Đăng lúc: 15:05 - 10/12/2019
Đăng lúc: 10:35 - 12/11/2018
Buổi trưa có khi thiêng liêng lạ, im lặng lạ, im lặng đến có thể lắng nghe được tiếng nắng nổ trên nhà lá cọ, tiếng con sâu ăn lá bàng, tiếng ngáp của chú thạch sùng đâu đó!
Đăng lúc: 20:36 - 31/03/2018
Khi truyền thông bị cắt đứt hay bị bế tắc, chúng ta khổ đau. Khi không có ai lắng nghe và hiểu ta, ta sẽ trở thành trái bom sắp nổ. Lắng nghe với tâm từ bi mang đến cho ta nhiều trị liệu. Đôi khi, chỉ cần mười phút lắng nghe sâu là chúng ta có thể được chuyển hóa và có lại nụ cười trên môi
Đăng lúc: 11:10 - 04/06/2017
Tối ngày 2/6/2017 tức ngày 8/5/Đinh Dậu, đêm thắp nến cầu nguyện hương linh thai nhi do Đại Đức Thích Định Tuệ - trụ trì Chùa Phúc Thành, Chùa Đức Hậu tổ chức. Cùng sự tham gia của Chư Tôn Đức Tăng Ni trong và ngoài tỉnh và hàng nghìn phật tử gần xa.
Dưới sự điều hành chương trình của Đại Đức Thích Định Tuệ buổi lễ trở nên linh thiêng huyền diệu hàng ngàn ngọn nến lung linh huyền diệu được thắp lên tại Chùa Đức Hậu, Nghi Đức, tỉnh Nghệ An, sau một ngày các vong hồn được nghe kinh siêu độ của Chư Đại Đức Tăng thiết lập Đàn tràng cầu siêu cho các Thai nhi bất hạnh. Thật cảm động, ngôn ngữ cũng không diễn tả hết được bằng lời cho niềm xúc cảm của những ai tham dự đêm thắp nến cầu nguyện tại đây.. Những lời sám hối của những người làm cha làm mẹ thốt ra trong buổi lễ cầu nguyện khi hàng ngàn ngọn nến được Chư Tôn thiền đức Tăng thắp lên và ngọn đăng được truyền ra khắp Đại chúng có mặt trong đêm nguyện cầu này, tựa như ánh sáng vi diệu của Phật Pháp lan tỏa trong màn đêm u tối, xóa tan hết hắc ám vô minh sau bao đêm trường mờ mịt ở những phương trời vô định để cho những vong hồn có chốn để quay về nương tựa.. bầu không khí như trầm xuống, tất cả mọi người ngồi lặng yên và cảm nhận từng lời nói, tâm tư tình cảm từ tiếng lòng của thai nhi. Những tiếng nấc nghẹn ngào, những giọt nước mắt đã chảy xuống thay cho lời sám hối, ăn năn của các bậc làm cha làm mẹ. Để tháo gỡ và chuyển hóa nỗi khổ niềm đau ấy, hội chúng đã được lắng nghe những lời khai thị của ĐĐ.Thích Định Tuệ. Trên tình thần Nhân Quả của đạo Phật thì việc nạo phá thai là một tội ác, gây nên oan gia nghiệp chướng sâu dày. Nhưng với tâm hối cải, biết phát nguyện chừa bỏ, không tái phạm và thành tâm sám hối thì nghiệp chướng có thể chuyển hóa và mang lại những lợi ích cho cả người sống và người mất. Chính vì vậy , với tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật, pháp hội này còn mang một ý nghĩa là hướng đến cách giáo dục mọi người trong việc ý thức bảo vệ sự sống, tránh đi sự suy giảm đạo đức hiện đang diễn ra trong xã hội hôm nay.
Hi vọng rằng những ánh nến tỏa sáng sẽ tương thông kết nối cảm xúc của người còn sống với người đã mất. Ánh sáng của những ngọn nến sẽ làm tan chảy sự vô cảm ,thờ ơ của những người cha người mẹ, giúp họ nhận ra sai lầm của mình. Ánh nến không chỉ là biểu tượng cho tình yêu thương ấm áp mà nó còn mang thông điệp của sự sống lan tỏa, sẻ chia.
Và cứ thế, những tiếng niệm Phật cứ tiếp nối vang lên trong không gian của ngôi Chùa cùng ánh nến lung linh đến tận cùng sâu thẳm đã để lại trong tâm của mội người một cảm xúc sâu lắng, khó quên.
Sau đây là một số hình ảnh:
Tác giả bài viết: Hồng Nga
Đăng lúc: 15:44 - 22/05/2017
Chiều ngày 19/5/2017, Chùa Đức Hậu long trọng đón tiếp Quý Thầy Cô và lớp học Giáo Lý Minh Tâm TP. Ban Mê Thuột do thầy Thích Hải Nguyện, Thích Hải Trung, sư cô Thích Nữ Hạnh Dung dẫn đoàn về giao lưu với các Phật tử trong Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ do ĐĐ Thích Định Tuệ trụ trì chùa Đức Hậu, ĐĐ Thích Đạo Quang thành phố Nha Trang đón tiếp. Một cuộc hội ngộ thật ý nghĩa, thắm tình đạo vị với các Phật Tử ở vùng Cao Nguyên với các Phật Tử trong Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ.
Tối ngày 19/5/2017 Đại Đức Thích Định Tuệ tổ chức đêm Thiền Trà giao lưu giữa các Phật Tử.trong lớp học Giáo lý Minh Tâm và phật Tử trong Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ Trong đêm thiền trà, các Phật Tử đều lắng đọng tâm tư và lắng nghe hơi thở của chính mình, xoa dịu những nhọc nhằn trong cuộc sống và lắng nghe nhịp tim thổn thức, được lắng nghe những lời chia sẻ của Chư Tôn Đức Tăng Ni và những bạn đồng tu . Các Phật Tử lại được cùng nhau chánh niệm, thưởng thức những ly trà nghĩa tình và trao cho nhau những năng lượng của tình thương cùng sự hiểu biết.
Trong đêm Thiền Trà, Đại Đức Thích Định Tuệ trụ trì Chùa Đức Hậu đã chia sẻ những tình cảm của mình đến với Chư Tôn Đức Tăng Ni và kính chúc các Thầy Cô pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, chúc các Phật Tử luôn được an lạc trong ánh hào quang của Chư Phật... và tu tập ngày càng tinh tấn hơn..
Sáng ngày 20/5/2017 Phật tử Đạo trang Hương Sen Xứ Nghệ giao lưu với lớp học giáo lý Minh Tâm chia sẻ những kinh nghiệm tu tập và ký hiệp ước " Hiểu và Yêu Thương ". Qua buổi giao lưu các Phật tử được các quý Thầy, cô trả lời những câu hỏi, những thắc mắc trong quá trình tu học. Đại Đức Thích Định Tuệ trụ trì chùa Đức Hậu đã chia sẻ với các Phật tử : " Thầy mong các Phật tử có mặt trong buổi sáng ngày hôm nay hãy nhớ thời khắc này, người ở Đắc Lắc người ở Nghệ An được ngồi bên nhau , được ký hiệp ước yêu thương, phát nguyện bằng trái tim và tâm hồn của mình. Đặc biệt là các quý thầy cô và các Phật tử ở Đắc Lắc đã dành cho đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ những tình cảm, khoảnh khắc, kỷ niệm được gắn bó bên nhau. Thầy mong các Phật tử cố gắng tu tập tốt hơn nữa "
buổi chiều và sáng hôm sau đoàn đã đi tham quan Quê Nội và Quê Ngoại Bác Hồ và thăm nhà tưởng niệm Đại thi hào Nguyễn Du ở Nghi Xuân Hà Tĩnh
Sau đây là một số hình ảnh của đêm thiền trà và giao lưu ký hiệp ước ( Hiểu và yêu thương )
Đại Đức Thích Hải Nguyện thay mặt quý Thầy Cô và lớp học Giáo Lý Minh Tâm cảm ơn quýThầy và Phật tử trong Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ đã dành cho đoàn sự chào đón nồng nhiệt nhất , Thầy chúc các Phật tử tinh tấn tu học theo giáo lý của Đức Phật.
Đại Đức Thích Đạo Quang - MC chương trình trong đêm Thiền Trà và ký hiệp ước " Hiểu và Yêu Thương"
Sư Cô Thích Nữ Hạnh Dung chia sẽ trong buổi giao lưu
ĐạiĐ
kết thúc buổi giao lưu Các quý Thầy Cô và Phật tử cùng nhau ký hiệp ước " Hiểu và Yêu Thương ""
Hiệp ước ( HIỂU VÀ YÊU THƯƠNG)
Nhân dịp này Qúi Thầy Cô và lớp học Minh Tâm tặng Qùa cho Đại Đức Thích Tuệ và Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ
chụp ảnh lưu niệm
Tác giả bài viết: Hồng Nga
Đăng lúc: 19:57 - 26/04/2017
Luôn quán niệm, nhớ nghĩ về ân đức Tam bảo, ba ngôi quý báu ở thế gian với tất cả lòng kính tin là một trong những điều kiện quan trọng để tiến tu trong Phật pháp. Với hầu hết mọi người con Phật, tin Phật là hiển nhiên, tin Pháp là đương nhiên nhưng tin Tăng thì khó hơn rất nhiều vì trong đó thánh phàm lẫn lộn.
niemtang.JPG
Tăng là đoàn thể đẹp, cùng đi trên đường vui...
Tăng-già hiểu theo nghĩa Sangha, hội chúng đệ tử Phật xuất gia gồm bốn người trở lên, hòa hợp và thanh tịnh ngày càng trở nên khó tìm. Tăng-già hiểu theo nghĩa tổ chức Giáo hội, Tăng đoàn lại càng khó để trọn niềm tin. Tăng-già là Thánh chúng (bốn đôi, tám bậc) thì cực kỳ hiếm hoi.
Thế nên, pháp Niệm Tăng hiện nay xem ra là pháp tu có nhiều điểm đáng bàn. Không niệm Tăng thì không thành tựu đức tin Tam bảo, mà niệm Tăng như lời Phật dạy dưới đây cũng chẳng dễ chút nào. Khi mà hội chúng xuất gia hiện nay hầu hết là phàm Tăng, chưa kể đến đội ngũ tạp Tăng, tìm mọi cách len lỏi vào Tăng đoàn với vô vàn lý do và mục đích khác nhau.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Hãy tu hành một pháp, hãy truyền bá rộng rãi một pháp. Tu hành, truyền bá rộng rãi một pháp rồi sẽ có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều lành đầy đủ, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, sẽ có thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Thế nào là một pháp? Nghĩa là niệm Tăng.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Thế nào là tu hành niệm Tăng sẽ có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều lành đầy đủ, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, sẽ có thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn?
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Căn bản các pháp đều do Như Lai nói. Cúi mong Thế Tôn, vì các Tỳ-kheo mà nói diệu nghĩa này. Các Tỳ-kheo nghe lời Như Lai nói rồi sẽ thọ trì.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các Thầy phân biệt rộng điều này.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn.
Các Tỳ-kheo vâng lời dạy rồi, Thế Tôn bảo rằng:
- Nếu có Tỳ-kheo chính thân, chính ý, ngồi kiết-già cột niệm trước mặt, không có tưởng khác, chuyên cần niệm Tăng (chúng): Thánh chúng của Như Lai nghiệp lành thành tựu, chất trực thuận nghĩa, không có nghiệp tà, trên dưới hòa mục, pháp pháp thành tựu, tam muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, độ tri kiến thành tựu. Thánh chúng là bốn đôi, tám bậc. Đó là thánh chúng của Như Lai, phải nên cung kính, thừa sự, lễ thuận. Vì sao thế? Vì họ là ruộng phước của đời. Ở trong chúng này đều đồng là pháp khí. Cũng vì tự độ mà độ người khác đến đạo Tam thừa. Nghiệp như thế gọi là Thánh chúng. Thế nên, các Tỳ-kheo, nếu có người niệm Tăng, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều lành đầy đủ, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, sẽ có thần thông, trừ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự đến Niết-bàn. Thế nên, các Tỳ-kheo, thường nên tư duy, chẳng lìa niệm Tăng, liền sẽ được các công đức lành này. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo, nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 3.Quảng diễn,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.47)
Nhìn vào hiện thực Tăng-già ở xứ ta hiện nay, hẳn thật khó để quán niệm về Thánh chúng với các phẩm chất “Nghiệp lành thành tựu, chất trực thuận nghĩa, không có nghiệp tà, trên dưới hòa mục, pháp pháp thành tựu, tam muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, độ tri kiến thành tựu. Thánh chúng là bốn đôi, tám bậc”. Có thể thấy rõ điều này qua một số hình ảnh thể hiện sự phân hóa, bất hòa, cát cứ, phiền não, chạy vạy, rối rắm đậm chất thế tục mà ai cũng biết với sự kìm nén đau lòng, thương cho Phật pháp.
Tuy vậy, về cá nhân của từng vị Tăng (Ni) hay các hội chúng đang ẩn dật nơi các thiền viện, tu viện, tịnh viện thì các phẩm chất của Thánh chúng nơi họ vẫn còn. Nhìn ra thế giới vẫn còn nhiều các bậc thầy đúng nghĩa, những hội chúng thanh tịnh đang tu tập giới định tuệ và tận lực hoằng hóa. Có thể xem đây là chiếc phao hy vọng cho những người con Phật bám víu để quán niệm về chúng Tăng với các phẩm chất hòa hợp, thanh tịnh mà khởi lòng kính tin.
Quảng Tánh
Đăng lúc: 22:21 - 15/04/2017
Một trong những biểu hiện cụ thể của người thực tu theo Chánh pháp là sống đời thiện lành; đoạn trước, đoạn giữa và đoạn sau tất cả đều thiện. Có không ít đệ tử Phật thường khái quát cách thức tu tập của mình là tu tâm. Ăn chay cũng do cái tâm, giữ giới cũng dựa trên cái tâm, làm phước cũng xuất phát từ cái tâm v.v...
Dĩ nhiên tu tâm là quá đúng. Nhưng vì chữ tâm trong đạo Phật có ý nghĩa vừa sâu kín lại vừa bao la, tâm vô hình vô tướng thoắt ẩn thoắt hiện, không phải ai cũng hiểu trọn cái tâm nên tuy thường nói tu tâm mà thực ra vô cùng lúng túng chẳng biết bắt đầu từ đâu.
devadatta-and-buddha31.jpg
Tạo mười nghiệp ác thì gọi là bất thiện, sẽ sinh về cõi ác súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục - Tranh PGNN
Theo lời dạy của Thế Tôn, tu tập hướng thiện phải thiết thực, cụ thể, tức chuyển hóa ba nghiệp thân miệng ý từ xấu ác sang thiện lành. Nói cách khác là tu mười nghiệp thiện, ba thiện nghiệp của thân, bốn thiện nghiệp của miệng, ba thiện nghiệp của ý. Và đây cũng chính là quy chuẩn về thiện và bất thiện theo quan điểm của Thế Tôn. Tạo mười nghiệp lành thì gọi là thiện, được sinh về cõi lành. Ngược lại tạo mười nghiệp ác thì gọi là bất thiện, sẽ sinh về cõi ác súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta sẽ nói về hạnh thiện và bất thiện. Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ đó!
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn.
Thế Tôn dạy:
- Thế nào gọi là bất thiện? Thế nào gọi là thiện? Nghĩa là: sát sanh là bất thiện, không sát sanh là thiện; lấy của không cho là bất thiện, lấy của cho là thiện; dâm là bất thiện, không dâm là thiện; nói dối là bất thiện, không nói dối là thiện; nói thêu dệt là bất thiện, không nói thêu dệt là thiện; nói hai lưỡi là bất thiện, không nói hai lưỡi là thiện, đấu loạn kia đây là bất thiện, không đấu loạn kia đây là thiện; tham của người là bất thiện, không tham của người là thiện; nổi giận là bất thiện, không nổi giận là thiện; tà kiến là bất thiện, chánh kiến là thiện. Như thế, này các Tỳ-kheo, hành điều ác này xong, đọa trong súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Nếu người làm lành liền sanh trong loài Người, lên Trời và trong các đường lành, A-tu-la. Thế nên, hãy xa lìa hạnh ác, tu tập hạnh lành. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm16.Hỏa diệt,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.211)
Qua pháp thoại trên, thiện và bất thiện được Thế Tôn phân định thật rõ ràng. Không sát hại, không trộm cướp, không tà hạnh (ba thiện nghiệp của thân); Không nói dối, không nói thô ác, không nói đâm thọc, không nói thêu dệt (bốn thiện nghiệp của miệng); Không tham lam, không sân hận, không tà kiến si mê (ba thiện nghiệp của ý) chính là thiện. Ngược lại là bất thiện. Tạo bất thiện thì sinh vào cõi ác, tu thiện thì sinh vào cõi lành.
Vẫn biết, trọng tâm của tu tập theo giáo pháp Thế Tôn là chứng đắc giải thoát Niết-bàn, thoát ly sinh tử luân hồi ngay trong đời này. Tuy nhiên, phân biệt rõ thiện ác và lập chí hành thiện để thành tựu công đức, phước báo trong hiện tại và vị lai cũng là một trong những mục tiêu tu tập quan trọng của hàng Phật tử. Nhờ nắm được pháp căn bản này, người đệ tử Phật khi chưa hội đủ duyên lành tu tập chỉ quán để lần lượt chứng đạt bốn Thánh quả thì có thể chuyển hóa thân tâm theo mười điều thiện, đảm bảo thành tựu kết quả “nay vui đời sau vui”.
Quảng Tánh
Đăng lúc: 16:02 - 15/12/2016
Suốt một tuần lễ khánh đản đức từ phụ A Di Đà Phật, đông đảo Phật tử đạo tràng Hương sen xứ Nghệ đã vân tập về chùa Đức Hậu tham dự khóa tu Niệm Phật, tham gia các buổi pháp thoại, thảo luận Phật pháp, đảnh lễ hồng danh, thắp hoa đăng cúng dường, và thực tập quán niệm.
Nhân ngày kỷ niệm Đản Sinh Đức từ phụ A Di Đà Phật, chùa Đức Hậu tổ chức khóa tu một tuần lễ từ ngày 11 đến ngày 17 tháng 11 năm Bính Thân (09 đến 15/12/2016).
Suốt một tuần qua, đông đảo các Phật tử thuộc đạo tràng Hương Sen xứ Nghệ (Phật tử đạo tràng chùa Đức Hậu, TP. Vinh và chùa Phúc Thành, Hưng Nguyên) và một số Phật tử các đạo tràng trong tỉnh đã vân tập tham dự. Trong chương trình tu tập, các Phật tử được chư tôn đức trong Ban giáo thọ hướng dẫn tụng kinh, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, lạy 48 đại nguyện, dâng hoa đăng quán niệm, và được lắng nghe các thời pháp thoại do chư tôn đức Giảng sư ban bố.
Riêng hôm nay, ngày 17.11 âm lịch, chính thức kỷ niệm Đản sinh đức từ phụ Giáo chủ cõi Tây Phương, mặc dù thời tiết mưa dầm suốt ngày cũng không làm chùn bước chân tinh tấn của các hành giả. Từ sáng sớm, đạo tràng bắt đầu hành trì niệm Phật, sau đó trải nghiệm một buổi thảo luận rất sôi nổi do thầy Mục Đồng hướng dẫn. Lần lượt các vấn đề được nêu ra, như ngày 17.11 có phải chính thức là sinh nhật Phật A Di Đà không? Phật A Di Đà có hay không? Thế giới Cực Lạc ở đâu? Người hiểu Phật pháp và không hiểu Phật pháp cùng hành động ác, ai có tội nặng hơn? Lòng tin được xác quyết theo khía cạnh nào? Vì sao thờ Phật? Và, thờ tượng đức Phật, Bồ tát nào? v.v. Rất đông hành giả tham gia ý kiến, trình bày sở hành của mình, rồi sau đó được đúc kết lại để thông suốt hơn trong sự kiến giải và thực tập.
Sau thời khóa thực tập dùng cơm trưa chánh niệm và giải lao buổi trưa, đại chúng tiếp tục lắng nghe thời pháp thoại của ĐĐ. Giảng sư Thích Nguyên Liên. Thầy đã giảng rộng hơn về các khía cạnh của hạnh nguyện đức Phật A Di Đà và giáo lý Tịnh độ.
Sau pháp thoại là Lễ Quy Y cho các đạo hữu phát tâm trở thành Phật tử, và lễ hồng danh 48 đại nguyện.
Vào lúc 19 giờ tối nay (15.12.2016), sẽ diễn ra đêm hoa đăng Tưởng niệm, cúng dường Tam Bảo, đồng thời hồi hướng công đức cầu siêu cho thân mẫu Đại đức trụ trì Thích Định Tuệ, là hương linh Nguyễn Thị Chốn, pháp danh Thánh Hộ, vừa qua đời tại Đồng Nai.
Đăng lúc: 20:11 - 28/11/2016
Khủng hoảng tâm lý ở giới trẻ không phải là một câu chuyện mới mẻ nhưng đây cũng là thực trạng phổ biến hiện nay.
Rất nhiều cuộc điều tra trong thanh thiếu niên Việt Nam cho thấy sự khủng hoảng trong cuộc sống đang đẩy các bạn trẻ đến với bờ vực của sự tiêu cực. Vấn đề không chỉ dừng lại ở việc phản ánh thực trạng mà cả xã hội phải cùng chung tay hướng dẫn giới trẻ thoát khỏi khủng hoàng và tìm lại sự cân bằng trong cuộc sống.
anh PGTT 873.jpg
Sống chậm lại, điềm tĩnh hơn, cũng là một trong những cách giúp chúng ta tìm được
sự an nhiên trong tâm hồn. Trong ảnh, Phật tử CLB Nhân Sinh tập thiền - Ảnh: Nhân Sinh
Nhận diện khó khăn
Không ai trong cuộc sống chưa từng gặp phải khó khăn dẫn đến bị khủng hoảng tâm lý. Chỉ khác nhau ở chỗ mỗi người mỗi cảnh, mức độ nặng nhẹ khác nhau. Bàn về vấn đề này, Phật tử Thiện Nghiêm (ngụ quận 4, TP.HCM) cho biết - người cha yêu quý của anh mất đột ngột cộng thêm sau đó là những câu chuyện hiểu lầm, vu oan từ những dòng trạng thái trên trang mạng xã hội của anh đã khiến anh bị sốc và rơi vào trạng thái hoang mang, khủng hoảng tâm lý trong khoảng 6 năm.
Khác với Thiện Nghiêm, nữ Phật tử Diệu Tâm (thành viên nhóm Bước Chân Sen, chùa Long Phước, quận Bình Thạnh, TP.HCM) lại có một cách nghĩ khác. Chị nghĩ trong cuộc sống, có thuận lợi hẳn sẽ có khó khăn, nhưng sẽ không có khó khăn đến mức chưa thể vượt qua. Bởi khi thấu suốt được chân lý Nhân-Quả, chúng ta sẽ thấy khó khăn của ngày hôm nay hay của ngày mai đều có nguyên nhân của nó. Cho nên, khi khó khăn vừa khẽ chạm vào cuộc sống thì chúng ta sẽ có cách hoặc cố gắng tìm cách hay lắng nghe ý kiến từ người thân giúp tháo gỡ nhẹ nhàng, bình tĩnh, từ từ, để hạn chế ở mức thấp nhất có thể sự tổn thương.
Thật vậy, không có một khó khăn nào mà không thể vượt qua, không một khủng hoảng nào không có hồi kết. Vạn vật đều tuân theo kịch bản của thành, trụ, hoại, không và khủng hoảng tâm lý cũng vậy. Cho nên khi khủng hoảng đến, ta cứ bình tĩnh chấp nhận nó. Hạn chế tối đa việc để khủng hoảng chiếm trọn tâm trí dẫn tới những việc làm dại dột gây hại cho bản thân và những người xung quanh. Nhận diện khủng hoảng là một việc làm cần thiết, phải thấy cho được “bộ mặt” của nó để tìm nguyên nhân phát sinh khủng hoảng từ đâu mới có thể tháo gỡ từng nút thắt một.
TS.Ngô Xuân Điệp, Trưởng khoa Tâm lý học, Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM nhận định nguyên nhân chính dẫn tới khủng hoảng trong giới trẻ: “Các hệ thống phép tắc hà khắc của Khổng giáo đã bóp nghẹt sự phát triển của nhiều thế hệ Việt Nam, tạo ra sự khống chế thái quá xâm phạm trực tiếp vào quyền được tự do, tự quyết của trẻ em, tước đoạt khả năng ra quyết định của trẻ em, tạo ra thế hệ người lớn nhu nhược - dễ bị bắt nạt, nhiều thế hệ người quá nhút nhát, thiếu tính sáng tạo. Các hệ thống văn hóa Khổng giáo được hợp thức hóa trong công sở và lại gây ra tình trạng bắt nạt nơi công sở, vào gia đình gây ra bạo hành... Chương trình giáo dục quá cao so với khả năng phát triển tâm lý của người trẻ. Tình trạng giáo dục ép buộc trẻ em cũng bị chi phối bởi các cá nhân xây dựng chương trình bị chi phối nặng bởi văn hóa Khổng giáo”.
Xử lý khủng hoảng
Khoảng thời gian 6 năm bị khủng hoảng tâm lý, Thiện Nghiêm tưởng chừng như cuộc sống đi vào ngõ cụt. Nhưng sau đó, anh đã tìm đến đạo Phật, ánh sáng Phật pháp như cứu cánh, đã giúp Thiện Nghiêm thoát khỏi bóng tối khủng hoảng để tìm lại một cuộc sống an bình về cả thể xác lẫn tinh thần. Anh chia sẻ: “Tôi luôn tự an ủi mình phải mạnh mẽ, tự tin hơn bằng cách đọc những lời Phật dạy, nghe giảng pháp trên băng đĩa và trì chú niệm Phật vì tin rằng điều này có thể chuyển nghiệp xấu của mình”.
Sau một thời gian đặt niềm tin vào Phật pháp, anh đã thấu hiểu và ứng dụng được lời Phật dạy để có cách đối trị với những người đã gieo tiếng xấu cho anh, đồng thời chế ngự khủng hoảng tâm lý, đưa tinh thần trở về trạng thái an nhiên. Anh nói bài học lớn nhất mà thời gian đó cho anh là tin sâu vào luật nhân quả. Có thể anh từng gieo nhân ác với những người đó trong quá khứ nên bây giờ nhân ấy đủ duyên và bắt đầu trổ quả. Không phải chúng ta ngồi chờ cái quả trút lên mình mà khi thấy cái quả đã hiện rõ thì hãy chấp nhận nó nhưng đồng thời cũng có những hành động nhằm chuyển hóa tâm hành xấu khi quả không lành ấy biểu hiện, làm cho nó biến mất hoặc chí ít là ngăn chặn nó phát triển lớn hơn.
Đối với chị Diệu Tâm, khi gặp khó khăn chúng ta “không nên vượt qua nó” mà hãy “tìm cách thỏa hiệp, sống hòa bình, vui vẻ với nó”. Bởi mọi thứ đều sẽ theo quy luật sinh rồi diệt, không cần phải trốn chạy, cũng không cần tiêu diệt chúng. Khi chúng ta tin vào quy luật Nhân-Quả, Sinh-Diệt của thế giới tự nhiên thì lúc ấy chúng ta không còn phải loay hoay với câu hỏi “Làm sao để thoát khỏi khủng hoảng?”.
Việc cần làm là đừng cố vùng vẫy để thoát khỏi mà là đối đầu một cách hòa bình với nó, dĩ nhiên sẽ không dễ dàng, sẽ có những khó chịu nhất định. Tự lượng sức mình, cân nhắc xem khó khăn đó, liệu mình có đương đầu nổi không, nếu được thì mình nhẹ nhàng đi xuyên qua nó, còn nếu thấy cái khó này nặng quá sức mình thì mình chọn cách buông bỏ. Thách thức bản thân như ông bà mình dạy “trong cái khó, ló cái khôn”.
Tìm lại an nhiên
Vượt qua khoảng thời gian sóng gió, giờ đây anh Thiện Nghiêm đã lấy lại cân bằng trong cuộc sống và tìm được sự an tĩnh trong tâm hồn. “Bây giờ trong tâm tôi rất an. Tu là cách xử lý khổ đau, vì tôi cho rằng tu để chuyển nghiệp. Tôi tìm đến chùa để học Phật, tụng niệm kinh Phật và suy xét lời Phật dạy để tìm lại bình an cho chính mình. Không oán giận, thù hằn nữa”, Phật tử Thiện Nghiêm chia sẻ.
Tìm lại sự an nhiên cho thân tâm không phải ngày một ngày hai mà đó là một lộ trình, một sự thực tập có chủ đích, có cứu cánh rõ ràng. Chị Diệu Tâm cho hay: “Tôi tìm đến sự an tĩnh bằng sự tập luyện tâm thoát khỏi tham, sân, si, mình không muốn khi mình qua đời, mình lại nằm ôm của cải vốn không thuộc của mình, mà không dám bước tới bờ giải thoát với sự an tĩnh tuyệt đối trong tâm hồn. Sau những thất bại, những khó khăn mà mình đã chạm phải, mình xem tất cả như một người thầy, và ngôi trường giáo dục mình học tập suốt thời gian sống là trường đời”.
Sống chậm lại, điềm tĩnh hơn, cũng là một trong những cách giúp chúng ta tìm được sự an nhiên trong tâm hồn. Khi chúng ta lắng lòng mình xuống, lắng nghe hơi thở của mình, nhìn thấu nội tâm mình, chúng ta sẽ thấy cơ thể mình cũng là một trường học, và bản thân mình vừa là người thầy, vừa là học trò, chúng ta sẽ tìm được cách học phù hợp với cơ địa của mình, tùy theo định hướng, cứu cánh mình đề ra. Ví như mình, cứu cánh là sự giải thoát, an lạc thật sự tự bên trong. Và an tĩnh trong tâm hồn hiển nhiên trở thành một trong những điều quan trọng mình hướng đến để có sự cân bằng của tâm thức khi ứng xử với chính mình và thế giới bên ngoài, xung quanh mình.
Tấn Khang
Nguyên nhân & cách giải quyết khủng hoảng
Khủng hoảng tâm lý là hiện tượng tâm lý tiêu cực ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của con người. Khủng hoảng xảy ra khi cá nhân rơi vào tình trạng sốc tâm lý liên quan đến hoàn cảnh bên ngoài: chiến tranh, động đất, thiên tai, tai nạn thảm khốc, mất người thân... Cũng có thể liên quan đến cách giáo dục của gia đình gia trưởng, ép buộc, cấm đoán, lạm dụng, khống chế hành vi thái quá và lặp đi lặp lại nhiều năm hay suốt đời; tệ nạn bắt nạt học đường, bắt nạt công sở; bắt cóc, đói nghèo, buôn người, khủng bố, thất bại làm ăn, bạo hành, thất tình... Các cá nhân rơi vào hoàn cảnh trên có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng tâm lý.
Ở Việt Nam hiện nay giới trẻ và trẻ con rơi vào khủng hoảng tâm lý khá nhiều do cách giáo dục quá gia trưởng của cha mẹ, bị ép học (trẻ con học quá nhiều và kiến thức chương trình phổ thông quá cao so với khả năng phát triển của trẻ), bắt nạt học đường, bắt nạt nơi công sở, cậy quyền thế khống chế người khác, bạo hành thể xác và tinh thần...
Làm gì khi người thân bị khủng hoảng tâm lý?
- Cần nghiêm túc tôn trọng, lắng nghe, thấu hiểu, hỗ trợ giới trẻ phát triển.
- Chương trình giáo dục cần được nghiêm túc xem xét lại và được đề xuất khi đã qua các nghiên cứu khoa học nghiêm túc.
- Cần giúp họ đương đầu đối mặt để khắc phục.
- Cần được thăm khám tâm lý để được hỗ trợ.
- Những liệu pháp tâm linh như thiền, đi chùa tụng kinh... sẽ mang lại một số hiệu quá nhất định, nhưng phải thông qua chuyên gia trị liệu hướng dẫn.
TS.Ngô Xuân Điệp
(Trưởng khoa Tâm lý học Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM)
T.K ghi
Đăng lúc: 19:51 - 31/10/2016
Bài viết này đề cập đến vai trò của đạo Phật đối với trí thức trong thời đại mới, thời đại phát triển của khoa học công nghệ và một xã hội tiêu thụ tiện nghi vật chất nhưng cũng đầy áp lực, bế tắc (tình trạng tự tử rất cao tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Mỹ…). Điều đó đặt ra vai trò của đời sống tâm linh để cân bằng giữa đời sống vật chất hưởng thụ và những bế tắc, căng thẳng trong đời sống tâm lý.
Vai trò của đạo Phật trong đời sống gia đình, xã hội
Đạo Phật không chỉ là một tôn giáo, đạo Phật còn là một nguồn tuệ giác vô cùng to lớn cũng như là một phương pháp thực tập về thân và tâm để đạt tới trạng thái an lạc, hạnh phúc, vượt qua những chuẩn mực hạnh phúc thông thường của con người như đầy đủ về vật chất, địa vị xã hội hay thành công trong sự nghiệp và gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà nhà bác học lỗi lạc Albert Eisntein đã phát biểu rằng: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó”. Nhưng sẽ rất xa vời và lý thuyết nếu không hiểu đạo Phật dưới góc độ thực tập và thực chứng, áp dụng vào đời sống gia đình, xã hội như một phương thuốc chữa trị các căn bệnh về tâm, ảnh hưởng lên sức khỏe về thân.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một vị thiền sư nổi tiếng trong nước và trên thế giới đã áp dụng đạo Phật dưới góc độ trị liệu các vấn đề về tâm thức. Ngài đưa ra những khái niệm về ái ngữ và lắng nghe, thiết lập truyền thông, hóa giải những nội kết trong tâm để hòa giải những mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng, cha mẹ đối với con cái, đồng nghiệp với nhau… Đó là sự áp dụng một phần trong Bát Chánh đạo về thực tập chánh ngữ (giới thứ 4). Ngoài ra những phương pháp về chánh niệm, thực tập nhận diện khổ đau, ôm ấp và hóa giải khổ đau được thực hiện qua các phương pháp thiền trà, quán niệm hơi thở và lắng nghe cũng được thực tập để làm giảm những căng thẳng trong xã hội hiện đại. Dù những phương pháp này (ngoài lời Phật dạy, có sáng tạo thêm) nhưng nó lại rất phù hợp với xã hội hiện đại, đặc biệt là các nước Tây phương và Mỹ có truyền thống tôn giáo thờ đấng sáng tạo lâu đời.
Với những người trí thức, việc áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong đời sống hàng ngày dựa trên nguyên tắc hiểu biết rõ nguyên nhân của đau khổ là do sự tham vọng, mong cầu mà không đạt được sẽ dẫn đến tâm trạng thất vọng chán nản và tuyệt vọng. Tôi đã chứng kiến rất nhiều bạn bè, đồng nghiệp là những nghiên cứu sinh đang nghiên cứu các chương trình tiến sĩ. Bản chất của nghiên cứu tiến sĩ là những vấn đề mới, khó và không dễ dàng đạt được trong một thời gian ngắn. Những áp lực, kỳ vọng và sự mong cầu đã làm cho những nhà nghiên cứu rất mệt mỏi và chán nản đôi khi muốn bỏ cuộc.
Nhưng với những người có sự hiểu biết căn bản giáo lý đạo Phật và có sự hành trì trong đời sống hàng ngày thì họ quán xét mọi việc trên phương diện nhân duyên quả. Những nghiên cứu hay kết quả này cần một thời gian nhất định mới ra kết quả (trổ quả), cần những yếu tố (nhân duyên) hội đủ cần thiết như số liệu, phương pháp nghiên cứu… Và những góp ý của giáo sư hướng dẫn hay đồng nghiệp sẽ đưa lại kết quả mong muốn. Ở một khía cạnh khác, những trí thức và những người nghiên cứu luôn đặt ra cho mình đích đến và mục tiêu của nghiên cứu hay kết quả dự án mà đôi khi kết quả không như mong muốn hoặc có thể tốt hơn ngoài dự kiến. Điều đó cho thấy nếu có cái nhìn trung dung, quân bình hay tùy duyên thì người nghiên cứu sẽ nỗ lực trong sự bình thản và hiểu rõ đường đi của nó mà không khởi lên sự đau khổ hay thất vọng, bế tắc. Đó là lợi ích của đạo Phật cung cấp cho ta cái nhìn Trung đạo xa lìa hai cực đoan về thế giới quan và nhân sinh quan trong mọi việc.
Hơn thế nữa, có những vấn đề mà người trí thức hay bất kể là ai đều gặp phải trong đời sống như vợ chồng không hạnh phúc, con cái hư hỏng, đổ vỡ trong sự nghiệp, kinh doanh thất bại hay những vấn đề về sức khỏe, sinh tử. Chính những lúc đó thì những kiến thức khoa học chuyên sâu lại không giúp ích được trong việc giải quyết khổ đau, tuyệt vọng. Đây là một câu chuyện có thật, có một luật sư người Đức rất giỏi và giàu có nhưng ông ta đã tuyệt vọng và tự tử trên chiếc giường mà ông và tình nhân đã ngủ suốt bao nhiêu năm tháng. Ông đã phải lòng và yêu cô thư ký trong văn phòng luật sư, và ông ta đã bỏ lại vợ con. Cái chết của ông ta là kết quả của sự bế tắc và tuyệt vọng khi mất tình nhân vì cô ta đi theo một người trẻ khác.
Qua câu chuyện này cho thấy, ông ta là luật sư giỏi, không thể nói ông ta là người thiếu hiểu biết về tri thức căn bản trong xã hội. Nhưng có những vấn đề thuộc về tâm lý mà không có sự tu tập chuyển hóa sẽ không hóa giải được đành chọn cái chết để kết thúc mọi việc. Còn đối với trí thức Phật tử, người đó hiểu rằng mọi thứ đều có nguyên nhân của nó, và hôm nay là kết quả nhận được. Hơn nữa người Phật tử thấy rõ mọi thứ trên thế gian đều vô thường, biến đổi, không có gì là vĩnh viễn trường tồn, bất biến. Cho nên hãy chấp nhận nó bởi đơn giản đó là sự thật, và để chấp nhận nó là cả một quá trình tu tập, chiến đấu với chính mình đầy gian khổ và khó khăn.
Đóng góp và lợi ích của Tứ diệu đế, Bát Chánh đạo đối với trí thức
Đức Phật là một con người, nhưng Ngài đã giác ngộ và chứng đạt những quy luật của sự sống như khổ và nguyên nhân của khổ và con đường thoát khổ. Ngài ra đời là “Vì an lạc của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của chư thiên và loài người” (Kinh Tăng chi I). Ngài đã thấy rõ đường đi của sinh tử qua Mười hai nhân duyên, và Ngài đã nói lên rất nhiều bài pháp để các hành giả vượt thoát khổ đau nhờ sự tu tập, buông xả, thấy rõ thực tướng của vạn pháp.
Con đường của Đức Phật không nhằm mục đích lý luận, giải quyết các vấn đề triết học hay nguồn gốc của vũ trụ, loài người. Ngài chủ trương đưa ra một phương pháp thực tập một cách khoa học, logic tuần tự từ thấp đến cao cho nhiều đối tượng khác nhau từ người Phật tử tại gia cho đến những tu sĩ chuyên sâu tu tập. Con đường của Ngài không gì khác hơn là Giới, Định, Tuệ (giữ giới, thiền định và quán chiếu) dựa trên nền tảng của Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo cùng với sự hỗ trợ của 37 phẩm trợ đạo giúp hành giả vượt thoát khổ đau thuộc về tâm, từ sơ quả (Tu-đà-hoàn) đến an lạc Niết-bàn (A-la-hán).
Vậy người trí thức sẽ áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo thế nào trong đời sống, công việc, học tập và kinh doanh? Đối với những trí thức và những người trẻ thì việc áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo vào đời sống sẽ đưa đến nhiều lợi ích thiết thực bằng tuệ quán và sự tư duy quán xét trên từng sự việc. Thật vậy, điều này đã được xác chứng trong lịch sử Phật giáo cách đây gần 26 thế kỷ, đó là rất nhiều người xuất thân từ vua chúa, trí thức, thương gia cho đến các tầng lớp thấp như tướng cướp, kỹ nữ hay nông dân nghèo khổ đã từ bỏ và đi theo con đường của Đức Phật để chứng an lạc, giải thoát, Niết-bàn như vua Tịnh Phạn, anh em Da Xá, ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Angulimala, kỹ nữ Ambapàlì….
Trong công việc học tập, người trí thức hiểu rõ nhân quả nên nỗ lực lao động, học tập và làm việc, nhờ đó mà đạt được những thành tựu mong muốn. Tránh xa hai cực đoan của sự cầu xin, cúng bái dựa vào các thế lực siêu nhiên vô hình hay chủ quan cho rằng tất cả đều chỉ dựa vào nỗ lực cá nhân là đủ mà quên đi vai trò của sự hỗ trợ, các yếu tố bên ngoài tác động vào. Người xưa từng nói “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên (duyên)” hay “người tính không bằng trời tính” - là sự đúc rút kinh nghiệm thực tiễn đời sống. Nhưng dưới cái nhìn tuệ giác của Phật giáo, Đức Phật chỉ rõ đường đi của nhân-duyên-quả, vì sao lại thu được kết quả như thế. Điều này phù hợp với khoa học hiện đại bởi những phát minh, tìm kiếm nguyên nhân hình thành của vô số các hiện tượng về vật lý hay hóa học.
Người trí thức còn có thể sử dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong chính sách nghề nghiệp như việc áp dụng triệt để chánh kiến và chánh tư duy trong việc định hướng và dự báo chiến lược của công ty hay tập đoàn. Áp dụng chánh ngữ và chánh nghiệp trong việc giao tiếp với nhân viên, đồng nghiệp tạo ra sự đồng thuận, ủng hộ góp phần thành công trong một chiến lược cụ thể nào đó. Người trí thức Phật tử luôn dùng chánh niệm để lắng nghe những đề xuất, đóng góp, bình luận hay gợi ý làm cho sản phẩm hay chiến lược trở nên tốt đẹp hơn. Đó cũng là những lợi ích rất lớn trong việc thực tập Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong công việc và đời sống hàng ngày. Ngoài ra nhờ sự quán chiếu, tu tập và hành trì trong mọi công việc và sự kiện hàng ngày mang lại cho họ cái nhìn chân thực, chính xác mà không chứa đựng quan điểm cá nhân (bản ngã) để ra quyết định một cách chính xác chứa đựng trí tuệ và nhân văn sâu sắc là thuộc tính của một thiện tri thức.
Tóm lại, hiểu biết và ứng dụng đạo Phật trong công việc và đời sống hàng ngày đối với tầng lớp trí thức mang lại lợi ích rất lớn và thiết thực, vượt qua giới hạn về tôn giáo, thờ cúng hay một loại tín ngưỡng mà đa phần những người chưa hiểu biết về đạo Phật thường quan niệm như vậy. Xin kết thúc bài viết này bằng một nhận định của một học giả về Phật giáo: “Là Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát Chánh đạo và Tứ diệu đế của Đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó” (Giáo sư Rhys Davids).
ThS.Trần Ánh Dương
Đăng lúc: 14:43 - 16/09/2016
Sau mười ba năm xuất gia, Sư Cô Đặng Nghiêm nhìn lại sự nghiệp của mình trong ngành y và nhận ra rằng việc tu học trong tự viện và ngành y thực sự không khác gì nhau.
Tôi đã tốt nghiệp trường y và có gia đình, rồi tôi gặp Thiền sư Thích Nhất Hạnh cùng với cộng đồng tu viện của Ngài. Chẳng bao lâu sau đó, bạn đời của tôi đột ngột qua đời trong một tai nạn. Cái chết của anh ấy đã giúp tôi quyết tâm sống cuộc đời thiền định của một Phật tử. Tôi rời bỏ ngành y sau bảy năm đào tạo và trở thành một sư cô.
Cho đến nay, tôi đã sống đời tu sĩ được mười ba năm và tôi nhận thấy rằng bạn không cần phải lìa bỏ nghề nghiệp của mình để sống một cuộc đời chánh niệm. Cho dù là ngành y hay bất cứ một công việc nào khác, bạn luôn có thể sống chánh niệm trong từng hơi thở và trong chính thân này. Bạn có thể kết hợp thân và tâm làm một thay vì để chúng tách rời nhau. Khi bạn đứng lên, bạn biết rằng bạn đang đứng lên. Khi bạn duỗi người ra, bạn có thể theo dõi hơi thở và chuyển động của chính mình. Với sự chánh niệm và nhận thức được chính thân tâm của mình, bạn có thể lắng lòng để nghe một cách sâu sắc và bạn ý thức hơn về những gì đang xảy ra xung quanh. Sau đó, hãy mang nhận thức đó vào cuộc sống hàng ngày và công việc của bạn.
Hãy tưởng tượng rằng bạn là một bác sĩ và bạn đang lắng nghe một bệnh nhân. Nếu khi đang lắng nghe mà bạn lại suy nghĩ về các bệnh nhân khác trong phòng, và bạn hỏi bệnh nhân cùng một câu hỏi nhiều lần, điều này sẽ chỉ làm tăng thêm bệnh tật và nỗi sợ hãi của họ. Các bệnh nhân đã cảm thấy bị tổn thương vì phải nằm viện. Bây giờ họ cảm thấy rằng bạn không thực sự có mặt ở đó vì họ. Nếu bạn đang khám bệnh cho một người nhưng không để tâm vào đó mà tâm trí lại suy nghĩ về những bệnh nhân khác, bạn đang lãng phí thời gian của chính mình và của các bệnh nhân.
Giây phút hiện tại chính là giây phút duy nhất chúng ta có.
Đó là thời điểm duy nhất mà chúng ta có thể tạo sự khác biệt cho chính mình và cho những người khác. Cho dù chúng ta đang làm gì và với bất kỳ ai - cho dù là với chính mình, bệnh nhân, khách hàng, bạn bè, hay người lạ - nếu chúng ta thật sự đặt tâm trí mình vào từng hơi thở và cơ thể của chúng ta, chúng ta có thể sống trong thời điểm này một cách sâu sắc và thu được nhiều lợi ích.
Khi còn là một sinh viên y khoa, tôi đã khám cho một bệnh nhân bị ung thư túi mật giai đoạn cuối. Người ta mới chẩn đoán căn bệnh này ba tháng trước nhưng căn bệnh đã hoàn toàn bộc phát. Người bệnh nhân ở độ tuổi sáu mươi đã trở nên trầm cảm và không ăn uống gì. Ông ta trở nên thô lỗ và khắc nghiệt đối với các y tá và bác sĩ.
Ban đầu, ông cũng không thân thiện với tôi, nhưng dần dần ông đã mở lòng ra. Sau đó ông được hỏi ý kiến xem có đồng ý giải phẫu để chữa dứt căn bệnh ung thư một cách an toàn hay không. Ông cảm thấy rất miễn cưỡng và lo lắng. Tôi nói với ông rằng tôi hoàn hoàn ủng hộ ông đối với bất cứ quyết định nào mà ông đưa ra. Ông đã quyết định phẫu thuật nhưng thật không may, khi vừa mới bắt đầu, các bác sĩ nhận thấy rằng ung thư đã di căn đến các cơ quan lân cận và họ ngay lập tức đóng lại vết mổ và ngưng cuộc phẫu thuật.
Đêm đó tôi nhận được cuộc gọi và đã đến thăm ông vào lúc hai giờ sáng. Phòng có hai bệnh nhân và người bệnh nhân kia đã ngủ. Nguồn sáng duy nhất trong phòng là từ hành lang hắt vào. Tôi ngồi lặng lẽ bên cạnh giường của ông. Ông nói với tôi, "Bạn biết đấy, các bác sĩ, tôi không còn hy vọng ở họ nữa. Tuy nhiên, thật kỳ lạ là giờ này đây tôi cảm thấy bình an hơn bao giờ hết".
Tôi chỉ ngồi với ông. Trước khi phẫu thuật, tôi đã kể cho ông nghe về cái chết của bà tôi ở Việt Nam. Bà biết bà sẽ chết và cảm thấy rất bình an. Bà gọi tất cả các con của mình tụ tập xung quanh bà và nhắc họ đừng để cho tôi và em trai của tôi biết việc bà qua đời, bởi vì chúng tôi ở Mỹ và bà không muốn việc học của chúng tôi bị ảnh hưởng.
Bà tôi vẫn tỉnh táo và bình yên trong những giờ cuối cùng của cuộc đời mình. Khi tôi biết được thông tin sáu tháng sau khi bà mất, tôi đã thay đổi cách suy nghĩ về cái chết. Khi chúng ta sống tốt và ra đi thật yên bình, đó chính là một món quà cho chính chúng ta, và cũng là một món quà cho những người chứng kiến cuộc sống và sự ra đi của chúng ta. Món quà của sự vô úy thật sự là món quà lớn nhất mà chúng ta có thể dành tặng cho những người thân yêu.
Tôi nói với bệnh nhân của mình "bà của tôi ra đi trong bình an và thanh thản. Ông cũng có thể chọn cách ra đi an nhiên như thế. Ông hãy nhớ lại tất cả những hồng ân mà ông đã nhận được trong suốt cuộc đời của mình và cảm tạ về những điều đó. Ông có thể ra đi, nhận biết được thời gian của cái chết trong sự an nhiên."
Khi bệnh nhân của tôi được chuyển về nhà, ông ta được tiêm morphine để giảm đau. Ông đã trở nên hoảng hốt và bạo lực. Vợ ông cảm thấy rất sợ hãi và đau buồn. Tuy nhiên, trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, ông đã trở nên sáng suốt, minh mẫn. Bà vợ gọi cho tôi vào ngày hôm sau và nói rằng, "Anh ấy ra đi thật yên lành và thanh bình. Mặc dù không thể nói chuyện với tôi, anh ấy biết tôi đang ở bên cạnh, và điều đó làm tôi rất hạnh phúc! "Ít nhất hai lần cô ấy nói với tôi rằng cô ấy đang hạnh phúc.
Trong khi tu học với tư cách là một sư cô, tôi không cảm thấy rằng tôi đã rời bỏ ngành y. Thật ra, chánh niệm là phương thuốc tốt nhất mà tôi có thể sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của tôi để chăm sóc bản thân mình, và đó cũng là phương thuốc tốt nhất tôi dùng để chữa trị cho mọi người. Tôi không hối tiếc vì đã dành hai mươi bốn năm ở trường rồi sau đó trở thành một sư cô. Không có gì phải hối tiếc khi bạn tận tâm làm việc hết sức. Nếu bạn dồn tâm huyết để làm một việc gì đó, rồi thì cơ duyên khiến bạn chuyển sang một giai đoạn mới, làm một công việc mới, không có gì phải hối tiếc cả. Mỗi khoảnh khắc là một cơ hội để sống và khám phá bản thân.
Việt Dịch: Vi Trần
Đăng lúc: 21:14 - 01/07/2016
Có lẽ, chưa bao giờ chúng ta dễ dàng tiếp cận thông tin, kết nối với “thế giới mênh mông” như hiện nay, chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh, wifi miễn phí hay 3G (mà những thứ này thì quá rẻ), mỗi người có thể tiếp xúc nhanh chóng, hàng giờ, hàng phút các thông tin, hình ảnh trên các trang báo chuyên nghiệp đến những trang “trời ơi”, chuyên đăng tin giật gân, câu view, câu like và cả mạng xã hội cập nhật từng giây...
Anh Van hoa, Phong Chau.jpg
Con người có thể “giết nhau”, đầu độc tâm hồn nhau trên mạng xã hội - Tranh minh họa
Bạn có bối rối giữa... rừng thông tin, bình luận?
Có người nói, đây là “kỷ nguyên chọt chọt” vì liên tưởng tới việc ai cũng cắm cúi vào thế giới rộng lớn ấy thông qua những ngón tay lướt và chỉ chỉ để thao tác các nút like, các câu bình luận - đôi khi ngồi với nhau, là người quen của nhau mà xa cách nghìn trùng vì ai cũng bận lướt Facebook, tám chuyện qua mạng. Ngay cả khi ăn, khi ngủ hay bất kỳ động tĩnh nào trong đời sống riêng tư, trong tâm hồn cũng phải “cúng Facebook”, cũng phải rào rào đưa lên Zalo...
Và một khi có một vụ việc nào đó, như những vụ việc về diễn biến môi sinh đó đây hay những thông tin của giới nghệ sĩ chẳng hạn, dù chưa có một kết luận nào chính thức nhưng các “thánh Facebook” đã ồ ạt có những... kết luận của riêng mình, bàn luận, nổi điên, chuyển tải đủ kiểu thông tin thật giả khiến mỗi ngày mỗi rối rắm (trước tiên cho chính mình). Nhiều vụ khác cũng thế, cư dân mạng sẵn sàng chặt chém vù vù một ai đó, một việc gì đó mà mình chưa biết đầy đủ, nghe ai nói sao thì nói theo vậy (là chính) bởi trong nội dung bàn, bình luận (hay... bình loạn) ấy đã cho thấy sự chưa có hiểu sâu sắc câu chuyện.
Thời đại này, ai không tham gia mạng xã hội có thể nói là... tụt hậu, là bảo thủ, thiếu thông tin, nhưng kỳ thực, khi tham gia lại khiến mình rối hơn, bất an nhiều hơn. Không thể phủ nhận, nhiều nguồn tin quý được nhặt từ mạng xã hội, nhiều bài viết hay, câu chuyện giá trị, tình bạn cao đẹp, thậm chí tình yêu được tìm thấy, nẩy nở, nuôi dưỡng, bước lên đỉnh cao từ chính “thế giới ảo”. Song, những mặt trái, chứa màu đen tối trên thế giới mênh mông này không phải là không có, nhất là giữa đám đông người tham gia - ai cũng muốn nói mà ít người muốn lắng nghe, ai cũng muốn thể hiện bản thân mà ít người có những chia sẻ chân thành, ai cũng manh động và ít có sự bình tĩnh để thấy đa chiều một câu chuyện nào đó.
Thực tế, mạng không là ảo khi nó có tác động tới đời thực của mỗi người. Có những người đã phải chết vì quá xấu hổ do có ai đó tiết lộ bí mật cá nhân, đời tư hay chốn phòng riêng lên mạng. Có những người phải vào tù, bị khởi tố cũng chính vì hành vi thiếu kiểm soát trên chốn “xô bồ” này. Và, có thể chắc chắn một điều rằng, khi bạn lập một trang cá nhân với nickname hoàn toàn xa lạ với lý lịch của mình, mượn ảnh ai đó làm avatar... thì việc bạn phát ngôn đầy tính kích động, xả láng ngôn từ trên chốn công cộng này - nó vẫn tác động tới con người thực của bạn, mỗi ngày và mỗi lần bạn thực hiện hành vi (tưởng không ai biết ấy).
Con người ta thường sống bản năng, buông thả khi họ nghĩ rằng, không ai biết về việc mình làm, cách mình đang sống hoặc nghĩ mình có thể che giấu được chúng bằng những “khuôn mặt khác”, nhất là trong thế giới ảo. Tuy nhiên, hành vi của mỗi người đâu phải chỉ lưu lại trên mạng, hay sẽ bị xóa sổ hoàn toàn nếu không có camera quay lại, không có người thứ hai nào nhìn thấy.
Hành vi bản năng, xấu xí của chúng ta, dù được giấu giếm rất kỹ bằng những tài khoản khác nhau, lạ lẫm trên mạng thì nó vẫn được lưu lại trong tâm hồn mình và ít nhiều gây xáo trộn đời sống của ta. Nó sẽ làm ta phải loay hoay che giấu và dần đi xa con người thật vốn giản đơn, biết giữ mình trong sáng, hay ít nhất cũng biết sợ sự lên án để không làm càng, làm quấy.
Bản thân chúng ta, ai cũng muốn bình yên, tốt đẹp, nhưng rất tiếc, đôi khi vì không kiềm giữ nổi mình trước cám dỗ, nhất là khi được sự “tạo điều kiện” của thế giới ảo - cho phép bản thân ẩn mình an toàn bằng những nickname nào đó, nên ta đã sống bừa bãi hơn, xô bồ hơn, và nghĩ thoáng đến mức đi xa lắc giá trị nhân văn, trong sáng mà mỗi người cần phải giữ, bởi đó là điều kiện tất yếu để có bình yên, để được tôn trọng.
Biến mình thành người dễ dãi trên mỗi bức ảnh, dòng tin, bình luận, chửi bới... trên dòng thời gian là một trong những cách làm cho mình bối rối trước thực tại cuộc sống. Vì, chúng ta không còn bình tĩnh để nhìn sâu sắc, để tìm ra cách giải quyết vấn đề, để cảm thông và thấy được mình cần làm gì để đóng góp; thay vào đó, suốt ngày mình chỉ hoài trách móc số phận, thất vọng với mọi thứ, mất niềm tin với tất cả... (bởi trước đó, đã quá buông thả suy nghĩ của mình trên thế giới mênh mông tuy nhiều người đó nhưng hầu như ai cũng cô đơn với những ốc đảo do mình tự bồi đắp).
Giữa chốn thị phi...
Thời nào cũng có thị phi, cũng có những tin đồn... và con người bị chi phối, bị khổ sở bởi những thứ ấy. Nhưng, có lẽ chưa thời nào bằng thời này, khi công nghệ phát triển, nhà nhà, người người tham gia mạng xã hội, cập nhật tin tức hàng giờ, hàng phút trên internet (như đã nói ở trên), càng khiến cho chốn thị phi nhộn nhịp, rộng mở xuyên biên giới.
Ở đó, có những tin thất thiệt mà cũng khiến người ta... tin sái cổ, như là chuyện bắt cóc trẻ con mới đây chẳng hạn, đã khiến các cơ quan chức năng phải “nói cho rõ” nhằm trấn an dư luận. Rồi những chuyện này nọ hàng ngày, chỉ cần báo đăng (tin chính thức trên báo chính thống) thì sau đó không lâu, cõi “ảo” lại rầm rầm rộ rộ, soi, chiếu, đem kính lúp, kính hiển vi ra để tìm kiếm nhằm bày biện đủ kiểu quan điểm, chủ yếu là “vạch lá tìm sâu”, chê là chính.
Đã không ít lần, tôi đọc được những dòng chia sẻ đầy chán ngán của bạn, rồi của anh, chị, của em... rằng, bây giờ không xài Facebook thì lạc hậu, bị cho là bảo thủ, nhưng chơi rồi mới hay, ở trên đó, người ta làm “thánh” nhiều quá, suốt ngày chỉ trích, xoi mói đời tư, tìm lỗi để ném đá, chứng tỏ mình giỏi, mình lương thiện, trong khi đời thực của họ chưa chắc hay ho gì...
Nhiều người có suy tư về vấn đề (hay vấn nạn) này đã phải đặt dấu hỏi: hình như con người ta ngày càng độc ác hơn, ít biết nhìn cái hay, cái tốt của người khác, của cuộc sống xung quanh, ít biết tha thứ khi cứ muốn kiếm lỗi người khác để làm niềm vui...
Đại ý là như thế. Có một nỗi buồn, sự thất vọng bao trùm trong những dòng ngắn ấy, phản ánh một sự thật là: con người ta kêu gọi sống tốt nhưng ngay cách họ truyền tin, phản ứng với những cái chưa tốt, việc tồn tại của cuộc sống đã cho thấy họ... đang sống xấu rồi. Suy nghĩ tiêu cực và đưa ra những góc nhìn xấu về một con người mà ở đó có chứa phần tốt, điểm đẹp, cái được... là một sự thiếu công bằng, một cách nhìn ác ý.
Đó là chưa nói, có nhiều người trong đầu có tư tưởng “sính ngoại” nên dễ dàng chê bai người trong nước với những lời lẽ thậm tệ, chỉ chờ đợi những tin xấu về người trong nước là đem ra bàn luận, đưa lên “tuyên truyền” như thể cuộc sống chỉ có bấy nhiêu chuyện, và toàn là chuyện xấu. Còn biết bao cái tốt, biểu hiện đẹp sao không đưa lên? Sao lại tự làm cho mình trở nên tiêu cực bằng cách chằm chằm nhìn vào những góc tối và truyền góc tối ấy mà thôi? Trong khi ấy, giả sử cũng với những biểu hiện tương tự, nhưng do người ngoại quốc làm thì có thể dễ dàng được cho qua, thậm chí có cái nhìn ngược lại!
Tôi thấy giữa chốn thị phi mà ở đó, sự giả danh của cái tốt bắt đầu bằng chuyện chửi bới cái xấu chỉ khiến cho đời sống tinh thần mình bị ảnh hưởng không tốt. Do vậy, thiết nghĩ cần cẩn trọng khi bước vào xa lộ thông tin trên mạng xã hội khi có quá nhiều người lạm dụng chốn ấy để xả rác, để bới móc, để khơi gợi những ý niệm không mấy tốt đẹp.
Cần biết bao những lời đẹp từ cuộc sống, những lời thật mà chân thành chớ không phải là những chỉ trích để làm cho xấu mặt người khác, làm cho nhiều người nhìn vào cuộc sống, vào đất nước mình đang sống và thấy chỉ toàn “mặt trái” và thấy “gà nhà bôi mặt đá nhau”.
Nghĩ thế nên tôi tiếp xúc với “chốn thị phi” ấy với sự bình tĩnh, để biết và lướt qua, để còn tập trung vào những điểm sáng khác, để khuyến khích cái tốt được tốt thêm thay vì chỉ là chỉ trích cái xấu, làm cho nó không những không tốt lên mà còn xấu thêm, gây ra hiệu ứng xấu trong suy nghĩ của người khác về cuộc sống, khiến nhiều ngươi rơi rớt niềm tin vào điều tốt đẹp vốn tồn tại song hành bên ta, trong mỗi chúng ta...
An Lạc
Đăng lúc: 23:05 - 24/06/2016
"Duyên xuất gia thì xuất gia, duyên cư sĩ thì vui làm cư sĩ; đừng cố chấp, gồng mình làm theo mà dễ bỏ cuộc. Trên bước đường tu tập thì đừng vội thấy chùa to lớn mà nghĩ nơi ấy là trú xứ của Chánh pháp; đừng vội thấy thầy được đông chúng vây quanh mà nghĩ là minh sư.
Con hãy đi, hãy nhìn, nghe kỹ và ngẫm sâu để biết rằng: đến ngôi chùa dù to hay nhỏ, dù nghèo hay giàu nhưng tới nơi ấy thì được an nhiên, tự tại, chỉ muốn cúi đầu đảnh lễ chư Phật, Bồ-tát, Hiền Thánh Tăng mười phương ba đời thì đó là Tam bảo hiện tiền. Còn nếu gặp vị thầy nào dù có vẻ ngoài sang trọng hay giản dị, con đừng bận tâm việc ấy, hãy xem từ nơi thầy có toát ra sự ấm áp, yêu thương, vỗ về, che chở; là vị thầy mà đáng để mình kính trọng thì đó thật là vị thầy để con đảnh lễ, vui nghe và học theo hạnh tu của người…”.
Ni sư đã nói với tôi những lời ấy khi những năm tôi còn đương trai trẻ, chỉ khoảng 24, 25 tuổi. Lứa tuổi của cống hiến, khả quyết và dễ chạy theo cảnh trần. Những lời nói ấy cứ âm ỉ chảy trong tôi. Và tôi đã đi và thấy đúng như vậy. Hiện Ni sư đã hơn 30 năm miệt mài tuổi đạo, 72 tuổi đời sống vì yêu thương hết thảy và chân chánh.
“Nghe kỹ và ngẫm sâu”, lời Ni sư dạy, chợt đồng hiện trong tôi từ những lời kinh Phật. Lúc nào Ngài cũng bắt đầu cụm từ “các ông hãy chú ý lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Tôi sẽ vì các ông mà nói…”. Như vậy sự chú ý lắng nghe kỹ sẽ đem lại hiệu quả. Bởi có tập trung, có để tâm đến vấn đề hiện tại đang giải nghi hoặc đang đàm luận hoặc đang trên bước đường tu hành thì sẽ thực hành đúng, có vậy mới gặt hái thành công. Nếu không nghe kỹ, không chú ý sẽ nghe nhầm và suy luận lệch lạc. Lúc đó thực hành sẽ sai đường. Vậy thì mê vẫn hoàn mê, chưa thể tri kiến khai ngộ.
Trong một ngày chúng ta nghe rất nhiều thứ âm thanh, mình chạy theo âm thanh ấy để phân biệt đúng sai, tốt xấu để rồi phiền não dấy lên như những cơn sóng biển luôn chồm lên vồ vập. Cái nghe ấy chỉ là nghe của thanh trần bên ngoài, của vọng tưởng, của phân biệt, thị phi cho nên mình buồn, khổ, than oán. Ít khi nghe kỹ, ngẫm sâu để thấy cái nghe thật sự trong tâm trong veo kia. Nghe lời xu nịnh, thêu dệt, nói đôi chiều, nói dối, lời đường mật… thì sẽ gây ra bao cảnh đổ vỡ. Bởi nghe một chiều, nghe không kiểm chứng, nghe không suy sâu xét kỹ thì nghe đó trôi lăn trong vô minh đau khổ. Người từng nhắc với tôi rằng đừng vội nghe cô nói mà con hãy đi xa, đi nhiều, rồi có dịp tiếp xúc và suy xét lại để thực hành cho đúng.
Sau bao năm nửa đời, nửa đạo tôi vẫn thấy sự tu và công phu tu phi thời của Ni sư luôn là hành trang quý báu để mình học theo hạnh nguyện ấy trên bước đường học và hành theo lời Phật dạy. Ni sư ngoài những thời khóa công phu chung thì vẫn luôn dành cho riêng mình thời khóa: kinh Lăng Nghiêm, kinh Vạn Phật, Lương Hoàng Bảo Sám.
Ni sư từng nói rằng: “Lạy Phật bằng niềm tin chân thật. Sám hối nghiệp chướng từ tâm chân thật. Tụng kinh cũng từ tâm chân thật. Trì chú cũng từ tâm chân thật. Ngồi thiền cũng từ tâm chân thật không vọng tưởng mong cầu… thì tất cả sẽ có cảm ứng vậy!”. Mái chùa quê, lời nói của vị Ni sư giản dị mà sâu xa thuần lắng biết bao.
Ni sư xuất thân trong một gia đình giàu có. Mẹ làm nghề kim hoàn, từ nhỏ ăn uống đã có người hầu kẻ hạ, thế nhưng vẫn một lòng quy hướng Phật. Mẹ người từng nói: “Tu khó lắm con ơi!”... Trải qua bao gian khó và bằng ý chí tha thiết mãnh liệt, cuối cùng người đã thực hiện được hạnh xuất gia, theo bước Như Lai giải thoát khổ đau của cảnh huyễn mộng thế gian này.
Chiều nay, tôi nương cái nghe theo tiếng mưa để trở về với âm thanh của tiếng chuông chùa quê mộc mạc, nơi mà tôi từng có lần đã cùng với những bậc hiền trì kinh Pháp hoa. Tôi ngồi im lặng và nghe lại chính mình, nghe lại bản tâm trong veo của mình cũng như những giọt nước ngoài thinh không kia trong trẻo đang tuôn chảy cho đời tươi mát, mặc kệ tiếng khen chê.
Tôi định vấn an Ni sư qua điện thoại, nhưng thôi… và tôi với người đang gọi nhau từ chốn không cùng của vô biên trú xứ để hòa cùng dòng nước mát này ra biển tâm rộng lớn. Tôi thầm nói: Con lạy thầy! Con đã trở về! Thế rồi âm thanh đại hồng chung đang rung trong không gian đặc sệt mưa. Tôi ngồi đó in như bất động mà mặc tưởng công hạnh chư Phật rồi thầm niệm danh hiệu Phật để an trú trong an lạc hiện tại, ngay phút giây này.
Tâm Anh
Đăng lúc: 15:00 - 17/06/2016
Trôi lăn từ muôn kiếp nào. Không nhớ, không biết. Hễ cứ sinh ra thì tiếp tục trôi lăn. Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng. Phải gắng sức học hành, thi cử, làm lụng, lao tâm khổ trí, tốn hao thời gian để có được những thứ ấy. Có khi vì bất tài hoặc vì kém may mắn, phải tìm cách chiếm đoạt từ kẻ khác, nơi khác, làm khổ người để được phần mình. Được rồi thì ăn ngon, ngủ kỹ - những thú vui khác lần lượt xuất hiện, lôi kéo mình vào cuộc sống hưởng thụ xa hoa, không còn nhớ nghĩ đến niềm đau nỗi khổ của người khác.
La Phat tu.jpg
Con Phật là ai? - Là người biết nghĩ điều lành, nói điều lành, làm việc lành. Đơn giản vậy thôi
Một hôm mỏi mệt, dừng bước bên hiên chùa, lắng nghe một bài kinh, nghiền ngẫm một câu pháp. Bất chợt bừng ngộ. Bao nhiêu kiếp đời trầm luân, bao nhiêu năm tháng mê muội, chỉ trong một chớp mắt, tụ thành một mặt trời rực sáng rồi vỡ thành tro bụi rơi xuống thềm không môn. Từ đó quay về với Phật, trọng Pháp, kính Tăng, thấy rõ con đường để cất những bước chân hướng đến giải thoát tối thượng.
Cũng từ đó được mệnh danh là Phật-tử, là con của Phật. Đứa con này được sinh ra từ miệng của Phật, do từ lời vàng của Phật mà hóa sinh. Bởi là con của Phật, biết tự tâm vốn hàm tàng hạt giống của Như Lai, biết mình có thể nương nơi Pháp, dựa nơi Tăng, mà chăm bón và phát triển hạt giống ấy. Nếu hạt giống không có sẵn, dù trải muôn triệu kiếp nỗ lực huân tu, vẫn không thể nào trở thành Phật như Phật.
Nếu không tin và thực hành Pháp, dù trải muôn triệu kiếp kính Phật, vẫn không thể nào trở thành Phật như Phật. Nếu không kính Tăng, không thân cận Tăng mà học hỏi như những bậc thầy thay mặt Phật hướng dẫn dìu dắt mình, dù trải muôn triệu kiếp tin Phật tin Pháp, vẫn không thể nào bước được những bước chân vững chãi đến giác ngộ an vui.
Là con Phật, thật hãnh diện, thật hạnh phúc. Trôi lăn bao nhiêu đời kiếp, học hỏi bao nhiêu đạo sư, chưa thấy ai cho mình niềm tự tin về phẩm tính siêu việt sẵn có, về khả năng thành Phật của mình, như là Đức Phật.
Làm con Phật, chắc chắn sẽ thành Phật. Tin và hiểu thâm sâu điều này, tức là chuẩn bị đầy đủ hành trang cho chuyến viễn trình tiến về Phật quả. Nếu không tin, không hiểu, và không làm những việc phù hợp với phẩm tính Phật của mình, thì dù tại gia hay xuất gia, cũng chỉ là lạm xưng, không thể tự nhận là con Phật.
Bởi vậy trong hiện đời, khi có thể khẳng định mình là con Phật, phải sống như là một người con hiếu.
Hiếu này không phải là phụng dưỡng cha lành, mà chính là chăm bón, tưới tẩm và phát triển hạt giống Phật của mình.
Đứa con hiếu ấy, nếu không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như Chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác; nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quan sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân; nếu không suy nghĩ được như Phật, hãy lắng tâm, tịnh mặc, đừng dấy khởi những ý niệm thị-phi, nhân-ngã, hơn-thua, chỉ gieo khổ đau đến người và làm tiêu mòn công đức của mình.
Con Phật là ai? - Là người biết nghĩ điều lành, nói điều lành, làm việc lành. Đơn giản vậy thôi.
Nguyễn Hoài Nam
Đăng lúc: 22:13 - 31/05/2016
Đức Phật là bậc thầy vĩ đại của chư thiên và nhân loại, những lời dạy của Ngài đem lại những lợi ích lớn lao khi những ai hữu duyên biết lắng nghe, thấu hiểu và thực hành chắc chắn sẽ đem lại hiện tại lạc trú.
Phật dạy người kinh doanh nhanh hưng thịnh
Trong một bài kinh, Đức Phật dạy chúng ta như sau:
"Có bốn bánh xe này, này các Tỷ-kheo, thành tựu với chúng, bốn bánh xe được vận chuyển giữa chư Thiên và loài Người thành tựu với chúng, chư Thiên và loài người không bao lâu đạt đến sự lớn mạnh, tăng thịnh trong các tài sản. Thế nào là bốn? Trú xứ thích hợp, thân cận các bậc Chân nhân, tự nguyện chân chánh, trước đã làm phước."
(Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt Chương IV - Bốn Pháp).
Lời bàn:
Khi các nhân tố như vậy được trưởng dưỡng, phát triển thì sẽ đem lại sự tăng thịnh trong việc làm phát sanh tài vật đến các hàng cư sĩ. Trú xứ thích hợp tạo điều kiện tốt lành cho công việc làm ăn, nơi ấy bình an, ít có tệ nạn xã hội, là các nơi thuận tiện cho việc thông thương buôn bán, khi hữu duyên với những chỗ như vậy thì sẽ tạo nhiều điều kiện khiến cho việc tầm cầu tài sản được thuận buồm xuôi gió. Khi có duyên lành gặp và thân cận được các bậc chân nhân, các vị ấy sẽ tạo cho ta nhiều cơ hội để thăng tiến trong bước đường công danh sự nghiệp cũng như giúp đỡ trong công việc làm ăn, phát triển việc sản xuất, kinh doanh, đây thật sự là một trợ lực lớn lao trong việc tạo ra của cải vật chất. Những ý nguyện chân chánh thường đem lại những kết quả tốt đẹp an vui ngược lại những sở hành bất chánh dù sớm hay muộn quả khổ cũng sẽ đến với chủ nhân tạo tác nên những hành vi như vậy.
Một người thành tựu được trong việc tầm cầu tài sản ngoài tài năng và sự nỗ lực cũng phải có sự trợ lực của phước báu đã gieo trước đây thì mọi việc toan tính mới có thể thuận duyên theo ý nguyện, nếu vô phước thì tính một đằng nó lại ra một nẻo đôi lúc các dự định trên lí thuyết khi áp dụng vào thực tế sẽ gặp nhiều trắc trở chông gai, không sớm thì muộn cũng sẽ dẫn đến chỗ suy vong, thất bại. Đây thật sự là bốn trợ lực hết sức to lớn khiến cho tài sản phát triển và tăng thịnh. NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
Thiện An
Đăng lúc: 22:40 - 26/05/2016
Văn hóa chắp tay: Có đôi lúc những việc làm rất đơn giản trong việc xã giao, nhưng có người lại không để ý đến nó, từng cái chắp tay hay bắt tay, việc ăn mặc khi đến một nơi tôn nghiêm, và thể hiện sự tôn kính đúng chỗ. Chắp tay là nét đẹp truyền thống văn hóa của Phật giáo bật lên tính nhân văn và đặc thù.
Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo
Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân - Ủy viên Bộ chính trị - Chủ tịch Ủy ban Trung Ương MTTQ Việt Nam chắp tay phát biểu tại buổi khánh tuế Đức pháp chủ Hòa thượng Thích Phổ Tuệ tròn 100 tuổi.
Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo
Hình ảnh nhân văn đặc thù trong Phật giáo.
Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chắp tay cúi đầu chúc mừng Đức Pháp chủ nhân mùa Phật đản.
Tổng thống Obama chắp tay chào vị thầy xuất gia trong chuyến thăm tại chùa Phước Hải chiều ngày 24/05 vừa qua. Đây là một nét đẹp truyền thống của Phật giáo khi vị lãnh đạo một nước cường quốc đã thể hiện nét đẹp văn hóa này.
Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo
Người dân Sài Gòn đỗ xô ra đường đón chào vị tổng thống Mỹ. Vì lòng ngưỡng mộ và kính trọng đã cho chúng ta thấy ở hình ảnh hiếm có này.
Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo
Búp sen nở, nụ cười tươi, niềm vui trọn vẹn, cảm niệm tấm lòng của người dân Việt Nam.
Sau buổi gặp gỡ là buổi tiệc nhỏ và chia tay trong niềm vui của những người thân và bạn bè.Hy vọng sau cuộc gặp gỡ này sẽ là tiền đề cho việc thúc đẩy hợp tác mạnh mẽ đôi bên thắt chặt hơn nữa tình hữu nghị và "Tình Con Người" trên Thế giới này lại với nhau hơn, đồng cảm và chia sẽ , lắng nghe giúp
đở nhau hơn . Cuộc gặp gỡ kết thúc tốt đẹp để lại trong vòng tay yêu thương và trí tuệ trong mỗi con Người với nhiều điều tốt đẹp và mang tính Nhân văn.
Người đàn ông quyền lực nhất thế giới Tổng thống Mỹ Barack Obama có cuộc gặp gỡ hai người Phụ nữ quyền lực nhất trong Gia đình. Một người quyền lực nhất trong Quán Bún Chả và người còn lại quyền lực nhất trong Quán Nước Mía ven đường, để có cuộc hội thảo về Chủ đề tính Nhân bản và mang đầy ý niệm giữa tình con người với nhau. Đây là cuộc gặp gỡ thượng đỉnh hợp tác song phương đôi bên cùng có lợi trong không khí hân hoan ,bình dị, gần gủi mộc mạc và thân thiện.
Cúi xuống để vĩ đại
..."Người ta vĩ đại không phải vì người ta lúc nào cũng đứng thẳng, đăm chiêu, mà người ta vĩ đại vì đã biết cúi mình xuống và mỉm cười đúng lúc...."
ST
Doanh Doanh
Đăng lúc: 10:59 - 28/03/2016
Lắng nghe là một phương pháp thực tập quan trọng giúp chuyển hóa thân tâm, là nhịp cầu cảm thông giúp cho ta định tĩnh, sáng suốt khai mở trí tuệ để trải rộng tâm từ chia sẻ nỗi khổ, niềm đau với người khác cùng vượt qua nghịch cảnh và đến gần hơn với hạnh phúc chân thật của chính mình.
VONG PHAP.jpg
Vọng pháp - Ảnh: Trần Thế Phong
Lắng nghe là một gia tài vô tận mà ai cũng có thể dâng tặng cho mọi người. Lắng nghe để hiểu dù điều ấy đã nói ra hoặc chưa nói. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, để lạc quan vui sống.
Hình ảnh Bồ-tát Quán Thế Âm trong Phật giáo được tôn vinh, tán thán với công hạnh lắng nghe, Ngài luôn lắng nghe và chia sẻ, cứu vớt chúng sinh để xoa dịu nỗi đau bất hạnh của muôn loài.
Kính lạy Đức Bồ-tát Quán Thế Âm! Chúng con xin học theo hạnh của Ngài, biết lăng tai nghe cho cuộc đơi bơt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe vơi tất cả sư chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe vơi tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ưng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu đươc những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lăng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bơt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi (Quán nguyện).
Pháp môn của Bồ-tát Quán Thế Âm chính là phương pháp phản văn văn tự tánh (không xuôi dòng đuổi theo âm thanh mà trở ngược lại tánh nghe). Trong cái nghe của Ngài, Ngài chuyển dụng khả năng nghe tiếng bên ngoài, để nghe lại tự tánh nghe của mình. Đến lúc những cái sinh diệt diệt hết thì tánh vắng lặng hiện ra và khi ấy chứng được “nhĩ căn viên thông”, được hai thứ thù thắng: đồng với từ lực của mười phương chư Phật và cảm thông lòng cầu mong thương cứu của chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi.
Xin nguyện học theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm: Nghe để hiểu và giúp người khác nhận diện được nguồn gốc của khổ đau, để giúp người an vui. Lắng nghe để thương yêu tất cả muôn loài.
Khi ta lắng nghe là lúc ta phát hiện ra chính bản thân mình, nghe thấy nội tâm của mình, tâm ta như một dòng sông lúc thì yên ả hiền hòa, lúc thì gập ghềnh thác lũ. Ta nghe để hiểu ta hơn và tìm lại chính mình. Trong dòng sinh diệt bất tận của cuộc đời ta luôn phải mang nhiều vai diễn của cuộc đời và mải mê chạy theo nó rồi chợt nhận ra rằng trong ta còn quá nhiều góc khuất, nhiều mảng sáng tối, thiện ác đan xen với nhiều cung bậc cảm xúc. Lắng nghe để trở về với tự tánh, quay về nương tựa chính mình.
Tự tánh là bản thể của tâm, vốn không sanh, không diệt và ngay đây chủ thể và đối tượng nghe đều không tồn tại. Nghe được tự tánh tức nghe đến tận cùng sâu thẳm của vô thanh, nghe cái tịch nhiên im lặng sấm sét. Ngay đây, phiền não rơi rụng, tuệ giác hiện tiền, thực tại hiển bày “vượt ngoài thế gian và xuất thế gian, sáng suốt cùng khắp mười phương, trên thì hợp với bản giác diệu tâm mười phương chư Phật đồng một từ lực với Như Lai, dưới hợp với tất cả chúng sanh đồng với chúng sanh một lòng bi ngưỡng”.
Học theo hạnh của Bồ-tát Quán Thế Âm là chúng ta thực tập hạnh lắng nghe người khác. Nghe để hiểu sâu hơn, thương nhiều hơn. Chỉ cần lắng nghe thôi thì chúng ta đã “cứu khổ” cho rất nhiều người. Ai trong chúng ta mà không có nỗi khổ, niềm đau! Rồi niềm đau ấy ngày một tích tụ và lớn dần lên khi không tìm ra người hiểu mình để sẻ chia, đồng cảm. Đến khi niềm đau vượt ngưỡng chịu đựng thì sự bùng nổ sẽ thành tai họa. Vì vậy, được một người lắng nghe tâm tư, thấu hiểu nỗi lòng của mình là một niềm hạnh phúc. Lắng nghe mình và người khác để hiểu và thương nhằm xây dựng hạnh phúc chính là từ bi, ban vui cứu khổ, là học theo hạnh nguyện của Đức Bồ-tát Quán Thế Âm.
Cuộc sống với các đặc điểm của xã hội hiện đại đã biến con người thành những ốc đảo, dù có thể kết nối, liên lạc với mọi người ở khắp nơi trên thế giới, song con người ngày càng cô đơn hơn bởi sự bế tắc, không hiểu được nhau giữa những người thân trong gia đình và khoảng cách thế hệ trong xã hội. Những “hội chứng” của tuổi trẻ như facebooks, game online... hay buồn bã, bi quan của tuổi già cùng tất cả những biểu hiện suy đồi, thực dụng, tiêu cực của đời sống hiện đại phải chăng là phản ứng khi không được chia sẻ và cảm thông.
Thực tập hạnh lắng nghe trong Phật giáo có thể chuyển hóa và trị liệu những “hội chứng” này, giúp con người xích lại gần nhau, hiểu và thương nhau hơn và đó cũng chính là giọt nước cam lồ của Đức Bồ-tát Quán Thế Âm ban rải cho tất cả muôn loài.
Người ta chỉ có thể mất ba năm để học nói nhưng phải mất cả đời để học hạnh lắng nghe mà chưa chắc đã tròn. Hãy mở rộng lòng mình đển đón nhận chuyển hóa những những khổ đau mà chúng ta đang lắng nghe. Chúng ta chỉ cần trở về với giây phút hiện tại đừng suy nghĩ về quá khứ, đừng lo lắng cho tương lai.
Danh hiệu Quán Thế Âm là lắng nghe những âm thanh khổ đau trong cuộc đời mà đến cứu độ. Mỗi chúng ta đều có những niềm riêng và rất muốn được chia sẻ cùng với người thân, người mà biết lắng nghe ta và thấu hiểu làm ta sung sướng, hạnh phúc vô ngần. Người chỉ ngồi lắng nghe ta thôi đã mang đến cho ta thật nhiều hạnh phúc, làm vơi đi bao nhiêu phiền muộn. Vậy thì sao ta lại không lắng nghe để đem đến hạnh phúc cho người? Phải lắng nghe với tất cả tấm lòng chân thành thì người chia sẻ với ta mới cởi mở và trút bỏ được những phiền muộn, lo lắng. Sự chú tâm, thành khẩn lắng nghe của ta đã tạo ra sự tin cậy và tháo gỡ rất nhiều những uẩn khúc mà người thân của ta đang phải ôm ấp, chịu đựng.
Lắng nghe để giúp người bớt khổ là cả một nghệ thuật. Phải nghe với sự chú tâm bằng tất cả trái tim và tấm lòng rộng mở của mình để cho người khác được sẻ chia, bày tỏ với niềm tin yêu trọn vẹn.
Khi ta lắng nghe với sự chú tâm, ta sẽ đón nhận và hiểu được rất nhiều điều qua ánh mắt, hơi thở, lời nói và các hành vi mà người nói đang chia sẻ... qua đó ta có thể hiểu sâu hơn và giúp cho người bớt khổ. Chỉ có lắng nghe trong sự chú tâm, lắng nghe bằng tất cả tấm lòng mới có được khả năng này. Chỉ cần sự hiện diện của ta là năng lượng bình an đã được lan tỏa tới người cần được chia sẻ. Cảm nhận và thấu hiểu có thể không cần nhiều đến ngôn ngữ mà từ trong tâm giao tiếp với nhau.
Quán chiếu sâu sắc vào hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta thấy ngay rằng những hóa thân của Ngài đang ở quanh ta, hiện diện đầy đủ trong mọi khía cạnh cuộc đời. Hạnh lắng nghe để cứu độ chúng sinh của Ngài là luôn lắng nghe để hiểu dù điều ấy đã nói ra hoặc không nói, lắng nghe mà người kia trút bỏ được ưu phiền, trở nên an vui đó cũng chính là hạnh phúc chân thực.
Hiện nay có rất nhiều người loay hoay đi tìm lẽ sống, hoặc mải mê đi tìm những thú vui tạm bợ của thế gian và đến một ngày tất cả đều khổ đau với cái thú vui giả tạm đó mà quên mất quay về nương tựa bản thân mình để lắng nghe những nỗi khổ niềm đau trong ta, nên hạnh phúc cứ mãi xa vời. Hãy quay trở về bên trong nội tâm để thực tập trau dồi, tăng thêm năng lượng, để dung hòa sự bình yên trong cuộc sống, chăm sóc nuôi dưỡng lòng yêu thương của mình với mọi người xung quanh, để thấy sự sống của thiên nhiên đang tiếp diễn biểu hiện sinh diệt thay cho một đời người.
Trong đạo Phật, có những phương pháp thực tập rất đơn giản đó là: “Phản quan tự kỷ bản phận sự, bất tùng tha đắc” (Quay lại tự tâm chính mình và không tìm cầu ra bên ngoài), để có được niềm an vui, đó chính là con đường chánh niệm giúp cho ta vui sống trọn vẹn trong phút giây hiện tại và là chìa khóa để thành công trong cuộc sống.
Pháp môn Tri vọng là phương pháp đối trị vọng tưởng khi tọa thiền hoặc khi đối duyên xúc cảnh, niệm khởi lên liền biết đó là vọng tưởng, không bị nó lôi dẫn, không chạy theo, vọng tự nhiên biến mất, chỉ cần rõ biết ngay lúc đó tâm an hiện tiền, ngay đó là giác tỉnh. Khi vọng tưởng lặng dứt thì tự tánh hiện bày. Tất cả các phương pháp thực tập này đều quay về quán chiếu với phương pháp phản văn văn tự tánh nương theo hạnh lắng nghe của Ngài Quán Thế Âm.
Đôi khi dừng lại chúng ta mới có thể nhìn và nghe được những thanh âm trong cuộc sống, của nỗi niềm hạnh phúc hay muộn phiền của chính bản thân mình và của những người xung quanh. Đừng để cho sự âu lo vây kín cả cuộc sống mình. Có bao giờ ta đã thật sự lắng nghe ta? Có bao giờ ta đã chân thành lắng nghe người? Một ngày, bạn nên dành một ít thời gian như thế. Rất nhiều người cần một người bạn thật vững chãi chỉ để lắng nghe thôi, lắng nghe và thấu hiểu để tình yêu thương được mở rộng khắp muôn nơi. Đó chính là an lạc và thảnh thơi.
Xã hội ngày nay đang trong thời đại @, mọi sự liên lạc cá nhân đều như chớp nhoáng, vội vã, tất cả đều trong một cuộc sống bận rộn và nhiều khi chúng ta không thể kiểm soát nổi chúng dẫn đến sống ảo và ôm vào lòng mình sự cô đơn tuyệt vọng.
Bên cạnh sự phát triển của xã hội thì còn có những mặt trái tồn tại như sự suy đồi về văn hóa, sự bế tắc trong cuộc sống dẫn đến những tệ nạn gia tăng bởi những nỗi niềm, suy nghĩ riêng không được giải tỏa, không được chia sẻ, không có sự truyền thông trong tư tưởng với những người xung quanh, và vẫn còn nhiều những góc khuất của cuộc đời cần được sự chia sẻ, lắng nghe của người thân.
Cuộc sống hiện tại có quá nhiều áp lực, công việc bộn bề với những điều không được hài lòng, vừa ý, nên ta dễ dàng mất bình tĩnh mà không làm chủ được bản thân, nhất là khi bị mất mát, đau thương bất ngờ về vật chất lẫn tinh thần. Trong những lúc như vậy, tâm ta rối bời, hoảng loạn, mất sự định tĩnh và khát khao có một người bên cạnh để sẻ chia, để lắng nghe. Chỉ cần một thái độ cảm thông, lắng nghe chân thành cũng làm cho ta vơi bớt nỗi đau bất hạnh. Được lắng nghe và biết chia sẻ nỗi đau của người khác là chúng ta đang thực tập hạnh cứu khổ ban vui của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Một gia đình đang phải chịu đau khổ chỉ vì cha mẹ chưa chịu lắng nghe con, luôn áp đặt, cấm đoán và dẫn đến hành vi trốn học của con để ra ngoài chơi game…, và điều gì sẽ xảy ra sau đó không ai có thể lường trước được.
Ví dụ trên đây chỉ là một điển hình, nếu cha mẹ biết lắng lòng, bình thản thì ta sẽ nghe được thấu suốt tâm tư của con và giúp con bình an trước những suy nghĩ của chúng và định hướng phát triển cho con trong cuộc sống.
“Có một cháu bé đã đi chơi cùng bạn không xin phép mẹ và không một lời giải thích khi đi. Nhưng khi về nhà người mẹ chỉ nhìn con và nói:
- Tại sao lại làm thế hả con?
Và cháu bé đã nhận ra tình cảm của mẹ mình và điềm nhiên hỏi lại:
- Thưa mẹ, có thực sự là mẹ muốn biết không?
Bà mẹ gật đầu và cô con gái bắt đầu tâm sự. Lúc đầu cô bé còn ngần ngại nhưng sau đó cháu đã nói ra hết suy nghĩ của mình…
Và người mẹ chợt nhận ra rằng mình đã chưa bao giờ thực sự lắng nghe con, lúc nào cũng bảo con phải làm cái này không được làm cái kia. Khi con muốn kể những suy nghĩ, tình cảm của mình thì mẹ lại ngắt lời bằng những mệnh lệnh khác. Lắng nghe con nói bà bắt đầu hiểu ra, rằng con rất cần đến mình, nhưng không phải như một bà mẹ luôn tỏ ra quyền uy từ trước tới giờ mà như một người bạn để nó có thể tâm tình, một nơi để thổ lộ tất cả những suy nghĩ của tuổi mới lớn. Sự đồng cảm, chia sẻ thực sự xuất hiện và mối quan hệ của hai mẹ con đã tốt hơn hẳn và cháu lại là cô bé dễ thương của bà như ngày nào”.
Chúng ta lắng nghe, tức là sự yên lặng sâu sắc của trái tim hiểu biết mà Bồ-tát Quán Thế Âm đã trao cho mình. Ta lắng lòng để nghe, nghe thật sâu vào từng nhịp thở của con tim, thì những giận hờn, bực tức không thể phát sinh mà hoàn toàn được chuyển hóa. Ta học và tu theo hạnh lắng nghe để mình và người sống bình yên, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.
Cho nên, khi lắng nghe ta phải hiểu thấu chính mình thì mới nghe được trong sâu thẳm con tim, mà biết cách làm vơi bớt nỗi đau, để ta và người có sự cảm thông và càng yêu thương nhau. Im lặng để nghe. Lắng nghe để hiểu. “Hiểu càng rộng, thương càng sâu”. Từ sự lắng nghe để thấy rõ chơn vọng của cuộc đời, thấy rõ nhân quả nghiệp báo của mọi sự việc. Lắng nghe là một phép lạ để khám phá sự thực của mỗi tâm hồn. Chỉ cần im lặng và lắng nghe, mỗi chúng ta sẽ đều trở thành hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Như thế, chúng ta có thể làm cho trần gian cạn vơi đi những khổ đau phiền muộn rất nhiều.
Hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm giúp cho chúng ta vun bồi những hạt mầm yêu thương, trái tim bao dung và độ lượng được tưới tẩm và dần lớn lên đơm hoa kết trái. Nguyện cầu Đức Bồ-tát Quán Thế Âm chứng minh và gia hộ cho tất cả chúng con thực tập hạnh nguyện lắng nghe của Ngài được thành tựu viên mãn.
Đông Phong
Đăng lúc: 10:58 - 28/03/2016
Một con cú già khôn ngoan sống ở cây đa. Nó càng nhìn thấy sự đời thì càng ít nói. Mà nó càng ít nói thì lại lắng nghe nhiều. Tại sao mình lại không như con cú già khôn ngoan kia? (Khuyết danh).
bo-tat-QTa.jpg
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian...
Khi còn bé thơ, chúng ta được dạy ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Và càng nói nhiều thì đó là dấu hiệu phát triển bình thường. Nhưng ít khi nào chúng ta được dạy phải biết lắng nghe. Và phần nhiều, cha mẹ, thầy cô, các bậc phụ huynh, v.v… không để tâm nhiều đến chuyện dạy dỗ cách biết lắng nghe. Tất nhiên, cha mẹ hay các thầy cô có dạy mình phải biết nghe lời. Nhưng ít khi chúng ta được dạy cách biết lắng nghe cho đúng.
Thường khi trong một cuộc đối thoại, chúng ta muốn người đối diện nghe ý kiến của mình muốn phát biểu, hay diễn đạt hơn là mình nên lắng nghe ý tưởng của họ. Nếu đã là vậy, rõ ràng không có sự lắng nghe xảy ra. Mà hễ không có sự lắng nghe, hiểu và cảm thông sẽ không bao giờ được thiết lập. Vợ chồng thường hay gặp phải tình cảnh này, nên có câu nói chọc cười: ‘Ngày xưa chồng nói vợ nghe. Bây giờ chồng nói vợ chê lắm mồm’. Cho nên, biết lắng nghe là nhịp cầu nối đầu tiên cho sự hiểu biết, cảm thông.
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, sở dĩ Ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp, nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ-tát, Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.
Nhiều kinh điển nói về công hạnh của Bồ-tát, về sức uy thần diệu dụng của Ngài, thường hiện thân khắp nơi cứu giúp người đang đau khổ trên trần gian. Nhưng để tu tập theo hạnh nguyện từ bi, cứu khổ của Ngài, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu thêm một số chi tiết về những hạnh nguyện đó.
Trong kinh Pháp hoa nói Ngài thường thị hiện 33 hóa thân. Nhưng theo thiển ý, chắc đây là con số tượng trưng. Ngài được mô tả là một vị Bồ-tát luôn hóa thân cứu khổ mọi loài chúng sinh. Ngài hóa thân là một hiện tượng đặc thù theo tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’, biểu lộ tấm lòng đại từ bi, không phân biệt kẻ thân, người sơ, kẻ thâm tín, người hoài nghi, thậm chí người vô thần, ngoại đạo.
Hiện tượng hóa thân nói lên sự thấu hiểu và cảm thông thật sâu sắc nỗi sợ hãi, mối ưu lo của chúng sinh trong thế giới đảo điên, mộng tưởng. Để được tiếp cận với một chúng sinh đang đau khổ, Ngài hiểu rõ rằng một người xa lạ, dù là một Bồ-tát, sẽ khó có thể đến gần để chúng sinh kia được giãi bày nguồn cơn nỗi khổ của mình.
Theo kinh nghiệm đời thường cho thấy, khi chúng ta đang đau khổ hoặc phiền não mình chỉ muốn chia sẻ với ai biết lắng nghe, thông cảm, và không có ý phê phán, bình phẩm về những điều mình đã làm sai, hay tâm tình mình đang giãi bày, thổ lộ. Và thường mình muốn chia sẻ với người quen biết, dễ thương, hoặc người nào tôn trọng ý tưởng và tình cảnh của mình. Nếu hiểu được điều này, chúng ta có thể đóng vai sứ giả của Đức Quán Thế Âm, lắng nghe mà không phê bình, chỉ trích để giúp làm vơi nỗi khổ của người.
Thật ra, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng làm sứ giả Quán Âm, và muốn thành tựu vai trò này đòi hỏi mình phải biết lắng nghe.
Nhưng biết lắng nghe là một nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải quên mình đi mà chỉ biết nghe người kia đang nói gì. Biết lắng nghe đòi hỏi mình phải biết lắng đọng tâm tư để nghe rõ thông điệp của người mình đang đối diện. Cái bi kịch thường hay xảy ra cho chúng ta là khi mình muốn học hạnh lắng nghe nhưng cứ mỗi khi nghe xong câu chuyện mình lại diễn dịch nó qua lăng kính kinh nghiệm của bản thân, giống như mình nhìn thấy một sự kiện qua cặp kính màu của mình, nên thay vì hiểu và cảm thông, chúng ta lại chỉ trích hay phê phán người đối diện là dở cái này, thiếu cái nọ.
Do đó, hành động lắng nghe của mình bị thất bại. Nếu chúng ta biết lắng nghe qua tâm hạnh từ bi như Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta biết tôn trọng ý tưởng của người nói và lắng nghe cho kỹ những nỗi khổ đau mà họ đang trải nghiệm, thì công sức lắng nghe của mình sẽ chắc chắn mang lại một kết quả tốt và có thể sẽ làm vơi đi nỗi khổ của người.
Ngoài việc hóa hiện các thân để cứu độ, Ngài còn có khả năng làm cho chúng sinh hết lo sợ (vô úy thí). Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn có nêu lên 14 hoàn cảnh, những trường hợp tượng trưng, mà Ngài đã vận dụng năng lực vô úy để cứu độ. Năng lực vô úy là một khả năng đặc thù mà chỉ có những ai thật định tĩnh, tự tin, và từ bi vô hạn mới có thể làm được. Như một bà mẹ thương con vô cùng mới có thể làm con mình yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm. Sở dĩ chúng ta cảm thấy an lòng, không hoảng sợ, kinh hoàng trước sự hiện diện của Bồ-tát Quán Thế Âm vì Ngài sẵn lòng hy sinh bản thân để cứu độ mọi người.
Chúng ta cũng đã từng nghe qua năng lực vô úy này được các thiền sư thể hiện, như trong câu chuyện sau: Trong thời nội chiến ở Triều Tiên, một vị tướng soái dẫn quân đánh chiếm hết vùng này đến vùng kia, hủy diệt hết những gì cản trở bước tiến của ông ta. Dân chúng trong thành biết đoàn quân của vị tướng đang đánh tới, và nghe tiếng tàn bạo của ông ta nên mọi người đều trốn lánh vào vùng núi cao.
Vị tướng tiến chiếm thành không người và ra lệnh quân lính tìm kiếm dân trong thành khắp nơi. Vài người lính trở về báo cáo chỉ có một thiền sư còn ở lại. Vị tướng quân liền vội vã đến chùa, đi thẳng vào bên trong, rút gươm ra, và nói: “Lão thầy chùa kia, ông không biết ta là ai sao? Ta là người có thể thản nhiên lấy mạng của ông không chớp mắt”. Vị thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông tướng soái và bình thản trả lời: “Và tôi, thưa ngài, là người có thể để ngài lấy đầu mà cũng không chớp mắt”. Vị tướng quân nghe xong, liền cúi đầu và bỏ đi.
Sợ hãi là bản năng của con người, ai sinh ra cũng có. Nhưng các bậc thánh, hay như người căn tính yếu kém như chúng ta, nếu biết tu tập tinh chuyên và có lòng từ bi vô lượng, đều có khả năng, không những vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, mà còn khéo giúp người khác an tâm, không lo sợ. Tu tập hạnh từ bi có khả năng giúp mình vượt qua khổ hải và cũng giúp được người vơi bớt khổ đau. Vậy muốn có được năng lực vô úy thì chúng ta không thể thiếu hạnh từ bi.
Tuệ giác của pháp môn lắng nghe, không chỉ nằm trong việc lắng nghe âm thanh, lời nói, ngôn ngữ của người đối diện, mà còn vận dụng hết cả thân tâm mình từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và cả ý căn, để hiểu thấu và thấy rõ từ cử chỉ, hành vi, và sắc diện của họ đang nói lên những gì, mà lời nói, ngôn ngữ chưa diễn đạt, trình bày được hết ý của câu chuyện.
Chỉ cần vận dụng một phần ba (1/3) năng lượng của tuệ giác lắng nghe là chúng ta đã có thể giúp vơi đi nỗi khổ của người khác nhiều lắm rồi. Nhưng tiếc thay, đa số chúng ta thích nói hơn là thích nghe nên năng lượng của tuệ giác lắng nghe ít khi được sử dụng. Sở dĩ, mình thích nói hơn lắng nghe vì bản ngã, hay cái ta, đóng vai trò lớn trong việc thể hiện tầm quan trọng của bản thân, con người mình. Không ai muốn đóng vai trò ‘thấp cổ, bé miệng bao giờ!’. Hiểu rõ được điều này và phải vận dụng nhiều công phu tu tập mới có được chút khả năng lắng nghe vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Nhân ngày lễ vía của Đức Bồ-tát, chúng ta hãy cùng nhau vận dụng hết năng lực của mình để nhất tâm tu tập nguyện noi theo công hạnh của Ngài và để xứng đáng làm một sứ giả của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Tháng 10-2015
Tuệ Nghiệp
Đăng lúc: 21:41 - 08/12/2015
Quan sát cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy đời người mong manh, nay còn mai mất, vô thường nhanh chóng chẳng chừa ai. Không ít người vội ra đi mà không gieo trồng được chút phước nào, hoặc mang theo bao ý niệm tốt đẹp mong muốn sẻ chia mà chưa làm kịp. Rốt cuộc tài sản do mình làm ra tứ tán, trong khi hành trang phước báo lại rỗng không.
Hai thương nhân Trapusha và Bhallika dâng cúng phẩm lên Đức Phật - Tranh minh họa
Có người tỉnh sáng hơn, thấy rõ vô thường nên lập hạnh sẻ chia, dù không phải là giàu có, dư dật. Tùy duyên chia sẻ một phần những gì mình có được luôn mang lại an vui cho người thân và cho mọi người. Ngoài ra, hạnh hoan hỷ bố thí cũng là cách vun bồi cho hành trang phước báo đủ đầy ở trời, người của những kiếp lai sinh.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Đời có hai người không biết chán đủ mà bị mạng chung. Thế nào là hai người? Nghĩa là người được tài vật hằng cất giấu và người được vật mà thích cho người. Đó là hai người không biết chán đủ mà bị mạng chung.
Bấy giờ có Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Thế Tôn! Chúng con không hiểu nghĩa chỉ nói sơ lược này. Thế nào là được vật mà cất giấu? Thế nào là được vật mà cho người? Cúi mong Thế Tôn diễn rộng nghĩa này.
Thế Tôn dạy:
- Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nghĩa này.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn.
Bấy giờ Phật dạy các Tỳ-kheo:
- Ở đây có người tộc tánh, học các kỹ thuật, hoặc tập làm ruộng, hoặc tập thư sớ, hoặc tập kế toán, hoặc tập thiên văn, hoặc tập địa lý, hoặc tập bói tướng, hoặc tập đi sứ phương xa, hoặc làm vương tá, chẳng tránh lạnh nóng, đói rét, cần khổ để tự mưu sống. Người ấy bỏ ra công sức này mà được tài vật, người ấy không dám ăn xài, cũng không cho vợ con, cũng chẳng cho nô tỳ, những người thân thuộc, cũng đều chẳng cho. Tài vật của người ấy hoặc bị vua cướp đoạt, hoặc bị giặc giã, hoặc lửa cháy, nước cuốn, phân tán chỗ khác, chẳng được lợi ích, hoặc ngay trong nhà có người phân tán tài vật này chẳng giữ mãi được. Đó là, này Tỳ-kheo, người được tài vật mà che giấu.
Còn, thế nào là được tài vật mà phân phát? Có người có tộc tánh, học các kỹ thuật, hoặc tập làm vườn, hoặc tập thư sớ, hoặc tập kế toán, hoặc tập thiên văn, địa lý, hoặc tập bói tướng, hoặc học làm sứ phương xa, hoặc làm vương tá, chẳng tránh lạnh nóng, đói rét, cần khổ mà tự mưu sống. Người ấy ra công sức này mà thu hoạch tài vật, họ ban phát cho chúng sanh, cấp cho cha mẹ, nô tỳ, vợ con, cũng cấp rộng đến Sa-môn, Bà-la-môn, tạo các công đức, trồng phước cõi trời. Đó là, này Tỳ-kheo, được vật mà bố thí. Đó là, này Tỳ-kheo, hai người không biết chán đủ. Như người trước, được vật mà cất chứa, các Thầy hãy nhớ xa lìa. Người thứ hai được vật mà bố thí rộng rãi, các Thầy nên học nghiệp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Tàm quý,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.260)
Rõ ràng, nếu “được tài vật mà che giấu, không biết chán đủ” thì mất phước. Mình và người thân không được hưởng thành quả lao động mà đáng ra họ được hưởng. Không chỉ có thế, sự cất chứa tài vật khiến tâm tham ái nặng nề thêm. Khi ra đi, tài vật cũng theo về nhà khác. Ngược lại, nếu “được tài vật mà phân phát, không biết chán đủ” thì được phước. Hiện đời an vui và những đời sau cũng được an vui.
Thế Tôn đã chỉ rõ hai hạng người không biết chán đủ: Hạng người được tài vật mà che giấu và hạng người được tài vật mà phân phát. Ngài dạy, nên xa lìa hạng người trước và nên học tập hạnh bố thí rộng rãi của hạng người sau. Thế nên, người đệ tử Phật luôn tùy duyên tu hạnh thí, một trong những hạnh lành căn bản (tín, văn, giới, thí, tuệ) để đời này và đời sau luôn hạnh phúc, an vui.
Quảng Tá
Đăng lúc: 21:20 - 06/12/2015
Tối qua, 5-12, tại Vạn Phật Quang - Đại Tòng Lâm (H.Tân Thành), Hội thảo Hoằng pháp toàn quốc 2015 do Ban Hoằng pháp T.Ư phối hợp với BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đăng cai tổ chức đã chính thức khai mạc.
Lễ khai mạc được truyền hình trực tiếp trên Đài Phát thanh-Truyền hình tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Nghi thức niệm Phật bắt đầu lễ khai mạc hội thảo
Chư tôn giáo phẩm HĐCM, HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS cùng chư tôn giáo phẩm HĐTS, Ban Hoằng pháp T.Ư đã quang lâm chứng minh buổi lễ với sự tham dự của hơn 1.200 đại biểu là chư tôn đức Tăng Ni thuộc Ban Hoằng pháp các tỉnh, thành hội Phật giáo trong cả nước và 1.000 hoằng pháp viên cùng đông đảo Phật tử.
Ông Trần Tấn Hùng, Phó ban Tôn giáo Chính phủ; lãnh đạo các bộ, ngành trung ương, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và chính quyền địa phương đã đến dự và chúc mừng.
Sau nghi thức đón tiếp, niệm hồng danh chư Phật, chào quốc kỳ, quốc ca; các em Phật tử tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã trân trọng dâng hoa cúng dường lên chư tôn đức, quý đại biểu với mong ước hội thảo sẽ thành công tốt đẹp.
HT.Thích Bảo Nghiêm phát biểu khai mạc
Phát biểu khai mạc hội thảo, HT.Thích Bảo Nghiêm, Phó Chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Hoằng pháp T.Ư đã chào mừng chư tôn giáo phẩm và đại biểu, đồng thời cho biết, sau khi thành đạo, Đức Phật thành lập Tăng đoàn cũng không ngoài chủ đích là hoằng pháp.
“Trước khi chư Tăng lên đường hoằng pháp, Ngài nhắn nhủ: “Hãy ra đi, các Tỳ-kheo, đem lại sự tốt đẹp cho nhiều người. Vì lòng từ bi hãy đem lại sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và nhân loại. Mỗi người hãy đi một ngã. Này hỡi các Tỳ-kheo, hãy hoằng dương giáo pháp, toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, toàn hảo ở đoạn cuối, toàn hảo cả hai, nghĩa lý và văn tự”, HT.Thích Bảo Nghiêm nhắc lại.
Nhìn nhận về những gì đang diễn ra, HT.Thích Bảo Nghiêm cho rằng sự hội nhập và phát triển bao giờ cũng tồn tại song song trên hai mặt của một vấn đề, cơ hội và thách thức, tích cực và tiêu cực, nói theo quan điểm Phật giáo đó là thuận duyên và nghịch duyên.
Hòa thượng nói, cơ hội là được sống trong một đất nước thái bình, yên ổn và đang phát triển, được quần chúng tin tưởng, được nhà nước hỗ trợ tối đa trên mọi phương diện để chúng ta tu học và hoằng pháp. Còn thách thức chính là những rào cản, những trở ngại khách quan do tác động xã hội như sự du nhập các nền văn hóa ngoại lai, sự bùng nổ thông tin đa chiều và nhiều vấn nạn phát sinh từ nền kinh tế thị trường, sự chủ quan của chính chúng ta khi đang đối mặt trước sự cám dỗ của thế giới vật chất, xu hướng thời đại mà khả năng khống chế dục vọng nơi bản thân lại bị giới hạn.
Từ đó, vị đứng đầu ngành Hoằng pháp cả nước nhìn nhận - để công cuộc hoằng pháp thành tựu một cách viên mãn thì các nhà hoằng pháp phải thật quyền xảo, dùng trí tuệ bi mẫn chuyển hóa những nghịch duyên ấy thành những thuận duyên, chuyển đổi những mặt tiêu cực thành tích cực.
“Trên bước đường truyền bá chân lý của đạo Phật, dù thời đại nào, bối cảnh nào thì tinh thần và nội dung hoằng pháp cũng luôn gắn liền với hai yếu tính căn - cơ của Phật giáo, đó là khế cơ và khế lý. Khế cơ là phù hợp với trình độ nhận thức của nhân sinh, với tập quán và hoàn cảnh lịch sử. Khế lý là phù hợp với chân lý mà Đức Phật đã giác ngộ. Nếu hoằng pháp trên tinh thần này thì dù bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện sống nào, cốt tủy thâm sâu của Phật pháp cũng luôn phong phú mà uyển chuyển, diệu dụng mà bất biến, không đi ngược với chân lý, không lỗi thời và lạc hậu”, Hòa thượng khẳng định.
Ngoài ra, theo Hòa thượng, hoằng pháp còn là công tác nhân bản, bởi nó nhắm thẳng vào con người để xây dựng con người hoàn hảo, nên muốn công tác hoằng pháp đạt được hiệu quả như mong muốn thì bắt buộc nhà hoằng pháp phải thấu hiểu đối tượng mà mình trực tiếp hướng đến trên tinh thần tùy duyên bất biến của Đạo Phật.
Dịp này, HT.Thích Bảo Nghiêm cũng đề cập đến các hoạt động của hội thảo năm 2015, chủ đề “Sứ mạng hoằng pháp - Hội nhập và phát triển”. Song song các chuyên đề thảo luận sẽ là những chương trình mang tính giáo dục, xã hội và nhân văn rất cao như: tổ chức văn nghệ, triển lãm văn hóa Phật giáo, ẩm thực, truy niệm các anh hùng liệt sĩ…; đặc biệt là khóa tập huấn hoằng pháp viên cho đối tượng Phật tử.
“Bởi lẽ, vấn đề hoằng pháp ngày nay không chỉ dành riêng cho hàng tu sĩ xuất gia, mà là cho tất cả người đệ tử Phật. Như vậy, đây chính là trách nhiệm chung, là việc làm cao cả để duy trì mạng mạch của Phật pháp. Nhân tố trở thành một hoằng pháp viên ưu tú, thì hàng cư sĩ Phật tử phải có kiến thức Phật pháp, tư cách đạo đức tốt và am tường các chính sách, chủ trương của Đảng, nhà nước. Để đạt được điều này, người cư sĩ trước hết là những tấm gương sáng mẫu mực trong cuộc sống gia đình, định hướng cho con em một đời sống đạo đức và một lối sống lành mạnh. Vì vậy, quý Phật tử sẽ là một người khá quan trọng trong sự nghiệp hoằng pháp”, Hòa thượng nhấn mạnh.
Từ đó, HT.Thích Bảo Nghiêm mong rằng các đại biểu sẽ dành thời gian, tận tâm tìm giải pháp giải quyết các vấn đề xã hội đang quan tâm, phát huy những cơ hội thuận duyên và đưa ra những phương thức giải quyết các vấn đề thách thức của xã hội theo quan điểm của Phật giáo, nhằm góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
HT.Thích Quảng Hiển phát biểu chào mừng
Ngay sau đó, thay mặt BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, HT.Thích Quảng Hiển, Trưởng ban đã phát biểu chào mừng và cho biết đây là lần đầu tiên tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tổ chức sự kiện trọng đại, được đón tiếp nhiều chư tôn đức giáo phẩm Tăng Ni khắp mọi miền đất nước quang lâm.
“Đây là niềm vinh dự của Phật giáo tỉnh nhà và chúng tôi rất lấy làm hoan hỷ khi được cung đón chư tôn giáo phẩm lãnh đạo các cấp Giáo hội, chư tôn đức Tăng Ni, chư vị khách quý trung ương, tỉnh nhà và hơn hai vạn đồng bào Phật tử trong cả nước. Chào mừng quý vị đến với nơi năng động, có nhiều tiềm lực kinh tế to lớn và nhân nghĩa, đến với những tu sĩ của vùng đất thân thiện và ấn tượng, chân tình và chịu khó”, HT.Thích Quảng Hiển trân trọng chào mừng.
Dịp này, các đại biểu còn được lắng nghe phần báo cáo công tác tổ chức của TT.Thích Huệ Thông, UV HĐTS, Phó ban kiêm Chánh Thư ký Ban Hoằng pháp T.Ư; tham luận “Sứ mệnh hoằng pháp - Hội nhập và phát triển” của HT.Thích Tấn Đạt, UVTT HĐTS, Phó ban Thường trực Ban Hoằng pháp T.Ư; phát biểu của chính quyền tỉnh BR-VT và Ban Tôn giáo Chính phủ cùng đạo từ của Ban Thường trực HĐTS GHPGVN.
HT.Thích Thiện Nhơn trao tặng lẵng hoa chúc mừng
TT.Thích Huệ Thông
...và HT. Thích Tấn Đạt báo cáo, đọc đề dẫn
Ngay tại buổi lễ, Ban Tổ chức đã trao tặng 10 căn nhà tình thương đến đồng bào khó khăn và 200 suất học bổng đến học sinh hiếu học của tỉnh. Đại diện Ủy ban MTTQ tỉnh nhận phần quà tặng này.
Lễ khai mạc khép lại bằng phát biểu cảm tạ của HT.Thích Giác Hạnh, Phó BTS kiêm Trưởng ban Hoằng pháp PG tỉnh BR-VT.
Các em Phật tử dâng hoa cúng dường
Ban Tổ chức chứ tặng quà từ thiện và học bổng cho học sinh hiếu học
Chư tôn đức, đại biểu dự lễ
Bảo Thiên