Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Nhân duyên khởi ra Chánh kiến

Nhân duyên khởi ra Chánh kiến

Đăng lúc: 08:54 - 18/09/2017

Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạo là nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn. Trong đó, Chánh kiến tức nhận thức và quan điểm đúng Chánh pháp là chi phần quan yếu, có vị trí đứng đầu (Chánh kiến, …, Chánh định). Nhận thức và quan điểm đúng Chánh pháp sẽ quyết định sự nghiệp tu hành luôn đúng với lời Phật dạy, không bị thiên lệch, thẳng đến giải thoát Niết-bàn.
buddhism-2387822_960_720.jpg
Bát Chánh đạo là nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn

Thời Thế Tôn còn tại thế, vẫn có một số ít Tỳ-kheo nhận thức sai Chánh pháp. May thay, các vị này được Thế Tôn nghiêm trách và chấn chỉnh kịp thời. Ngày nay, chúng ta tu học trong thời đại cách Phật lâu xa, Thánh tăng ngày càng ít, trong khi hầu hết là phàm và tạp tăng, cùng với sự nhận thức và diễn giải kinh pháp theo tư kiến chủ quan ngày càng gia tăng khiến cho người sơ học gần như lạc lối trong rừng giáo pháp, mỗi người nói một phách nên chẳng biết theo ai, khó phân định đúng sai, tà chánh. Hơn lúc nào hết, người tu Phật hiện nay cần bám sát những lời dạy của Thế Tôn được bảo tồn trong Kinh tạng để thiết lập và nêu cao Chánh kiến.

Chánh kiến tuy có nhiều tầng ý nghĩa, sâu cạn khác nhau nhưng căn bản vẫn là: Tin hiểu Nhân quả-Nghiệp báo; Tin sâu Bốn Thánh đế; Thấy rõ thực tính Duyên khởi-Vô thường-Vô ngã của vạn pháp; xác quyết Giới-Định-Tuệ là cốt tủy của mọi pháp hành nhân danh Đức Phật. Nên những nhận thức, quan điểm, phương pháp tu tập và hành đạo mà xa lìa những đặc điểm then chốt này sẽ lập tức rơi vào tà kiến, phi Chánh pháp. Vấn đề đặt ra là mỗi người nên thiết lập Chánh kiến cho mình bằng cách nào? Văn-Tư-Tu là con đường làm cho tâm thông trí sáng. Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ hay tức Giới, tức Định, tức Tuệ cũng khiến vô minh diệt, minh sanh. Từ thức tri, tiến lên thắng tri và thành tựu liễu tri. Trong pháp thoại dưới đây, Thế Tôn đề xuất hai pháp “nhận lời dạy dỗ và suy nghĩ về Chỉ, Quán trong lòng” chính là “hai nhân, hai duyên khởi ra Chánh kiến”.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có hai nhân, hai duyên khởi ra Chánh kiến. Thế nào là hai? Nhận lời dạy dỗ và suy nghĩ về Chỉ, Quán trong lòng. Như thế, Tỳ-kheo đối hai nhân, hai duyên khởi ra Chánh kiến. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 15.Hữu vô,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.198)

Theo Thế Tôn, muốn thành tựu Chánh kiến trước hết phải “nhận lời dạy dỗ” cho tứ chúng. Giảng dạy cho người đi sau, cho Phật tử và cho tất cả mọi người biết Chánh pháp. Thật là sai lầm khi không ít Tăng Ni chúng ta ngày nay có xu hướng phó thác việc giảng dạy này cho các vị giáo thọ, giảng sư. Mà đúng ra, mỗi vị Tăng Ni và Phật tử đều phải là giáo thọ, giảng sư. Chư Tăng Ni hiện nay tụng niệm nhiều nhưng ít khi thuyết pháp, giảng dạy trong các khóa lễ. Có thể chư vị biết mà không dạy nhưng cũng có thể không biết nhiều để dạy hay không nhận ra tầm quan trọng của việc giảng dạy giáo pháp. Nên Thế Tôn thật thâm thúy khi đưa ra nhân duyên “nhận lời dạy dỗ” này. Muốn dạy người thì trước hết tự thân mình phải học tập, nghiên tầm giáo pháp. Một khi đã có hiểu biết giáo pháp sâu sắc thì thiết lập được Chánh kiến. Nên giảng kinh, thuyết pháp, dạy người mà thực chất chính là xây dựng Chánh kiến cho mình.

Kế đến, muốn thành tựu Chánh kiến phải “suy nghĩ về Chỉ, Quán”. Tu tập thiền Định và thiền Tuệ, cách gọi khác của Chỉ Quán chính là cơ sở hình thành Chánh kiến. Nói rõ hơn là phải tu tập, thực hành giáo pháp thì Chánh kiến mới phát sinh. Tâm có định thì trí mới sáng, trí sáng tỏ rồi thì liền hết tà kiến, lầm mê. Như vậy, theo lời dạy của Thế Tôn, mỗi người con Phật dù là xuất gia hay tại gia cần phải đầy đủ pháp Học và pháp Hành thì mới có thể thành tựu Chánh kiến. Phật giáo chúng ta tự hào có Tam tạng Kinh-Luật-Luận đồ sộ, minh triết bậc nhất, nhưng thực tế thì không phải ai tự nhận theo Phật cũng có Chánh kiến. Vấn đề là, liệu chúng ta có “nhận lời dạy dỗ và suy nghĩ về Chỉ, Quán” hay không?
Quảng Tánh

Trói mở do tâm

Trói mở do tâm

Đăng lúc: 19:36 - 28/03/2017

Giáo điển nhà Phật có câu “Nhất thiết duy tâm tạo”. Không nói đến nghĩa lý sâu xa của duy tâm, duy thức, chỉ hiểu một cách đơn giản là mọi việc đều lưu xuất từ tâm, trói hay mở cũng do tâm. Tâm khởi kiết sử tham lam, sân hận, si mê…; tâm vọng động thì lập tức liền bị ma trói buộc. Ngược lại, tâm không động, không dính mắc kiết sử phiền não thì ra ngoài cảnh giới ma; vượt thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, sầu, lo, khổ, não.

hoasen.jpg
Phiền não, khổ đau hay an vui, giải thoát do chính mình - Ảnh minh họa
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ngày xưa Thích-đề-hoàn-nhân bảo trời Ba mươi ba: Nếu lúc chư Hiền cùng A-tu-la chiến đấu, nếu A-tu-la chẳng bằng, chư Thiên thắng được, các ông hãy bắt A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la trói năm vòng mang đến đây!

Lúc đó A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la lại bảo các A-tu-la:

- Các khanh hôm nay cùng chư Thiên chiến đấu, nếu thắng được hãy trói Thích-đề-hoàn-nhân đưa đến đây!

Tỳ-kheo nên biết! Bấy giờ hai bên đánh nhau, chư Thiên thắng, A-tu-la thua, trời Ba mươi ba bắt A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la trói lại đem đến chỗ Thích-đề-hoàn-nhân, đặt ngoài trung môn, tự quán sát trói đủ năm vòng. Bấy giờ vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la liền nghĩ rằng: ‘Chư Thiên này có pháp chính đáng, còn A-tu-la hành phi pháp. Nay ta chẳng ưa làm A-tu-la’. Ngay đó vua liền ở trong cung các vị Trời. Khi đó, A-tu-la vương sanh niệm này: ‘Pháp chư Thiên chánh đáng, A-tu-la phi pháp. Tôi muốn trụ nơi đây’.

Nghĩ như vậy rồi, vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la liền biết thân mình chẳng còn bị trói, vui thú ngũ dục. Nếu vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la sanh niệm này: ‘Chư Thiên phi pháp, pháp A-tu-la chánh đáng. Ta không cần trời Ba mươi ba này, muốn trở về cung A-tu-la’, thì khi ấy thân vua A-tu-la liền bị trói năm vòng, ngũ dục vui thú tự nhiên tiêu diệt.

Tỳ-kheo nên biết, sự trói buộc mau chóng không gì hơn việc này. Bị ma trói buộc cũng mau hơn thế. Nếu khởi kiết sử, thì liền bị ma trói buộc; động thì ma trói buộc, không động thì không bị ma trói buộc. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên cầu phương tiện khiến tâm chẳng bị trói. Hãy ưa chỗ nhàn vắng. Sở dĩ như thế là vì các kiết sử này là cảnh giới ma. Nếu các Tỳ-kheo ở trong cảnh giới ma, thì trọn không thể giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết; chẳng thoát sầu, lo, khổ, não. Nay Ta nói về mé khổ này. Nếu lại có Tỳ-kheo tâm không di động, chẳng dính mắc các kiết sử, thì liền thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, sầu, lo, khổ, não. Nay Ta thuyết mé khổ này. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên học như vầy: không có kiết sử thì vượt ra khỏi cảnh giới ma. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 34.Đẳng kiến,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.350)

Lời Phật dạy thật rõ ràng. Vì tâm còn kiết sử phiền não, vọng động dấy khởi tham ái nên chúng ta bị ma trói buộc không thể giải thoát. Nếu tâm an trú chánh niệm không vọng động, tâm giác tỉnh chiếu soi phiền não quyết không dính mắc thì hành giả ra khỏi sanh tử.

Trói hay mở là do tâm. Tu tâm chính là giữ tâm không động (Định), không dính mắc phiền não (Tuệ). Theo kinh nghiệm của Thế Tôn, người tu mà có Chỉ, có Quán hay có Định, có Tuệ thì thành tựu giải thoát, đây chính là điều mà các Tỳ-kheo cần phải học.

Thế Tôn luôn cảnh tỉnh “Các Tỳ-kheo, nên cầu phương tiện khiến tâm chẳng bị trói. Hãy ưa chỗ nhàn vắng. Sở dĩ như thế là vì các kiết sử này là cảnh giới ma” và khuyến tấn “Các Tỳ-kheo! Nên học như vầy: không có kiết sử thì vượt ra khỏi cảnh giới ma”. Những lời dạy tha thiết ấy trải qua mấy ngàn năm vẫn luôn đồng vọng, nhắc chúng ta tu tập Giới-Định-Tuệ nhằm thoát khỏi trói buộc của ma, thành tựu giải thoát.
Quảng Tánh

Tâm linh thấy bằng trái tim

Tâm linh thấy bằng trái tim

Đăng lúc: 08:41 - 05/02/2017

Mạch ngầm tâm linh cứ thế mà chảy âm ỉ trong đời sống. Dòng năng lượng ấy chưa bao giờ ngưng lại, thậm chí đang ngày một mạnh mẽ hơn, khi mà con người đang tiến dần vào một thời đại của mâu thuẫn đỉnh cao giữa giá trị vật chất và tinh thần. Nhưng tâm linh không phải là điều gì đó huyền bí, mê tín dẫn dắt con người đi sâu vào bóng tối mê man, mà đó là những điều ta tin bằng trái tim. Những linh cảm đẹp đẽ đến từ tâm hồn, cuối cùng, sẽ có vị trí xứng đáng trong mọi hình thức của sự sống.

shutterstock_518429221.jpg
Thực hành đời sống tâm linh càng nhiều, ta dễ dàng an tâm
đón nhận những vô thường bất tận của cuộc đời

Khó có thể định nghĩa hoặc diễn tả đầy đủ về hai từ tâm linh, vốn là thế giới của mơ hồ vô hình dạng. Thế giới ấy có mà không, không mà có. Không thấy bằng con mắt vật lý nhưng có thể cảm nhận rất gần và mạnh mẽ bằng mọi giác quan và vượt ra khỏi con người vật chất. Như Saint Exupery viết trong Hoàng tử bé (Le Petit Prince): “On ne voit bien qu'avec le cœur. L'essentiel est invisible pour les yeux”. Giữa nhiều bản dịch với lời lẽ hoa mỹ, thậm chí đi hơi xa so với bản gốc tiếng Pháp, tôi thích bản dịch đơn sơ và sát nghĩa của Bùi Giáng tiên sinh: “Người ta chỉ nhìn thấy rõ là với trái tim. Các cốt thiết, cái tinh thể, cái đó vô hình đối với hai con mắt".
Linh cảm bằng trái tim

Trái tim ở đây không chỉ là con tim nằm hơi lệch qua phía ngực trái, có một sợi dây thần kinh dẫn trực tiếp kết nối đến ngón đeo nhẫn, mà nó còn là tâm hồn. Tâm và hồn. Đó cũng là lý do vì sao nam nữ khi kết nghĩa phu thê thì đeo nhẫn vào ngón áp út, bởi họ tin rằng sẽ có sự kết nối giữa hai tâm hồn và hơn thế nữa.

Tâm linh, đó là bất kỳ khoảnh khắc nào trong đời sống mà bạn thấy mầu nhiệm, giúp bạn vượt qua những cái khổ tự nhiên mà Đức Phật đã chỉ ra. Là một ngày, khi năng lượng xuống thấp nhất sau nhiều biến cố, bạn thấy mình gần như kiệt quệ. Bạn mở màn hình máy tính, nhưng chữ nghĩa cứ nhảy múa trước mắt. Bạn không thể tập trung. Bạn ước ao có một điều gì đó đến bất ngờ và tươi mới để thay đổi năng lượng. Bỗng nhiên bạn nhận được một món quà từ phương xa của người bạn thân, là một chuỗi hạt chakras 7 màu tuyệt đẹp, đơn giản vì chỉ duy nhất người ấy biết bạn thích những chuỗi hạt. Khi bạn cầm chiếc vòng tăng năng lượng này trên tay, lập tức bạn thấy có một nguồn sống mới ập đến. Và rồi có một lực đẩy vô hình, bạn mở máy và làm việc một mạch với những ý tưởng tuôn trào.

Đó có thể là chuyện con gái bé bỏng bị bệnh kéo dài nhiều ngày rồi mà không khỏi. Bé không chịu ăn uống gì cả, người ốm tong teo hẳn đi làm người mẹ rất lo lắng và tuyệt vọng. Trong lúc bé đang hâm hấp sốt và ngủ thiếp đi, người mẹ bèn ra ban công, nhìn lên trời, thầm cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ-tát. Người mẹ cầu nguyện rất lâu, để cho những giọt nước mắt của mình chảy trên má mà quên hết thời gian. Tâm của người mẹ giờ đây chỉ có Bồ-tát và con gái của mình. Bất chợt, cô bé trở mình, kêu mẹ ơi, con đói bụng. Bạn lật đật quay vào lấy cháo cho bé ăn. Sau khi ăn hết tô cháo nóng, điều mà trước đây bé không bao giờ làm được, người mẹ chợt nhận ra gương mặt của con tươi tỉnh hơn, sờ trán con thì thấy cơn sốt đã giảm đi.

Là một buổi sáng bình thường bạn thức dậy như bao ngày khác. Bạn đã từ bỏ công việc cũ hơn 6 tháng nay và hầu như không tìm được bất kỳ công việc nào như ý. Chuỗi ngày đó thật nhàm chán trôi qua với những tách cà-phê và những status trầm buồn trên Facebook. Nhưng sáng nay, bỗng bạn thấy một cảm giác rất khác lạ. Lòng dễ chịu, khoan khoái, tươi vui mà không vì một lý do nào. Điều đặc biệt là cảm xúc đó rất mạnh, mạnh đến nỗi bạn cảm nhận chúng lan tỏa khắp cơ thể mình, chảy khắp bộ não của mình. Và ngày hôm đó, bạn nhận được một lời mời cho công việc mới không thể tốt hơn.

Có muôn hình dáng về tâm linh. Không có đúng không có sai. Nó như như là thế. Dường như nó vượt lên con người. Nó là những mạch ngầm có vẻ dửng dưng không liên quan gì vào đời sống vật chất này, thế nhưng nó lại song hành và có khả năng can thiệp, hỗ trợ, chia sẻ cùng cuộc đời của những ai tin vào nó.

Là chuyện của lòng tin

Không có một lý giải, bình luận hay phản biện… nào tròn trịa khi nói về tâm linh. Đó chỉ là câu chuyện của lòng tin. Tin và không tin. Tin thì thấy, không tin thì không thấy. Tin thì cảm, không tin thì không cảm. “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Chúa Giê-su).

Phương Tây khi nhìn về phương Đông như là vùng đất của tâm linh với vô số điều huyền bí. Những hành trình về phương Đông của những bậc trí thức khoa học phương Tây đã minh chứng cho việc họ đã công nhận rằng, có những sự việc mà khoa học không thể giải thích và chỉ được hiểu theo cơ chế tâm linh. Nhiều học giả đã quá kinh ngạc vì sao các bậc hành giả du-già có thể sống thọ mà không cần ăn uống gì trên dãy Hy Mã Lạp Sơn hàng vạn năm tuyết phủ. Dần dần, đời sống tâm linh giờ đây không còn phân biệt vùng đất hay lãnh thổ. Thật ra thì tâm linh đến từ vũ trụ siêu nhiên, nên nếu có sự phân biệt quốc gia này và vùng đất khác, thì đó chính là do tâm phân biệt của con người. Ngày nay, Âu Mỹ và những đất nước giàu hiện đại vốn chỉ tin vào khoa học, đã đón nhận đời sống tâm linh một cách cởi mở và trân trọng. Bằng chứng là Google mời Thiền sư Thích Nhất Hạnh đến nói chuyện về năng lực kỳ diệu của thiền cho nhân viên của họ. Đó là những cuộc diễn thuyết về lòng từ bi và đạo đức bên ngoài tôn giáo của Đức Dalai Lama thu hút hàng chục ngàn người đến tham dự tại Mỹ và một số nước châu Âu. Tất cả những việc này là vì sao? Chỉ đơn giản là vì lòng tin của mọi người vào những lời dạy đến từ các bậc dẫn dắt tâm linh vốn được cho là hóa thân của Bồ-tát.

Có thể nhìn thấy rõ về vấn đề “lòng tin vào siêu nhiên” là khi đối diện với hàng loạt câu hỏi “tại sao” của trẻ con. Chúng hỏi: “Vì sao con được sinh ra?”. Cha mẹ hiện đại sẽ trả lời rất khoa học và rành mạch không úp úp mở mở như ngày xưa: “Vì tinh trùng của cha kết hợp với trứng của mẹ”. Nhưng, chúng sẽ hỏi tiếp: “Vì sao tinh trùng và trứng kết hợp thì lại thành em bé?”. Ngang đây là ta sẽ bắt đầu lớ ngớ một chút rồi, nhưng vẫn giải thích được, tùy trình độ của các bậc cha mẹ, đại khái có thể là: “Vì trứng và tinh trùng là hai thứ cốt lỏi của đàn ông và phụ nữ để giúp duy trì nòi giống”. Thế mà có xong đâu, bọn trẻ sẽ hỏi tiếp: “Vì sao đó là hai thứ cốt lõi mà không là hai thứ khác?”. Tôi đã từng “cạn lời” trước hàng loạt những câu hỏi vì sao dồn dập như thế với ánh mắt trong veo của con gái tôi, tôi trả lời kiểu gì nó cũng có thể hỏi thêm vì sao. Cuối cùng thì tôi chỉ có thể làm cho con tin mình mà không tiếp tục hỏi nữa, bằng câu trả lời như sau: “Con biết không, có những thứ không thể lý giải một cách cụ thể, bởi loài người được sinh ra một cách tự nhiên và được tự nhiên quy định như vậy. Chúng ta cứ thế mà tin vào và thế giới hình thành từ đó”.

Cảm nhận tự nhiên, chính là tâm linh. Sống theo tự nhiên, chính là sống đời sống tâm linh. Những thứ mà khoa học tưởng chừng như có thể giải thích được thì cũng không thể nào lý giải được toàn bộ vũ trụ siêu nhiên. Nhưng, bằng tâm linh thì con người có thể hiểu và hoan hỷ đón nhận, hoan hỷ vui sống. Chẳng hạn như, theo đạo Phật, em bé sinh ra không phải chỉ là vấn đề tinh cha huyết mẹ (khái niệm vật chất), mà còn là duyên khởi từ nhiều kiếp giữa em bé và cha mẹ. Nếu con cái và cha mẹ có duyên lành với nhau thì sẽ gặp được nhau trong hạnh phúc. Nếu là nghịch duyên thì cũng sẽ gặp nhau nhưng trong một điều kiện bất như ý. Khi nhìn vào việc hình thành sự sống dưới góc độ tâm linh, chúng ta dễ dàng sống lương thiện hơn, biết tu tâm dưỡng tánh hơn, biết tạo ra nhiều thiện nghiệp để từ đó có nhiều cơ may đón nhận duyên lành với các hậu duệ của mình.

Ví dụ trên chỉ là một giọt nước bé xíu trong dòng thiên hà. Rõ ràng, một ngày nào đó, bạn thử đặt những câu hỏi vì sao của trẻ con, bạn sẽ thấy mình không bao giờ có câu trả lời, cho đến khi bạn đưa nó về với đời sống tâm linh của trời đất, bạn sẽ tìm ra câu trả lời cho riêng mình.

Chánh tín tâm linh

Trên trang chủ của langmai.org, có một câu nói dẫn vào như sau: “Nếu hôm nay chúng ta có một chiều hướng tâm linh trong đời sống cũng như công việc thì chớ nên lo lắng cho ngày mai. Ngày mai sẽ tự lo việc của ngày mai. Với sự nâng đỡ của một đoàn thể tâm linh, chúng ta sẽ thực hiện được ước mơ của mình”.

Câu này đưa đến một thông điệp chính: “Bạn sẽ bình an khi có đời sống tâm linh”.

Trong con người luôn có hai mặt đấu tranh. Mặt đen mặt trắng này thường cãi nhau kịch liệt. Nếu ta tạm mặc định theo chủ nghĩa nhị nguyên rằng mặt đen là điều ác và mặt trắng là điều thiện một cách tự nhiên trong một con người, thì ta có thể hiểu rằng, những linh cảm đến từ mặt đen là mê tín và đến từ mặt trắng là chánh tín. Hai thể lòng tin này đều có thể được gọi là đời sống tâm linh. Trí huệ càng nhiều thì con người càng dễ dàng đi đến đồng thuận với tiếng nói của mặt trắng chánh tín. Ngược lại, khi bị u mê dẫn dắt, những việc làm trong đời sống tâm linh cũng dễ đưa ta đến ngõ tối, đó là lúc tiếng nói của mặt đen lên ngôi. Biết bao nhiêu người vì mê tín mà lầm đường lạc lối.

Điểm cốt lõi nào để phân biệt giữa mê tín và chánh tín trong đời sống tâm linh? Khi có chánh tín, ta thường ít mong cầu điều gì ngoài bình an và tự tại, rồi mọi thứ khác sẽ đến theo cách vận hành riêng của nó, tùy duyên và dựa trên cộng nghiệp. Vì tin vào điều đó nên ta thảnh thơi, tự do thoát khỏi mọi lăn tăn khổ sở. Còn nếu là mê tín, ta thường hay cầu nguyện được vật chất, tiền tài, được quyền danh, được đủ thứ trên đời, nói tắt chính là tham. Cái tham không có điểm dừng và sẽ dẫn ta đi đến nhiều hành động sai lầm mà nếu có một đoàn thể tâm linh hùng mạnh nào đó cũng không thể cứu nổi ta.

Tâm linh không hẳn là tôn giáo. Có rất nhiều người không theo bất kỳ một tôn giáo cụ thể, nhưng họ vẫn có một đời sống tâm linh vững chắc. Như Dalai Lama từng nói, tôn giáo của Ngài chính là lòng từ bi. Vì sao sống cần phải sống tử tế và giàu tình thương? Vì cho điều gì sẽ nhận lại điều đó. Tin vào luật nhân quả, đó chính là một trong những điểm cốt lõi của đời sống có tâm linh.

Vậy, có một định nghĩa đơn giản dễ hiểu nào cho một đời sống tâm linh lành mạnh, để ai cũng có thể thực hành? Thật khó để có câu trả lời xác đáng và đầy đủ cho câu hỏi này. Bởi tùy vào ta là ai, sống đời sống nào, cần điều kiện gì để sống tốt cuộc đời đó. Nhưng, có thể có một điều đơn sơ nhất: Tâm linh, đó là tin vào linh cảm đẹp của trái tim.

Thực hành đời sống tâm linh càng nhiều, ta dễ dàng an tâm đón nhận những vô thường bất tận của cuộc đời. Ta biết rằng càng ít điều kiện, càng ít lý luận, càng ít đòi hỏi - vốn là những sản phẩm của lý trí chấp thủ, thì ta càng dễ dàng an vui, tâm hồn càng rộng mở. Bởi ta và cuộc đời đã nhìn thấy nhau không bằng mắt thường mà bằng trái tim và tâm hồn. Và, hãy “đến để thấy” (ehi-passika), như Đức Phật đã từng dạy.
Bùi Lan Xuân Phượng

Linh ứng - chuyện có thật của tôi

Linh ứng - chuyện có thật của tôi

Đăng lúc: 22:34 - 19/10/2016

Tưởng niệm ngày vía Bồ-tát Quán Thế Âm, tôi xin kể câu chuyện linh ứng có thật của bản thân mình. Thật kỳ diệu, rất linh ứng, nhiệm mầu trong thế giới tâm linh vốn không thể nghĩ bàn.
Từ lâu tôi được biết đến Bồ-tát Quán Thế Âm với 12 lời nguyện cứu độ chúng sanh. Bồ-tát luôn ở bên cạnh khi chúng ta tâm niệm, nguyện cầu đến Ngài. Nhất là khi thành tâm thành ý, một lòng tin tưởng, tuyệt đối hy vọng thì Ngài sẽ xuất hiện trong mọi hình thức để cứu giúp chúng ta.

anh botat.jpg
Bồ-tát Quan Thế Âm - Ảnh: L.Đ.L

Cuối năm 2012 (tôi không còn nhớ chính xác ngày tháng), cả ba mẹ tôi đều phải nhập viện vì bị mắc một chứng bệnh như nhau là viêm phế quản cấp tính, ho ra máu. Ba tôi thì viêm phế quản cấp cộng viêm phổi nặng, mẹ thì viêm phế quản cấp cùng với khớp sưng đau nhức vô cùng. Khí hậu miền Trung (Quảng Trị) vào mùa đông có những lúc rất lạnh, khiến cho người bệnh càng đau đớn thêm.

Khi ấy tôi đang ở trong Nam (TP.HCM). Em gái tôi gọi điện báo tin. Tôi rất lo lắng nhưng do điều kiện công tác không thể về bên ba mẹ để chăm sóc. Dù ở cách xa ngàn dặm nhưng lòng hiếu thảo đối với ba mẹ luôn luôn hiện hữu trong tim, tôi chỉ hướng đến ba mẹ bằng cách mà tôi luôn tin tưởng nhất, đó là tin vào sự gia hộ của Bồ-tát.

Ngày ấy tôi thường đến chùa Vạn Đức (quận Thủ Đức) lễ Phật, đọc kinh sách vì rất thích không gian yên tĩnh ở chùa. Nhiều lúc tôi ngồi hàng tiếng đồng hồ trong yên lặng và có cảm giác chùa như là nhà của mình vậy.

Nghe tin báo xong tôi lập tức đến chùa, vào chánh điện lạy Phật. Sau đó tôi ra sân lạy Bồ-tát Quán Thế Âm, cầu xin Ngài gia hộ cho ba mẹ tôi tai qua nạn khỏi, sớm khỏe lại để được đoàn tụ với con cháu trong dịp Tết cổ truyền. Tôi đã cầu nguyện khẩn thiết, thành tâm thành ý với Bồ-tát nhiều lần như vậy.

Khoảng 10 ngày sau, tôi mơ một giấc mơ lạ. Trong mơ, tôi thấy mình đến bệnh viện thăm ba mẹ. Khi vừa đến cổng thì gặp người chị (con dì) có vẻ rất lo lắng từ trong bệnh viện chạy ra, gặp tôi chị kéo lại và thì thầm: “Em ơi! Dì và dượng nguy rồi, bệnh nặng lắm, chị vừa gặp bác sĩ chuyên khoa vào khám cho dì và dượng. Bác sĩ nói riêng với chị cả hai người bệnh nặng quá, có lẽ không sống nổi qua ngày mai. Chỉ có một cách để cứu sống họ là con cái phải hiến tuổi thọ của mình cho ba mẹ ít nhất là 5 năm thì họ mới sống được. Chị lo quá nên đang chạy ra cổng bệnh viện để gọi điện về nhà thông báo, không ngờ gặp em. Bây giờ em tính sao?”.

Tôi hơi băn khoăn. Ủa, sao bệnh viện không dùng thuốc hoặc phẫu thuật để cứu người mà lại bảo phải dùng tuổi thọ của con cái để đổi lấy sự sống cho ba mẹ? Tuy băn khoăn nhưng do người chị đứng bên thúc giục quá: “Không còn thời gian đâu em ơi!”. Chị ấy vừa nói lại vừa khóc nên tôi cũng không cần suy nghĩ nhiều mà trả lời ngay: “Dạ, hiến 5 năm hay kể cả 10 năm em cũng hiến, miễn sao ba mẹ em được cứu sống”. Tôi vừa nói xong thì người chị mỉm cười hiền từ, và rất lạ lùng là tôi chưa bao giờ nhìn thấy nụ cười như thế ở chị ấy. Rồi chị biến mất trước mắt tôi một cách nhẹ nhàng. Tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra, đứng ngó quanh thì có một người đi qua đụng phải, thế là tôi giật mình tỉnh giấc.

Khi ấy tôi nhìn đồng hồ, đúng 3 giờ sáng. Tôi nằm suy nghĩ, sao giấc mơ lạ lùng vậy nhỉ? Mà sao tôi cảm thấy bình an, không một chút lo lắng gì cho ba mẹ cả. Tôi liên tưởng ngay đến người chị ấy là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm và tràn đầy tin tưởng ba mẹ tôi sẽ được Ngài cứu giúp.

Sáng hôm sau, tôi gọi điện về cho mẹ. Mẹ vui mừng thông báo bác sĩ vừa khám cho ba mẹ xong. Bác sĩ bảo bệnh cũng đỡ nhiều rồi, vài ngày nữa cho ra viện để về chuẩn bị đón Tết. Trong khi trước đó hai ngày tôi gọi điện về, mẹ cho biết bệnh tình của ba mẹ có lẽ phải chuyển lên tuyến trên, tức Bệnh viện Trung ương Huế. Thế mà giờ được ra viện trước dự kiến.

Sự việc diễn biến đến không ngờ, không biết mọi người nghĩ thế nào, riêng tôi thì tin chắc Bồ-tát đã linh ứng và cứu giúp ba mẹ tôi tai qua nạn khỏi.
Nhuận Chân

Hiện tại và tương lai

Hiện tại và tương lai

Đăng lúc: 18:55 - 08/10/2016

Ở đây, Đức Phật Ngài đã dạy một câu kệ mới nghe dường như chỉ là một câu trả lời về cảnh giới thọ sanh. Nhưng trong câu trả lời đó cho chúng ta thấy chúng sanh đến đi trong cuộc đời này theo hạnh nghiệp của mình và hạnh nghiệp đó dựa trên một chủ tâm tạo tác và chủ tâm tạo tác là cái quyết định hoàn toàn.


Hiện tại và tương lai
Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn.
Chánh văn kệ ngôn pháp cú do Thượng Tọa Giác Đẳng dịch từ Pali

Gabbhameke uppajjanti, nirayaṃ pāpakammino;
Saggaṃ sugatino yanti, parinibbanti anāsavā.

DUYÊN SỰ

Trưởng lão Tissa đến nhà người thợ kim hoàn thọ trai. Trong lúc chủ nhà bận việc phía sau, một con ngỗng nuôi trong nhà nuốt vào bụng viên ngọc của nhà vua đã đưa để mài. Mặc dù là người rất tín tâm nhưng vì hốt hoảng đã làm mất viên ngọc của vua nên, người thợ kim hoàn đã vặn hỏi thậm chí tra tấn Trưởng lão Tissa đến nỗi bị thương đổ máu ngất xỉu bất chấp sự can gián hết lời của người vợ. Con ngỗng ngửi thấy máu tới gần cũng bị đập một cây chết ngay lập tức. Khi tỉnh dậy Trưỏng lão Tissa cho biết chính con ngỗng đã nuốt viên ngọc nhưng không thể nói vì sẽ làm con ngỗng bị giết. Người thợ hoàn vô cùng ăn năn xin được tha thứ. Không lâu sau đó Trưởng lão viên tịch Niết Bàn vì thương tích. Sau nầy khi các tỳ khưu bạch hỏi Phật về cảnh giới thọ sanh của con ngỗng, người thợ kim hoàn và người vợ, cũng như trưởng lão Tissa, Đức Phật đã dạy kệ ngôn.

Hôm nay chúng ta được nghe câu chuyện cổ tích chắc chắn quen thuộc bởi vì có trong nhiều bản dịch cũng như nhiều tác phẩm cổ tích Phật Giáo liên quan đến câu chuyện này.
Tỳ kheo Tissa đến nhà một người thợ bạc để thọ trai và con ngỗng trong nhà đã nuốt viên ngọc của nhà vua mang đến cho người thợ này mài dũa và kết quả đã tạo thành bi kịch. Câu chuyện này cho một cái nhìn khác về điều gọi là tội ác và hệ lụy ở trong kiếp người. Nhìn vào câu chuyện thì tất cả những người liên hệ kể cả người đã tạo lên những hành động hết sức dã man ở tại đây là người thợ kim hoàn. Nhìn ở góc cạnh nào đó chúng ta thấy người này cũng là một người đáng tội nghiệp. Cái tội nghiệp ở tại đây như trong sớ giải cho biết người thợ kim hoàn này suốt 12 năm trời ngày nào cũng thỉnh Tôn Giả Tissa đến nhà để cúng dường trai phạn, Tôn Giả đã đến nhà người kim hoàn này xem anh như một đàn tín một người đệ tử. Và chúng ta cũng được biết Tôn Giả Tissa đã nhận lời như một sự ban bố một cơ hội cho anh thợ kim hoàn và những người trong gia đình tạo phúc. Mười hai năm dài như vậy chắc chắn đã xây dựng được rất nhiều trên phương diện tín tâm đạo tình cũng như quan hệ mật thiết.
1. – Điểm thứ nhất.
Như bây giờ chúng ta thường nghe những câu chuyện đôi lúc vận không may nào đó xảy ra cho chúng ta, chúng ta lại có mặt ở một nơi không đúng thời, không đúng chỗ, không đúng người, và không đúng việc, ba bốn yếu tố không đúng đó nhập lại với nhau và tạo lên những bi kịch của đời sống. Câu chuyện chúng ta nghe Trưởng Lão Tissa gặp nạn vẫn thường xảy ra rất nhiều ở trong thời đại ngày hôm nay. Có câu chuyện xảy ra tại công viên Centre Park ở New York, một nhóm 5 em thanh niên nhỏ đi chơi tại công viên này và cả 5 người như vậy mà vào giờ đó không may hôm đó xảy ra một chuyện hãm hiếp ở Centre Park và qua lời khai cũng như qua thái độ thiếu khôn ngoan một lúc nào không tỉnh táo của 5 thanh niên này mà 5 người này đã bị rơi vào vòng lao lý một thời gian dài cho đến khi người ta tìm ra hung thủ và hung thủ cũng tự thú thì mới biết 5 người này cũng là nạn nhân trong một bi kịch của kiếp người của kiếp trầm luân.
Có thể nói rằng sự khôn ngoan của đời sống, đạo đức của đời sống và ngay cả vận may của chính mình đôi lúc không đủ khả năng để bạo vệ mình. Những cái dông rủi tai bay họa gửi và đồng thời bao nhiêu ách nạn vốn dĩ là một phần rất tự nhiên của kiếp người, một phần tự nhiên của cuộc sống trầm luân này.
Chúng ta nhìn vào câu chuyện một chút sẽ thấy tất cả những người liên hệ trong câu chuyện đều rất đáng tội nghiệp, cho dù đó là con ngỗng, con ngỗng nhìn thấy viên ngọc theo trong sớ giải lúc đó anh thợ kim hoàn đang nấu thức ăn và khi người lính của nhà vua mang viên ngọc đến anh đã cầm viên ngọc đó lên xem xét và một ít thức ăn dính vào viên ngọc, con ngỗng đánh hơi mùi thức ăn đã nuốt viên ngọc vào trong bụng. Con ngỗng nuốt viên ngọc vào trong bụng cũng là một hành động rất bản năng, con ngỗng không có ý đánh cắp viên ngọc đó và dĩ nhiên đối với con ngỗng viên ngọc đó không có giá trị hơn một miếng ăn nào, nó chỉ là một thứ miếng ăn không hơn không kém và có thể đó là một miếng ăn khó nuốt.
Chúng ta lại nghe câu chuyện của bà vợ là người rất có tín tâm cùng với chồng đã bao nhiêu năm lo lắng cho Tôn Giả Tissa đối với Tôn Giả Tissa như một người thân, như một vị Thầy, như một chỗ nương tựa tinh thần, bây giờ nhìn thấy chồng mình đánh đập tra khảo Tôn Giả Tissa thì thật sự không có lời nói không có can trường nào đủ làm cho người vợ của người thợ kim hoàn cảm thấy có thể cầm lòng được.
Tội nghiệp nhất hai người đó là Trưởng Lão Tissa và anh thợ kim hoàn. Trưởng Lão Tissa có lý do hoàn toàn chính đáng để im lặng, Ngài là vị Tỳ Kheo là một vị Thánh, nếu lời nói đó có liên hệ đến mạng của một chúng sanh khác thì không thể là lời nói nhẹ được mà là lời nói phải cân nhắc rất nhiều. Đôi lúc trong những trường hợp người ta không thể nói thì chỉ biết chọn lấy im lặng và cái giá của sự im lặng đó không phải là một cái giá nhỏ, ở tại đây một sự im lặng lại tạo ra một bi kịch lớn, nhưng mà nói gì đây, mình biết chắc chắn rằng chỉ một lời nói của Ngài là con ngỗng đã nuốt viên ngọc vào bụng thì con ngỗng lập tức bị đem ra cắt cổ mổ bụng để lấy viên ngọc ra, Ngài là một bậc Thánh một vị Tỳ kheo Ngài không thể nói như vậy,
Nhưng mà rồi anh thợ kim hoàn lại là một người mặc dù đã tạo ra thảm kịch này nhưng anh cũng là một nạn nhân, anh là nạn nhân của kiếp luân hồi và nạn nhân của chính mình. Nạn nhân của kiếp luân hồi là đã sống thì phải mưu sinh, đã sống thì phải liệu toan, đã sống thì phải nhận lấy trách nhiệm, và đã sống thì phải trả cái giá cho sự mưu sinh của mình. Là một người được nhà vua thưởng thức tài nghệ mài dũa những viên ngọc của cung đình và anh là một người làm ra rất nhiều tiền nhờ đó anh có cuộc sống thoải mái nhưng bây giờ khi viên ngọc nhà vua đem đến không cánh mà bay và ở trong căn phòng đó ngoài Trưởng Lão Tissa không có người nào khác, cái mạng của mình treo như chỉ mành treo chuông. Và có thể nói rằng trong lúc túng quẩn anh không biết phải làm thứ gì. Đây là một điều chúng ta được biết có rất nhiều trường hợp Đức Phật Ngài khuyên các vị Tỳ kheo các đệ tử của Ngài nên tránh đi những nơi không thích hợp, những chỗ không thích đáng, những chỗ phi thời, tại vì những tai bay họa gửi đến đôi lúc mình không tránh né được.
Ngay cả trong một xã hội nền pháp luật được hổ trợ bằng nhiều kỹ thuật tinh vi thì hàng năm có rất nhiều người bị oan uổng một cách hết sức là oan uổng. Quí vị cũng nghe được tại Hoa Kỳ ở trong 10 người lên ghế điện có 4 người vào giờ chót người ta khám phá ra không phải như vậy, bởi vì một lúc nào đó vì sự sai lầm của công tố viên người ta chỉ lượng định được tội trạng dựa trên một thứ kỹ thuật và kỹ thuật vô tri đó đôi lúc lại không thể xác định hoàn toàn một cách chính xác, và có thể nói người ta có thể vương vào những tội đại hình rất dễ dàng chỉ vì một chút lầm lẫn của công tố viên. Chuyện đó chúng ta thường thấy nhan nhãn ở trên báo chí.
Trong câu chuyện này đúng là tình ngay lý gian và quả thật rất khó để người thợ kim hoàn có thể kiên nhẫn được, anh không thể kiên nhẫn được tại vì viên ngọc đó không nằm trong khả năng anh có thể bồi thường được, anh không thể kiên nhẫn được bởi vì anh có thể mất đầu, bị nhà vua đem chém đầu vì đã làm mất viên ngọc quí của nhà vua và anh không có một cách lựa chọn nào khác, ở trong lúc đó con người bị dồn đến một sự thử thách tuyệt đối hoặc giả có thể chấp nhận thân phận để bảo vệ đạo nghĩa của mình, hoặc giả trong lúc cuống quít mất bình tỉnh có thể làm bất cứ cái gì có thể làm được để truy tìm cho bằng được một vật đã mất. Anh thợ kim hoàn đã lựa chọn thái độ thứ hai đem một vị Thầy một vị Tỳ Kheo một người mình quen biết rất lâu để vặn hỏi, vặn hỏi không được thậm chí dùng đến bạo lực dùng đến tra tấn và Tôn Giả Tissa đã ngất sỉu trước những cú đánh rất hung hiểm của anh thợ kim hoàn.
Bi kịch chúng ta được nghe như vậy là một câu chuyện như Tôn Giả Tissa đã nói sau đó:
– “Đó là nỗi của kiếp trầm luân“.
Sống trong cuộc đời này chúng ta không những là nạn nhân của hoàn cảnh mà còn là nạn nhân của nghiệp quá khứ. Chúng ta là nạn nhân của những tâm bất thiện mình đã có ở trong một kiếp xa xưa nào đó.
– Bây giờ sống trong một kiếp người có ai dám nói mình có một quá khứ nhiều đời nhiều kiếp hoàn toàn tích tập những nghiệp thiện?
– Chắc chắn ở trong di sản mình thừa tự từ quá khứ nó bao gồm cả hai thứ thiện lẫn bất thiện, ác nghiệp lẫn thiện nghiệp.
Phải nói rằng trong nhiều đời nhiều kiếp, vô lượng kiếp luân hồi mà chúng ta đã trải qua từ trong nhiều đời quá khứ thì chắc chắn là ác nghiệp tạo nhiều hơn thiện nghiệp.
Có hiểu được ý nghĩa này, tại sao trầm luân sanh tử không phải một điều đáng cho chúng ta dính mắc đáng cho chúng ta bám víu. Đúng ra khi nói đến tội của trầm luân khi nói đến lỗi của kiếp luân hồi chúng ta nghe như là một câu nói triết lý như một câu nói đạo đức nhưng nếu nghiệm lại tất cả cái không may, tất cả những cái đưa đẩy sơ xảy có thể xảy ra, tất cả cái phiền lụy của kiếp luân hồi thì bậc thiện trí không có gì để hoan hỉ ở trong cuộc sống luân hồi này.
Chúng tôi có lần thăm thành phố lớn ở Ấn Độ thành phố Calcutta một thành phố nổi tiếng ở các quốc gia Tây phương tại đó có dì phước Têrêsa. Nhưng thành phố từ số người đông đảo chật chội cho đến muôn ngàn cái dơ bẩn, phiền phức của trời nắng của bão lụt từ vịnh Bengal thổi vào và xe cộ chạy mất trật tự v.v… khiến cho thành phố này không có lấy gì hoan hỉ đối với bản thân chúng tôi khi ở đó 3 ngày. Chúng tôi có đến thăm các ngôi chùa có đi thăm một số các di tích cũ nhưng Calcutta không bao giờ là một thành phố chúng tôi thật sự ưa thích đến ở đó. Phải nói rằng một buổi sáng trong 3,4 tiếng đồ hồ chỉ đi bộ ngang tòa Thị Chính, ngoại trừ khu thương mại chính Calcutta còn những nơi khác có trăm ngàn thứ phiền lụy. Những lúc đi lang thang trong thành phố này chúng tôi lại tự nghĩ đến một việc một thành phố đã được loài người xây dựng với chừng đó công trình xem ra còn ít có phiền lụy hơn là kiếp luân hồi, một sự dong rủi đưa đẩy chúng ta thật sự không biết cái gì sẽ xảy ra cho đời sống của mình.
Đôi lúc nghe một bi kịch xảy ra cho người khác chúng ta khen, chê hay đánh giá hay phê bình, chúng ta nói rằng người đó tài người đó giỏi. Cụ Nguyễn Du có nói “Chữ tài cùng với chữ tai một vần, chữ tâm kia mới bằng ba tài“. Cụ có nói cách gì đi nữa thì sự so sánh đó không có đáng không đủ để nói hết tất cả. Những gì thuộc về khả năng của chúng ta hết sức là nhỏ bé so với cái phiền lụy, so với cái bất trắc, so với những điều chúng ta không biết được không có tiên liệu được của kiếp người. Có thể trong một vai trò nào đó ở trong một cương vị nào đó chúng ta thấy khả năng của mình có thể di sơn đảo hải có thể an bày rất nhiều thứ của cuộc sống, nhưng chúng ta hãy nhìn lại kiếp người những quyết định quan trọng nhất của cuộc đời những khúc quanh của chúng ta những thứ đó đã đến từ sự sắp đặt liệu toan từ tài năng trí tuệ của mình hay là chỉ là sự đưa đẩy. Một trong những danh nhân được biết nhiều ở xã hội Tây Phương, ông Albert Einstein đã nói : “Nếu chúng ta làm 10 chuyện mà thành công 1 chuyện thất bại 9 chuyện kể là một chuyện đáng hoan hỉ lắm rồi”. Xác xuất về luân hồi, cái gì nằm trong khả năng, nằm trong tài trí của mình thì ít mà cái gì nằm ở trong cái bất định nằm ở trong sự đưa đẩy dong rủi thì nhiều.
HT ở chùa Ngài thường nói một câu chúng tôi rất thấm thía: “Cái gì mình có được không phải tại mình khéo giữ mà tại vì người khác chưa muốn lấy. Cái gì mình bị mất không phải vì mình bất tài mà tại vì người khác khéo lấy mà thôi.“
Thật ra, chúng ta có nhiều cách nghĩ cho dù nghĩ cách nào đi nữa chúng ta hãy nghe Tôn Giả Tissa nói, Ngài nhìn lại toàn bộ những bi kịch xảy ra trên tấm thân của Ngài, xảy ra trên giòng nghiệp lực hết sức nghiệt ngã của anh thợ kim hoàn, và xảy ra đối với toàn diện câu chuyện này thì không có ai để trách dầu là anh thợ kim hoàn, dầu là Tôn Giả Tissa, dầu là con ngỗng dầu là một đấng thiêng liêng nào đó, bi kịch thì nó bi kịch và khi bi kịch diễn ra thì chỉ có một điều nói tại cuộc sống không hoàn hảo, cuộc sống không có như ý và Ngài đã nói “Đó là lỗi của kiếp trầm luân”
Đức Phật tuy vậy trong một nhân sinh quan trong một cái nhìn Ngài nhìn từ con mắt của vị Giác Ngộ Ngài nói kệ ngôn:
Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn
2. – Điểm thứ hai:
Trong đoạn đầu chúng ta nói đến sự bấp bênh vô định của đời sống, nói đến một cái gì hầu như chúng ta chỉ lấy mắt nhìn trong đôi tay nhỏ bé của mình không thể làm gì được. Nhưng ở đây Đức Phật Ngài có nói:
Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn
Khi Đức Phật nói điều này Ngài nói lên một vị trí rất đặc biệt đó là vị trí của từng trình độ tâm linh, vị trí của những sở hành sai biệt, vị trí của người có tu và không có tu, vị trí của sự lựa chọn mà từ ở trong sự khác biệt nhìn thoáng qua thì rất nhỏ bé này nhưng lại đưa đẩy chúng ta đến nhiều vùng trời hoàn toàn khác biệt.
Thành phố St. Louis xây một cổng hình cầu vồng rất lớn, những vị kỹ sư cho biết khi họ cất một cổng hình cầu vồng như vậy từ bên này họ bắt đầu xây và bên kia họ cũng bắt đầu xây ở dưới đất chỉ chênh lệch nhau vài milimét thôi thì hai đoạn bên trái và bên phải không bao giờ gặp nhau được. Cái chênh lệch một vài milimét đó tương tự như ở trong một giây phút nào đó tâm tư của con người, người thợ kim hoàn có lý do để lo lắng, có lý do để hốt hoảng, có lý do để mất bình tỉnh, và có lý do để trở thành một con người hết sức tàn nhẫn. Bên cạnh đó chúng ta nhìn thấy hình ảnh của người vợ của người thợ kim hoàn nếu chồng mình bị rơi đầu cũng có thể mình bị rơi đầu, nếu viên ngọc bị mất thì gia đình nhà tan cửa nát, không phải chỉ có người thợ kim hoàn mới nhà tan mà người vợ người thợ kim hoàn cũng nhà tan của nát. Nhưng ở đây trong cái nóng nảy trong cái cuồng nộ trong cái lo sợ anh thợ kim hoàn đã làm một quyết định đáng tiếc cho anh và đáng tiếc cho Ngài Tissa và nó đã tạo lên một bi kịch. Người vợ mặc dầu không thay đổi được tình thế nhưng người vợ đã chạy theo năn nỉ khóc lóc khuyên ngăn hết lời, cũng sợ hãi, cũng đối diện với điều đó nhưng người vợ đã có lựa chọn khác, có lẽ là bà đã lựa chọn trong trực giác của người phụ nữ, bà đã lựa chọn trong một thái độ nặng về lòng tin hơn là lo sợ những tai họa sắp đến, bà đã có một sự lựa chọn hoàn toàn dựa trên thiện tâm của mình, cái nhỏ nhoi đó đã tạo một sự khác biệt và đã đưa hai người về hai cảnh giới khác nhau.
Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn
Khi Đức Phật nói điều đó Ngài không nói bằng cái nhìn phán quyết, Ngài không phê bình kẻ này hay kẻ kia dở, Ngài chỉ nói là có một sự thật tương ứng giữa một tâm tư và cảnh giới đi tái sanh, Ngài chỉ nói đó là một điều tự nhiên của hành trạng của mỗi cá nhân, hành trạng của mỗi chúng sanh trong cuộc đời này, kiếp người là vậy và sự lựa chọn đó đã khiến cho đạo Phật hoàn toàn khác biệt với thuyết về định mệnh.
Người ta thường cho rằng Đạo Phật nhìn cuộc đời là khổ và người Phật tử thường nói đến nghiệp quá khứ là cái gì an bày cho tất cả. Nhưng trong câu kệ này chúng ta hãy đọc lại từng giòng và đem câu kệ này so với bi kịch đó chúng ta nhìn thấy Đức Phật cho chúng ta biết ở trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải nhìn thấy tâm thiện và tâm bất thiện khác biệt. Nếu gọi là đối diện với sợ hãi thì ai cũng đối diện với sợ hãi, nếu đối diện với hiểm nguy thì ai cũng đối diện với hiểm nguy, phải nói trong những trường hợp đó mới biết người có tu hay không có tu.
Người không tu khi gặp chuyện rủi ro để bảo vệ chính mình để có thể tìm ra một giải pháp, người đó có thể trở thành bất cứ một người nào khác và họ có thể quay lưng lại với tất cả. Trong trường hợp này anh thợ kim hoàn vì quá lo sợ chết, vì quá lo sợ hậu quả của việc mất viên ngọc đã quay lưng lại với một vị Thầy, với một người bạn khả kính, với một người mình đã trao gửi niềm tin trong suốt 12 năm trời.
Điều này không phải là một điều để trách. Nhưng nói sự lựa chọn lúc đó giống như chúng ta đang đi thi. Chúng ta phải đối diện với chính mình, thử xem đạo tâm, thiện tâm, sự hiểu biết, sự bình tỉnh, và một thái độ chấp nhận hậu quả có đủ làm cho chúng ta đứng vững trên đôi chân của mình hay chúng ta sẽ cuồng loạn lên. Và ở đó không có gì để phê phán là đúng, là sai, là hay, là dở, nhưng sự lựa chọn đó sẽ đưa chúng ta đi về một hướng mà hướng đó hoàn toàn khác biệt.
3. – Điểm thứ ba:
Bây giờ chúng ta đề cập đến câu chuyện này chúng ta lại nói đến một khía cạnh quan trọng khác của đạo Phật, khía cạnh đó là thái độ thưởng phạt không có chỗ đứng trong giáo lý của Đức Phật.
Có 2 tác phẩm đã ảnh hưởng lớn đến cái nhìn của người Phật tử VN và Phật tử Trung Hoa về phương diện nhân sinh quan đó là tác phẩm Hồi Dương Nhân Quả và Ngọc Lịch Minh Kính, hai tác phẩm này đã nói rất nhiều về sự việc một người chết đi người đó sanh vào địa ngục. Theo quan niệm của tác phẩm này thì tất cả mỗi người sau khi rời khỏi trần gian này đều phải đi vào cảnh giới địa ngục để nghe sự phán xét công tội của các vị phán quan của thập điện Diêm Vương. Phải nói rằng cho đến ngày hôm nay hầu hết các tôn giáo trừ Phật Giáo ra đều xem ngày phán xét cuối cùng, ngày phán xét tận thế, ngày mở Hội Long Hoa như chúng ta nghe nhiều trong bản sấm ký của miền Nam “khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm“. Người ta nói đến ngày tận thế và ngày đó Thượng Đế sẽ luận công luận tội của mỗi cá nhân, sự luận công luận tội đôi khi không có chỗ đứng trong Đạo Phật.
Trong câu chuyện này chúng ta sẽ trách ai đây? Chúng ta có thể đem Ngài Tissa ra trách tại sao Ngài không lên tiếng, nếu Ngài lên tiếng thì con ngỗng chỉ bị giết thôi anh thợ kim hoàn sẽ không phạm ác nghiệp to lớn đó là xúc phạm đến Ngài. Chúng ta có thể trách anh thợ kim hoàn tại sao không bình tỉnh một chút đi tìm một ánh sáng nào khả dĩ mà lại quyết định vội vàng như vậy. Chúng ta có thể trách con ngỗng là đã tạo lên bi kịch đã tạo lên bao nhiêu hiểu lầm bao nhiêu cái phiền lụy cho chính thân của con ngỗng và cho Ngài Tissa kể cả cho người thợ kim hoàn.
Nhưng nếu xét đi xét lại tất cả đều do hoàn cảnh dung rủi và hoàn cảnh dung rủi đó được Ngài Tissa nói một cách cô đọng “Đó là lỗi của kiếp trầm luân“. Ở trong kiếp trầm luân thì không có chuyện gì để phán xét công và tội, để lấy cây thước đo để nói rằng như thế này như thế khác.
Chúng tôi đã đọc rất nhiều bài viết về những bi kịch xảy ra tại quốc gia nghèo, lấy ví dụ là tại các vùng sơn cước những vùng rất nghèo miền thượng du đông bắc Thái Lan cha mẹ quá nghèo con thì đông không biết phải làm gì để cải thiện đời sống gia đình, họ bán những đứa con gái của mình vào những ổ mại dâm tại thành phố Bangkok. Người ta gặp những cô gái này, những cô gái này có thể có những hành động không lương hảo, người ta có thể khinh miệt những cô gái này, nhưng một số người nào đó đã cảm thấy những cô gái này chỉ là nạn nhân, họ trách gia đình tại sao cha mẹ lại nỡ vì đồng tiền mà đi bán con của mình, rồi người ta cũng trách chính quyền đã để việc đó xảy ra, rồi người ta cũng trách xã hội là xã hội đã dung túng đã để cho những người con gái vô tội đó phải hi sinh cả cuộc đời của mình để chỉ vì một ít đồng tiền, xã hội đã không làm một việc gì khả dĩ có thể thay đổi tình thế.
Nếu gọi là trách móc thì chúng ta có nhiều chuyện để trách móc nhưng khi nhìn vào toàn diện câu chuyện dù câu chuyện xảy ra bất cứ nơi nào chúng ta thấy đôi lúc chuyện phê phán là đúng, là sai, là hay, là dở, không phải là vấn đề, nó hoàn toàn không phải là vấn đề. Đức Phật trong một cái nhìn minh triết của bậc Giác Ngộ, trong cái nhìn của vị Toàn Giác Ngài đã không nói ai hay ai dở, Ngài chỉ nói có những cảnh giới tương xứng với hạnh nghiệp. Và lời nói như vậy đã quá đủ cho bất cứ chúng ta những ai lựa chọn thái độ của đời sống.
Chúng ta trôi dạt về đâu, đến nơi nào sống, trong hoàn cảnh nào đôi lúc không phải là vấn đề phê phán. Chúng ta phải hiểu do đâu chúng ta có mặt tại đó, và có mặt tại đó thì những quyết định của chúng ta lại đưa đẩy chúng ta đến một phương trời vô định khác. Điều quan trọng nhất, chúng ta hãy nhìn vào từng quyết định của mình hơn ngồi đó để thị phi, hơn ngồi đó để nói chuyện hơn thiệt. Những hơn thiệt những thị phi của đời sống đôi lúc hoàn toàn vô nghĩa kể cả một sự phán xét ở tại đây dù sự phán xét đó là phán xét của Thượng Đế hay sự phán xét của các vị phán quan ở trong địa ngục thì những sự phán xét đó cũng không nhằm gì hết. Phán xét điều gì khi chúng ta biết một cái gì xảy ra, như người Tây Phương từng nói hễ có một cái gì trục trặc thì toàn bộ máy trục trặc và toàn thể bộ máy trục trặc thì chỉ có việc cải thiện bộ máy chứ không có cách gì để người ta ngồi đó than thở vò đầu bức tóc chửi bới trỉ trích, nói như Ngài Tissa thì đó là “Lỗi của kiếp luân hồi“.
Có nhiều ý nghĩa để học từ bài học này, một trong những ý nghĩa lớn là chúng ta có thể tìm thấy ngay cả một bậc đã giải thoát. Không lâu sau đó Tôn Giả Tissa Niết-bàn. Mặc dù người thợ kim hoàn rất hối hận khi tìm ra viên ngọc ở trong bụng con ngỗng đã khẩn khoảng thỉnh Ngài Tissa tiếp tục ở lại nhà để thọ trai, Ngài Tissa đã nhã nhặn từ tốn từ chối không phải vì Ngài giận, không có một chút bất mãn hờn giận nào trong lòng của một vị đã đoạn tận lậu hoặc, Ngài chỉ thấy một chuyện đó là đến những nơi không thích hợp có thể có những phiền lụy không cần thiết. Và Ngài đã lựa chọn một con đường ra đi thong dong như ngàn xưa Đức Phật đã dạy, ngàn xưa Chư Phật đã làm đó là mỗi buổi sáng đi chầm chậm từng nhà khất thực nếu có gì người ta cúng dường vào trong bình bát thì cảm ơn bằng sự im lặng tiếp tục ra đi, cả người cúng dường lẫn người thọ thí không có ai rảng buột ai, không có ai bị vương hệ lụy với ai và điều đó không làm cho ai phải buồn lòng. Thái độ lựa chọn của Ngài là một thái độ lựa chọn rất tự nhiên không phải vì buồn không phải vì phiền. Ít lâu sau đó Ngài đã viên tịch vì vết thương chí mạng vì bệnh hậu không thể tránh khỏi sau một cuộc tra tấn cực kỳ dã man.
Rất đau xót rất tội nghiệp cho câu chuyện này nhưng chúng tôi tin rằng nếu chúng ta xét kỹ thì tìm thấy ở trong đó cả 4 chúng sinh có liên hệ đó là Ngài Tissa, người thợ kim hoàn, người vợ của người thợ kim hoàn và con ngỗng cả 4 người đều chỉ là một sự dong rủi của kiếp trầm luân và ở trong đó nếu có điều gì được nói lên và nói một cách thích đáng một cách đẹp nhất thì câu nói đó phải là câu nói từ bậc Giác Ngộ.
Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn
4. – Kết Luận
Trước một bi kịch như vậy điều duy nhất chúng ta được nghe Đức Phật dạy tại đây chúng sinh đến đi trong cuộc đời này là sự đi đến những cảnh giới thích hợp với những hạnh nghiệp mình đã tạo và những hạnh nghiệp đó là một thể hiện của một tâm và tâm đó có khéo tu hay không khéo tu, tâm đó có đủ khả năng để giúp cho mình đối diện với những nghịch cảnh, tâm tư đó có đủ khả năng để giúp cho mình không bị nao lòng, không bị nản trí, không bị thay đổi bản chất tốt đẹp của mình hay không thì đó là một điều mình phải tự trả lời cho mình không ai có thể trả lời cho mình được điều này.
Phải có rất nhiều thì giờ để chiêm nghiệm mới hiểu được nhân sinh quan của Đạo Phật. Đạo Phật dạy cho con người sống gần với tự nhiên và ở trong một mức độ tự nhiên nào đó của nghiệp lực của duyên nghiệp thì ở đó không còn là một sự vui buồn, không còn là sự phán quyết của thương của ghét, của vui của buồn nữa. Ở đó chúng ta chỉ nhìn thấy một điều ai sống hợp với lẽ đạo, ai sống hợp với tự nhiên người đó được sự an lạc. Nếu bất cứ ai nghĩ nghiệp báo bằng quan niệm riêng tư của mình, bằng cái nhìn vui buồn của mình người đó chưa thể nào nhận được lý nghiệp báo.
Giống như trong khu vườn của mình chúng ta không thể giận cỏ dại được, chúng ta không thể giận những cây tại sao mình chăm sóc nhiều nó không chịu lớn, cỏ dại mình không chăm sóc thì lại lớn mạnh. Hễ ở đâu có điều kiện tốt cho cỏ dại thì cỏ dại tăng trưởng, ở đâu có điều kiện tốt cho cây thì cây tăng trưởng. Thay vì giận những cây hoang cỏ dại, thay vì trách móc những cây mình trồng thì mình lên làm đúng, nếu mình đúng mình có thể đạt được những gì mình muốn.
Ngày nay người ta càng chú trọng đến khoa học tự nhiên người ta càng khám phá ra nhiều lãnh vực quan trọng. Ngày xưa có những người họ đã muốn cất cánh bay xa những người khác mỉa mai nói nếu Thượng Đế quả thật muốn con người bay được đã tạo cho con người cặp cánh. Câu nói đó hoàn toàn dựa trên triết lý dựa trên niềm tin và dựa trên cảm xúc của mình. Nhưng mà rồi, con người đã biết khai thác nền khoa học tự nhiên, nếu nền khoa học này tạo thành một điểm y cứ và trên đó người ta đã thành tựu được nhiều bước tiến quan trọng trong ngành khoa học kỹ thuật và đã thay đổi toàn bộ khuôn mặt của loài người trong trái đất này thì chúng ta thấy khoa học tự nhiên đó chỉ giới thiệu cho chúng ta một phần liên quan đến vật chất.
Nhưng điều Đạo Phật gọi là tự nhiên thì tự nhiên này bao gồm cả tâm lý, vật lý, cả danh pháp, sắc pháp, cả cái mình thấy được và cái mình không thấy được. Và cái tự nhiên đó có thể ở một phương diện nào đó giống như chữ
“Đạo” trong triết lý của Lão Trang, chữ “Đạo” trong triết lý, trong những tác phẩm của kinh Vệ Đà. Chúng ta cũng nghe nói đến cái tự nhiên nó là bất cứ một phương diện gì liên quan đến cái không dự phần của vui của buồn, của cái không dự phần vào tâm muốn thống trị, tâm muốn chi phối, tâm muốn làm chủ của con người.
Nhưng mà, mỉa mai thay cho chúng ta khi chúng ta muốn làm một điều gì đó thì ý muốn là một yếu tố, và tánh chất tự nhiên của hoàn cảnh, tự nhiên của cuộc sống nó lại là một yếu tố khác.
Chỉ cho đến khi nào ý muốn đó thuận hợp với lẽ tự nhiên thì cái đó mới dẫn chúng ta đến được mục tiêu chúng ta mong muốn.
Ở đây, Đức Phật Ngài đã dạy một câu kệ mới nghe dường như chỉ là một câu trả lời về cảnh giới thọ sanh. Nhưng trong câu trả lời đó cho chúng ta thấy chúng sanh đến đi trong cuộc đời này theo hạnh nghiệp của mình và hạnh nghiệp đó dựa trên một chủ tâm tạo tác và chủ tâm tạo tác là cái quyết định hoàn toàn. Chúng ta có quyền lựa chọn mặc dù trong một hoàn cảnh hầu như không có quyền lựa chọn anh thợ kim hoàn và người vợ của anh hai người đều đối diện với một hoàn cảnh, hoàn cảnh của lo sợ hoặc hoàn cảnh của bối rối nhưng hai người đã có 2 sự lựa chọn hoàn toàn khác nhau. Vì vậy đã đưa họ về 2 phương trời hoàn toàn khác biệt./.

Thích Giác Đẳng | Nguồn: Kinh Pháp Cú Giảng Giải 2003

Câu chuyện Phật giáo: Tại sao làm việc ác lại không bị ác báo?

Câu chuyện Phật giáo: Tại sao làm việc ác lại không bị ác báo?

Đăng lúc: 19:36 - 25/04/2016

Có nhiều người không hiểu rõ rằng tại sao làm việc ác lại không bị ác báo, thậm chí họ còn kiếm được rất nhiều tiền. Ví dụ, làm những nghề sát sinh như: đồ tể…

Đệ tử hỏi Phật

Phật Đà từng có lần đi tới một nơi mà ở đó chỉ toàn là bụi đất, không có một cây cối nào sinh sống. Ông kể với vị đệ tử đi theo mình rằng, nơi đây trước kia rất giàu có, nhưng quốc vương là một người vô đạo. Một hôm, ông ta đã giết một vị chứng đắc quả vị A La Hán. Sau khi ông ta giết vị A La Hán rồi, trên trời đã thả xuống rất nhiều vàng bạc châu báu liên tiếp trong bảy ngày liền. Tất cả dân chúng đất nước đều như điên cuồng. Nhưng sau 7 ngày thì trên trời liền thả xuống toàn là bùn đất khiến cho cả đất nước đều bị vùi lấp.

Nguyên lai lúc đầu trên trời cho thả xuống vàng bạc châu báu là bởi vì vị quốc vương này có phúc báo. Bởi vì ông ta có phúc báo che chở cho nên ác nghiệp kia không có cách nào hiện ra trước. Trời thả vàng bạc châu báu xuống là để cho ông ta hưởng hết phúc báo. Sau khi đã không còn phúc báo che chở nữa, ác nghiệp liền lập tức hiện ra chính là lúc trời thả bùn đất xuống.

Người làm việc ác chưa bị báo ứng là vì còn chưa hưởng hết phúc báo, một khi phúc báo đã hưởng hết thì nghiệp báo lập tức xuất hiện.



Có người kinh doanh ngành nghề sát sinh mà kiếm tiền, số tiền này kỳ thực là phúc báo ở trong mệnh của họ. Dù họ cũng có thể thông qua các cách khác để kiếm tiền, ví như gửi tiền ngân hàng để lấy lãi…, nhưng họ đã dùng sai phương pháp kiếm tiền. Số tiền đã kiếm được kia đợi hưởng thụ xong rồi thì ác báo của giết nghiệp kia sẽ tới.

Người xưa giảng “có phúc báo không thể hưởng thụ hết”, lúc có phúc báo càng phải làm việc thiện, làm việc có đức, dùng âm đức để đền bù cho những việc làm sai trái trong quá khứ, chứ không phải là chỉ biết hưởng thụ phúc báo. Nếu như phúc báo kia một khi hưởng hết rồi, bị rớt xuống rồi thì mong muốn bồi đắp phúc báo là việc không hề dễ dàng.

Trong “địa tạng kinh” có giảng, con người một khi đã rơi vào “tam ác đạo” (ba đường là địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ) rồi, thì sẽ ở trong tam ác đạo mà luân chuyển, vào địa ngục làm quỷ đói, sau khi làm quỷ đói rồi lại làm súc sinh, sau khi làm súc sinh mới được làm người. Vậy sau khi làm người rồi, không có phúc báo, nghèo khó thấp hèn, không có cách nào bồi dưỡng phúc báo, rồi lại rớt xuống, điều này rất đáng thương.

Chúng ta mong muốn bồi đắp thêm phúc báo thì ban đầu cũng cần phải là có phúc báo, có phúc báo làm nền tảng, mới có thể bồi đắp phúc báo được.

Ác hữu ác báo, chỉ là thời điểm chưa tới mà thôi! Những lời này bạn có tin không?

Theo Đại Kỷ Nguyên

Chung tay dẹp nạn giả sư khất thực, ăn xin

Chung tay dẹp nạn giả sư khất thực, ăn xin

Đăng lúc: 18:41 - 16/04/2016

Từ đầu tháng 3-2016, việc dẹp nạn ăn xin, giả sư khất thực phi pháp lại được đặt ra. Sở Lao động-Thương binh & Xã hội (LĐ-TB & XH) TP.HCM cùng 24 quận, huyện TP.HCM một lần nữa đã cùng họp bàn, đưa ra các biện pháp giải quyết tình trạng người ăn xin, giả sư khất thực phi pháp tràn lan lâu nay.
Sau buổi họp, các quận huyện, phường xã đã ra quân bắt đầu tổng rà soát, xử lý người ăn xin, giả sư khất thực trên địa bàn TP.HCM. Theo ghi nhận của phóng viên, trên một số tuyến đường trung tâm của TP, các đối tượng này xuất hiện ít hơn so với trước đây.

sugia.jpeg
Theo quan sát của PV Giác Ngộ cũng như phản ánh của bạn đọc, cho đến nay
sau các cuộc điện thoại thông tin về tình trạng giả sư khất thực đến đường dây nóng,
chưa thấy trường hợp nào được giải quyết - Ảnh: Hoàng Triều

Đường dây nóng “24/24”

Để có thể tiếp nhận thông tin từ người dân, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM đã thiết lập 3 đường dây nóng, gồm: 0903.959.929 (do ông Lê Chu Giang - Trưởng phòng Bảo trợ xã hội - trực tiếp trả lời), (08) 38.292.491 và (08) 35.533.258 nhằm tiếp nhận tin báo về người ăn xin, giả sư khất thực trên địa bàn TP.HCM 24/24. Bên cạnh đó, Sở cũng đề xuất chi 200.000 đồng động viên người dân báo tin và giúp địa phương tập trung các đối tượng ăn xin, giả sư khất thực.

Để xác minh lại đường dây “nóng” có thực sự “nóng” hay không, phóng viên Giác Ngộ trong vai người dân theo chân các đối tượng ăn xin giả sư khất thực trên nhiều tuyến đường TP.HCM như: 3-2 (Q.10), Huỳnh Tấn Phát (Q.7), Âu Cơ (Q.Tân Bình)... Khi phát hiện các đối tượng này, phóng viên lập tức liên hệ tới đường dây “nóng” của Sở, đều được nhân viên bắt máy, giọng nhỏ nhẹ: “đường dây nóng xin nghe”, và tiếp nhận những thông tin cũng như địa điểm mà phóng viên báo có những người ăn xin, giả sư khất thực đang hoạt động. Sau khi báo đường dây “nóng”, phóng viên tiếp tục chờ đợi “Sở” cho người xuống xử lý, tuy nhiên chờ mãi vẫn không thấy bóng dáng những người có trách nhiệm xuất hiện. Các đối tượng vẫn ung dung khất thực rồi mất hút sau đó.

Theo ông Lê Chu Giang, hiện vẫn còn nhiều khó khăn trong việc thu gom các đối tượng ăn xin, giả sư khất thực. Ông cho biết, khi nhận được thông tin qua đường dây nóng, lực lượng chức năng tới nơi thì các đối tượng đã bỏ đi, hoặc thấy bóng dáng của lực lượng quản lý họ liền lập tức trốn chạy.

Trước đó, ngày 17-2, tại buổi làm việc với Đảng bộ Công an TP.HCM, Bí thư Thành ủy TP.HCM Đinh La Thăng đã chỉ đạo gắn camera, yêu cầu quản lý người ăn xin ở khu vực trung tâm. Đây là chính sách được nhiều người dân ủng hộ. Tuy nhiên, việc này được thực hiện như thế nào, hiệu quả ra sao vẫn còn là một câu hỏi cần sớm được trả lời.

Tiếp nhận và xử lý thông tin

Bên cạnh việc tiếp nhận thông tin, điều khiến nhiều người dân quan tâm chính là quy trình xử lý của Sở LĐ-TB&XH TP.HCM đối với nguồn thông tin mà người dân cung cấp cho đường dây nóng.

Về phía Phật giáo, GHPGVN TP.HCM đã ra thông báo tạm ngưng việc khất thực và không cấp bất kỳ giấy giới thiệu nào cho các nhà sư đi khất thực. Hiện, những người khất thực trên đường phần lớn là sư giả, nên địa phương có thể dễ dàng xử lý.

Về phía chính quyền, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM đã đề nghị các quận huyện sau khi tiếp nhận thông tin phản ánh của người dân từ đường dây nóng phải lập tức chuyển tin báo về địa điểm xuất hiện các đối tượng đến các đơn vị phụ trách tại quận, huyện, phường - xã để kịp thời giải quyết. Những người có trách nhiệm tại các đơn vị sẽ mời các đối tượng này về trụ sở lập biên bản để có cơ sở xử lý. Đối với người đau yếu, bệnh tật ở ngoài đường, địa phương sẽ đưa đi chữa trị, hết bệnh sẽ cho tiền về quê.

Bài toán khó lúc này là cần phải có lộ trình và thời gian, cần phải có sự phối hợp xuyên suốt, quyết tâm cao giữa ban ngành các cấp chứ không thể ngày một, ngày hai có thể giải quyết, xóa bỏ hẳn tình trạng người ăn xin, cũng như những đối tượng giả sư khất thực, bán vé số, tăm bông để xin ăn trên địa bàn TP.

Bao giờ mới giải quyết được “nạn” giả sư khất thực, ăn xin?

Sau cuộc họp giao ban giữa các ban ngành của TP.HCM đầu tháng 3, Bí thư Thành ủy Đinh La Thăng chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan đã và đang tiến hành thực hiện quyết tâm kéo giảm vấn nạn ăn xin, giả sư khất thực trên địa bàn trung tâm TP, nhất là trong dịp cao điểm của các ngày lễ lớn, trong đó có ngày 30-4 sắp tới.

Để có thêm thông tin giải quyết nạn giả sư khất thực, xin ăn, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM đã thiết lập đường dây nóng 24/24. Một trong 3 đường dây nóng như đã nói ở trên do ông Lê Chu Giang, Trưởng phòng Bảo trợ xã hội thuộc Sở LĐ-TB&XH TP.HCM trực tiếp tiếp nhận; ông Giang cho biết, riêng số máy này, mỗi ngày trung bình tiếp nhận 15 cuộc gọi phản ánh của người dân.

Ông Giang cũng cho biết thêm, trong thời gian qua, Trung tâm Hỗ trợ xã hội đã tiếp nhận 2.285 trường hợp ăn xin, giả sư khất thực và cơ quan chức năng đã giải quyết cho 1.866 người được hồi gia. Theo đơn vị này, giải quyết vấn nạn ăn xin, giả sư khất thực gặp khó khăn bởi quy định thời gian thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng họ tại trung tâm bảo trợ không quá 3 tháng.

Ông Giang cho rằng nguyên nhân ăn xin cứ như nấm mọc sau mưa là do “công việc nhẹ, thu nhập cao”. Chưa kể, TP.HCM là nơi có nền kinh tế phát triển, người dân sống có nghĩa tình, hay giúp đỡ, cho tiền bạc nên điều này ít nhiều cũng tạo điều kiện để người ăn xin ở các tỉnh khác tìm đến nhiều hơn. Do đó, cần có sự chung tay của toàn xã hội trong việc hỗ trợ cũng như tuyên truyền ý thức cho người dân không nên cho “tiền” khi thấy những người ăn xin, giả sư khất thực, có như vậy vấn nạn này mới có thể sớm được giải quyết.

Vũ Giang

Lắng nghe để hiểu & thương

Lắng nghe để hiểu & thương

Đăng lúc: 10:58 - 28/03/2016

Một con cú già khôn ngoan sống ở cây đa. Nó càng nhìn thấy sự đời thì càng ít nói. Mà nó càng ít nói thì lại lắng nghe nhiều. Tại sao mình lại không như con cú già khôn ngoan kia? (Khuyết danh).
bo-tat-QTa.jpg
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian...

Khi còn bé thơ, chúng ta được dạy ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Và càng nói nhiều thì đó là dấu hiệu phát triển bình thường. Nhưng ít khi nào chúng ta được dạy phải biết lắng nghe. Và phần nhiều, cha mẹ, thầy cô, các bậc phụ huynh, v.v… không để tâm nhiều đến chuyện dạy dỗ cách biết lắng nghe. Tất nhiên, cha mẹ hay các thầy cô có dạy mình phải biết nghe lời. Nhưng ít khi chúng ta được dạy cách biết lắng nghe cho đúng.

Thường khi trong một cuộc đối thoại, chúng ta muốn người đối diện nghe ý kiến của mình muốn phát biểu, hay diễn đạt hơn là mình nên lắng nghe ý tưởng của họ. Nếu đã là vậy, rõ ràng không có sự lắng nghe xảy ra. Mà hễ không có sự lắng nghe, hiểu và cảm thông sẽ không bao giờ được thiết lập. Vợ chồng thường hay gặp phải tình cảnh này, nên có câu nói chọc cười: ‘Ngày xưa chồng nói vợ nghe. Bây giờ chồng nói vợ chê lắm mồm’. Cho nên, biết lắng nghe là nhịp cầu nối đầu tiên cho sự hiểu biết, cảm thông.

Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, sở dĩ Ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp, nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ-tát, Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.

Nhiều kinh điển nói về công hạnh của Bồ-tát, về sức uy thần diệu dụng của Ngài, thường hiện thân khắp nơi cứu giúp người đang đau khổ trên trần gian. Nhưng để tu tập theo hạnh nguyện từ bi, cứu khổ của Ngài, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu thêm một số chi tiết về những hạnh nguyện đó.

Trong kinh Pháp hoa nói Ngài thường thị hiện 33 hóa thân. Nhưng theo thiển ý, chắc đây là con số tượng trưng. Ngài được mô tả là một vị Bồ-tát luôn hóa thân cứu khổ mọi loài chúng sinh. Ngài hóa thân là một hiện tượng đặc thù theo tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’, biểu lộ tấm lòng đại từ bi, không phân biệt kẻ thân, người sơ, kẻ thâm tín, người hoài nghi, thậm chí người vô thần, ngoại đạo.

Hiện tượng hóa thân nói lên sự thấu hiểu và cảm thông thật sâu sắc nỗi sợ hãi, mối ưu lo của chúng sinh trong thế giới đảo điên, mộng tưởng. Để được tiếp cận với một chúng sinh đang đau khổ, Ngài hiểu rõ rằng một người xa lạ, dù là một Bồ-tát, sẽ khó có thể đến gần để chúng sinh kia được giãi bày nguồn cơn nỗi khổ của mình.

Theo kinh nghiệm đời thường cho thấy, khi chúng ta đang đau khổ hoặc phiền não mình chỉ muốn chia sẻ với ai biết lắng nghe, thông cảm, và không có ý phê phán, bình phẩm về những điều mình đã làm sai, hay tâm tình mình đang giãi bày, thổ lộ. Và thường mình muốn chia sẻ với người quen biết, dễ thương, hoặc người nào tôn trọng ý tưởng và tình cảnh của mình. Nếu hiểu được điều này, chúng ta có thể đóng vai sứ giả của Đức Quán Thế Âm, lắng nghe mà không phê bình, chỉ trích để giúp làm vơi nỗi khổ của người.

Thật ra, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng làm sứ giả Quán Âm, và muốn thành tựu vai trò này đòi hỏi mình phải biết lắng nghe.

Nhưng biết lắng nghe là một nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải quên mình đi mà chỉ biết nghe người kia đang nói gì. Biết lắng nghe đòi hỏi mình phải biết lắng đọng tâm tư để nghe rõ thông điệp của người mình đang đối diện. Cái bi kịch thường hay xảy ra cho chúng ta là khi mình muốn học hạnh lắng nghe nhưng cứ mỗi khi nghe xong câu chuyện mình lại diễn dịch nó qua lăng kính kinh nghiệm của bản thân, giống như mình nhìn thấy một sự kiện qua cặp kính màu của mình, nên thay vì hiểu và cảm thông, chúng ta lại chỉ trích hay phê phán người đối diện là dở cái này, thiếu cái nọ.

Do đó, hành động lắng nghe của mình bị thất bại. Nếu chúng ta biết lắng nghe qua tâm hạnh từ bi như Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta biết tôn trọng ý tưởng của người nói và lắng nghe cho kỹ những nỗi khổ đau mà họ đang trải nghiệm, thì công sức lắng nghe của mình sẽ chắc chắn mang lại một kết quả tốt và có thể sẽ làm vơi đi nỗi khổ của người.

Ngoài việc hóa hiện các thân để cứu độ, Ngài còn có khả năng làm cho chúng sinh hết lo sợ (vô úy thí). Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn có nêu lên 14 hoàn cảnh, những trường hợp tượng trưng, mà Ngài đã vận dụng năng lực vô úy để cứu độ. Năng lực vô úy là một khả năng đặc thù mà chỉ có những ai thật định tĩnh, tự tin, và từ bi vô hạn mới có thể làm được. Như một bà mẹ thương con vô cùng mới có thể làm con mình yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm. Sở dĩ chúng ta cảm thấy an lòng, không hoảng sợ, kinh hoàng trước sự hiện diện của Bồ-tát Quán Thế Âm vì Ngài sẵn lòng hy sinh bản thân để cứu độ mọi người.

Chúng ta cũng đã từng nghe qua năng lực vô úy này được các thiền sư thể hiện, như trong câu chuyện sau: Trong thời nội chiến ở Triều Tiên, một vị tướng soái dẫn quân đánh chiếm hết vùng này đến vùng kia, hủy diệt hết những gì cản trở bước tiến của ông ta. Dân chúng trong thành biết đoàn quân của vị tướng đang đánh tới, và nghe tiếng tàn bạo của ông ta nên mọi người đều trốn lánh vào vùng núi cao.

Vị tướng tiến chiếm thành không người và ra lệnh quân lính tìm kiếm dân trong thành khắp nơi. Vài người lính trở về báo cáo chỉ có một thiền sư còn ở lại. Vị tướng quân liền vội vã đến chùa, đi thẳng vào bên trong, rút gươm ra, và nói: “Lão thầy chùa kia, ông không biết ta là ai sao? Ta là người có thể thản nhiên lấy mạng của ông không chớp mắt”. Vị thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông tướng soái và bình thản trả lời: “Và tôi, thưa ngài, là người có thể để ngài lấy đầu mà cũng không chớp mắt”. Vị tướng quân nghe xong, liền cúi đầu và bỏ đi.

Sợ hãi là bản năng của con người, ai sinh ra cũng có. Nhưng các bậc thánh, hay như người căn tính yếu kém như chúng ta, nếu biết tu tập tinh chuyên và có lòng từ bi vô lượng, đều có khả năng, không những vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, mà còn khéo giúp người khác an tâm, không lo sợ. Tu tập hạnh từ bi có khả năng giúp mình vượt qua khổ hải và cũng giúp được người vơi bớt khổ đau. Vậy muốn có được năng lực vô úy thì chúng ta không thể thiếu hạnh từ bi.

Tuệ giác của pháp môn lắng nghe, không chỉ nằm trong việc lắng nghe âm thanh, lời nói, ngôn ngữ của người đối diện, mà còn vận dụng hết cả thân tâm mình từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và cả ý căn, để hiểu thấu và thấy rõ từ cử chỉ, hành vi, và sắc diện của họ đang nói lên những gì, mà lời nói, ngôn ngữ chưa diễn đạt, trình bày được hết ý của câu chuyện.

Chỉ cần vận dụng một phần ba (1/3) năng lượng của tuệ giác lắng nghe là chúng ta đã có thể giúp vơi đi nỗi khổ của người khác nhiều lắm rồi. Nhưng tiếc thay, đa số chúng ta thích nói hơn là thích nghe nên năng lượng của tuệ giác lắng nghe ít khi được sử dụng. Sở dĩ, mình thích nói hơn lắng nghe vì bản ngã, hay cái ta, đóng vai trò lớn trong việc thể hiện tầm quan trọng của bản thân, con người mình. Không ai muốn đóng vai trò ‘thấp cổ, bé miệng bao giờ!’. Hiểu rõ được điều này và phải vận dụng nhiều công phu tu tập mới có được chút khả năng lắng nghe vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Nhân ngày lễ vía của Đức Bồ-tát, chúng ta hãy cùng nhau vận dụng hết năng lực của mình để nhất tâm tu tập nguyện noi theo công hạnh của Ngài và để xứng đáng làm một sứ giả của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Tháng 10-2015
Tuệ Nghiệp

Trao đổi về bài: Sau khi chết xác thân chỉ là “Đất"

Trao đổi về bài: Sau khi chết xác thân chỉ là “Đất"

Đăng lúc: 22:04 - 17/12/2015

Ông bà tổ tiên sau khi chết thì tùy nghiệp tái sinh vào lục đạo, các vị ấy không ở trên bàn thờ...

HỎI: Tôi không đồng ý với câu trả lời của Tổ Tư vấn (TTV) về bài Sau khi chết xác thân chỉ là “đất”, đăng trên Giác Ngộ số 822, với 2 vấn đề dưới đây:

1. Còn việc bạn “mơ thấy cha hiện về, ông có điều gì đó phản ứng rất dữ dội” chỉ là biểu hiện của chính tâm thức bạn. Vì bạn suy nghĩ quá nhiều về điều ấy nên tâm bạn tự “nhào nặn” thành giấc mơ, hoàn toàn không phải là cha của bạn về báo mộng hay chưa tái sinh. Xin hỏi TTV dựa vào đâu mà phát biểu như vậy? Nếu đó chỉ là suy luận thì tôi nghĩ là không nên, vì từ suy luận đến thực tế khác xa lắm. Hơn nữa giác quan và tri thức của con người rất hữu hạn so với thực tại của vũ trụ.

2. Kinh Phật dạy rằng, một người chết đi lập tức tái sanh nếu sinh thời tạo nghiệp cực thiện hoặc cực ác. Còn nếu tạo nghiệp thiện ác lẫn lộn có thể trải qua thân trung gian, tối đa 49 ngày là tái sinh. Cha của bạn mất đã 29 năm, dĩ nhiên đã theo nghiệp tái sinh, không hề có chuyện “ông vẫn còn tham dự vào chuyện gia đình”. Vậy thì cúng Mông Sơn thí thực là để làm gì? Có phải vì lòng từ bi của nhà Phật mà đem thức ăn cho những chúng sanh đang đói khát hay không? Theo tôi biết, những chúng sanh đang đói khát đó chính là những người đã chết mà họ không đủ duyên để đi đầu thai. Trong kinh sách nhà Phật cũng nói rất nhiều về điều này. Thiết nghĩ, TTV nên trả lời những gì mình biết chứ không nên tùy tiện suy diễn.

(QUỲNH, quynhuyenvo@gmail.com)


Ảnh minh họa

ĐÁP: Bạn Quỳnh thân mến!

Trước hết, chúng tôi xin chân thành tri ân sự phản hồi của bạn. Trong quá trình học tập giáo pháp, sự thành tâm trao đổi, luận bàn có vai trò rất quan trọng giúp chúng ta soi sáng lẫn nhau để tin hiểu Chánh pháp sâu sắc hơn.

Vấn đề 1, bạn hỏi, dựa vào đâu mà phát biểu như vậy? Xin trả lời, chúng tôi đã dựa vào Chánh pháp. Theo một số kinh, luận (A-tỳ-đàm), cái gọi là giấc mơ hay chiêm bao có thể được tạo ra do nhiều nguyên nhân: Một giấc mơ có thể hình thành do những tác động sinh lý trong cơ thể, do sự tồn đọng của những hồi ức lúc thức, do sự tác động của một ngoại nhân có thần lực, hoặc chiêm bao cũng có thể là một điềm báo được tạo ra do sự chiêu cảm của nghiệp lực cá nhân hay tập thể.

Nói chung, hầu hết các giấc mơ đều là sản phẩm của tâm thức, là biểu hiện của chính tâm thức chúng ta. Tất cả các ý niệm, nhận thức, kinh nghiệm… của con người được lưu trữ trong tâm (tàng thức), tùy theo nhân duyên và hoàn cảnh mà biểu hiện thành những giấc mơ với nội dung khác nhau.

Chúng tôi tán đồng nhận định “giác quan và tri thức của con người rất hữu hạn so với thực tại của vũ trụ” của bạn, nhưng tin vào báo mộng của người chết là chuyện hoàn toàn khác. Chúng tôi không suy luận hay suy diễn mà hiểu rõ, giáo lý của đạo Phật không chủ trương tin vào báo mộng của người chết.

Nói rõ hơn, báo mộng là tín niệm dân gian. Tín niệm này vốn ăn sâu vào nhận thức của nhiều người ở khắp nơi trên thế giới. Tin vào báo mộng của người chết hay không là quyền của mỗi người, nhưng dưới ánh sáng chánh kiến của Phật giáo, mộng mị vốn là huyễn, không thực. Vì thế, Đức Phật không khuyến khích học tập các dị thuật như chiêm tinh, đoán mộng v.v…, thậm chí còn ngăn cấm.

Vấn đề 2, bạn hỏi, vậy cúng Mông Sơn thí thực để làm gì? Xin trả lời, cúng Mông Sơn thí thực nhằm bố thí thức ăn cho loài Ngạ quỷ đói khát được no đủ. Kinh điển nhà Phật nói rõ các chúng sanh trong lục đạo (thuộc Dục giới) bao gồm: Trời, người, a-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Những chúng sinh nào tập nghiệp tham lam, bỏn sẻn nặng nề sau khi chết sẽ tái sinh (đầu thai) vào loài Ngạ quỷ.

Cần xác định “những chúng sanh đang đói khát” ấy chính là loài Ngạ quỷ, một số ít khác thuộc chúng quỷ thần, chứ không phải là “những người chết mà họ không đủ duyên để đi đầu thai”.

Cụ thể hơn, Phật giáo Nam truyền không chủ trương có thân trung ấm, chết là tái sinh tức khắc. Phật giáo Bắc truyền chủ trương con người chết đi có thọ thân trung ấm, trong thời gian thọ thân trung ấm vẫn có thể thọ dụng thực phẩm (mùi hương) do người thân hiến cúng, nhưng tối đa khoảng 49 ngày là tái sinh. Phật giáo Tạng truyền (Mật tông Tây Tạng) cho biết, một số rất ít các thân trung ấm có thể kéo dài hơn 49 ngày, nhưng đó là những trường hợp cá biệt.

Vì vậy, chúng ta thờ cúng ông bà tổ tiên nhằm thể hiện lòng hiếu kính và tri ân. Ông bà tổ tiên sau khi chết thì tùy nghiệp tái sinh vào lục đạo, các vị ấy không ở trên bàn thờ, và do nghiệp duyên nơi loài mà các vị ấy đã tái sinh vào cũng khác biệt nên không dễ hội đủ nhân duyên để can thiệp vào đời sống của chúng ta.

Mặt khác, không nên xem loài Ngạ quỷ (đã đầu thai), phần lớn cộng cư với loài người, thường được loài người cúng thí thực phẩm là “những người chết mà họ không đủ duyên để đi đầu thai”.

Chúc bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN

Ba câu chuyện kể về thứ đáng sợ nhất trên đời

Ba câu chuyện kể về thứ đáng sợ nhất trên đời

Đăng lúc: 21:23 - 04/12/2015

Có người hỏi Thiền sư: “Điều đáng sợ nhất trên cõi đời này là gì?”

Thiền sư đáp: “Dục vọng!”
Người đó lộ vẻ hoài nghi.
Thiền sư nói: “Hãy để tôi kể vài câu chuyện cho ông nghe vậy”.


Truyện thứ nhất: Bạc vàng đáng sợ

Một vị tăng nhân hốt hoảng từ trong rừng chạy đến, vừa khéo gặp hai người bạn vô cùng thân thiết đang tản bộ bên rừng. Họ hỏi vị tăng nhân: “Chuyện gì mà ông hốt hoảng quá vậy?”.
Vị tăng nhân nói: “Thật là kinh khủng, tôi đào được một đống vàng ở trong rừng!”.
Hai người bạn, không nhịn được liền nói: “Thật đúng là tên đại ngốc! Đào được vàng, việc tốt như thế mà ông lại cho là kinh khủng, thật không thể hiểu nổi!”.
Thế là họ lại hỏi vị tăng nhân kia: “Ông đào được vàng ở đâu? Chỉ cho chúng tôi xem với!”.
Vị tăng nhân nói: “Thứ xấu xa như thế, các ông không sợ sao? Nó sẽ nuốt chửng người ta đấy!”.
Hai người kia gạt phăng, hùng hổ nói: “Chúng tôi không sợ, ông mau mau chỉ chỗ xem nào!”.
Vị tăng nhân nói: “Chính là bên dưới cái cây ở bìa rừng phía tây”.
Hai người bạn liền lập tức tìm đến chỗ vị tăng nhân vừa chỉ, quả nhiên phát hiện được số vàng đó. Người này liền nói với người kia rằng: “Tên hòa thượng đó đúng là ngốc thật, thứ vàng bạc mà mọi người đều khao khát đang ở ngay trước mắt, thế mà lại trở thành quái vật ăn thịt người”. Người kia cũng gật đầu đồng tình.


(Ảnh theo NTDTV)
Thế là họ bàn với nhau làm thế nào để chuyển số vàng này về nhà. Một người trong đó nói: “Ban ngày mà đem nó về thật không an toàn cho lắm, hay là đêm đến chúng ta mới vận chuyển, vậy sẽ chắc ăn hơn. Tôi ở lại đây canh chừng, ông hãy về mang chút cơm rau trở lại, chúng ta ăn cơm rồi đợi đến trời tối mới chuyển số vàng này về nhà”.
Người kia liền làm theo người bạn nói. Người ở lại nghĩ : “Nếu như số vàng này đều thuộc về sở hữu của riêng ta thì hay biết mấy! Đợi hắn quay lại, ta hãy dùng cây gậy gỗ đánh chết đi, vậy thì toàn bộ số vàng này là của ta hết rồi”.
Thế là khi người bạn đem cơm rau đến khu rừng, người kia liền từ phía sau lưng dùng gậy gỗ đánh mạnh vào đầu khiến ông ta chết ngay tại chỗ, sau còn nói rằng: “Bằng hữu ơi, chính là số vàng này buộc tôi phải làm như vậy”.
Sau đó ông ta vớ lấy thức ăn mà người bạn mang đến, ăn ngấu nghiến. Chưa được bao lâu, người này cảm thấy rất khó chịu, trong bụng giống như bị lửa thiêu đốt. Khi đó, ông ta mới biết rằng mình đã bị trúng độc. Trước lúc chết, ông mới nói rằng: “Lời hòa thượng đó nói quả thật không sai!”.
Đây thật là ứng với lời người xưa để lại: Người chết vì tiền tài, chim chết vì miếng ăn. Đều là họa do lòng tham đưa đến, chính dục vọng đã khiến người bạn thân nhất trở thành kẻ thù không đội trời chung.

Truyện thứ hai: Người nông dân mua đất

Có một người nông dân muốn mua đất, ông ta nghe nói một người ở vùng khác có đất muốn bán, liền quyết định đến đó hỏi thăm. Người bán đất nói với ông ta rằng: “Chỉ cần giao một nghìn lạng bạc, ta sẽ cho ông thời gian một ngày, bắt đầu tính từ lúc mặt trời mọc, đến khi mặt trời lặn xuống núi, ông có thể dùng bước chân khoanh tròn được bao nhiêu đất, thì số đất đó sẽ chính là của ông, nhưng nếu ông không trở về nơi khởi điểm, thì ngay cả một tấc đất ông cũng sẽ không có được”.
Người nông dân đó nghĩ thầm: “Nếu như hôm nay ta vất vả một chút, đi nhiều đường hơn một chút, thì chẳng phải có thể đi được vòng rất lớn, theo đó sẽ có được một mảnh đất rất lớn hay sao? Làm ăn như vậy quả thật là rất có lợi!”. Thế là ông ta liền ký kết giao ước cùng người chủ đất đó.


(Ảnh theo Epochtimes)
Mặt trời vừa mới nhô lên, ông ta liền cất bước thật dài đi nhanh về phía trước; đến giữa trưa, bước chân của ông vẫn không dừng lại giây phút nào, cứ mãi đi về phía trước, trong lòng nghĩ: “Hãy ráng chịu đựng một hôm nay, sau này sẽ có thể hưởng thụ hồi báo của vất vả hôm nay mang đến rồi”.
Ông ta cứ thế tiếp tục đi về phía trước, đến khi mặt trời sắp lặn rồi mới chịu quay trở về, trong lòng vô cùng lo lắng, bởi vì nếu như không về kịp thì một tấc đất cũng chẳng có. Thế là ông ta vội vàng trở về theo đường tắt. Tuy nhiên, mặt trời sắp xuống núi, ông ta đành phải liều mạng mà chạy, cuối cùng chỉ còn thiếu vài bước thì đến vạch khởi điểm, nhưng sức lực đã cạn kiệt, ông ngã nhào xuống nơi đó.
Dục vọng của con người và ranh giới với hiện thực mãi mãi cũng không cách nào vượt qua được, bởi lòng tham là vô đáy. Con người mãi mãi không biết thỏa mãn, đây chính là khuyết điểm lớn nhất trong nhân cách.

Truyện thứ ba: Phật và ma

Có một họa sĩ rất nổi tiếng, ông muốn vẽ Phật và ma, nhưng không tìm được người làm mẫu phù hợp, vì đầu óc ông không tài nào tưởng tượng ra nổi hình dáng của Phật, nên rất lo lắng. Trong một lần tình cờ, ông lên chùa bái lạy, vô tình nhìn thấy một hòa thượng. Khí chất trên vị hòa thượng này đã thu hút người họa sĩ sâu sắc. Vậy là ông liền đi tìm vị hòa thượng đó, hứa cho hòa thượng một số tiền lớn để làm người mẫu cho ông.
Về sau, tác phẩm của họa sĩ đã hoàn thành, gây chấn động ở vùng đó. Nhà họa sĩ nói: “Đó là bức tranh vừa ý nhất mà tôi từng vẽ qua, bởi người làm mẫu cho tôi quả khiến người ta vừa nhìn thấy nhất định cho rằng anh ta chính là Phật, loại khí chất thanh thoát an lành trên người anh có thể cảm động bất kì ai”.


(Ảnh: theo Epochtimes)
Người họa sĩ sau đó đã cho vị hòa thượng đó rất nhiều tiền như lời đã hứa.
Cũng nhờ bức tranh này, mọi người không còn gọi ông là họa sĩ nữa, mà gọi ông là “họa Thánh”.
Bẵng đi một thời gian, họa sĩ chuẩn bị bắt tay vào việc vẽ ma, nhưng điều này lại trở thành một vấn đề khó của ông, vì chẳng biết tìm hình tượng ma quỷ ở đâu. Ông đã hỏi thăm rất nhiều nơi, tìm rất nhiều người có vẻ ngoài hung dữ, nhưng không ai vừa ý cả.
Cuối cùng, ông tìm được trong nhà tù một tù nhân rất phù hợp với đối tượng ông cần vẽ. Họa sĩ vô cùng mừng rỡ, nhưng khi ông đối diện phạm nhân đó, người này đột nhiên khóc lóc đau khổ trước mặt ông.
Nhà họa sĩ rất lấy làm kinh ngạc, liền hỏi rõ ngọn ngành.
Người phạm nhân đó nói: “Tại sao lần trước khi người mà ông tìm để vẽ Phật là tôi, bây giờ khi vẽ ma quỷ, người ông tìm đến vẫn là tôi!”
Người họa sĩ giật cả mình, thế là ông lại nhìn kỹ người phạm nhân đó, rồi nói: “Sao lại có thể chứ? Người mà tôi tìm để vẽ Phật ấy khí chất phi phàm, còn cậu xem ra chính là một hình tượng ma quỷ thuần túy, sao lại có thể là cùng một người được? Điều này thật kì lạ, quả thật khiến người ta không thể nào lý giải được”.
Người kia đau khổ bi ai nói: “Chính là ông đã khiến tôi từ Phật biến thành ma quỷ”.
Họa sĩ nói: “Sao cậu lại nói như vậy, tôi vốn đâu có làm gì đối với cậu đâu”.
Ngươi đó nói: “Kể từ sau khi tôi nhận được số tiền ông cho, liền đi đến những chốn ăn chơi đàng điếm để tìm thú vui, mặc sức tiêu xài. Đến sau này, tiền tiêu sạch hết, mà tôi lại đã quen với cuộc sống đó rồi, dục vọng đã khởi phát mà không thể thu hồi lại được. Thế là tôi liền giật tiền người ta, còn giết người nữa, chỉ cần có được tiền, chuyện xấu gì tôi cũng có thể làm, kết quả đã thành ra bộ dạng này của ngày hôm nay đây”.
Người họa sĩ nghe xong những lời này, cảm khái vạn phần, ông sợ hãi than rằng bản tính con người trước dục vọng lại biến đổi mau chóng đến thế. Con người chính là yếu nhược như vậy đó. Thế là ông áy náy quăng cây bút vẽ xuống đất, từ đó về sau không còn vẽ bức tranh nào nữa.
Con người ta, một khi rơi vào trong cạm bẫy “theo đuổi ham muốn vật chất”, thì rất dễ đánh mất bản thân mình, muốn thoát ra khỏi đã trở thành mục tiêu rất khó khăn, vậy nên bản tính con người không thể đi cùng với lòng tham.
Thiền sư kể xong mấy câu chuyện, nhắm nghiền mắt lại không nói gì cả, còn người kia đã biết được đáp án từ trong những câu chuyện này: Thì ra điều đáng sợ nhất trên cõi đời này chính là dục vọng, dục vọng của người ta càng nhiều, thì sẽ càng không thỏa mãn, vậy nên sẽ càng không vui vẻ và phiền não vì thế cũng sẽ càng nhiều hơn.

ngcan (3)

Đức tin liệu cũng có ba bảy đường?

Đăng lúc: 19:18 - 05/11/2015

Với sự quan sát và cách nhìn của một Phật tử trí thức về các hiện tượng Phật giáo trong xã hội hiện tại, trong mong ước xây dựng một nền Phật giáo chánh tín, GN trân trọng giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Phạm Văn Nga, pháp danh Nguyên Cẩn về vấn đề đức tin và chánh tín.
Khi xã hội trống vắng niềm tin

Cách đây nhiều năm trong một chuyến công tác ở Moscow - Liên bang Nga, ông chú tôi, một quan chức trong ngành điện lực, sau cuộc hội thảo chuyên môn, giờ giải lao, một cán bộ cấp cao, một nữ phó tiến sĩ người Nga tâm sự: “Các anh may mắn hơn chúng tôi, các anh có niềm tin vào tôn giáo hay một thứ tín ngưỡng nào đó, còn chúng tôi, sau khi Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu tan rã, chỉ còn sự trống rỗng, hầu như chúng tôi chẳng biết tin vào điều gì bây giờ!”.

ngcan (2).jpg
Ở các nước phát triển, nhiều người tìm đến với Phật giáo vì đó là lối sống có thể ứng dụng
mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích thiết thực cho mình, cho người, cho môi trường...

Niềm tin tôn giáo

Là một trí thức XHCN, chắc bà ấy khi đề cập đến niềm tin không nhắm đến những tín ngưỡng như những nghi thức cầu nguyện hay những điều huyền nhiệm mà cũng không phải là triết lý theo truyền thống Tây phương, vì theo Edward Conze “Ở châu Âu, chúng ta hầu như đã quen với lỗ hổng rất lớn giữa lý thuyết của các nhà triết học và và sự thực hành của họ. Chẳng hạn như Schopenhauer và Herbert Spencer,… là những ví dụ nổi bật. Nếu một nhà triết học ở đây chứng minh được rằng không có cái ta, lập tức họ buông bỏ điều đó và hành xử như một người có bản ngã… Thật không dễ gì bài bác một nhà triết học bằng cách chỉ ra rằng ông ta thô lỗ với vợ ông ta, ganh tị với bạn đồng nghiệp, đã may mắn hơn ông ta, và đỏ mặt tức bực khi bị phản bác… Trái lại trong Phật giáo tầm quan trọng là do lối sống, một đời sống thánh thiện, buông bỏ sự dính mắc đối với thế giới này…” (*) .

Vậy cái niềm tin tôn giáo bà nói ở đây hẳn là những nguyên tắc sống, thái độ sống, hành xử với tha nhân, cái nhìn về cuộc đời. Nói như nhiều nhà nghiên cứu phương Tây, Phật giáo là một tôn giáo thực tế. Vì họ hiểu giá trị của một ý tưởng phải được đánh giá và phê phán qua việc bạn có thể vận dụng thế nào ý tưởng đó. Bất cứ nơi nào, hay ở bất kỳ ai, nếu người ta thấy những tính cách từ bi, hỷ xả, tử tế, thanh thản, tự tin, người ta sẽ hiểu cái “triết lý” thực tế phía sau những thái độ ấy và mức độ tu chứng của hành giả, không cứ là tu sĩ hay cư sĩ…

Thế nhưng niềm tin của chúng ta hôm nay ở đâu khi nhìn lại xã hội chúng ta những năm gần đây, người ta không khỏi lo âu, ái ngại vì nhiều thông tin cho thấy các mặt của đời sống đều xuống cấp, nhất là văn hóa mà ánh xạ của nó thể hiện qua các mặt ngôn ngữ, truyền thông và nhất là cách hành xử bạo lực từ nhà trường ra đường phố, công sở… Ngay cả trong tình yêu người ta cũng phũ phàng khi sẵn sàng giết, tạt a-xít, trói rồi đốt người yêu, người vợ và thậm chí con mình (!). Sân hận dễ dàng bộc phát, tràn lan nhiều nơi.

Gương mặt người Việt Nam theo một số nhà xã hội học từ lâu nay đã biến mất vẻ an nhiên, thay vào đó là những nét đề phòng. Họ căng thẳng vì đời sống chăng? Có thể nhưng ngày xưa cha ông còn nghèo hơn chúng ta bây giờ mà? Họ học theo phim ảnh Âu Mỹ hay những game bạo lực chăng? Nhưng ở những nước sản xuất ra phim hay game đó, tỷ lệ tội ác thấp hơn chúng ta nhiều? Vậy thì vì đâu, cơ chế thị trường chăng? Không, cái cơ chế ấy chỉ làm cho một số người trở nên giàu có, phát triển lòng tham lệch lạc vì thiếu sức mạnh răn đe của luật pháp hay người thi hành nương tay vì lý do gì đó (?).

Lòng tham hôm nay thể hiện qua sự nhũng nhiễu của một bộ phận quan chức, qua hành vi thiếu lương tâm làm hàng gian hàng giả, hay kê giá lên nhiều lần của một lớp tư sản đỏ, có sự tiếp tay của thể chế “lợi ích nhóm” lũng đoạn đời sống.

Và niềm tin đặt sai chỗ

Nhưng có thật xã hội hôm nay thiếu niềm tin tôn giáo không? Có người sẽ tranh luận rằng Phật giáo, chưa nói đến các tôn giáo khác, đang trong giai đoạn “phồn vinh”, được bá tánh hết sức quan tâm và có rất nhiều tín đồ. Cứ nhìn vào các lễ hội, người ta thấy chen chúc từ đầu năm đến cuối năm…Không cứ chùa Hương, chùa Bái Đính hay những chùa nổi tiếng khác, mà dịp lễ Tết, chùa nào cũng đông, người người đi chùa như trẩy hội, ngày rằm mồng một nhiều chùa tấp nập, khói hương mờ một góc đường... Đáng mừng chăng?

Phật giáo, như chúng ta biết, không chỉ là triết lý sống thực tế mà còn có những nghi lễ - nội dung tín ngưỡng, tôn giáo. Dù muốn dù không, những loại hình nghi lễ đã phát triển xung quanh giáo lý của Ðức Phật.
“Ðiều tối quan trọng ngày nay là nhận biết giá trị bức thông điệp của Ðức Phật và sống theo những lời dạy ấy. Đó là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không sử dụng các chất kích thích làm mê mờ tâm trí. Đức hạnh cao hơn là bố thí, giữ giới - những nguyên tắc đạo đức căn bản và thực hành thiền định.
Giáo đoàn của Ngài cũng đã trở thành một tôn giáo mà người ta sẵn sàng trung thành, một tôn giáo có nghi lễ, tổ chức, đường lối, tiêu chuẩn riêng để quyết định điều gì đúng điều gì không đúng, về mặt lịch sử, đó là một loại Phật giáo khác với hình thức kết tập thuyết giảng ban đầu của Phật.

Ngày đó, người tu Phật chỉ hướng đến những chân lý mà Phật chỉ dạy với tâm trí rộng mở, và tự do tư tưởng vì Phật giáo chủ trương giải thoát chúng ta khỏi một đấng Thượng đế vô hình - toàn năng hay những ràng buộc siêu nhiên, và nói chung khỏi mọi giáo điều. Thế nhưng, trong khi thực hiện những nghi lễ, có không ít người đã lầm tưởng một số hình thức hay những cách biểu hiện -phi-Phật giáo là nghi lễ chính thống hay tông phái “duy nhất” đưa đến giác ngộ.

Và hiện nay, nhiều pha tạp khác len lỏi vào đời sống tôn giáo của đạo Phật, gây nhiều ngộ nhận về giá trị “tâm linh” như ngoại cảm, đồng cốt, lịch số, dâng sao - giải hạn…

Chúng ta có thể kể đến một hiện tượng được bàn tán, sôi nổi viết thành sách, trên mạng, trên báo chí, là ngoại cảm. Xuất phát từ ước vọng tìm lại hài cốt những chiến sĩ tử trận trong chiến trường, đã dấy lên phong trào “Đi tìm đồng đội”. Rồi một đồn mười, mười đồn trăm, người ta đổ xô đi tìm và trao niềm tin cho những “nhà ngoại cảm”. Thực hư cũng còn mơ hồ vì đã xảy ra những vụ lọc lừa như vụ “cậu Thủy”, kẻ làm giả rất nhiều hài cốt, mập mờ đánh lận con đen, để rồi vừa bị tuyên án chung thân cách đây một tuần. Có cả những vị tu sĩ cũng tham gia vào hiện tượng ngoại cảm này.

Với vấn đề đồng cốt, một hiện tượng không những không bị cấm mà còn được xem như loại hình văn hóa “phi vật thể”.Hòa thượng Thích Thanh Từ có lần giảng dạy: “Những kẻ làm ông đồng, bà cốt đều là người sống trong trạng thái bất bình thường. Bản thân họ đã mất hết khả năng tự chủ, họ bị sai sử bởi một ma lực huyền bí nào đó. Khi ma lực ấy dựa vào họ, liền lạm dụng các danh hiệu thánh, những bậc vĩ nhân của thuở xưa dùng mạo xưng để lừa bịp người đời. Những kẻ yếu vía dễ tin nghe xưng danh hiệu Phật, Bồ-tát hay những vị tiên thánh liền khiếp đảm kính tin. Họ không dám phê phán đó là tà hay chánh…”.

Hòa thượng nhấn mạnh: “Không khi nào các bậc Thánh phải gá vào thân kẻ phàm tục khác làm việc giáo hóa. Vì các ngài đầy đủ thần thông biến hóa vô ngại. Như thế, những ma lực tựa vào đồng cốt đều là sức của quỷ thần. Vì sợ người đời không tin, nên chúng mạo xưng những danh hiệu cho to để gây uy tín. Biết rõ tính cách ma mị của chúng, người Phật tử phải tránh xa, tuyệt đối không được phụ họa với chúng, huống là quy kính. Có thế mới tỏ ra là người Phật tử chân chánh”(**).

Trong thực tế lâu nay, với nhu cầu về tín ngưỡng dân gian, nhiều người đến chùa xin các thầy ngày giờ chôn cất, khởi sự công trình, khai trương, cúng nhà mới…

Trong tạng kinh bộ Anguttaranikaya, Phật dạy: “Này các Tỳ-khưu, chúng sanh hãy làm cho thân được trong sạch, khẩu được trong sạch, ý được trong sạch. Thân khẩu ý trong sạch trong buổi sáng là ta có giờ an lành trong buổi sáng, thân khẩu ý trong sạch trong buổi chiều thì ta có giờ an lành trong buổi chiều”.

Ngài Maha Thongkham Medhivongs diễn giải thêm: “Người làm việc lành giờ nào thì ngày giờ ấy là giờ lành. Người mong cầu an vui mà biết bố thí, cúng dường đến các bậc xứng đáng cúng dường, các bậc phạm hạnh - sẽ được an vui. Sự cữ kiêng, cúng kiếng, cầu xin đều là những việc làm không bổ ích chi cả. Người có chánh kiến không nên làm những việc vô ích, vô bổ như thế” (***). Chúng ta thấy những việc như xin xăm, bói quẻ cũng như những hình thức cầu may. Rủi may là điều xảy ra không có duyên cớ. Phó thác hành động của mình, cho đến phó thác cả quyết định của mình vào một lời giải đáp âm u được gán cho “tâm linh” - chỉ tin mà không cần cơ sở lý luận. Cái gì không thành tựu thì đều đổ lên “số”, “vận”, “khắc tuổi”…

Nếu hiểu nguyên lý nhân quả, thân tổng báo của chúng ta có lẫn lành với dữ, khi nhân lành đến thì hưởng quả lành, nhân dữ chịu quả dữ. Người mê tín gửi gắm tâm hồn vào sự huyền bí, vào thế giới vô hình, nhiều người mất hết suy lý thực tế, phó thác cuộc đời của mình cho những “vì sao”, nghi lễ cầu đảo bị dẫn dắt bởi những thầy cúng.

Một vấn nạn khác đang diễn ra, đó là hiện nay có nhiều người, kể cả có học hành, địa vị xã hội thiếu nhận thức căn bản về Phật giáo, nhầm lẫn Mật tông với những hình thức như thần quyền, sử dụng bùa chú và tin mãnh liệt rằng đó là con đường ngắn nhất đưa đến giải thoát, giác ngộ, siêu việt mọi phương pháp khác, bất chấp trì giới, thiền định, phát triển trí tuệ, gạn lọc tham sân si. Đây là một ngộ nhận rất lớn mà Phật giáo chưa thấy một sự hướng dẫn nào rõ ràng từ Giáo hội, các bậc cao tăng qua các phương tiện truyền thông mạnh dạn lý giải và hướng dẫn họ một cách chính thống.

Xây dựng chánh tín từ đâu?
“Tư tưởng căn bản của Phật giáo là lý Nhân quả, Duyên khởi, Tứ diệu đế, nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim cương thừa - Mật tông, vốn đã hiện diện hàng ngàn năm nay trong đời sống người dân Việt. Còn những hiện tượng hay nghi lễ gì đó mà không dựa trên những đạo lý này thì mãi mãi chỉ là hình thức thức phù phiếm và không phải là “chánh đạo”. Mong mọi người cẩn trọng!
Ðức Phật đã từng dạy: “Ðừng vội tin tưởng điều gì vì dựa vào một tập quán lưu truyền. Ðừng vội tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vịn vào uy tín và thẩm quyền của một người nào đó. Ðừng tin tưởng điều gì vì có được nhiều người nói đi nhắc lại. Hãy tin tưởng vào những gì mà người ta đã từng trải, kinh nghiệm, thấy là đúng, thấy có lợi cho mình và người khác”.

Ðây là một thái độ dân chủ, khoa học mà những ai theo Phật cần tiếp nhận, thấy rõ quyền tự do tư tưởng của chính mình.

Có người còn cho rằng Phật giáo không giống như một tôn giáo (religion), không phải là học thuyết (doctrine), cũng không hẳn là triết lý (philosophy) hay luân lý học (ethics) như quan niệm Tây phương, mà là lời giảng giải của một bậc giác ngộ về con đường xây dựng hạnh phúc tương đối và hạnh phúc thực sự trong cuộc đời, tự tại trong sinh tử. Nói cách khác, con đường đó đưa đến diệt ham muốn, buông bỏ chứ không trói buộc, giảm lợi chứ không tăng, đưa đến con người thiểu dục, xã hội tri túc, chứ không tạo ra những kẻ tham lam vơ vét, khiến bất công tăng lên.

Đức Phật theo quan niệm một số triết gia là thầy thuốc - vô thượng y vương, đã tìm ra nguyên nhân, đã đưa ra thuốc chữa và liệu pháp chữa trị, được tóm tắt trong giáo lý Tứ Thánh đế. Ngài chỉ ra nguyên nhân của khổ, bản chất của đời sống, cách diệt khổ. Tuy nhiên nếu có nghe, đọc, tranh luận, mà không thực hành thì những lời dạy đó cũng vô nghĩa và không hiệu quả thiết thực. Nhất là khi chúng ta đang sống trong một xã hội trống vắng niềm tin mà ngày xưa chúng ta từng có, rất mạnh, rực rỡ như thời Lý-Trần hay cũng mạnh mẽ trong những thời kỳ sau đó.

Chiến tranh qua đi, lẽ ra chúng ta phải xây dựng lại niềm tin hay đức tin ấy nhưng buồn thay, nhiều hiện tượng khiến cho chúng ta thấy rằng mọi chuyện lại đang đi về phía ngược lại. Khi người ta chạy theo những nghi thức mê tín mà không còn tin vào lý nhân quả, vào duyên khởi, vào sự giải thoát và hạnh phúc chân chính ngay trong kiếp sống này thì người ta sẽ làm bất cứ điều gì mà không hề ăn năn sám hối, thành thực sửa sai, tránh làm điều sai quấy.

Chỉ cầu nguyện - có hiệu lực chăng?

Nhiều người quan niệm cầu nguyện tất yếu phải là chánh tín nhưng thử hỏi nếu chúng ta chỉ cầu nguyện thôi thì mọi ước mơ ích kỷ đều được toại nguyện, thì xin thưa, đó là mê tín. Vì nếu chỉ cầu nguyện mà được, thì không cần nói đến nhân quả nghiệp báo. Nhưng nếu mọi sự kiện xảy ra đều do nhân quả thì cầu nguyện khó mà toại nguyện, vậy thì cầu nguyện làm gì?

Khi cầu nguyện, dù mang nghiệp nặng hay nhẹ, chúng ta cũng đã thực hiện hành trì một trong những pháp môn căn bản vì chúng ta phải nghĩ tới Đức Phật, các vị Bồ-tát khi niệm danh hiệu của các Ngài. Hành giả sẽ tin rằng vị Phật hay Bồ-tát mình vừa cầu nguyện có năng lực làm mờ, làm biến đi những ác niệm trong tâm hồn mình. Nhất là niềm tin đó phải chí thành. Hành giả phải nhận thức sâu sắc tội lỗi của mình và hồi hướng công đức về thế giới của phẩm chất an lành.

Khi chánh tín tâm thành tựu, bạn sẽ thanh tịnh hóa cuộc sống thực tế của mình từ trong ý niệm. Hiểu và tin lý nhân quả, chúng ta khéo chuyển cái xấu trở thành tốt, cái dở trở thành hay, nắm chắc quyền tự chủ, tạo dựng tương lai tươi đẹp cho chính mình. Lý nhân quả vừa là khoa học vừa là sức mạnh chuyển biến con người. “Có trời mà cũng có ta”.

Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng ta có thể chuyển nghiệp ngay trong kiếp sống này. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá nhân là đến được trí tuệ tối hậu. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là bắt đầu thay đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp thân, khẩu và ý của chính mỗi cá nhân.

ngcan (3).jpg

Niềm tin vào duyên sinh

Chúng ta hiểu vạn vật trong vũ trụ đều duyên sinh. Không một vật nào tự thân có thể tạo ra chính mình mà phải là tập hợp gồm nhiều thành phần, đơn vị. Lý duyên khởi vì thế rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hiểu được lý duyên khởi, chúng ta thấy rõ muôn vật trên thế gian đều tương sinh, tương tức với nhau như nước và mây, như cây và hạt. Chúng ta không thể tách một cá thể đứng ngoài xã hội, ngoài nhân loại. Hạnh phúc chung của một gia đình, một cộng đồng phải là hạnh phúc tổng hòa của từng cá nhân gộp lại. Những quốc gia mà giàu nghèo cách biệt quá xa không thể là một quốc gia hạnh phúc khi ‘kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra’. Người ta không tính GDP mà GNH (Gross National Happiness - Tổng hạnh phúc quốc gia).

Tin vào duyên khởi là tin bằng trí tuệ, bằng nhãn quan khoa học. Đó là chánh tín. Người có chánh tín là người có trí tuệ, người có trách nhiệm, vì hiểu lý nhân quả và duyên khởi. Chúng ta xét một hiện tượng, một sự việc tốt xấu, phát xuất từ nhân nào, sẽ chịu quả gì và sửa đổi lại điều kiện hay duyên tạo ra nó vì mình là chủ nhân của mọi thành bại, đau khổ an vui. Nhờ đức tín, con người mới cố gắng chuyển đổi, vươn lên trong mọi lĩnh vực. Một dân tộc có đức tự tín, không bao giờ cam chịu khuất phục, chậm tiến. Có tự tín là có một sức mạnh phi thường. Có tự tín, sự tu hành mới không thối chuyển.

Hòa thượng Thanh Từ có viết: “Bản chất của đạo Phật là trí tuệ, là giác ngộ, làm sao dung nạp được mê tín. Nếu người ta thấy trong chùa chiền hiện nay còn những hiện tượng mê tín, vội phê bình đạo Phật mê tín. Đây là những oan tình của đạo Phật. Tất cả những kinh Phật không có nói những việc mê tín ấy, chẳng qua một số người vì tùy tục, vì thiếu hiểu Phật pháp vẽ bày ấy thôi.

Người học Phật chân chánh phải gan dạ loại bỏ những tập tục sai lầm ấy, can đảm dứt khoát đập tan mọi tệ đoan làm suy giảm giá trị Phật pháp. Có khi dẹp bỏ những điều đó, có thể thiệt thòi chút ít quyền lợi của mình. Song chúng ta cương quyết vì Chánh pháp, chớ không vì lợi dưỡng, vì đưa người ra khỏi đường mê, không vì sợ mất mát bản đạo. Được thế, chúng ta mới xứng đáng là người lãnh đạo tín đồ mới”(**).

Đạo Phật đem lại một lối sống mà mình có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích cho mình. Người nào quy y Phật, Pháp và Tăng với niềm tin như vậy thì họ sẽ trở thành người Phật tử mà không cần một lễ nghi nào, không một loại hình thức nào, không đăng ký, không thể lệ nào để phải làm theo. Vì vậy mà, F.L Woodword, một trong những dịch giả nổi tiếng về những lời dạy của Ðức Phật, đã từng nói Phật giáo là “tôn giáo tự mình làm lấy” (a do-it-yourself religion).

Ðiều tối quan trọng ngày nay là nhận biết giá trị bức thông điệp của Ðức Phật và sống theo những lời dạy ấy. Đó là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không sử dụng các chất kích thích làm mê mờ tâm trí. Đức hạnh cao hơn là bố thí, giữ giới - những nguyên tắc đạo đức căn bản và thực hành thiền định.

Tư tưởng căn bản của Phật giáo là lý Nhân quả, Duyên khởi, Tứ diệu đế, nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim cương thừa - Mật tông, vốn đã hiện diện hàng ngàn năm nay trong đời sống người dân Việt. Còn những hiện tượng hay nghi lễ gì đó mà không dựa trên những đạo lý này thì mãi mãi chỉ là hình thức thức phù phiếm và không phải là “chánh đạo”. Mong mọi người cẩn trọng!

Nguyên Cẩn

Tại sao người làm việc ác không bị Báo Oán?

Tại sao người làm việc ác không bị Báo Oán?

Đăng lúc: 21:48 - 30/10/2015

Chúng ta mong muốn bồi đắp thêm phúc báo thì ban đầu cũng cần phải là có phúc báo, có phúc báo làm nền tảng, mới có thể bồi đắp phúc báo được.
Phật Đà từng có lần đi tới một nơi mà ở đó chỉ toàn là bụi đất, không có một cây cối nào sinh sống. Ông kể với vị đệ tử đi theo mình rằng, nơi đây trước kia rất giàu có, nhưng quốc vương là một người vô đạo. Một hôm, ông ta đã giết một vị chứng đắc quả vị A La Hán. Sau khi ông ta giết vị A La Hán rồi, trên trời đã thả xuống rất nhiều vàng bạc châu báu liên tiếp trong bảy ngày liền. Tất cả dân chúng đất nước đều như điên cuồng. Nhưng sau 7 ngày thì trên trời liền thả xuống toàn là bùn đất khiến cho cả đất nước đều bị vùi lấp.
Nguyên lai lúc đầu trên trời cho thả xuống vàng bạc châu báu là bởi vì vị quốc vương này có phúc báo. Bởi vì ông ta có phúc báo che chở cho nên ác nghiệp kia không có cách nào hiện ra trước. Trời thả vàng bạc châu báu xuống là để cho ông ta hưởng hết phúc báo. Sau khi đã không còn phúc báo che chở nữa, ác nghiệp liền lập tức hiện ra chính là lúc trời thả bùn đất xuống.



Người làm việc ác chưa bị báo ứng là vì còn chưa hưởng hết phúc báo, một khi phúc báo đã hưởng hết thì nghiệp báo lập tức xuất hiện. Có người kinh doanh ngành nghề sát sinh mà kiếm tiền, số tiền này kỳ thực là phúc báo ở trong mệnh của họ. Dù họ cũng có thể thông qua các cách khác để kiếm tiền, ví như gửi tiền ngân hàng để lấy lãi…, nhưng họ đã dùng sai phương pháp kiếm tiền. Sốtiền đã kiếm được kia đợi hưởng thụ xong rồi thì ác báo của giết nghiệp kia sẽ tới.
Người xưa giảng “có phúc báo không thể hưởng thụ hết”, lúc có phúc báo càng phải làm việc thiện, làm việc có đức, dùng âm đức để đền bù cho những việc làm sai trái trong quá khứ, chứ không phải là chỉ biết hưởng thụ phúc báo. Nếu như phúc báo kia một khi hưởng hết rồi, bị rớt xuống rồi thì mong muốn bồi đắp phúc báo là việc không hề dễ dàng.
Trong “địa tạng kinh” có giảng, con người một khi đã rơi vào “tam ác đạo” (ba đường là địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ) rồi, thì sẽ ở trong tam ác đạo mà luân chuyển, vào địa ngục làm quỷ đói, sau khi làm quỷ đói rồi lại làm súc sinh, sau khi làm súc sinh mới được làm người. Vậy sau khi làm người rồi, không có phúc báo, nghèo khó thấp hèn, không có cách nào bồi dưỡng phúc báo, rồi lại rớt xuống, điều này rất đáng thương.
Chúng ta mong muốn bồi đắp thêm phúc báo thì ban đầu cũng cần phải là có phúc báo, có phúc báo làm nền tảng, mới có thể bồi đắp phúc báo được.
Ác hữu ác báo, chỉ là thời điểm chưa tới mà thôi! Những lời này bạn có tin không


Theo Xuân Giao

Câu chuyện ai cũng nên đọc một lần: Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Câu chuyện ai cũng nên đọc một lần: Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Đăng lúc: 17:40 - 19/10/2015

Câu chuyện đầy suy ngẫm này chắc chắn sẽ để lại cho bạn rất nhiều bài học đáng giá.

Một người phụ nữ nọ có thói quen nướng bánh mì cho gia đình, luôn làm dư một cái để lại cho người nghèo đói. Bà để ổ bánh mì dư bên ngoài thành cửa sổ cho người nghèo đi qua dễ lấy. Ngày qua ngày cứ đến buổi, một ông lão gù lưng đến lấy ổ bánh mì đi.

Thay vì nói lời cảm ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời như niệm chú:



“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi, việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi”.

Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác. Mỗi ngày, người già đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu :

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi, việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi!”

Ngày qua ngày, người phụ nữ dần bực bội trong lòng nghĩ:

“Nhận được bánh, không biết cảm ơn còn lải nhải mấy lời khó chịu kia! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”.

Rồi một hôm, chịu hết nổi, bà nghĩ cách làm cho ông già đi khuất mắt. Bà tự nhủ:

“Ta sẽ làm cho hắn mất dạng”.

Bà trộn thuốc vào ổ bánh mì dư bà thường làm, tay run run để bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, bỗng cảm thấy hốt hoảng:

“Ta làm gì thế này?”

Bà ném vội ổ bánh có thuốc độc vào lửa và thay một cái bánh khác lên thành cửa sổ. Như mọi khi, ông lão đến lấy bánh và lại lẩm bẩm:

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi; việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi”.

Ông lão cầm ổ bánh vui vẻ rời đi, không ai biết trong lòng người phụ nữ vừa trải qua một trận chiến giận dữ dội.

Có một điều mà không ai biết đó là mỗi khi đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà lại cầu nguyện cho đứa con trai đi tìm việc làm xa, đã nhiều tháng không nhận được tin tức. Bà nguyện cho con trở về nhà bình an, mạnh giỏi.

Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa. Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa…

Anh ta gầy xọp đi, quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:

Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường, nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon và chút nước. Ông ta nói:

“Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!”

Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!

Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói lặp đi lặp lại qua ngày của ông lão…

Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình bạn nhé!

Theo Sưu tầm / Trí Thức Trẻ

Buông bỏ căng thẳng, trân quý người thương

Buông bỏ căng thẳng, trân quý người thương

Đăng lúc: 08:18 - 12/07/2015

Các vị đã biết thương chưa? Đã thương ai bao giờ chưa? Khi thương ai mình muốn nhìn sâu vào ánh mắt người đó và nói với người đó rằng người đó là nguồn hạnh phúc của mình.
Ngồi thiền là một cơ hội để chúng ta được tĩnh tâm, nhưng có nhiều người càng ngồi thiền lại càng đau, giống như là gồng mình vậy, rất là cực khổ. Tại sao phải làm như vậy. Tu tập thì phải thấy dễ chịu, nếu tu tập mà phải cố gắng, phải tranh đấu thì tức là mình đang đi lạc đường rồi.

Khi thở vào, mình buông thư và mỉm cười thì hơi thở đó sẽ đưa tới sự bình an, khỏe nhẹ. Điều này có thể làm được. Mình phải tập luyện để thở vào cảm thấy khỏe nhẹ liền, thấy vui sướng liền. Thở vào, thở ra là một cái gì mình có thể làm được trong từng phút từng giây trong cuộc sống.
Nếu muốn thực tập thì mình chỉ cần để ý tới hơi thở vào, hơi thở ra. Thở vào – tôi biết không khí đang đi vào trong người tôi, thở ra – tôi thấy một luồng không khí đang đi ra khỏi cơ thể tôi. Biết rõ hơi thở đang đi vào, đang đi ra một cách rõ ràng đó chính là chánh niệm, chánh niệm là cái biết, chánh niệm là một loại ánh sáng tỏa chiếu giúp mình thấy rõ. Nó giống như ánh sáng của mặt trời bao trùm làm sáng rõ cả vạn vật và rừng cây.
Khi biết rõ hơi thở đang đi vào hay đang đi ra trong cơ thể mình, tức là mình đã thắp lên ánh sáng của tỉnh thức, tỉnh thức nghĩa là đã thức dậy, lúc này phẩm chất của hơi thở đã rất khác rồi, hơi thở trở nên sâu hơn, nhẹ hơn, mịn màng hơn. Và mình thấy thân tâm mát mẻ, bình an liền lập tức, chỉ cần vài giây thôi, điều này rất dễ làm. “Thở vào tôi thấy tôi đang còn sống, thở ra tôi trân quý cuộc sống này”. Còn sống là một phép lạ, một cái thân chết rồi thì làm sao thở được nữa? Đó chính là một thứ tỉnh thức, một sự tỉnh dậy. Có những người sống xung quanh chúng ta mà họ không biết là họ đang sống. Họ như đang đi trong giấc mộng, họ bị những suy tư, lo toan kéo đi, suốt cả ngày họ suy nghĩ hết chuyện nọ tới chuyện kia. Họ đang nằm mộng giữa ban ngày, mộng về chuyện này rồi lại mộng về chuyện khác, cái thực tại trước mặt họ thì họ không thấy, vì vậy họ sống mà như người mộng du. Do đó, hơi thở chánh niệm làm cho mình bừng tỉnh dậy. Đạo Bụt là đạo làm cho mình tỉnh dậy để nhận thức một cách rất thâm sâu, sáng suốt, từ bi. Chỉ cần thở vào, thở ra là mình đã thở xong, là đã có niềm vui, sự buông thư, khỏe nhẹ rồi. Bụt đã tặng cho chúng ta những bài tập rất đơn sơ, giản dị. Thở vào, tôi ý thức toàn thân tôi. Khi ý thức toàn thân thì mình sẽ lắng nghe được những căng thẳng, đau nhức trong cơ thể của mình, nhận ra rằng cánh tay hơi mỏi, trái tim của mình hôm nay bị mệt, nó đang đập rất nhanh, ý thức và buông thư sẽ giúp chúng ta trị lành và phòng ngừa được rất nhiều thứ bệnh.
Những căng thẳng, buồn phiền nếu không được buông thư thì lâu ngày chày tháng nó sẽ trở thành bệnh. Vì vậy, chúng ta phải chấm dứt tình trạng căng thẳng trong thân tâm. Hơi thở có ý thức là một phương pháp rất mầu nhiệm để thực hiện được điều đó. Bây giờ bạn hãy vừa theo dõi hơi thở vừa ý thức về toàn thân của mình, chú ý tới đôi mắt, khuôn mặt, cái cổ, bờ vai, hai cánh tay, trái tim, lá phổi, lá gan, dạ dày, thận, tấm lưng, hai bên hông, bắp đùi, bàn chân… Nương vào hơi thở, mời bạn hãy đi thăm hết tất cả các bộ phận trong cơ thể mình, hơi thở là một chiếc dây neo cột thân lại với tâm, đặt sự chú ý tới đâu thì buông thư tới đấy. Thả lỏng toàn thân, buông bỏ mọi lo lắng, suy tư thì mình sẽ thấy khỏe nhẹ, an lạc ngay tức thì.
Thở vào, ý thức toàn thân, buông thư tất cả sự căng thẳng trong từng bộ phận cơ thể. Thở ra buông thư toàn thân. Thực tập như vậy, tuy chưa giúp được ai nhưng trước tiên là giúp chính mình thư thái, khỏe khoắn. Thành ra, thiền quán không phải là một lao tác cực khổ. Ngồi thiền mà thấy mình đang lao tác cực khổ là sai bét rồi. Phải ngồi làm sao mà trong lúc ngồi ta phải cảm thấy an vui, thấy rằng lúc này mình đang được ngồi yên, theo dõi hơi thở đang từ từ đi vào, hơi thở đang từ từ đi ra, mà chẳng phải làm việc gì hết đó là một điều quá sức mầu nhiệm.
Khi Tổng thống Nam Phi Nelson Madela được các phóng viên đặt câu hỏi: “Bây giờ ông muốn làm cái gì nhất?”. Tổng thống trả lời:“Tôi ấy hả? Bây giờ cái mà tôi thích nhất là được ngồi yên chẳng phải làm gì hết”. Chúng ta được ngồi thiền mỗi ngày, trong khi ngồi thật yên thưởng thức hơi thở, không ai bảo mình làm việc gì hết, vậy mà không thấy sướng, trong khi ông Nelson Madela thì thèm được ngồi yên như mình quá mà không có thời gian để ngồi yên.
Khi tới Làng Mai tu tập, có Tăng thân yểm trợ thì mỗi hơi thở, mỗi bước chân mà mình thực hiện phải đạt tới niềm vui, sự sung sướng, hạnh phúc, bình an, trị liệu những vết thương trong thân và tâm. Khi thở vào, mình có thể đi một hai bước và thầm nói: “Tôi đã về, tôi đã tới”. Mình đã về rồi, mình đã tới rồi. Mình thật sự đã tới nhà của mình, nơi mà bấy lâu nay mình cứ mải kiếm tìm. Nhà của mình chính là giây phút hiện tại, khi mình an trú được trong giây phút hiện tại nghĩa là mình đã đặt được chân tới nhà, sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, quá khứ đã qua rồi, còn tương lai thì chưa tới. Vì vậy, tuy đang bước đi nhưng mình đã dừng được, mình đã thật về, đã thật tới rồi, không còn mải miết rong ruổi về quá khứ hay đuổi bắt tương lai nữa.
Có nhiều người tuy đang ngồi đây nhưng tâm họ lại nhớ tới quá khứ, họ đang đau khổ, và họ không thể thoát ra khỏi quá khứ đau thương ấy. Quá khứ giống như một bóng ma đang ám ảnh người đó làm cho người đó không sống đàng hoàng được trong giây phút hiện tại. Trong khi đó, lại có những người rất sợ hãi tương lai, họ lo lắng, không biết ngày mai mình còn được làm ở công ty này không, mình còn giữ được người này không, hay người ấy lại bỏ mình để đi yêu người khác… Cái gì cũng sợ, cái gì cũng lo. Vì vậy, người đó không được thảnh thơi, người đó không được sống đàng hoàng ở giây phút hiện tại. Thành ra, chúng ta phải vứt bỏ những khổ đau trong quá khứ và đập tan những sợ hãi trong tương lai thì mới có thể sống đàng hoàng trong giây phút hiện tại được. Biết hơi thở đang đi vào hay đi ra chính là chánh niệm. Khi định được tâm vào hơi thở thì mình sẽ nhẹ bớt một chút lo lắng, buồn bực, giận hờn và có thể tiếp xúc rất sâu với những mầu nhiệm của sự sống trong phút giây hiện tại, như là sương mù buổi sáng, tiếng chim hót, hay nét mặt của em bé thơ. Có khả năng sống trong phút giây hiện tại và tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống thì mình được nuôi dưỡng bởi những mầu nhiệm đó, và nó sẽ chữa lành từ từ những niềm đau của mình.
Các vị đã biết thương chưa? Đã thương ai bao giờ chưa? Khi thương ai mình muốn nhìn sâu vào ánh mắt người đó và nói với người đó rằng người đó là nguồn hạnh phúc của mình. Mẹ ơi, mẹ là một kho tàng của con; ba là kho tàng của con; hay em yêu ơi, em là kho tàng của anh; anh yêu ơi, anh là kho tàng của em, v.v… Tại vì trong người kia có rất nhiều tươi mát, người ấy hiểu và thương mình. Người ấy cũng có sự vững chãi, có thể giúp mình không sợ hãi. Mình rất cần sự vững chãi ấy để được che chở, được chống đỡ. Và mình luôn mong rằng người ấy lúc nào cũng tươi mát, vững chãi, hiểu biết và thương yêu mình, để mình có thể tận hưởng người ấy. Có thể là mình muốn làm điều gì đó để kéo dài tình trạng êm đềm này. Nếu chúng ta chịu khó tu tập thì chúng ta luôn luôn có thể làm được nhiều điều để khiến cho người kia tiếp tục là suối nguồn hạnh phúc ngọt ngào của mình.
Cũng như vậy, khi mình là người thương của người kia thì mình cũng muốn trở thành nguồn vui của người ấy, muốn đem đến cho người ấy sự tươi mát, bình an, cũng muốn trở thành một điểm tựa vững chãi của người ấy. Bụt dạy về tình thương rất sâu sắc, rõ ràng, mình có thể thực tập ngay bây giờ, ngay ngày hôm nay. Sự tu tập thiền quán đem lại rất nhiều niềm vui và hạnh phúc, khi có niềm vui và hạnh phúc trong lòng thì những người ở xung quanh cũng sẽ được thừa hưởng niềm vui toát ra từ mình. Thiền quán đem lại nhiều hạnh phúc như vậy thì mình mời thiền, chứ nếu không thì thiền để làm gì?
Khi người thương nhìn vào mắt mình rồi nói: “Con là kho tàng của mẹ”, nghe vậy mình muốn trở thành kho tàng đó thật, mình muốn tu tập cho đàng hoàng để xứng đáng với niềm tin đó. Người thương có thể là cha là mẹ hay anh chị em mình, hay bè bạn của mình. Sự tu tập luôn cung cấp cho mình niềm hạnh phúc.
Tình thương chân thật phải chứa đựng niềm vui, tình thương ấy đem niềm vui tới cho cả mình lẫn người kia. Nếu thương nhau mà cả hai cùng khổ, cứ khóc hoài, cứ hờn giận nhau thì đó không phải là tình thương.

Thích Nhất Hạnh
Theo Langmai.org

Mỗi câu chuyện một bài học (hay)

Mỗi câu chuyện một bài học (hay)

Đăng lúc: 07:20 - 06/07/2015

Đôi lúc bạn cứ khăng khăng rằng chuyện này phải làm thế này mới là đúng, nhưng đôi khi người khác lại không nghĩ thế, hãy đặt bản thân mình vào vị trí của đối phương, bạn sẽ có được những suy nghĩ mới, biết đâu khi đó bạn chợt “tỉnh ngộ” và thốt lên “à thì ra là thế”.

cay-du

Mượn dù

Một ngày kia, Khổng Tử đi ra ngoài, bỗng trời muốn đổ mưa, nhưng ông không có mang theo dù, có người kiến nghị rằng: “Tử Hạ có dù, thầy có thể mượn của Tử Hạ”.

Khổng Tử vừa nghe xong, liền nói: “Không được, con người của Tử Hạ vốn rất keo kiệt, nếu như Thầy mượn mà y không cho, người khác sẽ trách móc rằng y không tôn trọng thầy của mình; còn nếu đưa cho thầy, trong lòng y nhất định sẽ khó chịu”.

Giao thiệp với người ta, thì cần phải hiểu rõ khuyết điểm lẫn ưu điểm của ngươi ta thì mới được, đừng có bao giờ khuấy động hoặc đùa cợt với khuyết điểm của họ, nếu không thì tình cảm của đôi bên sẽ không thể kéo dài được.

Thỉnh kinh

Ngựa và lừa nghe nói Đường Tăng sẽ đi Tây Thiên thỉnh kinh, con lừa cảm thấy chuyến đi này khó nạn trùng trùng, liền bỏ cuộc; còn ngựa thì lập tức đuổi theo sau, trải qua 81 kiếp nạn, cuối cùng đã thỉnh được chân Kinh trở về.

Con lừa hỏi: “Người anh em, có phải là rất vất vả không?”.

Ngựa nói: “Kỳ thực, trong khoảng thời gian tôi đi sang Tây Thiên thỉnh kinh, con đường mà cậu đi nếu đem so với tôi thì cũng không kém cạnh gì, ngoài ra cậu còn bị người ta bịt mắt, đánh đập. Thật ra, tôi thấy sống những tháng ngày không có lý tưởng thì còn mệt mỏi hơn”.

Mệt mỏi thật sự đến từ sự vô tri và mê mờ trong tâm của mỗi người.

Đậu xe

Trụ sở chính của công ty Volvo Thụy Sĩ có hơn hai nghìn chỗ đậu xe, những người đến sớm luôn đậu xe ở khu vực cách xa văn phòng làm việc nhất, mỗi ngày đều như vậy cả.

Một người hỏi: “Chỗ đậu xe của các vị là cố định hay sao?”.

Họ trả lời: “Chúng tôi đến tương đối sớm, có thời gian thì hãy đi bộ nhiều một chút. Các đồng nghiệp đến muộn hoặc đến trễ, họ nên là những người cần được đậu xe ở gần văn phòng làm việc hơn”.

Khi ta nghĩ nhiều đến người khác, con đường đi được sẽ nhiều và xa hơn.

chia-khoa

Hợp tác

Một ngày nọ, đêm khuya thanh vắng, ổ khóa gọi chìa khóa dậy, rồi oán trách: “Tôi mỗi ngày phải vất vả cực nhọc mà canh gác nhà cửa cho chủ nhân, vậy mà chủ nhân chỉ thích cậu thôi, lúc nào cũng mang cậu theo bên mình, thật là ngưỡng mộ cậu quá!”

Thế là chìa khóa cũng bất mãn, nói: “Cậu mỗi ngày chỉ ngồi ở nhà chờ đợi, thật là an nhàn thoải mái biết bao! Còn tôi hàng ngày phải đi theo chủ nhân, dầm mưa dãi nắng, khổ sở biết chừng nào! Mình phải hâm mộ cậu thì đúng hơn”.

Một lần kia, chiếc chìa khóa cũng muốn được sống những tháng ngày an nhàn, thế là liền giấu bản thân mình vào chỗ khác. Người chủ sau khi trở về thì không thấy chìa khóa đâu cả, trong lúc bực bội đã kêu thợ đến phá khóa, rồi tiện tay quăng luôn ổ khóa vào đống rác.

Sau khi vào nhà, chủ nhà đã tìm thấy chiếc chìa khóa, tức giận nói: “Ổ khóa cũng đã đập bỏ rồi, bây giờ giữ ngươi lại thì còn có ích gì nữa”. Nói xong, ông cũng tiện tay quăng chiếc chìa khóa vào trong đống rác.

Ở trong đống rác, ổ khóa và chìa khóa gặp nhau, bất giác tự cảm thán rằng: “Hôm nay, chúng ta rơi vào tình cảnh này, đều vì trong quá khứ, chúng ta không có nhìn thấy giá trị và phó xuất của đối phương, mà chỉ biết đứng núi này trông núi nọ, đôi bên chỉ biết so đo tính toán, đố kỵ và ngờ vực lẫn nhau”.

Rất nhiều lúc, mối quan hệ giữa con người với nhau đều là bổ sung cho nhau, những cuộc cãi vã, tranh đấu chỉ có thể mang lại thương tổn cho đôi bên, chỉ có phối hợp với nhau, tán thưởng, đoàn kết, ủng hộ, tín nhiệm, trân quý nhau, chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hợp tác thành công được.

Tiểu Thiện

Áp dụng lời Phật dạy vào môi trường công sở

Áp dụng lời Phật dạy vào môi trường công sở

Đăng lúc: 07:14 - 06/07/2015

Việc liên tục soi mói, phán xét đồng nghiệp chỉ làm cho tình cảm hai bên rạn nứt, không thể có sự bao dung, thông cảm cho nhau, càng không thể đề bạt nhau được. Thông cảm cho nhau cần xuất phát từ ba phương diện, đó là từ thân, từ miệng và tâm.
Áp dụng lời Phật dạy vào môi trường công sở

Hẳn bạn từng nghe câu nói: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Câu này ý nói chỉ cần chúng ta tôn trọng, ca ngợi, khẳng định người khác thì họ sẽ tôn trọng, ca ngợi và khẳng định lại bạn.

Ngược lại, nếu bạn có thái độ ngạo mạn, xem thường người khác thì thông thường họ sẽ có hành vi tương tự với bạn. Khi đó, môi trường xung quanh sẽ bị chính bạn làm “ô nhiễm”.

Bạn giống như một người mắc bệnh truyền nhiễm, lan truyền virus cho một nhóm người, rồi một bộ phận, một tập thể,...

Nhưng nếu môi trường đó ô nhiễm mà bạn đã tiêm thuốc dự phòng và biết cách khuyên những người khác nên điều trị như thế nào cho dứt bệnh thì đó mới là điều đáng nói.



Áp dụng lời Phật dạy như thế nào vào môi trường công sở?​

Con người với sức ỳ quá lớn cộng với tính ích kỷ, luôn mong muốn người khác đem lại lợi ích cho mình và không tình nguyện đầu tư công sức cống hiến phục vụ.

Nhiều người khác, tuy thực tâm mong muốn cống hiến thật nhiều cho xã hội nhưng lại thiếu đi tính thực tiễn. Thực chất họ là người từ bi, khoan dung, độ lượng, nhưng vì sao họ không biến mong cầu thành sự thật?

Đơn giản là những người thuộc nhóm đối tượng này khi gặp khó khăn thường không giải quyết đến gốc rễ, bèn tự an ủi mình cứ làm dần dần rồi tốt lên.

Những người này luôn tìm cho mình một lối thoát, họ che giấu khiếm khuyết của bản thân, nhưng không ngừng yêu cầu cao đối với người khác. Trường hợp này vô cùng phổ biến tại các doanh nghiệp.

Nhiều người làm không được việc nhưng lại thường dò xét cách làm của đồng nghiệp, thậm chí cách ứng xử và ra quyết định của sếp mình.

Khi đồng nghiệp hay lãnh đạo mắc lỗi, họ lập tức phàn nàn nhưng rút cục cũng không nỗ lực nghĩ ra giải pháp giải quyết khó khăn chung.

Việc liên tục soi mói, phán xét người khác chỉ làm cho tình cảm hai bên rạn nứt, không thể có sự bao dung, thông cảm cho nhau, càng không thể đề bạt nhau được.

Thông cảm cho nhau trong môi trường công sở

Thông cảm cho nhau cần xuất phát từ ba phương diện: từ thân, từ miệng và tâm.​

Thông cảm cho nhau cần xuất phát từ ba phương diện, đó là từ thân, từ miệng và tâm.


“Thân” tức là những quy củ, phép tắc trong cuộc sống thường nhật, gồm sự uy nghi về cách ăn uống, đi lại.

“Miệng”, tức chỉ nói những lời hay, ý đẹp nhằm khuyên răn người khác. Việc tu thân và tu khẩu cần dựa vào tâm làm gốc rễ.

“Tâm” ở đây chỉ những việc làm để giữ cho mình được bình tĩnh, vui vẻ, dù gặp vô vàn khó khăn vẫn lạc quan, chấp nhận.

Hòa thượng Thích Thánh Nghiêm có nói: “Có lý do tất nhiên là có lý do. Không có lý do cũng chính là có lý do”.

Ý nói nếu ai đó, có thể là đồng nghiệp, cấp trên có thái độ không tốt thì ta cũng không nên sinh lòng căm ghét họ, vì họ làm thế chắc chắn có lý do riêng.

Bạn hãy lựa thời gian phù hợp, khi tâm trạng của đối phương tốt lên để hỏi han. Như vậy, vấn đề sẽ nhanh chóng được giải quyết ổn thỏa.

Khi đối thoại, bạn có thể biết được nguyên nhân gây ra sự tức giận hoặc cách ứng xử không phù hợp của đối phương có thể do hiểu lầm, do họ nghe ai nói không tốt về bạn, thậm chí bạn đã làm gì khiến họ khó chịu.

Đây sẽ là cơ hội để bạn sửa sai nếu bạn làm việc chưa tốt. Nếu đối đầu thay vì đối thoại, thì đó là cách bạn rước họa vào thân, tự mua phiền toái cho mình.

“Chúng ta cần thường xuyên thức tỉnh bản thân rằng: khi người khác gặp rắc rối, nhất định là có nguyên nhân, nên tuyệt đối không phiền lòng vì những cử chỉ bề ngoài của họ.”

“Khi đó tự ta sẽ có cách đối xử hòa nhã mà không gượng ép. Mọi người trong doanh nghiệp sẽ cảm thấy gắn kết bởi những mối lương duyên như vậy”, hòa thượng Thích Thánh Nghiêm cho hay.

Nếu có thể duy trì thái độ này về lâu dài, thì dù ở công ty hiện tại hay dời sang môi trường làm việc khác, dù làm nhân viên hay sếp, nhất định bạn sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, đầy ắp tiếng cười.

HT Thích Chân Thiện

Nhất thiết duy tâm tạo

Nhất thiết duy tâm tạo

Đăng lúc: 07:12 - 06/07/2015

Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nếu ai muốn hiểu rõ được về hết thảy các đức Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai, thì nên quán xét tánh thật của các pháp trên thế gian này tất cả đều là do tâm tạo thành.” (Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo.)

Nói rằng tánh thật của các pháp tất cả đều do tâm tạo thành, có thể là trừu tượng và do đó có phần khó hiểu đối với một số người. Nhưng chính cái “trừu tượng và khó hiểu” này lại là một trong những điểm cốt tủy của đạo Phật, và cũng là phần giáo lý thiết thực nhất có thể mang lại sự giải thoát, an lạc ngay trong hiện tại cho những ai hiểu rõ, tin nhận và hành trì.

Tuy nhiên, nói là “trừu tượng và khó hiểu”, thật ra chỉ là đối với những ai mới tiếp xúc thoáng qua mà thôi. Nếu có một sự chiêm nghiệm sâu sắc, hầu như bất cứ ai cũng có thể nhận hiểu được ý nghĩa của lời dạy này, cho dù mức độ nhận hiểu và thực hành có thể là khác nhau ở mỗi người.

Có bao giờ bạn quan sát cuộc sống của những người mù? Đối với họ, ánh sáng, màu sắc, hình ảnh đều không còn có giá trị phân biệt gì nữa. Vì thế, ngày và đêm đối với họ là như nhau, sáng và tối không có gì khác, và hết thảy màu sắc, hình ảnh đều không còn được họ nhận biết. Và nếu là những người mù từ lúc mới sinh ra, thì những khái niệm về màu sắc, ánh sáng, hình ảnh đối với họ chính là những khái niệm không thể nắm bắt, hình dung được!

Tương tự như vậy, khi một người bị điếc thì mọi âm thanh cũng không còn có giá trị nhận biết, phân biệt. Bạn không thể bàn luận với người ấy về những âm thanh hay, dở, to, nhỏ... bởi vì đối với họ thì tất cả những tính chất ấy xem như không hiện hữu.

Và nếu chúng ta truy xét đến tận cội nguồn của các giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, chúng ta sẽ nhận ra rằng sở dĩ mỗi giác quan ấy có thể hoạt động, giúp ta giao tiếp với các đối tượng tương ứng như hình sắc, âm thanh, mùi vị... đó là nhờ có một “năng lực nhận biết” bao trùm tất cả, hiểu được tất cả. Không có “năng lực nhận biết” này, người có mắt sáng cũng như mù, có tai cũng như điếc... bởi thật ra thì hết thảy các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều chỉ là những ứng dụng khác nhau của cái “năng lực nhận biết” đó. Điều này giải thích vì sao khi một người bị mù thì thính giác và xúc giác sẽ tự nhiên phát triển tốt hơn, giúp họ bù đắp lại phần nào khả năng giao tiếp với môi trường, chẳng hạn như để nhận biết đường đi, đối tượng...

Khi một người ngủ rất say, cho dù các giác quan của anh ta hoàn toàn bình thường, nhưng lúc đó anh ta sẽ không nhận biết được ánh sáng, âm thanh, mùi hương... ở quanh mình. Vì sao vậy? Vì các giác quan tuy vẫn bình thường, nhưng “năng lực nhận biết” của anh ta đang tạm thời không hiển lộ.

Như vậy, chính nhờ có năng lực nhận biết này mà chúng ta mới có thể vận dụng được các giác quan trong sự giao tiếp với môi trường. Khi mắt tiếp xúc với hình sắc, sự nhận biết này biểu hiện thành nhãn thức, hay cái biết của mắt. Khi tai tiếp xúc với âm thanh, sự nhận biết này biểu hiện thành nhĩ thức, hay cái biết của tai. Khi mũi tiếp xúc với mùi hương, sự nhận biết này biểu hiện thành tị thức, hay cái biết của mũi. Khi lưỡi tiếp xúc với vị nếm, sự nhận biết này biểu hiện thành thiệt thức, hay cái biết của lưỡi. Khi thân tiếp xúc, đụng cọ với mọi đối tượng mềm, cứng, trơn, nhám... sự nhận biết này biểu hiện thành thân thức, hay cái biết của thân, cũng gọi là xúc giác. Khi ý tiếp xúc với các ý tưởng, các pháp, sự nhận biết này biểu hiện thành ý thức, hay cái biết của ý.

Như vậy, sự biểu hiện của năng lực nhận biết ở sáu căn tạo thành sáu thức, và các đối tượng nhận biết như hình sắc, âm thanh, mùi hương... cho đến các đối tượng của ý được gọi chung là sáu trần.

Trong sáu thức vừa kể trên thì ý thức là đặc biệt nhất, bởi tính chất hoạt động của nó liên quan đến tất cả các thức kia. Chẳng hạn, khi mắt nhìn thấy các hình sắc thì hoạt động của nhãn thức chỉ đơn thuần là nhận biết hình sắc ấy mà thôi. Trên cơ sở sự nhận biết của nhãn thức, ý thức mới khởi lên sự phân biệt, đánh giá về đối tượng, chẳng hạn như xanh, đỏ, đẹp, xấu... Chính do nơi sự phân biệt, đánh giá của ý thức mà chúng ta mới hình thành những cảm xúc như sự ưa thích hay chán ghét... đối với đối tượng.

Vì tính chất bao quát và quan trọng của ý thức, nên chúng ta rất dễ cho rằng ý thức chính là “ông chủ” của mọi hoạt động. Sự thật thì ý thức cũng chỉ là một trong sáu thức, và do đó cũng chỉ tồn tại trong mối quan hệ tương quan giữa căn và trần như trên đã nói. Khi tách rời mọi đối tượng của ý, ta không thể hình dung được sự hoạt động của ý thức. Hơn nữa, ngay trong khi ý thức đang hoạt động, ta vẫn có thể nhận ra được một năng lực nhận biết có khả năng “nhận biết mọi hoạt động của ý thức”.

Để nhận rõ điều này, chúng ta chỉ cần ngồi yên trong một thời gian ngắn, tập trung sự chú ý quan sát của mình vào dòng tư tưởng, vào những ý nghĩ đang diễn ra trong nội tâm. Khi ấy, ta sẽ nhận ra rằng ngoài cái “tôi” đang tư duy, còn có một cái “tôi” có thể tách biệt ra và nhận thức được cái “tôi” đang tư duy kia.

Điều này thật ra có ý nghĩa gì? Chính là một bằng chứng cho thấy cái dòng tư tưởng thường ngày vẫn chi phối mọi hoạt động của chúng ta thật ra không phải do ý thức làm chủ. Ý thức cũng chỉ là một trong sáu thức, và vì thế, cũng tương tự như năm thức kia, nó chỉ hoạt động được là nhờ có một năng lực nhận biết biểu hiện ra ở nó.

Khi chúng ta chưa hiểu được điều này, chúng ta dễ dàng chấp nhận mọi sự thôi thúc, sai khiến do ý thức đưa ra, khiến cho năm thức còn lại đều phải chịu sự chi phối và sai khiến của nó. Sự chi phối và sai khiến ấy diễn ra như thế nào? Khi mắt (căn) tiếp xúc với hình sắc (trần) và sự thấy hình thành, ý thức lập tức nảy sinh sự phân biệt và đánh giá về đối tượng, phân loại đó là đẹp hay xấu, đáng yêu hay dễ ghét... Do nơi sự phân biệt và đánh giá của ý thức, sự nhận biết của nhãn thức liền không còn đơn thuần chỉ là nhận biết nữa, mà nảy sinh sự mê đắm hoặc chán ghét đối với từng đối tượng. Từ đó, chúng ta bắt đầu có sự say mê, yêu thích, chạy theo những hình sắc xinh đẹp, thích ý, và chê chán những hình sắc xấu xí, thô thiển...

Như vậy, bản thân đối tượng vốn không có những thuộc tính như đáng yêu hay đáng ghét, nhưng qua sự chi phối và sai khiến của ý thức, chúng ta mới rơi vào sự mê đắm hình sắc.

Tương tự, với các đối tượng khác như âm thanh, mùi ngửi, vị nếm, những xúc chạm của thân thể, sự mê đắm của chúng ta đều được hình thành theo cách đó. Trong kinh thường gọi sáu thức là sáu tên giặc (lục tặc), chính là do ý nghĩa này. Và những ai chấp nhận sự chi phối, sai khiến, buông thả sáu căn chạy theo sáu trần được gọi là “nhận giặc làm con” (nhận tặc vi tử). Bởi chính do nơi đây mà chúng ta thực hiện tất cả mọi hành vi tạo tác các nghiệp thiện ác, chính do nơi đây mà chúng ta mê đắm không nhận ra được bản chất thực sự của đời sống.

Nhưng cũng có thể nói rằng việc kết tội sáu thức là có phần nào oan uổng. Bởi chính sự mê đắm, chạy theo trần cảnh mới là thủ phạm thôi thúc, xúi giục chúng ta tạo nghiệp. Còn bản thân sự nhận biết sáng suốt của sáu thức vốn dĩ không có gì sai trái! Chính là khi hiểu được điều này, ta mới có thể ngay tức thời dừng lại mọi cuộc săn đuổi của sáu thức, buông bỏ mọi đối tượng thuộc về trần cảnh; và ngay khi đó sáu thức trở thành sáng suốt, trong sạch, đồng một thể tánh với cái năng lực nhận biết đã hiển lộ ở nơi chúng. Hay nói khác đi, sáu thức vốn không thực có, mà chỉ là sự biểu hiện của một sự sáng suốt duy nhất mà thôi!

Vì thế, khi chúng ta mê đắm một đối tượng nào đó thì sự mê đắm ấy là ở nơi ta chứ không phải là thuộc tính của đối tượng. Và cuộc sống của chúng ta thông thường là sự tiếp nối của vô số những đối tượng làm ta mê đắm, nên việc nhận biết được điều này là cực kỳ quan trọng, vì nó có thể giải thoát chúng ta ra khỏi sợi dây ràng buộc từ muôn kiếp, giúp ta trở thành người tự do, tự tại!

Điều này giải thích vì sao một đối tượng có thể làm cho người nào đó say mê đến điên cuồng nhưng lại chẳng có sức cuốn hút nào đối với một người khác. Bởi vì sự say mê đó vốn dĩ hoàn toàn không phải là thuộc tính của đối tượng.

Đến đây, chúng ta có thể nhận ra được rằng, đối với mỗi người thì sự hiện hữu của cả thế giới này vốn dĩ chỉ có thể có được nhờ vào năng lực nhận biết. Không có cái “biết” của ta thì thế giới này xem như không hiện hữu đối với ta, cũng như hình sắc không hiện hữu đối với người mù, âm thanh không hiện hữu đối với người điếc...

Rất có thể bạn sẽ thấy có phần khó hiểu ở điểm này. Người mù không nhận biết hình sắc, nhưng hình sắc vẫn tồn tại đấy thôi! Người điếc không nhận biết âm thanh, nhưng đâu phải vì thế mà âm thanh không hiện hữu? Tương tự, bạn có thể nghĩ rằng, cho dù bản thân ta có “biết” hay “không biết” thì thế giới này vẫn đang hiện hữu chứ không thể vì thế mà biến mất!

Vấn đề ở đây là, chúng ta đang nói đến sự hiện hữu “đối với” chúng ta, không phải đối với những người khác. Đúng là hình sắc vẫn tồn tại, cho dù một người mù không nhận biết được. Nhưng bạn hãy thử suy nghĩ xem, đối với một người bị mù từ lúc mới sinh ra, cho dù thế giới này có hàng tỷ người sáng mắt, liệu có thể nào làm cho người mù ấy hiểu được thế nào là “màu đỏ” hay chăng? Vậy đối với người mù ấy, màu đỏ có hiện hữu hay chăng?

Tương tự, cho dù thế giới mà ta đang sống có vẻ như vẫn luôn hiện hữu bất chấp sự nhận biết hay không của ta, nhưng thật ra thì sự hiện hữu ấy chỉ có giá trị đối với ta một khi ta nhận biết được nó. Và do đó, tính chất thật sự của thế giới ấy bao giờ cũng do chính bản tâm ta tạo ra.

Khi một đức Phật thành đạo, cả thế giới trở nên trang nghiêm thanh tịnh. Tuy nhiên, đối với những chúng sinh còn mê tối thì thế giới vẫn đầy dẫy những điều cấu uế, bất tịnh. Trong kinh Duy-ma-cật, Phật bảo ngài Xá-lỵ-phất rằng:

“Xá-lỵ-phất! Do tội của chúng sinh, nên họ chẳng thấy quốc độ của Như Lai trang nghiêm thanh tịnh, chẳng phải lỗi của Như Lai. Xá-lỵ-phất! Cõi thế giới này của ta là thanh tịnh, nhưng ngươi chẳng thấy được như vậy.”

Và ý nghĩa này được tóm gọn vào một câu cũng trong kinh Duy-ma-cật: “Tùy tâm thanh tịnh, ắt cõi Phật thanh tịnh.” (Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh.)

Cõi Phật ở đây chính là thế giới mà mỗi chúng ta đang cảm nhận, nhìn thấy trong đời sống. Một khi tâm thức ta được thanh tịnh, thế giới ấy sẽ được thanh tịnh. Như vậy, rõ ràng là “thanh tịnh” hay “bất tịnh” đều không phải là những thuộc tính vốn có của thế giới. Những tính chất ấy đều do nơi tâm thức của ta mà có. Và chính do đây mà chúng ta có thể hiểu được thế nào là “nhất thiết duy tâm tạo”.

Và cái “tâm” mà chúng ta đang nói đến thật ra không phải là gì khác mà chính là cái năng lực nhận biết sáng suốt đã hiển lộ qua sáu căn thành sáu thức. Trong nhiều kinh sách, cái gọi là “năng lực nhận biết” này được gọi bằng rất nhiều tên khác nhau, đơn giản chỉ là vì không một tên gọi nào có thể được xem là hoàn toàn nói rõ được nó, mà tất cả đều chỉ được tạm dùng trong những trường hợp nhất định để mô tả về một điều vốn thật ra là chỉ có thể nhận hiểu mà không thể mô tả được. Những tên gọi khác nhau ấy có thể là “cái biết”, có thể là “chân như”, có thể là “thật tánh”, có thể là “chân tâm”, có thể là “chân tánh”... và rất nhiều tên gọi khác nữa. Tuy nhiên, dù gọi bằng bất cứ tên gọi nào, điều đó cũng không quan trọng. Vấn đề quan trọng nhất chính là nhận biết và tách rời được nó ra khỏi ý thức hư vọng vốn luôn là cái bóng của pháp trần. Và khi chúng ta có thể làm được điều đó, thì ngay chính ý thức tự nó cũng không còn tồn tại, mà sẽ trở thành sự hiển lộ sáng suốt của chân tâm.

Sự phân biệt giữa ý thức hư vọng và chân tâm chính là giới hạn mà khoa học chưa thể vượt qua. Bởi vì mỗi sự nhận biết của giác quan đều có một “trú xứ” cụ thể, chẳng hạn như sự nhận biết của mắt hay nhãn thức nằm ở mắt, sự nhận biết của tai hay nhĩ thức nằm ở tai... Cho đến sự nhận biết của ý hay ý thức vẫn được xem là nằm ở bộ óc. Trong khi đó, năng lực nhận biết hay chân tâm mà chúng ta vừa đề cập đến quả thật không có một “trú xứ” nhất định, nhưng đồng thời mắt, tai, mũi, lưỡi... lại đều có thể xem là trú xứ của nó, bởi đó chính là sự hiển lộ của nó chứ không phải là gì khác.

Vì không nhận biết được sự hiện hữu của một chân tâm, nên việc tin nhận về một sự tồn tại sau khi chết là điều rất khó. Bởi vì khi mắt, tai, mũi... cho đến bộ óc đều hư hoại sau khi chết, thì dựa vào đâu để có được một sự tồn tại? Ngược lại, nếu chúng ta nhận biết rằng nhãn thức cho đến ý thức vốn không thật có, chỉ là sự hiển lộ của một chân tâm sáng suốt, thì sự hoại diệt của chúng hoàn toàn không thể đồng nghĩa với sự hoại diệt của chân tâm. Tuy nhiên, làm thế nào để nhận biết được sự hiện hữu của chân tâm, hay nói theo ngôn ngữ của nhà thiền là “kiến tánh”, lại là một chủ đề khá rộng. Vì thế, điều tất nhiên là chúng ta không thể đề cập đến trong phạm vi của tập sách này.

Nguyên Minh

Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ?

Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ?

Đăng lúc: 06:12 - 18/06/2015

Nếu như ngay cả việc nhỏ cũng không muốn làm, vậy sao có thể làm nên sự nghiệp lớn? Bất kể sự việc gì cũng đều không thể một bước mà thành tựu. Cũng như không ai có thể xây nhà lầu trên cát, tòa nhà trên không chỉ là điều hoang tưởng viễn vong mà thôi
Cổ nhân từng nói: “Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi”, nghĩa là, đừng tưởng việc thiện nhỏ mà không làm, đừng tưởng việc ác nhỏ mà lại chủ quan thực hiện. Con người hiện đại thường nóng vội, tham công, hám lợi; khi gây dựng đại nghiệp, họ chỉ muốn một bước là thành tựu, một đêm là thành danh, một ngày là thành tài. Họ luôn xem “việc nhỏ” là tầm thường, nhưng lại quên mất rằng việc lớn nhờ có tích tiểu mà thành đại. Họ không xem trọng lỗi sai nhỏ, nhưng chính sơ suất nhỏ lại có thể gây ra sai lầm lớn, dẫn đến “mối hận ngàn năm”. Truyền thống văn hóa 5 ngàn năm qua đã để lại rất nhiều câu chuyện lịch sử, chứng minh cho đạo lý “nước chảy đá mòn”.

Người xưa cho rằng “tiểu trung hữu đại”, trong cái nhỏ có cái lớn, giọt nước nhỏ không ngừng chảy xuống có thể làm mòn đá, ngọn lửa nhỏ đủ để đốt cháy thảo nguyên, việc nhỏ không nhịn sẽ làm rối mưu lớn, việc tốt mỗi ngày một chút ít đủ để kết nhiều thiện duyên. Bất cứ “đại thiện” nào cũng cần tích lũy từ “tiểu thiện” mà thành. Không ai có thể một bước trở thành anh hùng, muốn thành đại sự, thì cần làm từ việc nhỏ trước tiên.

quet-nha-phap-bao

Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ?

Thời Đông Hán có một thiếu niên tên là Trần Phiên. Trần Phiên tự cho mình bất phàm, vậy nên một lòng muốn gây dựng sự nghiệp lớn. Một hôm, người bạn Tiết Cần đến thăm, nhìn thấy tiểu Trần sống một mình trong căn nhà vô cùng bẩn thỉu, liền nói với bạn: “Nho tử sao không quét dọn để tiếp đãi khách?”.Trần Phiên trả lời: “Đại trưởng phu xử thế, nên quét thiên hạ, sao lo một nhà?”. Tiết Cần liền lập tức đáp lại: “Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ?”. Trần Phiên hiểu ra và không thể nói được lời nào (trích trong “Hậu Hán Thư”).
Hoài bão muốn “quét thiên hạ” của Trần Phiên là điều không sai, nhưng vấn đề nằm ở chỗ cậu không ý thức được rằng “quét thiên hạ” chính là bắt đầu từ “quét một nhà”; “quét thiên hạ” bao hàm cả “quét một nhà”, chứ không phải “quét một nhà” là không thể làm nên đại nghiệp.

Nếu như ngay đến việc nhỏ cũng không làm, hỏi sao có thể làm nên sự nghiệp lớn? Trong “Khuyến học”, nhà tư tưởng nổi tiếng thời Chiến quốc Tuân Tử từng nói: Không tích bước đi, không đạt được ngàn dặm, không tích dòng chảy nhỏ, không thể thành biển sông. Trí huệ của các bậc thánh hiền thời xưa cho chúng ta thấy rằng, cho dù làm chuyện gì cũng không thể một bước là thành. Vì vậy, chính từ từng việc nhỏ, tích lũy tiến bộ từng chút một, cuối cùng mới có thể thành tựu một việc lớn.

Hành trình ngàn dặm, khởi đầu dưới bước chân

Câu thành ngữ “Thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ” (Đi ngàn dặm, bắt đầu từ dưới bước chân) xuất phát từ “Lão Tử – chương 46”. Lão tử đã dùng rất nhiều ví dụ để nói lên rằng sự vật luôn phát triển từ nhỏ đến lớn. Ông nói: “Hợp bão chi mộc, sinh vu hào mạt; cửu tằng chi đài, khởi vu lũy thổ; thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ”. Nghĩa là, cây to dùng hai tay mới ôm hết là sinh trưởng từ cành non nhỏ bé; đài cao chín tầng là được xây từ một mô đất mà thành; lộ trình hàng ngàn dặm xa như vậy cũng bắt đầu từ bước thứ nhất dưới chân.
Trong “Vi học”, nhà văn Bành Đoan của đời Thanh từng kể một câu chuyện sau đây: Tại biên giới Tứ Xuyên có hai hòa thượng, một người nghèo khổ, còn một người thì giàu có. Khi hai vị hòa thượng chuẩn bị đến Nam Hải Triều Thánh để lễ Phật, hòa thượng giàu nói với hòa thượng nghèo: “Mấy năm nay ta luôn dự tính thuê một chiếc thuyền xuôi theo dòng sông xuống Nam Hải, nhưng vẫn chưa thể thực hiện được, còn ông thì dựa vào gì mà đi chứ?”

Một năm sau, hòa thượng nghèo từ Nam Hải Triều Thánh quay về, trong khi hòa thượng giàu vẫn chưa chuẩn bị xong chuyến đi. Ông kể rằng, trải qua một năm lội nước đường dài, chỉ dựa vào một chiếc bình nước và một cái bát đựng cơm nguội, ông đã hoàn thành được tâm nguyện của mình. Hòa thượng giàu nghe xong xấu hổ không nói nên lời. Không thể chỉ dừng lại ở miệng lưỡi, mà phải làm bằng cả ý chí và sức lực thì mới mong đạt được thành công.

Lịch sử có ghi chép nhiều bậc học giả với học thức uyên bác và tài hoa xuất chúng. Đây không phải là thành quả của một sớm một chiều, cũng không phải của tài năng thiên phú. Thực tế, họ đã phải ngồi rách đệm lót hay mài thủng đá mài mực, thì mới có thể học thành tài.

Vì vậy, “Thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ” thể hiện ý chí của một người lập chí lập nghiệp, cần phải mắt nhìn nơi xa, tay làm việc nhỏ, vừa không thể xa rời thực tế, lại càng không nói lời rỗng tuếch, và chỉ có một ý chí kiên định, không ngại gian khó mới có thể thực hiện mơ ước.

“Ngu Công dời núi” là một truyện cổ được ghi chép trong cuốn “Liệt tử – Thang vấn thiên”. Tại phía nam Kí Châu, bờ bắc Hoàng Hà, có hai ngọn núi cao tên là Thái Hành và Vương Ốc – bán kính hai ngọn núi dài 700 dặm, chiều cao lên đến mấy vạn thước. Ở phía bắc của hai ngọn núi có một ông lão tên là Ngu Công, tuổi đã gần 90. Hai ngọn núi cản trở đường đi hướng bắc, dù ra hay vào đều phải đi đường vòng rất xa, khiến Ngu Công vô cùng đau đầu trước tình huống này. Hôm đó, ông triệu tập cả nhà lại để cùng nhau thảo luận, làm thế nào để có con đường thông thoáng dẫn thẳng đến phía nam Dự Châu, bờ nam Hán Thủy. Với ước nguyện như vậy, ông quyết định san bằng hai ngọn núi này. Ngày hôm sau, Ngu Công lựa chọn ba cháu trai có thể đảm nhiệm trọng trách, cùng theo ông đi đục đá, đào đất, sau đó lại đem số đất đá vừa đào bới được chuyển đến khu vực gần biển Bột Hải.

Người hàng xóm Hà Khúc Trí Sưu cười nhạo Ngu Công, cho rằng đám người nhân lực ít ỏi, núi lại cao như vậy, làm sao có thể san bằng hai ngọn núi này? Nhưng Ngu Công vẫn kiên định: “Cho dù tôi chết rồi, tôi còn có con trai mà; con trai lại sinh cháu trai, cháu trai lại sinh con trai, con trai lại sinh con trai nữa, và con trai lại tiếp tục sinh cháu trai… Con con cháu cháu là không bao giờ hết cả, nhưng hai ngọn núi này đâu thể mọc cao hơn, cũng không thể to ra hơn – Tôi có gì phải lo lắng là không san bằng được nó chứ ?” Hà Khúc Trí Sưu nghe Ngu Công nói như vậy, tâm phục khẩu phục, nín lặng không nói nên lời.

Dù ở độ tuổi gần đất xa trời, nhưng ông lão Ngu Công không vì tuổi già sức yếu mà khoanh tay đứng nhìn. Ông tâm niệm “tích tiểu thành đại”, cho dù mỗi ngày chỉ có thể dời đi một chút đất đá, nhưng theo ngày theo tháng, ông cũng sẽ dời được ngọn núi to. Tinh thần và ý chí kiên định ấy làm cảm động Thiên đế, ngài bèn lệnh cho con trai của Đại lực thần Khoa Nga Thị di dời hai ngọn núi này. Từ đó về sau, phía nam của Kí Châu và bờ nam của Hán Thủy không còn có núi cao ngăn cản nữa.

“Thái Sơn chẳng quản gom từng hạt đất, nhờ vậy mà cao lớn; sông biển không kén dòng nhỏ to, vậy nên càng rộng lớn”. Bất cứ một việc thiện nào cũng là từng hạt đất, cũng là từng dòng nhỏ. Bắt đầu làm từ việc nhỏ, mỗi ngày một việc tốt, một câu nói thiện lương, một nụ cười rạng rỡ, một ly trà ấm nóng,… cứ như thế mà tích tiểu thiện thành đại đức.

Lão tử cho rằng: “Phu duy lận, thị vị tảo phục, thị vị trọng tích đức”, nghĩa là, đàn ông keo kiệt, là để sớm có sự chuẩn bị cho tương lai, là vì xem trọng việc tích lũy công đức. Nếu trong bất cứ trường hợp nào chúng ta cũng không bỏ qua những việc thiện nhỏ, thì nhất định sẽ có ngày thành công. Tương tự như vậy, đừng tưởng việc ác nhỏ mà lại chủ quan thực hiện, bởi mỗi việc ác nhỏ khi tích lũy lâu ngày cũng sẽ kết thành đại họa.

Đừng tưởng ác nhỏ mà làm

La Đại Kinh là người Tống triều, từng viết cuốn sách tên là “Hạc Lâm Ngọc Lộ”, trong đó kể một câu chuyện: Khi Trương Quai Nhai làm Sùng Dương Lệnh, ông phát hiện quan sứ quản lý phủ khố đã lấy ra một khoản tiền rất nhỏ để dùng vào việc riêng trong nhiều ngày trời, vì vậy, ông phán xử quan sứ phải chịu trượng hình (đánh đòn). Quan sứ không phục, Trương Quai Nhai liền viết ra giấy, phán: “Một ngày một tiền, ngàn ngày một ngàn, dây cưa đứt gỗ, giọt nước xuyên đá.” Ý nói là mỗi ngày chỉ trộm một đồng, nhưng một ngàn ngày sau sẽ là một ngàn đồng, tích lũy lâu ngày sẽ thành một số tiền không ít của nhiều ngày, giống như dùng dây thừng kéo qua kéo lại ma sát khúc gỗ, khúc gỗ có lớn thì sau cũng đứt đoạn; hay như giọt nước không ngừng nhỏ xuống mặt đá, tảng đá dù cứng đến đâu cũng có ngày bị xuyên thủng
Biện pháp phòng ngừa

Từng ý từng niệm trong đời người đều vô cùng quan trọng. Một chuyện nhỏ không đáng kể nhưng lại có thể thay đổi cả một con người. Từng chút vụn vặt trong cuộc sống ngày thường đều là tích ít mà thành nhiều, tích tiểu mà thành đại. Một chuyện nhỏ có thể gây ra sai lầm lớn, vậy nên cần có biện pháp phòng ngừa.

“Sử Ký” có ghi chép một câu chuyện kể về Cơ Tử. Một lần, Trụ Vương nhận được đôi đũa ngà voi đã vô cùng thích thú. Cơ Tử nhìn thấy, liền than thở nói: “Đũa ngà voi chắc chắn không thể phối với đồ gốm, mà phải phối với chén khắc bằng sừng tê giác, ly bằng ngọc trắng. Có ly ngọc rồi, bên trong chắc chắn không thể đựng canh rau dại và cơm nấu bằng gạo thô, mà phải là đựng sơn hào hải bị mới tương xứng. Ăn sơn hào hải vị rồi thì sẽ không muốn mặc áo quần xấu xí, cũng không muốn ở nhà tranh đơn sơ, mà phải mặc áo gấm quần lụa, ngồi xe sang trọng, ở nhà rộng lầu cao. Nếu cứ như vậy thì phẩm vật của thương nhân trong nước chúng ta sẽ không thể thỏa mãn dục vọng của vua, mà còn phải đi thu gom mọi vật kỳ quái và trân quý của các nước phương xa. Phân tích từ đôi đũa ngà voi, ta thấy được kết quả của tương lai sau này, không kìm được nỗi lo lắng cho vua.”

Cuối cùng, điều lo lắng của Cơ Tử đã trở thành hiện thực. Dục vọng của Trụ Vương quả nhiên càng ngày càng lớn. Ông xây Trích Tinh Lâu và Lộc Đài, lấy rượu làm ao, treo thịt làm rừng, thu thập đồ chơi trân quý của khắp nơi, khiến cho dân oán dân than, dẫn đến việc Châu Vũ Vương khởi binh phạt Trụ. Sau khi Trụ Vương bại trận, ông đã tự thiêu mình trong ngọn lửa rừng rực tại Lộc Đài.

Bờ kè ngàn dặm vì hang kiến mà sập

Câu nói “Thiên lý chi đê, hội vu nghĩ huyệt” (Bờ kè ngàn dặm vì hang kiến mà sập) xuất phát từ “Hàn Phi Tử – Dụ Lão” của Hàn Phi.

“Bờ kè ngàn dặm, cũng sập vì hang kiến; Nhà cao trăm tầng, vì khói trong ống khói mà cháy”, nghĩa là, một tổ kiến nhỏ bé, có thể khiến bờ kè cao trăm dặm đổ sập, cũng như vậy, chuyện nhỏ không cẩn thận sẽ gây ra họa lớn.

Tương truyền Trung Hoa thời xưa có một thôn trang gần bờ sông Hoàng Hà. Vì để phòng chống lụt lội, nông dân trong thôn xây đắp một bờ kè kiên cố. Ngày nọ, một người nông dân lớn tuổi vô tình phát hiện ra lỗ kiến, chỉ trong chốc lát đã sinh sôi nảy nở nhiều lên. Trong lòng ông tự hỏi, những lỗ kiến này có ảnh hưởng đến an toàn của bờ kè hay không? Ông định quay về thôn báo cáo, trên đường đúng lúc gặp con trai mình. Sau khi nghe xong ý định của cha, con trai ông lão tỏ ra không chút quan tâm và nói rằng: Bờ kè kiên cố như vậy, còn sợ mấy con kiến nhỏ bé sao? Buổi tối hôm đó, mưa gió bão bùng, mực nước dâng cao, nước sông dữ dội từ các lỗ kiến chảy vào liên tục, cuối cùng bờ kè nổ tung, làm ngập một vùng thôn trang và ruộng vườn bên sông.

Việc nhỏ có thể thành tựu một người, nhưng việc nhỏ cũng có thể làm hủy hoại một con người, thậm chí một quốc gia. Vậy nên mới có câu: “Mang chí lớn, nể tiểu tiết”. Bắt đầu từ việc nhỏ, từ xung quanh mình, chân đi vững bước, sau đó ắt thành tựu tự mình.



Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung

“Người mù thắp đèn, phí dầu chăng?”

“Người mù thắp đèn, phí dầu chăng?”

Đăng lúc: 06:39 - 14/06/2015

Phật tính cũng giống như một ngọn đèn, chỉ cần ta thắp sáng nó, dù cho ta không nhìn thấy Phật, thì Phật cũng sẽ nhìn thấy ta.

thien3

Trong màn đêm tối đen như mực, có một vị tăng nhân tu khổ hạnh bôn ba nghìn dặm tìm Phật, đến một ngôi làng hoang vắng, trên đường xá tối đen như mực, người dân trong làng đang đi đi lại lại rất tấp nập.

Khổ hạnh tăng đi đến một con hẻm nhỏ, ông trông thấy một chiếc đèn lồng sáng choang, từ nơi sâu thẳm trong một con hẻm vắng lặng, từ từ chiếu rọi qua đây. Một người trong thôn la lên: “Thằng mù đến rồi kìa!”.

“Mù ư?“, khổ hạnh tăng sửng sốt, ông hỏi một thôn dân bên cạnh : “Người xách chiếc lồng đèn kia có thật là bị mù không?”.

Người đàn ông gật đầu khẳng định.

Vị tăng nhân khổ hạnh nghĩ mãi nhưng vẫn nghĩ không ra, một người đã bị mù cả hai mắt, anh ta vốn dĩ không có khái niệm ngày hay đêm, anh không nhìn thấy sông chảy từ núi cao, cũng không được xem phong cảnh hữu tình cùng vạn sự vạn vật trên thế gian, thậm chí anh còn không biết ánh đèn là như thế nào, vậy anh ta xách theo chiếc đèn lồng, không phải khiến người ta cười chê sao?

Chiếc đèn lồng đó càng lúc càng đến gần, ánh đèn sáng choang, từ từ trong con hẻm tiến đến, chiếu sáng lên đôi giày của vị tăng nhân. Vị tăng nhân nghĩ mãi nhưng vẫn nghĩ không ra, nên bèn hỏi: “Dám hỏi thí chủ, cậu có thật là một người mù không ?”.

Chàng trai mù xách theo ngọn đèn lồng trả lời: “Đúng vậy, từ khi đến thế gian này, hai mắt tôi đã không trông thấy gì nữa”.

Vị tăng nhân hỏi: “Nếu cậu đã không trông thấy gì cả, vậy tại sao lại xách theo chiếc đèn lồng?”.

Chàng trai mù đáp: “Bây giờ là buổi tối phải không? Tôi nghe nói, trong màn đêm mà không có ánh đèn chiếu sáng, vậy thì mọi người trên thế gian này cũng đều sẽ giống như tôi, không trông thấy gì cả, vậy nên tôi đã thắp một ngọn đèn”.

Vị tăng nhân dường như có phần hiểu ra, nói: “Thì ra cậu là vì muốn chiếu sáng cho những người khác?”.

Thế nhưng, chàng trai mù lại nói: “Không, tôi là vì chính mình”.

“Vì chính cậu ư?”, vị tăng nhân lại càng sửng sốt.

Chàng trai mù chậm rãi nói: “Ông có bao giờ đi trong đêm tối, mà bị những người đi đường khác đụng phải chưa?”.

Vị tăng nhân nói: “Đúng vậy, cũng như lúc nãy, tôi không có để ý nên đã bị hai người khác đụng phải“.

Chàng trai mù nghe xong, trầm lặng nói: “Nhưng tôi thì lại không bị, tuy tôi là kẻ mù, cái gì tôi cũng không trông thấy, nhưng tôi xách theo chiếc đèn lồng này, vừa để soi sáng đường cho những người khác, nhưng quan trọng hơn là để người khác trông thấy tôi. Như vậy, họ sẽ không vì không trông thấy mà đụng phải tôi”.

Khổ hạnh tăng nghe xong, lập tức ngộ ra. Ông ngửa mặt lên trời thở dài, nói: “Ta đã đi khắp chân trời góc biển, bôn ba nghìn dặm tìm Phật, thật không ngờ rằng Phật đang ở bên cạnh ta. Thì ra, Phật tính cũng giống như một ngọn đèn, chỉ cần ta thắp sáng nó, dù cho ta không nhìn thấy Phật, thì Phật cũng sẽ nhìn thấy ta thôi!”.

Thế nên, vì người khác, hãy thắp sáng ngọn đèn sinh mệnh của chính mình! Như vậy, trong bóng đêm của đời người, chúng ta mới có thể tìm thấy bình an và sự chói lọi của chính mình.



Tiểu Thiện, dịch từ Epoch Times

nếu như mọi việc không làm được,thì hãy cầu ở chính mình

nếu như mọi việc không làm được,thì hãy cầu ở chính mình

Đăng lúc: 06:23 - 08/06/2015

Vô vi là chân tánh,hữu vi là chân ứng, chúng sanh có cảm,Phật Bồ Tát sẽ có ứng, ứng là thân gì? ứng thân,hóa thân,gọi là ứng hóa thân, ứng hóa thân thông mười pháp giới, nói cách khác, chúng sanh trong mười pháp giới lục đạo có tâm nhất niệm cầu Phật, Phật biết được, lập tức sẽ cảm ứng.

Loại cảm ứng này cũng giống như sự cảm ứng của cuộc thực nghiệm nước của giáo sư Giang Bổn ở Nhật Bản, lý lẽ cùng với việc này tương tự. chúng ta khởi tâm động niệm người khác không biết nước biết chúng ta đối với nước khởi một ý niệm,không nói ra, người đứng cạnh chúng ta đều không biết, nhưng nước lại biết. ta khởi một thiện niệm,sự kết tinh rất là đẹp, ta khởi một ác niệm,sự kết tinh rất là xấu. bạn phải hiểu rằng, nước không có khởi tâm động niệm,không có phân biệt chấp trước, sự phản ứng này của nó chính là cảm ứng,là tự nhiên. ý nghĩa của sự chứng minh này rất là sâu sắc, sự chứng minh này nói với chúng ta rằng kiếp này của chúng ta ở thế gian này chịu đựng những việc cát hung họa phúc,,giàu nghèo sang hèn đều là do từ ý niệm của bản thân sanh ra không có một chút liên can gì đến cảnh giới bên ngoài và những người bên ngoài cho nên Thánh Hiền ngày xưa nói với chúng ta rằng, “hành hữu bất đắc,phản cầu chư kỷ” (nếu như mọi việc không làm được,thì hãy cầu ở chính mình) bạn gặp vấn đề, vấn đề không ở bên ngoài, quay đầu lại mà phản tỉnh, nhất định là ở bản thân khởi tâm động niệm, trong lời nói hành vi tìm ra nguyên nhân, nếu như sửa đổi đi những cái bất thiện, tăng cường làm những việc thiện thì cuộc sống kiếp này của bạn sẽ thanh tịnh mỹ mãn, sự nghiệp của bạn sẽ thuận buồm xuôi gió, nếu như gặp được pháp môn Tịnh Độ, bạn kiếp sau nhất định sẽ thành Phật. sự kết tinh của nước cuộc thực nghiệm này nói với chúng ta cái sự thật chân tướng này, cái thông tin này cần phải nói cho quảng đại chúng quần biết, tại vì sao? năng lượng ý thức của tập thể rất là lớn mạnh, có thể thay đổi hoàn cảnh vật chất của chúng ta, đó mới là thật sự tiêu tai miễn nạn.

Tinh Không pháp sư

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 16
  • Hôm nay 2,162
  • Tháng hiện tại 38,617
  • Tổng lượt truy cập 23,444,866