháp, thì sẽ có pháp làm món quà tối thượng để chia sẻ với mọi người. Do đó, cả cuộc đời của người xuất gia là tận tụy, chuyên tâm tu học để thể hiện lòng biết ơn và đền ơn đối với mọi người, mọi loài trong vòng duyên sinh kết nối rộng lớn này qua cách thức cho đi và nhận lại.

Theo truyền thống, Đức Phật dạy, người xuất gia không trực tiếp làm một nghề nào như người cư sĩ để nuôi sống bản thân (kinh Di giáo) mà sống tùy vào sự phát tâm cúng dường của hàng cư sĩ tại gia để nuôi dưỡng tâm niệm tri ân thông qua việc chuyên tâm bố thí món quà tâm linh đến hàng cư sĩ ngoại hộ. Trong khi đó, người cư sĩ còn phải làm nhiều bổn phận ở đời, phải làm các nghề để kiếm kế sinh nhai, nên chưa thể toàn tâm dành hết thời gian trong ngày để học pháp và hành pháp. Họ mong được hiểu giáo pháp Đức Phật được truyền đạt từ người xuất gia và đáp lại, họ có điều kiện để cúng dường tài vật đến các bậc thầy tâm linh. Những lời Đức Phật dạy được ghi lại trong nhiều kinh rằng, người xuất gia là ruộng phước tối thượng để người cư sĩ gieo trồng công đức (Tăng chi bộ kinh, tập 1, chương III, phẩm 7, mục 70: Các lễ Uposatha; mục 75: Cần phải khích lệ; phẩm 10: phẩm Hạt muối; mục 94: Con ngựa thuần thục; phẩm 14: Kẻ chiến sĩ, mục 131: Kẻ chiến sĩ).

Do đó, người xuất gia bố thí pháp, người cư sĩ tại gia cúng dường tài vật là việc làm nhằm tạo cho đôi bên ý thức được cuộc sống do duyên nhau mà tồn tại trong quan hệ cho-nhận trực tiếp giữa người xuất gia và tại gia, qua đó thể hiện và nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn. Mỗi người nương vào pháp bố thí này như một bài thực hành căn bản để khởi niệm biết ơn dễ dàng hơn đến với những người không tham gia vào vòng cho-nhận trực tiếp. Từ ý niệm biết ơn trong quan hệ cho-nhận, chúng ta tự nhắc nhở mình - phải biết cho đi để xứng đáng với những gì mình đang nhận lại từ cuộc đời này. Với tâm niệm biết ơn như vậy, mỗi người nên có trách nhiệm với nhau hơn, mở rộng khối óc và đôi tay, sẵn sàng thực hành bố thí trong tinh thần “món vay món trả phải đồng”.

Biết ơn giúp chúng ta hài lòng với cuộc sống thực tại

Khi thấy mình là kẻ thọ ơn, chúng ta dễ dàng có cảm giác hoan hỷ chấp nhận và có tâm lý hài lòng, bằng lòng với những gì mình đang có hay vị trí mình đang là. Cảm giác này hoàn toàn chủ quan và mang tính tương đối. Cùng trong một điều kiện sống, người hài lòng thì cảm nhận được hạnh phúc, an lạc, nhưng người không hài lòng thì cảm nhận sự đau khổ, bất an. Cùng trong một môi trường, không gian sống, khi này chúng ta hài lòng, lúc khác chúng ta lại không vừa ý. Với vật chất thế gian, con người chỉ có được trạng thái hài lòng tạm thời mà thôi. Tâm chao đảo, mất cân bằng do tham đắm và bám víu vào những gì chúng ta ưa thích, từ chối và đẩy ra những gì chúng ta không ưa thích khiến chúng ta khó có được sự hài lòng lâu bền. Chỉ khi nào biết trân quý những gì chúng ta đang có, đang sử dụng với ý niệm biết ơn, biết đủ, chúng ta mới dừng tâm đòi hỏi và tìm cầu để sống một cuộc đời trọn vẹn với thực tại.

Thường xuyên thực hành hạnh biết ơn sẽ giúp chúng ta có cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ và an lành. Người không hài lòng với những gì mình đang có thì không thể ý thức được rằng mình đang thọ ơn người khác. Do vậy, thay vì khởi niệm biết ơn, họ chỉ có thể khởi tâm phàn nàn. Biết ơn, đơn giản là có cảm giác mình là người thọ lãnh và ghi nhận giá trị của những gì mình nhận được từ con người và cuộc sống. Ý niệm biết ơn là mạch máu làm tươi nhuận con tim, nuôi dưỡng khối óc và tưới tẩm tâm hồn chúng ta. Có rất nhiều cơ hội để chúng ta có thể khởi tâm cảm ơn người khác. Với cảm nhận đầy đủ về những gì mình đang có và những gì mình đang trải qua đủ để chúng ta khởi niệm biết ơn. Thân thể, vóc hình, trí tuệ, sắc đẹp, sức khỏe, tài sản, tình cảm chúng ta sở hữu trong kiếp sống này đủ để nhắc chúng ta khởi niệm cảm ơn những gì cuộc đời ban tặng. Từ trong ý niệm biết ơn, chúng ta biết cách sử dụng những gì chúng ta đang có để đem lại lợi ích cho mình, cho người, sống một cuộc đời đáng sống. Đây là cách thể hiện tinh thần biết ơn và đền ơn một cách thiết thực nhất.

Chúng ta có thể làm cho cuộc sống trở nên phong phú và giàu có với tâm niệm biết ơn. Bằng cách ghi nhận thân và tâm này vốn đã được vay mượn từ cha mẹ thuở mới sinh ra, ghi nhận những gì chúng ta đã, đang và tiếp tục thọ nhận từ người khác trong cuộc sống hàng ngày, ghi nhận giá trị ấy để luôn nhắc nhở mình sống trong tinh thần biết ơn. Chúng ta có trọn quyền và có đủ khả năng điều khiển ý tưởng của mình để đạt được hạnh phúc và bình an trong cuộc sống trên nền tảng của tâm niệm biết ơn. An lạc hay đau khổ, thật ra phần lớn đều do mình chọn lựa hơn là do hoàn cảnh hay từ những thứ bên ngoài đem lại, và tinh thần tri ân và báo ân sẽ giúp ta trong việc này.

Khởi niệm biết ơn không có nghĩa chúng ta phủ nhận - những buồn đau, thất vọng xảy ra với mình như một phần trong cuộc sống. Biết ơn là nhận ra mình còn được nhiều thứ từ cuộc đời này và hãy lấy những cái có được ấy làm toa thuốc trị bệnh đau buồn. Một khi chúng ta phàn nàn, nghĩa là chúng ta cảm thấy thiếu thốn hay không hài lòng với cuộc sống hiện tại thì chúng ta có thể khởi lên ý niệm biết ơn chăng? Cứ quay lại nhìn mình, nhìn lại những gì mình đang có, đủ để chúng ta khởi niệm cảm ơn, để tâm hồn bình an và cảm thấy hài lòng với cuộc sống còn nhiều điều bất toàn này. Vấn đề là khi biết khởi tâm biết ơn, chúng ta có đủ khả năng vượt trên những đau buồn như một cơ hội để trưởng thành. Người khôn ngoan biết lấy nghịch cảnh làm cơ hội để học hỏi và tự thân biết cách vươn lên từ trong bĩ cực nhằm hóa giải và thăng hoa nỗi đau thành niềm vui. Rác rưởi có thể sử dụng thành dưỡng chất cho cây lá tươi xanh đâm chồi nảy lộc, cho hoa trái khoe hương tỏa sắc giữa đất trời.

Khi chúng ta chú ý đến điều gì, cái đó trở nên quan trọng và chiếm vị trí trung tâm trong tất cả suy nghĩ, ý tưởng của mình. Hơn thế nữa, bao nhiêu ý tưởng liên quan đến từ khóa ấy cũng lần lượt xuất hiện. Ví như khi chúng ta gõ một từ khóa nào đó vào hệ thống tìm kiếm trên mạng, như Google chẳng hạn, thì lần lượt từng trang một, bao nội dung liên quan đến từ khóa ấy đều xuất hiện, chúng ta dễ dàng tìm tiếp và tìm tiếp nữa. Cũng như vậy, khi có một ‘từ khóa’ nào đó xuất hiện trong ý tưởng, ví dụ đó là một điều chúng ta ước muốn. Thế là biết bao ý tưởng đều từ đó phát sinh. Tương tự chim bay theo đàn, ý tưởng cuộn theo từng mảng chứ không tồn tại riêng lẻ bao giờ. Một sự thật rằng, chúng ta không nhận được những gì mình mong muốn, nên chúng ta không hài lòng với cuộc sống hiện tại. Nếu mỗi ngày chúng ta dành 5 phút để ước muốn thì thời gian 1.435 phút còn lại (24 tiếng đồng hồ là 1.440 phút) trong ngày chỉ để lo lắng, suy nghĩ. Vậy liệu những mong muốn của mình có thành tựu hay không? Ham muốn chỉ đến với người không hài lòng thực tại và không biết cách khởi niệm biết ơn.

Do đó, người không biết ơn thì tâm luôn lăng xăng bận rộn mà không thể hướng thượng và hướng thiện. Nếu chúng ta bình tâm quan sát bản thân mình với tất cả năng lực mình đang có, những gì mình đang sở hữu thì chúng ta sẽ đi đúng hướng trong việc dự đoán, chứ không phải mong cầu cho thỏa mãn lòng tham. Làm được thế này, tâm chúng ta sẽ trú trong “ngưỡng an toàn” và không quá bận rộn vô ích với những điều xa rời thực tế với tâm lý mệt mỏi, nhọc nhằn vì mong cầu mà không đạt được. Thay vì lao tâm khổ trí vì những ý tưởng tiêu cực do lo lắng, sợ hãi tạo ra, ý niệm biết ơn sẽ giúp chúng ta trở nên an ổn và thanh thản hơn trong cuộc sống.

Biết ơn giúp chúng ta bớt đi ý tưởng chấp ngã, mở rộng tâm hồn

Một lợi ích nữa là khi chúng ta biết khởi niệm biết ơn thì ý niệm chấp ngã của chúng ta vơi dần. Bằng cách thực hành biết ơn, chúng ta ý thức rõ ràng rằng, chúng ta đơn giản chỉ là một phần không thể tách rời của một bộ phận lớn hơn. Càng ý thức rõ ràng về mối quan hệ duyên sinh giữa mình và thế giới lớn hơn bên ngoài, chúng ta càng trở nên khiêm tốn hơn, thấy mình bé nhỏ lại và phụ thuộc nhiều vào thế giới chúng ta đang sống. Bớt đi ý niệm chấp ngã không có nghĩa là chúng ta đánh mất mình mà là biểu hiện về sự trưởng thành của nhận thức, là sự trưởng thành về khả năng giữ tâm thăng bằng và an lạc nhờ vào tâm niệm biết ơn.

Sống trên đời này, chúng ta không thể tồn tại, đó là chưa nói đến thành công, nếu không có cha mẹ, thầy, bạn và nhiều người thân hay không thân khác nữa. Hẳn là ít nhất chúng ta không thể không mang ơn những người này. Ý tưởng “những gì tôi có được ngày hôm nay là do bản thân tôi, không ai giúp cả” chỉ phản ánh cái nhìn thiển cận của người vô ơn và chấp ngã mà thôi. Chính tâm niệm biết ơn giúp chúng ta hạnh phúc trong vòng tay của người thân như cha mẹ, thầy tổ, bạn bè. Đây là động cơ để mở lòng sống tốt với mọi người và là cách hướng đến con đường thánh thiện trong mọi tình huống. Khi bắt đầu cảm nhận được lợi ích và ý nghĩa với những gì mình trải nghiệm, chúng ta dễ dàng thấy điều hay, lẽ đẹp nơi người khác. Biết ơn giúp cho chúng ta có niềm tin nhiều hơn trong các mối quan hệ. Biết ơn giúp chúng ta cảm nhận được những gì mình thọ nhận từ người khác để dễ dàng khởi niệm đền ơn. Lưu tâm đến cái tốt, cái đẹp thì những tâm niệm và hành động tốt đẹp dễ dàng phát sinh và chúng ta có thể nhân rộng những điều thiện lành trong cuộc sống và rộng dần ra từ nơi chúng ta sinh sống.

Với tâm rộng mở trong tinh thần biết ơn, chúng ta dễ tha thứ hơn, nhờ đó các vết đau tâm lý dễ chữa lành hơn. Tha thứ là chìa khóa để chữa lành vết thương tâm lý và cảm xúc, đồng thời, tha thứ chỉ có thể làm được khi khởi lên ý niệm biết ơn. Trong đau buồn mà vẫn thấy mình “được” chứ không mất, chúng ta mới có thể khởi niệm biết ơn và dễ dàng tha thứ. Tha thứ có thể thuần túy diễn ra từ trong ý niệm thông qua trị liệu, thiền định, thực hành tâm từ bi và sẵn lòng cảm thông đối với tất cả mọi người. Tha thứ cho chính mình hay người nào đó là chất liệu nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành hơn và chữa lành vết thương lòng nhanh hơn.

Biết ơn giúp chúng ta vững vàng hơn trong cuộc sống

Trong những tình huống khó khăn nhất, tâm chúng ta chùn xuống và các tâm lý tiêu cực đua nhau xuất hiện trên bề mặt ý thức. Điều này làm cho nỗi đau trương phồng thêm lên một cách không cần thiết. Trong những tình huống như vậy, nếu chúng ta bình tâm nhìn lại để kịp nhận ra rằng, những gì chúng ta đang có, kể cả nỗi khổ niềm đau vừa lưu dấu trong tâm, là món quà vô giá để chúng ta khởi tâm cảm ơn tất cả. Sự mất mát để lại niềm đau, nhưng đáng giá hơn là bài học vô thường sinh động mà cuộc đời ban tặng. Chúng ta hãy biết ơn điều này và với tâm lý biết ơn như vậy, đau thương mất mát được chữa lành nhanh chóng.

Biểu hiện lòng biết ơn đối với người khác có nghĩa là chúng ta đang dành cho người ấy một sự ghi nhận và hỗ trợ tinh thần với ngụ ý rằng việc người ấy làm cho chúng ta là có ý nghĩa. Điều này tạo cho người ấy tăng thêm niềm tin việc mình làm là đúng, từ đó khởi tâm hoan hỷ, tinh thần phấn chấn hơn và sống bình an hơn.

Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những thay đổi mới mẻ trong ta và trong cuộc sống. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được sự đóng góp của người khác vào sự thành công của bản thân mình một cách dễ dàng. Mỗi bước tiến trên lộ trình tâm linh là mỗi cơ hội để chúng ta thể hiện tâm biết ơn của mình. Biết ơn chính là động cơ, là nền tảng cho mỗi bước tiến trên con đường hướng thiện của bản thân mỗi người. Với sự biến đổi không ngừng của môi trường và cuộc sống, chúng ta phải luôn xem lại mình để thích ứng với hoàn cảnh hiện tại. Mỗi lần thích nghi với môi trường hay hoàn cảnh mới, chúng ta có cơ hội cảm ơn tất cả để chúng ta có thể vươn lên một nấc thang cao hơn, một trạng thái hài lòng được thiết lập trong quá trình tu tập.

Ngay cả trong hoàn cảnh không như ý, chúng ta cũng nên khởi tâm biết ơn vì nhờ có khó khăn, thất bại chúng ta mới có dịp hiểu rõ khả năng thực tế và kỹ năng xoay xở tình huống của bản thân, cũng như có dịp quan sát những tâm lý khởi lên và dâng trào đến mức độ nào trong bối cảnh bất như ý đó. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta định hướng, hạ quyết tâm để đứng vững và bước chắc trên con đường hướng thượng nhằm hoàn thiện nhân cách của mình.

Biết ơn đem lại nhiều lợi ích từ cơ thể khỏe mạnh đến tâm lý ổn định, tinh thần sảng khoái và làm tươi mát cuộc sống nội tâm cũng như trong các quan hệ giao tiếp với người xung quanh. Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ có cái nhìn thực tế, rõ ràng và chính xác hơn qua lăng kính duyên sinh về khả năng thực tế của bản thân, về sự góp phần của con người, môi trường và những sắc màu mình trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày. Qua lăng kính của biết ơn, mọi vật trở nên trong sáng hơn, con người ngày càng trưởng thành hơn và cuộc sống mỗi ngày càng thêm tươi đẹp hơn.

Liên Trí

________________

Tài liệu tham khảo

Emmons, R A. & Shelton, C. M. (2002). Gratitude and the science of positive psychology. In: Handbook of positive psychology. Snyder, C. R.; Lopez, Shane J.; New York, NY, US: Oxford University Press. 459-471.

Pruyser, P.W. (1976). The minister as diagnostician: Personal problems in pastoral perspective. Philadelphia, PA: Westminster Press.

Tachibana (1992/1975). The ethics of Buddhism. London: Curzon Press.

Thích Minh Châu (dịch) (1996). Tăng chi bộ kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Thích Minh Châu (dịch) (1997). Trung bộ kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Thích Minh Châu (dịch) (1997). Tương ưng bộ kinh. TP.Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Bố thí ba-la-mật trong thời hiện đại

Bố thí ba-la-mật trong thời hiện đại

Đăng lúc: 18:27 - 01/12/2016

Xin các bạn nhớ cho rằng: Chúng ta đều là người du hành đến thế giới này. Đến một thời điểm nào đó, tất cả chúng ta đều phải ra đi! Cái chúng ta để lại cho đời như lòng từ bi, bố thí mà không cần đền trả là một di sản quý giá, một bài học giá trị cho đời.





Phật dạy bố thí mà còn ý nghĩ có người cho, người nhận, và vật thí là chưa rốt ráo vì bố thí mà còn tính toán là bố thí có ý mong cầu.

Thường khi mình bố thí là do có đối tượng (nhu cầu), nên mình mới cho (cung cấp); và vật thí càng có giá trị cao và nhiều chừng nào thì bố thí sẽ có nhiều công đức lớn. Tất nhiên, hễ có bố thí là mình đã có phước báo rồi! Ở đây, chúng ta muốn học hạnh bố thí không chỉ có phước mà luôn cả huệ nữa! Cái khó ở đây là bố thí mà không thấy có cầu và có cung thì bố thí cái gì, và bố thí cho ai?

Để chuyên chở đầy đủ tinh thần ba-la-mật, bố thí phải mang ý nghĩa của ‘tam luân không tịch’ có nghĩa là 3 không (không thấy người cho, không thấy người nhận, và không thấy vật thí) và được luân chuyển liên tục, không dứt. Phần nhiều, chúng ta quan niệm là phải bố thí cho đúng người và đúng cách. Nhưng theo tinh thần Bát-nhã là bố thí mà không thấy có cho, có nhận, và có vật thí. Khi mình phát tâm muốn cho là mình cứ cho. Bất kể người kia là ai, và vật thí là gì, tài thí hay pháp thí, v.v… không quan trọng.

Để đạt được tinh thần "tam luân không tịch" chúng ta phải thay đổi cách suy nghĩ và thái độ của mình. Thay vì nghĩ về mình, chúng ta nghĩ nhiều về người và tự đặt câu hỏi mình có thể làm được gì cho người khác. Các bậc hiền nhân trên thế giới đều làm vậy. Họ luôn đặt tinh thần phụng sự người khác lên trên hết; thậm chí họ không cần biết người mà họ phụng sự là ai. Họ chỉ cần biết là việc đó đang cần giúp đỡ. Thế là họ ra tay ngay! Sỡ dĩ họ cho mà không cần đền trả và cũng không cần biết người nhận là ai chỉ vì họ tìm thấy niềm vui, và hạnh phúc thật sự trong khi cho.

Việc bố thí ba-la-mật, không cần biết người nhận, cũng như người cho đã được thực hiện tại nhiều nơi. Chẳng hạn, có một nhóm người thiện nguyện đã thành lập một quán ăn, gọi là Karma Kitchen, tạm dịch là Bếp ăn Nghiệp quả tại thành phố Berkeley, ở miền Bắc California, Hoa Kỳ. Họ phục vụ khách hàng như tất cả mọi quán ăn khác, nhưng mỗi khi khách hàng chuẩn bị trả tiền thì họ được cho biết là đã có người trả trước cho họ rồi!

Nếu muốn noi theo cử chỉ của vị khách ăn trước họ thì họ có thể trả tiền cho người ăn sau. Cứ vậy mà luân lưu. Người khách ăn không cần biết là đã ăn bao nhiêu và sẽ phải trả bao nhiêu cho xứng. Nếu họ không muốn trả thì cũng không sao cả! Nói chung, phần ăn của họ đã được người ăn trước trả xong cả rồi. Cũng tại Hoa Kỳ, ở thành phố Bluffton, South Carolina, từng có một người khách hàng của quán cà-phê trả 100 đô-la cho phần cà-phê của mình và xin bao trả hết trên số tiền đó, cho những ai đến mua sau ông.

Dụng ý của những hành động trên là muốn mọi người thực tập hạnh bố thí, cho mà không cần phải có một mục đích rõ rệt! Chỉ cần chúng ta học cách cho. Còn cho ai và cho như thế nào, cũng như cho cái gì thì không quan trọng. Nếu mỗi người đều thực tập theo phương cách này thì rõ ràng ‘sự cho’ sẽ không đứt đoạn (tam luân không tịch). Và mọi người đều xem đây là một cử chỉ bình thường trong cuộc sống.

Giống như chuyện một nhà thám hiểm đến một xứ ở châu Phi để làm nghiên cứu. Vì đường sá của quốc gia này rất giới hạn, nên họ chọn đường sông để di chuyển khắp nơi. Một hôm tàu của họ bị chết máy và mắc cạn. Họ dùng đủ mọi cách để đưa con tàu ra khỏi vùng cạn, đều không hiệu quả. Bỗng dưng từ đâu có một chiếc tàu đánh cá chạy đến kéo tàu họ ra khỏi chỗ cạn và còn cho thêm xăng dầu cũng như giúp sửa máy để tàu họ đi tiếp.

Sau khi làm xong, chiếc tàu đánh cá nọ rồ máy chạy thẳng trước sự kinh ngạc của các nhà thám hiểm vì họ dự định sẽ nói lời chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của chiếc tàu nọ, hoặc trả một ít tiền chi phí. Khi hỏi một nhân viên người bản xứ, các nhà thám hiểm mới hiểu rằng: Ở xứ sở này, khi ai thấy người khác gặp nạn thì phải giúp đỡ ngay, không cần nhờ vả hay nói lời cảm ơn. Thật là một phong tục đáng quý!

Chúng ta thường quan niệm rằng chỉ các bậc Bồ-tát thượng nhân mới có thể làm những việc bố thí ba-la-mật vô thượng như vậy! Nhưng những ví dụ trên cho ta thấy tất cả mọi người nếu muốn phát tâm tu hạnh bố thí ba-la-mật đều có thể làm được.

Một số người lại lo rằng nếu mình bố thí không đúng chỗ sẽ không những làm tổn thương người nhận mà còn làm xót xa lẫn người cho. Chính vì những nguyên nhân lo lắng này mà hạnh bố thí ba-la-mật trở nên khó thực hiện. Như chúng ta đã thấy ở trên, tại sao một người vào tiệm cà-phê tặng 100 đô-la cho những người mình không quen biết, và có thể, là họ không cần số tiền bố thí này? Như vậy dụng ý của người cho tiền này là gì? Hay là vì ông ta có quá nhiều tiền nên đem cho chơi để làm vui?

Theo một nghiên cứu ở Đại học Harvard, Hoa kỳ năm 2009 cho thấy: người càng hạnh phúc bố thí nhiều hơn và càng bố thí khiến họ vui hơn. Các nhà nghiên cứu đưa đến kết luận rằng: Hạnh phúc và bố thí có một sự hỗ tương tích cực cho nhau. Nghĩa là, càng cho thì càng hạnh phúc, và càng hạnh phúc thì cho nhiều hơn!

Chính vì là mật hạnh của một Bồ-tát nên bố thí ba-la-mật không phải là một hình thức bố thí tầm thường. Ngoại trừ, chúng ta đừng để tâm âu lo về người nhận và vật thí làm trở ngại bồ-đề tâm của mình; bằng không mình sẽ khó thực hiện được hạnh này. Như chúng ta thường nghe về hạnh từ bi thực sự. Nó có nghĩa là thương yêu người và tất cả mọi loài mà không cần phải có điều kiện, không có một lý do, và tất nhiên là không cần phải có lợi về phần mình. Thế mới biết để tu hạnh bố thí "tam luân không tịch", chúng ta phải học hiểu và thử qua.

Sau khi làm xong, nếu thấy vẫn còn vướng mắc, phiền não thì rõ ràng là tâm mình vẫn còn lệ thuộc vào một điều kiện nào đó mới có thể thực hiện được. Điều kiện ở đây có nghĩa là người kia phải nghèo khổ, phải cần thứ mình cho, phải đúng đối tượng mà mình muốn cho, v.v... và v.v… Nếu còn nói đến điều kiện thì hạnh bố thí ba-la-mật sẽ không thể thực hiện được!

Để hạnh bố thí theo tinh thần "tam luân không tịch" được thực hiện và trải rộng khắp nơi, chúng ta phải có niềm tin nơi con người. Nó có nghĩa là chúng ta không cần biết vật thí của mình được dùng vào việc gì. Chúng ta tin rằng người nhận sẽ học được tinh thần bố thí và tìm cách làm như vậy khi họ thấy người khác cũng cần sự giúp đỡ của họ. Ngoài ra, mình cũng tin rằng việc lành, việc tốt sẽ dễ khiến người khác bắt chước làm theo vì, như Phật dạy, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, nghĩa là đều có những đức tính tốt. Chỉ cần đức tính tốt đó được thực hiện và phơi bày cho họ thấy thì họ sẽ làm theo.

Một bà cụ nọ nhân ngày sinh nhật 85 tuổi đã nghĩ ra một ý hay là tặng 85 đô-la, mỗi lần 5 đô-la cho người đi đường nào bà cụ gặp và tùy ý người đó muốn dùng số tiền vào việc gì thì cứ tùy nghi. Có người hỏi tại sao bà làm vậy thì bà trả lời rằng bà cụ muốn trải rộng lòng tốt bụng (kindness) đến cho mọi người. Nếu có ai đó học được gì từ hành động của bà thì điều đó đã làm mãn nguyện hy vọng của bà. Bà muốn mọi người luôn biết thương yêu quý mến nhau vì thế giới đã đầy khổ đau này cần có thêm những tấm lòng tốt.

Đừng nhìn thế gian này bằng cặp mắt bi quan rồi chán chường, mệt mỏi. Chung quanh ta đang có biết bao nhiêu người đang tìm cách thực hiện hạnh bố thí ba-la-mật với ý định muốn mọi người thấy rằng thế gian mình đang sống vẫn còn có rất nhiều người tốt, muốn làm những việc gì đó để cống hiến cho đời, làm cuộc đời đẹp thêm và đáng sống. Như Phật dạy: "Đừng xem thường những việc thiện nhỏ vì việc thiện nhỏ có khi lại mang đến kết quả lành lớn. Cũng vậy, đừng xem thường những hành động xấu ác nhỏ vì hành động ác nhỏ có thể mang đến khổ đau to lớn."

Những ví dụ ở trên của bài viết này đều phát xuất từ những hành động nhỏ nhưng những tiếng vang nhỏ này đang lan tỏa đến khắp nơi và mọi người đang dần dần thấy rõ kết quả của chúng. Thế giới chúng ta sống đang thu hẹp nhỏ dần lại vì những phương tiện truyền thông hiện đại. Một việc làm nhỏ, dù là từ một ngõ ngách xa xôi nào, có thể tác động đến thế giới khi nó được ghi lại và phát tán trên các kênh thông tin điện tử như "youtube" hay "facebook"...

Xin các bạn nhớ cho rằng: Chúng ta đều là người du hành đến thế giới này. Đến một thời điểm nào đó, tất cả chúng ta đều phải ra đi! Cái chúng ta để lại cho đời như lòng từ bi, bố thí mà không cần đền trả là một di sản quý giá, một bài học giá trị cho đời.

Thiện Ý

Xúc động khi chia sẻ về “Những thằng già nhớ mẹ”

Xúc động khi chia sẻ về “Những thằng già nhớ mẹ”

Đăng lúc: 05:33 - 19/09/2016

“Trong mắt của bà, tôi mãi là đứa con chưa trưởng thành. Dù các con tôi đã lớn, đã tốt nghiệp và đi làm, nhưng thằng cha chúng vẫn bị bà nội đưa vào diện cần quan tâm đặc biệt, ra ngoài vẫn bị nhắc nhở quên nón, mang theo áo mưa…” - đó là một đoạn trích trong tạp bút “Những thằng già nhớ mẹ” của tác giả Vũ Thế Thành vừa ra mắt độc giả chiều qua, 17-9, tại đường sách Nguyễn Văn Bình.
vuthethanh1.jpg
Tác giả Vũ Thế Thành (cầm micro), cùng khách mời - nhà văn Nguyễn Đông Thức,
bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và nhà thơ Đỗ Trung Quân - giao lưu cùng bạn đọc - Ảnh: Nhã An

Tác giả cho biết: “Tôi không phải là nhà văn, tôi có thể viết báo, viết về khoa học về các sự kiện chứ tôi không có khả năng hư cấu như các nhà văn, đám bạn xúi thì tôi viết, bài viết Những thằng già nhớ mẹ là bài tùy bút đầu tiên của tôi” sau khi mẹ mất”. Và sau bài viết đầu tiên cùng sự... xúi giục của bạn bè thì cuốn sách gồm 12 bài tạp bút đã ra mắt.

Những đứa con nhớ mẹ thì không có tuổi tác, nhưng tác giả muốn nhấn mạnh đến đối tượng 40, 50 tuổi “là tuổi đã chững chạc, lúc đó họ đang thành công trên đường đời, lúc đó công việc của họ rất nhiều, thời gian này là thời gian họ xù mẹ rất nhiều, tức là bận quá - hứa tuần sau về, rồi lại hứa…, về được vài ba phút rồi đi, tuổi này là tuổi nhận thức được”.

Đối với tác giả không hẳn càng già mới càng nhớ mẹ, “vì thương mẹ tiềm tàng trong con người mình rồi, chỉ có điều người ta già rồi thì người ta thấm đòn hơn”.

vuthethanh2.jpg
Ca sĩ Cẩm Vân hát ca khúc Lòng mẹ trong buổi giao lưu

Nói về cuốn sách, nhà văn Nguyễn Đông Thức chia sẻ trong buổi giao lưu “những bài viết của Vũ Thế Thành về mẹ làm cho tôi xúc động rất nhiều, bởi vì nó được viết từ trái tim, từ cảm xúc rất chân thật. Và anh cũng có một tâm trạng đặc biệt - rất giống tôi - khi mẹ mất thì mình không chấp nhận cái chết đó, mình không bao giờ nghĩ mẹ mình có thể mất và cái cảm giác đó ám ảnh mình trong thời gian rất lâu.

Những người con khi mẹ mình già lúc nào cũng mong mang cho bà thức ăn ngon, quần áo đẹp... nhưng mẹ đâu cần những thứ đó vì mẹ chỉ cần tình thương, sự quan tâm của con cái… Khi mẹ tôi mất đi, tôi mới được xem nhật ký của mẹ, mẹ tôi viết “sao mấy tuần nay thằng Thông (tên gọi của Nguyễn Đông Thức ở nhà - PV) không về thăm mình, tôi nhớ nó quá”, lúc đó tôi đã 50 tuổi” - nhà văn xúc động.

vuthethanh3.jpg
Tác giả Vũ Thế Thành ký tặng sách

Trong buổi giao lưu ra mắt sách, bạn đọc còn được giao lưu với nhà thơ Đỗ Trung Quân, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nghe những ca khúc về mẹ do ca sĩ Cẩm Vân, Đông Tùng, Thu Vàng trình bày.

Tạp bút Những thằng già nhớ mẹ của Vũ Thế Thành do NXB Hội Nhà văn ấn hành, đơn vị liên doanh là Công ty TNHH sách Phương Nam. Đa số các bài viết trong tuyển tập này được tác giả viết giữa hai mùa Vu lan 2011 (mẹ mất) và 2012.

“Có vài bài đang nói chuyện này, lại xen chuyện bà mẹ vào một chút. Bạn đọc nào may mắn còn mẹ xin được bỏ qua cho. Nỗi đau còn mới quá! Riêng với các bạn đã mất mẹ, xin lỗi, tôi… xả chấp” - tác giả chia sẻ trong lời đầu sách.

vuthethanh4.jpg
Sách “Những thằng già nhớ mẹ” - Ảnh: Nhã An

Vũ Thế Thành sinh ra lớn lên và làm việc tại Sài Gòn, hiện sống tại Đà Lạt. Với chuyên môn về Hóa học và Quản trị chất lượng. Tác giả viết báo cũng gần được 20 năm và cộng tác với các báo Tia sáng, Sài Gòn tiếp thị (cũ), Quán văn, khoahocnet.com…

Nhã An

Lắng nghe để hiểu & thương

Lắng nghe để hiểu & thương

Đăng lúc: 10:58 - 28/03/2016

Một con cú già khôn ngoan sống ở cây đa. Nó càng nhìn thấy sự đời thì càng ít nói. Mà nó càng ít nói thì lại lắng nghe nhiều. Tại sao mình lại không như con cú già khôn ngoan kia? (Khuyết danh).
bo-tat-QTa.jpg
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian...

Khi còn bé thơ, chúng ta được dạy ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Và càng nói nhiều thì đó là dấu hiệu phát triển bình thường. Nhưng ít khi nào chúng ta được dạy phải biết lắng nghe. Và phần nhiều, cha mẹ, thầy cô, các bậc phụ huynh, v.v… không để tâm nhiều đến chuyện dạy dỗ cách biết lắng nghe. Tất nhiên, cha mẹ hay các thầy cô có dạy mình phải biết nghe lời. Nhưng ít khi chúng ta được dạy cách biết lắng nghe cho đúng.

Thường khi trong một cuộc đối thoại, chúng ta muốn người đối diện nghe ý kiến của mình muốn phát biểu, hay diễn đạt hơn là mình nên lắng nghe ý tưởng của họ. Nếu đã là vậy, rõ ràng không có sự lắng nghe xảy ra. Mà hễ không có sự lắng nghe, hiểu và cảm thông sẽ không bao giờ được thiết lập. Vợ chồng thường hay gặp phải tình cảnh này, nên có câu nói chọc cười: ‘Ngày xưa chồng nói vợ nghe. Bây giờ chồng nói vợ chê lắm mồm’. Cho nên, biết lắng nghe là nhịp cầu nối đầu tiên cho sự hiểu biết, cảm thông.

Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, sở dĩ Ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp, nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ-tát, Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.

Nhiều kinh điển nói về công hạnh của Bồ-tát, về sức uy thần diệu dụng của Ngài, thường hiện thân khắp nơi cứu giúp người đang đau khổ trên trần gian. Nhưng để tu tập theo hạnh nguyện từ bi, cứu khổ của Ngài, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu thêm một số chi tiết về những hạnh nguyện đó.

Trong kinh Pháp hoa nói Ngài thường thị hiện 33 hóa thân. Nhưng theo thiển ý, chắc đây là con số tượng trưng. Ngài được mô tả là một vị Bồ-tát luôn hóa thân cứu khổ mọi loài chúng sinh. Ngài hóa thân là một hiện tượng đặc thù theo tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’, biểu lộ tấm lòng đại từ bi, không phân biệt kẻ thân, người sơ, kẻ thâm tín, người hoài nghi, thậm chí người vô thần, ngoại đạo.

Hiện tượng hóa thân nói lên sự thấu hiểu và cảm thông thật sâu sắc nỗi sợ hãi, mối ưu lo của chúng sinh trong thế giới đảo điên, mộng tưởng. Để được tiếp cận với một chúng sinh đang đau khổ, Ngài hiểu rõ rằng một người xa lạ, dù là một Bồ-tát, sẽ khó có thể đến gần để chúng sinh kia được giãi bày nguồn cơn nỗi khổ của mình.

Theo kinh nghiệm đời thường cho thấy, khi chúng ta đang đau khổ hoặc phiền não mình chỉ muốn chia sẻ với ai biết lắng nghe, thông cảm, và không có ý phê phán, bình phẩm về những điều mình đã làm sai, hay tâm tình mình đang giãi bày, thổ lộ. Và thường mình muốn chia sẻ với người quen biết, dễ thương, hoặc người nào tôn trọng ý tưởng và tình cảnh của mình. Nếu hiểu được điều này, chúng ta có thể đóng vai sứ giả của Đức Quán Thế Âm, lắng nghe mà không phê bình, chỉ trích để giúp làm vơi nỗi khổ của người.

Thật ra, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng làm sứ giả Quán Âm, và muốn thành tựu vai trò này đòi hỏi mình phải biết lắng nghe.

Nhưng biết lắng nghe là một nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải quên mình đi mà chỉ biết nghe người kia đang nói gì. Biết lắng nghe đòi hỏi mình phải biết lắng đọng tâm tư để nghe rõ thông điệp của người mình đang đối diện. Cái bi kịch thường hay xảy ra cho chúng ta là khi mình muốn học hạnh lắng nghe nhưng cứ mỗi khi nghe xong câu chuyện mình lại diễn dịch nó qua lăng kính kinh nghiệm của bản thân, giống như mình nhìn thấy một sự kiện qua cặp kính màu của mình, nên thay vì hiểu và cảm thông, chúng ta lại chỉ trích hay phê phán người đối diện là dở cái này, thiếu cái nọ.

Do đó, hành động lắng nghe của mình bị thất bại. Nếu chúng ta biết lắng nghe qua tâm hạnh từ bi như Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta biết tôn trọng ý tưởng của người nói và lắng nghe cho kỹ những nỗi khổ đau mà họ đang trải nghiệm, thì công sức lắng nghe của mình sẽ chắc chắn mang lại một kết quả tốt và có thể sẽ làm vơi đi nỗi khổ của người.

Ngoài việc hóa hiện các thân để cứu độ, Ngài còn có khả năng làm cho chúng sinh hết lo sợ (vô úy thí). Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn có nêu lên 14 hoàn cảnh, những trường hợp tượng trưng, mà Ngài đã vận dụng năng lực vô úy để cứu độ. Năng lực vô úy là một khả năng đặc thù mà chỉ có những ai thật định tĩnh, tự tin, và từ bi vô hạn mới có thể làm được. Như một bà mẹ thương con vô cùng mới có thể làm con mình yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm. Sở dĩ chúng ta cảm thấy an lòng, không hoảng sợ, kinh hoàng trước sự hiện diện của Bồ-tát Quán Thế Âm vì Ngài sẵn lòng hy sinh bản thân để cứu độ mọi người.

Chúng ta cũng đã từng nghe qua năng lực vô úy này được các thiền sư thể hiện, như trong câu chuyện sau: Trong thời nội chiến ở Triều Tiên, một vị tướng soái dẫn quân đánh chiếm hết vùng này đến vùng kia, hủy diệt hết những gì cản trở bước tiến của ông ta. Dân chúng trong thành biết đoàn quân của vị tướng đang đánh tới, và nghe tiếng tàn bạo của ông ta nên mọi người đều trốn lánh vào vùng núi cao.

Vị tướng tiến chiếm thành không người và ra lệnh quân lính tìm kiếm dân trong thành khắp nơi. Vài người lính trở về báo cáo chỉ có một thiền sư còn ở lại. Vị tướng quân liền vội vã đến chùa, đi thẳng vào bên trong, rút gươm ra, và nói: “Lão thầy chùa kia, ông không biết ta là ai sao? Ta là người có thể thản nhiên lấy mạng của ông không chớp mắt”. Vị thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông tướng soái và bình thản trả lời: “Và tôi, thưa ngài, là người có thể để ngài lấy đầu mà cũng không chớp mắt”. Vị tướng quân nghe xong, liền cúi đầu và bỏ đi.

Sợ hãi là bản năng của con người, ai sinh ra cũng có. Nhưng các bậc thánh, hay như người căn tính yếu kém như chúng ta, nếu biết tu tập tinh chuyên và có lòng từ bi vô lượng, đều có khả năng, không những vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, mà còn khéo giúp người khác an tâm, không lo sợ. Tu tập hạnh từ bi có khả năng giúp mình vượt qua khổ hải và cũng giúp được người vơi bớt khổ đau. Vậy muốn có được năng lực vô úy thì chúng ta không thể thiếu hạnh từ bi.

Tuệ giác của pháp môn lắng nghe, không chỉ nằm trong việc lắng nghe âm thanh, lời nói, ngôn ngữ của người đối diện, mà còn vận dụng hết cả thân tâm mình từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và cả ý căn, để hiểu thấu và thấy rõ từ cử chỉ, hành vi, và sắc diện của họ đang nói lên những gì, mà lời nói, ngôn ngữ chưa diễn đạt, trình bày được hết ý của câu chuyện.

Chỉ cần vận dụng một phần ba (1/3) năng lượng của tuệ giác lắng nghe là chúng ta đã có thể giúp vơi đi nỗi khổ của người khác nhiều lắm rồi. Nhưng tiếc thay, đa số chúng ta thích nói hơn là thích nghe nên năng lượng của tuệ giác lắng nghe ít khi được sử dụng. Sở dĩ, mình thích nói hơn lắng nghe vì bản ngã, hay cái ta, đóng vai trò lớn trong việc thể hiện tầm quan trọng của bản thân, con người mình. Không ai muốn đóng vai trò ‘thấp cổ, bé miệng bao giờ!’. Hiểu rõ được điều này và phải vận dụng nhiều công phu tu tập mới có được chút khả năng lắng nghe vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Nhân ngày lễ vía của Đức Bồ-tát, chúng ta hãy cùng nhau vận dụng hết năng lực của mình để nhất tâm tu tập nguyện noi theo công hạnh của Ngài và để xứng đáng làm một sứ giả của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Tháng 10-2015
Tuệ Nghiệp

Diệt trừ phiền giận

Diệt trừ phiền giận

Đăng lúc: 07:29 - 12/03/2016

Trong một bài kinh, Đức Phật dạy:
Ở đây, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo:

- Này các Hiền giả Tỷ-kheo.

- Thưa Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như sau:

Này các Hiền giả, có năm trừ khử hiềm hận này, ở đây, hiềm hận khởi lên cho Tỷ-kheo cần phải được trừ khử một cách hoàn toàn. Thế nào là năm?

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người khẩu hành không thanh tịnh, thân hành thanh tịnh, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành không thanh tịnh, nhưng thỉnh thoảng tâm được mở rộng, tâm được tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành không thanh tịnh, và thỉnh thoảng không được tâm rộng mở, không được tâm tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, và thỉnh thoảng tâm được rộng mở, tâm được tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải được trừ khử.

(Tăng chi bộ kinh, chương Năm, phẩm XVII, kinh số 162: Trừ khử hiềm hận (Aghatavinaya sutta); Kinh tương đương trong tạng A-hàm: Trung A-hàm, kinh thứ 25: Kinh Thủy dụ)

2buddha.jpg

Tiếp đó, Đức Phật giải thích thêm và đưa ra các ví dụ minh họa cho từng trường hợp thật ấn tượng và sinh động như sau:

Người với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành thanh tịnh. Ví như có một vị tu hạnh đầu đà thấy một miếng vải còn lành lặn nằm trong đống rác bẩn, bị lấm dơ, vị ấy liền nhặt miếng vải xếp lại, cất lấy, đem về nhà để giặt sạch và may chung với các mảnh vải khác làm y phấn tảo.Cũng như thế, khi có một người mà hành động không dễ thương nhưng lời nói còn dễ thương thì Đức Phật khuyên ta đừng bận tâm nghĩ tới hành động của người ấy mà chỉ nên chú ý tới lời nói dễ thương của người ấy để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với khẩu hành không thanh tịnh, với thân hành thanh tịnh. Ví như một hồ nước đầy bùn và cây lau. Rồi một người đi đến bị nóng bức, mệt mỏi, khát nướcvà muốn uống nước. Người ấy cần lấy hai tay gạt ra ngoài bùn và lá cây để có thể lấy nước uống. Cũng như thế, khi có một người mà lời nói không dễ thương nhưng hành động lại dễ thương thì ta đừng để tâm nghĩ tới lời nói của người ấy mà chỉ nên chú ý tới hành động dễ thương của người ấy thôi để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành không thanh tịnh, thỉnh thoảng tâm được rộng mở, tâm được tịnh tín. Ví như ít nước còn đọng lại trong dấu chân của con bò. Rồi một người đến, bị nóng bức, mệt mỏi, khát nước, muốn uống nước. Người ấy không thể lấy tay hay với cái chén mà có thể uống được nước trong trường hợp này, mà chỉ có thể quỳ sụp mình xuống, tay và đầu gối áp sát đất, dùng miệng mà uống nước trực tiếp mới không làm nước ấy bị khuấy động và dậy bùn. Khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương và lời nói cũng không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút ít sự dễ thương, thì ta hãy đừng nên để tâm nghĩ tới hành động và lời nói không dễ thương của người ấy mà hãy nên chú ý tới cái chút ít sự dễ thương còn đọng lại trong tâm người ấy thôi, hiếm hoi như chút nước đọng trong dấu chân bò, để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành không thanh tịnh, và thỉnh thoảng tâm không được rộng mở và tịnh tín.Ta nghĩ họ như có một kẻ đi xa, trên con đường dài, nửa đường bị bệnh. Khốn đốn, héo hắt, cô độc, không bạn đồng hành, thôn xóm phía sau đã lìa bỏ lâu rồi mà thôn xóm phía trước cũng còn cách đó rất xa. Người đó đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng, biết mình sẽ chết ở dọc đường nếu không có người giúp. Trong lúc ấy, có một người khác đi tới, thấy được tình trạng này, liền ra tay cứu giúp. Người ấy dìu người kia tới được thôn ấp phía trước, chăm sóc, chữa trị và chu cấp thuốc thang và thực phẩm. Nhờ sự giúp đỡ ấy mà người kia thoát nạn. Sở dĩ người kia thoát nạn, đó là nhờ ở lòng thương xót và lân mẫn của người này.

Cũng như thế, khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà trong tâm cũng không có một chút gì có thể gọi là dễ thương hết, thì ta phải phát khởi tâm niệm này: “Một người mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà tâm ý cũng không dễ thương là một người rất đau khổ, người này chắc chắn đang đi về những nẻo đường xấu ác cực kỳ, nếu không gặp được thiện tri thức thì người ấy sẽ không có cơ hội chuyển hóa và đi về các nẻo đường hạnh phúc.” Nghĩ như thế, ta mở được lòng thương xót và lân mẫn họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, lại thỉnh thoảng tâm được rộng mở và tịnh tín. Ví như, một hồ sen có nước trong, có nước ngọt, có nước mát, có nước trong sáng, có bờ hồ khéo sắp đặt đẹp đẽ và được nhiều loại cây che bóng. Rồi một người đi đến bị nóng nhiệt não, bị nóng bức bách, mệt mỏi, khát nước, muốn uống nước. Người ấy sau khi lặn xuống trong hồ sen ấy, sau khi tắm rửa, uống nước, bước ra khỏi hồ, liền qua ngồi hay nằm dưới bóng cây. Cũng vậy, khi thấy một người mà hành động dễ thương, lời nói dễ thương mà tâm ý cũng dễ thương thì ta hãy nên nhận diện tất cả những cái dễ thương của người ấy về cả ba mặt thân, khẩu và ý mà đừng để sự phiền giận hoặc ganh ghét xâm chiếm ta. Nếu không biết sống hạnh phúc với một người tươi mát như thế thì mình thực không phải là một người có trí tuệ.

Trong tất cả năm trường hợp giao tiếp với người, Đức Phật dạy chúng ta đều khởi tâm từ đối với tất cả các hạng người mình gặp mà không sanh tâm phiền giận. Điều này nhắc chúng ta nhận thức tình huống theo hướng tích cực và hướng thượng, điều cần thiết để tâm từ bảo hộ mình khỏi các nghiệp xấu. Việc thực hành pháp đem lại lợi ích thiết thực cho cá nhân mỗi người, và cuộc sống trở nên ý nghĩa và lợi ích nhiều hơn nếu chúng ta tự đặt mình vào quỹ đạo sống thấm nhuần giáo pháp mà không đi chệch hướng dưới bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài. Vì lẽ đó, không nên vì sự chưa thanh tịnh về thân, miệng, ý của người khác mà chúng ta mất đi phần lợi lạc trong quá trình tu tập.

Nội dung bài kinh này khuyến khích chúng ta cách nuôi dưỡng tâm từ, một yếu tố quan trọng trên lộ trình tu tập, không lệ thuộc vào thái độ và hành vi của người khác. Như lời ngài Dalai Lama dạy rằng “đừng để hành vi của người khác phá hủy sự an lạc trong tâm bạn” hoàn toàn phù hợp với lời Phật dạy ở bài kinh này.

Trở lại nội dung bài kinh, với hai trường hợp đầu, Đức Phật dạy chúng ta nên chú ý đến điểm tốt của người khác mà quên đi những vụng về của người ấy để có thể khởi tâm từ với họ dễ dàng hơn. Trong cuộc sống, thường chúng ta hay thấy lỗi người mà quên đi những điểm sáng nơi người ấy. Với cách nhìn này, chúng ta khó có được an lạc trong tâm và không thể hoan hỷ với những người xung quanh. Do đó, ta nên chọn cách nhìn con người và vạn vật xung quanh ở phương diện tích cực hơn để có được sự an lạc nội tâm và thái độ sống tích cực với mọi người. Đức Phật dạy rất cụ thể ở bài kinh trên rằng, nếu người nào dễ thương về lời nói, nhưng có hành động chưa dễ thương, thì khi tiếp xúc với họ, ta chỉ chú tâm đến lời nói dễ thương và quên đi những hành động chưa dễ thương ấy.

Ngược lại, nếu người nào có hành động dễ thương mà lời nói chưa được dễ thương thì khi tiếp xúc với họ, chúng ta nên để tâm vào hành động dễ thương mà quên đi những lời nói vụng về ấy, chắc chắn chúng ta sẽ an lạc và lòng ngập tràn yêu thương với mọi đối tượng quanh mình. Đây là nghệ thuật sống để mình được an lạc: không vì hành vi của người ngoài mà làm tổn thương đến tâm thiện của mình, tự gây trở ngại trong cuộc sống và trên con đường thực hành pháp.

Với trường hợp thứ ba, khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương và lời nói cũng không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút ít sự dễ thương, thì ta hãy đừng nên để tâm nghĩ tới hành động và lời nói không dễ thương của người ấy mà hãy nhìn sâu vào cái chút ít sự dễ thương ít ỏi, hiếm hoi có được trong tâm người ấy thôi để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận. Đến đây, chúng ta càng hiểu hơn chủ ý của Đức Phật khi khuyên chúng ta chọn góc nhìn nào đẹp, tích cực và nhất là hỗ trợ tâm thiện lành, nuôi dưỡng tâm lành của mình phát triển thì ta nên chọn, đừng bận tâm vào đúng sai hay dở của người ngoài. Đừng để những yếu tố bên ngoài chi phối sự thực hành pháp của bản thân mà mất đi phần lợi ích. Điều này không phải dễ làm chút nào, ngay cả việc hiểu và chấp nhận điều tưởng chừng đơn giản này cũng cần một thời gian nhất định để trải nghiệm và thẩm thấu.

Đức Phật đưa ra ví dụ mang tính hình ảnh hơn trong trường hợp này. Trong nhiều cái chưa dễ thương, ta còn thấy được chút ít dễ thương trong tâm người ấy, ví như người đi giữa sa mạc nắng cháy đang rất khát nước tìm được chút ít nước trong lỗ chân bò. Chúng ta làm gì bây giờ? Chúng ta không thể dùng tay vốc nước vì làm như vậy bùn đất sẽ khuấy động làm cáu bẩn nước; mà nước dậy cáu bẩn rồi thì không sử dụng được. Do đó, chúng ta cần quỳ thấp xuống, rất cẩn thận để có thể uống được chút ít nước hiếm hoi đó. Hãy chú ý đến tư thế của mình trong hình ảnh này. Dường như ta làm mất đi giá trị của mình khi mọp người xuống, kề miệng mình dưới đất như thế, nhưng nên nhớ rằng, chúng ta đang khát run. Chúng ta cần nước.

Tương tự như vậy, nếu chúng ta thấy người nào đó dùng lời nói hay hành động thô ác đối với mình, thì người ấy cũng có những giây phút chân thật và tốt bụng. Nếu chỉ chú ý đến những điểm xấu của người khác, chúng ta sẽ cảm thấy ngột ngạt, bức bách, căng thẳng, cay đắng hơn khi nhìn về loài người và thấy không nhất thiết phải đối xử tốt với họ. Thế nhưng nếu chúng ta có thể nhận thấy những điều tốt đẹp ở người khác, dù chút ít, chúng ta dễ dàng đối xử tốt với họ hơn và lòng ta thanh thản hơn nhiều. Những điểm tốt hiếm hoi của họ giống như chút ít nước tưới tẩm tâm mình. Chúng ta cần phải cẩn trọng, mọp người xuống mới có thể chạm đến chút ít thiện lành nơi tâm người ấy. Làm như vậy, ta biết trân quý những điểm tốt của người để nuôi dưỡng tâm từ trong ta ngay trong hiện tại và tương lai.

Với trường hợp thứ tư, giả như người ta tiếp cận không có phẩm chất gì tốt đẹp về hành động, lời nói và tâm ý, Đức Phật đề nghị một hướng suy nghĩ khác, nghĩ về người ấy như là một người xa lạ đang bệnh mà chúng ta tình cờ gặp bên đường, không có người giúp đỡ, chỉ có ta và người ấy trên chặng đường vắng vẻ ấy. Nếu chúng ta không giúp họ, ai sẽ là người giúp đây? Chúng ta cần trải tâm bi mẫn đến người ấy và làm tất cả những gì có thể, tạo các nghiệp thiện về thân, về lời nói và về ý nghĩ, để giúp người ấy được an toàn và quan trọng hơn, để tâm từ của ta không bị tổn thương, lại còn có cơ hội phát triển. Không cần quan tâm đến đối tượng chúng ta giúp đỡ là ai, có tốt hay không, có xứng đáng nhận sự quan tâm giúp đỡ của mình hay không, cứ mở lòng vô điều kiện. Ta đối với những người này như thể đang làm từ thiện, cốt yếu là cơ hội để nuôi dưỡng tâm lành của chính mình. Ai chưa tốt, người ấy sẽ chịu trách nhiệm nhân quả. Ai sống tốt, sẽ có quà từ cuộc sống này! Đừng bao giờ nghĩ có một số người “đáng” nhận sự tử tế của mình, còn số khác thì không. Biết thế nào là “đáng” hay “không đáng”? Họ đang khổ, cũng như chúng ta đang khổ, không ở phương diện này thì ở phương diện khác. Người mà cả hành động, lời nói và tâm ý đều không dễ thương là người đang tạo nghiệp không lành để rồi phải đi vào các cảnh giới khổ đau, là người rất đáng thương.

Do vậy, nếu vẫn chưa thoát ra khỏi suy nghĩ lối mòn rằng “đáng” hay “không đáng” nhận tấm lòng tử tế từ mình, ta vẫn có lý do chính đáng để nghĩ rằng, hơn ai hết, họ “đáng” nhận sự giúp đỡ của người khác. Cũng rất có thể đến một thời điểm nào đó, nhân duyên chín muồi, sự bao dung và tử tế của chúng ta có tác dụng như một cú hích vào tâm thức, giúp người ấy biết thay đổi nhận thức, thay đổi thái độ sống, thay đổi hành vi cho nỗi khổ niềm đau vơi đi thì đáng quý biết dường nào.

Trường hợp cuối cùng, Đức Phật đưa ra hình ảnh một cái nước thật đẹp, nước hồ đã trong veo lại ngọt ngào, mát mẻ, đáy hồ sâu mà bằng phẳng, bờ hồ đầy đặn, cỏ xanh mọc sát quanh hồ, bốn phía cây cối xanh tươi cho nhiều bóng mát. Nếu ta gặp một hồ nước với cảnh trí nên thơ như vậy, việc cần thiết là thưởng thức tất cả những gì có thể từ hồ nước và phong cảnh này đem lại. Cũng vậy, khi thấy một người mà hành động dễ thương, lời nói dễ thương mà tâm tánh cũng dễ thương thì ta hãy nên nhận diện tất cả những cái dễ thương của người ấy về cả ba mặt thân, khẩu và ý mà đừng để sự phiền giận hoặc ganh ghét xâm chiếm ta. Người như vậy mà ta không thương được, chắc hẳn tình thương trong ta đã chết tự bao giờ! Điều ngăn cách ta với người dễ thương trọn vẹn ở cả ba phương diện lời nói, hành động và tâm tánh chính là lòng đố kỵ, ganh ghét chứ không có gì khác. Nếu ta mang trong người “độc tố” này, ta tự đóng cửa cách ly mình với thế giới sinh động này và chẳng học hỏi được gì để cuộc đời ý nghĩa hơn. Khi thấy người khác tốt hơn, hoàn thiện hơn, nếu với tâm ganh ghét rồi sanh bực tức, hiềm hận thì tâm ta hư lại càng hư hơn khi tự xây bức tường thành ngăn cách ta với cái tốt, cái đẹp của người khác. Ngược lại, với một thái độ cởi mở, sẵn lòng học hỏi, ta trân trọng những cái tốt đẹp hơn nơi người khác và lấy đó làm gương để học hỏi thì đó là tinh thần đúng của người học và thực hành Chánh pháp, biết mở lối cho pháp lành tăng trưởng.

Đức Phật dạy, với tất cả các hạng người ở đời, nếu tiếp cận với thái độ tích cực, chúng ta đều có thể trải tâm từ đến tất cả, dù người ấy còn nhiều vụng về, chưa dễ thương về hành động, lời nói hay tâm ý, ta vẫn có thể thương được. Bằng cách này, ta có thể diệt trừ được những hiềm hận trong tâm, nuôi lớn tâm từ của mình trên con đường tu tập, đóng góp tích cực vào quy trình vận hành nhân quả của cá nhân mình. Không những thế, chúng ta còn góp phần cảm hóa người khác với cách sống đầy lòng yêu thương và thông cảm của mình, góp phần kiến tạo cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn trong mối quan hệ tương duyên nhau trùng trùng này.

Qua bài kinh này, chúng ta cần nhận rõ thâm ý của Đức Phật khuyến khích mỗi cá nhân tự nỗ lực hành trì tâm linh. Trên suốt cuộc hành trình, ta phải tự lực làm lấy phần việc của mình: tự chế tác hạnh phúc an lạc, hạnh phúc của bình an, tự tại vô ngại. Đây là mục tiêu duy nhất của mỗi người, không ai có thể làm thay mình. Khi nhận ra điều này, tất cả hoàn cảnh, môi trường, con người bên ngoài chỉ là duyên để chúng ta thực hiện công việc đời mình. Nếu hoàn cảnh thuận lợi cùng hướng ta đi, ta nhận được trợ lực để sự thực hành của mình hiệu quả hơn trong việc nuôi dưỡng các tâm lành. Nếu hoàn cảnh có vẻ không cùng ta trên “xa lộ một chiều”, đừng vội nản lòng mà chúng ta nên xem đây là duyên để ta trau luyện tâm kiên nhẫn, ý chí, nghị lực, bao dung và buông xả. Đây là dịp để nâng cao “chỉ số vượt khó” của mình mà thôi. Trên đường đi không có chướng ngại, chỉ có thử thách và rèn luyện. Những tích cách được trui rèn trong thử thách khó khăn rất đáng quý và có thể hỗ trợ thiết thực trong cuộc sống ở mọi lúc, mọi nơi. Trên biển động, vững tay chèo mới là tay lái thiện nghệ đáng trân trọng, còn trên biển lặng, ai cũng có thể làm hoa tiêu được cả.

Nếu phải đi trong trời mưa, đừng điên tiết nguyền rủa đất trời, đừng bực bội căng thẳng tạo áp lực vô lý. Dù có làm gì, trời vẫn cứ “vô tình” mưa mà không “bận tâm” đến cảm giác của bạn. Điều cần thiết lúc này là tự sắm cho mình một phương tiện đi mưa để tự tại, thong thả không phụ thuộc vào những yếu tố khách quan bên ngoài. Nếu ai cũng ý thức dọn tuyết trước cửa nhà mình mà không phải bận tâm với những móc sương trên nóc nhà người như lời chư Tổ đã dạy “các nhân tự tảo môn tiền tuyết; mạc quản tha môn ốc thượng sương” thì không gì có thể làm vướng gót trên trường dài ngàn dặm. Với tâm thế này, ta thấy khắp đất trời, ai cũng dễ thương và cuộc sống này thật đáng yêu, đáng sống biết dường nào!
Liên Trí

Thực tập tâm từ

Thực tập tâm từ

Đăng lúc: 19:14 - 13/12/2015

Phật đã nói rằng: “Sau khi dùng tâm quan sát toàn bộ thế gian, ta không thấy có ai thương yêu người khác hơn chính mình. Vì vậy, những người yêu thương bản thân mình thì có thể tu tập tâm từ này”.
Hãy tu tập tâm từ với chính bản thân mình trước, với tâm nguyện sau này chia sẻ tâm từ đó với người khác. Hãy yêu quý bản thân mình. Phát triển cảm giác này. Hết mực tử tế tốt và tốt bụng với chính mình. Hãy tự hài lòng với bản thân mình. Hãy an lạc với những thiếu sót của mình. Nâng niu cả những khuyết điểm yếu kém của mình. Hãy nhẹ nhàng và bỏ qua mọi thứ, chấp nhận mình như mình đang là.

Nếu có ý nghĩ nào như kiểu “tại sao mình như vậy”, thì hãy buông bỏ và để nó tự biến đi. Luôn tạo cảm giác tốt bụng và tử tế một cách sâu sắc. Hãy yêu thương bản thân mình. Hãy để sức mạnh của tâm từ thấm vào thân-tâm của bạn. Hãy thả mình vào sự ấm áp và lan tỏa của nó. Mở rộng tâm từ này đến những người thân yêu của mình, đến mọi người bạn chưa quen hay không yêu không ghét - thậm chí đối với những người thù ghét bạn.


Nguyện cho ý nghĩ từ ái bao trùm hết chúng ta...

Hãy nguyện cho tất cả mỗi người chúng ta sẽ thấy được tâm mình không còn bị tham, sân, ác cảm, ganh ghét và sợ hãi. Nguyện cho ý nghĩ từ ái bao trùm hết chúng ta. Nguyện cho mỗi tế bào, mỗi giọt máu, mỗi phân tử, mỗi nguyên tử trong thân tâm chúng ta được tràn đầy ý nghĩ từ ái. Nguyện thân chúng ta thư thái. Nguyện tâm chúng ta được thư thái. Nguyện cho thân và tâm chúng ta tràn đầy ý nghĩ từ tâm. Nguyện cho sự bình an và tĩnh lặng của tâm từ thấm nhuần toàn thể con người chúng ta.

Nguyện cho tất cả chúng sinh thập phương trên thế gian sẽ có được lòng tốt. Nguyện cho họ sẽ được hạnh phúc, may mắn, tử tế và có được bạn bè tốt biết chăm sóc lẫn nhau. Nguyện cho tất cả chúng sinh khắp nơi được tràn đầy cảm giác từ tâm - nhiều, cao quý và vô lượng. Cầu mong họ sẽ hết thù hận, hết đau đớn và không còn sợ hãi. Cầu mong cho tất cả sống hạnh phúc.

Cũng như khi chúng ta tập đi bộ, chạy bộ hay bơi lội để làm săn chắc cơ thể, việc thực tập tâm từ giúp trái tim ta khỏe mạnh. Ngay lúc đầu, nó có thể như là cái máy. Nhưng nếu bạn kết hợp với những ý nghĩ tâm từ nhiều lần, nó sẽ trở thành thói quen, thói quen tốt. Đến một lúc, trái tim bạn sẽ mạnh mẽ hơn và sự đáp ứng bằng tâm từ sẽ trở nên tự động. Khi trái tim ta càng mạnh mẽ, chúng ta càng có thể nghĩ tốt và nhân ái đối với những người khó chịu nhất.

Cầu mong cho những người thù ghét mình được khỏe mạnh, hạnh phúc, và an lạc. Cầu mong cho hiểm nguy, khó khăn hay đau khổ đừng đến với họ. Cầu mong cho họ sẽ luôn thành công.

“Thành công ư?”, một số người hỏi rằng làm sao chúng ta có thể cầu mong điều lành cho kẻ thù của mình; nếu họ vẫn đang rắp tâm hãm hại mình? Khi chúng ta nguyện cho kẻ thù thành công, không có nghĩa là mong họ có những thành công phàm tục hay thành công trong những việc làm trái đạo đức và luân lý; chúng ta chỉ mong họ thành công về mặt tâm linh. Vì kẻ thù của ta chưa hề có gì về mặt tâm linh. Nếu họ thành công về mặt tâm linh đạo đức, họ đã không tiếp tục hãm hại chúng ta.

Khi chúng ta nguyện như vậy, có nghĩa chúng ta “Cầu mong cho kẻ thù không còn sân hận, tham lam và ganh ghét. Cầu mong cho họ bình tâm, sung sướng và hạnh phúc”. Tại sao người ta phải tàn bạo hay xấu bụng? Chắc có lẽ họ đã bị lớn lên trong những hoàn cảnh thiếu may phúc. Có khi hoàn cảnh sống của họ đưa đẩy họ đến những việc ác đó. Phật dạy chúng ta nghĩ đến những kẻ thù hung ác như cách chúng ta nghĩ về những người đang bệnh nặng. Họ rất đáng thương. Chẳng ai đi ghét giận hay bực tức với những người đang bệnh nặng. Hay chúng ta nên thông cảm và xót thương họ. Có lẽ thậm chí còn hơn những người mình yêu quý, những kẻ thù đáng để cho ta đối xử tử tế, bởi vì sự đau khổ của họ thậm chí lớn nặng hơn nhiều so với đau khổ của người khác. Vì vậy, chúng ta hãy tập tu dưỡng những ý nghĩ tốt về kẻ thù. Cho họ một chỗ trong trái tim mình, như những người thân yêu nhất.

Cầu mong cho những người đã hãm hại mình sẽ không còn tham lam, sân hận, ác cảm, hận thù, ghen tỵ và sợ hãi. Mong cho những ý nghĩ từ ái sẽ bao trùm lấy họ. Nguyện cho ý nghĩ từ ái bao trùm hết chúng ta. Nguyện cho mỗi tế bào, mỗi giọt máu, mỗi phân tử, mỗi nguyên tử trong thân tâm của họ được tràn đầy ý nghĩ từ tâm. Nguyện cho thân họ thư thái. Nguyện cho tâm họ thư thái. Nguyện cho sự bình an và tĩnh lặng của tâm từ thấm nhuần toàn thể con người của họ.

Thực tập tâm từ có thể thay đổi những thói quen nghĩ tiêu cực của chúng ta trở thành những thói quen nghĩ tích cực. (Chúng ta không còn thói quen nghĩ xấu người khác, mà luôn có thói quen nghĩ tốt về mọi người). Khi thực tập tâm từ, tâm chúng ta cũng tràn đầy niệm an lạc và hạnh phúc. Chúng ta được thư thái. Chúng ta trở nên nhẹ nhàng và dễ tập trung tâm [dễ đạt định]. Khi tâm chúng ta trở nên tĩnh lặng và an lạc, thì sự thù ghét, sân hận, tức giận cũng phai biến mất. Nhưng tâm từ không phải chỉ giới hạn trong những ý nghĩ. Chúng ta phải thể hiện ra lời nói và hành động. Chúng ta không thể nào tu dưỡng tâm từ khi sống một mình, tách khỏi xã hội và thế giới.

Bạn có thể bắt đầu nghĩ những ý nghĩ tử tế về mọi người bạn tiếp xúc hàng ngày. Nếu bạn có chánh niệm, bạn có thể tỉnh giác làm việc này trong từng giây phút khi tiếp xúc. Mỗi khi bạn gặp một người nào, hãy nghĩ rằng, cũng giống như bạn, người đó cũng muốn có hạnh phúc và muốn tránh khỏi khổ đau. Tất cả chúng ta đều giống nhau như vậy. Tất cả mọi chúng sinh đều như vậy. Ngay cả một con côn trùng nhỏ bé nhất cũng biết co mình lại để né tránh nguy hiểm.

Chúng ta ai cũng biết được điều đó, và khi chúng ta nhận ra cái “điểm chung”, chúng ta mới hiểu mình được nối kết một cách gần gũi với mọi người và mọi loài chúng sinh như thế nào! Người phụ nữ đứng sau quầy tính tiền, người đàn ông lái xe qua mặt trên xa lộ, đôi bạn trẻ đang dắt nhau qua đường, người đàn ông già đang rải thức ăn những con chim. Mỗi khi bạn gặp hay thấy bất cứ ai, hay chúng sinh nào, hãy tâm niệm “điểm chung” đó trong tâm mình. Hãy cầu chúc cho họ được hạnh phúc, bình an và khỏe mạnh. Đây là việc thực hành giúp thay đổi cuộc sống của bạn và cuộc sống của những người xung quanh bạn.

(Nghe như chuyện đâu đâu dành cho những người đa cảm hay quá rảnh rang. Nhưng không phải vậy: (i) bạn đang tập luyện tâm từ. (ii) Tâm từ mang lại nhiều lợi lạc cho đời sống thân tâm của bạn, như đã nói trên. (iii) Và quan trọng, tâm từ giúp cho việc tu thiền của bạn được thành công. Nó cũng là những viên đá lót trên con đường hàng ngày để đi đến mục tiêu của việc tu hành. (iv) Nó là một trong bốn tâm cao quý vô lượng mà Đức Phật đã định nghĩa và khuyên dạy).

Đầu tiên, bạn có thể sẽ gặp nhiều sự ngượng ngùng hay kháng cự đối với việc thực tập này. Cứ như là việc làm bị ép buộc, miễn cưỡng. Dường như ta cảm thấy mình không thể làm cho mình nghĩ theo những cách nghĩ như vậy. Điều đó chỉ do bởi vì chúng ta thường cảm thấy rằng ta chỉ dễ dàng nhân từ với một số người và khó nhân từ với những người khác.

Ví dụ, trẻ thơ thường làm cho chúng ta yêu mến ngay một cách tự nhiên, trong khi những người lớn khác, đủ mọi thành phần, thì khó làm cho ta mở lòng từ ái hay quý mến ngay được. Hãy quan sát thói quen này của tâm. (Đây cũng là một thói tâm). Học cách nhận biết những cảm xúc hay tình cảm không tốt và tiêu cực; và bắt đầu dẹp bỏ chúng. Bằng sự chánh niệm quan sát, chúng ta có thể dần dần thay đổi thói tâm phản ứng và suy nghĩ của mình đối với người khác.

Việc chuyển gửi ý nghĩ tâm từ cho người khác có thực sự thay đổi họ không? Việc thực hành tâm từ có thay đổi được thế giới không? Việc truyền gửi tâm từ cho người khác ở xa hay những người không quen biết có tác động hay không thì ta không thể biết ngay, nhưng ta có thể biết được tác động của tâm từ đến sự bình an của chính mình. Điều quan trọng là sự chân thành trong tâm niệm bạn mong cầu hạnh phúc cho những người khác. Thật sự vậy, tác động sẽ có ngay lập tức. Cách duy nhất để bạn biết được điều này là hãy thực tập và tự mình biết được.

Thực hành tâm từ không có nghĩa là chúng ta bỏ qua những hành động bất thiện của người khác. Nó có nghĩa là chúng ta phải đáp lại những hành động đó một cách đúng đắn. Thời Phật còn sống có một hoàng tử tên là Abharaja Kumara. Một lần nọ, hoàng tử đến gặp Phật và hỏi rằng Phật có bao giờ nói lời gắt gỏng hay nặng nhẹ với người khác hay không. Lúc này, hoàng tử cũng đang ngồi bồng một đứa con trên đùi của mình. Phật hỏi rằng: “Này hoàng tử, nếu đứa bé này lỡ bỏ một miếng gỗ vào trong miệng của nó, hoàng tử sẽ làm gì?”. Hoàng tử trả lời rằng, nếu xảy ra chuyện đó, ông sẽ giữ chặt đứa bé bằng hai chân và dùng ngón tay để móc lấy miếng gỗ ra, cho dù có làm chảy máu miệng của con mình.

“Tại sao hoàng tử làm vậy?”.

“Bởi vì tôi yêu thương con tôi. Tôi muốn cứu giữ mạng sống của nó”.

“Cũng vậy, này hoàng tử, đôi khi ta phải dùng một số lời nặng nhẹ với các đệ tử của ta, không phải vì sự hung dữ, mà vì tình yêu thương của ta dành cho họ”, Phật trả lời.

Nhiều lúc Phật có trách rầy những đệ tử của mình chẳng qua đó là lòng từ bi của Phật mong muốn những đệ tử nỗ lực tu tập để mong có ngày chứng ngộ sự giải thoát.

Đức Phật lịch sử đã dạy cho chúng ta năm công cụ rất căn bản để chúng ta đối xử với mọi người một cách tốt bụng và tử tế. Đó là Năm giới hạnh về đạo đức. Nhiều người cho rằng những luân lý đạo đức sẽ giới hạn sự tự do của mọi người, nhưng thật ra thì những giới hạnh đó giúp chúng ta tự do. Những giới hạnh đạo đức, nếu thực hành, sẽ giúp chúng ta được tự do khỏi những khổ đau mà chúng ta có thể gây ra cho mình và mọi người, bởi vì nhiều lúc chúng ta có thể hành động một cách không tốt lành.

Những hướng dẫn của Năm giới hạnh tập cho chúng ta bảo vệ mọi người khỏi nguy hại và những điều không muốn (ít nhất là nguy hại từ chúng ta có thể gây ra cho họ); và bằng cách bảo vệ mọi người, chúng ta bảo vệ được chính bản thân mình. Năm giới giúp chúng ta kiêng cữ và từ bỏ những việc bất thiện như sát sinh, ăn cắp, tà dâm, nói láo hay nói lời không tốt đẹp, và dùng những chất độc hại (như rượu, bia, ma túy...) dẫn đến những hành động mất lý trí.

Việc phát triển chánh niệm bằng cách thiền tập cũng giúp chúng ta liên hệ với người khác bằng tâm từ. Khi ngồi thiền, quan sát tâm chúng ta khi có sự thích hay sự ghét khởi sinh. Chúng ta tự dạy chính mình cách thư giãn và buông xả khi những tâm đó khởi sinh. Chúng ta học và nhìn thấy được rằng sự dính mắc (thích) và sự ác cảm (ghét) chỉ là những trạng thái nhất thời của tâm, và chúng ta cứ để cho chúng biến đi.

Thiền giúp chúng ta nhìn vào thế giới trong ánh sáng mới và giúp cho ta lối thoát khỏi nó. Chúng ta càng thực tập sâu hơn, thì những kỹ năng càng được phát triển mạnh mẽ và thiện xảo hơn.

Thiền sư GUNARANTANA
Lê Kim Kha chuyển ngữ
(Trích dịch từ Mindfulness in plain English)

Tỉnh dậy đi thôi, các bạn xuất gia trẻ!

Tỉnh dậy đi thôi, các bạn xuất gia trẻ!

Đăng lúc: 05:28 - 03/11/2015

Cái học trong chùa lâu nay có tính cách nhồi sọ rất nhiều. Đạo Bụt là một truyền thống rất cởi mở, nói rằng trong khi học hỏi mình phải dùng trí tuệ của mình để phán xét chứ đừng học như một con vẹt, đừng bị kẹt vào những giáo điều, dầu là những giáo điều Bất tịnh, Khổ, Vô thường và Vô ngã.

Thư tâm tình gửi các con xuất sĩ của Thầy

Nội viện Phương Khê, ngày 27/09/2014

Các con thân mến,

Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.

Mãi cho đến mấy chục năm sau, Thầy mới tìm ra được hình ảnh của một vị Thầy đích thực, một vị Bổn Sư. Bổn Sư chỉ có nghĩa là "Thầy của tôi" thôi. Giống như nói là Bổn Tự thì có nghĩa là chùa tôi, bản tỉnh có nghĩa là tỉnh của tôi. Cho nên sau đó nhiều thập niên, khi khám phá ra được con người thật của Bụt rồi, Thầy mới nuôi giấc mộng là viết một cuốn sách để cho người ta thấy rằng Bụt không phải là một vị thần linh đầy phép lạ mà là một vị Thầy. Do đó Thầy đã để hết tấm lòng của mình để viết cuốn Đường Xưa Mây Trắng, để lột ra khỏi Bụt những vòng hào quang, những vòng thần bí, để Bụt có thể hiện rõ như một con người, một vị Thầy mà mình có thể tiếp cận được. Cho nên Thầy nghĩ cuốn Đường Xưa Mây Trắng có công đức rất lớn. Nó giúp phục hồi được hình ảnh của một vị Thầy sống đơn giản, không sử dụng quyền phép mà chỉ sử dụng tuệ giác và từ bi để giải quyết tất cả mọi vấn đề.

Đức Bụt mà Thầy gặp năm 16 tuổi là đức Bụt của Mật tông. Hồi đó tại các chùa ở Việt Nam có hai thời công phu. Thời công phu sáng hoàn toàn là Mật tông, trì tụng những chú như Lăng nghiêm, Đại bi và mười bài chú khác. Còn buổi chiều thì đó là đạo Bụt A Di Đà. Trong đạo Bụt A Di Đà thì hình ảnh của Bụt Thích Ca bị lu mờ. Đứng trước hình ảnh của Bụt Di Đà, Thầy không có cơ hội gặp được Thầy của mình trong giáo lý tịnh độ. Nhưng vì hồi đó mình ham tu quá, có một tấm lòng rất háo hức, sôi nổi, muốn tu tập để chuyển hóa. Thành thử tuy đó là một vị Bụt xa cách như vậy nhưng mà Thầy vẫn chấp nhận được. Hơn nữa bài kinh mở đầu thần chú Thủ Lăng nghiêm tụng mỗi buổi sáng mà chư Tổ đã chọn là một bài rất là cảm động. Sư chú nào, sư cô nào mà đọc lên bài ấy đều rất cảm động. Đó là những lời phát nguyện của Thầy A Nan muốn thành Phật để độ chúng sanh. Những cảm động đó lôi cuốn Thầy đi, cho nên Thầy không thấy được những mâu thuẫn, những phương pháp giáo dục nhồi sọ nằm trong cách giáo dục của các Thầy ngày xưa.



Có những câu kinh rất cảm động như:

Nguyện kim đắc quả thành Bảo Vương

Hoàn độ như thị hằng sa chúng

Tương thử thâm tâm phụng trần sát
Thị tắc danh vi báo Phật ân.


Những câu này có nghĩa: Bây giờ đây con mong mau chóng chứng quả để trở thành một vị Bụt, để có thể đi vào ngay trong cuộc đời, hóa độ chúng sanh nhiều như hằng sa. Con mong đem hết tất cả tấm lòng sâu xa của con để phụng sự tất cả các cõi. Tại vì con nghĩ như vậy mới tạm xứng đáng để báo đáp được công ơn của Bụt.

Đọc những câu đó, người tu trẻ thấy rất cảm động. Thầy A Nan hồi đó cũng là một người trẻ. Có những câu hồi đó Thầy chỉ biết tụng và nghe theo thôi, Thầy không thấy được những mâu thuẫn ở trong đó. Như trong bốn câu:

Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh,

Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập.

Như nhất chúng sanh vị thành Phật,

Chung bất ư thử thủ nê hoàn.


Có nghĩa: Xin đức Thế Tôn chứng minh cho chúng con. Trong cuộc đời đầy khổ đau, ngũ dục, độc ác và bạo động này, con sẽ là một trong những người đầu tiên tình nguyện đi vào để cứu độ. Chừng nào còn có một chúng sanh chưa thành Phật thì chừng đó con chưa chịu chứng Niết Bàn. Câu chót này mãi đến mấy chục năm sau Thầy mới thấy sai. Câu này có nghĩa là: chứng Niết Bàn chắc là khỏi phải làm gì nữa hết; vì vậy cho nên khoan chứng Niết Bàn, để làm việc cứu độ chúng sanh đã. Chứng Niết Bàn rồi thì rong chơi thôi. Đó là một quan niệm rất sai lầm về Niết Bàn. Theo nguyên tắc, khi đạt được tuệ giác sâu sắc thì mình tiếp xúc được với bản tính vô sinh - bất diệt, phi khứ - phi lai, phi hữu - phi vô và đó là thế giới của lắng dịu, an lạc và hạnh phúc. Đó là Niết Bàn. Nếu mình không hưởng được những cái ấy thì sức mấy mà mình đủ sức mạnh để tiếp tục cứu độ chúng sanh. Cho nên nói rằng con chưa chịu chứng Niết Bàn đâu, con phải làm việc cho cực nhọc để độ sinh đã. Đó là một điều sai lầm mà Thầy không thấy được tại vì Thầy đang còn trẻ.

Điều này cũng do sự hiểu lầm phổ biến về Niết Bàn. Có quan niệm về hữu dư y Niết Bàn và vô dư y Niết Bàn. Vô dư y Niết Bàn là Niết Bàn trong đó không còn có những tàn dư như Năm uẩn. Nhưng nếu trong Niết Bàn mà không có Năm uẩn thì làm sao ta hưởng được cái vui, an lạc và lắng dịu của Niết Bàn? Hữu dư y Niết Bàn là đã chứng đạo, đã chứng Niết Bàn nhưng vẫn còn mang hình hài Năm uẩn. Còn mang hình hài Năm uẩn thì có khi còn nhức đầu, đau bụng, mỏi chân, mỏi tay, vì vậy đó chưa phải là vô dư y Niết Bàn. Đó là một quan niệm rất sai lầm. Quan niệm cho rằng hạnh phúc và khổ đau là hai cái hoàn toàn không cần tới nhau, có thể chỉ có hạnh phúc mà không cần khổ đau, và chỉ có thể có khổ đau mà không cần hạnh phúc. Đó là quan niệm lưỡng nguyên không đúng với tinh thần tương tức của đạo Bụt.

Trong đạo Bụt có sự phân biệt Năm uẩn và Năm thủ uẩn. Thực ra thì Năm uẩn là những gì rất mầu nhiệm, nhưng nếu mình đem tâm để nắm bắt Năm uẩn, cho Năm uẩn là một cái ta, hay là một vật sở hữu của ta thì Năm uẩn trở thành Năm thủ uẩn. "Thủ" tức là nắm bắt và đối tượng của nắm bắt. Niết Bàn không phải là nơi không có Năm uẩn mà là nơi không có Năm thủ uẩn. Năm uẩn hết sức mầu nhiệm, ví dụ như Năm uẩn của Bụt.

Sau đây là hình ảnh đức Sakyamuni của Mật tông mà người trẻ mới xuất gia được tiếp cận trong bài tụng mở đầu cho chú Lăng Nghiêm:

"Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bách bảo quang, quang trung dõng xuất thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung. Ðỉnh phóng thập đạo, bách bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị hiện thập Hằng Hà sa Kim cang mật tích, kình sơn trì xử, biến hư không giới. Ðại chúng ngưỡng quan, úy ái kiêm bão, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính Phật vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai tuyên thuyết thần chú."

"Lúc bấy giờ từ nhục kế trên đỉnh đầu, đức Như Lai phóng ra một luồng ánh sáng. Trong luồng ánh sáng đó có trăm châu báu. Trong luồng ánh sáng ấy của đức Như Lai phóng ra xuất hiện một hoa sen ngàn cánh và ngồi trên hoa sen ngàn cánh là hóa thân của một vị Bụt, và trên đỉnh đầu của vị Bụt hóa thân này cũng phóng ra mười đạo hào quang và đạo hào quang nào cũng có đầy trăm thức quý báu. Trong các đạo hào quang này hiện ra biết bao nhiêu là vị Kim Cương mật tích, số lượng nhiều như số cát sông Hằng. Vị nào cũng một tay nâng ngọn núi, một tay cầm một cái chày bằng kim cương và họ đang có mặt tràn đầy trong không gian. Đại chúng nhìn thấy như vậy, một mặt thì vừa sợ một mặt vừa thương, ai cũng nhìn đức Thế Tôn, khẩn cầu đức Thế Tôn xót thương, che chở và mọi người đợi lắng nghe đức Thế Tôn. Lúc đó đức Thế Tôn phóng ra một hào quang từ nơi đỉnh đầu và bắt đầu tuyên thuyết thần chú Thủ Lăng Nghiêm."

Trong đạo Bụt nguyên thủy và cả trong đạo Bụt tiểu thừa làm gì mà có cảnh tượng như vậy, Bụt đâu phải là một vị thần linh đầy dẫy phép lạ, đầy dẫy hào quang, xa cách con người như vậy.



Kim cương mật tích tức là những vị thần Dạ Xoa đi theo tu học với Phật và nguyện đem hết sức mình để bảo hộ Phật Pháp. Hình ảnh của một vị kim cương mật tích là hình ảnh của một người đang cầm một cái chày bằng kim cương gọi là kim cương xử và nếu ai động tới Phật Pháp thì chỉ cần một cái chày đó thôi cũng đủ tan thân nát thịt rồi. Khi Bụt phóng hào quang thì đại chúng nhìn lên thấy các vị kim cương mật tích cầm chày kim cương có mặt đầy tràn trong không gian. Một mặt đại chúng rất khiếp sợ, một mặt rất thương kính và do đó tất cả đều lắng nghe Bụt để Bụt bắt đầu tuyên thuyết thần chú Thủ Lăng Nghiêm. Đây là Phật giáo của Mật tông. Tuy là ở Việt Nam các chùa được gọi là cửa Thiền nhưng thực ra phần lớn chỉ tu Mật tông và tịnh độ mà thôi. Buổi sáng tụng chú, buổi tối niệm A Di Đà.

Hình ảnh một vị Bụt ngồi phóng hào quang và làm xuất hiện vô số các vị kim cương mật tích đầy dẫy khắp hư không, tuyên thuyết một bài linh chú dài tới hai mươi phút, hình ảnh đó không thể nào là đối tượng của niềm tin cho giới trẻ và trí thức ngày nay. Cũng như hình ảnh của một vị thượng đế, một ông già râu dài đang ngồi trên trời và quyết định những gì xảy ra trên trần thế, hình ảnh ấy không còn là đối tượng của niềm tin cho giới trẻ thời nay. Ấy vậy mà buổi khuya nào mình cũng vẫn tụng đi tụng lại cái hình ảnh của một vị thần linh như thế. Thử hỏi một đạo Bụt như thế có còn thích hợp với thời đại của chúng ta nữa hay không?

Trong bài tựa lời phát nguyện của đức A Nan mở đầu cho thần chú Thủ Lăng Nghiêm, có câu ca tụng thần chú Thủ Lăng Nghiêm như sau:

Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu

Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng,
Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân.

"Định Thủ Lăng Nghiêm này trên đời rất hiếm có. Nó có khả năng giúp con làm tiêu diệt những tri giác sai lầm, chổng ngược được tích lũy trong cả ngàn ức kiếp và con cũng không cần trải qua một thời gian quá dài mới đạt được pháp thân".

Điên đảo tưởng là những tri giác chổng ngược, như trắng mà nói là đen, khổ thì nói là vui, vô thường thì nói là thường, vô ngã thì nói là có ngã. Đó là những tri giác sai lầm gọi là những tri giác điên đảo. Danh từ "điên đảo" này cũng có ở trong Tâm Kinh: "Viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn", là xa lìa những mộng tưởng điên đảo, tức là tiêu diệt được những tri giác chổng ngược đầu lại.Tứ điên đảo là bốn cái thấy chổng ngược. "Điên đảo" trong tiếng Anh gọi là "upside down". Bất tịnh mà mình cho là tịnh, khổ mình cho là vui, vô thường mình cho là thường, vô ngã mình cho là có ngã. Đó gọi là Tứ điên đảo. Và các Thầy ngày xưa đã dạy mình một cách rất nhồi sọ. Trong Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm (thân, thọ, tâm và pháp). Quán thân trong thân, quán thọ trong thọ, quán tâm trong tâm, quán pháp trong pháp thì phải thấy thân là bất tịnh, thọ là khổ. Thân không thể nào là tịnh được, còn thọ chỉ có thể là khổ, tâm chỉ là vô thường và các pháp chỉ là vô ngã. Mình được học thuộc lòng một cách rất là nhồi sọ: Thân bất tịnh, Thọ thị khổ, Tâm vô thường, Pháp vô ngã. Đó là chân lý bất di bất dịch mình không thể nói ngược lại được. Trong mười hai nhân duyên, thọ là khổ, nhưng nếu mà thọ chỉ là khổ thì làm sao có thể đưa tới ái? Phải có những cảm giác dễ chịu cho nên người ta mới sinh ra tham đắm, vướng mắc.

Ngay trong thời Bụt còn tại thế đã có danh từ Pháp thân rồi. Hôm đó Bụt đến thăm Thầy Vakkhali, Thầy đang hấp hối.

Thầy được Bụt hỏi: Thầy còn tiếc nuối gì nữa không?

Thầy Vakkhali nói: "Bạch đức Thế Tôn: con không còn tiếc nuối gì nữa cả. Con chỉ còn một tiếc nuối duy nhất là vì bệnh quá nên mỗi khi đức Thế Tôn thuyết pháp trên núi Thứu thì con không được lên để nhìn ngắm và chiêm ngưỡng đức Thế Tôn".

Ai cũng biết ngày xưa Thầy có vướng mắc với Bụt, cho nên Bụt không cho làm thị giả nữa.

Bụt nói: "Này, nhục thân của tôi đây, hình hài của tôi đây là vô thường, thế nào cũng có ngày tiêu hoại. Nếu Thầy có được pháp thân của tôi thì Thầy đâu còn thiếu thốn gì nữa mà tiếc nuối".

Đó là câu nói chứng tỏ trong thời Bụt đã có danh từ Pháp thân. Pháp thân là cái hiểu của mình về giáo pháp, trong đó có Tứ đế, Bát chánh đạo, Thất giác chi… và những phương pháp tu tập có khả năng chuyển hóa những niềm đau, nổi khổ đem lại Hỷ, Lạc để nuôi dưỡng mình và những người khác, để cuối cùng mình có thể giải thoát cho mình khỏi hệ lụy, chuyển hóa phiền não, có khả năng độ đời.

Hồi đó chưa có danh từ Tăng thân. Phải đợi tới hai mươi mấy thế kỷ về sau, danh từ Tăng thân mới xuất hiện ở Làng Mai. Trong bộ ba: Phật thân, Pháp thân, Tăng thân thì Tăng thân vô cùng quan trọng. Nếu không có Tăng thân thì chí hướng của một người tu không bao giờ được thành tựu. Cho nên sau khi đức Sakyamuni thành đạo, việc đầu tiên mà Ngài nghĩ tới là đi tìm những người bạn tu để thành một Tăng thân sáu người. Bụt thấy rất rõ là nếu không có một Tăng thân thì sự nghiệp của Bụt không thành tựu được.

Những người tu trẻ của mình khi mới tu, tâm bồ đề rất hùng tráng, rất vững chãi. Chí nguyện của mình là muốn tu để trở thành một vị Thầy lớn, có khả năng giải thoát cho mình và độ đời, đem lại nhiều an lạc, giải thoát cho đoàn thể tu học của mình. Phải xây dựng Tăng thân xuất gia như thế nào để Tăng thân xuất gia ấy có khả năng tổ chức tu học và độ cho những đoàn thể tu học của người cư sĩ. Cho nên trong bài tụng mở đầu cho chú Lăng Nghiêm, lời phát nguyện của Thầy A Nan rất cảm động. Đó là giấc mơ lớn của Thầy A Nan mà cũng là của bất cứ ai muốn tu để trở thành một vị Thầy lớn.

Cũng như bài Phát Nguyện Văn (Sám Quy Mạng) của Thiền sư Di Sơn là một giấc mơ lớn của người tu. Đọc Sám Quy Mạng mình thấy rõ ràng là người tu có một giấc mơ rất lớn, muốn trở thành một vị đạo sư lớn để giúp đời trên mọi phương diện. Trong những năm đầu thì mình tự ru mình bởi những chí nguyện đó. Nhưng vì ở trong chùa, mình không có cơ hội để học hỏi những pháp môn có khả năng xử lý những cảm thọ và những cảm xúc khổ đau, không được học những phương pháp chế tác Hỷ và Lạc để tự nuôi dưỡng mình, sử dụng các phương pháp lắng nghe và ái ngữ để tái lập lại truyền thông với huynh đệ, do đó mình không có khả năng xây dựng được một tăng thân xuất gia. Mình không có một phương tiện thiết yếu để thực hiện được chí nguyện của một người tu.

Dầu mình có cơ hội đi học các trường Phật học, nhưng tại các trường Phật học, dầu là sơ cấp, trung cấp hay cao cấp thì các Thầy, các vị giáo thọ cũng không dạy mình những pháp môn căn bản, mà chỉ dạy giáo lý để mình học thuộc rồi dạy lại cho các thế hệ tương lai thôi. Cái học của mình là cái học từ chương như vậy. Mình phải thay đổi cách học. Các vị Thầy, các vị giáo thọ phải dạy cho mình những phương pháp thở, đi, ngồi, điều phục những tâm hành: giận, buồn, ghét, ganh tị, xử lý được những niềm đau, nổi khổ, làm lắng dịu những cảm thọ, cảm xúc lớn. Khi mình biết làm những chuyện ấy rồi thì mình mới có thể giúp cho huynh đệ mình cũng làm được, và mình mới có thể dạy cho sinh viên của mình làm được những chuyện đó.

Khi mình biết sử dụng ái ngữ, lắng nghe, tái lập được truyền thông, đem lại sự hòa giải, mình mới có thể xây dựng được một Tăng thân. Tăng thân là phương tiện căn bản để có thể thực hiện được chí nguyện và sự nghiệp của một đời tu. Mình không được học những cái ấy ở trường Phật học. Đó là chuyện rất là thiếu sót. Mà chính các Thầy dạy mình, các vị giáo thọ cũng không biết thì làm sao dạy? Cho nên trong chúng, đôi khi chỉ có năm ba huynh đệ mà sống cũng không hòa hợp với nhau. Mỗi người có một giấc mơ riêng. Trong đời sống hằng ngày chỉ làm những việc như: cung cấp những nhu yếu tín ngưỡng, tín mộ, những tiện nghi tình cảm cũng như tinh thần cho giới bổn đạo mà thôi. Những người nào biết làm chuyện đó thì có cuộc sống dễ dãi hơn những người khác. Nhất là những Thầy có khả năng tán tụng và đi cúng thì sẽ có một cuộc đời thoải mái hơn các Thầy khác. Và cũng hay bị những người khác ganh tị.

Rồi cuối cùng đa số đều ước muốn được làm trụ trì một ngôi chùa, có đồng vào, đồng ra, có đủ bổn đạo để chăm sóc chùa của mình, và một vài vị đệ tử để tiếp nối công việc của mình và giúp mình trong công việc ứng phú, cúng đám. Cho nên giấc mơ chưa bao giờ thực hiện được, giấc mơ vẫn còn là giấc mơ. Khuya nào cũng tụng bài tựa của Thầy A Nan, khuya nào cũng tụng bài Phát Nguyện Văn của Thiền sư Di Sơn, mà rút cuộc là giấc mơ chưa bao giờ được thực hiện. Điều này đã xảy ra cho trên chín mươi lăm phần trăm những người tu trẻ và rốt cuộc họ chỉ trở thành những ông thầy cúng. Rồi những chức vụ lỉnh kỉnh trong Giáo Hội, những danh xưng và địa vị càng ngày càng làm họ lún sâu.

Chỉ có một số vị, ít hơn một phần trăm, trở thành học giả. Học giả tuy rất quý, nhưng không làm được công việc đứng ra xây dựng tăng thân và hóa độ đồ chúng. Trong lịch sử Việt Nam cận đại, chúng ta có được một số vị cao tăng có khả năng dựng tăng và hóa độ đồ chúng, như Thiền sư Phước Huệ, chùa Thập tháp - Bình Định, Thiền sư Trí Thủ trụ trì chùa Ba la mật - Huế, Thiền sư Thiện Hòa giám đốc Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang - đường Sư Vạn Hạnh, Sài Gòn, Thiền sư Thiện Hoa trụ trì chùa Phước Hậu - Trà ôn và Thiền sư Trí Tịnh của Phật học đường Liên Hải...



Đó là tình trạng của Phật giáo Việt Nam hiện tại. Xin các con thấy được điều đó mà tỉnh dậy. Mục đích của người tu không phải là đi tìm những tiện nghi vật chất và tình cảm mà để trở thành một vị Thầy lớn có khả năng dựng tăng, độ đời, thành tựu được sự nghiệp của một người tu và thực hiện được như tâm bồ đề hùng mạnh của mình lúc ban đầu.

Quan niệm về Pháp thân ban đầu của Phật giáo nguyên thủy chỉ là cái hiểu về giáo lý căn bản của Bụt và những phương pháp cụ thể để tu tập, xử lý niềm đau, chế tác hỷ lạc và giải thoát cho mình, cho mọi người. Pháp thân chỉ có nghĩa đó mà thôi và pháp thân có thể trường tồn nếu mình biết cách trao truyền lại cho các thế hệ tương lai.

Nhưng cho đến khi truyền thống Yogacara ra đời (khoảng thế kỷ thứ năm, thứ sáu) thì bắt đầu phát hiện ra quan niệm Thân tịnh Pháp thân Tỳ lô giá na Phật (Vairocana tathagatha). Pháp thân ở đây không còn là cái hiểu và phương pháp tu học nữa mà chính là vũ trụ (cosmic body), là Pháp giới thân. Bụt không còn là cái hiểu và cái hành, mà chính là vũ trụ. Nếu mình lắng nghe tiếng gió, tiếng chim, quan sát cây cối, chim chóc thì thấy rằng tất cả những hiện tượng ấy đều đang thuyết pháp. Nếu mình biết lắng nghe thì mình sẽ nghe Tứ đế, Bát chánh đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát thánh đạo phần. Bụt vẫn còn đó, chưa bao giờ tiêu diệt cả và Bụt vẫn tiếp tục thuyết pháp qua vũ trụ. Như vậy Bụt chính là vũ trụ, mà Bụt cũng là Thượng đế tạo ra vũ trụ. Điều này đưa quan niệm pháp thân tới rất gần với quan niệm Thượng đế của các tôn giáo khác. Nó cũng có cái rất hay, vì đã tạo ra một nguồn cảm hứng thi ca rất lớn trong Phật giáo đại thừa. Trúc tím, hoa vàng, trăng trong, mây bạc đều là những biểu hiện cụ thể của pháp thân và tất cả những hiện tượng mầu nhiệm đó đều đang thuyết pháp cả. Đó là tính cách nên thơ rất lớn của Phật giáo đại thừa.

Tiếp theo là quan niệm về Báo thân. Trong Duy Biểu, người ta nghĩ rằng Bụt là người có công hạnh rất lớn. Không có lẽ báo thân của Ngài chỉ là một con người nhỏ bé, cao một trượng sáu như vậy thôi hay sao? Và vì vậy người ta tưởng tượng báo thân Bụt rất lớn, lớn đến hàng trăm trượng. Mà chỉ có người chứng đạo mới thấy được báo thân Bụt. Ba mươi hai tướng đẹp, tám mươi tướng tốt, rất mầu nhiệm, đó là Bụt ở trên trời. Và đó mới chính là Bụt. Còn cái con người nhỏ bé, một trượng sáu, ngồi kiết già trên tọa cụ ở trong rừng chẳng qua chỉ là một hóa thân của Bụt thôi, chưa phải là Bụt. Điều này cũng đã ảnh hưởng tới kinh Pháp Hoa.

Kinh Pháp Hoa nói: Bụt không phải chỉ là đức Sakyamuni đang ngồi thuyết pháp cho đại chúng ở núi Thứu, mà Bụt có hóa thân đầy giẫy khắp nơi trên thế giới, và nếu cần Ngài có thể gọi hàng triệu ngàn ức hóa thân của Ngài trên khắp thế giới trở về, cho nên con người nhỏ bé này không quan trọng gì mấy. Vì vậy người ta bị cuốn theo, bị chìm đắm ở trong quan niệm Pháp thân và Báo thân mà coi thường Bụt như là một con người.

Trong bài Trường ca Avril, Thầy cũng đã có một câu "bông hoa vẫn chưa ngưng lời hát ca". Bông hoa trong rừng sâu cũng là Bụt của pháp thân, và bông hoa chưa bao giờ từng ngưng thuyết pháp, chưa bao giờ ngưng lời hát ca. Đó cũng là ảnh hưởng của ý niệm về pháp thân của Bụt.

Bụt là vũ trụ. Vũ trụ là thân, là pháp giới thân của mình, gọi là cosmic body. Điều này cũng đúng. Ví dụ tất cả các đám mây hay tất cả các đợt sóng đều có thân đại dương của mình. Mình không phải chỉ là một đám mây, mình không phải chỉ là một đợt sóng. Mà mình chính là đại dương. Điều này cũng là sự thật. Cho nên khi người tu trẻ đi vào trong chùa thì không được gặp Bụt như một con người, mà chỉ được gặp Bụt như một Thanh tịnh pháp thân Tỳ lô giá na, hay một Viên mãn báo thân Lô xá na (Locana). Ngay trong bài cúng dường quá đường, tất cả đều bắt ấn cát tường và tụng "Cúng dường Thanh tịnh pháp thân Tỳ lô giá na Bụt, viên mãn báo thân Lô xá na Bụt ", rồi mới đến "thiên bách ức hóa thân Thích ca mâu ni Bụt".

Thầy nhớ hồi đó ở chùa Ấn Quang có sinh viên các trường Đại học như cô Chi, cô Nhiên, cô Bích, cô Phượng và các anh Bá Dương, Huệ Dương, Chiểu, Khá, Cương…tới thăm Hòa Thượng Thanh Từ. Thầy Thanh Từ hồi đó còn trẻ lắm và vẫn chưa bắt đầu nghiên cứu Thiền. Thầy Nhất Hạnh có chép ra một số bài kệ Thiền của các vị Tổ Thiền tông Việt Nam đời Lý, đời Trần và tặng Thầy. Hòa Thượng Thanh Từ hồi đó còn là một vị Giáo thọ trẻ, rất thích những bài kệ này và từ đó mới bắt đầu nghiên cứu về Thiền.

Thầy ngồi đó nghe mấy thầy trò họ nói chuyện. Cô Phượng (tức là sư cô Chân Không) nói rằng: Bạch Thầy, Thầy dạy là Thân này là bất tịnh, ở trong đó có đàm, có dãi, có phân, có máu, có tanh, có hôi… mình không nên thương. Nhưng khi con quán chiếu, con cũng có thấy trong Thầy cũng có phân, có nước tiểu, có đàm có dãi… nhưng tại sao con vẫn thương? Tại sao vậy? Thầy cười mà Thầy không hề trả lời cho đám sinh viên này. Thành ra câu hỏi đó chứng tỏ rằng quán thân bất tịnh không có hiệu nghiệm. Tuy miệng thì cứ lặp đi lặp lại "thân bất tịnh, thân bất tịnh" hoài, vậy mà tâm vẫn thương như thường, vẫn bị vướng mắc như thường. Điều này cũng đúng với chuyện thọ thị khổ, như ăn ớt cay, cay quá nhưng vẫn cứ ăn.

Thầy nhớ hồi đó cô Phượng, cô Nhiên, cô Chi, cô Bích, cô Nga và nhiều người khác tới thăm Thầy Thanh Từ, thấy Thầy có một hộp bánh bích quy. Mấy chị em mới nói nhỏ với nhau: "Thầy không biết là trong bánh này có trứng, có bơ thành ra mình để cho Thầy ăn cái này là tội. Mình nên rủ nhau ăn hết đi thì Thầy khỏi ăn, khỏi tội".Và rứa là mấy đứa cứ mở hộp ra ăn. Còn dư mấy chục cái thì đem về luôn, không cho Thầy ăn. Còn Thầy thì hồi ở Princeton, có lần đi lớp học thì mở cửa sổ rộng ra và đi xuống lầu. Trong khi Thầy vắng mặt thì có một con sóc nhảy từ cây phong đi vào phòng Thầy và tự động mở hộp bánh bích quy của Thầy và ăn gần hết. Thầy về tới thì không còn bao nhiêu bánh trong hộp nữa. Chắc nó cũng sợ Thầy ăn bánh bích quy tội nên đã ăn giúp Thầy.

Ban đầu thì giáo lý Bất tịnh để trừ khử quan niệm về Tịnh. Nhưng mình cứ cho Bất tịnh là một chân lý tuyệt đối mà không biết rằng đó chỉ là một phương pháp khử độc. Còn "Thọ là khổ" có nghĩa là cái cảm thọ hạnh phúc mà anh đang có không thực sự là hạnh phúc đâu, mà chỉ là đau khổ thôi. Những cái mà anh đang cảm nhận đó nó có thể có cái bề ngoài là vui, kỳ thực tất cả Thọ đều là khổ. Thọ là khổ đã trở thành một giáo điều rất nặng. Trong khi đó, trong Tâm Lý Học Phật Giáo nói Thọ có ít nhất là ba loại: Khổ thọ, Lạc thọ và Xả thọ. Tại sao mình lại nhồi sọ mình như thế? Với lại mình không biết rõ rằng cái khổ và cái vui đều có liên hệ với nhau. Nếu không có cái này thì không có cái kia. Ví dụ như mình không biết lạnh là gì thì đến khi mình được mặc vào một cái áo len rất ấm thì mình đâu có thấy hạnh phúc? Vì vậy không có cái khổ thì không có cái vui, không có khổ đau thì không có hạnh phúc, hai cái tương tức với nhau. Điều này rất rõ trong Phật giáo đại thừa sau này. Phật giáo đại thừa khám phá ra được những viên ngọc bị chôn vùi trong Phật giáo nguyên thủy, mà Phật giáo tiểu thừa không thấy được.

Cho nên cái học trong chùa lâu nay có tính cách nhồi sọ rất nhiều. Đạo Bụt là một truyền thống rất cởi mở, nói rằng trong khi học hỏi mình phải dùng trí tuệ của mình để phán xét chứ đừng học như một con vẹt, đừng bị kẹt vào những giáo điều, dầu là những giáo điều Bất tịnh, Khổ, Vô thường và Vô ngã.

Ngày xưa là một vị giáo thọ trẻ, nhờ có óc phán xét, phê phán cho nên Thầy thấy có những điều bất ổn ngay trong các kinh văn, chứ đừng nói gì đến trong các bộ Luận. Tính cách giáo điều, nhồi sọ khá nặng. Nhưng mình là người có lòng rất là hiếu kính đối với các thế hệ tổ tiên, đối với chư tổ, cho nên mình không dám nói. Nhưng trong lịch sử, thỉnh thoảng có những vị Thiền sư dám nói, như Thiền sư Lâm Tế chẳng hạn. Ngài nói: "Tụi bây là đồ ngu, tụi bây muốn ra khỏi Tam giới hả? Ra khỏi Tam giới thì tụi bây đi đâu?" Không có nghĩa là không có những người thông minh, không có những nhà cách mạng trên phương diện tư tưởng.

Cũng vì thái độ hiếu kính đó cho nên tuy Thầy thấy những điểm sai lầm trong Kinh và trong Luận nhưng Thầy tìm cách cắt nghĩa khác hơn để tìm cách cứu chữa cho các vị mà không dám động tới, không dám nói rằng các vị sai. Nhưng trong thập niên gần đây thì Thầy thấy rằng Thầy không còn sợ nữa. Mình cũng đã lớn tuổi rồi. Mình phải nói ra những cái mà mình thấy. Cho nên trong năm, sáu mùa an cư kiết đông vừa qua, Thầy đã thẳng thắn nói ra những điều Thầy thấy là sai lầm, ngay trong các kinh văn căn bản như là Tâm Kinh Bát Nhã. Nhất là sau khi mình khám phá ra được những câu kinh quý như vàng, quý như ngọc ở trong kho tàng Phật Giáo nguyên thủy. Ví dụ trong Như Thị Ngữ (Itivuttaka) hay Vô Vấn Tự Thuyết (Udàna)và ngay chính trong Pháp cú Hán tạng có những câu như sau:

"Này các vị Tỳ Kheo, trên đời có cái có sanh, có diệt nhưng mà cũng có cái không sanh, không diệt. Trên đời có cái có và có cái không nhưng mà cũng có cái không có cũng không không. Trên đời có những cái tạo tác và được tạo tác, nhưng mà cũng có cái không tạo tác và những cái không cần được tạo tác. Trên đời có những cái gọi là hữu vi và vô vi nhưng mà vẫn có cái không hữu vi cũng không vô vi".

Những câu kinh như thế rất quý. Ngoài ra còn có những câu kinh khác như câu trong kinh Ca Chiên Diên (Katyàyana), Bụt nói rất rõ: "Phần lớn người đời thường bị kẹt vào ý niệm có hoặc là ý niệm không". Những câu kinh tuy rất ngắn nhưng chính nhờ những câu kinh căn bản đó mà mình có thể chữa lại những sai lầm trong toàn bộ kinh điển.

Mình có phải là tri kỷ của Bụt không? hay chỉ là một người đi theo Bụt một cách mù quáng, nói cái gì thì nghe cái đó? Muốn là người tri kỷ của Bụt thì phải có óc phán đoán, không phải là ai nói cái gì là mình nghe cái đó, dầu đó là lời của một vị tổ sư. Cho nên những cuốn sách như Tri Kỷ Của Bụt không hẳn là một cuốn giáo khoa Phật học. Có thể gọi là giáo khoa Phật học, nhưng đó là giáo khoa cao cấp. Tại vì đây không phải một cuốn sách có công dụng giải thích, cắt nghĩa, làm rõ ý, mà còn có tinh thần phê phán, chỉ ra những chỗ nào đúng, chỗ nào sai, chỗ nào liễu nghĩa và chỗ nào không liễu nghĩa. Vì vậy các con phải biết sử dụng như thế nào để có thể làm sống dậy tinh thần phê phán sáng suốt của đạo Bụt.

Ở trong kinh Kalàma có một lần nhóm người trẻ tới hỏi Bụt: Vị đạo sư nào đi ngang qua đây đều nói rằng giáo lý của họ là hay nhất, đúng nhất. Chúng con biết tin vào ai? Bụt dạy: các em đừng có vội tin một điều gì, dầu điều đó đã được chép trong kinh, hoặc do một vị đạo sư rất nổi tiếng nói ra. Những điều mình nghe, mình phải dùng Văn, Tư, Tu để mà xét lại cho kỹ, phải đem ra áp dụng. Nếu áp dụng mà thấy giải tỏa được những khó khăn, đau khổ, thấy rõ ràng đó là sự thật thì khi đó mình mới tin, chứ đừng vội tin vào bất cứ một cái gì mình mới nghe.

Rõ ràng là những kinh như vậy đã chứng tỏ đạo Bụt là một truyền thống rất cởi mở, rất thông minh, rất có tính phê phán. Nếu mình biến đạo Bụt trở thành một tôn giáo đầy giáo điều như các tôn giáo khác thì điều này rất là tội cho Bụt. Mình đã đánh mất phần tinh túy của Bụt và mình không còn là tri kỷ của Bụt nữa.

Thầy
Nhất Hạnh

Tình thương của người học Phật

Tình thương của người học Phật

Đăng lúc: 20:46 - 27/10/2015

1. Là Phật tử, ai cũng gọi Bồ-tát Quán Thế Âm là “mẹ Quan Âm”, nghĩa là nhận mình là con của Ngài. Tuy nhiên, là con mà mình có học và hành để giống mẹ mình không?
Giống mẹ thì mới nhận là mẹ được. Giống gì? Giống từ tâm, bi tâm, giống hạnh lắng nghe sâu sắc, đem niềm an vui trao cho người khác, loài khác...
hoc Phat.jpg
Lắng nghe sâu sắc - Ảnh minh họa
Trong cuộc sống, nhiều lúc ta thật vô tâm, vô cảm, thật ích kỷ... Đó là những biểu hiện không giống mẹ Quan Âm. Nếu nghe được vậy, thấy được vậy và sửa đổi một cách sâu sắc trong ý niệm, lời nói, việc làm hàng ngày thì ta đang làm cho mình giống Bồ-tát hơn, dần xứng đáng là con và không ngượng ngùng khi gọi “mẹ Quan Âm” - cũng như không thấy xấu hổ khi ai đó hỏi, mình có giống mẹ mình không?
2. Thương và kính một người là sợi dây vô hình có thể níu giữ tâm hồn mình lại, để mình không buông thả, mà sẽ buông bỏ những tập khí không tốt, cố gắng hoàn thiện bản thân. Không cần phải nói thương ai nhiều cả, chỉ cần làm như họ mong (niềm mong đúng, tốt, đẹp) và làm cho họ thấy an lòng là mình đã biểu hiện tình thương một cách tích cực.
Thương mẹ Quan Âm thì ta cũng sẽ biết sống theo hạnh của Ngài, để trở thành “sứ giả” của Đức Quan Âm, để người ta nhìn vào thấy mình giống Quan Âm: bình an, nhẹ nhàng...
3. Trong tình yêu cũng vậy. Bạn thương một người thì bạn phải biểu hiện tình thương ấy đúng đắn. Biết cái sai của họ mà ngăn, không ủng hộ việc bậy của người mình thương cũng là một cách.
Bạn là fan của ai đó mà họ làm sai, mình đừng dại dột cổ vũ, đó là “cổ vũ cho nó chết”; là bạn của ai đó, biết họ chưa hay thì bạn đừng khen vì như vậy là hại bạn, là “khen cho nó chết”. Thực ra, nếu không đủ trí và bi trong những ứng xử đại loại như vậy, thì khi đó “lòng bạn cũng chết” theo, sẽ cứ lầm lũi theo hướng tối hoài.
Tình thương thực thụ phải làm cho nhau tốt lên, làm cho nhau an vui, hạnh phúc, tôi luôn nghĩ như vậy. Và, nhân đây, tôi gửi lại bạn tặng phẩm mà tôi nhặt được cách đây vài bữa trên Zalo, đó là một châm ngôn sống của ai đó, thiệt hay rằng:
“Cho tình yêu không bao giờ đồng nghĩa với việc bạn sẽ nhận lại được tình yêu. Đừng mong đợi tình yêu được đáp trả, hãy chờ đợi tình yêu đó lớn dần trong trái tim họ; và nếu điều đó không xảy ra thì cũng hãy vui vì có một tình yêu trong trái tim bạn”.

An Lạc

20150814142234674761 (Copy)

Hãy tranh luận với bản ngã

Đăng lúc: 18:42 - 07/09/2015

Bản ngã tự thấy mình là trung tâm của vũ trụ, và vị trí của nó là thường hằng. Làm sao chúng ta phản đối tri giác sai lầm này? Hãy tranh luận với bản ngã. Tranh luận về việc nó nhìn nó và nhìn người khác như thế nào.

Trích: Sống Chết An Lành. Tác giả: Gehlek Rimpoche
1. Tất cả chúng ta đều mong muốn điều giống nhau.
Có những người bạn thích, có người bạn không thích, có người bạn không thích cũng không ghét. Sự thật là mọi người trong số đó, bất kể bạn thích hay không, đều mong muốn giống y như bạn vậy, đều mong muốn hạnh phúc. Họ muốn không bị đau khổ, cũng như bạn vậy. Bạn có thể nêu ra người nào xứng đáng chịu đau khổ hay không? Làm sao bạn phân biệt ra được?
Mọi người đều muốn tinh thần sảng khoái, có những giấc mơ đẹp, muốn bình an, giống như bạn vậy. Họ có những ước muốn bất thành, cũng như bạn, họ xứng đáng thành tựu những ước mơ đó. Hạnh phúc của họ cũng quan trọng như hạnh phúc của bạn.
2. Nhãn hiệu “bạn bè” đáng tin cậy tới mức nào? Nhãn hiệu “kẻ thù” đáng tin cậy tới mức nào?
Giả sử chúng ta đang băng qua đường và một chiếc xe sắp đụng chúng ta. Trong giây phút ấy, khi biết rằng sự sống của chúng ta sắp sửa biến đi như một giấc mơ thì có đáng để chúng ta nuôi giữ lòng ghét bỏ ai đó không? Hay lòng luyến ái với người nào đó? Khi đối mặt với thần chết mọi thành kiến hay sự cãi vả của chúng ta thường trở nên vô nghĩa. Sự khác biệt giữa chúng ta và người sắp bị xe đụng là họ có ý nghĩ rõ ràng hơn về lúc nào họ sẽ ra đi. Còn ta thì không chóng thì chầy cũng ở trong vị thế tương tự. Có thể là ngày mai, hay vài năm nữa. Ta sẽ phải lìa bỏ mọi người và mọi thứ, vậy thì có đáng để nuôi giữ lòng ghét bỏ hay luyến ái không?
3. Chúng ta sống dựa vào lòng tốt của người khác.
Mọi người, dù chúng ta có biết họ hay không, đều có ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta theo một cách nào đó – hoặc là họ sản xuất một đồ phụ tùng để sửa xe cho chúng ta, hay trồng lúa mì để làm bánh cho chúng ta ăn. Nếu bạn nhìn mọi sự vật dưới góc độ tái sinh, thì chúng ta đã hiện hữu tự thuở nào, dưới dạng này hay dạng khác, thế nên mọi chúng sinh vào lúc này hay lúc khác đều có liên hệ với chúng ta. Mọi chúng sinh đều đã từng là người gần gũi và thân yêu nhất của ta, đã từng gặp gỡ ta trên đường đời, đã từng là mẹ của ta, tắm rửa và cho ta ăn. Họ cũng đã từng sỉ nhục và gây tổn hại cho ta, nhưng thông thường hơn là họ làm gì đó để duy trì cuộc sống cho ta. Và bất kỳ tổn hại nào họ gây ra cho ta đều do lòng sợ hãi. Kẻ thù hôm nay có thể là người yêu hôm qua. Chúng ta không biết. Đó là điều có khả năng xảy ra. Hãy ghi nhớ điều này một cách sâu sắc.
Nếu tôi quyết định dẹp bỏ bản ngã của tôi, thì tôi không thể làm như vậy mà không có người khác: Khi tôi cố gắng thực hành kham nhẫn, nếu tôi cố giữ mình không gây tổn hại người nào đó, thì chính người làm tôi giận dữ đã cho tôi cơ hội để thực tập kham nhẫn. Khi tôi cố biến lòng luyến ái thành tình thương thuần khiết thì người làm tôi bị ám ảnh đã cho tôi cơ hội để cố gắng. Tôi không thể nào sống còn mà không có lòng tốt và sự hào phóng của người khác.
4. Tất cả chúng ta đều ở trong cảnh ngộ giống nhau.
Tất cả chúng ta đều đau khổ như nhau và mọi người sinh ra đều sẽ chết. Nếu tôi là một bác sĩ và đứng trước ba người sắp chết, tôi có thể nào nói, “Mình sẽ chữa trị cho người mình thích thôi?”. Có thể không có đủ thì giờ để chữa hết cho cả ba, nhưng nên có ý nghĩa như thế.
Vì tôi sẽ chết và bạn sẽ chết, điều đó có nghĩa là mọi vật đều vô thường. Không có chuyện là một người nào đó sẽ là bạn của mình mãi mãi hay người nào đó là kẻ thù mãi mãi. Chúng ta có thể thấy điều đó ngay trong cuộc sống của mình. Người mà chúng ta thề yêu thương suốt đời trở thành người bạn tốt nhất của ta. Xem người nào đó là “bạn” hay “thù” luôn luôn, không thay đổi thì đó là sự mù quáng của bản ngã. Nhưng “bạn” tùy thuộc vào “thù” cũng giống như phương Đông tùy thuộc vào phương Tây, đêm phụ thuộc vào ngày, trên tùy thuộc vào dưới. Những gì bạn làm đều ảnh hưởng đến tôi và ngược lại. Người ta nói rằng, chuyển động của một con bướm ở Trung Quốc ảnh hưởng đều chiều gió ở Mỹ. Cơ thể của chúng ta, nhân thân, và cuộc sống của chúng ta đều quyện chặt vào nhau. Chúng ta không thường hằng, chúng ta không tồn tại biệt lập, và không ai tự bản chất là bạn hoặc thù.
5. Hãy noi gương những bậc giác ngộ.
Khi bạn nhìn những bậc vĩ nhân như đức Phật hay chú Jesus, nhìn những bậc tiên tri hay bậc thánh, những vị ấy có phân biệt giữa người này với người khác không? Không. Họ không có thích hay không thích. Họ đều muốn giúp mọi người như nhau. Những bài pháp xưa nay cho chúng ta biết rằng những bậc giác ngộ cư xử với người khác như người mẹ đối xử với con một của mình. Các vị thầy cũng dạy rằng đức Phật cảm nghĩ về người dâng cúng dầu thơm cho ngài cũng như người chặt cánh tay ngài. Ngài thương tất cả và muốn giúp đỡ cho họ, bởi vì mọi người đều đau khổ và mong muốn hạnh phúc. Điều này đối với chúng ta dường như cực đoan, nhưng điều ấy là điều có thể. Tôi đã thấy các vị thầy của tôi sống cuộc đời trong trạng thái thanh thản. Không ai đến để chặt tay họ, nhưng tôi thấy họ cư xử với những người đối xử tệ với họ cũng như cư xử với học trò thân cận.
Khi các bạn thấy được chân tướng của “cái tôi, cái quý giá nhất” thì bạn bắt đầu phát triển tuệ giác. Khi các bạn thực sự hiểu sự tương thuộc của tất cả mọi sự vật, bản chất của thực tại, thì bạn có tuệ giác. Nhưng chừng đó có đủ để đạt được giải thoát khỏi khổ đau? Có lẽ là chưa. Cái bất thiện cần phải được thay thế bằng cái thiện. Sân hận cần phải được thay thế bằng sự kham nhẫn hay hiểu biết. Luyến ái cần được thay bằng tình thương thuần khiết. Sự ghen ghét cần phải được thay thế bằng sự thương yêu, chăm sóc. Tuệ giác không thôi chưa đủ. Tình thương và từ bi sẽ dẫn đến sự phát triển khả năng lựa chọn cuộc sống mà chúng ta mong muốn. Khi chúng ta từ bỏ bản ngã, thì chúng ta thay thế nó bằng cái gì? Chúng ta thay “cái tôi, cái quý giá nhất” bằng việc xem người khác là quý giá nhất.
Chiêu thức cuối cùng để dẹp trừ "cái tôi, cái quý giá nhất” là bắt đầu công việc cho người khác hạnh phúc và nhận đau khổ cho người. Bản ngã nghĩ rằng mình nên có cái gì tốt nhất, cho nên nếu như cho nó cái tệ nhất thì nó sẽ rút lui. Phương pháp thực tập này gọi là tonglen – cho và nhận.
Lúc đầu, nếu như bạn thật sự thực tập, không cần phải hướng đến nhiều người, một người thôi cũng được, có thể là người bạn yêu mến, con của bạn, hoặc bất kỳ người nào bạn rất quan tâm. Hãy hình dung người ấy ngồi bên cạnh; bạn hãy thở ra bằng lỗ mũi bên phải, và đi ra cùng với hơi thở ấy là tất cả nghiệp thiện và tình thương của bạn. Hãy cho người ấy mọi sự tốt đẹp không chút do dự. Đó là thực tập tình thương. Rồi hít vào bằng lỗ mũi bên trái và nhận tất cả nguồn gốc gây đau khổ cho người ấy – đó là thực hành từ bi – và để cho nó đánh ngay vào đầu bản ngã.
Lúc này có lẽ có một sự do dự - chắc chắn là như vậy – khi nhận vào sự đau khổ của người khác. Nếu ý nghĩ này làm bạn sợ thì hãy bắt đầu bằng cách nhận lấy mọi đau khổ trong tương lai của bạn, những khổ đau mà bạn sẽ trải qua vào ngày mai, vào những tuần lễ sắp đến, tháng, năm sắp đến, những kiếp sắp đến. Hãy nhận hết ngay bây giờ và để nó hòa tan trong trái tim của bạn và đi vào bản chất của thực tại.
Chúng ta có thể dùng sự thực tập này để lợi dụng những khó khăn của chúng ta thay vì để cho chúng làm cho chúng ta điên đảo. Chúng ta đang nhận lãnh quả của những gì chúng ta đã gieo nhân trong quá khứ, và chúng ta lấy làm sung sướng rằng nó sẽ qua đi, biến khỏi cuộc đời của chúng ta và chúng ta sẽ vượt qua nó. Rồi chúng ta có thể nhớ thật sự cầu nguyện rằng một chút đau đớn hoặc sợ hãi, hay là gì đó đi nữa, cũng có thể làm cho người khác đỡ phải gánh chịu một sự đau khổ như thế hoặc hơn thế. Các bậc tôn đức xưa nay dạy rằng bằng vào năng lượng của từ bi thì một chút đau khổ có thể cứu chúng ta khỏi sự khổ đau tệ hại hơn rất nhiều trong tương lai. Một chút khó khăn về tài chính có thể thay thế cho một triệu năm làm con ma đói. Một chút nhức đầu có thể thay cho một thời khù rất dài ở chốn địa ngục. Nếu chúng ta nhìn nó theo cách: “Ừ mình bị tai nạn, nhưng mình vẫn còn sống”, hoặc “Ừ, thì mình bị thương, nhưng ít ra là không ai làm cho vết thương tệ hại hơn,” thì vấn đề sẽ trở thành không có gì lớn như mình vẫn nghĩ.
Sau một thời gian hãy thực tập với người khác, người mà bạn thật sự yêu thương, những người mà bạn sẵn sàng làm mọi việc để cho họ khỏi đau khổ. Tất cả mọi đau khổ sẽ ở dưới dạng một đám mây đen trong tim. Hơi thở của bạn kéo đám mây đen ấy ra khỏi người họ hay khỏi người của bạn. Ở bên trong trái tim, bản ngã là một ngọn đèn nhỏ đang cháy. Đám mây đen đi vào và thổi tắt ngọn lửa ấy. Phù, thế là nó đã tắt, đã bị tiêu diệt. Và những người ấy, do bạn đã hút ra nguyên nhân bất thiện gây ra đau khổ và cả sự đau khổ, đều sẽ giải thoát khỏi cả hai. Thay vào đó bạn cho họ sự may mắn, niềm vui, phúc lành, và tuệ giác của bạn dưới dạng ánh sáng. Và họ sẽ ngập tràn ánh sáng đó và trở nên sung sướng.
Theo TINHDO.NET

Khi người không yêu ta, hãy biết từ bỏ…

Khi người không yêu ta, hãy biết từ bỏ…

Đăng lúc: 05:42 - 14/07/2015

Tổn thương trong tình yêu có thể khiến người ta làm nhiều việc điên rồ mà suốt đời họ sẽ phải hối tiếc.
Do đó, trách nhiệm của người làm cha mẹ là mô tả, gọi tên được bản chất của tình yêu, để những đứa con non nớt trải nghiệm của mình hiểu được rằng, yêu là cảm xúc của khoảnh khắc.
0-1436605240
Phải tự tìm dòng suối nơi chính bản thân mình: dòng suối của sự tự do
Nếu khoảnh khắc đó kéo dài được nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, là bởi vì giữa hai người có nhiều yếu tố đủ để gắn kết, chia sẻ, giáo dục, bổ sung lẫn nhau.
Nếu khoảnh khắc đó ngắn ngủi thì bởi vì giữa hai người không có đủ hoặc quá ít yếu tố để tạo nên một tình yêu bền vững.
Do đó, nếu con yêu một người mà nhanh chóng phai lạt, hoặc họ nhanh chóng rời bỏ con, đó là bởi giá trị mà hai con mang cho nhau không thật sự đủ, đối với họ.
Nếu con đã có một quá trình yêu thương khắn khít, mà cuộc tình đó làm cho con hạnh phúc nhưng người kia cũng bỏ con ra đi, bởi vì con không thật sự cần cho họ nữa.
Phải đối mặt với việc mình trở nên vô nghĩa với người mình yêu thương nhất, thật là một trải nghiệm đau đớn, khó khăn, không ai đủ già dặn hay chai sạn để cảm thấy bình thường hay thản nhiên trước điều đó. Nhưng nếu con yêu một người thật lòng, con phải hiểu rõ rằng, nếu một người hết yêu mình, không phải lỗi của họ.
Yêu thương là tiếng nói của trái tim chứ không phải sự tách bạch rạch ròi của lý trí. Không ai xứng đáng để bị phán xét nếu trái tim họ không còn chỗ cho một người nào đó. Hay là, kể cả khi ai đó không còn yêu chúng ta như cách chúng ta hằng mong muốn, thì đó không phải lỗi của họ.
Nếu thật yêu một người, chắc chắn con sẽ làm được việc này: nuốt nước mắt vào trong để nhìn thấy họ hạnh phúc, bằng lòng, an nhiên với một người khác. Bởi nếu yêu thật sự một người, con sẽ hiểu rằng, níu giữ họ bên cạnh mình sẽ gây ra sự khó chịu, oán hờn, khinh thường, mâu thuẫn hay những thứ phức tạp, khó chịu hơn.
Tìm cách để níu giữ một người đã ra khỏi tình yêu cũng giống như tìm cách đứng trong bóng râm giữa sa mạc không có nước và bóng cây. Sự thiêu đốt khủng khiếp của nỗi cô đơn sẽ đeo bám con trước tiên, rồi mới tới người bị con níu giữ. Sao có thể níu cái bóng của một con người?
Và vì con không mang lại hạnh phúc cho họ, nên con phải có trách nhiệm tự mang hạnh phúc cho mình, trả lại họ cơ hội yên vui. Khi một khoảnh khắc tình yêu qua đi, nếu con vẫn còn để trái tim mình trong trẻo lành lặn, tự khắc sẽ có một tình yêu khác đến. Nếu làm tổn thương mình chỉ vì không có được tình yêu của người khác, có phải con quá tàn nhẫn với bản thân con hay không?
Vụ thảm sát vì tình tại Bình Phước một lần nữa gióng lên hồi chuông cảnh báo cho các bậc phụ huynh. Trong xã hội chồng chéo các giá trị đông tây, những đứa trẻ ở trong nhà của chúng ta mỗi sáng vẫn cắp sách đến trường, hát những bài nhạc trẻ dễ dãi hời hợt, nhảy theo các điệu nhảy của các ca sĩ nhuộm tóc nhiều màu của Hàn Quốc, ăn những thức ăn nhanh của Mỹ…, đến lúc nào đó sẽ bắt đầu biết yêu. Nói với con về tình yêu như thế nào để không có ngày những đứa trẻ của chúng ta trở thành những “sát thủ” khi tình yêu đổ vỡ?
Và nếu làm tổn thương người khác chỉ vì không được yêu như ý muốn, có phải con quá vô lý hay không, bởi kể cả họ đã chết, có phải con sẽ không bao giờ được họ yêu thương, và sẽ không bao giờ có được cơ hội yêu thương trong trẻo một lần nữa? Hay có thể con sẽ sống suốt đời trong nỗi cô đơn khủng khiếp, nỗi ám ảnh kinh hoàng không gì gột rửa nổi?
Con lấy quyền gì để yêu cầu tình yêu từ người khác? Cho nên, từ bỏ cũng là một loại vốn. Đó chính là vốn cơ hội. Khi từ bỏ một điều không còn phù hợp, một người không còn yêu con nữa, đó là cơ hội cho con có một tình yêu khác. Nhưng quan trọng hơn, đó chính là cơ hội tự do cho người mà con đang yêu thương.
Không ai phải xấu hổ hay nhục nhã vì thất bại trong tình yêu hết. Bởi tình yêu là một dòng suối ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn con người, chứ không phải là cuộc chiến. Nếu không còn dòng suối đó, con phải tự tìm dòng suối nơi chính bản thân mình: dòng suối của sự tự do.
Ngô Phương Thảo
Theo Tuổi Trẻ

Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ

Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ

Đăng lúc: 08:06 - 01/07/2015

Từ ngàn xưa đến nay, tình yêu luôn là mối quan tâm của con người và ngàn năm sau vẫn vậy. Tuy nhiên, yêu thương thế nào để có hạnh phúc dài lâu thì không phải người nào cũng hiểu. Ngẫm những lời Phật dạy dưới đây có thể giúp bạn chọn cho mình một cuộc sống hạnh phúc.
“Có hiểu mới có thương”

Phật dạy rằng: “Có hiểu mới có thương. Tình yêu phải được xây dựng trên cơ sở của sự hiểu biết”. Trong đạo Phật, từ bi gắn liền với trí tuệ. Không hiểu, không thể thương yêu sâu sắc. Không hiểu, không thể thương yêu đích thực. Hiểu chính là nền tảng của tình thương yêu.

Mỗi con người đều có những nỗi niềm, những khổ đau, bức xúc riêng, nếu không hiểu, sẽ không thương mà giận hờn, trách móc. Không hiểu, tình thương của mình sẽ làm người khác ngột ngạt. Không hiểu, sẽ làm người mình thương đau khổ suốt đời. Trong cõi đời này, nhân danh tình thương, người ta làm khổ nhau.

Chuyện đó vẫn thường xảy ra. Được hiểu và được thương vốn là một nhu cầu muôn đời của con người. Nhiều người thường cảm thấy không ai hiểu mình. Họ “đói” thương, “đói” hiểu. Họ thơ thẩn, lang thang trong cuộc đời tìm người hiểu mình, thương mình. Gặp được người hiểu mình, thương mình là may mắn lớn của cuộc đời. Tình yêu nảy nở, lớn lên từ đó.



Phật dạy rằng: “Có hiểu mới có thương”. Ảnh minh họa

Vậy nên, “có hiểu mới có thương” là nguyên tắc chọn người yêu, chọn chồng/vợ theo quan điểm Phật giáo. Dù người ta có đẹp, có giàu đến đâu nhưng không hiểu mình sẽ làm mình khổ suốt đời. Hôn nhân có thể mở ra những con đường hoa hồng, nhưng cũng có thể mở ra cánh cửa tù ngục. Chọn vợ, chọn chồng là một sự mạo hiểm lớn. Hãy cẩn thận, nếu không muốn chọn án tù chung thân cho cuộc đời mình. Vì vậy, chọn người hiểu và thương mình – hãy nhớ – đó là nguyên tắc tìm người tri kỷ trong cuộc đời.

Phải đủ bốn yếu tố “từ, bi, hỉ, xả”

Phật dạy về tình yêu rất sâu sắc. Tình yêu phải hội tụ đủ bốn yếu tố: từ, bi, hỉ, xả.

“Từ” là khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu thương không phải là vấn đề hưởng thụ, yêu thương là hiến tặng. Tình thương mà không đem đến hạnh phúc cho người yêu không phải là tình thương đích thực. Yêu mà làm khổ nhau không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào cũng khổ, đó là tình yêu hệ luỵ, chỉ mang tới sự khổ đau. Yêu thương ai đó thực sự, nghĩa là làm cho người ta hạnh phúc, mỗi ngày.

“Bi” là khả năng người ta lấy cái khổ ra khỏi mình. Mình đã khổ, người ta làm cho thêm khổ, đó không thể là tình yêu đích thực. Còn gì cho nhau nếu chỉ có khổ đau tuyệt vọng. Người yêu mình phải là người biết sẻ chia, biết xoa dịu, làm vơi bớt nỗi khổ của mình trong cuộc đời.

Như vậy, “từ bi” theo Phật dạy là khả năng đem lại hạnh phúc cho nhau. Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê, say đắm nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực. “Từ bi” trong tình yêu không phải tự dưng mà có. Phải học, phải “tu tập”. Cần nhiều thời gian để quan sát, để lắng nghe, để thấu hiểu những nỗi khổ niềm đau của người yêu, để giúp người ta vượt qua, tháo gỡ, bớt khổ đau, thêm hạnh phúc.

“Hỉ” là niềm vui, tình yêu chân thật phải làm cho cả hai đều vui. Dấu ấn của tình yêu đích thực là niềm vui. Càng yêu, càng vui, niềm vui lớn, cả gia đình cùng hạnh phúc. Cuộc nhân duyên như thế là thành công.

“Xả” là không phân biệt, kì thị trong tình yêu. Mình yêu ai, hạnh phúc của người ta là của mình, khó khăn của người ta là của mình, khổ đau của người ta là của mình. Không thể nói đây là vấn đề của em/ anh, em/ anh ráng chịu. Khi yêu, hai người không phải là hai thực thể riêng biệt nữa, hạnh phúc khổ đau không còn là vấn đề cá nhân. Tất cả những gì mình phải làm coi đó là vấn đề của hai người, chuyển hoá nỗi khổ đau, làm lớn thêm hạnh phúc.

Người Phật tử có nên quá u buồn trong tình cảm?

Người Phật tử có nên quá u buồn trong tình cảm?

Đăng lúc: 07:13 - 29/06/2015

Người Phật tử là những con trai, con gái ngoan của Đức Phật. Một lẽ tất nhiên Ngài đã dạy cho chúng ta những kỹ năng cơ bản nhất để tránh những phiền muộn không mong muốn trong tình duyên.
Cớ làm sao hai người yêu nhau nhiều năm trường nhưng vẫn phải chia tay ? Họ đã không có đủ thời gian để hiểu nhau chăng? Tình cảm của họ chừng ấy năm không đủ thắm thiết chăng? Các bạn hãy cùng nhau quán sát. Có cả nghìn lý do để họ chia tay có thể là có một người mới giàu có hơn, có nhiều ưu điểm hơn, hoặc gia đình ngăn cản, hoặc quá chán ngán lẫn nhau, thậm chí thầy bói không cho phép vv…Nhưng tựu chung lại người Phật tử phải nhìn nhận ra đó là do Vô Thường và Nghiệp chi phối.

Đức Phật dạy: “Tất cả những gì trong thế gian đều biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Chúng ta đau khổ bởi cứ hy vọng tình yêu này là mãi mãi. Ta hãy cùng tìm hiểu vì sao như thế ? Vô thường có 3: thân vô thường, tâm vô thường và hoàn cảnh vô thường.

Thân vô thường. Thân thể bạn không mãi mãi khoẻ mạnh, không thể trẻ mãi không già. Từng sát na, từng giây trong thân bạn biến đổi, từng tế bào chết tế bào mới lại sanh…Các bạn không có phương pháp bảo vệ bản thân lỡ một ngày bạn bị ung thư, nhan sắc tàn phai, bị bệnh nan y … liệu người yêu bạn có còn mặn mà với bạn như xưa?

Tâm vô thường. Chúng ta phải biết rằng lòng người thay đổi – đổi thay. Con gái thì “sáng nắng, chiều mưa, trưa giông bão”, con trai thì chẳng biết đó là Lý Thông hay Thạch Sanh, chẳng ai mà đoán cho được. Người thì đi du học, người thì đi làm ăn xa, kẻ ở nhà mõi mòn chờ đợi …rồi qua năm tháng “xa mặt cách lòng” chẳng mấy ai mà giữ cho được cái tình yêu thuở đó. Có thể bạn đang có một tình yêu đẹp nhưng cũng phải nhận chân ra một sự thật là trong tình yêu đó luôn ẩn chứa một sự đổ vỡ bởi vì đó là vô thường. Người Phật tử biết như vậy nên luôn sẳn sàng đón nhận những điều bất trắc có thể xảy ra trong tình cảm. Nhờ vậy, tránh được những hành động tiêu cực như bị sốc, thất tình tự tử vv…

Hoàn cảnh vô thường có nghĩa là vạn vật trước mắt bạn luôn thay đổi, tình thế thay đổi, thời cuộc thay đổi …Yêu nhau thật nhiều nhưng cũng không thể được gần nhau ví dụ như chiến tranh, thiên tai, tử nạn. Một khía cạnh khác của hoàn cảnh vô thường, ví dụ: Bạn Dần và bạn Mùi trước nghèo thì sao cũng được bổng dưng giàu có thì chẳng nhìn mặt nhau. Một chuyện khác, Bạn Sửu tích góp tiền để giúp bạn Tí-người yêu bao năm ăn học đàng hoàng đến khi tốt nghiệp thì người yêu gạt bỏ và yêu một người khác cùng đẳng cấp xã hội, có trí thức chứ ai lại mặn mà với bạn Sửu một người nghèo, ít học nhưng chỉ có tấm lòng. Trường hợp hoàn cảnh thay đổi như vậy thử hỏi Bạn Sửu có chịu nổi áp lực này không ? Người con Phật nên nhìn trước được hoàn cảnh để gìn giữ hạnh phúc mình.

Một yếu tố quan trọng chi phối tình cảm của bạn cần phải biết đó là Nghiệp Duyên. Nghiệp là những hành động bạn đã làm trong quá khứ lẫn hiện tại sẽ gây nên tác động trong tương lai. Duyên là những yếu tố khiến hai người gặp mặt trong một hoàn cảnh nào đó. Trong đời không thiếu những cuộc tình tay ba, ngoại tình, hay đang ở tình thế không biết chọn ai, yêu ai giữa hai người mình yêu thương nhất vv…Đây chính là “thiên duyên tiền định” -tình duyên từ kiếp trước. Có một câu chuyện để bạn dễ hiễu hơn như sau: ”Có một cô gái bị trúng gió chết bên vệ đường, một người đàn ông đi qua thấy tội nên đắp cho một chiếc chiếu, một người đàn ông khác đi ngang qua thấy thương nên đem đi chôn cất. Đấy chính là cái nghiệp duyên của 3 người. Kiếp sau, cô gái đều yêu thật lòng hai người đàn ông đó nhưng cuối cùng con đường thì cô gái và người đàn ông đã chôn cô kiếp trước thành vợ thành chồng bởi vì tình nghĩa nặng sâu hơn”. Cũng vậy, nếu bạn gặp phải trường hợp bị người yêu bỏ rơi, thất tình thì không nên quá bi quan mà hãy luôn tin tưởng có một người nào đó sẽ là mãi mãi trong cuộc đời mình.

Người Phật tử cũng không nên nghĩ rằng hạnh phúc chỉ đến từ tình yêu. Có những người không bao giờ lập gia đình bởi vì lý tưởng của mình như các vị tu sĩ, các nhà khoa học, các nhà hoạt động xã hội vv…Bởi vì sao? Hạnh phúc đến từ nhiều khía cạnh cuộc sống từ những điều bình dị quanh ta. Nó có thể là một cuộc sống tự do, một nghĩa cử đẹp, một đam mê nhiệt huyết vào bộ môn nào đó, một vườn hoa, một khả năng lãnh hội Phật pháp tuyệt vời vv…Hãy luôn tự tạo hạnh phúc cho mình, hạnh phúc nương tựa vào người khác thường không bền vững.

Tóm lại, là người đệ tử Phật luôn trau dồi cho mình kiến thức Phật pháp nhất định để áp dụng trong đời sống hàng ngày. Luôn quan sát và ghi nhận bằng chánh kiến, luôn có một cái nhìn chân thật về cuộc đời để giúp mình vượt qua những chướng ngại trong tình cảm cũng như nhiều phương diện khác trong cuộc sống. Bạn nào đang thất tình thì hãy tự tin lên nhé.

Thích Châu Đạt- TVHS

grab1434934609The life of Buddha 21

Sự cúng dường cao thượng

Đăng lúc: 08:00 - 22/06/2015

Nên khi bố thí chọn ngay vị hay người chính mình trong sạch cúng dường. Ðây là nhân làm cho tâm người thí chủ chồng chất thêm nhiều phiền não, chứ không có ích gì đến sự tu tập, đã bỏ việc thương yêu thân thuộc đi tìm thêm kẻ thân thuộc bên ngoài.
Lệnh bà Gotami là di mẫu của đức Thế Tôn hay tin đức Thế Tôn đã ngự về thành Ca Tỳ La Vệ, bà lấy làm thỏa thích vui mừng và nghĩ rằng: "Kể từ ngày đức Thế Tôn ngự về thành lần thứ nhất, đến nay là lần thứ nhì ta chưa hề được dâng cúng vật gì chính tay ta tạo ra. Nếu nói về sự cúng dường vật thực thì gia đình nào cũng có thể cúng dường được, nhất là đối với gia đình của hoàng gia thì càng dễ, vật thực càng quí giá. Vậy ta nên tạo ra bộ cà sa chính tay ta làm để cúng dường đến Phật. Sự thật hàng vải, lụa là, nhung gấm trong hoàng cung không thiếu, toàn là vật đắt giá, nhưng vẫn không xứng đáng với đức tin của ta muốn tạo ra vật quí. Ta muốn tự tay ta tạo ra một khổ vải để cúng dường đến Ngài, như vậy phước báu ấy mới hoàn toàn của ta".
Sau khi nghĩ xong, bà truyền gọi thợ bạc đến lấy vàng làm ra bảy chậu to lớn, lấy những lá cây thơm quí giá, ủ mục làm phân để vào những chậu vàng lớn trồng bông vải, tưới bằng sữa tươi và để hoa thơm vào. Chính tay bà vun phân tưới nước; khi có bông tự bà hái, bông vải ấy có màu vàng óng ánh như vàng thoi. Bà cho mời những người thợ chuyên môn giỏi nhất trong nước đến, truyền cất một tòa nhà to lớn đủ tiện nghi cho những người thợ dệt chuyên môn ở, trần nhà làm bằng những thứ hàng quí. Những người thợ ấy phải luôn luôn tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sạch nhất và phải có ngũ giới hay bát quan trai giới cho trong sạch. Bà lo kéo chỉ, sau khi thợ dệt đã dệt xong hai khổ vải, mỗi khổ mười bốn hắc tay, bà trả giá cho những người ấy rất hậu. Hai tấm vải ấy thật đẹp và rất quí giá, xứng đáng là vật cúng dường đến Phật bảo. Bà xem đi xem lại rất hài lòng việc làm của bà. Bà để hai tấm vải ấy trên mâm vàng rồi đội lên đầu đem vào chùa. Có rất nhiều phi tần và tín đồ nghe tin bà tạo hai tấm vải quí đem vào chùa dâng cúng Phật.
Khi đến chánh điện là nơi Phật đang ngự thuyết pháp giữa hàng ngàn Tăng chúng, thật là một nơi tôn nghiêm yên tịnh, hình như những người đang ngồi nghe pháp là những vị bằng hình tượng. Lệnh bà đảnh lễ đức Thế Tôn, ngó quanh thấy chư Tăng ngồi lặng yên thu thúc lục căn thật đáng lễ bái cúng dường, lòng kính thành và trong sạch của bà càng phát sanh mãnh liệt.

Lệnh bà bạch Phật rằng: "Bạch hóa đức Thế Tôn! đây là hai tấm vải vàng, tự tay tôi trông nom vun phân tưới nước, hái bông và quay chỉ. Sự cố gắng tạo nên hai tấm vải này do nơi đức tin lòng thành kính, ý nhất định làm để cúng dường ngay đến đức Thế Tôn. Xin Ngài thâu nhận để tôi được nhiều sự lợi ích an vui và hạnh phúc lâu dài".

Ðức Thế Tôn đáp: "Thưa nương nương, xin nương nương hãy dâng cúng hai tấm vải ấy cho chư Tăng, quả ấy còn cao thượng và quí báu hơn cúng dường riêng cho cá nhân của Như Lai. Khi nương nương cúng dường cho Tăng là nương nương cúng dường cho Như Lai và Tăng chúng.

Lệnh bà Gotami yêu cầu đức Thế Tôn lần thứ nhì, lần thứ ba nhưng đức Thế Tôn vẫn từ chối không thọ lãnh và cũng dạy nên đem cúng dường cho Tăng cao thượng hơn.

Nơi đây, trong chú giải có để câu: "Tại sao lệnh bà Gotami là di mẫu của Phật dâng cúng đến Ngài mà Ngài không thọ lãnh. Trái lại, dạy đem cúng dường cho Tăng có phước báu cao thượng hơn? Vậy có phải ân đức Tăng bảo cao thượng hơn Phật bảo chăng?"




Ðáp: "Sở dĩ đức Thế Tôn không thọ lãnh vì Ngài muốn làm cho quả bố thí của lệnh bà Gotami cao thượng hơn. Vì khi lòng bà trong sạch muốn cúng dường cho đức Thế Tôn, đây gọi là PUGGALIDÀNA nghĩa là cá nhân tuyển thí, là bố thí còn chọn người mình kính mến thương yêu riêng.
Hơn nữa, lòng trong sạch của bà thật cao thượng; lòng trong sạch ấy đủ ba nguyên nhân trong ba giai đoạn mà người thí chủ nào muốn được phước đầy đủ phải có là:
1.- PUBBACETANÀ: Tâm trong sạch vui vẻ trước khi làm phước như bố thí v.v...
2.- MUNCANACETANÀ: Tâm trong sạch vui vẻ trong khi đang làm phước.
3.- APARAPARACETANÀ: Và tâm trong sạch vui vẻ sau khi đã làm phước xong.
Vì nguyên nhân kể trên, đức Thế Tôn muốn cho bà cúng dường đến Tăng chúng, không lựa chọn một cá nhân nào tự bà kính mến cúng dường. Khi người còn chọn đối tượng để đem của ra bố thí, chính người ấy còn bị phiền não lẫn vào làm cho tâm không được hoàn toàn trong sạch, vì người bố thí còn lẫn trong sự lựa chọn bởi thương mến riêng của một cá nhân. Người ấy bố thí với phiền não chớ không phải bố thí do nơi trí huệ quan sát thấy vô thường, khổ não, vô ngã để mau giải thoát khỏi phiền não.
Cao thượng hơn, đức Thế Tôn muốn cho tín đồ hiểu rõ rằng: sự cúng dường đến Tăng bảo có quả báu cao thượng. Hơn nữa, đức Thế Tôn biết rằng: Ngài sẽ nhập diệt, chỉ còn Pháp và Tăng tồn tại đến năm ngàn năm. Nếu người chỉ biết cúng dường đến Phật bảo, sau khi Phật nhập diệt thì tín đồ không cúng dường đến chư Tăng thì làm sao chư Tăng sống được? Phật giáo làm sao tồn tại đến năm ngàn năm? Vì lý do kể trên nên Ngài không thọ lãnh vật cúng dường của bà Gotami. Còn nói về phước đức nhiều hay ít, không có vật gì có thể đo lường hai công đức của Phật và Tăng được.
Khi đức Thế Tôn không thọ lãnh vật cúng dường của bà, bà thất vọng và rất buồn tủi không biết giải bày nỗi khổ ấy cùng ai, chỉ biết khóc mà thôi. Bà liền nhớ đến Ðại đức Ananda, bà vội đến tư thất của ngài và bạch rằng: "Bạch Ðại đức! Không biết tôi có lỗi gì, đức Thế Tôn không vui lòng thọ lãnh hai tấm vải của tôi cúng dường. Tôi cầu xin Ngài vui lòng giúp tôi đến bạch xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi thọ lãnh hai tấm vải cho tôi được sự lợi ích bình an lâu dài".
Ðức Ananda nhận lời vào hầu Phật và bạch với đức Thế Tôn rằng: "Bạch hóa đức Thế Tôn! xin ngài mở lượng đại từ đại bi thọ lãnh hai tấm vải của bà Gotami, chính bà là di mẫu của Ngài. Khi Ngài vừa sanh được bảy ngày Phật mẫu thăng hà, lệnh bà Gotami giao con đẻ của mình là Nanda cho phi tần trông coi, còn chính lệnh bà săn sóc ngài. Ngài đã bú sữa của bà từ ngày ấy cho đến khi trưởng thành, vậy ơn ấy là dường nào. Hơn nữa hiện nay, lệnh bà là tín nữ đã thọ Tam qui, trì ngũ giới, và đắc quả Tu đà hoàm, người thấy Tứ Diệu Ðế bằng tuệ nhãn, không còn nghi ngờ về Tam bảo thật là người đáng cho đức Thế Tôn tế độ".
Ðức Thế Tôn phán rằng: "Người như bà Gotami rất đáng cho người đời kính nể. Nhưng sự cúng dường tứ vật dụng đến các bực giáo chủ như Như Lai bằng phương pháp trả ơn thật là việc không nên làm. (Ý đức Thế Tôn dạy rằng không nên làm phước thuộc về cá nhân tuyển thí, vì bà nhọc công làm để cúng dường cho một người, mà người ấy là cháu bà).
Rồi đức Thế Tôn thuyết bài pháp gọi là PATIPUGGALIDAKKINÀDÀNÀ (nghĩa là cúng dường chân chánh, còn chọn người để cúng dường). Trong đoạn Dakkhinàvibhanga như vầy: "Này Ananda! Cá nhân tuyển thí có mười bốn hạng là:
1.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay đức Chánh đẳng chánh giác làm đối tượng (là người thọ) cúng dường.
2.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay đức Phật Ðộc giác làm đối tượng cúng dường.
3- Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị đại A la hán, đệ tử của Phật làm đối tượng cúng dường.
4.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang cố hành đạo để chứng quả A la hán làm đối tượng cúng dường.
5.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị A na hàm, đệ tử của Phật làm đối tượng cúng dường.
6.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang hành đạo để đắc quả A na hàm, làm đối tượng cúng dường.
7.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị Tư đà hàm, đệ tử Phật làm đối tượng cúng dường.
8.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang cố hành đạo để đắc Tư đà hàm, làm đối tượng cúng dường.
9.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị Tu đà hườn, đệ tử Phật làm đối tượng cúng dường.
10.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay các bực đang cố hành đạo để đắc quả Tu đà hườn, làm đối tượng cúng dường.
11.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay vị đạo sĩ ngoài Phật pháp đã đắc Ngũ thông, làm đối tượng cúng dường.
12.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay người tại gia cư sĩ có giới đức, làm đối tượng cúng dường.
13.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay người người cư sĩ không có giới đức, làm đối tượng cúng dường.
14.- Người thí chủ chú trọng chọn ngay một loại thú nào làm đối tượng cúng dường.
Này Ananda, sự bố thí cho loài thú có ơn với người (gia súc như trâu bò v.v...), hoặc bố thí cho những con thú khác không có ân với người, sự bố thí của người thí chủ ấy chỉ mong diệt phiền não, hay bố thí cho người nghèo một bữa ăn no lòng mà có lòng diệt phiền não chứ không mong phước nhiều ít, người ấy sẽ được hưởng phước năm trăm kiếp; sẽ được năm điều quả báo: sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh và nói năng hoạt bát.
Nếu người thí chủ bố thí cho người không có giới đức sẽ được năm điều quả báo như trên một ngàn kiếp. Nếu người thí chủ bố thí cho người phàm nhân nhưng có giới đức trong sạch sẽ được hưởng quả báo kể trên muôn kiếp. Bố thí đến vị thiện nam hay tín nữ có giới đức trong sạch, hay vị Sa di hoặc thầy Tỳ kheo mới xuất gia lo hành thiền định, phước người được hưởng tùy theo sự trong sạch của người thọ thí mà trả quả cho người thí chủ. Bố thí đến vị tu hành hầu đoạt quả Tu đà hoàn trở lên, mà tâm người thí chủ trong sạch cố diệt phiền não chứ không chọn người tùy thích để bố thí, phước ấy vô lượng vô biên.
Ananda này, sự cúng dường đúng theo lẽ chánh cũng gọi là trai Tăng, hay cúng dường đến Tăng có bảy điều là:
1.- Cúng dường có đủ hai phái Tăng (Tỳ kheo Tăng và Tỳ kheo Ni), có đức Thế Tôn chủ tọa.
2.- Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt người chỉ cúng dường hai phái Tăng.
3.- Hoặc cúng dường cho một phái Tỳ kheo Tăng.
4.- Hay cúng dường đến Tỳ kheo Ni.
5.- Hoặc thí chủ đến nơi vị Ðại đức (Tỳ kheo) người có phận sự chia cho chư vị Tỳ kheo khác đi thọ thực các nơi khi thí chủ đến thỉnh đi trai Tăng, xin ngài chia cho bao nhiêu vị Tỳ kheo tùy theo sức của mình về nhà cúng dường.
6.- Người thí chủ đi đến nơi của Tỳ kheo Ni, chỗ vị có phận sự chia Tỳ kheo Ni đi thọ lễ cúng dường của thí chủ, thỉnh bao nhiêu vị tùy theo khả năng của mình về nhà cúng dường.
7.- Hoặc đến nơi của Tỳ kheo Tăng hay Ni xin thỉnh một vị về nhà làm lễ trai Tăng. Khi ấy các vị có phận sự cho vị Tỳ kheo nào đến nhà cũng được.
Bảy điều Như Lai đã giải trên, về sau có một vị Tỳ kheo phá giới tạm gọi là Tăng (vì không còn có giới đức), bọn ấy chỉ mặc một cái choàng vàng nhỏ, hoặc một miếng vải vàng ở cổ mà tự xưng là vị Tỳ kheo.
Thí chủ trong sạch cúng dường đến hạng Tỳ kheo phá giới ấy, nhưng trong thâm tâm nghĩ rằng: đây là bố thí đến Tăng. Phước ấy có nhiều đến A tăng kỳ kiếp. Như Lai không hề vì một lẽ nào dạy rằng; cá nhân tuyển thí có phước hơn cúng dường đến Tăng. Sự thật cúng dường đến Tăng phước báu nhiều hơn cá nhân tuyển thí.
Ananda này, cúng dường cao thượng ấy có bốn điều là:
1.- Sự cúng dường cao thượng ấy là phần thí chủ trong sạch.
2.- Sự cúng dường cao thượng ấy là phần vị thọ thực trong sạch.
3.- Sự cúng dường cao thượng ấy trong sạch cả hai bên.
4.- Sư cúng dường ấy cả hai bên không bên nào trong sạch (nghĩa là người thí chủ cũng như người thọ thí không ai trong sạch) toàn là hạng phá giới.
Rồi đức Thế Tôn tự vấn rằng: "Ananda này, thế nào gọi là trong sạch một bên?"
Ngài tự đáp: "Nghĩa là người thí chủ có giới đức nhưng vị thọ thí không có giới. Như thế này Như Lai gọi là bố thí cao thượng trong sạch một bên là thí chủ, còn người thọ thí không trong sạch.
Sự cúng dường cao thượng mà người thí chủ không trong sạch là thế nào? Nghĩa là người thọ thí là người có giới đức hành phạm hạnh, còn người thí chủ không có giới đức. Ðây gọi là sự cúng dường cao thượng trong sạch do nơi người thọ thí có giới đức.
Thế nào là trong sạch cả hai? Thí chủ và người thọ thí đều cùng trong sạch. Nghĩa là thí chủ cũng như người thọ thí đều có giới đức trong sạch hành phạm hạnh, như thế gọi là sự cúng dường cao thượng trong sạch cả hai bên.
Thế nào là sự cúng dường không trong sạch cả hai bên? Nghĩa là người thí chủ cũng như người thọ thí cả hai đều không có giới đức, không bên nào có hành phạm hạnh".
Trong chú giải có đặt ra câu hỏi rằng: "Tại sao đức Thế Tôn đem sự cúng dường cao thượng có bốn điều dạy trong trường hợp này?"
Ðáp: Vì trong cách bố thí có bốn điều khác nhau là:

1- Người thí chủ có phạm hạnh trong sạch.
2.- Người thọ thí có phạm hạnh trong sạch.
3- Người bố thí lẫn người thọ thí đều có phạm hạnh trong sạch.
4- Người bố thí lẫn người thọ thí không có phạm hạnh trong sạch.

Nơi đây ý nói rằng: Theo cá nhân của một vị Tỳ kheo phá giới nghĩa là không có giới đức chi cả. Nhưng nếu nói chung là Tăng thì Tăng không bao giờ phá giới. Tăng đây là chỉ chung một số các vị Tỳ kheo đã đắc Thánh quả. Vì người cúng dường có tâm trong sạch hướng về Tăng, nên sự cúng dường của thí chủ được quả cao thượng, tâm không hướng vào cá nhân cúng dường.




Ðức Thế Tôn liền thuyết thời pháp gọi là DAKKHINADÀNA, nghĩa là bố thí đúng theo lễ chánh, làm cho tín đồ đượm nhuần lý thuyết cao siêu mầu nhiệm của pháp bảo, nên diệt bỏ lòng trong sạch riêng với một cá nhân.
Có hai hạng thí chủ là:
1.- Có người trong sạch riêng với cá nhân nên khi bố thí chọn ngay vị hay người chính mình trong sạch cúng dường. Ðây là nhân làm cho tâm người thí chủ chồng chất thêm nhiều phiền não, chứ không có ích gì đến sự tu tập, đã bỏ việc thương yêu thân thuộc đi tìm thêm kẻ thân thuộc bên ngoài.
2- Có hạng thí chủ tâm hướng về các bậc xuất gia, vị nào hay người nào cũng được cần đến của cải mình đã có và sẵn lòng mang ra cho không hối tiếc, không cần biết người ấy là ai.
Thời pháp đức Thế Tôn dạy về cúng dường làm cho lòng người mát mẻ và hiểu rõ chân lý của Phật. Có thể ví như trời mưa to trong mùa hạn hán, làm cho đất được rút lấy nước thấm nhuần cho cây cỏ xinh tươi. Cũng có nghĩa là tâm người thiếu trí tuệ chỉ biết trong sạch cá nhân, sau khi nghe lời Phật dạy làm cho tâm sáng suốt không còn tối mê để rước thêm phiền não vào tâm mà không hay biết.

Khi lệnh bà Gotami được nghe thời pháp ấy làm cho tâm bà mát mẻ vì hiểu tại sao đức Thế Tôn không thọ lãnh vật cúng dường của bà, vì muốn phước báu bà cao thượng xứng đáng với tâm trong sạch và công khó của bà đã cố tạo...


Tác giả:Lược trích trong cuốn:
Tiêu đề: Hạng cúng dường của bà Gotami

Đối diện khổ đau

Đối diện khổ đau

Đăng lúc: 08:24 - 20/06/2015

Nếu chúng ta muốn có hạnh phúc chân thật trong cuộc sống, chúng ta buộc phải chấp nhận một sự thật là cuộc sống đầy dẫy những khổ đau. Chúng ta không thể tránh né, càng không thể loại trừ được hết những khổ đau trong đời sống. Chúng ta cần phải biết cách đối diện, nhận thức và chuyển hóa chúng.
Cuộc sống đầy dẫy những khổ đau. Cho dù ta có là người may mắn nhất trong nhân loại, ta cũng không thể tránh khỏi những nỗi khổ nhất định. Sự hiện hữu của những khổ đau đã bắt đầu ngay từ lúc chúng ta mở mắt chào đời. Chúng ta sợ phải chết, nhưng tất cả chúng ta đều phải chết. Chúng ta yêu thích tuổi thanh xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống, nhưng tất cả chúng ta đều bất lực nhìn tuổi già đến dần. Chúng ta cố tránh né bệnh tật, nhưng rồi tất cả chúng ta đều cũng không tránh khỏi. Chúng ta mong muốn được sống bên cạnh những người mình thương yêu, nhưng rồi bằng cách này hay cách khác, chúng ta vẫn phải chia tay với từng người trong số họ...


Với phần lớn trong chúng ta thì sự thiếu thốn vật chất ở một mức độ nào đó cũng luôn là nỗi khổ. Chúng ta quay cuồng, vật lộn với cuộc sống và rất hiếm khi chúng ta tự thấy mình đã có đủ những thứ mình cần...

Còn có thể kể ra rất nhiều khổ đau mà chúng ta phải thường xuyên đón nhận trong cuộc sống. Chính vì vậy, có người đã phải thốt lên rằng: “Hạnh phúc là sự tạm dừng của những đau khổ.”

Nhưng điều này không thật sự chính xác. Vì nếu như thế thì sẽ chẳng bao giờ chúng ta có được hạnh phúc, vì chẳng hề có một phút giây nào mà đau khổ trong cuộc sống này có thể tạm dừng.

Thay vì mong đợi sự tạm dừng của đau khổ để có được đôi chút hạnh phúc mong manh ngắn ngủi, chúng ta hãy đối diện và nhìn sâu vào bản chất của đau khổ. Khi hiểu rõ được bản chất của chúng, ta sẽ có thể chấp nhận và chuyển hóa. Chỉ khi đó chúng ta mới có được hạnh phúc thật sự.

Hầu hết những khổ đau của chúng ta đều xuất phát từ sự mong cầu đi ngược lại tự nhiên. Chúng ta mong muốn điều gì đó và bất kể là những mong muốn ấy có hợp lý hay không. Hay nói đúng hơn, chúng ta không chịu nhìn sâu vào bản chất của sự vật để có thể thấy được sự vô lý của chính mình.

Một cô gái đau khổ vì yêu thương một chàng trai nhưng không được đáp lại. Chàng trai kia không có lỗi gì cả. Chàng hoàn toàn có quyền lựa chọn người mình yêu thương. Nhưng cô gái đang yêu không có đủ sáng suốt để nhận ra điều đó. Cô đau khổ vì sự sai lầm trong nhận thức của chính mình. Nỗi đau khổ của cô chỉ có thể chấm dứt khi nào cô đối diện được với nó và nhận ra nguyên nhân thật sự, như bao nhiêu người khác đều có thể nhận ra.

Vào một buổi chiều đẹp trời, chúng ta dạo chơi trong một công viên nào đó, ta có thể thấy những cơn gió thoảng qua và có những chiếc lá vàng rơi rụng xuống.

Chiếc lá đã sống trọn một cuộc đời rất đẹp. Từng phút giây tồn tại, nó đã cống hiến trọn vẹn cho sự chuyển hóa dòng nhựa nguyên thành nhựa luyện để nuôi cây. Lá sinh ra từ cây, nhưng trong một ý nghĩa khác, vì lá đã nuôi sống cây nên lá cũng là mẹ của cây. Hết một đời mình, lá rơi rụng về với lòng đất, lại tiếp tục chuyển hóa thành phân mục để nuôi cây. Ngày mai, có thể lá lại được sinh ra thành một chồi non mới...

Trong bức tranh sinh động này, chúng ta có thể thấy rõ quy luật của đời sống. Mỗi người chúng ta là một chiếc lá trên thân cây cuộc đời. Ta không thể tồn tại mãi mãi, nhưng ta có thể sống thật trọn vẹn đời sống của mình. Ta sinh ra từ cuộc sống, nhưng ta sống có ích cho cuộc sống và trong ý nghĩa đó ta cũng góp phần tạo ra cuộc sống.

Thế nhưng hầu hết chúng ta không hài lòng với việc trở về lòng đất như chiếc lá kia. Ta đau khổ vì ta không nhận ra và chấp nhận quy luật tự nhiên của cuộc sống.

Tất cả những thực thể sống đều sinh ra và chết đi. Chiếc lá sinh ra và chết đi. Đóa hoa hồng sinh ra và chết đi. Nhưng những vật vô tri giác, như một tảng đá chẳng hạn, không có sự sinh ra và chết đi theo cách như thế. Chúng chỉ được hình thành và hủy hoại theo thời gian, chúng không có sự sống và sự chết. Chúng ta phải lấy làm hạnh phúc được sinh ra và chết đi, vì chỉ như thế ta mới thật sự được trải qua một đời sống nhiệm mầu.

Nếu chúng ta hiểu rõ được vấn đề và chấp nhận sự thật về sống chết, chúng ta sẽ thấy những giây phút được sống của mình càng có giá trị hơn.

Mỗi một nỗi khổ đau đều có nguyên nhân của nó. Nếu chúng ta biết suy xét để nhận ra những nguyên nhân sâu xa và đích thật, ta sẽ có thể chấp nhận và chuyển hóa nỗi khổ đau thành năng lực thúc đẩy ta nỗ lực sống tốt hơn. Cơ thể chúng ta không rắn chắc như sắt đá, nên một đôi khi ta mắc phải bệnh tật, điều ấy là tự nhiên. Hiểu được điều đó ta càng biết quý trọng và cảm nhận niềm vui trong những lúc được sống khỏe mạnh không bệnh tật, càng cố gắng giữ gìn sức khỏe một cách tích cực hơn, tránh xa những thức ăn uống hoặc những cuộc chơi bời có hại cho sức khỏe. Chúng ta cũng có thể nghĩ về tuổi già như một động lực để sống tốt hơn trong những ngày còn trẻ...

Những thương tổn về tình cảm cũng gây cho chúng ta nhiều đau khổ nếu chúng ta không biết cách đối trị với chúng. Khi gánh chịu những sự bất công, xúc phạm hoặc khinh miệt... chúng ta thường ôm ấp những thương tổn đó như những vết thương trong tâm hồn, và chúng ta đau khổ vì chúng. Nếu chúng ta biết mở rộng lòng và học được những cách ứng xử rộng lượng hơn, cảm thông hơn... chúng ta sẽ có thể hiểu và chấp nhận những sự bất công, xúc phạm hay khinh miệt ấy theo chiều hướng tốt đẹp hơn, và không để chúng làm thương tổn đến tâm hồn ta.

Trong hầu hết trường hợp, người ta cư xử một cách bất công hay thô bạo là xuất phát từ sự thiếu hiểu biết: hoặc là thiếu hiểu biết về cách sống, hoặc là thiếu hiểu biết lẫn nhau. Nếu chúng ta đáp lại bằng sự thù hằn, căm giận, bản thân chúng ta cũng rơi vào chỗ thiếu hiểu biết. Cả hai bên đều đau khổ. Ngược lại, nếu chúng ta hiểu được và cảm thông với sự thiếu hiểu biết của người khác, ta sẽ có khuynh hướng tha thứ hơn là tức giận. Chúng ta có làm thay đổi được người khác hay không, điều đó còn tùy nơi năng lực cảm nhận của họ, nhưng bản thân chúng ta thì chắc chắn sẽ tránh được thương tổn trong những trường hợp này.

Khi chúng ta đau khổ, nếu ta biết nghĩ đến những đau khổ của người khác với sự cảm thông và chia sẻ, nỗi đau của chính bản thân ta sẽ được giảm nhẹ. Ngược lại, sự trách móc, oán giận... chỉ càng làm tăng thêm nỗi đau mà thôi.

Chúng ta phải chấp nhận một thực tế là cuộc đời không sao tránh khỏi những khổ đau. Nhưng trong một chừng mực nhất định, cách hiểu và nhìn nhận vấn đề của chúng ta có thể làm vơi đi đáng kể mức độ đau khổ. Đối diện với từng nỗi khổ đau và tìm hiểu rõ nguyên nhân sâu xa của nó có thể giúp ta có thái độ đón nhận một cách tích cực hơn. Ngay cả khi chúng ta đang hứng chịu một nỗi khổ đau nào đó, chúng ta vẫn thấy tự tin và ít bị thương tổn hơn.


Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 16
  • Hôm nay 3,223
  • Tháng hiện tại 39,678
  • Tổng lượt truy cập 23,445,927