Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Chuyển hóa đố kỵ

Chuyển hóa đố kỵ

Đăng lúc: 15:33 - 10/07/2017

Đố kỵ là tâm lượng hẹp hòi, khó chịu, bực bội, ganh ghét những ai có sắc đẹp, danh vọng, quyền lợi, may mắn và thành công hơn mình. Khi chưa dự vào Hiền Thánh thì ai cũng mang trong mình tâm xấu đố kỵ này. Chỉ khác nhau là người nhiều kẻ ít, người bộc lộ hết ra bên ngoài còn kẻ thì giấu nhẹm một phần hay giấu hết vào bên trong. Thậm chí ngay cả những lời chia vui chúc tụng chân thành lắm khi cũng là bề ngoài, còn nội tâm thế nào thì mỗi người tự biết.
doky.jpg
Người đời hơn thua nhau từng chút một, người tu mang tâm đố kỵ cũng chẳng phải là hiếm- Ảnh minh họa

Tâm đố kỵ ở đời thì quá rõ ràng, dễ hiểu. Điều khiến ta bất ngờ là trong đạo, người tu mang tâm đố kỵ cũng chẳng phải là hiếm. Và khó hiểu nhất là “đố kỵ Phạm hạnh”. Phạm hạnh có nghĩa là thực hành đạo đức, giới hạnh, tịnh hạnh, Thánh hạnh. Thì ra đố kỵ có mặt khắp nơi, trong môi trường tài sắc danh lợi thì có đố kỵ theo tài sắc danh lợi; trong môi trường tu học, thực hành đạo đức thì cũng có đố kỵ theo cách riêng. Nghĩa là, một người chuyên trau dồi đạo đức, thực hành giới hạnh trọn vẹn thanh tịnh, thay vì người này được tán thán, cung kính, lễ bái, cúng dường thì đôi khi lại trở thành đối tượng bị cô lập, bị gièm pha công kích, bị đố kỵ rằng “thấy vậy mà… không phải vậy”. Nói rõ ra, một người thành công về đạo đức, giới hạnh thì vẫn có thể bị đồng đạo vụng tu đố kỵ như thường.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Ta ở trong đây, không thấy một pháp nào mau đưa đến hoại diệt như là ganh ghét, đố kỵ Phạm hạnh. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy tu hành từ nhẫn, thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm12. Nhập đạo,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.140)

Thời Thế Tôn, sự đố kỵ Phạm hạnh đã xảy ra. Đơn giản vì, người có đạo đức và giới hạnh càng cao thì tứ chúng quy ngưỡng ngày càng nhiều, khiến người thiếu Phạm hạnh sút giảm tín đồ nên không vui, sinh tâm ghét ganh, đố kỵ. Theo Thế Tôn, đố kỵ có nhiều thứ bậc nhưng riêng đố kỵ Phạm hạnh rất nguy hiểm, khiến cho đạo pháp “mau đưa đến hoại diệt” nhất. Bởi lẽ, người có đạo tâm khi đối trước bậc Phạm hạnh luôn sinh tâm kính ngưỡng. Nếu xét đạo đức và giới hạnh của mình chưa bằng thì sinh tâm hổ thẹn, tự trách và răn mình cố gắng hơn. Ngược lại sinh tâm đố kỵ với bậc Phạm hạnh thì đạo tâm của mình đã hủ hóa, không chỉ riêng mình thối đọa mà đố kỵ còn khiến cho đạo tình bị sứt mẻ, đạo pháp bị tổn thương.

Thế nên, khi giác tỉnh nhận ra đố kỵ dấy khởi nơi tâm mình thì hãy nhanh chóng rải tâm từ để hóa giải. Từ là tâm yêu thương, mong cho mọi người đều tốt đẹp, an lành. Thấy rõ nguyên nhân vì sao người thành công, và vì cái gì mà ta chưa thành công? Nhờ thấy rõ mọi sự với tuệ tri cùng với vận dụng lời dạy “Hãy tu hành từ nhẫn” của Thế Tôn nên tâm đố kỵ được tưới tẩm yêu thương và nhanh chóng lắng dịu. Dặn lòng nhẫn nhịn, hãy khoan hoặc bớt đố kỵ. Mở lòng yêu thương, mong mọi người thành công từ trong suy nghĩ cho đến lời nói và việc làm. Được vậy thì tâm đố kỵ tan biến, bản thân mình an vui và mọi người cũng an vui.
Quảng Tánh

Chùa Đức Hậu – Tổ chức lễ cầu nguyện và tư vấn mùa thi cho các em học sinh cuối cấp các trường THCS, THPT

Chùa Đức Hậu – Tổ chức lễ cầu nguyện và tư vấn mùa thi cho các em học sinh cuối cấp các trường THCS, THPT

Đăng lúc: 21:29 - 31/05/2017

Tối ngày 28-5-2017, nhằm ngày 2/5/ÂL, tại chùa Đức Hậu – Nghi Đức – Tp Vinh đã diễn ra lễ cầu nguyện và tư vấn mùa thi cho các em học sinh cuối cấp các trường THCS, THPT trên địa bàn TP Vinh.
Quang lâm và chứng minh buổi lễ có: TT Thích Quảng Thiện, giảng viên trường Cao Cấp giảng Sư TW GHPGVN Thành phố HCM; Đại Đức Thích Định Tuệ trụ trì Chùa Phúc Thành, Chùa Đức Hậu kiêm trưởng ban tổ chức; Đại Đức Thích Minh Lâm, Đại Đức Thích Quảng Xuân trụ trì Chùa Đồng Tương; với Sự tham gia của Ông Nguyễn Văn Long, phó ban Tôn giáo thành phố Vinh và hàng ngàn Sĩ tử đồng về dự lễ tư vấn trong đêm 28/5/2017.




Vào buổi lễ chư Tôn đức và các Sĩ tử tụng kinh, lễ Phật cầu nguyện cho các kỳ thi được thành tựu viên mãn

Trong buổi lễ, Ông Nguyên Văn Long, Phó Ban Tôn giáo đã chia sẽ với các em những kinh nghiêm trong học tập và tinh thần ý chí vươn lên trong học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Qua đây, Ông cũng mong và chúc cho các Sĩ tử vững vàng làm bài thật tốt để đạt kết quả cao trong những kỳ thư sắp tới.

Sau thời khoá tụng kinh cầu nguyện mùa thi, TT Thích Quảng Thiện đã chia sẻ mục đích buổi lễ và trợ duyên, giúp các em trang bị thêm một số kỹ năng, kiến thức, giải đáp những thắc mắc trước khi bước vào mùa thi, tạo thêm lòng tự tin để đạt được kết quả cao nhất nhờ những kinh nghiệm trước trong và sau mùa thi cử, giải thích đã giúp các em có thêm sức mạnh tinh thần, thêm kỹ năng để học tập, ôn luyện và thi như thế nào để đạt kết quả cao nhất. Đồng thời còn giúp các em thỏa nguyện sở học, ước vọng của mình trong tương lai và ngay trong quá trình học thi. Thầy chúc các em thi tốt và đạt kết quả cao trong mùa thi năm nay.

Nói về mục đích của việc tổ chức buổi lễ và lớp ôn thi, thầy Đại đức Thích Định Tuệ cho biết: “Thứ nhất là nhà chùa xuất phát mong muốn góp phần làm cho các kì thi chất lượng tốt. Muốn thế, các em học sinh phải có kiến thức tốt, hiểu biết và tự tin bước vào kì thi và nhận được sự động viên từ gia đình và xã hội. Thứ hai là cứ đến gần mùa thi, tâm lý của các em học sinh thường vào chùa cầu nguyện với mong muốn nhận được sự may mắn và tốt đẹp trước khi thi nên nhà chùa tổ chức buổi lễ này, vì nó đáp ứng được yêu cầu về cả thực thể và tâm linh của các em. Hình thức này được tổ chức bắt đầu từ năm nay và sẽ tiếp tục nhân rộng trong tương lai”.
Buổi lễ đã thành tựu viên mãn trong sự hoan hỷ vô biên của những bậc phụ huynh học sinh và những em học sinh về tham dự lễ.


Sau đây là một số hình ảnh
:




Các em học sinh đang viết lời ước nguyện











































sau buổi lễ các Em lại được Chư Tôn Đức Tăng tặng quà ,hai cây viết và một chuổi hạt đeo tay









các em gủi lời ước nguyện của mình lên Tam Bảo















sau khi nhận Qùa các Sỹ Tử ra đánh 3 tiếng Chuông













Tác giả bài viết: Hồng Nga

Chùa Đức Hậu tổ chức Lễ khai Đàn Dược Sư; Cầu ATGT và khai Bút đầu Xuân

Chùa Đức Hậu tổ chức Lễ khai Đàn Dược Sư; Cầu ATGT và khai Bút đầu Xuân

Đăng lúc: 10:52 - 04/02/2017

Sáng ngày 3/2/2017 (7/1/Đinh Dậu), tại Chùa Đức Hậu - Nghi Đức, Tp Vinh, Nghệ An đã long trọng tổ chức lễ khai Đàn Dược Sư cầu cho Quốc thái dân an, và lễ khai bút đầu Xuân 2017. Cầu An toàn giao thông, do Đại Đức Thích Định Tuệ, Trụ trì Chùa Đức Hậu tổ chức, với sự chứng minh của Chư Tôn Đức Tăng trong tỉnh,và hàng nghìn Phật tử và người dân đã về tham dự.

Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ dâng hương tại Chùa Hương Tích - Hà Tĩnh

Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ dâng hương tại Chùa Hương Tích - Hà Tĩnh

Đăng lúc: 08:10 - 31/01/2017

Lễ chùa đầu Xuân để cầu tài cầu lộc, cầu may mắn bình yên, dường như là nét văn hóa tâm linh không thể thiếu của mỗi người dân Việt. Vì vậy, hằng năm mỗi độ xuân về Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ đã có truyền thống dâng hương cầu nguyện tại Chùa Hương Tích - Hà Tĩnh vào ngày mùng 3 Tết.

Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ "Hướng về Miền Trung, ủng hộ đồng bào lũ lụt"

Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ "Hướng về Miền Trung, ủng hộ đồng bào lũ lụt"

Đăng lúc: 21:28 - 02/11/2016

Sáng ngày 29/10/2016, hơn 500 người dân tập trung về chùa Vĩnh Phúc (Chùa Phúc Tự) thôn Phúc Tự xã Văn Hóa huyện Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình nhận quà từ thiện của phái đoàn Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ. Với gần 550 suất quà , mỗi suất trị giá 600.000đ gửi gắm tới những người dân bị lũ lụt nơi đây.

Buổi trao tặng quà đến người dân có sự hiện diện của Đại đức Thích Định Tuệ ,trụ trì Chùa Đức Hậu , Chùa Phúc Thành ,thành phố Vinh .Nghệ An kiêm trưởng đoàn từ thiện Hương Sen Xứ Nghệ; với sự tham gia của Đại đức Thích Minh Lâm; Đại đức Thích Quảng Văn; Đại đức Thích Quảng Xuân; Đại đức Thích Quảng Phước trụ trì chùa Vĩnh Phúc; đi cùng phái đoàn có Ông Nguyễn Văn Long, phó ban tôn giáo tỉnh Nghệ An; ông Lương Thanh Tấn-bí thư xã Văn Hóa; ông Đinh Xuân Phước-chủ tịch mặt trận xã Văn Hóa cùng các Phật Tử trong Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ



Đại Đức Thích Định Tuệ chia sẻ những suy nghĩ, tình cảm của mình đối với đồng bào nới đây: Chúng tôi nghe được tin bão đó rất xót xa khi nhìn những hình ảnh trên tivi, trên các mặt báo, thì chúng tôi rất xúc động . Bằng những tình cảm sâu sắc nhất của mình hướng về miền Trung và đặc biệt là về xã Văn Hóa này thì toàn Quý Thầy và các Phật Tử tỉnh Nghệ An , có một ít quà gửi tặng đến tất cả đồng bào . Được sự giới thiệu của xã Văn Hóa ,các vị có mặt sáng hôm nay, chúng tôi xin được, chia sẻ những thiệt hại mà cơn bão lũ vừa qua đã gây cho các vị, và mong rằng các vị sớm khắc phục được những thiệt hại đó, trở lại cuộc sống bình thường và xã của chúng ta ngày càng phát triển giàu đẹp hơn và trong dịp này, thay mặt các Quý Thầy, thay mặt các Quý phật Tử trong đoàn xin có lời cám ơn sâu sắc đến Đại Đức trụ trì đã tạo mọi điều kiện đồng thuận cho đoàn chúng tôi thực hiện được tâm nguyện của mình.
Thầy chúc bà con thật nhiều sức khỏe, sớm khắc phục được những thiệt hại do thiên tai bão lũ vừa qua đã gây ra cho đồng bào , và chúc đồng bào thật nhiều sức khỏe.



Người dân vui mừng nhận quà, cũng có người rưng rưng nước mắt chia sẻ: "Người dân nơi đây biết ơn những phái đoàn về đây cứu trợ, nhiều nhất là các phái đoàn của Phật giáo luôn quan tâm hỗ trợ tinh thần cũng như vật chất".



Tại xã Văn Hóa nơi được xem vùng rốn lũ trong đợt lũ vừa qua, nước lũ đã rút hết, còn lại nơi đây những con đường lấm đầy bùn đất, song đó những bụi tre làng được phủ đầy những lớp váng cặn rác trôi về. những vật dụng điện tử như tủ lạnh, tivi, quạt điện đều bị hư hỏng.
Được biết khi lũ tràn về, cả thôn xóm chìm ngập trong biển nước, người dân không kịp trở tay, thu dọn đồ đạc trong nhà. Nơi đây ngôi chùa Vĩnh Phúc (chùa Phúc Tự) ngập cổng tam quan, may mắn chùa nằm ở địa thế đồi cao, nên nước chỉ vào ở dưới bậc thềm chánh điện. Sau gần 2 ngày nước rút, người dân mới ổn định trở lại đời sống sinh hoạt thôn xóm .


Đoàn lại đến xã Thạch Hóa, và Đức Hóa , nơi đông là một vùng bị ngập sâu nhất và nghèo nhất. Gặp lại như người dân ở nơi này sau bão lụt chúng tôi thật khó cầm được nước mắt. Với tâm nguyện của Đại Đức Thích Định Tuệ mong muốn cho người dân nơi đây sau cơn lũ lụt được ổn định cuộc sống.Xoa dịu nỗi đau thiên tai " Một miếng khi đói, bằng một gói khi no" . Thầy cám ơn các Quý Phật Tử gần xa đã đóng góp cho chương trình Từ Thiện thành công tốt đẹp, mang lại ý nghĩa lợi lạc lớn cho đông đảo bà con vùng lũ tỉnh Quảng Bình. Chuyến đi đã thành công tốt đẹp và để lại niềm hân hoan của các nơi mà đoàn đã đến.

Sau đây là một số hình ảnh ghi nhận :























































Tác giả bài viết: Hồng Nga

Hơn 300 triệu đồng Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ

Hơn 300 triệu đồng Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ

Đăng lúc: 05:56 - 30/10/2016

Từ sáng sớm ngày 29/10/2016, hơn 500 người dân tập trung về chùa Vĩnh Phúc (Chùa Phúc Tự) thôn Phúc Tự xã Văn Hóa huyện Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình nhận quà từ thiện của phái đoàn Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ.




Video clip phái đoàn Hương Sen Xứ Nghệ tặng 550 phần quà tại Xã Văn Hóa.
Buổi trao tặng quà đến người dân có sự hiện diện của Đại đức Thích Định Tuệ trưởng đoàn Hương Sen Xứ Nghệ; Đại đức Thích Minh Lâm; Đại đức Thích Quảng Văn; Đại đức Thích Quảng Xuân; Đại đức Thích Quảng Phước trụ trì chùa Vĩnh Phúc; Ông Nguyễn Văn Long, phó ban tôn giáo tỉnh Nghệ An; ông Lương Thanh Tấn-bí thư xã Văn Hóa; ông Đinh Xuân Phước-chủ tịch mặt trận xã Văn Hóa cùng quý anh chị thành viên Hương sen xứ Nghệ.
Hơn 300 triệu đồng Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ
Đoàn đã trao 550 suất quà, mỗi phần quà trị giá 600 ngàn đồng, gồm gạo, 1 chăn ấm, và bao thư. Ảnh: Lan Anh
Người dân vui mừng nhận quà, cũng có người rưng rưng nước mắt chia sẻ: "Người dân nơi đây biết ơn những phái đoàn về đây cứu trợ, nhiều nhất là các phái đoàn của Phật giáo luôn quan tâm hỗ trợ tinh thần cũng như vật chất".
Tại xã Văn Hóa nơi được xem vùng rốn lũ trong đợt lũ vừa qua, nước lũ đã rút hết, còn lại nơi đây những con đường lấm đầy bùn đất, song đó những bụi tre làng được phủ đầy những lớp váng cặn rác trôi về. những vật dụng điện tử như tủ lạnh, tivi, quạt điện đều bị hư hỏng.

"Nhà tôi bị nước ngập gần 3m, cả gia đình phải leo lên tra (gác lúa) để trú ngụ, chúng tôi không biết nói gì ngoài những lời cảm ơn, nhận quà chúng tôi cảm kích những tấm lòng từ bi của quý nhà chùa, quý mạnh thường quân đã thương tưởng đến bà con sau cơn lũ đi qua". Chị Nguyễn Đào Sen (thôn Hà Thâu) nói.
Hơn 300 triệu đồng Hương Sen Xứ Nghệ ủng hộ vùng lũ
Toàn bộ số tiền 330 triệu đồng, phái đoàn Hương Sen Xứ Nghệ trao tận tay đến bà con vùng lũ miền Trung. Ảnh: Lan Anh
Được biết khi lũ tràn về, cả thôn xóm chìm ngập trong biển nước, người dân không kịp trở tay, thu dọn đồ đạc trong nhà. Nơi đây ngôi chùa Vĩnh Phúc (chùa Phúc Tự) ngập cổng tam quan, may mắn chùa nằm ở địa thế đồi cao, nên nước chỉ vào ở dưới bậc thềm chánh điện. Sau gần 2 ngày nước rút, người dân mới ổn định trở lại đời sống sinh hoạt thôn xóm .

Võ Tùng Am

Lời cầu nguyện trước những thảm họa thiên tai đang đến với nhân loại

Lời cầu nguyện trước những thảm họa thiên tai đang đến với nhân loại

Đăng lúc: 19:55 - 21/10/2016

Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi vừa qua, hàng loạt thiên tai bão lũ đã liên tục xảy ra trên hành tinh này, và gần đây nhất, ngay trong giờ phút này, cơn bão Sarika đang có nguy cơ đổ vào các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng. Và trong khi người dân miền Bắc Việt Nam còn đang gồng mình gánh chịu những tác hại do mưa lũ: nhiều người chết hoặc mất tích, hàng trăm ngàn ngôi nhà chìm sâu trong nước lũ, thì ngoài khơi xa đang tiếp tục hình thành cơn bão Haima, có nguy cơ tiếp tục đổ vào biển Đông rồi hướng về miền Bắc Việt Nam.


Bão lũ miền trung Việt Nam 2016
2 cụ già phải mang theo đồ đạc và vật nuôi trèo lên khu mái để tránh nước lũ. Ảnh: Facebook

Kính lạy Đức Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật, người đã khai mở trí tuệ chân thật để chúng con có thể nhìn thấy được những ý nghĩa sâu xa trong cuộc sống.
Kính lạy Mười phương Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, những người đã tu tập viên mãn Đại Từ Đại Bi, luôn cảm thông, chia sẻ và cứu vớt mọi khổ đau của muôn loài chúng sinh.

Tin sâu vào nhân quả, chúng con biết chắc rằng những thiên tai lũ lụt không tự nhiên xảy ra hoặc do sự trừng phạt từ một thế lực siêu nhiên nào, mà chính là những kết quả của hết thảy những hành vi ứng xử không chân chánh của con người, bị thúc đẩy từ những tâm niệm tham lam, sân hận, si mê, đố kỵ, ganh ghét lẫn nhau...

Chúng con hôm nay, những người đang gánh chịu hậu quả của thiên tai cũng như những người còn chút may mắn không phải sống trong vùng bão lũ, xin chân thành sám hối về mọi hành vi bất thiện đã qua của mình, và nguyện đem hết thảy mọi công đức có được từ những việc hiền thiện đã làm, đang làm và sẽ làm, hồi hướng tất cả về cho lời cầu nguyện chân thành như sau đây:

Nguyện cho tất cả những nạn nhân trong vùng bão lũ khi đối mặt với khổ đau đều nhận ra những bản chất khổ, vô thường và vô ngã của đời sống, từ đó liền phát tâm Bồ-đề, từ bỏ mọi tâm niệm, hành vi xấu ác, phát nguyện tu tập mọi thiện hạnh, nhờ vậy có thể chuyển hóa mọi ác nghiệp, khiến cho tai ương này được tức thời giảm nhẹ cho đến mất hẳn đi.
Bão đến Việt Nam
Bão đến Việt Nam
Nguyện cho tất cả những ai dù hiện tại không sống trong vùng thiên tai, nhưng khi nhìn thấy bao khổ đau của các nạn nhân bão lũ, cũng đều nhận ra những bản chất khổ, vô thường và vô ngã của đời sống, từ đó liền phát tâm Bồ-đề, cảm thông và chia sẻ nỗi đau với các nạn nhân bằng mọi hành vi giúp đỡ có thể được, đồng thời phát nguyện từ bỏ mọi tâm niệm, hành vi xấu ác, tạo mọi nhân lành để chấm dứt khổ đau, hướng đến giác ngộ.

Cuối cùng, do ý thức được trách nhiệm của chính mình trong cộng nghiệp khổ đau của dân tộc cũng như của toàn nhân loại, chúng con hôm nay nguyện tu dưỡng tự thân mình, dứt trừ hết thảy những ý nghĩ, lời nói và hành vi xuất phát từ các tâm niệm tham lam, sân hận, si mê... Nguyện trải lòng yêu thương tất cả muôn loài để xoa dịu mọi khổ đau do chính chúng con đã tạo ra trước đây do thiếu sự tu tập tỉnh giác.

Lời kêu gọi:
Mọi nỗi khổ đau đều sinh khởi từ những nguyên nhân bất thiện. Chúng tôi tha thiết kêu gọi mỗi người Phật tử với niềm tin sâu vào nhân quả, hãy chân thành cầu nguyện và phát nguyện như trên để làm thay đổi mọi nguyên nhân bất thiện ngay chính trong tự thân mình, cũng như để khơi dậy sự thương yêu, cảm thông và chia sẻ, từ đó sẽ nỗ lực hết sức mình bằng những hành vi đóng góp cụ thể giúp giảm nhẹ khổ đau cho những nạn nhân trong vùng bão lũ.

Biết mình để sống đúng

Biết mình để sống đúng

Đăng lúc: 19:41 - 17/10/2016

Lời Phật không dễ nghe – tôi hiểu điều này và trân quý hết thảy những gì mình may mắn được biết và Phật pháp trong hành trình nhận thức tìm cầu gian nan. Sống càng nhiều, xem đi xem lại trước tác nổi tiếng của nhà văn Ngô Thời Ân bản in sách hay kịch bản phim tôi càng thấm thái hành trình gian khó của Thầy trò Đường tăng lồng bên trong tính hiện thực cao; cầu Đạo và đạt Đạo là chuyện không hề giản đơn. Cuộc đời và sự nghiệp tư tưởng của Đức Chí Tôn là minh chứng vĩ đại nhất.


Biết mình là ngộ
Nhà quân sự lớn của Trung Hoa, Tôn Tử, đã có đúc kết sâu sắc “biết mình biết người trăm trận trăm thắng”, đó là một chân lý chẳng riêng gì với quân sự - chính trị.

Sự biết mình biết người trong Phật giáo không trùng khít với cách đặt vấn đề của Tôn Tử. Biết người thì đã rõ: đối tượng nhận thức từ thiên nhiên đến xã hội trong mọi chiều không gian – thời gian là vô cùng to lớn, dù vậc vĩ nhân xuất chúng hay khoa học gia thông thái nhất cũng thừa nhận đối tượng nhận thức ấy là khôn cùng và khiêm cung thừa nhận sự hữu hạn của nhận thức cá nhân. Ngày nay chúng ta thấy bao nhiêu trung tâm nghiên cứu trên khắp thế giới, bao nhiêu nhà khoa học miệt mài ngày đêm vắt óc tiếp cận các đối tượng nhận thức song công việc không hề vơi, cái mới cái chưa biết luôn tít tắp ở phía trước. Đấy là nói đến nội hàm “biết người” – vật ngoài thân.

Biết mình- một sinh linh nhỏ bé như hạt cát trên sa mạc nhưng lại không hề dễ hơn chuyện biết vạn vật bên ngoài. Thân tâm ta vô thường vận động mải miết trong từng sát na, biến hiện vô chừng thách thức của chính ta và tất nhiên- mọi người có quan tâm đến ta. Một bạn là hành giả trên đường học Phật đã viết rất hay: biết người là khôn, biết mình là ngộ. “Ngộ” là biệt ngữ nhà Phật chỉ sự thấu suốt rốt ráo hoàn toàn và viên mãn về nhận thức, vượt lên khái niệm biết thông thường. Nhưng muốn “ngộ” đâu có dễ, mấy ai dám vỗ ngực xưng tên: tôi ngộ rồi? Khó lắm.

Đọc lịch sử và theo dõi thời sự ai không căm giận và bức bối khi những tên tội phạm thâm ác nhất, dã man nhất đã cãi chày cãi chối đến cùng tại các phiên tòa cho dù tội rõ mười mươi. Người ta có thể đặt câu hỏi: họ không nhận thức được tội hay .... Số tội phạm tự thú và nhaanh chóng nhận tội, sám hối cũng có nhưng không nhiều, số chạy trốn tội vẫn chiếm số đông khiến các nhà điều tra và luật sư- báo chí luôn có nhiều việc để làm, thực té cho thấy có không ít tội phạm không thừa nhận hành vi họ là tội, có khi cho đến lúc chấm dứt sự sống ở cọc bắn! Đấy là ván đề đáng để các nhà tội phạm học và tâm, lý học nghiên cứu sâu.

Phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh Đức quốc xã diễn ra không dễ dàng, và gần đấy quốc tế cũng mệt mỏi với nỗ lực kết tội diệt chủng rõ mười mươi và kinh tởm khi tập đoàn Pol- Pot pở CPC không thừa nhận chúng có tội với hàng triệu nhan mạng đồng bào mình. Đấy, đâu có giản đơn, nói gì chuyện trộm cắp vặt hay giết ..vài mạng người! Có lẽ vì điều đó, tính chất ấy, mà nhân loại vẫn duy trì bàn tay sắt với các nhà tù và công cụ cảnh sát hùng mạnh để cưỡng bức các hành vi xâm phạm luật pháp và đạo đức khi mà ý thức đạo đức tự giác gian nan tồn tại ở thế gian này.

Biết người- biết vật ngoài thân, hãy cố gắng học tập và suy nghĩ nhiều; biết mình hãy tự quán chiếu tự thân tâm ta và chiêm nghiệm trong từng sát na sự sống quý báo. Người ta- để điều khiển phuwong tiện đơn giản là xe gắn máy phải học và thi mới điều khiển được, nhưng để sống một cách có hiểu biết, có khi nào chúng ta quên học để hiểu chính mình hay không? Phật giáo giúp bạn làm việc đó rất tốt: tu học để ngộ. ..và đấy là đóng góp vĩ đại của tôn giáo này cho nhân loại ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi..


Thành Công

Nghiệp hay định luật đạo đức nhân quả

Nghiệp hay định luật đạo đức nhân quả

Đăng lúc: 22:31 - 09/10/2016

Đức Phật trả lời vắn tắt: “Mỗi chúng sinh đều có nghiệp, nghiệp là sở hữu, là di sản, là nguyên nhân, là thân quyến, là chỗ nương tựa của nó. Nghiệp phân loại tất cả chúng sinh thành những tình trạng cao thấp.”


Nghiệp hay định luật đạo đức nhân quả
Chúng ta đang đương đầu với một thế giới hoàn toàn mất thăng bằng. Chúng ta nhận thấy sự bất bình đẳng giữa số phận đa dạng của loài người và nhiều tầng lớp chúng sinh đang có mặt trong vũ trụ.
Chúng ta thấy người này sinh ra trong một hoàn cảnh giàu sang, bẩm thụ những đức tính tâm lý đạo đức và thể chất tốt đẹp, còn người khác trong một cảnh ngộ nghèo nàn và khốn khổ.

Có người đạo đức và thánh thiện, nhưng trái với sự mong đợi của y, y luôn luôn gặp phải những nỗi bất hạnh. Cuộc đời tàn nhẫn đi ngược hẳn với những kỳ vọng và ước nguyện của y. Mặc dù nếp sống của y chân thành và đầy đạo hạnh, y vẫn phải chịu nghèo khó khốn cùng. Kẻ khác đầy tội lỗi và ngu si, nhưng lại được số phận nuông chiều, được hưởng đủ mọi thứ ân huệ, dù tính tình đầy khuyết điểm lỗi lầm và những cách sống bất thiện, tà hạnh.

Chúng ta có thể hỏi, tại sao lại có người thấp kẻ cao? Tại sao người này bị giật khỏi đôi bàn tay mẹ hiền khi mới vừa chớm thấy một vài mùa hạ, còn người khác chết lúc hoa niên, hoặc vào lúc tuổi già 80 hay 100? Tại sao người này phải chịu đau yếu và tàn tật, còn người khác lại được khỏe mạnh và tráng kiện? Tại sao người này đẹp đẽ, còn người kia thì xấu xí dị hợm, bị mọi người ruồng rẫy? Tại sao người này được nuôi dưỡng trong cảnh xa hoa, còn người kia thì nghèo mạt, và chìm ngập trong nỗi khổ đau?

Tại sao người này sinh ra đã là một triệu phú, còn người kia lại là một kẻ cùng đinh? Tại sao người này là một bậc trí tuệ, còn người kia là kẻ ngu đần? Tại sao người này bẩm sinh có những đức tính thánh thiện, còn người kia lại có những khuynh hướng phạm tội? Tại sao một số người đã thành những nhà ngữ học, toán học, nghệ sĩ, nhạc sĩ ngay từ lúc còn nằm trên nôi, còn một số người khác mới sinh ra đã bị mù, điếc và tàn tật? Tại sao một số người sinh ra được may mắn hạnh phúc, còn những người khác lại chịu bất hạnh rủi ro từ lúc mới chào đời?

Đấy là một số vấn đề thường gây hoang mang trong trí óc của mọi người có suy tư. Chúng ta phải giải thích như thế nào về sự mất thăng bằng của thế giới và sự bất bình đẳng của nhân loại như vậy? Phải chăng đó là do tác động của số phận rủi may hay chỉ là chuyện tình cờ?

Không có một việc gì trong thế giới này xảy ra do sự rủi may vô tình hay bất ngờ cả. Nếu cho rằng bất cứ điều gì xảy ra đều do may rủi, thì không khác gì bảo rằng cuốn sách này tự nó đến đây. Nói đúng ra, không có bất cứ điều gì xảy ra cho con người mà không dính dáng vì lý do này hay lý do khác.

Phải chăng việc này là mệnh lệnh hay quyền lực của một đấng hóa công vô trách nhiệm?

Husley viết: “Nếu chúng ta phải giả định rằng ai đó đã cố ý làm chuyển động thế giới kỳ diệu này thì tôi thấy rõ ràng là vị ấy không toàn thiện, chí công vô tư, theo đúng bất cứ ý nghĩa nào có thể chấp nhận được của các từ này, trái lại vị đó thực là độc ác, bất công”.

Theo Einstein (1879-1955)[1] thì: “Nếu đấng Thượng đế này toàn năng, thì tất cả những gì xảy ra, bao gồm cả hành động, tư tưởng, tình cảm và khát vọng của con người cũng đều là công trình của Ngài, tại sao lại bắt mọi người phải chịu trách nhiệm về những hành vi, tư tưởng của họ trước một đấng toàn năng như thế? Trong khi ban phát những sự trừng phạt và tưởng thưởng, đồng thời Ngài phải xét xử chính mình theo một mức độ nào đó. Điều này làm sao có thể phù hợp được với đức chí thiện và công chính thường gán cho Ngài?

Theo những nguyên lý thường học thì con người được tạo ra một cách vũ đoán trái với ý muốn của mình và ngay từ lúc mới sinh, hoặc là kẻ đó được hưởng phước, hoặc là bị đày đọa vĩnh viễn. Vì thế, con người hoặc là thiện, hoặc là ác, may mắn hoặc bất hạnh, cao thượng hoặc thấp hèn, ngay từ bước đầu trong quá trình sáng tạo thể chất của nó cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, bất kể đến những ý muốn cá nhân, những ước nguyện, kỳ vọng, sự phấn đấu hoặc là những lời cầu xin thành kính của nó. Đó chính là thuyết định mệnh của thần học.” (Spencer Lewis)[2]

Charles Bradlaugh (1833-1891)[3] nói: “Sự có mặt của điều ác là khối chướng ngại khủng khiếp cho nhà thần học. Đau thương, thống khổ, tội ác, bần cùng vẫn đối mặt với người bênh vực cái thiện vĩnh cửu và thách thức mãnh liệt mà không thể giải đáp trước lời tuyên bố của vị ấy về Thượng đế như là một đấng toàn thiện, toàn trí và toàn năng.”

Theo lời Schopenhauer: “Kẻ nào tự cho mình đã hình thành từ cái “không” thì cũng phải nghĩ rằng y lại trở về với cái “không”; bởi vì có một khoảng thời gian vô tận đã trôi qua trước khi y hiện hữu, rồi một khoảng thời gian vô tận khác lại bắt đầu, qua đó y không bao giờ ngừng hiện hữu, đó là thứ tư tưởng quái gở.

“Nếu sinh là khởi điểm tuyệt đối, thì chết phải là chung cục tuyệt đối và giả định rằng con người được tạo ra từ cái “không”, tất nhiên dẫn đến giả thuyết: “Cái chết là kết thúc hoàn toàn.”

Bình luận về nỗi đau khổ của con người và Thượng đế, giáo sư F.B. Haldane[4] viết: “Có hai giả thuyết: Hoặc khổ đau là điều kiện cần thiết để hoàn thiện nhân cách, hoặc Thượng Đế không phải là đấng toàn năng. Giả thuyết trước bị bác bỏ vì thực tế có một số người ít chịu khổ đau, nhưng lại được may mắn về dòng dõi gia tộc và đường học vấn, nên có được những đức tính rất tốt đẹp. Lý lẽ phản đối giả thuyết thứ hai là chỉ khi nào nói đến vũ trụ như một thể đồng nhất, thì mới có một kẽ hở nào đó trong tri thức cần phải được lấp đầy bằng giả thuyết có một Thượng đế, và một đấng Tạo hóa để có thể làm những gì vị ấy muốn.”

Huân tước Russell (1872-1970) nhận định: “Người ta bảo rằng thế giới do một đấng Thượng đế toàn thiện, toàn năng sáng tạo. Trước khi sáng tạo Ngài đã thấy trước tất cả những đau thương, thống khổ mà thế giới ấy phải chịu đựng. Do thế, Ngài phải chịu trách nhiệm đối với tất cả những thứ đó. Cứ lý luận rằng những đau khổ trong thế giới là do tội lỗi thì thật là hoài công… Nếu Thượng đế biết trước những tội lỗi mà con người sẽ phạm thì cố nhiên Ngài phải chịu trách nhiệm về tất cả những hậu quả của tội lỗi ấy khi Ngài quyết định sáng tạo con người.”

Trong bài thơ “Tuyệt vọng” làm ra vào lúc tuổi già của mình, Nam tước Tennyson[5] đã mạnh bạo công kích Thượng đế về lời phán của Ngài như đã được ghi trong Thánh kinh Isaiah: “Ta làm nên hòa bình và tạo ra tội ác” (Isaiah XIV.7):

“Tôi phải gọi cái tình yêu vô biên đã phụng sự chúng ta thật chu đáo đó là gì?

Đúng hơn là lòng độc ác vô biên đã tạo ra địa ngục bất tận.

Đã tạo ra chúng ta, đã dự liệu số phận chúng ta, đã đày đọa chúng ta trước và còn làm tất cả cái chỉ theo ý muốn của mình.

Hơn nữa, bà mẹ tàn nhẫn đã chết của chúng ta, bà chưa bao giờ nghe chúng ta rên xiết?

Chắc chắn “Giáo lý chủ trương tất cả loài người đều là những kẻ có tội tổ tông Adam, là một lời thách thức đối với công lý, từ bi, nhân ái và công bằng tuyệt đối.”

Một số văn sĩ ngày xưa tuyên bố một cách quả quyết rằng Thượng đế đã tạo ra con người theo hình ảnh của Ngài. Trái lại, một số nhà tư tưởng hiện đại thì cho rằng con người tạo ra Thượng Đế theo hình ảnh của mình. Với sự tiến bộ của văn minh, quan niệm của con người về Thượng đế cũng ngày càng trở nên tinh vi hơn.

Tuy nhiên, chúng ta không thể quan niệm có một đấng Hữu thể như vậy, hoặc là ở trong hoặc là ở ngoài vũ trụ. Phải chăng sự sai khác này là do di truyền và hoàn cảnh? Chúng ta phải thừa nhận rằng tất cả những hiện tượng vật lý hóa học do các nhà khoa học phát minh là có phần nào hữu ích, nhưng chúng không thể hoàn toàn chịu trách nhiệm về những phân biệt tế nhị và những khác nhau rộng lớn giữa các cá nhân. Còn nữa, tại sao hai đứa trẻ sinh đôi cùng giống nhau về sinh lý, được truyền thụ những di tố như nhau, cùng hưởng quyền nuôi dưỡng giống nhau, lại thường rất khác nhau về tính tình, đạo đức và tri thức?

Chỉ riêng tính di truyền thôi không thể giải thích được những dị biệt lớn như vậy, đúng ra, nó chỉ giải thích một cách có vẻ hợp lý những sự giống nhau. Một mầm sống sinh hóa cực kỳ vi tế chừng một phần 30 triệu phân được thừa hưởng từ cha mẹ, chỉ có thể giải thích một phần của con người về cơ bản sinh lý của nó. Đối với tâm lý phức tạp và tế nhị hơn, những khác biệt về tri thức đạo đức, cần phải được làm sáng tỏ hơn nữa. Thuyết di truyền không thể giải thích thỏa đáng sự ra đời của một kẻ tội phạm trong một dòng dõi tổ tiên nhiều đời cao quí, sự xuất hiện một bậc Thánh hoặc một người cao thượng trong gia đình nổi tiếng bất lương, sự xuất hiện của những thần đồng, những bậc thiên tài và những đấng giáo chủ vĩ đại.

Theo Phật giáo, sự sai biệt này không chỉ do di truyền, hoàn cảnh, bẩm sinh và dưỡng dục, mà còn do nghiệp của chính chúng ta, nói cách khác, do kết quả của những hành động quá khứ được thừa hưởng, và những hành vi hiện tại của chúng ta. Chính chúng ta phải chịu trách nhiệm về những hành động của chúng ta về hạnh phúc và đau khổ. Chúng ta xây nên địa ngục của chúng ta. Chúng ta là kiến trúc sư của số phận chúng ta. Tóm lại, chúng ta chính là nghiệp (Kamma) của chúng ta.

Một dịp nọ, có một thanh niên tên Subha đến gần đức Phật và hỏi Ngài tại sao và do đâu trong loài người có những trình độ thấp hèn và cao sang khác nhau. Y nói: “Vì sao tôi thấy trong loài người có kẻ đoản mạng, người trường thọ, kẻ khỏe mạnh, người ốm đau, kẻ xinh đẹp, người xấu tướng, kẻ uy quyền, người cô thế, kẻ nghèo nàn, người giàu có, kẻ hạ lưu, người quí tộc, kẻ ngu dốt, người thông minh?”

Đức Phật trả lời vắn tắt: “Mỗi chúng sinh đều có nghiệp, nghiệp là sở hữu, là di sản, là nguyên nhân, là thân quyến, là chỗ nương tựa của nó. Nghiệp phân loại tất cả chúng sinh thành những tình trạng cao thấp.” Rồi Ngài giải thích rằng nguyên nhân những sai biệt như thế là do định luật luân lý nhân quả. Như vậy, theo quan điểm của đạo Phật, sự khác nhau về tâm lý, tri thức, đạo đức và tính tình hiện tại giữa chúng ta, là chính những hành động và những xu hướng của chúng ta, gồm cả quá khứ và hiện tại. Nghiệp nghĩa đen là hành động, nhưng theo nghĩa rốt ráo, nó là những tâm sở thiện và ác (Kusala Akusala cetana). Nghiệp tạo nên cả thiện và ác. Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác; đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Đó là định luật của nghiệp.

Một số người Tây phương thích nói đến nghiệp như là “hành động gây hậu quả.” Chúng ta gặt những gì chúng ta đã gieo. Những gì chúng ta đã gieo, chúng ta sẽ gặt vào một lúc nào đó, tại một nơi nào đó. Theo một nghĩa khác, chúng ta là kết quả của những gì chúng ta đã làm, và chúng ta là kết quả của những gì chúng ta đang làm và chúng ta cũng không tuyệt đối sẽ là kết quả của những gì chúng ta đang làm. Ví dụ, một kẻ tội phạm hôm nay, ngày mai có thể là một vị thánh.

Phật giáo gán sự thay đổi này cho nghiệp, nhưng không khẳng định tất cả đều do nghiệp. Nếu tất cả đều do nghiệp thì một người phải mãi mãi xấu, vì nghiệp của y xấu. Thế thì người ta không cần hỏi ý kiến y sĩ để được chữa bệnh, vì nếu nghiệp của y là như thế, thì y sẽ tự chữa lấy.

Theo Phật giáo, có năm cấp độ hay quá trình tác động trong lãnh vực sinh lý và tâm lý:

1. Cấp hành động và kết quả (Kamma Niyàma), ví dụ những hành vi thiện ác tạo ra những kết quả thiện ác tương xứng.

2. Cấp vật lý vô cơ (Utu Niyàma), ví dụ hiện tượng thời tiết gió mưa.

3. Cấp chủng tử hay mầm mống (Bìja Niyàma) (hữu cơ), ví dụ gạo từ hạt thóc sinh ra, vị ngọt từ cây mía hay mật tạo ra v.v… thuyết khoa học về tế bào, chủng tử và sự giống nhau về sinh lý của hai đứa trẻ sinh đôi có thể quy về cấp này.

4. Cấp tâm thức hay định luật tâm thần (Citta Niyàma), ví dụ quá trình của ý thức, năng lực của tâm v.v...

5. Cấp quy luật tự nhiên (Dhamma Niyàma), ví dụ hiện tượng tự nhiên xảy ra vào lúc một vị Bồ Tát xuất hiện trong kiếp cuối cùng, dẫn lực v.v...

Tất cả mọi hiện tượng tâm lý hay vật lý đều có thể giải thích bằng 5 cấp độ hay năm quá trình này, đó chính là những định luật. Do đó, nghiệp chỉ là một trong 5 cấp độ thường xảy ra khắp trong vũ trụ. Đó chính là định luật tự nhiên, chứ không phải có người ban ra luật. Thông thường những định luật thiên nhiên như trọng luật không cần có người ban ra. Định luật này tác động trong lãnh vực của nó, không do một động cơ độc lập ngoại tại nào can thiệp.

Ví dụ, không ai ban luật lửa phải cháy. Không ai ra lệnh nước phải tìm đúng mức thăng bằng.

Không có nhà khoa học nào ra lệnh nước phải là H2O và khí lạnh phải là một trong những đặc tính của nước. Đó là những tính chất riêng của chúng. Nghiệp không phải là số phận, cũng không phải là định mệnh đặt vào chúng ta bằng một quyền lực thần bí không thể biết, khiến chúng ta phải phục tùng. Vì nó chính là hành động của chính mình tác động lại chính mình và do đó, người ta có thể đổi chiều hướng đường đi của nghiệp đến một mức độ nào đó. Việc người ta đổi chiều đến mức độ nào còn tùy thuộc vào chính bản thân họ.

Cũng cần phải nói rằng các từ ngữ như thưởng phạt không được đưa vào trong những lúc bàn đến vấn đề nghiệp. Vì đạo Phật không thừa nhận một Thượng đế toàn năng cai trị thần dân của Ngài để thưởng phạt tùy tiện. Trái lại, người phật tử tin rằng những khổ vui mà chúng ta cảm nhận đều tự nhiên phát xuất từ những hành vi thiện ác của chính mình. Cần phải nhận định rằng nghiệp bao gồm cả nguyên lý tiếp diễn và đáp ứng.

Khả năng sinh ra kết quả của nghiệp, có sẵn trong nghiệp. Nguyên nhân sinh ra kết quả; kết quả giải thích nguyên nhân. Hạt sinh ra quả; quả giải thích hạt, vì chúng có quan hệ hỗ tương. Cũng thế, nghiệp và kết quả của nghiệp hỗ tương quan hệ: “quả chớm nở từ trong nhân.”

Một Phật tử hoàn toàn tin tưởng vào thuyết nghiệp báo thì không cầu người khác cứu giúp mà chỉ vững lòng trông cậy vào chính mình để tự thanh tịnh hóa, vì thuyết nghiệp dạy trách nhiệm thuộc về cá nhân. Chính thuyết nghiệp báo này đem đến cho người ấy sự an ủi, niềm hy vọng, lòng tự tin và sức mạnh tinh thần. Chính lòng tin vào nghiệp này “xác định giá trị nỗ lực của người ấy, kích thích lòng hăng hái của người ấy”, làm cho người ấy luôn luôn từ bi, bao dung và quan tâm đến kẻ khác. Cũng chính lòng tin vào nghiệp này thúc đẩy người ấy tránh điều ác, làm việc thiện và trở nên thiện không vì lo sợ một hình phạt nào hay do một phần thưởng nào cám dỗ.

Chính thuyết nghiệp này có khả năng giải thích được vấn đề đau khổ, điều bí ẩn của cái gọi là định mệnh hay là tiền định của các Tôn giáo khác, đặc biệt là sự bất bình đẳng của nhân loại.
Thuyết nghiệp báo và tái sinh phải được thừa nhận như là điều hiển nhiên.

Thích Phước Sơn
[1]. Einstein (1879-1955): Nhà vật lý học người Đức, gốc Do Thái, sáng lập thuyết tương đối (theories of relativity), đoạt giải Nobel vật lý năm 1921.
[2]. Spencer (1830-1903): Triết gia người Anh, ông áp dụng khoa học tự nhiên và tâm lý học để trình bày triết học.
[3]. Bradlaugh (1833-1891): Nhà cải cách xã hội người Anh, tranh đấu cho phụ nữ.
[4]. Haldane (John Bardon Sanderson Haldane,?-1892): Nhà khoa học Anh rất nổi tiếng về phương pháp áp dụng toán học vào sinh vật học.
[5]. Lord Tennyson (1802-1892): Thi sĩ người Anh, từng đoạt giải thưởng. Ông đả kích Thượng đế và bảo rằng: “Tôi tạo ra việc thiện cũng như việc ác”.

Nghiệp và tái sinh

Nghiệp và tái sinh

Đăng lúc: 19:01 - 27/09/2016

Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên phần đông thường không màng chi đến điều đó, mà thản nhiên nói về nghiệp “của tôi”, sự tái sinh “của tôi”. Nhất là sự tái sinh “của tôi”, thật vô cùng kỳ quặc. Họ muốn nói về kiếp trước hay kiếp tương lai? Bạn có nghĩ nó sẽ lại là “tôi” nữa không?

Thật ra, ta không có nhiều lựa chọn khi sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, tuy nhiên điều nói ra cũng phát xuất từ quá trình tư duy của ta.

Người ta thường hỏi, nếu không phải là “tôi” thì cái gì đã tái sinh? Nghiệp như những hệ quả còn sót lại trong tâm thức tái sinh đã được sinh trở lại, nhưng chắc chắn là nó không có dáng hình hay hành động giống như người mà ta biết, không cùng tên, có thể không cùng giới tính, có thể không phải là người. Nó không có liên hệ gì khác hơn là nghiệp. Vì ta có thể thấy rõ ràng rằng con người tái sinh chỉ kết nối với kiếp sống trước qua nghiệp trong thức tái sinh, ta cũng có thể thấy rõ ràng như thế rằng nghiệp là vô ngã, không có danh tánh. Khi ta nói về nghiệp “của tôi”, đó thực sự là một chu trình không có tự tánh. Nghiệp không phải là tội và hình phạt, dầu nó có vẻ là như thế, và là quan niệm được nhận định rộng rãi. Nhiều quan điểm mà chúng ta bám chặt vào đã ăn sâu vào tâm thức đến nỗi rất khó để ta chấp nhận điều gì quá khác biệt.

Thực sự ra nghiệp chỉ có nghĩa là hành động. Vào thời Đức Phật còn tại thế, ở Ấn Độ người ta đã hiểu như thế. Để thức tỉnh người nghe về nghiệp thực sự là gì, Đức Phật đã nói: “Nghiệp, này các Tỳ-kheo, Ta bảo là sự chủ tâm”. Đầu tiên nghiệp phát khởi trong tâm, rồi chuyển ra thành lời, thành hành động. Đức Phật đã cho nghiệp một định nghĩa mới, vì nó thường bị hiểu lầm, bị coi đó là tiền định.

Có nhiều vị thầy vào thời Đức Phật cũng đã dạy như thế, nhưng Đức Phật bác bỏ điều này, xem đó là tà kiến, là quan điểm sai lầm, dễ đưa đến các quả bất thiện. Tuy nhiên, quan điểm xem nghiệp như là tiền định vẫn còn phổ biến vào thời này cũng như ở thời Đức Phật còn tại thế. Nó thường được phát biểu như sau: “Đó là nghiệp của tôi. Tôi không thể làm được gì”. Đó là niềm tin dại khờ nhất mà ta có thể chấp vào, vì ta đã đặt trọng trách của việc chủ tâm vào điều mơ hồ nào đó mà ta cũng chẳng rõ. Nói cách khác, ta không muốn chịu trách nhiệm cho hành động của chính mình, là điều sai lầm thường xảy ra.

Khó gặp được người có trách nhiệm hơn là vô trách nhiệm. Phần đông nếu không thành công trong cuộc đời, họ không muốn chịu trách nhiệm cho việc đó. Từ sự bất hạnh của mình, họ đã nảy sinh ý nghĩ về một số phận đã được định sẵn. “Tôi có thể làm gì được chứ? Đâu phải lỗi tại tôi, là do nghiệp của tôi mà ra”. Vậy những gì công phu tu tập có thể mang đến đều vô nghĩa? Đức Phật đã nói: “Nếu đúng là như thế, thì đâu cần sống có giới hạnh, cũng không cần phải được giác ngộ”. Đó là tà kiến mà ta trước hết phải nhanh chóng gạt bỏ ra khỏi sự suy nghĩ của mình, nếu ta muốn trau dồi đời sống tâm linh.

Nghiệp là chủ tâm, và sự chủ tâm là ở hiện tại, có nghĩa là nghiệp đang được tạo ra ngay bây giờ, trong từng giây phút tỉnh thức của ta. Tuy nhiên khi hai người thực hiện cùng một hành động, quả của hành động của họ có thể không giống nhau. Đây là điều Đức Phật đã nhấn mạnh. Vì nghiệp không thuộc tự ngã, nên nó chỉ tùy thuộc vào dòng chảy của các sự kiện, và chính chúng tự tạo ra quả nghiệp. Đó là vấn đề của nhân và quả. Tất cả chỉ có vậy, do đó đôi khi giáo lý của Đức Phật được gọi là giáo lý về nhân quả.

Đôi khi ta biết những người rất hiền từ, đến một con ruồi họ cũng không nỡ làm hại, vậy mà họ toàn gặp những bất hạnh. Trong khi có những người rất khó thương, nhưng mọi điều may mắn đều xảy ra cho họ. Sao lại có thể như thế? Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào sự tích lũy các nghiệp tốt hay xấu, giờ chúng trổ quả trong tâm tục sinh của họ. Đức Phật đã đưa ra một ẩn dụ như sau: “Nếu ta bỏ một muỗng muối vào ly nước, thì ly nước đó không còn uống được nữa. Nhưng nếu ta bỏ muỗng muối đó xuống sông Hằng thì nước sông chẳng có gì thay đổi”. Do đó nếu ta tạo nhiều nghiệp xấu mà chỉ có một ly nghiệp tốt; kết quả sẽ thảm hại biết bao. Nhưng nếu ta có cả sông nghiệp tốt để hỗ trợ bản thân, thì quả xấu sẽ chẳng lớn lao gì. Vì thế ta không thể so sánh nghiệp quả của con người với nhau vì ta không biết về quá khứ của họ.

Tâm thức tích lũy, tương tục mà ta mang theo từ kiếp này sang kiếp khác chắc chắn có ảnh hưởng đến kiếp sống này, nhất là nơi chốn ta sinh ra, trong hoàn cảnh nào, trong gia đình nào. Đức Phật đã cho ta một ẩn dụ như sau: “Nếu có một đàn bò bị nhốt trong chuồng, khi cửa chuồng mở ra, con mạnh nhất sẽ ra trước. Nếu không có con bò nào như thế, thì con đầu đàn sẽ ra trước; nếu không có con nào như thế thì con gần cửa nhất sẽ ra trước. Nếu không có con nào như thế, thì tất cả sẽ cố chen ra cửa cùng một lúc”. Ẩn dụ này mô tả những giây phút cuối của tâm thức trước khi chết. Vì cái chết có thể xảy ra cho bất cứ ai không kể tuổi tác, cho nên việc chuẩn bị cho cái chết ngay bây giờ là một điều khôn ngoan.

Ý nghĩ sau cùng lúc hấp hối sẽ ảnh hưởng đến thức tái sinh để đưa ta đến nơi ta sẽ tái sinh. Ta có thể so sánh điều đó với việc trước khi đi ngủ, ta nghĩ là sẽ thức dậy lúc bốn giờ sáng hôm sau. Phần đông chúng ta có thể dễ dàng thức đúng như thế. Và ý nghĩ cuối cùng trước khi ngủ trở thành ý nghĩ đầu tiên khi thức dậy. Khi chết cũng giống như thế, chỉ khác là khi tái sinh ta sẽ có một thân mới, khác với thân hiện tại. Phần đông sẽ tái sinh với thân người, trừ khi nghiệp ác của họ quá lớn, khiến họ không thể trở lại thành người. Dầu ai cũng muốn được tái sinh vào cõi chư thiên, nhưng phần đông có lẽ đều trở lại kiếp người.

Ý nghĩ cuối cùng trước khi chết thường liên quan đến trải nghiệm gì nổi trội nhất trong kiếp sống này. Thí dụ nếu ta giết người thì đó sẽ là một ký ức hằn sâu trong tâm, và có thể là điều ta nhớ đến trước lúc ra đi. Hoặc nếu ta có công đức xây chùa, tu viện thì đó cũng có thể là một ký ức mãnh liệt. Hoặc việc ta luôn biết giữ gìn giới hạnh cũng có thể là ý nghĩ cuối cùng ở giờ phút lâm chung. Tóm lại, bất cứ điều gì mãnh liệt nhất trong tâm thì điều đó dễ phát khởi lên nhất. Nếu không thì những gì ta thường nghĩ đến sẽ xảy ra. Thí dụ nếu ta thường bực bội, sân si, thì điều đó sẽ hiện ra trong tâm. Trái lại, nếu ta có lòng thương yêu, từ bi, hay giúp đỡ người khác thì những ý nghĩ đó sẽ xuất hiện.

Nếu không có thói quen suy nghĩ gì đặc biệt, thì điều gì xảy đến ở các cửa giác quan vào lúc lâm chung sẽ lãnh phần ưu tiên. Giác quan cuối cùng ra đi là thính giác. Do đó, phần đông các tôn giáo đều có những bài kinh tụng, hát tụng do các vị sư hay các tu sĩ thực hiện để giúp người sắp ra đi có những ý nghĩ cuối cùng hướng thiện. Nếu các tâm hành trước phút lâm chung thiện lành thì sự tái sinh sẽ được tốt đẹp. Điều đó không có nghĩa là các nghiệp quả khác sẽ biến mất. Nó chỉ có nghĩa là những gì bộc phát ở giờ phút lâm chung sẽ có một số ảnh hưởng đến sự tái sinh của ta. Do đó những tư tưởng cuối cùng trước khi lâm chung vô cùng quan trọng.

Nếu bạn là người rất rộng lượng, đó có thể là ý nghĩ cuối cùng của bạn. Do đó, việc nhắc nhở cho người sắp ra đi về những điều thiện lành họ đã làm trước đây được coi là vô cùng ích lợi. Thí dụ như sự rộng rãi của họ; việc họ đã nuôi dạy con cái thành đạt; lòng tử tế, vân vân, vì người thế tục thường hay có những ăn năn, hối tiếc trước lúc ra đi. Chỉ mới gần đây người ta mới nhận thức rằng chết cũng là một phần quan trọng trong cuộc sống, dầu người Tây phương không tin vào tái sinh. Ai cũng quá sốt sắng, quan tâm đến sự có mặt của em bé mới sinh, vì em bé đó sẽ ở bên họ một thời gian dài và sẽ là một thành viên quan trọng trong gia đình. Nhưng ít ai để ý đến giây phút cận tử, vì theo họ, khi người chết rồi thì xong, chấm dứt. Giờ người ta hiểu rằng đó không phải là cách đối xử tốt đẹp đối với người ra đi. Hiện nay ở Tây phương cũng có nhiều bệnh viện dành cho những người bị bệnh chờ chết hay người sắp chết. Ở đó người ta chú tâm nhiều đến các trạng thái tâm, để làm giảm bớt hay diệt trừ sự sợ hãi, lo âu trước cái chết. Rất ít người ở Tây phương tin vào tái sinh, dẫu thế, chết cũng được coi là việc rất quan trọng.

Một yếu tố nữa cũng làm ảnh hưởng đến kinh nghiệm cận tử của chúng ta. Đó là hiện nay chúng ta khá tiến bộ về kỹ thuật, nên trong một số trường hợp, người đã chết lâm sàng, có thể hồi sinh nhờ vào các phương tiện tối tân trong các bệnh viện ở phương Tây. Có người đã nói với các bác sĩ về sự trải nghiệm “cái chết” của họ. Một số bác sĩ, nhất là bác sĩ Moody1, đã viết về các hiện tượng này. Nét nổi bật của các câu chuyện kể, là các khía cạnh quan trọng gần như giống hệt nhau. Thêm một ghi nhận về trạng thái vô ngã (anatta). Tất cả, không ngoại trừ ai, đều rất tự tại với “cái chết” của mình, và hầu như không muốn trở lại trần thế. Có người tỉnh lại tỏ thái độ giận dữ với bác sĩ vì đã sử dụng phương tiện tân tiến trong việc thiết lập lại dòng sinh tục cho họ.

Tất cả các trải nghiệm đều liên quan đến một luồng ánh sáng rực rỡ, chứa đựng tâm hoàn toàn tỉnh thức, nhưng thiếu thân. Mọi người đều có thể thấy chính thân họ đang ở trên giường bệnh, rồi tiến tới luồng ánh sáng đó, trong lúc hoàn toàn ý thức đến những gì đang xảy ra, kể cả việc quan sát các bác sĩ đang làm việc. Sau đó họ tự rời khỏi bệnh viện để tiến vào một không gian của hạnh phúc, tĩnh lặng và an lạc. Có người còn nhắc đến những người họ gặp gỡ. Phần đông tả về một người đặc biệt là ‘nguồn sáng’. Trong các câu chuyện kể không có biểu tượng của bất cứ tôn giáo nào nhưng chúng rất giống nhau, một số hoàn toàn trùng lặp. Khi những cuốn sách như thế được nhiều người biết đến thì giây phút cận tử mới được coi là quan trọng.

Trong năm điều mà Đức Phật dạy ta phải quán tưởng hàng ngày là ai cũng phải chết. Đức Phật thuyết về giây phút cận tử là vô cùng quan trọng, do đó ta cần phải suy gẫm về chúng ngay bây giờ, chứ đợi đến khi gần chết thì quá muộn. Những suy nghĩ thiện lành của ta đều liên quan đến các tâm từ, bi, hỷ, xả. Nếu ta khởi phát các tâm này ngay bây giờ, để tạo thành thói quen thì ta có thể mang chúng theo đến tận giờ lâm chung. Như thế, ta không những có thể chắc chắn về một sự tái sinh tốt đẹp, mà chí ít cũng được sự an bình, hạnh phúc ngay trong kiếp sống này. Điều đó giúp ta dễ có điều kiện tu tập trở lại. Nếu ta sinh ra trong một gia đình quá nghèo khó, không đủ ăn, thì khó thể có cơ hội ngồi xuống hành thiền, vì trong gia đình nghèo, ai cũng phải lao động cật lực để kiếm sống. Hoặc nếu ta tái sinh trong một xã hội mà thiền không hiện hữu, thì cũng khó để ta tiếp tục thực hành. Do đó, nếu ta đợi đến lúc già, lúc sắp chết để suy nghĩ đúng đắn, là quá dại khờ. Suy nghĩ đúng đắn bao gồm việc biết tâm hành của mình, qua chánh niệm và chú tâm.

Sự có mặt của ta trên trái đất này rất ngắn ngủi - ngay cả 70 năm cũng không phải là dài lâu - nên ta có thể nghĩ về mình như là một vị khách được mời đến để biểu diễn, lúc nào cũng chờ đợi được cổ vũ. Dĩ nhiên điều đó sẽ khiến cuộc sống thêm khó khăn. Đầu tiên là ta cảm giác sợ sân khấu. Không biết mình có diễn xuất tốt hay không? Có được vỗ tay tán thưởng không? Nếu không, ta sẽ cảm thấy vô cùng thất vọng. Biết mình chỉ là người khách diễn tuồng trên trái đất này là suy nghĩ chân chính, nhưng chờ đợi được vỗ tay tán thưởng là một tà kiến. Nếu ta tự biết mình đã cố gắng với tất cả khả năng, ta không phải đợi ai tán thưởng. Ta luôn có chủ tâm đúng đắn. Đó mới là điều đáng kể nhất, vì sự chủ tâm hướng đến điều thiện liên quan không chỉ đến bản thân mà cả người chung quanh. Bớt quan tâm đến bản thân sẽ giúp ta có thể quan tâm đến người.

Chúng ta không được xao lãng việc học Pháp và thực hành thiền, vì chỉ khi bản thân ta đã tiến bộ đến một mức độ nào đó, ta mới có thể giúp đỡ người khác, nếu không là ta đã hành động trong vô minh, sẽ đem lại những kết quả không tốt.

Nếu ta quá quan tâm đến sự tái sinh sắp tới của mình, thì ta thực sự đang sống trong mộng. Vì người đang tạo ra nghiệp hiện tại không phải là người sẽ lãnh quả. Sự kết nối duy nhất chỉ là những gì còn sót lại của nghiệp, là quả của nghiệp (vipaka). Ngay cả sự nối kết này cũng rất mong manh vì ta có thể phá vỡ các mắt xích. Nếu ai đó đã tạo nhiều nghiệp xấu nhưng trong kiếp tái sinh lại tạo nhiều nghiệp tốt hơn, thì các quả xấu có thể không bao giờ tựu thành trái, ngược lại cũng thế.

Thí dụ như Angulimala (Vô Não) đã giết 999 mạng người mà vẫn có thể trở thành A-la-hán, vì ông đã được trở thành đệ tử của Phật, được sống trong tu viện của Đức Phật, nơi mà nghiệp xấu của ông không có cơ hội trổ quả. Tuy nhiên, ngài Mahamoggallana (Đại Mục-kiền-liên), dầu đã là một A-la-hán, vẫn bị kẻ cướp giết và tán xương ngài ra tro, do nghiệp xấu trong quá khứ. Chúng ta khó thể thiết lập một thống kê tương ưng giữa nghiệp thiện với các tình huống có thể xảy ra, vì ta không có quyền hạn gì đối với người sẽ kế thừa nghiệp mà ta đã làm trong kiếp sống này. Nhưng hiện tại làm việc thiện, sẽ mang đến kết quả ngay, đó là hạnh phúc và niềm vui trong tâm, và thường cũng là hạnh phúc cho người. Nếu ta có thể mang hạnh phúc đến cho người, thì đó cũng là nhân để ta được có niềm vui.

Không ích lợi gì để nghĩ về nghiệp trong quá khứ hay nghiệp sẽ tạo trong đời sống tương lai. Không ai biết được gì về kiếp sống tới, hay nhớ được gì từ kiếp đã qua. Vậy thì lo lắng về chúng để làm gì? Chỉ có giây phút này, ngay đây, là quan trọng. Quá khứ thì giống như một giấc mộng và tương lai thì chưa tới. Khi tương lai thực sự xảy ra, thì nó luôn là hiện tại. Ngày mai sẽ không bao giờ đến; khi nó đến, nó được gọi là hôm nay. Ta không thể sống trong tương lai hay quá khứ. Ta chỉ có thể sống ngay trong giây phút này. Nếu ta thực sự chú tâm đến từng giây phút một, ta sẽ có thể hành thiền tốt. Ta sẽ không nghi ngờ gì về vô thường. Thực ra ta còn có thể nhìn thấy điều đó thật rõ ràng, nhờ vậy ta có thể buông bỏ tất cả mọi bám víu, chấp chứa.

Chúng ta có thể quán chiếu như thế này: “Tôi có sử dụng mỗi giây phút sống một cách tốt nhất không?”. Nếu đã tạo ra nghiệp xấu trong quá khứ, ta có thể nhanh chóng thực hiện một số việc thiện. Đó có thể là điều đáng giá duy nhất mà quá khứ có thể mang đến cho ta. Nếu không, tính chất nhanh chóng, hiệu quả của vô thường sẽ khiến ta tách rời khỏi các ý nghĩ, lời nói và hành động một cách nhanh chóng đến nỗi ta không thể nhớ chúng, nói gì đến chuyện giữ chúng lại.

Vậy mà ta lại cố giữ người khác lại, chấp vào sự suy nghĩ, quan điểm và ý kiến của ta; chúng ta bám víu vào thân này, vào các thân hành, tâm hành sai lạc, và cố biến chúng thành thường hằng. Điều đó là không tưởng, không thể thực hiện, vì chỉ có từng giây phút này. Với đồng hồ kỹ thuật số, ta có thể dễ dàng thấy từng giây phút đến rồi đi như thế nào. Thử quan sát đồng hồ trong năm phút để cảm nhận rằng năm phút giây quý báu của cuộc đời bạn đã qua đi. Quá khứ bị lãng quên, chỉ trừ một vài sự kiện nổi bật, bằng không nó đã qua mất rồi. Điều đó cho ta thấy rõ ràng rằng chúng ta chỉ là những dòng chảy, không có thực thể. Do nhận xét sai lầm về thực tại một cách hoàn toàn vô căn cứ, ta cho là nó có thực thể và sống dựa vào đó. Giống như nhà hát tuồng, một sáng tạo của chúng ta, nơi các nghệ sĩ vận xiêm áo, nói lời thoại và tin rằng đó là cuộc sống thực. Chúng ta muốn nhà hát mãi sáng đèn, nhưng không thể được, vì mỗi người đều có nỗi khổ không thể diệt trừ bằng sự bất cần hay vô minh. Ta chỉ có thể làm điều đó bằng cách thay đổi quan điểm, ý thức.

Sự tạo nghiệp phát khởi từ trong tâm. Các tâm hành tạo ra nghiệp của ta. Nếu không thể làm chủ tâm, ta khó tránh khỏi việc tạo ra các nghiệp xấu. Tâm luôn có nguy cơ nghĩ đến những điều bất thiện. Các trạng thái tâm tiêu cực không thể kể xiết: “Tôi không thích, không thể chịu đựng nổi; tôi sợ, tôi chán…”. Tất cả đều là những trạng thái của tâm sân. “Tôi muốn mua, muốn giữ, muốn làm mới”, cũng là nghiệp xấu, liên quan đến tâm tham. Tất cả đều từ tâm phát khởi.

Rất ít người chịu quan sát tâm. Họ nghĩ rằng điều đó khó làm, khá mệt. Nhưng tạo ra nghiệp xấu còn mệt mỏi hơn, vì quả sẽ nặng nề, khó chịu. Rất ít người có được sự sôi nổi bên trong, dấu hiệu của niềm vui tự thân. Đa số nản lòng do tâm tiêu cực gây ra, chứ không phải do hoàn cảnh bên ngoài. Hãy quan sát tâm bạn. Hãy đoan chắc rằng bạn luôn thực hành Tứ chánh cần. Đó là điều tốt nhất mà bạn có thể làm cho bản thân, để đạt được nghiệp lành.

Từ ý phát sinh ra lời nói và hành động. Ta không thể nói mà không có nghĩ trước, không thể hành động mà không có rắp tâm để làm điều đó. Dầu đôi khi dường như ta nói hay hành động một cách bản năng đến nỗi ta không ý thức rằng ý nghĩ đó đã chạy qua đầu. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng không có mặt trong tâm trước. Nó chỉ có nghĩa là ta thiếu chánh niệm và hiểu biết rõ ràng. Tâm là tài sản quý báu nhất mà ta được sở hữu. Không có vàng bạc, châu báu nào có thể so sánh với nó, vì tâm chứa đựng hạt giống giác ngộ. Nếu ta không sử dụng nó đúng mục đích là ta đã dại khờ đem chôn châu báu dưới đất đen. Tuy nhiên, chúng sanh thường làm thế, chính vì họ không được khuyên bảo ngược lại.

Khi nhận thức được rằng ta sở hữu tâm châu báu quý giá này, ta sẽ gìn giữ để nó không bị trầy rụa, lấm láp, đạp dẫm, làm mất sự sáng chói của nó. Ngược lại ta gìn giữ sao cho nó mãi được thanh khiết, chiếu sáng để tạo ra các nghiệp thiện lành. Đức Phật dạy rằng, hành động không phải là yếu tố quan trọng nhất, mà chính là sự chủ tâm đằng sau đó. Ngay cả sự độ lượng cũng có thể phát xuất từ một động lực xấu. Thí dụ, nếu chủ tâm làm việc thiện để tích lũy công đức cho tương lai, thì điều đó khá ích kỷ. Nếu hành động đó được thực hiện vì lòng bi mẫn đối với những người thiếu thốn, thì mới là lý tưởng. Tuy nhiên, dầu có hành động với chủ tâm không thiện lành, thì bố thí vẫn tốt hơn là không. Vẫn có nghiệp lành trong hành động đó, vì người bố thí đã buông bỏ vật sở hữu của mình.

Người bảo vệ tâm cho ta, người đảm bảo rằng tất cả mọi việc ta làm đều với chủ tâm tốt đẹp là Chánh tư duy (chi thứ hai trong Bát chánh đạo), kim chỉ nam của ta. Nghiệp được tạo ra tùy vào tâm, và tâm thanh tịnh tùy vào thiền định. Nếu chúng ta hành thiền đều đặn, tinh tấn, dần dần ta sẽ nhìn thấy những gì diễn ra trong tâm một cách rõ ràng. Một số người hoàn toàn mãn nguyện nếu chỉ đạt được chút an lạc, dẫu thế đó cũng đã là một sự thuận lợi và tiến bộ. Nếu ta quan sát được tâm khi thiền tập, ta cũng sẽ tập được cách quan sát tâm trong đời sống hàng ngày. Rồi thì ta sẽ có nhiều cơ hội để tạo ra các nghiệp thiện lành.

Nếu ta đã nhàm chán với cái vòng luẩn quẩn của được, mất, khen, chê, thành công, thất bại, hạnh phúc và khổ đau (tám pháp thế gian), thì ta cần phải hạ quyết tâm nỗ lực buông bỏ tham ái, bám víu. Nỗ lực này được thiền tập hỗ trợ, nhưng không chỉ có thế. Thiền là phương tiện để giúp ta có khả năng loại trừ các chủng tử tham, sân trong ta. Quy trình thiền tập đem lại cho tâm sự sáng suốt để nhận ra các hạt giống này trong ta, để ta có thể có cách đối trị chúng.

Bổn phận của chúng ta trong kiếp sống này với tư cách là một chúng sanh có đầy đủ giác quan, thân không khiếm khuyết, có duyên lành được nghe Chánh pháp, là bảo vệ tâm và chứng nghiệm được chân tánh của tâm là thuần khiết, chói sáng, nhu nhuyến. Với tâm như thế ta có thể tiến sâu vào đạo, nơi ta sẽ thấy không có ai làm chủ tâm này.

Ni sư Ayya Khema
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển ngữ theo Karma Is Intention

Xúc động khi chia sẻ về “Những thằng già nhớ mẹ”

Xúc động khi chia sẻ về “Những thằng già nhớ mẹ”

Đăng lúc: 05:33 - 19/09/2016

“Trong mắt của bà, tôi mãi là đứa con chưa trưởng thành. Dù các con tôi đã lớn, đã tốt nghiệp và đi làm, nhưng thằng cha chúng vẫn bị bà nội đưa vào diện cần quan tâm đặc biệt, ra ngoài vẫn bị nhắc nhở quên nón, mang theo áo mưa…” - đó là một đoạn trích trong tạp bút “Những thằng già nhớ mẹ” của tác giả Vũ Thế Thành vừa ra mắt độc giả chiều qua, 17-9, tại đường sách Nguyễn Văn Bình.
vuthethanh1.jpg
Tác giả Vũ Thế Thành (cầm micro), cùng khách mời - nhà văn Nguyễn Đông Thức,
bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và nhà thơ Đỗ Trung Quân - giao lưu cùng bạn đọc - Ảnh: Nhã An

Tác giả cho biết: “Tôi không phải là nhà văn, tôi có thể viết báo, viết về khoa học về các sự kiện chứ tôi không có khả năng hư cấu như các nhà văn, đám bạn xúi thì tôi viết, bài viết Những thằng già nhớ mẹ là bài tùy bút đầu tiên của tôi” sau khi mẹ mất”. Và sau bài viết đầu tiên cùng sự... xúi giục của bạn bè thì cuốn sách gồm 12 bài tạp bút đã ra mắt.

Những đứa con nhớ mẹ thì không có tuổi tác, nhưng tác giả muốn nhấn mạnh đến đối tượng 40, 50 tuổi “là tuổi đã chững chạc, lúc đó họ đang thành công trên đường đời, lúc đó công việc của họ rất nhiều, thời gian này là thời gian họ xù mẹ rất nhiều, tức là bận quá - hứa tuần sau về, rồi lại hứa…, về được vài ba phút rồi đi, tuổi này là tuổi nhận thức được”.

Đối với tác giả không hẳn càng già mới càng nhớ mẹ, “vì thương mẹ tiềm tàng trong con người mình rồi, chỉ có điều người ta già rồi thì người ta thấm đòn hơn”.

vuthethanh2.jpg
Ca sĩ Cẩm Vân hát ca khúc Lòng mẹ trong buổi giao lưu

Nói về cuốn sách, nhà văn Nguyễn Đông Thức chia sẻ trong buổi giao lưu “những bài viết của Vũ Thế Thành về mẹ làm cho tôi xúc động rất nhiều, bởi vì nó được viết từ trái tim, từ cảm xúc rất chân thật. Và anh cũng có một tâm trạng đặc biệt - rất giống tôi - khi mẹ mất thì mình không chấp nhận cái chết đó, mình không bao giờ nghĩ mẹ mình có thể mất và cái cảm giác đó ám ảnh mình trong thời gian rất lâu.

Những người con khi mẹ mình già lúc nào cũng mong mang cho bà thức ăn ngon, quần áo đẹp... nhưng mẹ đâu cần những thứ đó vì mẹ chỉ cần tình thương, sự quan tâm của con cái… Khi mẹ tôi mất đi, tôi mới được xem nhật ký của mẹ, mẹ tôi viết “sao mấy tuần nay thằng Thông (tên gọi của Nguyễn Đông Thức ở nhà - PV) không về thăm mình, tôi nhớ nó quá”, lúc đó tôi đã 50 tuổi” - nhà văn xúc động.

vuthethanh3.jpg
Tác giả Vũ Thế Thành ký tặng sách

Trong buổi giao lưu ra mắt sách, bạn đọc còn được giao lưu với nhà thơ Đỗ Trung Quân, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nghe những ca khúc về mẹ do ca sĩ Cẩm Vân, Đông Tùng, Thu Vàng trình bày.

Tạp bút Những thằng già nhớ mẹ của Vũ Thế Thành do NXB Hội Nhà văn ấn hành, đơn vị liên doanh là Công ty TNHH sách Phương Nam. Đa số các bài viết trong tuyển tập này được tác giả viết giữa hai mùa Vu lan 2011 (mẹ mất) và 2012.

“Có vài bài đang nói chuyện này, lại xen chuyện bà mẹ vào một chút. Bạn đọc nào may mắn còn mẹ xin được bỏ qua cho. Nỗi đau còn mới quá! Riêng với các bạn đã mất mẹ, xin lỗi, tôi… xả chấp” - tác giả chia sẻ trong lời đầu sách.

vuthethanh4.jpg
Sách “Những thằng già nhớ mẹ” - Ảnh: Nhã An

Vũ Thế Thành sinh ra lớn lên và làm việc tại Sài Gòn, hiện sống tại Đà Lạt. Với chuyên môn về Hóa học và Quản trị chất lượng. Tác giả viết báo cũng gần được 20 năm và cộng tác với các báo Tia sáng, Sài Gòn tiếp thị (cũ), Quán văn, khoahocnet.com…

Nhã An

Tụng quyển 7, kinh Pháp Hoa

Tụng quyển 7, kinh Pháp Hoa

Đăng lúc: 18:56 - 10/09/2016

Phật dạy sanh làm người là điều khó, được gặp Phật pháp khó hơn và hiểu, ứng dụng Phật pháp vào đời sống tu hành cho đạt kết quả tốt đẹp càng khó hơn nữa.

Ngày nay trên thế giới có hơn sáu tỷ người, nhưng số người gặp được Phật pháp chưa tới 10%. Nhưng trong 10% số người gặp Phật pháp mà tin được thì không nhiều; vì gặp Phật pháp và tin Phật pháp do căn lành nhiều đời trước, nên sanh đời này, chúng ta mới gặp Phật pháp và tự nhiên tin Phật.
kinh-ph.png
Kinh Pháp hoa

Vào thời thơ ấu, lúc 6, 7 tuổi, tôi thấy bên cạnh nhà có người qua đời. Tôi nghĩ làm người sanh ra và chết thì uổng một kiếp người. Tôi biết suy nghĩ như vậy từ thuở nhỏ, thì may mắn tôi đọc báo Từ Bi Âm do thân phụ tôi mua. Phần lớn trong báo này nói về tiền thân của Đức Phật. Đó là tôi có duyên với Phật pháp, từ đó, tôi nghĩ về Phật, tin Phật và theo niềm tin đó, tôi đi tìm đạo.

Vào thời đó, người có căn lành tìm thầy dìu dắt tu hành đã khó, mà học đạo được càng khó hơn. Riêng tôi, nhờ căn lành đời trước, tự nhiên từ trong sâu kín tâm hồn, thường nghĩ đến Phật và tin Phật. Tuy nhiên, tin Phật và lạy Phật, ai cũng làm, nhưng đạt được kết quả không nhiều.

Người có căn lành và niềm tin ở Phật, siêng năng lạy Phật, tụng kinh, cũng tìm được sự an lành trong lòng, nhưng gặp thầy khai ngộ thì khó nữa. Vì vậy, học kinh, tụng kinh có phước, nhưng áp dụng được trong cuộc sống thì khó hơn.

Tôi may mắn có duyên với kinh Pháp hoa, vì từ 12 tuổi mà đã ra tới Tân An, gặp Hòa thượng Đạt Vương cho bộ kinh Pháp hoa bằng chữ Nho, tuy không đọc được, nhưng rất quý và phát tâm xuất gia, luôn ôm bộ kinh này theo. Vì không đọc được, không hiểu, nhưng nhờ căn lành làm tôi tin tưởng đây là vật quý giá.

Tới với Phật pháp, tin Phật và quan trọng là bước đầu tôi tìm đạo. Đầu tiên, tôi cũng tới tổ đình Giác Lâm, gặp Hòa thượng Viện chủ, sau đó qua Giác Viên gặp Hòa thượng Giáo thọ, đó là hai ngôi chùa duy nhất ở thành phố này vào thời đó có tụng kinh Pháp hoa chữ Hán.

Và thấy tôi ôm bộ kinh Pháp hoa, Hòa thượng nói chú có duyên với kinh này. Tôi nhắc Tăng Ni, Phật tử, ai có duyên với kinh Pháp hoa, tự nhiên quý trọng kinh và tin tưởng kinh, người đó sẽ được Phật hộ niệm, được Hộ pháp long thiên giữ gìn và Hộ pháp chỉ đường cho mình đi tầm sư học đạo.

Thật vậy, trong thời gian đó, tôi gặp một vị sư không biết tên, nhưng nói giọng miền Trung, nên được gọi là thầy Huế. Gặp tôi, ông nói chú đi ra chùa Phước Tường, gặp Hòa thượng Bửu Ngọc, có duyên học được. Chùa Phước Tường cũng thuộc tông môn của Giác Lâm chúng ta.

Và ở Phước Tường mấy tháng, ông thầy này trở lại chùa nói với tôi rằng chú có duyên với Hòa thượng Huê Nghiêm hơn. Trên bước đường tu có Bồ-tát chỉ đường là vậy.

Ở chùa Huê Nghiêm một năm, ông lại chỉ tôi muốn đi xa con đường đạo, nên vào Phật học đường Nam Việt. Và khi tôi tốt nghiệp xong, ông đến nói chú nên sang Nhật học.

Vì vậy, tôi có cảm giác Phật đã khiến vị thầy này đến chỉ đường cho tôi đi học đạo trong sự bình yên và thăng hoa. Nếu không có minh sư chỉ đường, lại gặp thầy tà, bạn ác thì thật khó tu.

Theo tôi, có niềm tin vững, được Phật hộ niệm, nên mình và Phật có sự gắn bó vô hình không nói được. Chính vì vậy, chúng ta thấy ai cũng tu, nhưng kết quả tốt thì không phải ai cũng được và kết quả của mỗi người cũng không giống nhau.

Và tôi gặp Hòa thượng Trí Tịnh dạy tôi kinh Pháp hoa. Ngài nói học kinh, nhưng phải hiểu nghĩa kinh. Tôi rất thích thú nghe ngài giảng kinh Pháp hoa và hiểu được nghĩa kinh là bước thứ hai, tôi có duyên với kinh Pháp hoa.

Phật tử tụng kinh Pháp hoa đòi hỏi chúng ta phải hiểu nghĩa lý trong kinh. Riêng tôi, hiểu được nghĩa kinh Pháp hoa và vào chùa Ấn Quang tu học, gặp cố Hòa thượng Trí Hữu là vị chân tu có niềm tin sâu sắc với kinh Pháp hoa. Mỗi ngày, Hòa thượng tụng một bộ kinh Pháp hoa xong, thì đốt một liều hương trên đầu để cúng dường Phật. Hết chỗ đốt trên đầu, Hòa thượng đốt hương lên hai cánh tay, hết chỗ đốt ở cánh tay, Ngài lại phát nguyện đốt bứt ngón tay. Ngài đã thể hiện niềm tin vững mạnh trong cuộc đời tu hành. Tôi hỏi ngài đốt như vậy có nóng không. Ngài nói nóng thì làm sao đốt được.

Có thể hiểu tu hành được Phật hộ niệm ở độ cao, mình bắt đầu vào định của kinh Pháp hoa, thì không bị sự chi phối của thân tứ đại, của xã hội và thiên nhiên. Thực tế cho thấy nhiều người tu, say mê tụng kinh, quên ăn, quên ngủ, không bị đói khát, nóng lạnh chi phối.

Người tu theo Nguyên thủy đạt đến sở đắc này, gọi là Dự lưu, tức vào dòng Thánh. Người tu Pháp hoa đến đây cũng vậy, sống ngoài khen chê, không ăn ngủ cũng không sao. Hòa thượng Thanh Kiểm nói lúc đói, không có gì ăn, thì uống nước quên đói. Ai có căn lành, có niềm tin cảm nhận được ý này. Riêng tôi, khi say mê nghiên cứu Phật pháp, thấy được điều lạ là suốt ngày không ăn, cũng không nghĩ đến ăn, nhưng không thấy đói.

Người tụng kinh không đói, vì thâm nhập pháp Phật, nên Pháp thân hiện ra, khiến cho người khác nhìn thấy pháp Phật ẩn bên trong con người bằng xương thịt của họ. Còn mình cũng tu và nghĩ rằng mình phải làm việc nào đó để cho người quý trọng, nhưng không được quý trọng thì buồn.

Thực tu, không cần ai nghĩ đến mình, không cần ai quý trọng mình. Nhưng một ngày mình sống với pháp là ngày đó, Pháp thân Phật đã hiện ra, thì kinh Pháp hoa, Đức Phật nói rằng người đó đã đến đạo tràng, trong thân của họ có sẵn Đức Phật. Ông bảo trời người phải nên cúng dường như cúng chư Phật.

Điển hình cho ý này, đó là Phật Thích Ca, Ngài là thái tử, nhưng trong tâm thái tử đã có Phật, nên Ngài hiện tướng Phật. Vì Ngài là Phật thiệt, nên hiện tướng Phật suốt 49 năm giáo hóa độ sanh, không thay đổi. Còn chúng ta chỉ có một niệm tâm thanh tịnh, hay một ngày thanh tịnh mà thôi, thì niệm tâm đó có Phật, ngày đó có Phật. Và sau đó, nếu nghĩ đến ăn, Phật biến mất và mình trở thành ngạ quỷ.

Hòa thượng Thiện Tường khi còn sanh tiền, chuyên tụng kinh Pháp hoa. Ngài nói rằng không cần gì, chỉ muốn tu, nhưng người ta đem cúng tiền, gạch ngói, bắt buộc phải làm. Nhưng đến khi Hòa thượng dấn thân làm thì thiếu trước hụt sau.

Tôi phát hiện những gì mà mình khởi tâm vọng niệm, Phật liền biến mất, giữ tâm thanh tịnh, Phật xuất hiện. Vì vậy, giữ được Phật trong lòng, không có cảm giác đói, khát, nóng, lạnh. Người tụng kinh Pháp hoa có kết quả, thâm nhập ý kinh, tụng suốt ngày, không khát nước, nhưng có cảm giác có nước ngọt trong cổ và âm thanh còn tốt hơn. Còn người vừa tụng kinh vừa uống nước, hoặc tụng kinh thấy đói, vì chỉ tụng trên đầu môi chót lưỡi bộ kinh bằng giấy trắng mực đen thôi.

Và tụng kinh, dù trời nóng 40 độ, nhưng không thấy nóng, đó là đã vào cửa đạo. Bình thường, ngồi một chút thấy nóng và thấy nóng rồi lại thấy nóng hơn. Người tu ngồi yên trong chánh niệm, không cảm giác nóng lạnh. Tôi gặp nhà sư Ấn Độ ở Ý. Vào mùa đông, tôi phải mặc hai, ba lớp áo vẫn lạnh. Ông này chỉ mặc một áo. Tu hơn nhau ở điểm đó.

Người thâm nhập đạo, gọi là Nhập lưu, tức vào dòng thác trí tuệ, nên không kẹt vào xã hội, không bị thiên nhiên chi phối, là xuất thế. Thực tu sẽ đạt được kết quả này. Nếu không tới chỗ này, mà cứ nghĩ theo vọng tưởng những cách khác, cuộc đời tu cũng chẳng được gì. Cần nỗ lực thực tập pháp Phật miên mật, đúng đắn, chắc chắn gặt hái được sở đắc, sở chứng mà kinh thường ví như người uống nước mới biết nước nóng lạnh thế nào.

Hòa thượng Huê Nghiêm nói Tổ Huệ Đăng dạy không cần tụng hết bộ kinh Pháp hoa, chỉ tụng quyển thứ 7 của bộ kinh này. Thiết nghĩ người đi trước chứng ngộ, thấy được điều mà người phàm không thấy, nên họ dự vào hàng Thánh, tức họ cũng là người, nhưng được quý trọng như Thánh. Tu hành khác nhau ở điểm đó.

Tôi suy nghĩ tại sao Tổ dạy tụng quyển 7 kinh Pháp hoa và phát hiện những điều kỳ vĩ mà Phật đã dạy trong quyển 7. Ai có nhân duyên căn lành sẽ nhận ra.

Quyển 7 kinh Pháp hoa đầu tiên nói về tiền thân của Bồ-tát Dược Vương, gọi là Dược Vương Bồ-tát Bổn sự. Bổn sự là việc làm của Bồ-tát ở kiếp trước mà tạo nên thành quả trong kiếp này, vì tất cả việc của quá khứ đều hiện ra trong hiện tại. Thí dụ đọc kinh Bản sanh thấy rõ do nhiều đời hành Bồ-tát đạo mà Phật Thích Ca thành tựu quả vị Phật. Và Đức Phật đã dạy Bồ-tát pháp hành này, mở đầu là Bồ-tát Dược Vương.

Kiếp trước Ngài Dược Vương được tôn danh là Nhứt thiết chúng sanh Hỷ kiến Bồ-tát, nghĩa là tất cả chúng sanh đều muốn thấy vị Bồ-tát này và thấy Ngài, họ vui mừng.

Trên thực tế, có người mà mình muốn thấy, có người mình không muốn thấy. Có người mình thấy thì được an lạc. Kinh Pháp hoa nói rõ lý này rằng ai thấy người này, tâm được an. Vì vậy, ai gặp mình mà khó chịu, phiền não thì mình chưa phải là hành giả Pháp hoa.

Tại sao mọi người muốn thấy Bồ-tát Dược Vương. Hiểu sâu là Ngài có ba nghiệp hoàn toàn thanh tịnh, không làm việc ác, không nghĩ điều ác, không nói lời ác.

Người mà thân nghiệp không thanh tịnh, phạm tội sát, đạo, dâm; khẩu nghiệp phạm tội nói không đúng sự thật, nói lời hung ác, nói lời gây chia rẽ, nói thêm bớt, bịa đặt. Chắc chắn chẳng ai muốn giao lưu với người như vậy. Và ý nghiệp thanh tịnh, không tham, sân, si.

Thể hiện cốt lõi này, Phật khuyên người tu Pháp hoa phải giữ ba nghiệp thanh tịnh. Nếu không giữ ba nghiệp thanh tịnh, dù có tụng kinh nhiều, chưa chắc đạt được kết quả tốt.

Trong ba nghiệp thân, khẩu, ý, quan trọng là ý chỉ đạo hành động. Tôi thấy điều này rõ, khi tâm mình thanh tịnh, thương người mới có lời nói dễ thương. Tâm mình không thích, nói gì cũng không tốt như viên thuốc đắng bọc đường.

Phát xuất từ tâm thanh tịnh, nên họ nói, hay rầy la, mình vẫn thấy tốt. Điển hình là Phật, không phải lúc nào Ngài cũng nói ngọt với Tỳ-kheo, nhưng lời giáo huấn của Phật toát ra tâm từ bi vô lượng chỉ muốn cứu độ mọi người, nên đại chúng cảm động, thành tâm tiếp nhận lời Phật dạy.

Tu Pháp hoa, đầu tiên phải giữ ba nghiệp thanh tịnh. Cốt lõi này được thể hiện qua hình thức pháp y trong ruột màu trắng tiêu biểu cho sự thanh tịnh và bên ngoài màu vàng là Phật pháp. Lấy Phật pháp, lấy kinh bọc tâm mình lại. Hễ tâm còn thanh tịnh, Phật còn hộ niệm. Nếu quên Phật pháp, muốn làm gì là việc của mình, Phật không hộ niệm.

Tâm đặt trong Phật pháp, trong kinh Pháp hoa là ngày đó tâm còn trong sạch nhờ lấy Phật pháp rửa tâm. Tôi tụng kinh là lấy pháp rửa sạch lòng trần thì sẽ hiện tướng giải thoát và lời nói trong sạch.

Tu hành, nghĩ đến Bồ-tát Dược Vương là nghĩ làm sao người thương và chấp nhận ta, đó chính là hành Bồ-tát đạo. Việc khởi tu của tôi, bước đầu cố gắng tối đa không làm mất lòng người, lời nói và hành động không mất lòng người. Còn Phật tử tu mà dụm lại nói chuyện, gây ra phiền não, thì Phật không hộ niệm. Phải nhớ lúc nào cũng lấy Phật pháp rửa lòng mình.

Trên Pháp y lần đầu có hoa sen 8 cánh tiêu biểu cho Bát Chánh đạo, vì trong Phật pháp căn bản là 37 Trợ đạo phẩm, kết thúc là Bát Chánh đạo chủ yếu gồm có lời nói đúng, thấy đúng, suy nghĩ đúng, việc làm đúng và việc làm lợi ích cho người.

Về sau, Pháp y có 7 hạt tiêu biểu cho Liên hoàn Thủ hộ. Số 7 là con số lý tưởng của Phật giáo. Hình thành vũ trụ và con người cũng từ con số 7 tiêu biểu cho Pháp giới. Khi kiết thất cũng 7 ngày và tụng kinh cầu siêu cho người qua đời cũng 7 ngày, 7 tuần.

7 hạt xếp thành hình vòng tròn cách đều nhau nói lên ý nghĩa tu hành trong đại chúng, tất cả mọi người là bạn đồng tu tương thân tương trợ, không chống phá nhau. Mình đứng giữa có 6 người xung quanh đứng cách đều nhau, ai cũng có khoảng cách trống, thì dễ tụng kinh và lễ lạy không đụng nhau. Cách sắp xếp vị trí hành lễ như vậy dễ làm mình thanh tịnh, vì hoàn cảnh thanh tịnh sẽ giúp tâm mình thanh tịnh. Ngày xưa, các chùa ở rừng núi, nên cảnh hoàn toàn thanh tịnh, tâm dễ dàng thanh tịnh theo. Cảnh động, con người dễ động tâm.

Vùng chùa Huê Nghiêm sình lầy, xây dựng chùa phải đóng cừ sâu tới 30m để chân móng được vững chắc và vùng này cũng không có đá. Tôi phải lên núi Thị Vải chở đá về. Nhìn đá gan lì, chịu được nắng mưa, tiêu biểu cho ý chí tu hành vững như đá. Tu mà không gan dạ để chịu đựng mọi chướng duyên, chắc chắn không thể ra khỏi sinh tử. Vì vậy, tôi chở đá về chùa Huê Nghiêm để nhìn đá mà lập chí tu hành.

Xung quanh chùa Giác Lâm có cây xanh tiêu biểu cho sức sống. Ở trong rừng cây mà tụng kinh, tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Vì vậy, cần tìm chỗ thích hợp để tu thì đạt kết quả dễ hơn. Đương nhiên người đắc đạo ở đâu cũng được, nhưng lúc đầu phải có chỗ đặt tâm vô. Cho nên chúng ta thấy chư Tổ thường lên núi rừng sâu, tránh xa người, tâm dễ thanh tịnh.

Tôi có thời gian ẩn cư ở núi không có người, chỉ có một mình, khỏi phải đối đãi, tính toán làm cái này cái kia, khiến cho tâm mình dễ thanh tịnh. Ở chốn phồn hoa đô thị, ta phải tùy thuộc xã hội và tùy thuộc người, tâm dễ bị rối.

Phẩm Dược Vương Bồ-tát nói Bồ-tát này được như ngày nay, vì Ngài không làm mất lòng người, chỉ làm vừa lòng người và giúp đỡ người, nên Dược Vương thành tựu pháp Nhứt thiết chúng sanh Hỷ kiến.

Vì vậy, pháp Bồ-tát, hay tu Pháp hoa, không làm mất lòng người, nhưng giúp đỡ người, nếu có điều kiện. Nếu không làm cũng được, nhưng kết quả không cao.

Tiến lên bước nữa, theo phẩm Diệu Âm Bồ-tát. Ngài không ở Ta-bà, nhưng khi Phật Thích Ca phóng hai hào quang từ vô kiến đảnh tướng và bạch hào tướng chiếu thẳng đến Diệu Âm, Ngài liền từ thế giới của Ngài qua Ta-bà. Kinh diễn tả là chúng hội không thấy Ngài, nhưng thấy hoa sen. Điều này thể hiện ý nghĩa Bồ-tát vào đời giáo hóa chúng sanh được ví như hoa sen tỏa hương thơm cho người. Cảm nhận hạnh cao quý của Bồ-tát khi đọc phẩm này, tôi cảm tác bốn câu thơ:

Bồ-tát đi vào đời

Sen nở khắp muôn nơi

Trang nghiêm cho cuộc sống

Ôi thật đẹp tuyệt vời.

Nghĩa là Bồ-tát xuất hiện bất cứ chỗ nào cũng trong sạch như hoa sen ở trong bùn. Nói cách khác, Phật pháp muốn hưng thạnh, dù cuộc đời có tệ hại, nhưng ta không tệ, giống như Diệu Âm đến Ta-bà hoàn toàn thanh tịnh.

Thể hiện ý này, Tổ Thiên Thai khuyên chúng ta không nên vào đời như bùn nhơ tội lỗi, nhưng tại sao chúng ta vào đời. Rõ ràng vì để thể hiện hạnh cứu khổ độ sanh theo Phật dạy mà chư Bồ-tát hiện thân trên cuộc đời này.

Đức Phật muốn mời Diệu Âm đến Ta-bà, Ngài phóng hào quang từ vô kiến đảnh tướng, nghĩa là muốn mời khách quý, lòng chúng ta phải cung kính. Dù Phật lớn hơn Diệu Âm, nhưng Ngài cũng mời Bồ-tát này với tâm cung kính. Xem thường người, làm sao họ tới được.

Diệu Âm nói rằng ai mời không đi cũng được, nhưng Phật Thích Ca mời, nhất định phải đi, dù cực khổ. Điều này cho chúng Ta-bài học rằng trên bước đường hành đạo, phải có bạn sống chết với mình. Muốn như vậy, phải cung kính người, dù họ nhỏ hơn mình.

Phật Thích Ca có vô kiến đảnh tướng, vì trải qua vô lượng kiếp tu hành, Ngài không xem thường ai. Điển hình như trong một kiếp quá khứ, Ngài là Thường Bất Khinh Bồ-tát, dù người tệ ác thô lỗ với Ngài, nhưng Ngài cũng một lòng kính trọng họ, nghĩa là kính trọng ông Phật trong tâm họ. Nhờ tâm kính trọng mọi người như vậy trải qua nhiều đời mà Phật Thích Ca có được vô kiến đảnh tướng. Trong khi thực tế, chúng ta thường thấy người giỏi hay xem thường người khác, nên họ chẳng được tôn kính và không ai muốn hợp tác.

Ngoài ra, Đức Phật phải phóng hào quang thứ hai từ bạch hào tướng tiêu biểu cho trí tuệ. Thật vậy, dù mình kính trọng người, mời họ, nhưng họ nghĩ mình không hiểu biết thì họ cũng không đến.

Vì vậy, hành Bồ-tát đạo, phải phát huy hiểu biết và tâm quý trọng người, vì có đủ hai điều này, người mới hợp tác với ta.

Tụng kinh, hiểu nghĩa lý kinh và phải làm theo Bồ-tát là điều quan trọng.

Vị Bồ-tát thứ ba là Quan Âm rất dễ thương. Ở hoàn cảnh nào, Ngài cũng tùy thuận được. Học hạnh Quan Âm, ở đâu mình cũng chịu lép và sống hòa thuận thì ai cũng thương.

Tổ Huệ Đăng khuyên chúng ta tụng một quyển thứ 7 kinh Pháp hoa là làm theo các Bồ-tát Dược Vương, Diệu Âm, Quan Âm, chúng ta mới được yên ổn trong cuộc sống.

Cao hơn nữa, ta theo Bồ-tát Phổ Hiền, nhưng chúng ta không thể giống Phổ Hiền, vì Ngài Phổ Hiền quá siêu việt. Quyến thuộc Bồ-đề của Ngài quá đông, quá tốt và làm được rất nhiều việc lớn.

Thật vậy, Phổ Hiền đến đâu, rải của báu đến đó. Kinh diễn tả rằng Phổ Hiền dùng sức thần thông tự tại, oai đức vô song, cùng chúng Bồ-tát, Bát bộ, Thiên long vượt qua các cõi, đến Kỳ Xà Quật…

Muốn được như Phổ Hiền, phải tu mười hạnh nguyện Phổ Hiền. Bồ-tát Phổ Hiền trong kinh Hoa nghiêm là nhân và Phổ Hiền trong kinh Pháp hoa là quả.

Tóm lại, chúng ta tu, đọc kinh, xem Bồ-tát làm gì mà được gọi là Bồ-tát, để từng bước chúng ta làm theo và được giống như các Ngài. Các Ngài hỗ trợ ta, vì ta làm thay các Ngài. Các Ngài không có thân tứ đại, nên không làm được, nên Ngài hợp tác cho ta làm.

Theo kinh nghiệm của tôi, thành tựu được việc khó là nhờ Bồ-tát gia hộ. Mong quý vị phát tâm tu Pháp hoa, đọc kinh, suy nghĩ và áp dụng đúng pháp để nhận được kết quả tốt đẹp. Cầu Phật gia hộ cho mọi người được an lành trên bước đường tu.
HT.Thích Trí Quảng

Trà xanh có thể ngăn ngừa chứng vỡ động mạch chủ gây chết người

Trà xanh có thể ngăn ngừa chứng vỡ động mạch chủ gây chết người

Đăng lúc: 09:02 - 30/08/2016

Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra một loạt các lợi ích sức khỏe từ việc uống trà xanh, bao gồm giúp phòng chống ung thư, bệnh tim mạch, viêm và oxy hóa (oxy hóa gây ra các loại bệnh và nhiều tác hại trên cơ thể).


Sau đây là một lợi ích của trà xanh bạn không thể bỏ qua. Uống trà xanh có thể giúp ngăn chặn tình trạng động mạch chính của cơ thể trở nên căng thẳng và sưng phồng, một chứng bệnh rất nguy hiểm, một nghiên cứu mới đây đã cho biết.

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Kyoto ở Nhật Bản nhận thấy chứng phình động mạch chủ bụng ít phát triển ở những con chuột được cho uống chất polyphenol, một thành phần chính của trà xanh.

Nếu không điều trị, chứng phình động mạch chủ bụng cuối cùng bị vỡ và gây tử vong, các nhà nghiên cứu cho biết. “chứng phình động mạch chủ bụng thường không được chú ý bởi vì chúng không có triệu chứng cho đến khi cơn bệnh bộc phát”, Kenji Minakata, tác giả của nghiên cứu cho biết.

“Nếu một bệnh nhân may mắn thì chỗ động mạch bị sưng phồng sẽ được tìm thấy trước khi vỡ. Các bác sỹ sẽ điều trị bằng cách phẫu thuật và cấy một mạch máu nhân tạo hoặc đặt stent để nong động mạch. Hiện nay, chứng bệnh này chưa có thuốc chữa,” Minakata nói.

Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra một loạt các lợi ích sức khỏe từ việc uống trà xanh, bao gồm cả việc giúp cơ thể chống ung thư, bệnh tim mạch, viêm và oxy hóa (oxy hóa gây ra các loại bệnh và nhiều tác hại trên cơ thể). “Gần đây, người ta khám phá ra chất polyphenol có trong trà xanh giúp cơ thể tái tạo elastin, một protein thiết yếu giúp các động mạch có độ đàn hồi tốt”, tác giả chính Shuji Setozaki nói.

“Chứng phình động mạch bụng là do tình trạng viêm và sự suy giảm chất elastin trong thành động mạch khiến chúng kém đàn hồi, chúng tôi cho rằng uống trà xanh sẽ rất tốt cho việc điều trị chứng bệnh này,” Setozaki nói.

Theo PTI Tokyo

Việt dịch: Hoa Nắng

BBT Website

Thấy nhân duyên là thấy Pháp, thấy Pháp là Như Lai

Thấy nhân duyên là thấy Pháp, thấy Pháp là Như Lai

Đăng lúc: 14:15 - 12/07/2016

Khóa bồi dưỡng trụ trì năm nay tại tổ đình Kim Cang vắng bóng Hòa thượng Đạt Đồng, Hòa thượng Tắc Ngộ và gần đây là Hòa thượng Thiện Thanh.
Tuy các ngài không hiện hữu trên cuộc đời, nhưng với tâm nguyện vì đạo, vị tha, vô ngã, tôi tin tưởng các ngài luôn gia hộ cho khóa học này được thành công. Sau đây, tôi có một số ý kiến xin chia sẻ với Tăng Ni.

Trước hết, nói về tông môn hệ phái, đó là việc tốt, nhưng nếu cố chấp vào đó cũng trở ngại lớn cho chúng ta. Kinh nghiệm của tôi thấy như vậy từ 50, 60 năm trước.

Thật vậy, đầu tiên tôi xuất gia ở Phật giáo Cổ truyền nằm trong sơn môn thuộc Lâm Tế gia phổ. Lúc đó, tôi gặp khó khăn, thầy này ở Lâm Tế gia phổ, thầy kia ở Lâm Tế Chúc Thánh, thầy nọ ở Lâm Tế chánh tông… Chỉ riêng dòng Lâm Tế đã tự phân chia như vậy, tạo thành bức tường ngăn cách giữa những người tu đạo Phật.

Lúc đó, Hòa thượng Thiện Hòa nói rằng chúng ta nên cắt bỏ tông môn hệ phái, vì tất cả chúng ta đều là đệ tử Phật. Ai xuất gia trước, người đó lớn. Người thọ giới sau thì nhỏ hơn. Dù thọ giới sau một đàn cũng là sau.

dhamma_wheel_fine.jpg

Nếu kẹt tông môn hệ phái, tôi thuộc đời Lâm Tế thứ 41, mang chữ Nhật. Hòa thượng Trí Tịnh cũng mang chữ Nhật. Như vậy, giữa tôi và Hòa thượng là huynh đệ, tức cùng trong một hệ phái đã như vậy.

Khi Phật học đường Nam Việt ra đời, tất cả chúng tôi thuộc hệ phái khác nhau, nhưng học chung một trường, có cùng một thầy thì trong học đường này, tất cả đồng là huynh đệ, ai thọ giới trước là lớn. Nhưng điều này cũng không giữ được lâu, cũng nảy sinh tư tưởng hệ phái.

Và hệ phái bấy giờ lại chia ra Phật giáo Cổ sơn môn, Phật giáo Tổng hội. Riêng thành phố Hồ Chí Minh đã chia ra mười mấy hệ phái chống phá nhau, tự tiêu diệt nhau. Như vậy, chúng ta đã lọt vào cái bẫy ngoại đạo.

Năm 1963, nhiều người nghĩ rằng Phật giáo bị xé thành nhiều mảnh vụn, nên dễ bị tiêu diệt. Nhưng lắng lòng coi lại ai tiêu diệt mình, phải chăng các sơn môn hệ phái tự tiêu diệt nhau. May mắn, các vị lãnh đạo thức tỉnh. Các Hòa thượng đã thành lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, dù thuộc hệ phái nào, nhưng tất cả chúng ta đều vì sự tồn vong của Phật giáo, chỉ có một điểm chung là Phật giáo, nên hãy quên đi hệ phái.

Vì vậy, có 11 hệ phái ký tên thành lập Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo và năm 1964, trở thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Tuy nhiên, trong thâm tâm tôi, lúc đó còn có hai hệ phái không ký tên vào, nhưng cũng đóng vai trò quan trọng. Đó là một hệ phái ở trong vùng giải phóng, đứng đầu là cố Hòa thượng Thiện Hào. Tuy ngài không ra ký tên, nhưng ngài đã làm việc quan trọng là đi các nước xã hội chủ nghĩa tuyên bố cho mọi người biết rằng Phật giáo tồn tại ở đất nước chúng ta. Ngoài ra, các nước thuộc khối tư bản, hay khối không liên kết đều ủng hộ Ủy ban Liên phái. Như vậy, rõ ràng Phật giáo chúng ta đoàn kết rất có lợi.

Một hệ phái nữa là Hội Phật giáo Thống nhất ở miền Bắc không ký tên, nhưng chính Phật giáo miền Bắc cũng tổ chức biểu tình, ra kiến nghị kêu gọi ủng hộ Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo.

Vì vậy, tôi nghĩ rằng có tất cả 13 hệ phái trong Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, không phải chỉ có 11 hệ phái. Thể hiện ý nghĩa hợp nhất 13 hệ phái, khi xây Việt Nam Quốc Tự, Giáo hội thành phố chúng ta đã xây tháp cao 13 tầng tiêu biểu cho 13 hệ phái đoàn kết tạo thành sức mạnh của Phật giáo.

Vì sự quan trọng vô cùng của sự đoàn kết, hòa hợp, khi Phật Niết-bàn, Ngài nói rằng ngày nào chư Tăng còn hòa hợp trong Chánh pháp của Phật là khi đó Phật giáo tồn tại vững mạnh, không có ngoại đạo thiên ma nào có thể phá hại chúng ta được.

Thể hiện tinh thần Phật dạy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời năm 1981, khẳng định lập trường rằng chúng ta thống nhất tổ chức, thống nhất ý chí và thống nhất hành động, nhưng pháp tu biệt truyền vẫn được tôn trọng. Tất cả mọi người có pháp hành riêng, miễn là ở trong Chánh pháp Phật; nói theo ngày nay là đa năng, đa dạng.

Thật vậy, chúng ta nhìn kỹ thấy rõ mỗi người một việc, một người không thể làm tất cả việc. Tổ chức chúng ta có sự tôn trọng lẫn nhau và chính cốt lõi này giúp Phật giáo chúng ta tồn tại. Nhưng muốn như vậy, chúng ta phải thấy theo Chánh pháp và sống đúng Chánh pháp. Nếu tu lệch ra ngoài Chánh pháp, sẽ đưa đến nhiều bất đồng, tranh chấp, cho đến tan hoại.

Không lệch ra ngoài là gì. Khi chúng ta còn ở trong vòng an toàn giống như Tề Thiên vẽ cho Tam Tạng phải ở yên trong vòng tròn an toàn, nếu lọt ra ngoài vòng an toàn này là bị yêu tinh bắt liền. Chúng ta tu, đừng bước ra khỏi vòng này. Vòng này là gì.

Trước nhất, Phật quy định chúng ta phải an cư kiết hạ ba tháng. Chúng ta có tuân thủ hay không. Thầy nào không tuân thủ pháp hành này, không phải đệ tử Phật và đã ra ngoài vòng an toàn rồi, phải bị ma bắt thôi.

Theo kinh nghiệm riêng tôi, từ năm 1961 đến 1962, 1963, trong mùa hạ ba năm liền, tôi không ra khỏi chùa Ấn Quang. Đó là quy định dành cho chư Tăng giúp chúng ta tìm được giải thoát trong vòng đai an toàn. Vì vậy, việc cấm túc an cư rất quan trọng đối với đời sống người tu.

Về sau, Hòa thượng Thiện Hòa mở rộng thêm, không đi ra ngoài trong ba tháng an cư, trừ khi có Phật sự do Tăng sai. Khi sống khép kín có lợi cho việc tu học, nhưng không lợi cho việc hoằng hóa. Như vậy, mở ra cho quý thầy đi giảng dạy, làm lợi cho đạo.

Tôi nhờ sống khép kín như vậy, nên dư thì giờ đọc sách, đọc kinh và lạy Hồng danh Phật. Lần lần đời sống tôi thâm nhập vào dòng thác trí tuệ Như Lai, gọi là Dự lưu. Không phải tôi bị bắt buộc, nhưng hạnh phúc được ở yên tu hành, không bị phiền não quấy rầy. Ở yên một chỗ, dư thì giờ tụng kinh, sám hối, tham thiền, dễ dàng dẫn chúng ta vào con đường giải thoát mà Phật vẽ ra cho mình.

Kinh nghiệm tu của tôi, phải giữ mình trong ba tháng an cư được Phật quy định. Thầy nào, chùa nào giữ đúng luật này, thì Phật nói có Thiên long giữ gìn. Tụng kinh Pháp hoa, thấy rõ điều này. Phật khẳng định rằng người nào tuân thủ pháp này, Ngài khiến Bát bộ Thiên long giữ gìn, người nào sống trong Thiền định, Ngài sai hóa nhân cúng dường đầy đủ và được thấy Phật, nghe Phật thuyết pháp. Đó là lộ trình mà Phật đã vẽ ra cho chúng ta. Còn đi hay không là ở ta.

Trong một năm, suốt chín tháng chúng ta bận nhiều việc, thì ba tháng an cư, cần nỗ lực thể nghiệm pháp Phật để thấy hằng sa Phật.

Làm đạo, thầy có công đức dễ làm đạo hơn. Nhưng thiếu công đức, chắc chắn gặp khó khăn vô cùng. Tu theo Phật, tất yếu phải ép vào khuôn tu hành.

Sáng nay, tôi giảng ở trường hạ Học viện Phật giáo TP.HCM, đây là năm đầu tiên, tôi ép Tăng Ni sinh viên vào khuôn tu hành, có học thì phải có tu. Người không ở trong nội giới tu hành ba tháng an cư, dù học giỏi cũng không được ra trường, vì có học nhưng không có hạnh.

Vì vậy, quy định của Học viện, ít nhất có hai năm nội trú, tức có tu, thể hiện được hạnh tu, sau này mới có thể ra làm đạo. Mới “có thể” thôi, chứ cũng chưa chắc, vì ra làm đạo, thiên ma ngoại đạo có vô số bẫy. Cho nên, chúng ta thấy có nhiều người tu học, nhưng được việc không nhiều.

Cần nhớ rằng người tu không an cư không phải đệ tử Phật, không được Thiên long Bát bộ giữ gìn, không được Phật phóng quang gia hộ. Tu như vậy, một thời gian sẽ rớt vào ngoại đạo, làm nô lệ cho ngoại đạo.

Điều thứ hai, Phật dạy rằng hành Bồ-tát đạo đáng quý, nhưng phải đắc Thánh quả A-la-hán mới có đủ đạo lực để hành Bồ-tát đạo. Chưa đắc A-la-hán, thì chưa tin được tâm mình, cứ nghĩ mình tốt, nhưng chắc gì mình tốt.

Tôi quan sát có người hành Bồ-tát đạo để mau thành Phật, nhưng muốn mau thì lại càng lâu. Vì vậy, Phật quy định phải đắc Thánh quả, chưa đắc Thánh quả mà muốn độ người, rất nguy hiểm.

Thầy chưa đắc Thánh quả muốn độ người xuất gia, nên bỏ ý này. Chưa đắc Thánh quả, độ người là gánh nặng vô cùng, vì đi một mình không nổi, còn đeo mang thêm, làm sao đi. Thật vậy, chúng ta xuất gia, từ bỏ tất cả để ra khỏi sinh tử, bản thân không đi nổi, còn gồng gánh thêm bà con nữa chỉ có nước ngã quỵ.

Phải tạm gác việc hành Bồ-tát đạo sang một bên. Tu Pháp hoa gọi điều này là thệ nguyện an lạc. Nói như vậy là lấy ý của Phật. Khi Phật đi xuất gia, Ngài hẹn khi nào được giải thoát sẽ quay lại hoàng cung độ quyến thuộc. Chưa đắc đạo thì Ngài không trở về nhà.

Thực tế chúng ta thấy thầy xuất gia mà còn kẹt gia đình, cha mẹ, anh em, bạn bè, khó đi xa, không giải thoát.

Phải một mạch đi tới để đạt giải thoát. Vì vậy, Phật quy định muốn đắc La-hán, phải theo lộ trình này, trừ trường hợp người có cha mẹ già không ai nuôi dưỡng, Ngài cho phép lo cho cha mẹ.

Tôi thấy có Tỳ-kheo tìm đất cất chùa, đất chưa tìm được đã chết, hay tìm được rồi, trả tiền chưa xong thì chết, hoặc ráng hơn, cất chùa xong cũng chết. Vì ráng quá sức, nên chết nhưng không biết về đâu.

Phải tìm đường giải thoát cho mình trước, hẹn người thân khi nào mình thành Vô thượng Chánh đẳng giác sẽ quay trở lại.

Có thầy bỏ được gánh nặng gia đình, nhưng nặng gánh chùa, nặng gánh bổn đạo, rồi than rằng làm trụ trì là làm dâu trăm họ.

Thiết nghĩ ta xuất gia không cần làm vừa lòng bất cứ ai. Người thật tu không lệ thuộc tình cảm, không lệ thuộc xã hội, không lệ thuộc thiên nhiên. Còn lệ thuộc những thứ này, chắc chắn còn trong sinh tử. Còn lệ thuộc vui buồn, vinh nhục, còn tiếp tục gánh sinh tử, dù mặc áo tu.

Phải làm sao không lệ thuộc xã hội, không lệ thuộc thiên nhiên, mình mới giải thoát. Thử hỏi các thầy cần bổn đạo, cần tiền bạc, cần chùa hay không.

Riêng tôi, sợ bổn đạo đông, sợ chùa lớn, sợ chùa nhiều, gánh không nổi. Sợ chức vụ mà Giáo hội giao phó, không gánh được, không phải đi tìm.

Tôi luôn suy nghĩ lúc nào mình phải buông. Vì Tăng sai, mình phải làm mọi việc với tất cả tấm lòng. Buông được phần nào, mình nhẹ phần đó.

Được Giáo hội giao phó, gọi là Tăng sai, chúng ta làm những chức danh Trưởng ban, Phó ban Ban này Ban kia. Tuy nhiên, lại có thầy ưa danh, lãnh chức nhưng không làm việc, như vậy xấu hổ hay không. Người hiểu đạo thì sợ danh, sợ đại chúng tin tưởng, giao phó mà không làm được. Nói như vậy không có nghĩa là thầy cô từ chối việc Tăng sai. Vì con mắt của Tăng thấy mình làm được mới giao việc, mình phải nỗ lực làm.

Trên bước đường tu, tôi nhờ Tăng sai, hết lòng làm, nên chư Tăng hộ niệm, hợp tác với mình. Còn chư Tăng không muốn mình làm, có làm cũng không thành công, nên phải từ chức, hay không được ai hợp tác phải từ chức. Thậm chí bị chống đối cũng phải từ chức.

Thí dụ Ban Trị sự thấy thầy có khả năng, nên bổ nhiệm trụ trì, thì phải dốc toàn lực phụng sự chùa, gọi đó là làm tôi cho Phật. Làm hết sức mình mà được Phật hộ niệm, chắc chắn việc thành tựu. Trái lại, nếu Phật bỏ, không hộ niệm, thì nên từ chức. Phật hộ niệm, việc khó mấy chúng ta cũng làm. Quyết tâm như vậy mới thành công.

Tôi có kinh nghiệm khi gặp khó, khổ, nhưng tôi không sợ, chắc chắn Phật thương mình, hộ niệm cho mình vượt qua khó, khổ. Phật hộ niệm, mình không thấy, nhưng quần chúng thương mình, hợp tác thì thấy. Đến nơi nào hành đạo, bà con hết lòng giúp đỡ, ta làm việc dễ dàng.

Xưa kia, các vị Tổ lập lều cỏ tu hành, không mua đất cất chùa, nhưng hành đạo, sức cảm hóa của các Ngài khiến quần chúng kính mến, nên họ hợp lực cùng nhau xây dựng chùa.

Chùa Kim Cang cũng vậy. Tổ đến đây không mua đất cất chùa, nhưng Ngài quán nhân duyên thấy dân chúng vùng này và Ngài có mối quan hệ vô hình, mới cất am tranh tu. Nghĩa là Tổ quán nhân duyên giữa Ngài và quần chúng xem Ngài làm được gì cho họ. Ngồi yên lặng, quán sát dân tình, thấy người bệnh nặng, thiền sư giỏi, biết đúng bệnh và làm thuốc cứu người. Kinh Dược Sư nói làm thuốc cứu người thì phước nhiều vô lượng, hiện đời được người kính trọng… sẽ thành Vô thượng Chánh giác. Người tu ngồi yên quán sát coi nhân dân cần gì, tìm cách giúp đỡ, nên được dân thương, kính quý và họ xây thêm nhà cho người đến tu học.

Ta chỉ lo tu giải thoát, người thương muốn làm theo ta để được thanh thản như ta thì họ tìm đến và ta dạy họ, họ tự tạo điều kiện sống. Ngày xưa, Tổ Huệ Đăng tu trong hang hổ, nhưng Ngài đắc đạo, các Hòa thượng ở khắp Nam Kỳ muốn học đạo, ra Bà Rịa ở với Tổ, rất đông, thì làm sao có chỗ cho các thầy ở. Các thầy phải lên núi che nhà ở, hái măng rừng ăn. Tổ chỉ tu. Nói rằng Ngài làm, nhưng thật ra là chư Tăng làm để sống, để tu. Vì vậy, chư Tăng đến đông, thì chùa lớn, mở rộng thêm.

Kinh nghiệm tôi thấy làm trụ trì phải quán sát nhân duyên giữa mình và dân chúng. Nếu ta thương họ, họ quý ta là chỗ đó ta hành đạo được. Như ngài Linh Hựu lên Quy Sơn dựng nghiệp, mở rộng tông môn, vì với huệ nhãn của người đắc đạo, vùng đất đó là nơi hành đạo của ngài. Nếu không thấy bằng mắt huệ, nhưng dùng tâm phàm tục hành đạo, là biến Phật đạo thành tà đạo, sớm muộn cũng thọ quả báo.

Tóm lại, giáo lý Phật tuy nhiều, nhưng chung quy gom lại một câu chính yếu rằng người thấy nhân duyên là thấy pháp. Người thấy pháp là thấy Như Lai. Các thầy suy nghĩ yếu lý của câu này trên đường hành đạo và áp dụng đúng đắn sẽ gặt hái được tiến bộ.

Cầu Phật gia hộ tất cả hành giả an cư luôn an lành trong Chánh pháp.

HT.Thích Trí Quảng

Ánh sáng cuối đường hầm

Ánh sáng cuối đường hầm

Đăng lúc: 09:52 - 05/07/2016

Giây phút nghe thấy tiếng chuông chùa ngân vang em như người mê bừng tỉnh khỏi cõi mộng. Em có thể ngửi được hương hoa đại đang lan tỏa trong không khí, nghe thấy tiếng chim hót trên mái chùa. Cảnh vật xung quanh em bỗng bình yên đến lạ kì.
Những tháng ngày sống trong bóng tối

Tôi tình cờ gặp em trong một khóa tu mùa hè, tính đến nay đã được hai năm. Ngày ấy, tôi ấn tượng bởi nụ cười và sự nhiệt tình của chàng trai trẻ ấy. Tôi nhìn thấy được sức sống trong ánh mắt và trong từng hành động của em với các bạn đồng tu. Thoáng nhìn vẻ bề ngoài chắc không ai biết được em từng có một khoảng thời gian chìm đắm trong sắc dục, không tìm được lối thoát.

Đó là năm em tốt nghiệp đại học. Sau khi có kết quả thi chờ ngày nhập học em cũng như chúng bạn dành hết thời gian vào việc nghỉ ngơi, thư giãn. Vì mới được tiếp cận với internet nên điều gì với em cũng đều mới mẻ và lạ lẫm. Từ đó, bất kể ngày hay đêm, lúc nào em cũng dính chặt vào màn hình máy tính. Và rồi em rơi vào lưới mê của con ma sắc dục lúc nào không hay.

Với bản tính tò mò của một đứa trẻ mới lớn, em chìm đắm trong các trang web đen và bị nhiễm một thói quen vô cùng xấu, đó là thủ dâm. Từ khi nhiễm thói quen xấu này, trí óc và thể lực của em giảm sút cực độ. Thành tích học tập cũng theo đó sa sút nghiêm trọng. Khi ấy, lúc nào em cũng nhốt mình trong căn phòng tối mịt, lảng tránh ánh nhìn cũng như khước từ những lời hỏi han, quan tâm của cha mẹ. Bởi với em, lúc này chỉ có thủ dâm mới đem tới sự khoái lạc.

Thủ dâm thật sự là một căn bệnh nguy hiểm bởi một khi đã dính vào thì rất khó thoát ra được. Có khi nó còn đáng sợ hơn cả ma túy. Em tâm sự những tháng ngày đó với em như sống trong bóng đêm vậy. Cả ngày em cũng không nhìn thấy ánh sáng, cứ mải mê đắm chìm vào nó rồi mệt lả đi lúc nào không hay.

Lúc đó nếu không may mắn được cậu bạn thân giúp đỡ thì có lẽ bây giờ em đã chết yểu rồi. Sau khi phát hiện ra thấy em có nhiểu biều hiện khác thường, cậu bạn đã gặng hỏi. Và lúc biết chuyện, bạn kiên quyết bắt em bỏ thói quen đó ngay lập tức. Nhưng đã nghiện thì làm sao dễ dàng bỏ cho được. Cuối cùng vào mùa hè năm ấy, cậu bạn đó “lừa” em đến tham gia một khóa tu mùa hè. Nói rằng ai tham gia sẽ được bồi dưỡng tiền mà em cũng tin. Vì từ lúc dính vào con ma sắc dục kia có lúc nào đầu óc em minh mẫn hay tỉnh táo đâu? Nhưng không ngờ đây lại là cơ hội giúp em phá tan được bóng đêm đen tối đang bủa vây lấy mình.


Ánh sáng trí tuệ của đạo Phật đã cứu rỗi một tâm hồn

Giây phút nghe thấy tiếng chuông chùa ngân vang em như người mê bừng tỉnh khỏi cõi mộng. Em có thể ngửi được hương hoa đại đang lan tỏa trong không khí, nghe thấy tiếng chim hót trên mái chùa. Cảnh vật xung quanh em bỗng bình yên đến lạ kì.

Những ngày được nghe các thầy giảng pháp và tham gia vào các hoạt động của khóa tu đã giúp em nhận ra được rất nhiều điều quý giá mà trước đây em không hề hay biết. Trong lòng em lúc này trào dâng niềm ân hận và nuối tiếc khi đã vùi lấp tuổi thanh xuân của mình cho thói quen xấu kia. Dẫu muộn màng nhưng quay đầu là bờ, em tự hứa với bản thân sẽ quyết chí làm lại cuộc đời của mình.

Trong cuốn sách “Đệ Tử Quy” có một lời dạy em rất tâm đắc: “Thân hữu thương di thân ưu, đức hữu hương di thân tu” (Dịch: Nếu thân thể của chúng ta bị thương thì cha mẹ sẽ lo âu. Nếu đức hạnh của chúng ta không tốt thì cha mẹ cũng cảm thấy tủi hổ”). Nói như vậy mới thấy thủ dâm không khác gì hành động bất hiếu đối với cha mẹ. Vì đó là hành động “tổn thân bại đức”, phương hại đến thân mạng và đức hạnh của chính mình. Thế mới hiểu vì sao người xưa vẫn luôn dạy: “Trăm cái ác, dâm đứng đầu. Vạn cái thiện, hiếu đứng đầu”.

Từ ngày tham gia khóa tu mùa hè ấy, em đã có những chuyển biến mãnh liệt trong nhận thức của mình. Em xóa sạch những trang web đen và chia sẻ kinh nghiệm của mình tới những người mắc phải “căn bệnh” giống như em. Em tâm sự với tôi lúc nào cũng háo hức tới mùa hè vì được tham gia các khóa tu cũng như đi từ thiện trên các vùng cao để giúp đỡ các mảnh đời khó khăn, cơ nhỡ.

Em chỉ mong sao sẽ có thật nhiều bạn trẻ tham gia các khóa tu do các chùa tổ chức. Bởi em biết đây sẽ là cơ hội để các bạn có thêm mối quan hệ trong xã hội, hạn chế và ngăn ngừa được các căn bệnh dễ gặp ở giới trẻ hiện nay như vô cảm, nghiện internet, ích kỉ, thực dụng.

Nhìn nụ cười hạnh phúc của em khi làm các công việc phật sự và cùng các huynh đệ hướng dẫn các em mới đến tu tập tôi thấy hoan hỉ biết mấy. Thiết nghĩ đạo Phật nếu được dạy trong trường học sẽ trang bị cho em hành trang vững chắc để tiến bước vào đời. Các em sẽ biết cách san sẻ tình yêu thương với mọi người, đủ tỉnh táo để không bị cuốn vào những cám dỗ trần tục. Và trên tất cả, các em sẽ biết cách nuôi dưỡng hạt giống từ bi và mở rộng tri kiến cho mình.

Đức hạnh là hành trang mỗi người nên tích lũy và vun trồng

Đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ đã từng nói: “Tôi ngẫm thấy “Tre già thì măng mọc”, nói như vậy cũng chỉ là vu khoát, cần nói thêm rằng: tre già phải được dùng vào việc có ích và măng mọc cũng cần có hàng có lối, cần được chăm sóc và bảo vệ thì mới thẳng, mới đẹp, mới có ích cho đạo cho đời.”

Theo góc nhìn của cá nhân, tôi thấy việc hướng dẫn thế hệ trẻ biết đến đạo pháp là một việc làm cần thiết và đúng đắn. Một trong những bước đi đầu tiên đó là tạo cơ hội cho các em tham gia vào các khóa tu mùa hè. Bởi mái chùa là môi trường thích hợp giúp các em học được những bài học đầu đời giản đơn nhưng vô cùng quan trọng. Đó là tứ trọng ân: hiếu kính cha mẹ, tôn trọng sư trưởng, biết ơn tổ quốc và tôn trọng mọi người xung quanh.

Khi thấu hiểu những lời dạy ấy, các em sẽ không lao vào lối sống xa hoa buông xuôi theo thế tục hay lối sống gò bó bắt buộc phải khép mình trong giới luật. Giờ đây, các em sẽ biết xây dựng một cuộc sống an lạc xuất phát từ nội tâm.

Như vậy, các em dù không thành công nhưng cũng thành nhân. Lúc này, các em sẽ không còn bị phiền não khuấy động, tâm phẳng lạnh như mặt nước hồ thu, gương mặt sáng tựa như trăng rằm. Đại thi hào Nguyễn Du xưa kia đã từng viết:

“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.”

Thật hạnh phúc khi là con Phật

Thật hạnh phúc khi là con Phật

Đăng lúc: 15:00 - 17/06/2016

Trôi lăn từ muôn kiếp nào. Không nhớ, không biết. Hễ cứ sinh ra thì tiếp tục trôi lăn. Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng. Phải gắng sức học hành, thi cử, làm lụng, lao tâm khổ trí, tốn hao thời gian để có được những thứ ấy. Có khi vì bất tài hoặc vì kém may mắn, phải tìm cách chiếm đoạt từ kẻ khác, nơi khác, làm khổ người để được phần mình. Được rồi thì ăn ngon, ngủ kỹ - những thú vui khác lần lượt xuất hiện, lôi kéo mình vào cuộc sống hưởng thụ xa hoa, không còn nhớ nghĩ đến niềm đau nỗi khổ của người khác.

La Phat tu.jpg
Con Phật là ai? - Là người biết nghĩ điều lành, nói điều lành, làm việc lành. Đơn giản vậy thôi

Một hôm mỏi mệt, dừng bước bên hiên chùa, lắng nghe một bài kinh, nghiền ngẫm một câu pháp. Bất chợt bừng ngộ. Bao nhiêu kiếp đời trầm luân, bao nhiêu năm tháng mê muội, chỉ trong một chớp mắt, tụ thành một mặt trời rực sáng rồi vỡ thành tro bụi rơi xuống thềm không môn. Từ đó quay về với Phật, trọng Pháp, kính Tăng, thấy rõ con đường để cất những bước chân hướng đến giải thoát tối thượng.

Cũng từ đó được mệnh danh là Phật-tử, là con của Phật. Đứa con này được sinh ra từ miệng của Phật, do từ lời vàng của Phật mà hóa sinh. Bởi là con của Phật, biết tự tâm vốn hàm tàng hạt giống của Như Lai, biết mình có thể nương nơi Pháp, dựa nơi Tăng, mà chăm bón và phát triển hạt giống ấy. Nếu hạt giống không có sẵn, dù trải muôn triệu kiếp nỗ lực huân tu, vẫn không thể nào trở thành Phật như Phật.

Nếu không tin và thực hành Pháp, dù trải muôn triệu kiếp kính Phật, vẫn không thể nào trở thành Phật như Phật. Nếu không kính Tăng, không thân cận Tăng mà học hỏi như những bậc thầy thay mặt Phật hướng dẫn dìu dắt mình, dù trải muôn triệu kiếp tin Phật tin Pháp, vẫn không thể nào bước được những bước chân vững chãi đến giác ngộ an vui.

Là con Phật, thật hãnh diện, thật hạnh phúc. Trôi lăn bao nhiêu đời kiếp, học hỏi bao nhiêu đạo sư, chưa thấy ai cho mình niềm tự tin về phẩm tính siêu việt sẵn có, về khả năng thành Phật của mình, như là Đức Phật.

Làm con Phật, chắc chắn sẽ thành Phật. Tin và hiểu thâm sâu điều này, tức là chuẩn bị đầy đủ hành trang cho chuyến viễn trình tiến về Phật quả. Nếu không tin, không hiểu, và không làm những việc phù hợp với phẩm tính Phật của mình, thì dù tại gia hay xuất gia, cũng chỉ là lạm xưng, không thể tự nhận là con Phật.

Bởi vậy trong hiện đời, khi có thể khẳng định mình là con Phật, phải sống như là một người con hiếu.

Hiếu này không phải là phụng dưỡng cha lành, mà chính là chăm bón, tưới tẩm và phát triển hạt giống Phật của mình.

Đứa con hiếu ấy, nếu không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như Chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác; nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quan sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân; nếu không suy nghĩ được như Phật, hãy lắng tâm, tịnh mặc, đừng dấy khởi những ý niệm thị-phi, nhân-ngã, hơn-thua, chỉ gieo khổ đau đến người và làm tiêu mòn công đức của mình.

Con Phật là ai? - Là người biết nghĩ điều lành, nói điều lành, làm việc lành. Đơn giản vậy thôi.
Nguyễn Hoài Nam

Trách nhiệm ở nơi mình

Trách nhiệm ở nơi mình

Đăng lúc: 20:49 - 12/06/2016

Bạn phải rèn tánh can đảm để nhìn nhận khi mình phạm lỗi là do thiếu sót của mình.

Theo bản tính con người, tất cả chúng ta đều có khuynh hướng đổ lỗi, trách móc người khác vì những thiếu sót hay bất hạnh của mình. Có bao giờ bạn nghĩ lại rằng chính mình phải chịu trách nhiệm về những vấn đề của mình? Nỗi muộn phiền, bất hạnh của bạn không phải do lời nguyền của ai đó dành cho gia đình bạn, và được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mà chúng cũng không phải do tội của vị tổ tông nào đó đã đội mồ lên để ám bạn. Nỗi khổ đau của bạn cũng không do Thượng đế hay ma quỷ nào tạo ra. Chính bạn là người tạo khổ cho mình. Chính bạn là người gây bất hạnh cho mình. Chính bạn mới có thể giải thoát cho mình.

Bạn phải tập gánh trách nhiệm cho cuộc đời mình và thừa nhận khuyết điểm của bản thân chứ không oán trách hay phiền hà người khác. Hãy nhớ câu nói của người xưa: “Kẻ vô học luôn đổ lỗi cho người; kẻ có chút học thức tự trách mình, còn người trí không đổ lỗi cho gì cả”.

Là người trí, bạn phải tập tự giải quyết vấn đề của mình mà không trách móc ai cả. Nếu mỗi cá nhân đều cố gắng tự sửa lỗi mình, thì thế giới này sẽ được bình an. Nhưng phần đông chẳng mảy may cố gắng để nhận thức rằng chính họ mới phải chịu trách nhiệm cho rất nhiều bất hạnh xảy ra cho mình. Họ thích tránh né. Họ nhìn ra ngoài để tìm kiếm nguồn gốc vấn đề vì họ miễn cưỡng, không muốn thừa nhận những thiếu sót của bản thân.

Tâm con người thường dễ tự dối mình, nên không ai muốn thừa nhận những yếu kém của bản thân. Họ sẽ tìm lý do gì đó để biện hộ cho hành động của mình và tạo ra ảo tưởng rằng mình không có lỗi. Nếu ta thực sự muốn được giải thoát, ta phải có can đảm thừa nhận sự yếu kém của mình. Đức Phật đã nói: “Thật dễ thấy lỗi người/ Quá khó để nhận ra lỗi mình”.

Bạn phải rèn tánh can đảm để nhìn nhận khi mình phạm lỗi là do thiếu sót của mình. Bạn phải thừa nhận là mình sai. Đừng bắt chước theo kẻ ngu luôn đổ lỗi cho người. Đừng lấy người làm bia đỡ đạn cho mình - làm vậy thật đáng trách. Hãy nhớ rằng bạn có thể thể lừa dối một số người trong một khoảng thời gian, nhưng không thể lừa dối tất cả mọi người, ở mọi lúc. Đức Phật đã dạy: “Kẻ ngu mà không nhận mình ngu, mới thực sự là ngu. Còn người ngu nhưng biết mình ngu thì trong mức độ nào đó cũng là khôn”.

Hãy nhìn nhận sự yếu kém của mình. Đừng trách móc người khác. Bạn phải nhận thức rằng bạn chịu trách nhiệm cho những bất hạnh và khó khăn xảy đến cho bạn. Bạn phải hiểu rằng cách bạn suy nghĩ cũng tạo ra những điều kiện khiến khó khăn xảy đến với bạn. Bạn phải luôn nhớ rằng, bạn có trách nhiệm đối với những vấn đề của mình. Bạn phải luôn nhớ rằng, bạn có trách nhiệm đối với bất cứ điều gì xảy ra cho bạn. “Không phải thế giới có vấn đề, mà vấn đề là ở chúng ta”.

Bạn phải chịu trách nhiệm về mối liên hệ với người khác

Hãy nhớ rằng bất cứ điều gì xảy ra, bạn sẽ không cảm thấy bị tổn thương nếu bạn biết cách giữ tâm thanh thản. Bạn bị tổn thương chỉ vì thái độ tình cảm mà bạn chấp trước đối với bản thân và đối với người. Nếu bạn thương yêu, tử tế với ai, bạn sẽ được đáp trả bằng thái độ thương yêu, tử tế. Nếu bạn tỏ thái độ hằn học, chắc chắn không bao giờ bạn được đáp trả bằng tình thương yêu. Một người sân hận chỉ thở ra khí độc và tự hại mình hơn là hại người. Người trí không để lòng sân khởi lên đáp trả lại sân thì sẽ không bị tổn thương. Hãy nhớ rằng không ai có thể làm tổn thương bạn trừ khi bạn để cho họ làm thế. Khi người khác trách móc, đổ lỗi cho bạn, nhưng bạn một lòng vững tin nơi Pháp (chân lý), thì Pháp sẽ bảo vệ bạn khỏi những sự tấn công, đả kích bất công. Đức Phật đã thuyết: “Ai xâm hại người lành/ Trong sạch, không nhiễm ô/ Điều xấu sẽ rơi ngay kẻ ấy/ Giống như tung bụi ngược chiều gió”.

Nếu bạn để cho người khác thỏa mãn ý nguyện muốn làm tổn thương bạn, thì bạn là người chịu trách nhiệm.

Đừng trách người - Hãy nhận trách nhiệm

Bạn phải tập canh giữ tâm bằng cách duy trì một quan điểm đúng đắn để không có bất cứ điều gì xảy ra ở bên ngoài có thể khiến bạn chao đảo. Bạn đang gặp khó. Nhưng bạn không nên trách móc hoàn cảnh khi sự việc không theo ý mình. Bạn không nên nghĩ rằng mình kém may mắn, là nạn nhân của số mệnh, hay do tâm địa ác độc của người. Không cần biết lý do của bạn là gì, bạn không nên cố gắng đun đẩy trách nhiệm của mình, bằng cách đổ lỗi cho hoàn cảnh. Hãy cố gắng giải quyết vấn đề của bạn một cách vui vẻ. Trong những lúc khó khăn, hãy sống lạc quan. Can đảm chấp nhận thay đổi nếu cần thiết, nhưng cũng phải đủ kiên quyết không chấp nhận điều gì bạn không thể thay đổi. Cần có đủ khôn ngoan để hiểu những vấn đề trong cuộc sống, giống như mọi người khác. Nhưng cũng phải khôn đủ để đối mặt với một số vấn đề mà không cảm thấy bất lực, khổ đau. Những khó khăn là thách thức để chúng ta vượt qua. Những người cố gắng phục vụ người khác gặp nhiều phiền phức hơn những kẻ không làm gì, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là người tốt nên chạnh lòng. Họ cần phải có trí tuệ để nhận thức rằng việc phục vụ không vì tự ngã sẽ có phần thưởng riêng của nó.

“Yêu thương mà không có trí tuệ hoặc có trí tuệ mà không có tình thương đều không thể mang đến một cuộc sống tốt đẹp” (B. Russel).

Bạn phải chịu trách nhiệm về sự bình an nội tâm của mình

Bạn phải học cách bảo vệ sự bình an, thanh tịnh mà bạn đã tạo ra được trong tâm mình. Để gìn giữ nội tâm thanh tịnh, bạn phải biết lúc nào cần đầu hàng; lúc nào phải dẹp bỏ tự ái qua một bên, lúc nào phải che lấp cái ngã giả tạo, lúc nào phải thay đổi thái độ ương ngạnh, hay tà kiến và lúc nào phải thực hành kiên nhẫn. Bạn không nên để kẻ khác tước đoạt sự an bình nội tâm của mình. Bạn có thể duy trì điều đó nếu bạn biết cách hành động khôn ngoan. Trí tuệ xuất hiện khi ta nhận biết vô minh. “Con người không phải là một thiên thần gãy cánh, mà là một sinh vật đang vươn lên”.

Thái độ đúng đắn đối với sự chỉ trích

Bạn phải học cách bảo vệ mình khỏi những chỉ trích bất công và tận dụng những góp ý có tính xây dựng. Bạn phải xem xét một cách vô tư, khách quan những góp ý của người đối với mình. Nếu sự phê bình, góp ý là chính xác, có cơ sở, xuất phát từ thiện ý, thì hãy chấp nhận chúng và sửa đổi. Tuy nhiên, nếu sự chỉ trích, phê bình bất công, không có cơ sở, xuất phát do ác ý, thì bạn không phải chấp nhận chúng. Nếu bạn biết cách ứng xử của mình là đúng, được người trí, có văn hóa chấp nhận, thì đừng lo lắng về sự chỉ trích không có cơ sở đó. Việc bạn hiểu đúng về cả hai sự phê bình có tính xây dựng và ác ý mới là điều quan trọng. Đức Phật đã dạy: “Trên đời này không có ai là không có lỗi”.

Đừng mong đợi điều gì thì không có gì làm bạn thất vọng

Bạn có thể bảo vệ mình khỏi thất vọng bằng cách không mong đợi điều gì quá đáng. Nếu bạn không trông đợi gì, thì không có gì làm bạn thất vọng. Đừng mong đợi phần thưởng cho những gì bạn đã làm được. Hãy làm điều thiện một cách bất vụ lợi bằng lòng tử tế. Nếu bạn có thể giúp đỡ người khác mà không trông đợi sự đáp trả nào, thì bạn không có gì để phải thất vọng. Bạn sẽ là người vĩ đại! Nguồn hạnh phúc phát khởi trong tâm do làm việc thiện chính là phần thưởng lớn của bạn. Hạnh phúc đó khiến ta cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn.

Có lẽ bản tính bạn là người tốt, bạn không làm hại đến ai. Dầu vậy bạn vẫn bị người khác chê trách. Bạn phải đối đầu với những khó khăn, thất vọng dầu luôn giúp đỡ và làm điều tốt cho người. Lúc đó bạn có thể nghĩ, “Nếu làm tốt được tốt, làm xấu bị điều xấu, thì tại sao tôi phải gặp tai ương khi tôi hoàn toàn không có lỗi gì? Tại sao tôi có quá nhiều bất hạnh? Quá nhiều thất vọng? Tại sao tôi bị người khác trách móc, phàn nàn dầu tôi làm điều tốt cho họ?”. Câu trả lời đơn giản là khi bạn thực hiện một số việc tốt, bạn phải đối mặt với một số năng lực xấu, một số ma lực. Nếu không, thì là bạn đang gánh chịu một nghiệp xấu đã trổ quả.

Hãy tiếp tục làm điều tốt, rồi dần dần bạn sẽ thoát khỏi những tai ương đó. Hãy nhớ là chính bạn đã tạo ra sự thất vọng cho bản thân và chỉ có bạn mới có thể vượt qua được những thất vọng này, bằng cách quán chiếu về bản chất của nghiệp (hành động và phản ứng) và bản chất của cuộc sống như Đức Phật đã từng mô tả: “Nếu bạn có thể bảo vệ bản thân thì bạn có thể bảo vệ người khác”.

Nguyên tác HT.K. Sri Dhammananda
Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ

(Từ You Are Responsible, trích trong quyển Purpose of Life, Nxb Kong Meng San Phor Kark See Monastery, Awaken Publishing & Design, Singapore)


Về tác giả: HT.K. Sri Dhammananda sinh năm 1919 tai miền Nam Tích Lan. Năm 12 tuổi, ngài xuất gia làm Sa-di, với pháp hiệu Dhammananda, có nghĩa là “người trải nghiệm được hạnh phúc nhờ nương tựa vào Pháp”. Ngài thọ Đại giới năm 1940, sau đó hoàn tất chương trình cao hoc tại Ấn Độ. Năm 1952, ngài được chọn đi Ma Lai đê hỗ trợ cac nhu cầu vê tôn giáo của các Phật tử người Sinhalese ở xứ này.

Nguyên là một vị lãnh đạo trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy ơ Ma Lai và Singapore, ngài là tác giả của hơn 70 đầu sách về đạo Pháp, được dịch ra hơn 16 ngôn ngữ. Là một Pháp sư nổi tiếng, ngài thường được mời đến giảng pháp tại Mỹ, Úc, Anh, Âu châu va nhiều quốc gia khác ở châu Á. Ngài đã an nhiên ra đi ở tuổi 87 vào năm 2006.

Muốn có vận mệnh tốt, phải thay đổi 10 điều này từ trong tâm

Muốn có vận mệnh tốt, phải thay đổi 10 điều này từ trong tâm

Đăng lúc: 20:37 - 29/05/2016

Mọi đau khổ hay sung sướng của con người suy cho cùng đều tại tâm. Vì thế, muốn hạnh phúc và có vận mệnh tốt đẹp, nên thay đổi ngay những điều này.

Bởi thay đổi bản thân chính là cách tốt nhất để cải biến vận mệnh của mình.
Dục vọng không cần quá cao
Dục vọng không nên quá cao, bởi một khi nó không được sự thỏa mãn thì sẽ gây ra những bức bối, tâm thái sẽ mất đi sự cân bằng.
Suy tính ganh đua không thể quá nặng
Nếu một người cứ mải mê suy tính ganh đua với người này người kia thì sẽ “triệt tiêu” sự khoái hoạt của cuộc đời. Ganh đua không chỉ đánh mất đi sự vui vẻ mà còn làm mất đi vận may của một đời người.
Phải học được cách quên
Đừng canh cánh trong lòng những chuyện quá khứ không đáng nhớ. Những chuyện quá khứ là những chuyện đã xảy ra, không thể thay đổi được, hãy để nó qua đi, như vậy mới có thể giảm thiểu được rất nhiều sự phiền não, trong lòng mới có thể nhẹ nhàng, thoải mái.
Tha thứ để hạnh phúc đến gần ta hơn
Con người từ khi sinh ra đến khi về già và ngay cả là lúc cận kề sinh tử, chúng ta phải đối diện biết bao nhiêu là thị phi, oan ức, những khúc mắc giữa các mối quan hệ vợ chồng, con cái, bạn bè, người thân và cả những người xa lạ. Có nhiều người vì hận người chồng mình vì ông ta lỡ sai lầm một lần mà ôm hận cả đời đến lúc nhắm mắt xuôi tay, có người vì bị người khác gièm pha, nói xấu hay tranh quyền đoạt lợi mà nỗi oán ghét kẻ đó cứ chất chứa trong lòng. Tất nhiên, trong nhiều trường hợp vì kẻ khác có lỗi với ta nên ta mới sanh tâm phiền trách nhưng nếu có thể, chúng ta hãy tập tha thứ.
Mô tả ảnh.
Ảnh minh họa
Hạnh phúc không có nghĩa là giẫm đạp lên người khác
Hạnh phúc không phải là vơ vào cho mình thật nhiều mà ngược lại, bạn nên ban tặng, san sẻ những gì mình có cho người khác. Đó mới là hạnh phúc. Bản thân hạnh phúc tất vận mệnh sẽ tươi đẹp.
Đừng so sánh bản thân với người khác
Trong cuộc sống, đừng so sánh bản thân với người khác, cũng đừng có ước ao được như họ. Ai cũng có ưu điểm riêng của bản thân mình, ai cũng có nỗi khổ riêng mà người khác không biết.
Một khi so sánh, người ta thường hay lấy điểm yếu của bản thân để so sánh với điểm mạnh của đối phương, từ đó sinh ra chán ghét, điều đó chỉ làm tổn hại chính tâm thái của bản thân mình mà thôi!
Yêu thương, trân quý bản thân nhiều hơn
Chỉ có yêu thương, trân quý bản thân mình mới có năng lượng để yêu thương trân quý người khác. Nếu có đủ năng lực, hãy thường xuyên giúp đỡ người khác, như vậy bạn sẽ nhận được niềm vui, có nhiều niềm vui là cách giảm sức ép của cuộc sống.
Biết thế nào là đủ
Chúng ta hay cho rằng mình khổ đau và kém may mắn vì chúng ta luôn tham lam và không biết thế nào là đủ cả. Người có lòng tham cầu càng nhiều thì nỗi khổ càng lớn. Con người cứ nhìn cuộc sống này bằng ánh mắt bi quan, tiêu cực mà không nhìn lại những gì mà chúng ta đang có. Việc ham mê và cầu toàn quá chỉ khiến bản thân thêm bất hạnh mà thôi.
Đừng nói lời tổn thương người khác
Đừng tạo khẩu nghiệp, nói những lời tổn thương người khác ắt có ngày nhận quả bảo cho mình.
Dụng tâm đối mặt
Chỉ có dùng thật tâm, dùng tình yêu thương, dùng nhân cách để đối mặt với cuộc sống thì cuộc sống của bạn mới trở nên đặc sắc hơn!
Mỗi ngày cần bảo trì một tâm thái vui vẻ, lạc quan! Nếu như gặp những sự tình phiền lòng, hãy học cách vỗ về chính mình, tấm lòng rộng mở sẽ khiến bạn mạnh mẽ tự tin hơn để vượt qua.
Muốn có một tâm thái tốt, hãy dùng “lòng biết ơn” để nhìn thế giới, dùng “trái tim” để nhìn thế giới, không tính toán được mất, cảm động trước hết thảy việc làm của người khác. Khi ấy vận mệnh của bạn nhất định cũng trở nên tốt hơn!

Phật dạy "3 vô thường" giúp con người vượt qua cảm giác thất tình

Phật dạy "3 vô thường" giúp con người vượt qua cảm giác thất tình

Đăng lúc: 20:36 - 29/05/2016

Nếu chẳng thể đến với nhau, thôi đành coi như duyên phận đã tới cuối đường, rằng chỉ có thể cũng nhau đi một quãng, thế thôi.

Tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng và vô cùng cao đẹp. Tuy nhiên, không phải ai cũng may mắn yêu nhau, nắm tay và đi hết con đường. Có khi tình yêu dang dở, đứt gánh giữa đường. Người ta dễ rơi vào cảm giác thất tình, đau buồn, chán nản. Cảm giác thất tình, có lẽ mọi người trên trái đất này đều đã ít nhất một lần trải qua.
Con người gặp và yêu nhau là do duyên phận. Nhưng duyên phận lại là điều vô cùng kỳ lạ, không ai có thể hiểu thực sự về nó. Có thể hữu duyên vô phận. Có thể yêu nhau, nhớ nhau nhưng không thể gần nhau. Không cố ý đeo đuổi thì lại có, cố gắng có khi lại chẳng thành. Có câu "Có lòng trồng hoa, hoa chẳng nở, vô tình cắm liễu, liễu lại xanh" là vì thế.
Tuy nhiên, con người cũng nên hiểu rằng, hôm nay có duyên phận không có nghĩa cả đời có duyên phận. Có thể người ta chỉ đi được cùng nhau một quãng đường nào đó thôi.
Mất đi rồi cũng không nên quá ủ rũ, đau buồn, càng không thể nghĩ rằng thế giới này sụp đổ, bởi làm thế chỉ càng thêm đau lòng mà thôi. Người mất đi nhất định không phải người thích hợp nhất, vật mất đi nhất định không phải vật tốt đẹp nhất.
Bởi vậy khi thất tình chúng ta đừng nên nghĩ đó là 1 cái gì đó qua ghê gớm, rằng tình yêu của chúng ta vĩ đại ko thể thay thế, rằng anh ấy, cô ấy là người tuyệt vời nhất. Mà hãy nghĩ rằng đó chỉ là 1 giai đoạn sinh học nhất thời như chúng ta bị ốm vậy, dần dà theo thời gian khỏi bệnh, cơ thể chúng ta sẽ lại bình phục, khi đó nhìn lại thấy mình ngày xưa vật vã thật buồn cười.
Mô tả ảnh.
Ảnh minh họa
Đức Phật dạy: “Tất cả những gì trong thế gian đều biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Chúng ta đau khổ bởi cứ hy vọng tình yêu này là mãi mãi. Ta hãy cùng tìm hiểu vì sao như thế ? Vô thường có 3: thân vô thường, tâm vô thường và hoàn cảnh vô thường.
Thân vô thường. Thân thể bạn không mãi mãi khoẻ mạnh, không thể trẻ mãi không già. Từng sát na, từng giây trong thân bạn biến đổi, từng tế bào chết tế bào mới lại sanh…Các bạn không có phương pháp bảo vệ bản thân lỡ một ngày bạn bị ung thư, nhan sắc tàn phai, bị bệnh nan y … liệu người yêu bạn có còn mặn mà với bạn như xưa?
Tâm vô thường. Chúng ta phải biết rằng lòng người thay đổi – đổi thay. Con gái thì “sáng nắng, chiều mưa, trưa giông bão”, con trai thì chẳng biết đó là Lý Thông hay Thạch Sanh, chẳng ai mà đoán cho được. Người thì đi du học, người thì đi làm ăn xa, kẻ ở nhà mỏi mòn chờ đợi …rồi qua năm tháng “xa mặt cách lòng” chẳng mấy ai mà giữ cho được cái tình yêu thuở đó. Có thể bạn đang có một tình yêu đẹp nhưng cũng phải nhận chân ra một sự thật là trong tình yêu đó luôn ẩn chứa một sự đổ vỡ bởi vì đó là vô thường. Người Phật tử biết như vậy nên luôn sẳn sàng đón nhận những điều bất trắc có thể xảy ra trong tình cảm. Nhờ vậy, tránh được những hành động tiêu cực như bị sốc, thất tình tự tử vv…
Hoàn cảnh vô thường có nghĩa là vạn vật trước mắt bạn luôn thay đổi, tình thế thay đổi, thời cuộc thay đổi …Yêu nhau thật nhiều nhưng cũng không thể được gần nhau ví dụ như chiến tranh, thiên tai, tử nạn. Một khía cạnh khác của hoàn cảnh vô thường, ví dụ: Bạn Dần và bạn Mùi trước nghèo thì sao cũng được bổng dưng giàu có thì chẳng nhìn mặt nhau. Một chuyện khác, Bạn Sửu tích góp tiền để giúp bạn Tí-người yêu bao năm ăn học đàng hoàng đến khi tốt nghiệp thì người yêu gạt bỏ và yêu một người khác cùng đẳng cấp xã hội, có trí thức chứ ai lại mặn mà với bạn Sửu một người nghèo, ít học nhưng chỉ có tấm lòng. Trường hợp hoàn cảnh thay đổi như vậy thử hỏi Bạn Sửu có chịu nổi áp lực này không ? Người con Phật nên nhìn trước được hoàn cảnh để gìn giữ hạnh phúc mình.
Nhân duyên qua lời Phật dạy sâu sắc, giản đơn, con người ta tốt hơn hãy mở rộng tấm lòng mình. Cái mất đi là cái đáng quý, bởi mất đi cho ta tự nguyện, do duyên phận của đời ta. Cho nên dù nhiệt tình như lửa, ngọt ngào như hoa, ôn hòa như nước thì cũng là đoạn tình cảm đã qua, duyên phận đi tới cuối đường, buông tay cầu thanh thản.

Phong Linh (TH)

Phật dạy 10 nghiệp lành giúp con người gặp may mắn, hạnh phúc cả đời

Phật dạy 10 nghiệp lành giúp con người gặp may mắn, hạnh phúc cả đời

Đăng lúc: 20:30 - 19/04/2016

Theo giáo lý Nhân Quả của Đạo Phật, nếu muốn mình được khỏe mạnh, giàu sang, thông minh, sáng suốt, may mắn, hạnh phúc… thì con người phải gieo những nhân thiện lành, tránh điều xấu ác.



Phật dạy 10 nghiệp lành giúp con người gặp may mắn, hạnh phúc cả đời.

Dưới đây là 10 nghiệp lành Đức Phật đã chỉ ra cho hàng Phật tử tại gia giúp thọ nhận quả báo an vui, hạnh phúc:

1, Không sát sinh

Là không giết người và các con vật lớn như trâu, bò, ngựa, chó... Phật dạy không sát sinh bởi nhiều lý do – Tôn trọng sự công bằng – Tôn trọng Phật tánh bình đẳng – Nuôi dưỡng lòng Từ Bi – Tránh nhân quả báo ứng, oán thù.

Người hay sát sinh phải thọ nhận những quả báo xấu như thọ mạng ngắn, hay gặp tai nạn, bệnh tật, gặp những điều xui xẻo không may mắn thậm chí còn đọa địa ngục.

2, Không trộm cắp

Là không lấy vật không thuộc sở hữu của mình, mà không có sự ưng thuận hay cưỡng ép người ta ưng thuận bằng thế lực hay quyền hành của mình. Người không trộm cắp được quả báo giàu sang, an ổn.

3, Không tà dâm

Không tà dâm nghĩa là không chung sống với người không phải là vợ hay là chồng của mình. Những việc quan hệ nam, nữ không được pháp luật và xã hội thừa nhận đều được xem là tà dâm.

Lạc thú của việc tà dâm là nhất thời nhưng quả báo của nó lại rất khủng khiếp.

Một người có thể có mệnh phú quý, nhưng nếu phạm tội tà dâm, có thể trở nên khốn khổ lao đao suốt cuộc đời. Một người có mệnh được hưởng phúc và thọ, nhưng nếu phạm tội tà dâm, có thể bị tật nguyền hay chết yểu...

4, Không nói dối

Những lời nói dối đưa đến chém giết, hận thù, làm cho người tán gia, bại sản, phá vỡ bình yên, hạnh phúc của người khác, hay đưa đến ganh ghét, đố kỵ… đều chịu những quả báo rất cay đắng.



Nếu như người Phật tử tại gia Quy Y Tam Bảo giữ 5 giới thì người xuất gia (tu sĩ) phải thọ 250 giới đối với các vị tăng và 348 giới với vị ni.

Người Phật tử Quy Y Tam Bảo (Quy Y: quay về nương tựa, Tam Bảo: 3 ngôi báu Phật, Pháp, Tăng) nghĩa là thực hiện 5 giới cấm: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.

Nhiều người không dám Quy Y vì sợ không giữ được giới và sợ bị trừng phạt. Tuy nhiên đây là quan niệm sai lầm. Đức Phật là người thày, không phải thần thánh có thể ban phúc, giáng họa.

Giống như người mẹ nghiêm khắc, cấm con nhỏ không sử dụng dao sắc nhọn hoặc không chơi với ổ điện, đồ điện... Đức Phật chế ra 5 giới cấm không phải để ràng buộc, trừng phạt mà đó là tấm lá chắn bảo vệ đệ tử.

Nếu như người Phật tử tại gia Quy Y Tam Bảo giữ 5 giới thì người xuất gia (tu sĩ) phải thọ 250 giới đối với các vị tăng và 348 giới với vị ni.

Chúng ta giữ 5 giới đã thấy khó khăn, vất vả, trong khi các vị xuất gia tu hành chân chính, giữ giới, sống đời phạm hạnh. Hiểu điều này, chúng ta phải có thái độ kính trọng, chuẩn mực với người tu. Như vậy, chúng ta mới có phước báu.

5, Không vu oan, vu cáo

Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân nhưng lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân đã mãnh hơn nhiều. Việc này khiến chúng ta trở nên mù quáng, đánh mất nhân tính, rời xa đạo đức, luân lý và lẽ phải ở đời.

6, Không thâm thọc

Người không nói điều thâm thọc mà hòa nhã giúp mọi người yêu thường, đoàn kết với nhau sẽ được mọi người yêu quý, kính trọng.

7, Không nói thô ác

Lời cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc... là biểu hiện của người thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu lễ giáo nề nếp. Những lời nói ấy làm đau lòng người khác, đưa đến sự xô xát, đánh nhau.

Người có học thức, hiểu biết, có tu tập sẽ không nói những lời này. Người Phật tử phải dịu dàng, từ ái, khiêm tốn dễ nghe.



Người thực hiện được 10 nghiệp lành trên thì cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh sẽ vĩnh viễn đóng lại.

8, Không gian tham

Lòng tham được thể hiện qua những thái độ sau:

- Không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn với những gì mình đang có

- Luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia...

- Luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác.

- Luôn muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người.

Lòng tham khiến con người luôn cảm thấy bất an, đau khổ thậm chí là bất chấp làm mọi điều để thỏa mãn chính mình. Có thể nói lòng tham là nguyên nhân của mọi tỗi lội.

Muốn chấm dứt các khổ đau, phiền não thì phải biết vĩnh viễn từ bỏ lòng tham này.

9, Không sân hận

Sân hận có nhiều trạng thái, mức độ và biểu hiện khác nhau, ví dụ như: bực tức, giận hờn, nổi nóng, oán hận, căm thù… có khi biểu hiện qua nét mặt (nhíu mày, nhăn mặt, trợn mắt, nghiến răng…), thái độ, lời nói (la lối, quát tháo, gào thét, dọa nạt…), cử chỉ, hành động (quăng ném đồ đạc, hành hạ, giết chóc…), nhưng cũng có khi lại không biểu hiện ra mà được giữ kín trong lòng.

Đức Phật xem sân hận là một loại độc tố có khả năng tàn phá tâm hồn và thể xác con người không chỉ trong đời này mà cả những đời sau.

Trong kinh, Đức Phật thường gọi sân cùng với tham, si là ba độc. Đức Phật còn ví sân như lửa dữ, như giặc cướp, như rắn độc: “Sân hận còn hơn lửa dữ, thường phải đề phòng không cho nó xâm nhập. Giặc cướp công đức không gì hơn giận dữ…

10, Không si mê

Người không si mê là người biết phán đoán, nhận định một cách rõ ràng, đúng đắn, không biện minh che đậy sự mê mờ, dốt nát của mình và cũng không cố chấp vào kiến thức chủ quan của mình.

Người không si mê là người có trí tuệ thông minh thấu suốt nhân quả, luân hồi nên không bao giờ tạo tội ác, và luôn luôn có những hành vi rất thiện, thường tu Thập Thiện và sẵn sàng mang lòng từ bi đến mọi người.

Người thực hiện được 10 nghiệp lành trên thì cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh sẽ vĩnh viễn đóng lại. Đời đời kiếp kiếp được sống hạnh phúc, vui vẻ, được sinh Thiên, đi đâu cũng gặp Phật pháp, thiện trí thức bằng hữu hoặc những duyên lành, phước lành.

Xuân Thu

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 12
  • Hôm nay 3,862
  • Tháng hiện tại 40,317
  • Tổng lượt truy cập 23,446,566