Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Chùa Đức Hậu tổ chức Lễ khai Đàn Dược Sư; Cầu ATGT và khai Bút đầu Xuân

Chùa Đức Hậu tổ chức Lễ khai Đàn Dược Sư; Cầu ATGT và khai Bút đầu Xuân

Đăng lúc: 22:52 - 03/02/2017

Sáng ngày 3/2/2017 (7/1/Đinh Dậu), tại Chùa Đức Hậu - Nghi Đức, Tp Vinh, Nghệ An đã long trọng tổ chức lễ khai Đàn Dược Sư cầu cho Quốc thái dân an, và lễ khai bút đầu Xuân 2017. Cầu An toàn giao thông, do Đại Đức Thích Định Tuệ, Trụ trì Chùa Đức Hậu tổ chức, với sự chứng minh của Chư Tôn Đức Tăng trong tỉnh,và hàng nghìn Phật tử và người dân đã về tham dự.

Làm đẹp

Làm đẹp

Đăng lúc: 05:04 - 11/01/2017

Ngành thẩm mỹ học cho rằng, khi chưa có con người trên trái đất này thì chưa có cái đẹp. Lúc bấy giờ đất đá, sông nước, núi rừng, biển cả, trăng sao… đã có rồi, nhưng chưa có cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả, chưa có gì hết! Đến khi con người xuất hiện và phát triển đến chừng mực nào đó, lúc bấy giờ cái đẹp và cái xấu, cái thẩm mỹ và cái phản thẩm mỹ mới được con người xác lập.

lam dep.jpg

Đẹp là một phần của sự sống mà con người hằng mong ước, là một cái gì phù hợp với sự sống của con người. Đẹp bao giờ cũng gắn liền với sự sống lý tưởng của con người, không thể có cái đẹp nằm ngoài sự sống. Tức là, nói theo ngôn ngữ Duy thức học, đối tượng nhận thức không thể tách rời chủ thể nhận thức. Cho nên, cái đẹp phải phù hợp với sự sống của chúng ta, chúng ta hằng mơ ước về nó, khát vọng về nó, nó hiện lên trong vùng lung linh của lý tưởng. Cái đẹp ấy chính là vẻ đẹp của nội tâm và ngoại giới, vẻ đẹp của thân tâm con người.
Ở đời ai cũng yêu thích cái đẹp. Cái đẹp của thiên nhiên, của tạo hóa, của con người xây dựng nên như những công trình kiến trúc độc đáo, những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, hội họa... Và cái đẹp ai cũng quan tâm, để ý là vẻ đẹp của con người.

Con người, theo thẩm mỹ học, vốn là một tác phẩm nghệ thuật đẹp nhất! Nhưng nghệ thuật bao giờ cũng là của sự thăng hoa, cho dù hiện thực có giản dị, có đau thương, gian khổ đi chăng nữa thì nghệ thuật phải trên nguyên tắc của sự thăng hoa, thăng hoa cả chủ thể và đối tượng. Cho nên, con người từ xưa đến nay không ngừng nỗ lực làm đẹp.

Làm đẹp là một nhu cầu của hầu hết mọi người. Người ta có thể làm đẹp bằng nhiều cách: truyền thống, dân gian, cổ điển, có cách làm đẹp hiện đại... Nói chung, có cả trăm ngàn cách làm đẹp, và có người cũng đẹp hẳn ra, nhưng cũng có người làm hoài vẫn không đẹp. Vì sao vậy? Vì cái ‘nguyên mẫu’ nó… không đẹp. Cho nên, làm đẹp không phải là cái tội. Cái tội (nghiệp) là không thể làm cho mình đẹp ra khi mình vốn đã… xấu. Biết làm sao bây giờ? Cha mẹ sinh mình ra cũng đâu muốn mình xấu. Cha mẹ cũng không có quyền lựa chọn cho mình khuôn mặt đẹp hay xấu thì làm sao mình lựa chọn?

Có người vì ‘xấu’ quá nên mất hết niềm tin, sống trong mặc cảm, tự ti, không dám mơ ước điều gì cao xa, cho dù trong lòng vẫn cháy bỏng tình yêu cuộc sống. Chẳng biết bày tỏ cùng ai nỗi niềm buồn tênh đó, có người tìm đến chùa để… tâm sự với Phật. Phật thương chúng sinh, chắc sẽ không nói tâm sự của mình cho người khác, nên tha hồ mà kể lể, mà khóc, giấu mặt trong đôi bàn tay bé nhỏ!

Phật thương chúng sinh, nên sẽ giúp. Phật là Đại y vương, có khả năng điều trị cả thân bệnh lẫn tâm bệnh, nên sẽ có cách dạy cho chúng sinh làm đẹp, vì Phật biết rõ, thấy rõ nguyên nhân sâu xa của cái xấu. Nếu mình muốn đẹp mà không biết vì sao mình xấu thì không tài nào làm cho đẹp được. Cho nên, Phật bắt đầu phân tích bệnh lý cho chúng sinh hiểu.

Có 10 nguyên nhân (hay nghiệp nhân) khiến cho chúng sinh nhận lấy kết quả có một thân hình hay khuôn mặt xấu xí.

1. Thường hay nổi cơn thịnh nộ. Thịnh nộ là giận rất dữ dội. Khuôn mặt của người đang giận dữ thì… không đẹp chút nào hết, dù cho người đó là hoa hậu! Lúc đó dù có bao nhiêu lớp son phấn, mỹ phẩm đắt tiền… cũng không thể nào che được cái xấu. Hơn nữa, mỗi khi “nổi cơn thịnh nộ” thì sẽ “quên đi nghĩa tình”. Nghĩa tình đã quên hết thì tha hồ mà làm khổ cho nhau. Kinh Di giáo nói: “Lòng giận tức độc hại hơn lửa dữ, thường phải đề phòng chớ cho nổi lên. Kẻ giặc cướp của công đức, chẳng ai bằng giận dữ”. Giận hờn, thịnh nộ không những tàn phá dung nhan hiện tại mà còn thấm vào trong xương, trong máu, tạo thành chủng tử cho đời sau, kiếp sau, sinh ra ở đâu, sống trong hoàn cảnh nào cũng xấu xí. Cho nên, muốn đẹp không phải là giải phẫu chỉnh hình mà cần ‘lột bỏ cơn thịnh nộ’.

2. Thường hay ấp ủ oán hận. Chính là nuôi dưỡng, chất chứa hận thù trong lòng. Có người hận cha mẹ, hận anh em, hận bạn bè, hận xã hội và hận luôn chế độ… nhưng cũng có người hận chính bản thân mình. Dù oán hận ai đi nữa thì người khổ đau nhất vẫn chính là mình. “Hận thù diệt hận thù, đời này không thể có”, kinh Pháp cú đã nói vậy. Cho nên, càng ấp ủ, càng nuôi dưỡng, càng chất chứa hận thù thì hận thù càng thêm lớn, càng thêm khổ đau cho đời này và cả đời sau, không khi nào được vui tươi, xinh đẹp. Chỉ có “Từ bi diệt hận thù, là định luật ngàn thu”. Hận thù trút bỏ rồi thì mình thành con người mới, như người đặt gánh nặng trên vai xuống, bỗng dưng thấy mình nhẹ tênh, sung sướng vô cùng. Khi ấy tự nhiên thấy mình vui tươi, trẻ đẹp ra.

3. Dối gạt người khác. Tức là sống không thật lòng, sống hai mặt, lừa dối người. Những người như vậy, họ chỉ có cái mặt nạ, cái vỏ bọc bên ngoài, còn bên trong xấu xí, lừa dối đủ điều, lừa dối cả người thân của mình. Vì sống với cái vỏ bọc bên ngoài, cho nên có che bao nhiêu lớp cũng lòi cái xấu ra ngoài.

4. Quấy rối chúng sinh. Đó là những người ưa đặt điều thị phi, vu khống, sách nhiễu, khủng bố, chọc ghẹo, xúc phạm… người khác, loài khác; phá vỡ hạnh phúc, gia cang người ta. Người như vậy không những nhận lấy quả báo xấu xí mà còn không bao giờ nhận được sự tôn trọng của người khác, luôn bị người khác coi thường.

5. Không có ái kính đối với cha mẹ. Người biết thương yêu và kính trọng cha mẹ, mặt họ luôn rạng ngời hạnh phúc. Ngược lại, người không biết ái kính cha mẹ chắc chắn là người xấu, không thể đẹp được.

6. Không cung kính Hiền Thánh. Người nào coi thường hình tượng Phật và Bồ-tát, khinh chê người khác lễ lạy Tam bảo, vào chùa thấy Phật không lạy, thấy Tăng không chào, còn tỏ thái độ bất kính, khinh khi, coi thường thì sẽ mất hết phước báo để được xinh đẹp.

7. Xâm đoạt của cải và điền nghiệp của Hiền Thánh. Người nào trộm cắp, chiếm đoạt… tài sản và đất đai của chùa chiền, đền miếu thì bị tổn giảm phước báo nghiêm trọng.

8. Làm tắt đèn đuốc nơi tháp miếu Phật. Đây là hành vi cố tình phá hủy vật dụng thắp sáng, khiến chùa tháp bị tối tăm. Việc làm này bị quả báo mặt mày luôn tăm tối.

9. Chê bai, khinh rẻ người xấu xí. Người nào khởi tâm ngã mạn, khinh chê người xấu, người bị tật nguyền sẽ bị mắc quả báo xấu xí.

10. Tập các ác hạnh. Người nào hay làm các việc ác, tà hạnh như không giữ năm giới, tám giới... sẽ bị quả báo không thể xinh đẹp.

Đó là mười nghiệp hay mười nguyên nhân sâu xa dẫn đến quả báo xấu xí, không xinh đẹp. Hễ đã gây tạo một trong mười nghiệp trên thì không thể nào xinh đẹp được, cho dù có chỉnh sửa, cắt vá, tạo hình bằng cách nào. Cho nên, để có được thân tướng đoan chánh, nghiêm trang, xinh đẹp thì phải: không sân, không hận, không dối, không quấy, kính yêu cha mẹ, tôn trọng Hiền Thánh, không xâm hại sản nghiệp của Hiền Thánh, không làm tắt đèn đuốc nơi chùa chiền, không khinh rẻ người xấu, không tập các ác hạnh; lại còn phát tâm tô vẽ trang hoàng tượng, tháp Phật, quét dọn tháp miếu Phật, quét dọn đất già-lam, dâng hoa cúng Phật...

Trong mười cách làm đẹp ở trên, hễ làm được một cách thì đẹp được một phần, đẹp được một vẻ, hay nói cách khác là ‘có một vẻ đẹp riêng’. Nếu làm được cả mười thì người ấy nhất định đẹp đến… ‘mười phân vẹn mười’!

Đức Phật nói đại ý, coi những người ‘sắc nước hương trời’, đến nỗi ‘mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da’, khiến ‘chim sa cá lặn’… ấy, phải biết là họ nhờ vào sự thực tập cái nhân lành đời trước, đó là lìa xa mười nghiệp nhân làm xấu, sống theo mười nghiệp nhân làm đẹp. Tùy theo mức độ thực tập tránh xa mười nhân làm xấu, thực hành mười nhân làm đẹp, mà trở nên đẹp người đẹp nết, hay chỉ đẹp người mà không đẹp nết.

Dẫu sao, ông bà mình cũng đã dạy, “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Cho nên, hãy sửa soạn cái tâm, chăm sóc cái tâm cho thật đẹp. Kinh Ma ý dạy rằng: “Cất trăm ngôi chùa chẳng bằng cứu sống một người. Cứu sống người khắp mười phương thiên hạ, chẳng bằng một ngày tu tâm”. Người biết tu tâm dưỡng tính thì đời này, đời sau, khi nào cũng thấy hiền lành, dễ thương, đó là nét đẹp thánh thiện vậy.
Thích Nguyên HùngNgành thẩm mỹ học cho rằng, khi chưa có con người trên trái đất này thì chưa có cái đẹp. Lúc bấy giờ đất đá, sông nước, núi rừng, biển cả, trăng sao… đã có rồi, nhưng chưa có cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả, chưa có gì hết! Đến khi con người xuất hiện và phát triển đến chừng mực nào đó, lúc bấy giờ cái đẹp và cái xấu, cái thẩm mỹ và cái phản thẩm mỹ mới được con người xác lập.

lam dep.jpg

Đẹp là một phần của sự sống mà con người hằng mong ước, là một cái gì phù hợp với sự sống của con người. Đẹp bao giờ cũng gắn liền với sự sống lý tưởng của con người, không thể có cái đẹp nằm ngoài sự sống. Tức là, nói theo ngôn ngữ Duy thức học, đối tượng nhận thức không thể tách rời chủ thể nhận thức. Cho nên, cái đẹp phải phù hợp với sự sống của chúng ta, chúng ta hằng mơ ước về nó, khát vọng về nó, nó hiện lên trong vùng lung linh của lý tưởng. Cái đẹp ấy chính là vẻ đẹp của nội tâm và ngoại giới, vẻ đẹp của thân tâm con người.
Ở đời ai cũng yêu thích cái đẹp. Cái đẹp của thiên nhiên, của tạo hóa, của con người xây dựng nên như những công trình kiến trúc độc đáo, những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, hội họa... Và cái đẹp ai cũng quan tâm, để ý là vẻ đẹp của con người.

Con người, theo thẩm mỹ học, vốn là một tác phẩm nghệ thuật đẹp nhất! Nhưng nghệ thuật bao giờ cũng là của sự thăng hoa, cho dù hiện thực có giản dị, có đau thương, gian khổ đi chăng nữa thì nghệ thuật phải trên nguyên tắc của sự thăng hoa, thăng hoa cả chủ thể và đối tượng. Cho nên, con người từ xưa đến nay không ngừng nỗ lực làm đẹp.

Làm đẹp là một nhu cầu của hầu hết mọi người. Người ta có thể làm đẹp bằng nhiều cách: truyền thống, dân gian, cổ điển, có cách làm đẹp hiện đại... Nói chung, có cả trăm ngàn cách làm đẹp, và có người cũng đẹp hẳn ra, nhưng cũng có người làm hoài vẫn không đẹp. Vì sao vậy? Vì cái ‘nguyên mẫu’ nó… không đẹp. Cho nên, làm đẹp không phải là cái tội. Cái tội (nghiệp) là không thể làm cho mình đẹp ra khi mình vốn đã… xấu. Biết làm sao bây giờ? Cha mẹ sinh mình ra cũng đâu muốn mình xấu. Cha mẹ cũng không có quyền lựa chọn cho mình khuôn mặt đẹp hay xấu thì làm sao mình lựa chọn?

Có người vì ‘xấu’ quá nên mất hết niềm tin, sống trong mặc cảm, tự ti, không dám mơ ước điều gì cao xa, cho dù trong lòng vẫn cháy bỏng tình yêu cuộc sống. Chẳng biết bày tỏ cùng ai nỗi niềm buồn tênh đó, có người tìm đến chùa để… tâm sự với Phật. Phật thương chúng sinh, chắc sẽ không nói tâm sự của mình cho người khác, nên tha hồ mà kể lể, mà khóc, giấu mặt trong đôi bàn tay bé nhỏ!

Phật thương chúng sinh, nên sẽ giúp. Phật là Đại y vương, có khả năng điều trị cả thân bệnh lẫn tâm bệnh, nên sẽ có cách dạy cho chúng sinh làm đẹp, vì Phật biết rõ, thấy rõ nguyên nhân sâu xa của cái xấu. Nếu mình muốn đẹp mà không biết vì sao mình xấu thì không tài nào làm cho đẹp được. Cho nên, Phật bắt đầu phân tích bệnh lý cho chúng sinh hiểu.

Có 10 nguyên nhân (hay nghiệp nhân) khiến cho chúng sinh nhận lấy kết quả có một thân hình hay khuôn mặt xấu xí.

1. Thường hay nổi cơn thịnh nộ. Thịnh nộ là giận rất dữ dội. Khuôn mặt của người đang giận dữ thì… không đẹp chút nào hết, dù cho người đó là hoa hậu! Lúc đó dù có bao nhiêu lớp son phấn, mỹ phẩm đắt tiền… cũng không thể nào che được cái xấu. Hơn nữa, mỗi khi “nổi cơn thịnh nộ” thì sẽ “quên đi nghĩa tình”. Nghĩa tình đã quên hết thì tha hồ mà làm khổ cho nhau. Kinh Di giáo nói: “Lòng giận tức độc hại hơn lửa dữ, thường phải đề phòng chớ cho nổi lên. Kẻ giặc cướp của công đức, chẳng ai bằng giận dữ”. Giận hờn, thịnh nộ không những tàn phá dung nhan hiện tại mà còn thấm vào trong xương, trong máu, tạo thành chủng tử cho đời sau, kiếp sau, sinh ra ở đâu, sống trong hoàn cảnh nào cũng xấu xí. Cho nên, muốn đẹp không phải là giải phẫu chỉnh hình mà cần ‘lột bỏ cơn thịnh nộ’.

2. Thường hay ấp ủ oán hận. Chính là nuôi dưỡng, chất chứa hận thù trong lòng. Có người hận cha mẹ, hận anh em, hận bạn bè, hận xã hội và hận luôn chế độ… nhưng cũng có người hận chính bản thân mình. Dù oán hận ai đi nữa thì người khổ đau nhất vẫn chính là mình. “Hận thù diệt hận thù, đời này không thể có”, kinh Pháp cú đã nói vậy. Cho nên, càng ấp ủ, càng nuôi dưỡng, càng chất chứa hận thù thì hận thù càng thêm lớn, càng thêm khổ đau cho đời này và cả đời sau, không khi nào được vui tươi, xinh đẹp. Chỉ có “Từ bi diệt hận thù, là định luật ngàn thu”. Hận thù trút bỏ rồi thì mình thành con người mới, như người đặt gánh nặng trên vai xuống, bỗng dưng thấy mình nhẹ tênh, sung sướng vô cùng. Khi ấy tự nhiên thấy mình vui tươi, trẻ đẹp ra.

3. Dối gạt người khác. Tức là sống không thật lòng, sống hai mặt, lừa dối người. Những người như vậy, họ chỉ có cái mặt nạ, cái vỏ bọc bên ngoài, còn bên trong xấu xí, lừa dối đủ điều, lừa dối cả người thân của mình. Vì sống với cái vỏ bọc bên ngoài, cho nên có che bao nhiêu lớp cũng lòi cái xấu ra ngoài.

4. Quấy rối chúng sinh. Đó là những người ưa đặt điều thị phi, vu khống, sách nhiễu, khủng bố, chọc ghẹo, xúc phạm… người khác, loài khác; phá vỡ hạnh phúc, gia cang người ta. Người như vậy không những nhận lấy quả báo xấu xí mà còn không bao giờ nhận được sự tôn trọng của người khác, luôn bị người khác coi thường.

5. Không có ái kính đối với cha mẹ. Người biết thương yêu và kính trọng cha mẹ, mặt họ luôn rạng ngời hạnh phúc. Ngược lại, người không biết ái kính cha mẹ chắc chắn là người xấu, không thể đẹp được.

6. Không cung kính Hiền Thánh. Người nào coi thường hình tượng Phật và Bồ-tát, khinh chê người khác lễ lạy Tam bảo, vào chùa thấy Phật không lạy, thấy Tăng không chào, còn tỏ thái độ bất kính, khinh khi, coi thường thì sẽ mất hết phước báo để được xinh đẹp.

7. Xâm đoạt của cải và điền nghiệp của Hiền Thánh. Người nào trộm cắp, chiếm đoạt… tài sản và đất đai của chùa chiền, đền miếu thì bị tổn giảm phước báo nghiêm trọng.

8. Làm tắt đèn đuốc nơi tháp miếu Phật. Đây là hành vi cố tình phá hủy vật dụng thắp sáng, khiến chùa tháp bị tối tăm. Việc làm này bị quả báo mặt mày luôn tăm tối.

9. Chê bai, khinh rẻ người xấu xí. Người nào khởi tâm ngã mạn, khinh chê người xấu, người bị tật nguyền sẽ bị mắc quả báo xấu xí.

10. Tập các ác hạnh. Người nào hay làm các việc ác, tà hạnh như không giữ năm giới, tám giới... sẽ bị quả báo không thể xinh đẹp.

Đó là mười nghiệp hay mười nguyên nhân sâu xa dẫn đến quả báo xấu xí, không xinh đẹp. Hễ đã gây tạo một trong mười nghiệp trên thì không thể nào xinh đẹp được, cho dù có chỉnh sửa, cắt vá, tạo hình bằng cách nào. Cho nên, để có được thân tướng đoan chánh, nghiêm trang, xinh đẹp thì phải: không sân, không hận, không dối, không quấy, kính yêu cha mẹ, tôn trọng Hiền Thánh, không xâm hại sản nghiệp của Hiền Thánh, không làm tắt đèn đuốc nơi chùa chiền, không khinh rẻ người xấu, không tập các ác hạnh; lại còn phát tâm tô vẽ trang hoàng tượng, tháp Phật, quét dọn tháp miếu Phật, quét dọn đất già-lam, dâng hoa cúng Phật...

Trong mười cách làm đẹp ở trên, hễ làm được một cách thì đẹp được một phần, đẹp được một vẻ, hay nói cách khác là ‘có một vẻ đẹp riêng’. Nếu làm được cả mười thì người ấy nhất định đẹp đến… ‘mười phân vẹn mười’!

Đức Phật nói đại ý, coi những người ‘sắc nước hương trời’, đến nỗi ‘mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da’, khiến ‘chim sa cá lặn’… ấy, phải biết là họ nhờ vào sự thực tập cái nhân lành đời trước, đó là lìa xa mười nghiệp nhân làm xấu, sống theo mười nghiệp nhân làm đẹp. Tùy theo mức độ thực tập tránh xa mười nhân làm xấu, thực hành mười nhân làm đẹp, mà trở nên đẹp người đẹp nết, hay chỉ đẹp người mà không đẹp nết.

Dẫu sao, ông bà mình cũng đã dạy, “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Cho nên, hãy sửa soạn cái tâm, chăm sóc cái tâm cho thật đẹp. Kinh Ma ý dạy rằng: “Cất trăm ngôi chùa chẳng bằng cứu sống một người. Cứu sống người khắp mười phương thiên hạ, chẳng bằng một ngày tu tâm”. Người biết tu tâm dưỡng tính thì đời này, đời sau, khi nào cũng thấy hiền lành, dễ thương, đó là nét đẹp thánh thiện vậy.
Thích Nguyên Hùng

Con gà trong góc nhìn Phật giáo

Con gà trong góc nhìn Phật giáo

Đăng lúc: 08:06 - 03/01/2017

Tết Nguyên đán bước sang năm mới 2017 theo chu kỳ can chi là tết Đinh Dậu, Tết con gà. Trong đời thường lẫn văn học nghệ thuật dân gian, hình tượng con gà gắn bó mật thiết với hình ảnh của sự chăm chỉ, dũng mãnh “gà trống gọi mặt trời”, tình mẫu tử “gà mẹ xù lông bảo vệ con” hay như một lời chúc cho cho gia đình con cháu đề huề, vợ chồng mới cưới sớm có con qua bức tranh “Đàn gà mẹ con” của dòng tranh Đông Hồ nổi tiếng…

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Việt Nam cũng là đất nước gắn bó mật thiết với Phật giáo với hơn hai nghìn năm hình thành và phát triển của đạo Phật. Vậy thì con gà có vai trò gì từ góc nhìn Phật giáo hay không? Đây là câu hỏi được nhiều người đặt ra và nhất là thời điểm này, Tết con gà Đinh Dậu 2017 đang đến rất gần…

Gà trống – biểu tượng của tham?

Nhằm trả lời câu hỏi này, tháng 2/2016 tác giả Nguyễn Kim Sơn đã có một bài viết về hình tượng con gà trong kinh điển Phật giáo. Có thể đây chỉ là quan điểm cá nhân, nhưng những thông tin cung cấp trong bài viết cũng khá thú vị, đáng để tham khảo.

Theo đó, tác giả Nguyễn Kim Sơn cho rằng, có ba con vật mà kinh điển Phật giáo nói tới nhiều lần và được xem như những biểu tượng quan trọng, đó là con gà trống, rắn độc và con lợn. Ba con vật này là biểu tượng của Tam độc, đó là Tham – Sân - Si (贪、瞋、痴 - tham dục, oán hận và ngu độn). Gọi là Tam độc vì nó là độc tố của tâm, hủy hoại tinh thần và thể xác, ngăn cản con người ngộ đạo. Tam độc là nguồn gốc của khổ đau và phiền não.

Cụ thể, gà trống – biểu tượng của lòng tham. Con gà trống thích một mình quản lãnh đàn gà mái đông như phi tần trong cung vua. Để bảo vệ quyền sở hữu đám gà mái, nó sẵn sàng xù lông dương cựa đánh đuổi bất kỳ con gà trống nào khác xâm nhập lãnh thổ của nó. Đó là tham ái, tham dục.

Gà trống mổ thức ăn nó nhìn thấy như một sự đánh dấu sở hữu, dẫu nó đã no không thể ăn được nữa. Đó là sự tham luyến vật dục không giới hạn. Phật giáo quan niệm “tham” là động cơ gốc, là căn cội của sự thất vọng, không thỏa mãn, bất hạnh, là nguyên nhân của chiến tranh, tàn ác, cướp bóc tranh giành và những thói xấu. Tham tức là khổ. Giảm lòng tham là phép giải độc tố cho tâm, khiến cho nó trong trẻo an lạc.

Rắn độc – biểu tượng của sân hận, giận giữ, oán thù và sự nguy hiểm. Con rắn độc mang sẵn trong mình nó nọc độc. Nó dùng nọc độc để hạ gục con mồi, hạ gục đối phương. Nó dùng độc để tự vệ, dùng độc để đối đãi với kẻ khác và đặc biệt hơn nữa là nó đem độc để đối đãi đời, đối đãi với đời bằng răng nanh và túi nọc độc.

Con rắn độc sẽ có con khác độc hơn trị nó. Thấy rắn độc người ta xa lánh hay tìm cách tiêu diệt nó. Bản thân nó tồn tại với tư cách một nguy cơ nên bất an và không chung sống an hòa, với muôn loài. Lòng sân hận và oán thù trong tâm người là một loại độc tố. Nó thiêu đốt tâm người ta khiến người ta không yên, nó gây ra sự bất hòa, thậm chí là tội ác.

Bản thân kẻ ôm ấp thù hận và sự giận giữ trong lòng cũng tự hủy hoại tâm mình. Đem oán thù mà đáp trả oán thù thì oán thù chỉ càng thêm chồng chất. Người ta thường nói có ba thứ nên quên, đó là tuổi tác, bệnh tật và oán thù. Buông bỏ oán thù, hỷ xả với giận giữ, tha thứ cho lỗi lầm của người khác vừa tốt cho người vừa thải độc được cho tâm ta.

Con lợn – biểu tượng của sự ngu si tăm tối. Người đời đã tổng kết “ngu như lợn”, biểu tượng sinh động của sự ngu. Nó ăn tích mỡ tích thịt và đợi tới ngày bị người ta mổ thịt. Phật giáo không nhấn mạnh sự ngu ở chỗ thiểu năng trí tuệ hay sự kém cỏi có tính di truyền của tính loài. Bản thân sự ngu cũng không phải là tội.

Phật giáo muốn lưu ý tới việc con người chìm đắm trong bến mê mà không tự biết, ở trong sự nguy mà không biết nguy. Người đời chạy theo vật dục mà không biết nó là nguy hiểm, ngày ngày sân hận mà không biết đó là độc nhiễm. Đáng dừng mà không biết dừng.

Cứ yên trong mê mà lầm là sáng suốt khôn ngoan, có năng lực tự thức ngộ mà không biết khởi phát để nhận thức thấu triệt được bản chân của tồn tại nghĩa là si.

Si là nhầm lẫn, u tối, tưởng thỏa được vật dục là sung sướng, tưởng tranh cạnh hơn người là thông minh. Cái trí tuệ mà đẩy con người dài theo tham sân thì đó vẫn là si. Chỉ một trí tuệ bát nhã, thứ trí tuệ giúp người ta giải được độc của tham ái, của sân hận, của u tối lầm lẫn mới là trí tuệ đích thực.

Có hay không sự quả báo cho những người sát sinh gà?

Trong giáo lý của mình, đạo Phật khuyên không nên sát sinh quả báo của việc sát sinh là vô cùng đau khổ, đó cũng chính là lý do tại sao, sát sinh là một trong năm giới cấm mà người Phật tử tại gia khi quy y Tam bảo phải quyết tâm thực hiện. Lý thuyết của Phật giáo sau này khoa học đã chứng minh khi các nghiên cứu cho rằng hầu hết súc vật đều có bộ não và hệ thần kinh như con người.

Chúng cũng có cảm giác, biết nóng lạnh, sợ hãi, tham sống và sợ chết. Khi sợ hãi, nhịp tim của chúng đập mạnh, áp suất máu lên cao, hơi thở hổn hển, thậm chí nhiều con còn chảy nước mắt. Thế nên, tước bỏ mạng sống của một con vật là việc làm không nên và quả báo của việc sát sinh sẽ vô cùng nặng nề.

Quay trở lại với chuyện con gà, cư sĩ Trịnh Tùng trong quyển sách “Nhân quả báo ứng những điều mắt thấy tai nghe” đã viết về sự quả báo cho những người sát sinh gà.

Theo đó, tại Thiên Thai – Đông Bắc có một vị bác sĩ mới ra nghề nhưng rất giỏi. Một ngày nọ, có người phụ nữ hơn 40 tuổi tìm đến khám bệnh. Cô ta bảo bị đau trong yết hầu, nhờ bác sĩ chữa trị.

Bác sĩ xem kỹ bộ dáng của cô, người bệnh nhân này có tiếng nói “Oát, oát” giống như tiếng gà kêu, đồng thời thân thể run run, còn hai tay thì cứ với với như hai cánh của con gà đang đập. Bác sĩ lại khám trong yết hầu của cô, nhưng phía trong yết hầu lại không có bệnh gì cả, việc này khiến vị bác sĩ vô cùng khó hiểu.

Bác sĩ là người Nùng Vĩ, hơn nữa lại là một Phật tử thuần thành. Anh có một gia đình rất hạnh phúc. Mọi người trong gia đình anh từ lớn đến nhỏ đều quy y Tam Bảo, giữ giới tu hành. Anh thấy căn bệnh của người phụ nữ rất giống trạng thái con gà khi bị cắt tiết nên anh đoán ra cô ta đã ăn thịt gà quá nhiều, hai là cô có thể là người buôn bán gà.

Sau khi hỏi kỹ, quả nhiên đúng như những gì anh đã tiên đoán, cô là chủ của một tiệm bán gà ở gần đó. Vì vậy anh nói: “Theo tôi khám thì thấy cô không bệnh về thân, mà đây là bệnh nghiệp, nên có lẽ tôi không có cách để chữa trị cho cô được”. Nghe xong, người phụ nữ này vẫy vẫy hai tay giống như hai cánh gà, miệng thì kêu “oát, oát” giống y như hình trạng con gà đang giẫy chết. Vừa về tới nhà thì cô ngã ngửa ra tắt thở.

Bên cầu Nhật Bản mọc lên tiệm bán gà, lúc mới mở tiệm này do hai người hùn vốn lại làm ăn, nhưng một thời gian sau đó thì tách ra riêng. Khi người chủ được 50 tuổi thì người vợ qua đời, không bao lâu thì đứa con gái đầu và con gái thứ đều lần lượt chết, ông chủ cũng mắc phải căn bệnh quái ác.

Ông đi đủ thầy, tìm đủ thuốc, tốn rất nhiều tiền của nên bệnh mới dần dần bình phục. Bảy năm sau, bệnh ông bỗng nhiên tái phát dữ dội, càng ngày bệnh càng trầm trọng hơn, thuốc bao nhiêu cũng không còn tác dụng nữa. Ông gọi con trai cả cùng con dâu đến bên cạnh và nói: “Ba đau quá! Mau lên, mau lên, các con hãy đuổi những con gà ở xung quanh ba đi!”.

Ông vừa nói vừa tỏ ra rất đau đớn. Con cháu hỏi lý do vì sao ông lại nói như thế, ông nén cơn đau bảo: “ Các con không thấy sao? Do trước kia ba giết gà, nên bây giờ những con gà bị giết nó xúm lại quanh ba. Có con còn dùng chân cào lên mình ba, có con mổ khắp người ba. Đau nhức quá! Các con ơi, làm ơn đuổi những con gà giùm ba đi. Đau quá, sợ quá! Kiếm tiền nhiều để làm gì mà không trị được bệnh đây trời ơi. Không, không nên làm cái nghề này nữa”. Nói xong thì tắt thở, từ đó con cháu ông sợ nên bỏ nghề, không còn dám bán gà nữa.

Những câu chuyện trên có thể có thật hoặc chỉ là một sự đúc kết để hướng tới một thông điệp: Không nên sát sinh! Nhưng dù thế nào thì cũng có thể thấy cho dù bạn là ai, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, có tin nhân quả hay không tin thì bạn vẫn phải chịu sự chi phối của định luật nhân quả.

Gieo nhân thiện gặt quả thiện, gieo nhân ác nhất định sẽ gặt ác báo, không sớm thì muộn. Luật nhân quả không bỏ sót một mảy lông, một bụi trần. Tin sâu và luật nhân quả, ngăn ngừa ý nghĩ ác, lời nói ác và việc làm ác thì cuộc sống của mỗi người mới được an vui trên cõi trần ngắn như chớp mắt này.

Linh Thụy

Hà Nội: Trọng thể kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN

Hà Nội: Trọng thể kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN

Đăng lúc: 10:10 - 07/11/2016

Sáng nay 7-11, Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN đã trọng thể và trang nghiêm diễn ra tại hội trường Bảo tàng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội (huyện Sóc Sơn, TP.Hà Nội).

H1.jpg
Đức Pháp chủ - Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ quang lâm - ảnh: Bảo Thiên

Đại lễ cung đón Đức Pháp chủ - Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ cùng chư tôn giáo phẩm Phó pháp chủ HĐCM quang lâm chứng minh.

HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS; chư tôn giáo phẩm Phó Chủ tịch HĐTS cùng chư tôn đức lãnh đạo Phật giáo 63 tỉnh, thành; ông Vũ Đức Đam, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ cùng các vị lãnh đạo nhà nước, nguyên lãnh đạo nhà nước CHXHCN Việt Nam; đại diện các bộ ngành trung ương và TP.Hà Nội đến dự và chúc mừng.

H2.jpg
Cung nghinh chư tôn đức và đại biểu - ảnh: Bảo Thiên

H4.jpg
TT.Thích Huệ Thông dẫn chương trình - ảnh: Lương Hòa

H3.jpg
Nghi thức chào cờ - ảnh: Lương Hòa

Đại lễ bắt đầu bằng nghi thức cung nghinh trang trọng giữa tiếng nhạc hùng hồn, tiếng trống kèn rộn ràng với đoàn rước lễ đầy sắc màu do chư Tăng Ni sinh và các em Phật tử thủ đô phụ trách. Ngay sau đó là phần chào quốc kỳ, đạo kỳ, tưởng niệm các vị tiền bố hữu công, anh hùng liệt sĩ đã cống hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc.

Thay mặt cho Đức Pháp chủ, Hòa thượng Phó Pháp chủ Thích Trí Quảng đã tuyên đọc thông điệp gởi chư tôn túc Tăng Ni, quý Phật tử trong và ngoài nước nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội.

Bức thông điệp nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết, hòa hợp của các thành viên trong ngôi chung Giáo hội suốt 35 năm qua - đã tạo nên những thành tựu Phật sự quan trọng trên các mặt công tác, phục vụ nhân sinh, phát triển đất nước, góp phần kiến tạo hòa bình, an lạc cho nhân loại.

Qua đó, Đức Pháp chủ cũng khẳng định, Giáo hội đã thực sự lớn mạnh, đủ sức tiến hành các Phật sự trọng đại, hòa mình vào dòng chảy và sự phát triển chung của Phật giáo thế giới khi tổ chức thành công nhiều sự kiện Phật giáo tầm quốc tế. Dịp này, Đức Pháp chủ gởi lời tri ân đến các cơ quan nhà nước, bạn bè quốc tế và đồng bào các giới trong nước đã đồng hành, giúp sức Giáo hội để hoàn thành Phật sự từ ngày thành lập đến nay.

H7.jpg
HT.Thích Trí Quảng tuyên đọc thông điệp của Đức Pháp chủ - ảnh: Lương Hòa

H5.jpg
Chư tôn giáo phẩm các ban ngành T.Ư dự lễ - ảnh: Lương Hòa

H6.jpg
Lãnh đạo các cấp chính quyền dự lễ - ảnh: Lương Hòa

Tuyên đọc diễn văn Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội, Hòa thượng Chủ tịch HĐTS Thích Thiện Nhơn khái quát lại quá trình hình thành, kiện toàn và điều hành Phật sự của Giáo hội suốt 35 năm qua; đồng thời khẳng định những tinh thần đoàn kết, hòa hợp, đồng hành và phụng sự là những giá trị cao quý của các cấp Giáo hội.

“Những thành tựu của Giáo hội trong 35 năm qua là liên tục, ổn định, rõ nét và qua đó khẳng định với kinh nghiệm sẵn có, tự thân mỗi thành viên của Giáo hội sẽ khắc phục khó khăn, tham gia sâu rộng những việc làm lợi đạo ích đời, tiếp tục đóng góp tích cực vào sự xương minh đạo pháp, hưng thịnh đất nước” - Hòa thượng Chủ tịch HĐTS nhấn mạnh.

H9.jpg
HT.Thích Thiện Nhơn đọc diễn văn đại lễ - ảnh: Lương Hòa

Trong bài diễn văn cũng khẳng định, lịch sử đã cho thấy kể từ thời Đức Phật tại thế cho đến nay, hễ Nhà nước ủng hộ Phật giáo thì Phật giáo hưng thịnh và đất nước cũng hưng thịnh phú cường. Văn hóa dân tộc có sự đóng góp lớn lao của Phật giáo về văn học, triết học, giáo dục, mỹ học, kiến trúc, nghệ thuật…, nhất là duy trì và phát huy truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam có tiếp thu, chọn lọc một số nguồn văn hóa khác.

Trong phút giây trang trọng hướng về mốc lịch sử cách nay 35 năm, Hòa thượng Chủ tịch HĐTS đề nghị toàn thể đại biểu thành kính tưởng nhớ và niệm ân đến chư tôn đức tiền bối lãnh đạo Giáo hội qua các nhiệm kỳ - đã có công lao lớn trong việc xây dựng, củng cố và phát triển Giáo hội từ nhiệm kỳ đầu tiên của Giáo hội và chư vị cố Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Ni trưởng, Ni sư, quý vị cư sĩ trong Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự từ trung ương đến địa phương của Giáo hội qua các nhiệm kỳ.

H10.jpg
TT.Thích Đức Thiện báo cáo kết quả Phật sự 35 năm của Giáo hội - ảnh: Lương Hòa

Thay mặt Ban Thư ký, TT.Thích Đức Thiện, Tổng Thư ký HĐTS đã báo cáo kết quả công tác Phật sự của Phật giáo cả nước từ ngày thành lập đến nay.

Theo đó, khi mới thành lập (tháng 11-1981), nhiệm kỳ đầu là thời kỳ xây dựng, Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm 2 hội đồng: Hội đồng Chứng minh 50 thành viên, Hội đồng Trị sự 49 thành viên, có 6 ban ngành trung ương và 28 Ban Trị sự tỉnh, thành hội Phật giáo hoạt động.

Từ nhiệm kỳ II đến nhiệm kỳ IV là thời kỳ ổn định và xây dựng, nhiệm kỳ V và nhiệm kỳ VI là thời kỳ củng cố và phát triển.

Trải qua 35 năm, nhiệm kỳ VII là nhiệm kỳ kế thừa, ổn định và phát triển bền vững, kiện toàn và đổi mới tổ chức.

H13.jpg
Hình ảnh chư tôn đức và đại biểu nhìn từ trên cao - ảnh: Lương Hòa

“Hiện nay tổ chức GHPGVN có 89 thành viên HĐCM, 199 Ủy viên Hội đồng Trị sự và 66 Ủy viên dự khuyết. Hệ thống tổ chức Giáo hội gồm 13 ban, viện trung ương hoạt động chuyên ngành; thống nhất từ trung ương đến các địa phương khi đã thành lập Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh tại 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Kiện toàn và nâng tầm hệ thống quản lý hành chính Phật giáo cấp quận, huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh; quản lý 8 Hội Phật tử Việt Nam ở nước ngoài theo Hiến chương GHPGVN”, TT.Thích Đức Thiện thông tin.

Báo cáo cũng điểm qua những thành tựu nổi bật của 13 ban ngành hoạt động của Giáo hội gồm: Tăng sự, Giáo dục Tăng Ni, Hướng dẫn Phật tử, Hoằng pháp, Nghi lễ, Văn hoá, Kinh tế - Tài chính, Phật giáo quốc tế, Từ thiện xã hội, Pháp chế, Kiểm soát, Thông tin - Truyền thông, Viện Nghiên cứu Phật học.

Hiện tại, cả nước có 49.493 Tăng Ni tu học tại 17.376 cơ sở tự viện và hàng chục triệu tín đồ Phật tử cùng với hơn 50 triệu những người yêu mến đạo Phật; 4 học viện, 8 lớp cao đẳng và 31 trường trung cấp Phật học; gởi 476 Tăng Ni du học nước ngoài; 890 Tăng Ni giảng sinh tốt nghiệp khóa đào tạo giảng sư; 1.003 đơn vị GĐPT với 8.560 huynh trưởng và 65.650 đoàn sinh; 1.150 đạo tràng tu học dành cho Phật tử tại gia; nhiều ấn phẩm văn hóa và báo chí, thông tin điện tử; 150 Tuệ Tĩnh đường, 655 phòng chẩn trị y học dân tộc, 1 phòng khám đa khoa, thực hiện công tác từ thiện khoảng 7.000 tỷ đồng; Giáo hội là thành viên của nhiều tổ chức Phật giáo quốc tế.

Trong phương hướng thời gian đến, TT.Thích Đức Thiện đã trình bày 11 điểm cần tập trung thực hiện để đưa Giáo hội phát triển trong giai đoạn mới và hội nhập quốc tế.

H11.jpg
Ông Vũ Đức Đam phát biểu - ảnh: Lương Hòa

Đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại buổi lễ - khẳng định - trong quá khứ nhiều nhân vật ghi danh tên tuổi với lịch sử dựng nước và giữ nước xuất thân từ Phật giáo. Nói về sự kiện thành lập và những giá trị đóng góp của Giáo hội sau 35 năm, Phó Thủ tướng cho rằng đó là những đóng góp quan trọng, tạo sự ổn định trong đời sống và làm giàu các nét đẹp văn hóa.

Cuối bài phát biểu, Phó Thủ tướng đề nghị, Giáo hội, chư Tăng Ni, Phật tử cần tăng trưởng Phật chất để tiếp tạo sự trang nghiêm, phát huy các tiềm lực, làm chỗ dự tâm linh vững chắc cho dân tộc.

Dịp này, Giáo hội đã trang trọng đón nhận Huân chương Lao động hạng nhất do Chủ tịch nước trao tặng.

Nhiều lẵng hoa, phần quà do lãnh đạo cấp cao của nhà nước, nguyên lãnh đạo nhà nước, các cơ quan trung ương, TP.Hà Nội, tổ chức, cá nhân gởi đến chúc mừng.

Giáo hội trao tặng 500 triệu đến Quỹ khuyến học Việt Nam do bà Nguyễn Thị Doan, nguyên Phó Chủ tịch nước làm chủ tịch.

H12.jpg
Ông Vũ Đức Đam trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất đến Giáo hội - ảnh: Lương Hòa

H15.jpg
Lãnh đạo UBTƯ MTTQVN tặng hoa chúc mừng - ảnh: Lương Hòa

H16.jpg
Giáo hội tặng 500 triệu đến Quỹ khuyến học Việt Nam - ảnh: Lương Hòa

Buổi lễ khép lại sau phần cảm tạ của Ban Tổ chức do HT.Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS đọc. Chư tôn đức lãnh đạo và quý đại biểu hoan hỷ chụp ảnh lưu niệm nhân kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội.

H17.jpg
HT.Thích Thanh Nhiễu cảm tạ - ảnh: Lương Hòa

H14.jpg
Hình ảnh chư tôn đức và đại biểu nhìn từ trên cao - ảnh: Lương Hòa

H8.jpg
Toàn cảnh đại lễ - ảnh: Lương Hòa

Bảo Thiên

Phương cách đối phó với bệnh tật

Phương cách đối phó với bệnh tật

Đăng lúc: 08:58 - 21/10/2016

Trước hết chúng ta phải hiểu rằng bệnh hoạn là điều không tránh được. Tất cả chúng ta đều phải bệnh. Một khi ta đã được sinh ra trong vòng luân hồi với thân chịu ảnh hưởng của những xung đột tâm lý và nghiệp, thì bệnh là điều chắc chắn phải xảy ra. Đó là bản chất của thân - nó già đi và bệnh. Cuối cùng nó sẽ hoàn toàn ngừng hoạt động. Nó chết và tâm thức đi tái sinh.
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Phản ứng thông thường của chúng ta đối với bệnh là cảm thấy thương thân, trách người và sân hận. Các phản ứng này chỉ khiến bản thân chúng ta và người xung quanh thêm khổ sở. Chúng có chữa được bệnh không? Không, dĩ nhiên là không.

sick-monk-with-buddha-and-ananda.jpg
Đức Phật chăm sóc một Tỳ-kheo bị bệnh - Tranh PGNN

Đức Phật khuyên chúng ta nhìn bệnh từ một quan điểm rộng rãi hơn; đó là dầu ta có tìm được phương thuốc phù hợp để chữa bệnh, ta cũng cần tìm hiểu nguồn gốc của bệnh. Bệnh xảy ra khi con người phải sinh ra trong vòng luân hồi. Một khi đã được sinh ra, chúng ta sẽ phải có bệnh, trừ khi cái chết đã đến trước rồi. Nguyên nhân gì khiến ta tái sinh trong vòng luân hồi? Chính là tâm bám víu vào tham, sân, si và nghiệp (các hành động ở thân, ở miệng và ở ý). Những thứ này hợp lại để thành nguyên nhân chính: là sự bám víu vào ngã, là vô minh. Vô minh khiến ta không hiểu về bản chất của thực tại. Do đó giải thoát bản thân khỏi sự vô minh này là điều tiên quyết.

Phần đông chúng ta đồng ý, “Đúng, đúng, tôi phải loại bỏ si mê. Nhưng, tôi sẽ làm điều đó sau này. Hiện giờ tôi đang mạnh khỏe. Tôi trẻ trung và cuộc đời đang ở phía trước. Tôi có thể làm rất nhiều thứ. Tôi muốn ở bên cạnh những người tôi quan tâm. Tôi cần trải nghiệm cuộc sống. Tôi muốn có một nghề nghiệp. Tôi muốn du lịch. Tôi muốn có những dục lạc mới. Tôi muốn sáng tạo nghệ thuật, hay thể thao. Tôi muốn làm điều này và điều nọ. Tôi sẽ quan tâm về vòng luân hồi sau này”.

Qua hàng tỷ kiếp, chúng ta đã dùng dằng khi đối mặt với nguyên nhân gây ra đau khổ cho ta. Sự dùng dằng kéo dài và những lời biện hộ đã đưa chúng ta đi đâu? Chúng ta cứ tiếp tục nói như thế từ kiếp này sang kiếp khác. Tại sao chúng ta trì hoãn? Bởi vì tham ái.

Khổ bắt nguồn từ si mê và tham ái. Để loại bỏ chúng, trước tiên chúng ta phải thấy toàn cảnh luân hồi như thế nào một cách rõ ràng. Điều này liên quan đến việc phát triển lòng can đảm to lớn để quán sát nội tâm, để truy tìm nguồn gốc của luân hồi, các giải pháp khác (giải thoát), và con đường đến giải thoát. Chúng ta phải học về và dồn sức lực vào việc nhận thức bản chất tột cùng của thực tại, sự trống vắng của hiện hữu của tất cả mọi người và mọi vật. Chỉ có như thế, thì chúng ta mới có thể loại bỏ si mê là nguồn gốc tạo ra sinh, già, bệnh và chết.

Tôi sẽ nói thêm về những cách quen thuộc để đối phó với bệnh, nhưng vì theo sát giáo lý của Đức Phật, tôi muốn trước hết bàn đến đề tài này trong cái nhìn đúng đắn. Bỏ qua việc giải thích vòng luân hồi để giúp bạn được ích lợi đối với những vấn đề ngay trước mắt sẽ là dối gạt bạn. Tái sinh trong luân hồi mới đích thực là vấn đề và nhận thức được bản chất thực sự của thực tại một cách trực tiếp mới là giải pháp của vấn đề. Tuy nhiên, cho tới khi chúng ta đạt đến điểm đó, cho tới khi chúng ta nhận thức được sự trống vắng của hiện hữu, thì đây là một số cách khác để đối phó với bệnh hoạn:

1. Bấm nút dừng sợ hãi

Hãy quán sát tâm và nhìn xem chúng ta phản ứng như thế nào đối với bệnh. Tôi không biết bạn có giống như thế không, nhưng khi bệnh, tâm tôi rất sợ hãi và thường nghĩ đến “tình trạng tệ hại nhất” để kết luận. Thí dụ, tôi có cảm giác lạ ở ngực thì liền nghĩ rằng tôi sẽ bị đột quỵ. “Nếu tim có vấn đề khi tôi đang ở trong thất của mình thì sẽ như thế nào? Biết có ai tìm ra tôi kịp không? Liệu họ có đưa tôi đến bệnh viện đủ nhanh không? Ở Mỹ, chúng tôi không có chương trình bảo trợ sức khỏe rẻ tiền, nên những tổn phí về sức khỏe sẽ như thế nào?”. Chỉ là một cảm giác khác lạ nhỏ, nhưng tâm tôi đã phóng đại nó, “Liệu bệnh tim này có đe dọa cuộc sống của tôi không!”. Lại một màn khác: bụng của ta hơi khó chịu, ta liền nghĩ, “Đây chắc là ung thư bao tử rồi”. Khi đầu gối ta đau lúc ngồi thiền, ta liền nghĩ, “Tôi phải chuyển tư thế ngay lập tức, nếu không tôi sẽ bị tàn phế cả đời”. Tâm của bạn có trở nên hoang dại và tạo ra những câu chuyện khủng khiếp như thế không?

Lúc bắt đầu, chỉ là một cảm giác khó chịu ở trong thân - một cảm giác vật lý. Tùy thuộc vào việc chúng ta xem cảm giác vật lý đó như thế nào, chúng ta có thể tạo ra rất nhiều khổ tâm. Nếu chúng ta có thể bấm cái nút “Dừng lại” trên tâm sợ hãi và chỉ ý thức về cảm giác vật lý, ta sẽ không tạo ra phiền não cho tâm. Đó chỉ là một cảm giác, không có gì đáng sợ. Chúng ta không phải căng thẳng. Cảm giác chỉ là cảm giác, hãy để nó như thế.

Khi hành thiền, chúng ta trải nghiệm những cảm giác vật lý khác. Nếu ta gán cho một cảm giác là “đau”, thì mọi thứ thực sự bắt đầu đau. Tuy nhiên, nếu ta chỉ nói “cảm giác”, và không tạo ra một cái tưởng mạnh mẽ hay hình dung trong tâm về đầu gối của mình, thì nó chỉ là cảm giác. Hãy quán niệm: Đâu là cảm giác? Đâu là thân?

Hãy thử nghiệm nhiều cách với cái đau nơi thân khi hành thiền, thay vì lặp lại thói quen trở nên căng thẳng và sợ hãi khi đau.

2. Điều gì khiến cảm giác này là “của tôi”?

Có bao giờ bạn tự hỏi điều gì đã khiến bạn căng thẳng, sợ hãi khi bạn trải nghiệm một cảm giác nào đó? Nếu quán sát, ta sẽ thấy đó là vì ta gán cho nó là của tôi, “Tôi đau. Lưng tôi nhói buốt”. Ngay khi được dán nhãn “của tôi”, thì một cảm giác mạnh mẽ về “cái tôi” phát khởi, và cảm giác đau đó trở thành ghê gớm. Trong lúc hành thiền, chúng ta có thể tự hỏi mình, “Điều gì khiến cảm giác này là của tôi? Cái gì là tôi hay của tôi trong cảm giác này?”. Khi tâm quán chiếu sâu xa về điều này, là cách ta chất vấn ý thức mạnh mẽ về một “cái tôi” bền vững. “Cái tôi” và “Của tôi” có hiện hữu đúng như ta tưởng không? Từ đó ta quán về sự không có mặt của một hiện hữu độc lập hay một chủ thể thường hằng.

3. Hãy nghĩ, “Tốt! Bệnh cũng tốt!”

Một cách khác để đối phó với bệnh là hãy nghĩ, “Tôi bệnh à, tốt thôi!”. Đây là một cực đoan đối nghịch với cách chúng ta thường suy nghĩ phải không? Thuốc chữa của Pháp đối với hầu hết những khó khăn của chúng ta đều chính là sự đối nghịch lại đối với những gì tâm ta thường tự động nghĩ. Đức Phật khuyên ta làm ngược lại với những gì mà bản ngã muốn làm. Trong trường hợp này khi bệnh, ta nên nhủ, “Tốt! Có bệnh tôi cũng vui!”.

Có thể bạn sẽ nghĩ, “Điên à? Làm sao có thể nói, tôi vui khi bị bệnh?”. Hãy nhìn sự việc theo cách này: bệnh của ta là do nghiệp xấu mà ta đã tạo ra trong quá khứ. Giờ thì nghiệp đó đã ra quả dưới hình thức bệnh, nó không còn che mờ tâm trí ta nữa. Có thể nghiệp xấu đó có năng lực khiến ta phải tái sinh đọa vào những nơi ghê gớm (như địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh) một thời gian dài, nhưng thay vào đó giờ nó chỉ trổ quả mà nếu so sánh thì ít khổ hơn nhiều. Nếu ta quán chiếu như thế, thì căn bệnh mà ta hiện đang mang thực sự trở nên khá bình thường. Không có gì phải làm ầm ĩ. Không đến nỗi tệ; nếu so với một kiếp sống đọa đày hàng tỷ kiếp, thì việc này chỉ như cơn gió nhẹ! Thực ra, nếu có thể thanh tịnh hóa những nghiệp xấu đáng kinh của ta dễ dàng như thế, thì ta không màng nếu có phải bệnh nặng hơn chút đỉnh!

Một sư tỷ của tôi lúc đang nhập thất, bị một mụt hạch to nổi lên ở miệng. Rất đau. Khi cô đang đi bách bộ sau một thời khóa thiền, cô gặp sư phụ chúng tôi, ngài Lama Zopa Rinpoche. Ngài hỏi, “Cô khỏe không?”. Cô rên rỉ, “Con bị mụt hạch…”. Rinpoche trả lời, “Tốt! Tuyệt vời! Cô may mắn quá!”. Dĩ nhiên, cô chẳng muốn nghe những lời như thế. Cô cần những lời thương hại. Nhưng Rinpoche lại tiếp, “Tốt quá! Cô đang trả quả cho những nghiệp xấu đến nỗi có thể khiến cô phải đọa đày, chỉ bằng bị một mụt hạch. Cô thật may mắn!”.

Nếu nhìn sự việc theo cách đó, ta sẽ nhận thấy rằng căn bệnh hay cái đau mình đang mang thực sự không quá tệ. Ta có thể chịu đựng khi nghĩ rằng nó còn có thể trổ nghiệp tệ hơn. Thêm nữa, ta cảm thấy may mắn vì nghiệp này đã chín, nó không còn ám ảnh tâm trí ta nữa. Không còn bị nó che mờ tâm, thì việc thực hiện được con đường giải thoát sẽ dễ dàng hơn. Đây là một phương cách khác mà ta có thể sử dụng khi đau bệnh.

4. Hãy tử tế với người

Mấy năm trước đây, một người bạn tôi ở tuổi chớm ba mươi đi khám bệnh vì cô không thấy khỏe. Bác sĩ chẩn đoán là cô đang mắc một căn bệnh nan y, cô sẽ phải bệnh một thời gian dài và có thể phải chết.

Phản ứng tức thì của cô bạn ngay lúc đó, dĩ nhiên, là sợ hãi, phiền muộn. Cô bắt đầu rơi vào trạng thái trầm cảm, tự thương hại và cáu gắt. Rồi bất chợt, cô dừng lại và tự hỏi, “Nếu Đức Đạt-lai Lạt-ma ở trong hoàn cảnh như mình, thì ngài sẽ cảm thấy thế nào? Ngài sẽ ứng xử thế nào trong hoàn cảnh đó?”. Suy nghĩ nhiều về điều đó, cuối cùng cô nghĩ là ngài sẽ kết luận, “Hãy sống tử tế”.

Do đó, cô chấp nhận “Hãy sống tử tế” như một câu châm ngôn. Cô nghĩ, “Mình sẽ phải vào ở trong bệnh viện một thời gian và sẽ gặp đủ loại người ở đó - y tá, y sĩ, điều trị viên, bác sĩ, nhân công, các bệnh nhân khác, người thân trong gia đình và nhiều người khác nữa. Tôi sẽ tử tế với tất cả mọi người”. Cô quyết tâm sẽ tử tế với tất cả những ai cô gặp trong quá trình ở bệnh viện và ở khu điều trị.

Một khi tâm đã quyết sống tử tế, nó trở nên bình an. Cô đã chấp nhận bệnh của mình, và cô đã có phương thức hành động, đó là sống tử tế. Cô nhận ra rằng dầu khi bị bệnh, cuộc đời của cô cũng có thể mang lại lợi ích cho người. Cô có thể chia sẻ sự tử tế với người khác để cải tiến chất lượng cuộc sống của họ. Cô có thể là một bệnh nhân biết hợp tác, vui vẻ và biết ơn, người có thể mang hạnh phúc đến cho các nhân viên bệnh viện và các bệnh nhân khác.

Cuối cùng câu chuyện kết thúc là, sau khi bác sĩ của cô làm thêm các xét nghiệm, ông thông báo là sự chẩn đoán đầu tiên không chính xác: Cô không bị bệnh hiểm nghèo đến thế. Dĩ nhiên là cô thấy nhẹ nhõm khi nghe như thế, nhưng cô nói rằng việc rèn luyện tâm để đối mặt với bệnh là một kinh nghiệm quý báu đối với cô. Giờ bệnh không còn nguy hiểm đến tính mệnh thì việc tử tế với mọi người càng trở nên dễ dàng hơn.

5. Luyện tâm để sống cho xứng đáng

Trong những năm 1987 và 1988 khi sống tại Singapore, tôi được gặp một thanh niên trẻ rất dễ thương, nhưng đang đối mặt với căn bệnh ung thư giai đoạn cuối. Anh đang ở vào những năm cuối của tuổi hai mươi mà trước khi phát bệnh, cuộc đời anh tràn đầy niềm vui. Anh vừa được nhận vào học cao học tại một trường đại học ở Mỹ, và anh đang rất háo hức được du học xa. Nhưng sau khi ngã bệnh, tất cả mọi dự tính đều ngưng giữa dòng. Một lần tôi đến thăm, anh buồn rầu nói, “Giờ con chỉ là người vô dụng. Muốn ngồi dậy đi ra khỏi phòng cũng không được”. Chúng tôi đang ngồi cạnh cửa sổ, nên tôi nói, “Hãy nhìn ra cửa sổ. Có rất nhiều người lái xe qua lại, hay di chuyển đến các nhà ga, bận rộn đi chỗ này, chỗ kia. Anh có nghĩ là cuộc sống của họ rất xứng đáng? Họ có thể bận rộn đi đây, đi đó với bao nhiêu công việc, nhưng có phải vì thế mà cuộc đời của họ đáng sống hơn không?”. Rồi tôi tiếp tục giải thích rằng một cuộc đời đáng sống không phải là nhờ luôn bận rộn. Sống xứng đáng tùy thuộc vào việc ta sử dụng tâm mình như thế nào. Ngay như thân ta có bị bại liệt, nếu ta dùng tâm trí mình để hành Pháp, thì cuộc sống của ta cũng trở nên rất hữu ích. Không cần phải đủ sức khỏe mới hành Pháp được.

Dĩ nhiên, nếu có sức khỏe thì việc tu tập sẽ dễ dàng hơn, tuy nhiên nếu bệnh, ta vẫn có thể sử dụng bất cứ thời gian nào, năng lực nào còn lại để tu hành. Ngay cả khi ta không thể ngồi dậy nổi, phải nằm liệt giường, ngay cả khi ta bị hôn mê nhiều giờ, ngay cả khi ta yếu sức, không còn nhìn thấy rõ, ta vẫn có thể nghĩ đến những điều thiện lành và quán tưởng đến bản chất thực sự của thực tại. Chúng ta có thể quán về nghiệp và an trú trong Tam bảo (Phật, Pháp và Tăng). Có bao nhiêu pháp hành ta có thể thực hành ngay cả khi ta đang đau bệnh. Khi ta lợi dụng hoàn cảnh này để thực hành những điều Phật dạy, là ta đang khiến cuộc sống của mình tràn đầy ý nghĩa.

Đừng nghĩ rằng cuộc đời của bạn có ý nghĩa chỉ vì bạn chạy đây chạy đó làm những việc không tên. Đừng nghĩ rằng vì có tiền, vì bận rộn công việc, sở hữu bao nhiêu thứ và có biết bao bạn bè là chất lượng của một cuộc sống có ý nghĩa. Đôi khi, nhìn bề ngoài cuộc sống của chúng ta có vẻ tuyệt vời. Chúng ta có nhiều bằng khen, nhiều của cải vật chất để làm biểu tượng cho những nỗ lực của ta, nhưng trong quá trình tạo ra chúng, ta có thể đã tạo ra bao nghiệp xấu ác. Nghiệp xấu đó không phải là sản phẩm hữu ích trong các hoạt động của ta. Thí dụ, do có nhiều ham muốn hay tham vọng chấp ngã để được danh tiếng, chúng ta có thể dối trá, lường gạt người khác. Ta có thể nói xấu người khác, làm bại hoại danh tiếng của họ, phá hủy tình bằng hữu và nói xấu kẻ khác để đạt được điều mình muốn. Dù ta có thể thỏa mãn những ước vọng của mình, tất cả những dấu hiệu thành công bên ngoài rồi sẽ phai nhòa, đến khi ra đi, chỉ có nghiệp sẽ đi theo ta mà thôi.

Trái lại, chúng ta có thể bị bệnh, phải nằm một chỗ, nhưng nếu ta dùng tâm mình để tạo ra những nghiệp xây dựng tích cực, là ta đang tạo ra nhân cho sự tái sinh tốt đẹp. Nếu ta quán từ bi, hành thiền cũng như chỉ bày cho người hành thiền khi đang nằm một chỗ, tâm ta sẽ trở nên gần gũi hơn với giác ngộ, giải thoát. Về lâu về dài, điều đó làm cho cuộc sống của chúng ta vô cùng ý nghĩa.

Chớ coi thường sức mạnh của tâm. Tâm rất dũng mãnh. Ngay cả khi ta bệnh, uy lực của những tư tưởng tích cực mà ta tạo tác cũng có thể ảnh hưởng đến những người quanh ta. Những tư tưởng và tình cảm tử tế, khôn ngoan cũng có thể mang đến các sự tái sinh tốt đẹp và đưa ta đến con đường giác ngộ.

Ni sư THUBTEN CHODRON
Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
(Từ Dealing With Life’s Issues)

Dấu ấn những ngôi chùa linh thiêng ở Luang Prabang

Dấu ấn những ngôi chùa linh thiêng ở Luang Prabang

Đăng lúc: 19:30 - 29/06/2016

Ảnh: DulichVTV
Dấu ấn của Phật giáo để lại rõ nét nhất chính là những mái chùa làng linh thiêng có mặt khắp nơi trên đất nước Triệu Voi.
Kỳ 1: Đường đến đất nước Triệu voi và cánh đồng chum bí ẩn

Kỳ 2: Động Phật Pak Ou linh thiêng và kỳ bí

Cũng giống như một số quốc gia lân bang, Phật giáo được du nhập vào Lào từ rất sớm.

Lịch sử ghi lại rằng, vào khoảng thế kỷ thứ VIII sau Công Nguyên, một nhóm người Môn, một tộc người có xuất nguồn ở khu vực biên giới Thái Lan và Myanmar, đã di cư xuống vùng đất Tây Lào.

Ngoài kinh Phật và những vật phẩm liên quan đến Phật giáo ra, trong hành trình di dân lịch sử này, những người Môn còn mang theo những tu sĩ am hiểu Phật giáo từ Srilanka và tại đây họ đã truyền bá Phật pháp Tiểu thừa Theravada cho cư dân bản địa. Đến thế kỷ XIII, công việc truyền bá Phật giáo đến vùng đất này cơ bản đã hoàn tất.

Sau hơn 1.500 năm tồn tại song hành cùng lịch sử dân tộc, Phật giáo với tinh thần bao dung, quảng độ đã từng bước thẩm thấu và trở thành một phần không thể thiếu trong tiến trình phát triển của dân tộc Lào. Cho đến ngay nay, dấu ấn mà Phật giáo để lại rõ nét nhất chính là những mái chùa làng có mặt khắp nơi trên đất nước này.
Skip in 6...Ad finishes in 15 seconds

Theo con số thống kê, hiện nay ở Lào có khoảng 6.300 ngôi chùa lớn nhỏ nằm rải rát trên khắp đất nước. Và mỗi ngôi chùa, tùy theo vị trí tọa lạc, đặc điểm dân cư mà nó mang trong mình một trọng trách, một chức năng rất riêng.

Tọa lạc trên đại lộ Si - Sa- Vang -Vong, cạnh tòa nhà bảo tàng hoàng gia Luang Prabang, nơi xưa kia là cung điện, là trung tâm kinh tế- văn hóa của quốc gia này trong một thời gian dài nên chùa Wat Mai Suwannaphumaham có một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của cổ thành này.

Được xây dựng vào năm 1780 bởi vua A-Na-Rút của Vương quốc Luang Prabang, chùa Wat Mai Suwannaphumaham một thời được xem như là ngôi chùa dành riêng cho Hoàng Gia và giới quý tộc, các thương gia giàu có.

Trong khi nhiều ngôi chùa khác bị phá hủy trong cuộc chiến giữa vương quốc Luang Prabang và đội quân cờ đen, một nhóm vũ trang được bị triều đình phong kiến Trung Quốc thời bấy giờ xếp vào dạng phản loạn, vào năm 1887, thì chùa Wat Mai Suwannaphumaham hầu như vẫn giữ được nét kiến trúc nguyên thủy vốn có và đó chính là lý do mà ngôi chùa này trở nên thiêng liêng đối với người dân cố đô.


Wat Mai Suwannaphumaham, ngôi chùa linh thiêng của những người dân buôn bán - Ảnh: wikipedia
Như đã nói, do nằm ngay vị trí trung tâm của cố đô xưa, nên chùa Wat Mai Suwannaphumaham bao đời nay được xem như là điểm tựa tâm linh dành riêng cho những người buôn bán.

Bao thăng trầm của lịch sử đã đến rồi đi, song dấu tích về vai trò dẫn dắt thương mại của ngôi chùa Wat Mai Suwannaphumaham dường như vẫn còn đó thông qua hàng loạt những bức tranh được các họa sĩ Phật giáo cẩn thận khắc in vào tường.

Và có lẽ, đó cũng chính là lý do mà ngôi chợ Luang Prabang bao đời nay vẫn tồn tại một cách lặng lẽ dưới bóng ngôi cổ tự linh thiêng mặc cho biến thiên của thời gian và thời cuộc.

Người dân địa phương cho biết, trước đây chợ chỉ họp ban ngày.

Tuy nhiên, khi mà cố đô Luang Prabang được Unesco công nhận là thành phố di sản, ngành công nghiệp du lịch phát triển thì ngôi chợ này chuyển sang họp vào ban đêm để phục vụ cho khách du lịch.


Kiến trúc bên trong chùa

Tượng Phật - Ảnh: wikipedia
Mặc dù có sự thay đổi về thời gian, song không gian của ngôi chợ vẫn không hề thay đổi, vẫn lặng lẽ thu mình bên mái chùa làng linh thiêng của các thế hệ tiểu thương bản địa.

Và cũng giống như những ngôi chợ mà chúng tôi có dịp tiếp cận trong hành trình khám phá đất nước Triệu Voi, cung cách buôn bán ở ngôi chợ đêm này diễn ra trong một không gian khá bình lặng, giống như lối sống thường nhật của đại bộ phận người dân trên mảnh đất này.

Bân cạnh chùa chùa Wat Mai Suwannaphumaham ra, ở cố đô Luang Prabang còn có một ngôi chùa khác cũng có vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của của thành phố, đó là chùa Wat Xieng Thong.

Nếu như chùa Wat Mai Suwannaphumaham được ví như là biểu tượng dành cho giới tiểu thương thì Wat Xiêng Thong được xem như một bảo tàng nghệ thuật, nơi lưu giữ những tinh hoa kiến trúc, nghệ thuật hội họa của Phật giáo nói riêng và của dân tộc Lào nói chung.

Nằm ở cuối đường Sakkarin, gần với ngã ba tiếp giáp giữa sông Mê Kông và sông Nam Khan, chùa Wat Xiêng Thông được xây dựng năm 1560 dưới thời vua Setthathirat.

Cùng với chùa Wat Mai Suwannaphumaham, chùa Wat Xieng Thong là một trong hai ngôi cổ tự được Đội quân cờ đen không cho phá hủy vào năm 1887.


Chùa Wat Xieng Thong
Tương truyền, sở dĩ ngôi chùa Wat Xieng Thong không bị phá hủy là do một trong những thủ lĩnh của đội quân này có một thời gian tu tập ở đây trước khi gia nhập lực lượng này.

Chùa Wat Xieng Thong có khuôn viên khá rộng với nhiều hạng mục lớn nhỏ, bao gồm một chánh điện mang phong cách kiến trúc đặc trưng của Luang Prabang cổ với mái lợp ba tầng hạ sâu hướng về mặt đất.


Ngoài cổng chùa
Bên ngoài khu vực chánh điện, người xưa cho xây dựng một số nguyện đường nhỏ, mang phong cách kiến trúc pha lẫn giữa lối kiến trúc đặc trưng của dân tộc Lào và kiến trúc Phật giáo tiểu thừa Theravada và là nơi khi xưa, các nhà sư dùng làm nơi tịnh tâm nghĩ về đạo pháp trong mùa an cư kiết hạ.

Bên cạnh kiến trúc độc đáo trường tồn qua hàng thế kỷ ra, chùa Wat Xiêng Thông còn khiến nhiều người ngạc nhiên với hàng loạt bức tranh đa sắc màu về lịch sử Phật giáo và lịch sử dân tộc. Tất cả đều được các họa sĩ cẩn thận dùng miễng sành, sứ lắp ghép lại với nhau hoặc trực tiếp vẽ lên tường. Đây được xem như là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo vào loại bậc nhất trên đất nước Triệu Voi.


Tượng phật bên trong chùa - Ảnh: Visit Laos
Cũng giống như nhiều dân tộc sống trên ban đảo Đông Dương, trước khi đạo Phật xuất hiện, cư dân cổ có khuynh hướng đa thần. Và khuynh hướng ấy vẫn âm thầm tồn tại bên cạnh đạo Phật cho đến ngày nay.

Và đó là lý do mà trong ngôi nhà này, người ta cho lưu giữ rất nhiều bức tượng, tranh vẽ về các vị thần trong truyền thuyết của các dân tộc Lào bên cạnh những bức tượng Phật có tuổi đời hàng trăm năm tuổi.

Thời gian trôi qua, lịch sử dân tộc Lào trải qua nhiều biến động, song tính cách hiền hòa của người dân Lào dường như không thay đổi. Đây là một minh chứng rõ nét cho thấy giá trị của đạo Pháp dường như đã trở thành thành tố quan trọng hình thành nên giá trị con người ở đất nước này, cho dù họ là ai, làm nghề gì.

Và trong quá trình hình thành nên giá trị con người Lào hàng ngàn năm qua có vai trò của những mái chùa làng. Lưu giữ ký ức của những ngôi chùa mang trên mình nét đặc trưng riêng như chùa Wat Mai Suwannaphumaham và chùa Wat Xiêng Thong là một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân trên đất nước Triệu Voi.

Nguyễn Minh

Những thành tựu phát triển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Những thành tựu phát triển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Đăng lúc: 19:28 - 29/06/2016

Là chủ đề triển lãm sẽ diễn ra tại chùa Yên Phú (xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Hà Nội) từ ngày 2/7.

Submit

Triển lãm sẽ trưng bày những thành tựu phát triển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam 35 năm qua, đặc biệt là qua 7 kỳ đại hội; thành tựu phát triển của 13 Ban, Viện của Giáo hội, Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở 63 tỉnh, thành trên các lĩnh vực: Phát triển quy mô hoạt động đối nội, đối ngoại, công tác tăng sự, pháp chế, hoằng pháp, giáo dục tăng ni và tổ chức các hoạt động từ thiện, văn hóa nghệ thuật, đại hội, hội nghị, hội thảo, nghiên cứu đề tài khoa học, truyền thông… về văn hóa Phật giáo; sự phát triển của chùa Việt Nam ở vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới, hải đảo và ở nước ngoài.

Song song với hoạt động triển lãm, trong 2 ngày 2 và 3/7, tại chùa Yên Phú còn diễn ra Hội thảo “Văn hóa Phật giáo Việt Nam - thống nhất trong đa dạng”.

Cũng trong dịp này, chùa Yên Phú tổ chức lễ cung nghinh và chiêm bái tượng Phật ngọc Hòa bình Thế giới.

M.Sơn

Festival Huế: Lễ Hội Quảng Chiếu

Festival Huế: Lễ Hội Quảng Chiếu

Đăng lúc: 05:14 - 03/05/2016

Trong khuôn khổ các chương trình hoạt động của Festival Huế 2016, tối 1/5 tại công viên Thương Bạc, thành phố Huế, Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với Ban tổ chức Festival tái hiện lại Lễ hội Phật giáo Quảng chiếu bị thất truyền hàng trăm năm.
Lễ hội Quảng Chiếu với mục đích cầu nguyện cho quốc thái dân an, Phật giáo trường tồn, chúng sanh an lạc. Cùng với đó, các tiết mục nghệ thuật đặc sắc được kết hợp như “Lục cúng hoa đăng” với ý nghĩa sáu lễ vật dân lên chư Phật: hương, hoa, đăng, trà, quả, thực. Ấn tượng hơn đây là lần đầu tiên vũ khúc này được các chư tăng của Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên Huế biểu diễn.

Sau màng vũ khúc “Lục cúng hoa đăng” là “Phóng sanh đăng”, triển lãm cổ vật với chuyên đề: “Di sản văn hóa nghệ thuật cổ Phật giáo và Hindu giáo khu vực phía Nam” và tổ chức chương trình ẩm thực chay: “ Môi trường thân thiện – cuộc sống hạnh phúc”.
Để tổ chức tái hiện lễ hội Phật giáo Việt Nam truyền thống này, Ban tổ chức đã cho xây dựng đèn tháp Dược sư trên sông Hương, 4 cây thiên đăng được cố định trên mặt nước, 9 ngọn địa đăng, 710 cây thủy đăng tương trưng cho lịch sử hình thành và phát triển của Thuận Hóa – Phú Xuân - Thừa Thiên Huế.
Theo Hòa thượng Thích Hải Ấn, Lễ hội Quảng Chiếu thể theo nguyện vọng của đông đảo tăng, ni, tín đồ Phật tử Thừa Thiên Huế cầu mong quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, thế giới hòa bình, Phật giáo trường tồn, chúng sanh an lạc.

Đây là chương trình lễ hội Phật giáo ấn tượng nhất được tổ chức trong một kỳ Festival Huế, mang đậm triết lý, tư tưởng nhà Phật và dấu ấn đậm nét của văn hóa Phật giáo Thừa Thiên Huế, cái nôi của Phật giáo miền Trung và cả nước trên tinh thần: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, đậm đà bản sắc văn hóa truyền thống, hòa hợp tinh thần giáo lý nhà Phật với văn hóa truyền thống dân tộc, đề cao lòng yêu nước, yêu chuộng hòa bình, hòa chung vào sự phát triển của dân tộc và thời đại.
Chương trình đã thu hút được một lượng khách đông đảo trong và ngoài nước đến thưởng thức, chiêm bái. Qua đây, dấu ấn của Phật giáo vùng đất Cố đô một lần nữa được khẳng định và đề cao.

Thực tập hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm

Thực tập hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm

Đăng lúc: 23:59 - 27/03/2016

Lắng nghe là một phương pháp thực tập quan trọng giúp chuyển hóa thân tâm, là nhịp cầu cảm thông giúp cho ta định tĩnh, sáng suốt khai mở trí tuệ để trải rộng tâm từ chia sẻ nỗi khổ, niềm đau với người khác cùng vượt qua nghịch cảnh và đến gần hơn với hạnh phúc chân thật của chính mình.
VONG PHAP.jpg
Vọng pháp - Ảnh: Trần Thế Phong

Lắng nghe là một gia tài vô tận mà ai cũng có thể dâng tặng cho mọi người. Lắng nghe để hiểu dù điều ấy đã nói ra hoặc chưa nói. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, để lạc quan vui sống.

Hình ảnh Bồ-tát Quán Thế Âm trong Phật giáo được tôn vinh, tán thán với công hạnh lắng nghe, Ngài luôn lắng nghe và chia sẻ, cứu vớt chúng sinh để xoa dịu nỗi đau bất hạnh của muôn loài.

Kính lạy Đức Bồ-tát Quán Thế Âm! Chúng con xin học theo hạnh của Ngài, biết lăng tai nghe cho cuộc đơi bơt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe vơi tất cả sư chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe vơi tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ưng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu đươc những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lăng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bơt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi (Quán nguyện).

Pháp môn của Bồ-tát Quán Thế Âm chính là phương pháp phản văn văn tự tánh (không xuôi dòng đuổi theo âm thanh mà trở ngược lại tánh nghe). Trong cái nghe của Ngài, Ngài chuyển dụng khả năng nghe tiếng bên ngoài, để nghe lại tự tánh nghe của mình. Đến lúc những cái sinh diệt diệt hết thì tánh vắng lặng hiện ra và khi ấy chứng được “nhĩ căn viên thông”, được hai thứ thù thắng: đồng với từ lực của mười phương chư Phật và cảm thông lòng cầu mong thương cứu của chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi.

Xin nguyện học theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm: Nghe để hiểu và giúp người khác nhận diện được nguồn gốc của khổ đau, để giúp người an vui. Lắng nghe để thương yêu tất cả muôn loài.

Khi ta lắng nghe là lúc ta phát hiện ra chính bản thân mình, nghe thấy nội tâm của mình, tâm ta như một dòng sông lúc thì yên ả hiền hòa, lúc thì gập ghềnh thác lũ. Ta nghe để hiểu ta hơn và tìm lại chính mình. Trong dòng sinh diệt bất tận của cuộc đời ta luôn phải mang nhiều vai diễn của cuộc đời và mải mê chạy theo nó rồi chợt nhận ra rằng trong ta còn quá nhiều góc khuất, nhiều mảng sáng tối, thiện ác đan xen với nhiều cung bậc cảm xúc. Lắng nghe để trở về với tự tánh, quay về nương tựa chính mình.

Tự tánh là bản thể của tâm, vốn không sanh, không diệt và ngay đây chủ thể và đối tượng nghe đều không tồn tại. Nghe được tự tánh tức nghe đến tận cùng sâu thẳm của vô thanh, nghe cái tịch nhiên im lặng sấm sét. Ngay đây, phiền não rơi rụng, tuệ giác hiện tiền, thực tại hiển bày “vượt ngoài thế gian và xuất thế gian, sáng suốt cùng khắp mười phương, trên thì hợp với bản giác diệu tâm mười phương chư Phật đồng một từ lực với Như Lai, dưới hợp với tất cả chúng sanh đồng với chúng sanh một lòng bi ngưỡng”.

Học theo hạnh của Bồ-tát Quán Thế Âm là chúng ta thực tập hạnh lắng nghe người khác. Nghe để hiểu sâu hơn, thương nhiều hơn. Chỉ cần lắng nghe thôi thì chúng ta đã “cứu khổ” cho rất nhiều người. Ai trong chúng ta mà không có nỗi khổ, niềm đau! Rồi niềm đau ấy ngày một tích tụ và lớn dần lên khi không tìm ra người hiểu mình để sẻ chia, đồng cảm. Đến khi niềm đau vượt ngưỡng chịu đựng thì sự bùng nổ sẽ thành tai họa. Vì vậy, được một người lắng nghe tâm tư, thấu hiểu nỗi lòng của mình là một niềm hạnh phúc. Lắng nghe mình và người khác để hiểu và thương nhằm xây dựng hạnh phúc chính là từ bi, ban vui cứu khổ, là học theo hạnh nguyện của Đức Bồ-tát Quán Thế Âm.

Cuộc sống với các đặc điểm của xã hội hiện đại đã biến con người thành những ốc đảo, dù có thể kết nối, liên lạc với mọi người ở khắp nơi trên thế giới, song con người ngày càng cô đơn hơn bởi sự bế tắc, không hiểu được nhau giữa những người thân trong gia đình và khoảng cách thế hệ trong xã hội. Những “hội chứng” của tuổi trẻ như facebooks, game online... hay buồn bã, bi quan của tuổi già cùng tất cả những biểu hiện suy đồi, thực dụng, tiêu cực của đời sống hiện đại phải chăng là phản ứng khi không được chia sẻ và cảm thông.

Thực tập hạnh lắng nghe trong Phật giáo có thể chuyển hóa và trị liệu những “hội chứng” này, giúp con người xích lại gần nhau, hiểu và thương nhau hơn và đó cũng chính là giọt nước cam lồ của Đức Bồ-tát Quán Thế Âm ban rải cho tất cả muôn loài.

Người ta chỉ có thể mất ba năm để học nói nhưng phải mất cả đời để học hạnh lắng nghe mà chưa chắc đã tròn. Hãy mở rộng lòng mình đển đón nhận chuyển hóa những những khổ đau mà chúng ta đang lắng nghe. Chúng ta chỉ cần trở về với giây phút hiện tại đừng suy nghĩ về quá khứ, đừng lo lắng cho tương lai.

Danh hiệu Quán Thế Âm là lắng nghe những âm thanh khổ đau trong cuộc đời mà đến cứu độ. Mỗi chúng ta đều có những niềm riêng và rất muốn được chia sẻ cùng với người thân, người mà biết lắng nghe ta và thấu hiểu làm ta sung sướng, hạnh phúc vô ngần. Người chỉ ngồi lắng nghe ta thôi đã mang đến cho ta thật nhiều hạnh phúc, làm vơi đi bao nhiêu phiền muộn. Vậy thì sao ta lại không lắng nghe để đem đến hạnh phúc cho người? Phải lắng nghe với tất cả tấm lòng chân thành thì người chia sẻ với ta mới cởi mở và trút bỏ được những phiền muộn, lo lắng. Sự chú tâm, thành khẩn lắng nghe của ta đã tạo ra sự tin cậy và tháo gỡ rất nhiều những uẩn khúc mà người thân của ta đang phải ôm ấp, chịu đựng.

Lắng nghe để giúp người bớt khổ là cả một nghệ thuật. Phải nghe với sự chú tâm bằng tất cả trái tim và tấm lòng rộng mở của mình để cho người khác được sẻ chia, bày tỏ với niềm tin yêu trọn vẹn.

Khi ta lắng nghe với sự chú tâm, ta sẽ đón nhận và hiểu được rất nhiều điều qua ánh mắt, hơi thở, lời nói và các hành vi mà người nói đang chia sẻ... qua đó ta có thể hiểu sâu hơn và giúp cho người bớt khổ. Chỉ có lắng nghe trong sự chú tâm, lắng nghe bằng tất cả tấm lòng mới có được khả năng này. Chỉ cần sự hiện diện của ta là năng lượng bình an đã được lan tỏa tới người cần được chia sẻ. Cảm nhận và thấu hiểu có thể không cần nhiều đến ngôn ngữ mà từ trong tâm giao tiếp với nhau.

Quán chiếu sâu sắc vào hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta thấy ngay rằng những hóa thân của Ngài đang ở quanh ta, hiện diện đầy đủ trong mọi khía cạnh cuộc đời. Hạnh lắng nghe để cứu độ chúng sinh của Ngài là luôn lắng nghe để hiểu dù điều ấy đã nói ra hoặc không nói, lắng nghe mà người kia trút bỏ được ưu phiền, trở nên an vui đó cũng chính là hạnh phúc chân thực.

Hiện nay có rất nhiều người loay hoay đi tìm lẽ sống, hoặc mải mê đi tìm những thú vui tạm bợ của thế gian và đến một ngày tất cả đều khổ đau với cái thú vui giả tạm đó mà quên mất quay về nương tựa bản thân mình để lắng nghe những nỗi khổ niềm đau trong ta, nên hạnh phúc cứ mãi xa vời. Hãy quay trở về bên trong nội tâm để thực tập trau dồi, tăng thêm năng lượng, để dung hòa sự bình yên trong cuộc sống, chăm sóc nuôi dưỡng lòng yêu thương của mình với mọi người xung quanh, để thấy sự sống của thiên nhiên đang tiếp diễn biểu hiện sinh diệt thay cho một đời người.

Trong đạo Phật, có những phương pháp thực tập rất đơn giản đó là: “Phản quan tự kỷ bản phận sự, bất tùng tha đắc” (Quay lại tự tâm chính mình và không tìm cầu ra bên ngoài), để có được niềm an vui, đó chính là con đường chánh niệm giúp cho ta vui sống trọn vẹn trong phút giây hiện tại và là chìa khóa để thành công trong cuộc sống.

Pháp môn Tri vọng là phương pháp đối trị vọng tưởng khi tọa thiền hoặc khi đối duyên xúc cảnh, niệm khởi lên liền biết đó là vọng tưởng, không bị nó lôi dẫn, không chạy theo, vọng tự nhiên biến mất, chỉ cần rõ biết ngay lúc đó tâm an hiện tiền, ngay đó là giác tỉnh. Khi vọng tưởng lặng dứt thì tự tánh hiện bày. Tất cả các phương pháp thực tập này đều quay về quán chiếu với phương pháp phản văn văn tự tánh nương theo hạnh lắng nghe của Ngài Quán Thế Âm.

Đôi khi dừng lại chúng ta mới có thể nhìn và nghe được những thanh âm trong cuộc sống, của nỗi niềm hạnh phúc hay muộn phiền của chính bản thân mình và của những người xung quanh. Đừng để cho sự âu lo vây kín cả cuộc sống mình. Có bao giờ ta đã thật sự lắng nghe ta? Có bao giờ ta đã chân thành lắng nghe người? Một ngày, bạn nên dành một ít thời gian như thế. Rất nhiều người cần một người bạn thật vững chãi chỉ để lắng nghe thôi, lắng nghe và thấu hiểu để tình yêu thương được mở rộng khắp muôn nơi. Đó chính là an lạc và thảnh thơi.

Xã hội ngày nay đang trong thời đại @, mọi sự liên lạc cá nhân đều như chớp nhoáng, vội vã, tất cả đều trong một cuộc sống bận rộn và nhiều khi chúng ta không thể kiểm soát nổi chúng dẫn đến sống ảo và ôm vào lòng mình sự cô đơn tuyệt vọng.

Bên cạnh sự phát triển của xã hội thì còn có những mặt trái tồn tại như sự suy đồi về văn hóa, sự bế tắc trong cuộc sống dẫn đến những tệ nạn gia tăng bởi những nỗi niềm, suy nghĩ riêng không được giải tỏa, không được chia sẻ, không có sự truyền thông trong tư tưởng với những người xung quanh, và vẫn còn nhiều những góc khuất của cuộc đời cần được sự chia sẻ, lắng nghe của người thân.

Cuộc sống hiện tại có quá nhiều áp lực, công việc bộn bề với những điều không được hài lòng, vừa ý, nên ta dễ dàng mất bình tĩnh mà không làm chủ được bản thân, nhất là khi bị mất mát, đau thương bất ngờ về vật chất lẫn tinh thần. Trong những lúc như vậy, tâm ta rối bời, hoảng loạn, mất sự định tĩnh và khát khao có một người bên cạnh để sẻ chia, để lắng nghe. Chỉ cần một thái độ cảm thông, lắng nghe chân thành cũng làm cho ta vơi bớt nỗi đau bất hạnh. Được lắng nghe và biết chia sẻ nỗi đau của người khác là chúng ta đang thực tập hạnh cứu khổ ban vui của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Một gia đình đang phải chịu đau khổ chỉ vì cha mẹ chưa chịu lắng nghe con, luôn áp đặt, cấm đoán và dẫn đến hành vi trốn học của con để ra ngoài chơi game…, và điều gì sẽ xảy ra sau đó không ai có thể lường trước được.

Ví dụ trên đây chỉ là một điển hình, nếu cha mẹ biết lắng lòng, bình thản thì ta sẽ nghe được thấu suốt tâm tư của con và giúp con bình an trước những suy nghĩ của chúng và định hướng phát triển cho con trong cuộc sống.

“Có một cháu bé đã đi chơi cùng bạn không xin phép mẹ và không một lời giải thích khi đi. Nhưng khi về nhà người mẹ chỉ nhìn con và nói:

- Tại sao lại làm thế hả con?

Và cháu bé đã nhận ra tình cảm của mẹ mình và điềm nhiên hỏi lại:

- Thưa mẹ, có thực sự là mẹ muốn biết không?

Bà mẹ gật đầu và cô con gái bắt đầu tâm sự. Lúc đầu cô bé còn ngần ngại nhưng sau đó cháu đã nói ra hết suy nghĩ của mình…

Và người mẹ chợt nhận ra rằng mình đã chưa bao giờ thực sự lắng nghe con, lúc nào cũng bảo con phải làm cái này không được làm cái kia. Khi con muốn kể những suy nghĩ, tình cảm của mình thì mẹ lại ngắt lời bằng những mệnh lệnh khác. Lắng nghe con nói bà bắt đầu hiểu ra, rằng con rất cần đến mình, nhưng không phải như một bà mẹ luôn tỏ ra quyền uy từ trước tới giờ mà như một người bạn để nó có thể tâm tình, một nơi để thổ lộ tất cả những suy nghĩ của tuổi mới lớn. Sự đồng cảm, chia sẻ thực sự xuất hiện và mối quan hệ của hai mẹ con đã tốt hơn hẳn và cháu lại là cô bé dễ thương của bà như ngày nào”.

Chúng ta lắng nghe, tức là sự yên lặng sâu sắc của trái tim hiểu biết mà Bồ-tát Quán Thế Âm đã trao cho mình. Ta lắng lòng để nghe, nghe thật sâu vào từng nhịp thở của con tim, thì những giận hờn, bực tức không thể phát sinh mà hoàn toàn được chuyển hóa. Ta học và tu theo hạnh lắng nghe để mình và người sống bình yên, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.

Cho nên, khi lắng nghe ta phải hiểu thấu chính mình thì mới nghe được trong sâu thẳm con tim, mà biết cách làm vơi bớt nỗi đau, để ta và người có sự cảm thông và càng yêu thương nhau. Im lặng để nghe. Lắng nghe để hiểu. “Hiểu càng rộng, thương càng sâu”. Từ sự lắng nghe để thấy rõ chơn vọng của cuộc đời, thấy rõ nhân quả nghiệp báo của mọi sự việc. Lắng nghe là một phép lạ để khám phá sự thực của mỗi tâm hồn. Chỉ cần im lặng và lắng nghe, mỗi chúng ta sẽ đều trở thành hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Như thế, chúng ta có thể làm cho trần gian cạn vơi đi những khổ đau phiền muộn rất nhiều.

Hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm giúp cho chúng ta vun bồi những hạt mầm yêu thương, trái tim bao dung và độ lượng được tưới tẩm và dần lớn lên đơm hoa kết trái. Nguyện cầu Đức Bồ-tát Quán Thế Âm chứng minh và gia hộ cho tất cả chúng con thực tập hạnh nguyện lắng nghe của Ngài được thành tựu viên mãn.
Đông Phong

Lắng nghe để hiểu & thương

Lắng nghe để hiểu & thương

Đăng lúc: 23:58 - 27/03/2016

Một con cú già khôn ngoan sống ở cây đa. Nó càng nhìn thấy sự đời thì càng ít nói. Mà nó càng ít nói thì lại lắng nghe nhiều. Tại sao mình lại không như con cú già khôn ngoan kia? (Khuyết danh).
bo-tat-QTa.jpg
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian...

Khi còn bé thơ, chúng ta được dạy ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Và càng nói nhiều thì đó là dấu hiệu phát triển bình thường. Nhưng ít khi nào chúng ta được dạy phải biết lắng nghe. Và phần nhiều, cha mẹ, thầy cô, các bậc phụ huynh, v.v… không để tâm nhiều đến chuyện dạy dỗ cách biết lắng nghe. Tất nhiên, cha mẹ hay các thầy cô có dạy mình phải biết nghe lời. Nhưng ít khi chúng ta được dạy cách biết lắng nghe cho đúng.

Thường khi trong một cuộc đối thoại, chúng ta muốn người đối diện nghe ý kiến của mình muốn phát biểu, hay diễn đạt hơn là mình nên lắng nghe ý tưởng của họ. Nếu đã là vậy, rõ ràng không có sự lắng nghe xảy ra. Mà hễ không có sự lắng nghe, hiểu và cảm thông sẽ không bao giờ được thiết lập. Vợ chồng thường hay gặp phải tình cảnh này, nên có câu nói chọc cười: ‘Ngày xưa chồng nói vợ nghe. Bây giờ chồng nói vợ chê lắm mồm’. Cho nên, biết lắng nghe là nhịp cầu nối đầu tiên cho sự hiểu biết, cảm thông.

Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, sở dĩ Ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp, nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ-tát, Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.

Nhiều kinh điển nói về công hạnh của Bồ-tát, về sức uy thần diệu dụng của Ngài, thường hiện thân khắp nơi cứu giúp người đang đau khổ trên trần gian. Nhưng để tu tập theo hạnh nguyện từ bi, cứu khổ của Ngài, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu thêm một số chi tiết về những hạnh nguyện đó.

Trong kinh Pháp hoa nói Ngài thường thị hiện 33 hóa thân. Nhưng theo thiển ý, chắc đây là con số tượng trưng. Ngài được mô tả là một vị Bồ-tát luôn hóa thân cứu khổ mọi loài chúng sinh. Ngài hóa thân là một hiện tượng đặc thù theo tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’, biểu lộ tấm lòng đại từ bi, không phân biệt kẻ thân, người sơ, kẻ thâm tín, người hoài nghi, thậm chí người vô thần, ngoại đạo.

Hiện tượng hóa thân nói lên sự thấu hiểu và cảm thông thật sâu sắc nỗi sợ hãi, mối ưu lo của chúng sinh trong thế giới đảo điên, mộng tưởng. Để được tiếp cận với một chúng sinh đang đau khổ, Ngài hiểu rõ rằng một người xa lạ, dù là một Bồ-tát, sẽ khó có thể đến gần để chúng sinh kia được giãi bày nguồn cơn nỗi khổ của mình.

Theo kinh nghiệm đời thường cho thấy, khi chúng ta đang đau khổ hoặc phiền não mình chỉ muốn chia sẻ với ai biết lắng nghe, thông cảm, và không có ý phê phán, bình phẩm về những điều mình đã làm sai, hay tâm tình mình đang giãi bày, thổ lộ. Và thường mình muốn chia sẻ với người quen biết, dễ thương, hoặc người nào tôn trọng ý tưởng và tình cảnh của mình. Nếu hiểu được điều này, chúng ta có thể đóng vai sứ giả của Đức Quán Thế Âm, lắng nghe mà không phê bình, chỉ trích để giúp làm vơi nỗi khổ của người.

Thật ra, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng làm sứ giả Quán Âm, và muốn thành tựu vai trò này đòi hỏi mình phải biết lắng nghe.

Nhưng biết lắng nghe là một nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải quên mình đi mà chỉ biết nghe người kia đang nói gì. Biết lắng nghe đòi hỏi mình phải biết lắng đọng tâm tư để nghe rõ thông điệp của người mình đang đối diện. Cái bi kịch thường hay xảy ra cho chúng ta là khi mình muốn học hạnh lắng nghe nhưng cứ mỗi khi nghe xong câu chuyện mình lại diễn dịch nó qua lăng kính kinh nghiệm của bản thân, giống như mình nhìn thấy một sự kiện qua cặp kính màu của mình, nên thay vì hiểu và cảm thông, chúng ta lại chỉ trích hay phê phán người đối diện là dở cái này, thiếu cái nọ.

Do đó, hành động lắng nghe của mình bị thất bại. Nếu chúng ta biết lắng nghe qua tâm hạnh từ bi như Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta biết tôn trọng ý tưởng của người nói và lắng nghe cho kỹ những nỗi khổ đau mà họ đang trải nghiệm, thì công sức lắng nghe của mình sẽ chắc chắn mang lại một kết quả tốt và có thể sẽ làm vơi đi nỗi khổ của người.

Ngoài việc hóa hiện các thân để cứu độ, Ngài còn có khả năng làm cho chúng sinh hết lo sợ (vô úy thí). Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn có nêu lên 14 hoàn cảnh, những trường hợp tượng trưng, mà Ngài đã vận dụng năng lực vô úy để cứu độ. Năng lực vô úy là một khả năng đặc thù mà chỉ có những ai thật định tĩnh, tự tin, và từ bi vô hạn mới có thể làm được. Như một bà mẹ thương con vô cùng mới có thể làm con mình yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm. Sở dĩ chúng ta cảm thấy an lòng, không hoảng sợ, kinh hoàng trước sự hiện diện của Bồ-tát Quán Thế Âm vì Ngài sẵn lòng hy sinh bản thân để cứu độ mọi người.

Chúng ta cũng đã từng nghe qua năng lực vô úy này được các thiền sư thể hiện, như trong câu chuyện sau: Trong thời nội chiến ở Triều Tiên, một vị tướng soái dẫn quân đánh chiếm hết vùng này đến vùng kia, hủy diệt hết những gì cản trở bước tiến của ông ta. Dân chúng trong thành biết đoàn quân của vị tướng đang đánh tới, và nghe tiếng tàn bạo của ông ta nên mọi người đều trốn lánh vào vùng núi cao.

Vị tướng tiến chiếm thành không người và ra lệnh quân lính tìm kiếm dân trong thành khắp nơi. Vài người lính trở về báo cáo chỉ có một thiền sư còn ở lại. Vị tướng quân liền vội vã đến chùa, đi thẳng vào bên trong, rút gươm ra, và nói: “Lão thầy chùa kia, ông không biết ta là ai sao? Ta là người có thể thản nhiên lấy mạng của ông không chớp mắt”. Vị thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông tướng soái và bình thản trả lời: “Và tôi, thưa ngài, là người có thể để ngài lấy đầu mà cũng không chớp mắt”. Vị tướng quân nghe xong, liền cúi đầu và bỏ đi.

Sợ hãi là bản năng của con người, ai sinh ra cũng có. Nhưng các bậc thánh, hay như người căn tính yếu kém như chúng ta, nếu biết tu tập tinh chuyên và có lòng từ bi vô lượng, đều có khả năng, không những vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, mà còn khéo giúp người khác an tâm, không lo sợ. Tu tập hạnh từ bi có khả năng giúp mình vượt qua khổ hải và cũng giúp được người vơi bớt khổ đau. Vậy muốn có được năng lực vô úy thì chúng ta không thể thiếu hạnh từ bi.

Tuệ giác của pháp môn lắng nghe, không chỉ nằm trong việc lắng nghe âm thanh, lời nói, ngôn ngữ của người đối diện, mà còn vận dụng hết cả thân tâm mình từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và cả ý căn, để hiểu thấu và thấy rõ từ cử chỉ, hành vi, và sắc diện của họ đang nói lên những gì, mà lời nói, ngôn ngữ chưa diễn đạt, trình bày được hết ý của câu chuyện.

Chỉ cần vận dụng một phần ba (1/3) năng lượng của tuệ giác lắng nghe là chúng ta đã có thể giúp vơi đi nỗi khổ của người khác nhiều lắm rồi. Nhưng tiếc thay, đa số chúng ta thích nói hơn là thích nghe nên năng lượng của tuệ giác lắng nghe ít khi được sử dụng. Sở dĩ, mình thích nói hơn lắng nghe vì bản ngã, hay cái ta, đóng vai trò lớn trong việc thể hiện tầm quan trọng của bản thân, con người mình. Không ai muốn đóng vai trò ‘thấp cổ, bé miệng bao giờ!’. Hiểu rõ được điều này và phải vận dụng nhiều công phu tu tập mới có được chút khả năng lắng nghe vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Nhân ngày lễ vía của Đức Bồ-tát, chúng ta hãy cùng nhau vận dụng hết năng lực của mình để nhất tâm tu tập nguyện noi theo công hạnh của Ngài và để xứng đáng làm một sứ giả của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Tháng 10-2015
Tuệ Nghiệp

CHÙA ĐỨC HẬU KHỞI SẮC MỘT TƯƠNG LAI

CHÙA ĐỨC HẬU KHỞI SẮC MỘT TƯƠNG LAI

Đăng lúc: 04:38 - 21/03/2016

Với duyên lành hội đủ nhân kỷ niệm ngày Người Trai Hùng, Thái Tử Tất Đạt Đa vượt thành xuất gia, 08/02 và kỷ niệm vía Đức Bồ Tát Quan Thế Âm 19 tháng 2, hôm nay ngày ngày ngày 12/2/Bính Thân (Tức ngày 20/3/2016). Tại xã Nghi Đức - Tp Vinh. Chùa Đức Hậu long trọng tổ chức lễ chú nguyện Rót đồng đúc Đại Hồng Chung với trọng lượng 1,5 tấn và đúc Trống Đồng với những họa tiết phù điêu nghệ thuật Phật giáo.

Diệt trừ phiền giận

Diệt trừ phiền giận

Đăng lúc: 19:29 - 11/03/2016

Trong một bài kinh, Đức Phật dạy:
Ở đây, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo:

- Này các Hiền giả Tỷ-kheo.

- Thưa Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Tôn giả Sàriputta nói như sau:

Này các Hiền giả, có năm trừ khử hiềm hận này, ở đây, hiềm hận khởi lên cho Tỷ-kheo cần phải được trừ khử một cách hoàn toàn. Thế nào là năm?

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người khẩu hành không thanh tịnh, thân hành thanh tịnh, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành không thanh tịnh, nhưng thỉnh thoảng tâm được mở rộng, tâm được tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành không thanh tịnh, khẩu hành không thanh tịnh, và thỉnh thoảng không được tâm rộng mở, không được tâm tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải trừ khử.

Ở đây, này các Hiền giả, có người thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, và thỉnh thoảng tâm được rộng mở, tâm được tịnh tín, trong người như vậy, này các Hiền giả, hiềm hận cần phải được trừ khử.

(Tăng chi bộ kinh, chương Năm, phẩm XVII, kinh số 162: Trừ khử hiềm hận (Aghatavinaya sutta); Kinh tương đương trong tạng A-hàm: Trung A-hàm, kinh thứ 25: Kinh Thủy dụ)

2buddha.jpg

Tiếp đó, Đức Phật giải thích thêm và đưa ra các ví dụ minh họa cho từng trường hợp thật ấn tượng và sinh động như sau:

Người với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành thanh tịnh. Ví như có một vị tu hạnh đầu đà thấy một miếng vải còn lành lặn nằm trong đống rác bẩn, bị lấm dơ, vị ấy liền nhặt miếng vải xếp lại, cất lấy, đem về nhà để giặt sạch và may chung với các mảnh vải khác làm y phấn tảo.Cũng như thế, khi có một người mà hành động không dễ thương nhưng lời nói còn dễ thương thì Đức Phật khuyên ta đừng bận tâm nghĩ tới hành động của người ấy mà chỉ nên chú ý tới lời nói dễ thương của người ấy để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với khẩu hành không thanh tịnh, với thân hành thanh tịnh. Ví như một hồ nước đầy bùn và cây lau. Rồi một người đi đến bị nóng bức, mệt mỏi, khát nướcvà muốn uống nước. Người ấy cần lấy hai tay gạt ra ngoài bùn và lá cây để có thể lấy nước uống. Cũng như thế, khi có một người mà lời nói không dễ thương nhưng hành động lại dễ thương thì ta đừng để tâm nghĩ tới lời nói của người ấy mà chỉ nên chú ý tới hành động dễ thương của người ấy thôi để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành không thanh tịnh, thỉnh thoảng tâm được rộng mở, tâm được tịnh tín. Ví như ít nước còn đọng lại trong dấu chân của con bò. Rồi một người đến, bị nóng bức, mệt mỏi, khát nước, muốn uống nước. Người ấy không thể lấy tay hay với cái chén mà có thể uống được nước trong trường hợp này, mà chỉ có thể quỳ sụp mình xuống, tay và đầu gối áp sát đất, dùng miệng mà uống nước trực tiếp mới không làm nước ấy bị khuấy động và dậy bùn. Khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương và lời nói cũng không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút ít sự dễ thương, thì ta hãy đừng nên để tâm nghĩ tới hành động và lời nói không dễ thương của người ấy mà hãy nên chú ý tới cái chút ít sự dễ thương còn đọng lại trong tâm người ấy thôi, hiếm hoi như chút nước đọng trong dấu chân bò, để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với thân hành không thanh tịnh, với khẩu hành không thanh tịnh, và thỉnh thoảng tâm không được rộng mở và tịnh tín.Ta nghĩ họ như có một kẻ đi xa, trên con đường dài, nửa đường bị bệnh. Khốn đốn, héo hắt, cô độc, không bạn đồng hành, thôn xóm phía sau đã lìa bỏ lâu rồi mà thôn xóm phía trước cũng còn cách đó rất xa. Người đó đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng, biết mình sẽ chết ở dọc đường nếu không có người giúp. Trong lúc ấy, có một người khác đi tới, thấy được tình trạng này, liền ra tay cứu giúp. Người ấy dìu người kia tới được thôn ấp phía trước, chăm sóc, chữa trị và chu cấp thuốc thang và thực phẩm. Nhờ sự giúp đỡ ấy mà người kia thoát nạn. Sở dĩ người kia thoát nạn, đó là nhờ ở lòng thương xót và lân mẫn của người này.

Cũng như thế, khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà trong tâm cũng không có một chút gì có thể gọi là dễ thương hết, thì ta phải phát khởi tâm niệm này: “Một người mà hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà tâm ý cũng không dễ thương là một người rất đau khổ, người này chắc chắn đang đi về những nẻo đường xấu ác cực kỳ, nếu không gặp được thiện tri thức thì người ấy sẽ không có cơ hội chuyển hóa và đi về các nẻo đường hạnh phúc.” Nghĩ như thế, ta mở được lòng thương xót và lân mẫn họ mà không sanh tâm phiền giận.

Người với thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, lại thỉnh thoảng tâm được rộng mở và tịnh tín. Ví như, một hồ sen có nước trong, có nước ngọt, có nước mát, có nước trong sáng, có bờ hồ khéo sắp đặt đẹp đẽ và được nhiều loại cây che bóng. Rồi một người đi đến bị nóng nhiệt não, bị nóng bức bách, mệt mỏi, khát nước, muốn uống nước. Người ấy sau khi lặn xuống trong hồ sen ấy, sau khi tắm rửa, uống nước, bước ra khỏi hồ, liền qua ngồi hay nằm dưới bóng cây. Cũng vậy, khi thấy một người mà hành động dễ thương, lời nói dễ thương mà tâm ý cũng dễ thương thì ta hãy nên nhận diện tất cả những cái dễ thương của người ấy về cả ba mặt thân, khẩu và ý mà đừng để sự phiền giận hoặc ganh ghét xâm chiếm ta. Nếu không biết sống hạnh phúc với một người tươi mát như thế thì mình thực không phải là một người có trí tuệ.

Trong tất cả năm trường hợp giao tiếp với người, Đức Phật dạy chúng ta đều khởi tâm từ đối với tất cả các hạng người mình gặp mà không sanh tâm phiền giận. Điều này nhắc chúng ta nhận thức tình huống theo hướng tích cực và hướng thượng, điều cần thiết để tâm từ bảo hộ mình khỏi các nghiệp xấu. Việc thực hành pháp đem lại lợi ích thiết thực cho cá nhân mỗi người, và cuộc sống trở nên ý nghĩa và lợi ích nhiều hơn nếu chúng ta tự đặt mình vào quỹ đạo sống thấm nhuần giáo pháp mà không đi chệch hướng dưới bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài. Vì lẽ đó, không nên vì sự chưa thanh tịnh về thân, miệng, ý của người khác mà chúng ta mất đi phần lợi lạc trong quá trình tu tập.

Nội dung bài kinh này khuyến khích chúng ta cách nuôi dưỡng tâm từ, một yếu tố quan trọng trên lộ trình tu tập, không lệ thuộc vào thái độ và hành vi của người khác. Như lời ngài Dalai Lama dạy rằng “đừng để hành vi của người khác phá hủy sự an lạc trong tâm bạn” hoàn toàn phù hợp với lời Phật dạy ở bài kinh này.

Trở lại nội dung bài kinh, với hai trường hợp đầu, Đức Phật dạy chúng ta nên chú ý đến điểm tốt của người khác mà quên đi những vụng về của người ấy để có thể khởi tâm từ với họ dễ dàng hơn. Trong cuộc sống, thường chúng ta hay thấy lỗi người mà quên đi những điểm sáng nơi người ấy. Với cách nhìn này, chúng ta khó có được an lạc trong tâm và không thể hoan hỷ với những người xung quanh. Do đó, ta nên chọn cách nhìn con người và vạn vật xung quanh ở phương diện tích cực hơn để có được sự an lạc nội tâm và thái độ sống tích cực với mọi người. Đức Phật dạy rất cụ thể ở bài kinh trên rằng, nếu người nào dễ thương về lời nói, nhưng có hành động chưa dễ thương, thì khi tiếp xúc với họ, ta chỉ chú tâm đến lời nói dễ thương và quên đi những hành động chưa dễ thương ấy.

Ngược lại, nếu người nào có hành động dễ thương mà lời nói chưa được dễ thương thì khi tiếp xúc với họ, chúng ta nên để tâm vào hành động dễ thương mà quên đi những lời nói vụng về ấy, chắc chắn chúng ta sẽ an lạc và lòng ngập tràn yêu thương với mọi đối tượng quanh mình. Đây là nghệ thuật sống để mình được an lạc: không vì hành vi của người ngoài mà làm tổn thương đến tâm thiện của mình, tự gây trở ngại trong cuộc sống và trên con đường thực hành pháp.

Với trường hợp thứ ba, khi thấy một ai đó mà hành động không dễ thương và lời nói cũng không dễ thương nhưng trong tâm vẫn còn có chút ít sự dễ thương, thì ta hãy đừng nên để tâm nghĩ tới hành động và lời nói không dễ thương của người ấy mà hãy nhìn sâu vào cái chút ít sự dễ thương ít ỏi, hiếm hoi có được trong tâm người ấy thôi để có thể thương được họ mà không sanh tâm phiền giận. Đến đây, chúng ta càng hiểu hơn chủ ý của Đức Phật khi khuyên chúng ta chọn góc nhìn nào đẹp, tích cực và nhất là hỗ trợ tâm thiện lành, nuôi dưỡng tâm lành của mình phát triển thì ta nên chọn, đừng bận tâm vào đúng sai hay dở của người ngoài. Đừng để những yếu tố bên ngoài chi phối sự thực hành pháp của bản thân mà mất đi phần lợi ích. Điều này không phải dễ làm chút nào, ngay cả việc hiểu và chấp nhận điều tưởng chừng đơn giản này cũng cần một thời gian nhất định để trải nghiệm và thẩm thấu.

Đức Phật đưa ra ví dụ mang tính hình ảnh hơn trong trường hợp này. Trong nhiều cái chưa dễ thương, ta còn thấy được chút ít dễ thương trong tâm người ấy, ví như người đi giữa sa mạc nắng cháy đang rất khát nước tìm được chút ít nước trong lỗ chân bò. Chúng ta làm gì bây giờ? Chúng ta không thể dùng tay vốc nước vì làm như vậy bùn đất sẽ khuấy động làm cáu bẩn nước; mà nước dậy cáu bẩn rồi thì không sử dụng được. Do đó, chúng ta cần quỳ thấp xuống, rất cẩn thận để có thể uống được chút ít nước hiếm hoi đó. Hãy chú ý đến tư thế của mình trong hình ảnh này. Dường như ta làm mất đi giá trị của mình khi mọp người xuống, kề miệng mình dưới đất như thế, nhưng nên nhớ rằng, chúng ta đang khát run. Chúng ta cần nước.

Tương tự như vậy, nếu chúng ta thấy người nào đó dùng lời nói hay hành động thô ác đối với mình, thì người ấy cũng có những giây phút chân thật và tốt bụng. Nếu chỉ chú ý đến những điểm xấu của người khác, chúng ta sẽ cảm thấy ngột ngạt, bức bách, căng thẳng, cay đắng hơn khi nhìn về loài người và thấy không nhất thiết phải đối xử tốt với họ. Thế nhưng nếu chúng ta có thể nhận thấy những điều tốt đẹp ở người khác, dù chút ít, chúng ta dễ dàng đối xử tốt với họ hơn và lòng ta thanh thản hơn nhiều. Những điểm tốt hiếm hoi của họ giống như chút ít nước tưới tẩm tâm mình. Chúng ta cần phải cẩn trọng, mọp người xuống mới có thể chạm đến chút ít thiện lành nơi tâm người ấy. Làm như vậy, ta biết trân quý những điểm tốt của người để nuôi dưỡng tâm từ trong ta ngay trong hiện tại và tương lai.

Với trường hợp thứ tư, giả như người ta tiếp cận không có phẩm chất gì tốt đẹp về hành động, lời nói và tâm ý, Đức Phật đề nghị một hướng suy nghĩ khác, nghĩ về người ấy như là một người xa lạ đang bệnh mà chúng ta tình cờ gặp bên đường, không có người giúp đỡ, chỉ có ta và người ấy trên chặng đường vắng vẻ ấy. Nếu chúng ta không giúp họ, ai sẽ là người giúp đây? Chúng ta cần trải tâm bi mẫn đến người ấy và làm tất cả những gì có thể, tạo các nghiệp thiện về thân, về lời nói và về ý nghĩ, để giúp người ấy được an toàn và quan trọng hơn, để tâm từ của ta không bị tổn thương, lại còn có cơ hội phát triển. Không cần quan tâm đến đối tượng chúng ta giúp đỡ là ai, có tốt hay không, có xứng đáng nhận sự quan tâm giúp đỡ của mình hay không, cứ mở lòng vô điều kiện. Ta đối với những người này như thể đang làm từ thiện, cốt yếu là cơ hội để nuôi dưỡng tâm lành của chính mình. Ai chưa tốt, người ấy sẽ chịu trách nhiệm nhân quả. Ai sống tốt, sẽ có quà từ cuộc sống này! Đừng bao giờ nghĩ có một số người “đáng” nhận sự tử tế của mình, còn số khác thì không. Biết thế nào là “đáng” hay “không đáng”? Họ đang khổ, cũng như chúng ta đang khổ, không ở phương diện này thì ở phương diện khác. Người mà cả hành động, lời nói và tâm ý đều không dễ thương là người đang tạo nghiệp không lành để rồi phải đi vào các cảnh giới khổ đau, là người rất đáng thương.

Do vậy, nếu vẫn chưa thoát ra khỏi suy nghĩ lối mòn rằng “đáng” hay “không đáng” nhận tấm lòng tử tế từ mình, ta vẫn có lý do chính đáng để nghĩ rằng, hơn ai hết, họ “đáng” nhận sự giúp đỡ của người khác. Cũng rất có thể đến một thời điểm nào đó, nhân duyên chín muồi, sự bao dung và tử tế của chúng ta có tác dụng như một cú hích vào tâm thức, giúp người ấy biết thay đổi nhận thức, thay đổi thái độ sống, thay đổi hành vi cho nỗi khổ niềm đau vơi đi thì đáng quý biết dường nào.

Trường hợp cuối cùng, Đức Phật đưa ra hình ảnh một cái nước thật đẹp, nước hồ đã trong veo lại ngọt ngào, mát mẻ, đáy hồ sâu mà bằng phẳng, bờ hồ đầy đặn, cỏ xanh mọc sát quanh hồ, bốn phía cây cối xanh tươi cho nhiều bóng mát. Nếu ta gặp một hồ nước với cảnh trí nên thơ như vậy, việc cần thiết là thưởng thức tất cả những gì có thể từ hồ nước và phong cảnh này đem lại. Cũng vậy, khi thấy một người mà hành động dễ thương, lời nói dễ thương mà tâm tánh cũng dễ thương thì ta hãy nên nhận diện tất cả những cái dễ thương của người ấy về cả ba mặt thân, khẩu và ý mà đừng để sự phiền giận hoặc ganh ghét xâm chiếm ta. Người như vậy mà ta không thương được, chắc hẳn tình thương trong ta đã chết tự bao giờ! Điều ngăn cách ta với người dễ thương trọn vẹn ở cả ba phương diện lời nói, hành động và tâm tánh chính là lòng đố kỵ, ganh ghét chứ không có gì khác. Nếu ta mang trong người “độc tố” này, ta tự đóng cửa cách ly mình với thế giới sinh động này và chẳng học hỏi được gì để cuộc đời ý nghĩa hơn. Khi thấy người khác tốt hơn, hoàn thiện hơn, nếu với tâm ganh ghét rồi sanh bực tức, hiềm hận thì tâm ta hư lại càng hư hơn khi tự xây bức tường thành ngăn cách ta với cái tốt, cái đẹp của người khác. Ngược lại, với một thái độ cởi mở, sẵn lòng học hỏi, ta trân trọng những cái tốt đẹp hơn nơi người khác và lấy đó làm gương để học hỏi thì đó là tinh thần đúng của người học và thực hành Chánh pháp, biết mở lối cho pháp lành tăng trưởng.

Đức Phật dạy, với tất cả các hạng người ở đời, nếu tiếp cận với thái độ tích cực, chúng ta đều có thể trải tâm từ đến tất cả, dù người ấy còn nhiều vụng về, chưa dễ thương về hành động, lời nói hay tâm ý, ta vẫn có thể thương được. Bằng cách này, ta có thể diệt trừ được những hiềm hận trong tâm, nuôi lớn tâm từ của mình trên con đường tu tập, đóng góp tích cực vào quy trình vận hành nhân quả của cá nhân mình. Không những thế, chúng ta còn góp phần cảm hóa người khác với cách sống đầy lòng yêu thương và thông cảm của mình, góp phần kiến tạo cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn trong mối quan hệ tương duyên nhau trùng trùng này.

Qua bài kinh này, chúng ta cần nhận rõ thâm ý của Đức Phật khuyến khích mỗi cá nhân tự nỗ lực hành trì tâm linh. Trên suốt cuộc hành trình, ta phải tự lực làm lấy phần việc của mình: tự chế tác hạnh phúc an lạc, hạnh phúc của bình an, tự tại vô ngại. Đây là mục tiêu duy nhất của mỗi người, không ai có thể làm thay mình. Khi nhận ra điều này, tất cả hoàn cảnh, môi trường, con người bên ngoài chỉ là duyên để chúng ta thực hiện công việc đời mình. Nếu hoàn cảnh thuận lợi cùng hướng ta đi, ta nhận được trợ lực để sự thực hành của mình hiệu quả hơn trong việc nuôi dưỡng các tâm lành. Nếu hoàn cảnh có vẻ không cùng ta trên “xa lộ một chiều”, đừng vội nản lòng mà chúng ta nên xem đây là duyên để ta trau luyện tâm kiên nhẫn, ý chí, nghị lực, bao dung và buông xả. Đây là dịp để nâng cao “chỉ số vượt khó” của mình mà thôi. Trên đường đi không có chướng ngại, chỉ có thử thách và rèn luyện. Những tích cách được trui rèn trong thử thách khó khăn rất đáng quý và có thể hỗ trợ thiết thực trong cuộc sống ở mọi lúc, mọi nơi. Trên biển động, vững tay chèo mới là tay lái thiện nghệ đáng trân trọng, còn trên biển lặng, ai cũng có thể làm hoa tiêu được cả.

Nếu phải đi trong trời mưa, đừng điên tiết nguyền rủa đất trời, đừng bực bội căng thẳng tạo áp lực vô lý. Dù có làm gì, trời vẫn cứ “vô tình” mưa mà không “bận tâm” đến cảm giác của bạn. Điều cần thiết lúc này là tự sắm cho mình một phương tiện đi mưa để tự tại, thong thả không phụ thuộc vào những yếu tố khách quan bên ngoài. Nếu ai cũng ý thức dọn tuyết trước cửa nhà mình mà không phải bận tâm với những móc sương trên nóc nhà người như lời chư Tổ đã dạy “các nhân tự tảo môn tiền tuyết; mạc quản tha môn ốc thượng sương” thì không gì có thể làm vướng gót trên trường dài ngàn dặm. Với tâm thế này, ta thấy khắp đất trời, ai cũng dễ thương và cuộc sống này thật đáng yêu, đáng sống biết dường nào!
Liên Trí

Thử hỏi lại mình

Thử hỏi lại mình

Đăng lúc: 09:19 - 24/11/2015

Có khi ngồi một nơi yên tĩnh nhìn lại chính mình, cuộc đời cứ trôi qua mang theo đó bao nhiêu vui buồn thương ghét. Chúng không mất mà nằm lại trong tàng thức, chẳng phân biệt sai đúng, tốt xấu, khổ vui, sanh tử hay Niết-bàn.

Chỉ ở chỗ, vui nhiều hơn buồn, thiện nhiều hơn ác, để rồi trong quá trình huân tập mà thọ nhận được cảnh an vui căn nghiệp của chính mình. Thấy người cứ loanh quanh khổ do chính mình tạo ra mà mình thấy khổ lây, như hiệu ứng dây chuyền, nhìn người ăn me chua mà miệng ứa nước miếng, trông thấy họ cắn đá lạnh mà mình thấy ê răng! Từ lục căn đến lục trần rồi đến lục thức. Cuộc sống cứ bám riết vào hiện tượng bên ngoài vốn vô thường nên khổ miết.


Là Phật tử, cần sống theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm
Sống trong sân si, hơn thua lừa lọc, ăn miếng trả miếng, chỉ làm khổ mình khổ người ngay cả trong hiện tại cho đến tương lai. Chấp chứa chi trong lòng mà không buông bỏ, vất cái đau khổ đó đi?

Nói chung là chưa chịu xả.

Muốn xả được thì phải lắng nghe và thấu hiểu. Lắng nghe với một cái tâm không thành kiến và tỉnh thức phân biệt đúng sai trong chánh niệm để biết thương nhau hơn.

Trong kinh Tăng chi bộ (kinh Sáu pháp vô thượng), Đức Phật dạy:

“Thầy Tỳ-kheo phải tu sáu pháp vô thượng. Những gì là sáu?

1. Mắt thấy sắc, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

2. Tai nghe tiếng, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

3. Mũi ngửi mùi, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

4. Lưỡi nếm vị, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

5. Thân chạm xúc, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

6. Ý đối với pháp, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.

Ai được sáu pháp này là bậc vô thượng, là phước điền của chúng sinh, xứng đáng cho trời, người tôn trọng, cung kính, cúng dàng”.

Chỉ vì không lắng nghe mà sinh ra hiểu lầm nghi kỵ, sinh ra thù hận. Chỉ vì không lắng nghe nên vườn hoa biến thành vũng lầy, từ đồng xanh biến thành hoang địa!

Không dừng lại ở cái “tiểu ngã” trong tôi mà còn phải nghe thấy cả tiếng gọi quanh đây của trời đất bạt ngàn “đại ngã” kia để có sự quán chiếu mà cảm thông gìn giữ cứu hộ bảo bọc sống cùng nhau trong cảnh hạnh hòa.

“Thương người như thể thương thân”, câu tục ngữ Việt Nam đầy tính nhân văn đã gắn liền trong tâm thức con người trong cộng đồng, là lời nhắc nhở phải biết yêu thương trân trọng người khác như chính bản thân mình.

Sống trong thế giới chấp thủ thường khiến mình đau khổ vì phân biệt nhị nguyên đúng sai giả thật, khi đã chấp ngã rồi thì lọt vào thế giới vô minh nên chẳng hiểu mình hiểu người, ví như làm cha mẹ không hiểu tánh tình con cái, đã vợ chồng lại chẳng thấu lòng nhau.

Không dừng lại ở đó, sự lắng nghe trong nhẫn nhịn, trong chịu đựng, chấp nhận và thấu hiểu như Đức Phật đã dạy cõi Ta-bà này biết bao nhiêu thống khổ cần sự bao bọc chở che đầy vị tha với tinh thần vô úy mới tìm đến an lạc.

Vậy, tại sao mình không đem nụ cười cảm thông đến với người cho cuộc đời thanh thản dễ chịu hơn? Bởi cái lẽ thật cuộc đời là thấy rõ cái bản chất của mình, cái chủng tử có từ muôn ngàn kiếp trước mắc lên thân người, mà thân người có gì bất biến để tâm phân biệt bao che buộc người khác làm theo ý mình để rồi tâm cứ chấp mãi chất chồng?

Nhà Phật có câu “người tu hành thì giận không quá một đêm”, đó cũng là một cách thấu hiểu và cảm thông trong cuộc sống vốn đầy trắc ẩn bộn bề sinh tử này.

Là Phật tử, sống theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm, hàng ngày tụng niệm “Thề trọn đời giữ đạo, Theo tự tánh làm lành, Cùng pháp giới chúng sinh, Cầu Phật từ gia hộ”. Thế đã lắng nghe từ tự tánh thì nhận ra cái tâm vốn chẳng sanh chẳng diệt, chấp nhận cái “phiền toái” kia mà lấy làm tánh bồ-đề.

Biết lắng nghe cũng là một nghệ thuật như người mẹ hiểu con mình, như bác sĩ biết con bệnh, như Bá Nha gặp bạn tri âm Tử Kỳ. Thử hỏi, làm sao không hạnh phúc khi được người khác hiểu mình? Và, có những điều không thể nói, không thể hiểu thì “sự lắng nghe” kia cũng đã làm vơi bớt khổ đau của người khác rồi.
Thục Đ

Chiến đấu với phiền não

Chiến đấu với phiền não

Đăng lúc: 09:09 - 10/11/2015

Chiến đấu với phiền não là chiến đấu với lòng tham, sự căm ghét, mê lầm, v.v… đây là những kẻ thù. Trong tu tập theo con đường của Bụt, chúng ta chiến đấu với phiền não bằng sự kham nhẫn. Chúng ta chiến đấu bằng cách chịu đựng vô số tâm trạng của chúng ta.

Nơi nào có phiền não thì nơi đó có người chiến thắng phiền não. Đây được gọi là chiến đấu với giặc lòng (trong thâm tâm). Để chiến đấu với những kẻ thù bên ngoài thì cần bom đạn và súng ống; họ chiến thắng và chiến bại. Chiến thắng người khác là con đường của thế gian. Chúng ta không chiến đấu với những người khác mà là chiến thắng nội tâm của chúng ta bằng sự kiên trì kham nhẫn và chịu đựng tất cả.
Khi phiền não đến chúng ta không nuôi dưỡng sự oán hận và thù hằn, mà thay vào đó là sự buông bỏ tất cả những hình thái của ác tâm trong hành động và suy nghĩ của chúng ta, tự mình thoát khỏi lòng ghen tị, ác cảm, oán giận. Lòng căm thù chỉ có thể vượt qua bằng sự không nuôi dưỡng oán hận và chịu đựng hận thù.

Hành động tổn thương và trả thù là khác nhau nhưng liên quan chặt chẽ. Một khi hành động thực hiện xong thì không cần đáp trả bằng báo thù. Đây được gọi là nghiệp (kamma). Trả thù nghĩa là tiếp tục hành động thêm nữa với suy nghĩ: “Anh đã làm điều đó với tôi, tôi sẽ cho anh biết thế nào là lễ độ”. Hận thù không kết thúc như vậy. Nó mang đến sự liên tục theo đuổi trả thù và vì thế hận thù không bao giờ được từ bỏ. Chừng nào mà chúng ta cư xử như vậy thì chuỗi hận thù này vẫn còn không bị phá vỡ. Cho dù chúng ta đi đâu hận thù vẫn tiếp tục.

Bụt (Buddha) đã dạy: Thế gian này, anh có lòng thương (karunā) đối với tất cả mọi người thế gian tuy nhiên người thế gian thì không như vậy với anh. Người khôn ngoan nên nhìn vào điều này và chọn những thứ có giá trị thực sự. Bụt đã được đào tạo trong các loại hình nghệ thuật của chiến tranh như một hoàng tử nhưng Ngài nhận thấy rằng chúng không thật sự hữu ích, chúng bị giới hạn trong chiếu đấu và xâm lược.

Cho nên, trong việc rèn luyện bản thân chúng ta với tư cách là những người từ bỏ thế tục, chúng ta phải học từ bỏ tất cả những điều ác, từ bỏ tất cả những nguyên nhân gây ra sự thù hằn. Chúng ta chiến thắng bản thân mình không chiến thắng những người khác. Chúng ta chiến đấu nhưng chỉ chiến đấu với phiền não; nếu có tham chúng ta chiến đấu với lòng tham; nếu có căm ghét chúng ta chiến đấu với sự căm ghét; nếu có mê lầm chúng ta nỗ lực từ bỏ nó.

Đây được gọi là “Chiến đấu với phiền não”. Chiến đấu với giặc lòng thật khó, thật sự nó khó nhất. Chúng ta trở thành những Tăng sĩ trong Tăng đoàn để quán chiếu điều này, để học nghệ thuật chiến đấu với lòng tham, ác cảm, và sự mê lầm. Đây là trách nhiệm chủ yếu của chúng ta.

Đây là cuộc chiến đấu bên trong, chiến đấu với những phiền não. Nhưng có rất ít người chiến đấu như vậy. Đa số con người chiến đấu với những điều khác, họ ít khi chiến đấu với phiền não. Thậm chí họ hiếm khi trông thấy chúng.

Bụt dạy chúng ta phải từ bỏ tất cả những điều ác và trau dồi đức hạnh. Đây là con đường chân chính. Dạy theo cách này là như Bụt mang chúng ta lên và đặt vào phần đầu của con đường. Đến con đường, có đi trên con đường đó hay không là tùy thuộc vào chúng ta. Công việc của Bụt là kết thúc ngay đó. Ngài chỉ đường nào đúng, đường nào sai. Bấy nhiêu là đủ, phần còn lại tùy thuộc vào chúng ta.

Bây giờ, đến con đường, chúng ta vẫn không biết bất cứ điều gì, chúng ta vẫn không thấy bất cứ thứ gì, cho nên chúng ta phải học. Để học, chúng ta phải vui lòng chịu đựng một chút khó khăn giống như sinh viên trên thế giới. Đủ khó để được hiểu biết và kỹ năng cần thiết để họ theo đuổi sự nghiệp. Họ phải chịu đựng. Khi họ nghĩ không đúng, cảm giác chống đối hay lười biếng, họ phải bắt buộc bản thân trước khi tốt nghiệp và có được một cái nghề. Sự tu tập đối với một Tăng sĩ cũng như vậy. Nếu chúng ta quyết tâm tu tập thiền quán, chắc chắn chúng ta sẽ thấy con đường.

Ngã kiến (ditthimana) là điều có hại. Ditthi nghĩa là sự nhìn hay quan điểm. Tất cả các hình thức của sự nhìn gọi là ditthi: thấy lành là dữ, thấy dữ là lành, v.v… bất cứ cách nào mà chúng ta nhìn thấy mọi thứ. Điều này không sao. Vấn đề nằm ở việc dính mắc vào những cái thấy đó, gọi là cái ta (mana); nắm giữ những cái thấy này như thể chúng là sự thật. Điều này dẫn chúng ta vào vòng sinh tử luân hồi không bao giờ dứt, chỉ vì sự dính mắc. Vì vậy, Bụt đã kêu gọi chúng ta rời bỏ những cái thấy ấy.

Nếu có nhiều người sống với nhau như chúng ta làm ở đây, họ vẫn có thể tu tập thoải mái nếu quan điểm của họ hài hòa. Nếu quan điểm của họ không tốt hay không hài hòa thì ngay cả hai hoặc ba Tăng sĩ thôi là sẽ gặp khó khăn. Khi chúng ta tự hạ mình và buông xả những cái thấy của chúng ta, ngay cả khi có rất nhiều người, chúng ta cùng nhau đến với Tam bảo.

Không đúng để nói rằng sẽ có bất hòa chỉ vì nhiều người. Hãy nhìn một sinh vật nhiều chân. Thoạt nhìn, bạn sẽ nghĩ nó di chuyển khó khăn nhưng thật sự thì không. Nó có thứ tự và sự nhịp nhàng của riêng nó. Trong sự tu tập cũng vậy, nếu chúng ta tu tập như một vị thánh tăng của Bụt đã tu tập thì nó trở nên dễ dàng. Đó là người tu tập tốt, người tu tập chính trực, người tu tập để vượt qua khổ đau, và người tu tập hết mình. Bốn phẩm chất này hình thành sẽ làm cho chúng ta trở thành một thành viên thật sự của đoàn thể xuất sĩ. Thậm chí chúng ta là thành viên trong đoàn thể hàng trăm hay hàng ngàn người, đông bao nhiêu cũng không là vấn đề, chúng ta đi trên cùng một con đường. Chúng ta đến từ những tầng lớp xã hội khác nhau nhưng giống nhau. Mặc dầu quan điểm chúng ta có thể khác, nếu chúng ta tu tập đúng sẽ không có sự bất đồng. Cũng giống như tất cả những con sông và suối đều đổ ra biển… một khi đi vào biển thì tất cả chúng có cùng màu sắc và hương vị. Con người cũng vậy, khi họ đi vào giáo pháp thì nó là một. Mặc dầu họ đến từ những nơi khác nhau nhưng họ đoàn kết và hòa hợp.

Ngã kiến là nguyên nhân của tất cả các tranh chấp và xung đột. Vì thế, Bụt dạy chúng ta buông bỏ ngã kiến, không cho phép cái ta bám víu vào những cái thấy sai lầm.

Bụt đã dạy giá trị của niệm (sati) kiên định. Cho dù chúng ta đang đứng, đi bộ, ngồi hay nằm, bất kỳ ở đâu, chúng ta cần phải có sức mạnh của niệm. Khi có niệm chúng ta thấy bản thân chúng ta, những tâm của riêng mình. Chúng ta thấy “thân trong thân”, “tâm trong tâm”. Nếu chúng ta không có niệm chúng ta không biết bất cứ điều gì, không nhận thức được điều gì đang xảy ra.

Vì vậy, niệm rất quan trọng. Với niệm kiên định, chúng ta sẽ nghe giáo pháp của Bụt mọi lúc. Bởi vì, mắt thấy các hình dáng, tai nghe những âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, cơ thể cảm giác những sự xúc chạm, khi những cảm giác sinh khởi trong tâm v.v… đều là giáo pháp. Vì thế một người có niệm kiên định luôn nghe giáo pháp. Giáo pháp luôn ở đó. Tại sao? Bởi vì niệm, vì chúng ta tỉnh thức.

Sati là niệm, sampajañña là sự tỉnh thức, sự tỉnh thức này là Bụt hiện tại. Khi có niệm tỉnh thức, sự hiểu biết sẽ đi theo. Chúng ta biết những gì đang xảy ra. Khi mắt thấy những hình dáng: hình dáng này phù hợp hay không phù hợp? Khi tai nghe âm thanh: âm thanh này thích hợp hay không thích hợp? Có hại không? Đúng hay sai? Và chúng ta xem xét tương tự như vậy đối với mọi thứ. Hiểu điều này, chúng ta nghe giáo pháp mọi lúc.

Chúng ta cần hiểu rằng ngay bây giờ chúng ta đang học giữa giáo pháp. Dù chúng ta đi tới hay lùi lại, chúng ta đều gặp giáo pháp - đó là tất cả giáo pháp nếu chúng ta có niệm. Ngay cả khi nhìn thấy những con vật chạy quanh trong khu rừng này, chúng ta có thể suy ngẫm và thấy rằng tất cả những con vật này giống như chúng ta. Chúng chạy trốn khổ đau và đuổi theo hạnh phúc giống như con người. Bất cứ thứ gì chúng không thích thì tránh; chúng sợ hãi cái chết, giống như con người. Nếu chúng ta suy ngẫm về điều này, sẽ thấy rằng tất cả chúng sinh trên thế giới này, con người cũng vậy đều giống nhau ở bản năng. Suy nghĩ như vậy được gọi là “tham thiền”, thấy theo sự thật rằng tất cả chúng sinh là bầu bạn với sinh già bệnh chết. Loài vật cũng giống như con người và con người cũng giống như loài vật. Nếu nhìn thấy mọi thứ theo cách như chúng đang là thì tâm của chúng ta sẽ từ bỏ sự quyến luyến vào chúng.

Vì vậy chúng ta phải có niệm. Nếu có niệm chúng ta sẽ thấy trạng thái tâm của mình. Bất cứ điều gì đang nghĩ hoặc cảm giác chúng ta phải biết nó. Sự hiểu biết này được gọi là Bụt, người hiểu biết, người hiểu biết hoàn toàn và trọn vẹn. Khi tâm hiểu biết hoàn toàn, chúng ta tìm ra được sự thực tập đúng đắn.

Cho nên con đường chân thật để thực hành là phải có chánh niệm. Nếu bạn không có chánh niệm trong vòng năm phút, bạn đang điên đảo trong năm phút. Hễ khi nào bạn thiếu chánh niệm là bạn điên đảo. Chánh niệm là cần thiết. Có chánh niệm là biết chính mình, biết những trạng thái tâm và cuộc sống của mình. Chánh niệm là sự hiểu biết và nhận thức rõ, lắng nghe giáo pháp mọi lúc. Sau khi rời khỏi buổi pháp thoại bạn vẫn còn nghe giáo pháp bởi vì giáo pháp hiện diện mọi nơi.

Vì vậy tất cả các bạn hãy thực tập mỗi ngày. Cho dù lười biếng hay siêng năng, thực hành chỉ cần như vậy. Thực hành giáo pháp là không được làm theo tâm trạng của bạn. Nếu bạn thực hành theo tâm trạng thì nó không phải giáo pháp. Bất kể ngày đêm, dù tâm bạn an tịnh hay không… chỉ cần thực hành.

Giống như đứa trẻ đang học viết. Thoạt đầu, nó viết không đẹp - chữ viết không thẳng hàng - chữ viết của đứa trẻ sẽ được cải thiện thông qua luyện tập. Thực hành giáo pháp cũng giống như vậy. Trước tiên bạn vụng về, thỉnh thoảng được yên tĩnh, đôi lúc lại không, bạn không thực sự biết cái gì là cái gì. Một vài người chán nản. Đừng đi chậm lại! Bạn phải kiên trì với thực hành. Sống với nỗ lực, giống như em học sinh: khi em lớn lên sẽ viết tốt hơn. Từ viết xấu em trưởng thành để viết đẹp hơn, tất cả nhờ sự luyện tập từ thời thơ ấu.

Sự thực hành của chúng ta giống như vậy. Cố gắng có chánh niệm mọi lúc: đứng, đi, ngồi hay nằm. Khi thực hiện các nhiệm vụ suôn sẻ và tốt đẹp, chúng ta cảm thấy yên tâm. Khi có sự yên tâm trong công việc chúng ta sẽ dễ có được thiền an tĩnh. Vì vậy, nỗ lực thực hành. Đây là rèn luyện.

Thích Huệ Phát chuyển ngữ
(Trích dịch từ Food for the Heart của Thiền sư Ajahn Chah)

Hoa Kỳ: Sẽ tái hiện những ngôi chùa hang Đôn Hoàng

Hoa Kỳ: Sẽ tái hiện những ngôi chùa hang Đôn Hoàng

Đăng lúc: 21:43 - 19/07/2015

Mùa hè tới, du khách đến khu phức hợp trên đỉnh đồi thuộc Trung tâm Getty ở Los Angeles sẽ có thể chiêm ngưỡng được những bản sao của các hang động Trung Quốc với những hình tượng Phật giáo đầy màu sắc như một phần của một cuộc triển lãm “Chùa hang Đôn Hoàng: Nghệ thuật Phật giáo trên Con đường tơ lụa của Trung Quốc”.
vch 1.jpg
Một tác phẩm nghệ thuật Phật giáo trên Con đường tơ lụa của Trung Quốc
Chương trình sẽ làm nổi bật công tác bảo tồn 3 thập kỷ tại các ngôi chùa Đôn Hoàng của Getty.
Đối với một triển lãm ngoài trời tạm thời, các nghệ sĩ Trung Quốc sẽ tái tạo 3 trong số 500 hang của Đôn Hoàng với đầy đủ các tranh tượng. Các tác phẩm nghệ thuật mới sẽ được hoàn thành trên những vết tích của sự tàn phai, sứt mẻ và bong tróc.
Getty cũng đang có kế hoạch mượn các bức vẽ, đồ dệt tay và các hiện vật khác mà người châu Âu đã mua hoặc đã được tặng tại các hang động, trong đó có một bản in kinh Kim Cang thế kỷ thứ 9, một bản kinh thiêng liêng cổ xưa. Nhà thám hiểm người Anh-Hungary Aurel Stein đã tìm thấy cuốn sách vào năm 1907 và hiện nay nó thuộc về Thư viện Anh.
Văn Công Hưng (Theo ArtsBeat)

Cục trưởng Mỹ thuật: 'Tượng Phật ở Thái Bình sập do làm tùy hứng'

Cục trưởng Mỹ thuật: 'Tượng Phật ở Thái Bình sập do làm tùy hứng'

Đăng lúc: 21:57 - 16/07/2015

Ông Vi Kiến Thành, Cục trưởng Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa) cho biết, không riêng bức tượng Phật mới bị sập ở Thái Bình mà rất nhiều địa phương có tình trạng tự ý xây dựng các tượng đài, công trình tôn giáo.
Tượng Phật trăm tấn đang thi công bất ngờ đổ sập / Tượng Phật trăm tấn đổ do lực đỡ yếu
- Ông đánh giá thế nào về việc công trình tượng Phật nặng hàng trăm tấn đang xây dựng ở chùa Sóc (Quỳnh Phụ, Thái Bình) bị đổ sập?

- Tượng đài được xây dựng khi không có phép, tồn tại đã là một khuyết điểm, giờ còn sập đổ nữa thì cần phải truy cứu trách nhiệm. Dù chi phí xây dựng do xã hội hoá nhưng tiền nào cũng từ dân mà ra. Ở đây, lỗi truy căn nguyên từ cấp xã đến huyện. Các đơn vị như Phòng Văn hoá, Xây dựng, UBND huyện... phải nắm được công trình nào sắp hoặc đang thi công trên địa bàn để kiểm tra, xem xét cho dừng nếu không có giấy phép.

vi-kien-thanh-6397-1436859161.jpg
Cục trưởng cục Mỹ thuật Nhiếp ảnh và Triển lãm Vi Kiến Thành.
Hậu quả to lớn nhất của việc bức tượng Phật sụp đổ là tác động rất xấu đến mặt tình cảm, tâm linh của người dân. Họ gửi gắm tình cảm, tâm tư vào Phật giáo, tin theo thuyết giáo của nhà chùa mà bây giờ biểu tượng cho niềm tin ấy bị một số người làm không đúng quy định gây đổ sập thì ảnh hưởng về tinh thần là khó đo đếm nổi.

- Tượng đài nói chung muốn xây dựng phải theo quy trình như thế nào?

- Đầu tiên, lãnh đạo địa phương sau khi đồng ý xây dựng công trình, sẽ giao cho một chủ đầu tư thực hiện. Đơn vị này cần xây dựng một dự án thiết kế, chi phí, bộ máy vận hành... rồi trình lên các cấp. Công trình ở cấp nào sẽ do chủ tịch UBND cấp đó duyệt. Các phòng/sở Văn hoá, Xây dựng là đơn vị thụ lý hồ sơ, thẩm tra, tham mưu đề xuất cho UBND tỉnh. Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh, các công trình xây ở trung tâm hành chính lớn, khu di tích lịch sử văn hoá, trước khi UBND tỉnh cấp giấy phép còn phải xin ý kiến của Bộ Văn hoá.

Ngay từ phác thảo bước một đã phải có sa bàn, mô hình của không gian kiến trúc và mẫu tượng. Sau đó đến bước dựng mẫu xem hình thức, nghệ thuật, cấu trúc ra sao rồi phóng đất sét tỷ lệ 1:1. Từ bản 1:1 này, người ta sẽ tính kết cấu sắt thép, xây dựng thế nào cho đảm bảo bền vững rồi mới chọn chất liệu đá, đồng hay bê tông.

Mỗi bước đều có hội đồng thẩm định do UBND lập gồm các nhà điêu khắc, xây dựng, kiến trúc sư, hoạ sĩ…, nhằm đảm bảo an toàn và thẩm mỹ cho tượng đài. Công trình cấp quốc gia thì hội đồng cấp trung ương. Công trình địa phương thì thành viên hội đồng có thể là chuyên gia của địa phương đó. Để đảm bảo chất lượng công trình, địa phương có thể mời chuyên gia trung ương vào hội đồng và có trách nhiệm theo công trình từ lúc làm đề án đến sau khi nghiệm thu.

Tượng Phật ở Thái Bình hoàn toàn không thực hiện các quy trình trên, làm tuỳ tiện, tuỳ hứng, không tính toán kết cấu hay lập hội đồng chuyên gia thẩm định... nên mới dẫn đến hậu quả bị đổ sập như vậy.

IMG-3096-JPG-6924-1436882248-4724-143693
Công trình tượng Phật ở Thái Bình sập sau 2 năm xây dựng. Ảnh: Giang Chinh.
- Qua thực tế kiểm tra, theo dõi, Cục Mỹ thuật đánh giá như thế nào về tình trạng tự ý xây dựng tượng đài và công trình tôn giáo ở các địa phương?

- Tượng Phật ở Thái Bình đổ, người ta mới biết nó chưa được cấp phép xây dựng. Thực trạng này hiện nay khá phổ biến, chủ yếu là các công trình tôn giáo.

Nhiều địa phương cho rằng tượng đài tôn giáo theo ngạch riêng, xây trong khuôn viên của chùa thì do nhà chùa thực hiện. Cục Mỹ thuật nhiều lần nhận được văn bản từ các địa phương, hỏi về việc tượng tôn giáo có chịu điều chỉnh của Nghị định 113? Chúng tôi xin khẳng định lại, đây là điều đương nhiên.

Nghị định 113 về hoạt động mỹ thuật quy định, tượng đài muốn xây dựng phải được UBND tỉnh/huyện cấp phép. Nghị định này cũng nêu rõ tượng đài là tượng được xây dựng ở ngoài trời, có phần đài, phần tượng, có quy mô, kích thước lớn, mang tính biểu tượng trong đó gồm cả tượng tôn giáo...

Một cái nhà xây lên với nhiều công năng khác nhau như bệnh viện, trường học… nhưng bản chất vẫn là cái nhà và phải tuân theo đúng Luật Xây dựng. Tượng đài cũng như thế.

Quỳnh Trang (thực hiện)

Dharamsala - miền đất của đức tin

Dharamsala - miền đất của đức tin

Đăng lúc: 06:46 - 03/07/2015

Được xem là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại, nơi khởi nguồn cho kỷ nguyên Phật giáo từ bi và trí tuệ, Ấn Độ luôn ẩn chứa một sức quyến rũ lạ kỳ đối với du khách, nhất là các tín đồ hành hương trên khắp thế giới.
Các nhà sư Tây Tạng ở Dharamsala (Ấn Độ) - Ảnh: ShutterstockCác nhà sư Tây Tạng ở Dharamsala (Ấn Độ) - Ảnh: Shutterstock
Dharamsala có rất nhiều tu viện, đền đài mang đậm dấu ấn văn hóa, kiến trúc và đời sống của người Tây Tạng. Đây cũng là nơi Đức Dalai Lama 14 đang tạm cư và hướng dẫn tu học. Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đức Dalai Lama là vị thần bảo hộ có năng lực nhất của Tây Tạng. Vị Dalai Lama hiện nay - Tenzin Gyatso là vị thứ 14, được xem như là sự tái sanh tiếp theo của Đức thánh sư. Với tuyên ngôn bất hủ “Tôn giáo của tôi chính là lòng từ bi”, như những cánh chim chao lượn giữa bầu trời bao la không quản ngại nhọc nhằn, Đức Dalai Lama cùng các đệ tử của ngài đã đến hơn 40 quốc gia để truyền bá tinh thần Phật pháp trí tuệ và sự thật bằng tất cả niềm tin về một xã hội công bằng, một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Chính vì vậy, ngài đã được trao tặng giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1989.
Tiếp nối những buổi thuyết pháp thành công, năm nay nhân dịp sinh nhật thứ 80 của Đức Dalai Lama, chương trình “Đảnh lễ Đức Dalai Lama” dự kiến sẽ diễn ra từ 7 - 10.9 dương lịch tại Dharamsala. Một lần nữa, đây là cơ hội quý giá dành cho các phật tử VN cũng như cộng đồng phật tử trên thế giới được tiếp xúc và lắng nghe những pháp thoại đầy ý nghĩa của Đức Dalai Lama.
Trong dịp này, với mong muốn được đồng hành cùng du khách trong chuyến đi đảnh lễ, đặc biệt là các phật tử có ý nguyện từ tâm, TST Tourist đã thiết kế chương trình hành hương vô cùng đặc sắc “Pháp hội của Đức Dalai Lama 14”. Theo đó, du khách sẽ có 4 ngày trọn vẹn tham dự buổi thuyết giảng đặc biệt của ngài với nội dung “Dẫn nhập Bồ tát đạo” của Shantideva (Bồ tát Tịch Thiên). Bên cạnh việc lắng nghe thuyết giảng được phiên dịch rõ ràng và kỹ lưỡng từ sư cô Nhất Hạnh, du khách còn có cơ hội ngắm nhìn tổng thể bức tranh thanh bình, trong xanh của vùng đất thiêng ẩn mình dưới những cánh rừng thông tuyết tùng cao vút. Từ Viện Bảo tồn nghệ thuật Tây Tạng Norbulingka cho đến các tu viện Mật pháp Gyuto, Namgyal, chùa Tsulakhang... du khách sẽ được tận mắt chiêm ngưỡng các bức vẽ có hồn, sống động đến chân thực của các vị Phật, bồ tát và hộ pháp trong truyền thống Kim cương thừa. Qua đó hiểu thêm về nghệ thuật tranh thangka - vẽ trong trạng thái thiền định. Đây cũng là dịp để du khách chiêm bái nơi tạm trú giản dị, thanh tao của Đức Dalai Lama 14 và Đức đại bảo pháp vương Karmapa Chenno thứ 17 cùng nhiều vị hóa thân khác... Tour Ấn Độ: Pháp hội của Đức Dalai Lama 14 (10 ngày), KH 3, 4.9, giá 43,88 triệu đồng.
Mùa hè 2015, khi mua tour tại TST Tourist du khách có cơ hội hưởng nhiều ưu đãi: Giảm giá trực tiếp từ 5 - 10%; Mua tour trả góp lãi suất 0%... Đặc biệt, khi mua tour vào khung giờ 10 - 11 giờ thứ bảy hằng tuần, du khách có cơ hội nhận giải thưởng là chuyến đi Thái Lan, Đà Nẵng với giá “0 đồng”; đến Nhật Bản, Singapore với mức giảm giá 50% và những giải thưởng giá trị khác để tăng thêm niềm vui.
Tour tham khảo: Đông Nam Á: Bangkok - Pattaya (5 ngày), KH 15, 16, 29.7; 12, 19, 25.8, giá 7,78 triệu đồng; Bangkok - Pattaya - Kanchanaburi (6 ngày), KH 21.7; 25.8, giá 8,98 triệu đồng; Singapore - Malaysia (6 ngày), KH 14, 21.7; 4, 11, 28.8, giá từ 12,98 triệu đồng; Bali (4 ngày), KH 23.7, giá 17,98 triệu đồng. Đông Bắc Á: Hồng Kông - Disneyland - Bảo tàng sáp (4 ngày), KH 6, 27.8, giá từ 15,98 triệu đồng; Osaka - Universal Studios - Kobe - Kyoto - Nagoya - núi Phú Sĩ - Tokyo (6 ngày), KH 20.8, giá 38,88 triệu đồng. Châu Âu: Đức - Hà Lan - Bỉ - Luxembourg - Pháp (10 ngày), KH 14, 28.8, giá từ 58,98 triệu đồng; Pháp - Thụy Sĩ - Ý (11 ngày), KH 25.8; 26.9, giá từ 75,98 triệu đồng; Pháp - Bỉ - Hà Lan (8 ngày), KH 18.8, giá từ 49,98 triệu đồng. Úc và New Zealand: Melbourne - Canberra - Sydney (7 ngày), KH 24.7; 29.8, giá 54,98 triệu đồng; Auckland - Tepuke - Rotorua - Waitomo (7 ngày), KH 21.8, giá 54,98 triệu đồng; Sri Lanka - Maldives (7 ngày), KH 30.7; 21.8, giá 39,98 triệu đồng...
Liên hệ: TST Tourist - 10 Tú Xương, P.7, Q.3, TP.HCM, ĐT: (08) 39328328. Hotline: 0909 026116/118. Fax: (08) 39321321. Chi nhánh Tây Đô: 17 Cách Mạng Tháng Tám, P.Thới Bình, Q.Ninh Kiều, TP.Cần Thơ, ĐT: (0710) 3769681, fax: (0710) 3769682, website: www.tsttourist.com
Hoa Ma

Người chân thật tu hành không nên xem truyền hình

Người chân thật tu hành không nên xem truyền hình

Đăng lúc: 20:38 - 29/06/2015

Người chân thật tu hành không nên xem truyền hình. Truyền hình thời đại hiện nay là dấu hiệu của ma vương. Bạn qua lại với nó thì phiền não sẽ to. Vô số chúng sanh trên thế giới này từ nhỏ đã kết giao mật thiết với nó, mỗi ngày không rời khỏi. Chúng ta phải cảnh giác cao độ. Không chỉ đó là ma vương, tương lai e rằng càng hung hơn, tà ác hơn.


Hiện nay theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, nghệ thuật kịch sân khấu dần dần bị suy tàn, đều biến thành phim truyền hình nhiều tập. Hiện nay người viết kịch bản phim truyền hình nhiều tập không tuân thủ theo nguyên tắc của Khổng Lão Phu Tử. Nội dung truyền hình nước ngoài thì khỏi cần nói nữa.
Trước đây, tiên sinh Phương Đông Mỹ nói với quan chức bộ giáo dục Đài Loan, ngày hôm đó đúng lúc tôi ở trong nhà thầy, tôi nghe thấy họ nói chuyện. “Nước Mỹ hiện nay là quốc gia mạnh nhất trên thế giới. Thời xưa La Mã là nước mạnh nhất, nhưng nay La Mã đã mất nước rồi”. Vị quan chức này thỉnh giáo với thầy Phương: “Nước Mỹ tương lai mất nước, nhân tố đứng đầu là gì?” Thầy Phương không hề do dự, không cần suy nghĩ, trả lời rất dứt khoát, đó là “Truyền hình”. Nước Mỹ tương lai mất nước nhân tố đứng đầu là truyền hình. Nội dung truyền hình của họ hoàn toàn là thập ác nghiệp, phát hình 24 giờ. Trẻ con, người trẻ tuổi hằng ngày xem những thứ này. Ở nước Mỹ, trẻ con hai, ba tháng tuổi là mắt đã mở thật to để xem truyền hình. Bạn nói, vậy có nguy không?. Cho nên, ngày nay nước Mỹ vấn đề thanh thiếu niên nghiêm trọng như vậy. Họ cũng không biết nguyên nhân này là xuất phát từ truyền hình. Hiện nay vấn đề con cái giết cha mẹ, học trò giết thầy cô, giết bạn học vô cùng nghiêm trọng, đây là do truyền hình tạo nên. Cho nên thời đó tại Đài Loan, thầy Phương cảnh báo Đài Loan phải cẩn thận! Nếu như không tiến hành phòng bị, nếu đi theo vết xe đổ của người Mỹ thì Đài Loan cũng sẽ tiêu mất, toàn bộ hủy sạch.

Trích Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ giảng ký (phần 31)
Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh giảng ký (tập 43)
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

grab14345062184 Copy 298568082

Nepal: đang khắc phục Chùa Tháp Swayambhunath sau trận động đất

Đăng lúc: 19:21 - 17/06/2015

Một trong những ngôi Cổ tự và Bảo tháp được tôn kính và linh thiêng nhất ở Nepal đã bị thiệt hại trong trận động đất kinh hoàng vừa qua. Những nhà Bảo tồn hy vọng sẽ khắc phục Bảo Tháp trước mùa mưa.
Chùa Tháp Swayambhunath còn được gọi là chùa Khỉ (bởi nơi đây có nhiều khỉ cư trú, đặc biệt là ban đêm), ngôi Cổ tự tọa lạc trên một ngọn đồi được bao phủ bởi rặng cây xanh ở phía Tây thung lũng Kathmandu, nơi thu hút du khách thập phương hành hương trãi qua 1.400 năm qua. Đỉnh Bảo Tháp cao vút với sắc huỳnh kim lấp lánh và mái vòm màu trắng vươn lên trên ngọn đồi, hòa lẫn bầu trời mây bay bãng lãng, từ xa xa đã dễ dàng nhìn thấy.

Chùa Tháp Swayambhunath được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1979.

Ông Christian Manhart, giám đốc UNESCO tại Kathmandu, chia sẻ rằng: “Bảo Tháp Swayambhunath đã bị ảnh hưởng trong trận động đất kinh hoàng vừa qua. Chúng ta phải khẩn trương khắc phục những vết của Bảo Tháp trước mùa mưa”.

Dân Nepal và người nước ngoài cùng làm công việc dọn dẹp các mảnh vỡ của Thánh tích này sau trọng động đất vào ngày 25/04/2015 đã cướp đi hơn 8.500 người, bị thương 23.000 người và hàng trăm nghìn người vô gia cư, đang lâm vào cảnh màn trời chiếu đất.

Các trận động đất kinh hoàng đã tàn phá các di sản cổ xưa của Nepal, đây là trung tâm ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của nhiều người dân địa phương, bởi Thánh tích này là một hấp dẫn lớn đối với khách du lịch, một nơi thu ngoại tệ, góp ngân sách cho địa phương.

Theo tài liệu của UNESCO, hơn 30 di tích trong thung lũng Kathmandu đã bị thiệt hại trong trận động đất, và đã phát hiện thêm 120 di tích khác bị một phần thiệt hại.

Ông Christian Manhart, Giám đốc UNESCO tại Kathmandu và đồng nghiệp ước tính sẽ mất ít nhất $ 160,000,000 để sửa chữa và khôi phục 1.000 di tích bị hư hỏng, và bị phá hủy bao gồm Tu viện, Đền miếu công trình văn hóa lịch sử trên khắp cả nước. Đối với quốc gia đa Tôn giáo sắc tộc này, việc phục dựng lại là một ưu tiên đặc biệt.

Ông David Andolfatto, Nhà khảo cổ học và sử học nghệ thuật, một chuyên gia tư vấn của UNESCO, cho biết: “Chúng tôi đang kiểm kê các di tích di sản làm từ đá, đất nung và cất giữ tạm trong ngôi Cổ Tự. Mối quan tâm hàng đầu của chúng tôi hiện nay là ngăn chặn để chúng không bị cướp đi.

Bình nhật mỗi buổi sáng cư dân địa phương và du khách hành hương đi nhiễu quanh Đại bảo tháp Swayambhu, nhưng bây giờ họ không thể đến Thánh tích này được bởi không an toàn”.

Sau trận động đất, Ông David Andolfatto vội vã ra đường, nhảy vọt lên xe đạp của mình để đi kiểm tra Bảo tháp Swayambhu, nằm ở phía tây của thành phố Kathmandu. Ông đã dành thời gian quý báu của mình cho việc bảo vệ Thánh tích này cho đến hôm nay.

Cùng với việc khắc phục sửa chữa các vết nứt của Bảo Tháp, Ông là người nỗ lực giám sát những bích họa có nguy cơ mất dạng tại một ngôi Cổ tự nhỏ có tên là Shantipur. Điều này đòi hỏi sự phối hợp cẩn thận với chư tôn đức Phật giáo địa phương, và chỉ có các vị Giáo phẩm Phật giáo mới hiểu rõ được những chi tiết nơi tôn nghiêm bên trong ngôi Cổ tự nhỏ này.

Ông Christian Manhart, giám đốc UNESCO tại Kathmandu nói: “Trong trận động đất kinh hoàng vừa qua, tại Trung tâm Thủ đô, Bảo tàng Hanuman Dhoka Palace cũng chịu chung số phận trong tình trạng thảm khốc. Các bức tường và mái nhà bị rã tan.

Quân đội và các công nhân đang bảo vệ các địa điểm di tích, họ đang củng cố các bức tường và việc tìm kiếm các bộ phận khác của để bảo vệ trước khi cơn mưa đến.

Theo UNESCO đánh giá thiệt hại của trận động đất được tập trung ở thung lũng Kathmandu, một vị trí đặc biệt trong lịch sử Nam Á. Trong khi Phật giáo Ấn Độ phần lớn bị biến mất vào khoảng thế kỷ 12, nhưng Phật giáo tại Kathmandu vẫn phát triển mạnh (Năm 1178, quân đội Hồi giáo của Muhammad Ghuri đã tiến hành nhiều cuộc chinh phạt Ấn Độ. Hầu hết các công trình Phật giáo đã dần dà bị tiêu hủy. Vào năm 1197, trung tâm Phật giáo Nālandā bị hủy diệt hoàn toàn, kể cả các tăng sĩ. Vikramaśīla cũng bị chiếm năm 1203, chấm dứt hoàn toàn một thời đại lịch sử của Phật giáo tại Ấn Độ). Chúng tôi đã nghiên cứu lịch sử Phật giáo và Ấn Độ giáo tuyệt vời.

Ví dụ, một số Tự viện Phật giáo có khả năng phát triển ở đó và lan rộng khắp châu Á, những truyền thống này vẫn sôi động cho đến khi trận động đất rung chuyển đã lật đổ hàng chục công trình.

Hằng ngày mọi người đến các Tự viện Phật giáo để chiêm bái, sinh hoạt Tín ngưỡng Chánh tín, thưởng thức nghệ thuật kiến trúc, một tách Trà đạo, màu xanh biếc của những ngọn đồi núi xum xuê hùng vĩ. . .

UNESCO và Bộ Văn hóa Nepal đang tập trung vào việc củng cố di tích bị hư hỏng và có nguy cơ sụp đổ trong mùa mưa sắp tới, mưa kéo dài suốt mùa hè. Sau đó, họ sẽ chuyển sang phục hồi cấu trúc sụp đổ, kể cả nhà lịch sử.

Có những bản vẽ kiến trúc rộng lớn, cung cấp một cơ sở vững chắc để xây dựng lại. May mắn thay, hiện số tài chính quyên góp lên đến 400.000 USD và tổng cộng $ 2.000.000 từ các quốc gia Sri Lanka, Đức, Áo, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước khác”.

Theo chuyên gia Andolfatto tự tin rằng: “Người Nepal sẽ vượt qua những bi kịch và phục hồi di tích lịch sử văn hóa Tôn giáo một cách nhanh chóng bởi nhu cầu tối cần thiết bởi yếu tố tâm linh và về tinh thần dân tộc của họ”.















Thích Vân Phong(Theo Geographic. Ảnh: Niranjan Shrestha)

Học cách quên

Học cách quên

Đăng lúc: 11:17 - 15/06/2015

Một buổi tối, tôi đi thăm một người bạn từng bị vu cáo hãm hại. Lúc ăn cơm, anh nhận được một cuộc điện thoại, người trong điện thoại muốn nói cho anh biết ai đã hãm hại anh.

(Ảnh: Pixabay)
(Ảnh: Pixabay)
Nhưng anh bạn tôi đã từ chối nghe. Nhìn thấy vẻ mặt ngạc nhiên của tôi, anh nói “Biết rồi thì sao chứ? Cuộc sống có những chuyện không cần biết và có những thứ cần phải quên đi”.
Sự rộng lượng của anh khiến tôi rất cảm kích. Đời người không phải lúc nào cũng được như ý, muốn bản thân vui vẻ, đôi khi việc giảm áp lực cho chính mình là điều cần thiết và cách để giảm áp lực tốt nhất chính là học cách quên, bởi trong cuộc sống này có những thứ cần nhặt lên và bỏ xuống đúng lúc. Trong kinh Phật có một câu chuyện kể rằng: tiểu hòa thượng và lão hòa thượng cùng đi hóa duyên, tiểu hòa thượng lễ độ cung kính, việc gì cũng đều nhìn theo sư phụ. Khi tới bờ sông, một cô gái muốn qua sông, lão hòa thượng đã cõng cô gái qua sông, cô gái cảm ơn rồi bước đi, tiểu hòa thượng trong lòng cứ thắc mắc: “Sư phụ sao có thể cõng một cô gái qua sông như thế?”. Nhưng cậu ta không dám hỏi, cứ thế đi mãi được 20 dặm, cậu ta thực sự không kìm được đành hỏi sư phụ: “Chúng ta là người xuất gia, sao thầy có thể cõng một cô gái qua sông?” Sư phụ điềm đạm nói: “Ta cõng cô gái đó qua sông xong thì bỏ cô ấy xuống, còn ngươi thì đã cõng cô gái ấy 20 dặm rồi vẫn chưa bỏ xuống.”
Lời nói của lão hòa thượng đầy thiền ý, hàm chứa trong nó chính là nghệ thuật nhân sinh. Cuộc đời con người giống như một cuộc hành trình dài, không ngừng bước đi, ven đường nhìn thấy vô vàn phong cảnh, trải qua biết bao những gập ghềnh, nếu như đem tất cả những nơi đã đi qua đã nhìn thấy ghi nhớ hết trong lòng thì sẽ khiến cho bản thân mình chất chứa thêm rất nhiều gánh nặng không cần thiết. Sự từng trải càng phong phú, áp lực càng lớn, chẳng bằng đi một chặng đường quên một chặng đường, mãi mãi mang một hành trang gọn nhẹ trên đường. Quá khứ đã qua, thời gian cũng không thể quay ngược trở lại, ngoài việc ghi nhớ lấy những bài học kinh nghiệm, còn lại không cần thiết để cho lòng phải vướng bận thêm.
Sẵn sàng quên đi là một cách cân bằng tâm lý, cần phải chân thành và thản nhiên đối mặt với cuộc sống. Có một câu nói rất hay rằng tức giận là lấy sai lầm của người khác để trừng phạt chính mình, cứ mãi nhớ và không quên khuyết điểm của người khác thì người bị tổn thương nhiều nhất chính là bản thân mình, bởi lẽ đó để có được niềm vui và cuộc sống thanh thản ta không nên truy cứu lỗi lầm cũ của người khác.
Rất nhiều người thích câu thơ : “Xuân có hoa bách hợp, thu có trăng. Hạ có gió mát, đông có tuyết”. Trong lòng không có việc phải phiền lo mới chính là mùa đẹp của nhân gian. Nhớ những cái cần nhớ, quên những cái nên quên, sống cuộc sống cởi mở, trong lòng không vướng mắc thì cuộc sống này sẽ thật tươi đẹp.
Nếu bạn thấy bài viết hay, hãy chia sẻ nó với bạn bè

Theo (Việt đại kỷ nguyên)

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 16
  • Hôm nay 1,585
  • Tháng hiện tại 38,475
  • Tổng lượt truy cập 23,444,724