Đăng lúc: 07:31 - 30/06/2017
HỎI: Nhà tôi chưa có bàn thờ Phật, muốn trì chú Đại bi có được không? Khi tôi ngồi trì chú mà trong đầu ý nghĩ lăng xăng, hoặc người hay lắc lư rồi buồn ngủ, vậy làm thế nào để khắc phục?
(TRỊNH HẢI, hai1233457@gmail.com)
trichu.jpg
Trạo cử và hôn trầm là những triền cái làm chướng ngại
công phu tu tập nên hành giả phải vượt qua - Ảnh minh họa
ĐÁP:
Bạn Trịnh Hải thân mến!
Nhà chưa có bàn thờ Phật, bạn vẫn tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tọa thiền… bình thường. Bạn cần chọn một nơi sạch sẽ, thoáng mát và yên tĩnh nhất nhà để trì chú, tu niệm.
Trong lúc tu niệm, hiện tượng “trong đầu ý nghĩ lăng xăng” gọi là trạo cử, và “người hay lắc lư rồi buồn ngủ” gọi là hôn trầm, các biểu hiện này liên tục xảy ra. Tất cả mọi người, khi thực hành công phu đều trải qua các hiện tượng trạo cử và hôn trầm này.
Việc đầu tiên, bạn hãy xem trạo cử và hôn trầm là một trong những điều rất bình thường của tâm. Từ trước đến nay, tâm của mình đã rối rắm như vậy, không phải bây giờ mới có. Nhờ tu tập nên mình có cơ hội nhận diện rõ hơn tâm của mình nhiều trạo cử, hôn trầm mà thôi.
Với trạo cử, bạn chỉ cần chú tâm vào đề mục, rõ biết các ý nghĩ lăng xăng đang trình hiện mà không nắm bắt hay phản ứng, chỉ chuyên tâm vào đề mục. Ở đây, đề mục của bạn là trì chú, vậy hãy chú tâm vào câu chú. Thân ngồi (hoặc đi, đứng, nằm) thư giãn và thoải mái, chú tâm đọc hay niệm chú đầy đủ không thiếu sót, tai nghe tiếng rõ ràng, nếu đọc thầm thì tâm cũng nghe biết tỏ tường. Các ý tưởng lăng xăng vẫn liên tục xuất hiện nhưng vì bạn chuyên tâm vào thần chú, không phản ứng lại (không nắm bắt hoặc xua đuổi) nên nó không có chỗ nương gá, tự sinh rồi tự diệt, tự đến rồi tự đi.
Khi mất chánh niệm, sự chú tâm bị gián đoạn thì tâm bị các ý niệm lăng xăng chi phối. Cần thấy rõ tâm mình đang trạo cử, đưa tâm trở về trạng thái chánh niệm bằng cách trì chú trở lại như lúc đầu. Sự chuyên chú càng lớn mạnh thì trạo cử càng yếu suy. Kiên trì, bền bỉ và tinh tấn lâu ngày ta sẽ dễ dàng làm chủ tâm, vọng tưởng thưa dần, tâm được an trú, tịnh chỉ.
Về hôn trầm, thường là khi trạo cử tạm lắng dịu thì hôn trầm xuất hiện, trạng thái thân tâm dật dờ dã dượi, buồn ngủ và ngủ gục. Khi mất chánh niệm, thiếu sự chú tâm thì hôn trầm liền chi phối. Để đối trị hôn trầm, hành giả cần điều hòa thân tâm, phối hợp cả phòng và chống. Trước hết hành giả phải thiết lập đời sống quân bình, làm việc vừa sức, ngủ đủ giấc. Kế, không ăn quá no, không uống rượu bia trước giờ công phu, áo quần cần mềm xốp, không quá chật, nới lỏng thắt lưng, ngồi nơi thoáng mát, giàu dưỡng khí. Khi ngồi cần giữ lưng thẳng, cổ thẳng, thả lỏng các cơ bắp, thân tâm thư giãn hoàn toàn. Quan trọng là luôn duy trì sự chú tâm vào thần chú, khi phát hiện bị hôn trầm, hãy khởi sự lại từ đầu.
Nếu hôn trầm kéo đến nhiều lần, hành giả có thể tạm dừng trì chú để đưa tay xoa mặt, vuốt mắt, nhéo tai, xoa bóp tay chân, xoay người qua lại cho máu huyết lưu thông. Sau đó tiếp tục trì niệm như ban đầu. Nếu hôn trầm chưa dứt, hành giả cần thay đổi oai nghi, đi rửa mặt và thiền hành (vừa đi vừa niệm chú) một lúc rồi quay về tiếp tục trì niệm. Sau nhiều nỗ lực mà vẫn hôn trầm, hành giả nên nằm nghỉ ngơi hoặc ngủ một lát, sau đó tiếp tục công phu sẽ tốt hơn.
Trạo cử và hôn trầm là những triền cái làm chướng ngại công phu tu tập nên hành giả phải vượt qua. Trong thời gian đầu khi tâm chưa thuần, hành giả cần tinh tấn, nỗ lực và kham nhẫn, không nên thối tâm và bỏ cuộc sớm. Khi hành giả thiết lập được chánh niệm, chú tâm vững chắc vào đề mục, tâm có phần an định thì hai chướng ngại này sẽ giảm thiểu dần. Tiếp tục công phu đắc định thì chúng sẽ chấm dứt.
Chúc bạn tinh tấn!
TỔ TƯ VẤN
Đăng lúc: 21:06 - 01/03/2017
Hiện tượng giả dạng tu sĩ Phật giáo đi khất thực, xin ăn, kéo theo đó là các dịch vụ mê tín, bán bùa chú, xin xăm bói quẻ hiện nay tập trung tại các đền, chùa,… trong dịp lễ hội, ngày rằm để xin tiền bố thí của khách hành hương đã trở thành một vấn nạn nhức nhối, gây tổn thương đối với những người xuất gia chân chính - xuất phát bởi những lý tưởng cao đẹp!
VG (9).jpg
Người giả sư "làm ăn" trước chùa dịp Xuân Đinh Dậu - Ảnh: Vũ Giang
Tâm tình của “người trong cuộc”
Có dịp đi ra đường tôi đều đắp y theo truyền thống hệ phái Khất sĩ và nhiều lần đi bộ ngang qua những con đường mà ngày nào cũng xuất hiện người giả sư khất thực, tôi lại “đón nhận” ánh mắt dè chừng, thiếu thiện cảm của mọi người chung quanh (như chính mình là người đang ăn xin và sẽ làm phiền đến họ).
Phần lớn những người dân chưa hiểu nhiều về đạo Phật hay chưa có dịp đi chùa để hiểu biết đúng về người xuất gia, thì người giả sư sẽ vô tình tạo nên cho số đông những khái niệm không tốt về người tu. Tất nhiên, không thể trách người dân bởi thông qua những hình ảnh mà họ bắt gặp thường ngày từ những người giả dạng “đầu tròn áo vuông” để xin tiền, bán nhang, xem bói toán,... trên những cung đường hay tại các đình đền, chợ búa.
Có lần tôi hướng dẫn một nhóm Phật tử trẻ đi chùa lễ Phật vào ngày rằm đầu năm, nhưng khi bước vào gần tới cổng đã thấy một nhóm “nhà sư” đắp y giống mình đứng xin tiền. Khi ấy tôi vội nhanh chân bước vào trong sự ngượng ngùng, e dè và chợt thấy thương kính vô cùng chiếc y của Phật mà mình đang mặc trên người, trong đó còn có sự tổn thương tự đáy lòng khi nghĩ về những người mượn y Phật để làm xấu hình ảnh người tu ngoài kia.
Đi vào bên trong chùa lễ Phật xong, tôi bước ra sân trước để đứng chờ mọi người ra về thì có hai mẹ con đi ngang qua, đứa bé vô tình chỉ tay vào tôi rồi kêu mẹ cho tiền ông sư, thấy thế người mẹ vội lấy ít tiền lẻ ra và đưa cho tôi như một sự bố thí theo lời yêu cầu của đứa con.
Khi ấy, tôi cảm thấy áy náy vô cùng nhưng cũng kịp nhẹ nhàng từ chối, hướng dẫn vị đó là nên đem vào chùa để bỏ thùng công đức. Tất nhiên, tôi biết trong tâm thức của đứa bé lúc này đang hình dung tôi như những người giả sư đắp y ăn xin phía trước cổng mà bé thường được mẹ hướng dẫn cho tiền khi có dịp đi chùa.
Nỗi lòng Tăng Ni trẻ
Trò chuyện với các thầy, các sư cô trẻ có cùng chung nỗi ưu tư về vấn đề này thì biết, các vị ấy, mỗi người một câu chuyện cũng “dở khóc dở cười” như tôi, nhưng đáng để suy ngẫm trên bước đường tu học thường ngày dưới sự tương tác giữa mình với xã hội hiện nay.
Như thầy Thích Thanh Đạo (du học Tăng tại Thái Lan) kể lại - vào Tết Nguyên đán cách đây vài năm, thầy Đạo có dịp về thăm gia đình sau những năm tu học ở tu viện. “Khi đang dùng bữa cơm chay thân mật với gia đình thì bỗng xuất hiện một “sư thầy” đang mang trên người bộ đồ nâu, đầu cạo láng. Thấy thế, mọi người trong gia đình không mấy vui khi bị làm phiền về việc “vị thầy” mời mọc mua nhang ủng hộ và xin tiền lì xì”, thầy Thanh Đạo nhớ lại.
Khi vị khách đó vừa đi, người thân quay sang thầy Đạo hỏi: “Ủa, ở chùa cực khổ đến mức phải đi xin như vậy à?”.
“Lúc ấy, tôi cảm thấy nghẹn lòng và buồn vô cùng khi có những thành phần không tốt đã lợi dụng “chiếc áo xuất sĩ” để trục lợi cá nhân, với mục đích phục vụ nhu cầu cá nhân nhưng đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến cái nhìn của những người xung quanh, ngay cả với người thân tôi - có người xuất gia như tôi”, thầy Thích Thanh Đạo chia sẻ.
Hay câu chuyện cũng của một Tăng sinh đang học tại Thái Lan là thầy Thích Chúc Tâm. “Khi còn là một Tăng sĩ trẻ tại Đà Lạt, được thầy bổn sư gửi lên Sài Gòn để theo học tại trường Phật học, trong những ngày đầu còn bỡ ngỡ nơi đất khách và khí hậu nóng gắt khó chịu, tôi và vị sư cùng phòng quyết định đi kiếm mua cây quạt. Sau một hồi tìm kiếm, chúng tôi dừng lại ở trước tiệm bán đồ điện tử, chủ tiệm lúc ấy đang ở trong nhà xem truyền hình, tôi với gọi từ bên ngoài - Chú ơi - như ý để hỏi thăm giá cả”, ĐĐ.Chúc Tâm kể.
Thầy Tâm hồi tưởng tiếp - người bán đồ nhìn ra với ánh mắt và thái độ không vui, kèm theo đó là cử chỉ vẫy tay bảo rằng “đi đi, ở đây không có gì cả, không mua gì cả” và họ vẫn cứ tiếp tục xem truyền hình, không thèm để ý gì.
“Khi ấy, tôi khựng lại, quay qua nhìn sư bạn mà khá ngỡ ngàng với sự “phản hồi” từ chủ tiệm như thế. Thấy sư bạn ngại quá nên bảo tôi đi sang tiệm khác, nhưng tôi muốn đính chính lại, nên gọi thêm lần nữa - Chú ơi! Thầy muốn mua quạt - thì họ mới ra tiếp đón, tôi cũng nhẹ nhàng giải thích cho họ hiểu được thật-giả trong xã hội hiện nay mà chú đã nhiều lần bị làm phiền rồi “ám ảnh” nghĩ ai trong hình tướng tu sĩ cũng chỉ tới để quyên góp xây chùa hoặc bán nhang, thực chất là người giả sư đi “hành nghề”.
Từ vài ví dụ rất nhỏ trên trong bức tranh người giả sư vẫn hoạt động hàng ngày cũng như đang rộ lên trong mỗi mùa lễ hội - có thể kết luận, đây là vấn nạn chứ không còn là vấn đề bình thường, có thể cho qua, vì kéo theo đó là các hệ lụy ảnh hưởng trầm trọng đến tâm tư và sự mặc cảm cá nhân của tu sĩ trẻ khi vô tình bị đối xử, bị nhìn nhận thiếu thiện cảm mà nguyên nhân là từ các thành phần bất hảo, giả danh.
Thiết nghĩ, nếu không kịp thời lên tiếng và ngăn chặn thì đến một ngày, hình ảnh của những người xuất gia trẻ dấn thân vào đời sẽ bị mọi người hiểu lầm, ám thị rằng đấy cũng là hình ảnh của sự đi xin tiền, xấu xí mà ai cũng dè chừng, tránh né chứ không phải thiêng liêng như vốn dĩ...
Giác Minh Luật
Gặp người giả sư, tôi sẽ...
Trong trao đổi ngắn với CTV Giác Ngộ, hai Phật tử trẻ đã “gặp nhau” khi gợi ý một phương pháp ứng xử với nạn sư giả một cách nhẹ nhàng...
a Xuan Phuc.jpg
* Bạn Trịnh Hoàng Xuân Phúc (Bình Dương): Đối với những người không phải là tín đồ Phật giáo, đa số họ không quan tâm việc sư thật - giả mà suy nghĩ đơn giản rằng cứ thấy ai ăn mặc như người tu hành và ôm bình bát là bố thí tiền hầu mong đặng phước. Còn đối với bản thân tôi - một Phật tử tại gia, khi gặp những vị khất thực (thường là ở chợ) bất kể thật hay giả, tôi tuyệt đối không cúng dường tiền mà bố thí vật thực như củ khoai, vài món trái cây hay thực phẩm chay vì tôi nghĩ rằng mình là con nhà Phật mà đạo Phật là đạo từ bi.
Bản thân học theo hạnh của ngài Thường Bất Khinh Bồ-tát, tâm niệm theo lời Phật dạy rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và sẽ thành Phật ở tương lai, thay vì chửi bới hay mắng đuổi những người giả sư thì tôi lại hành động và hướng dẫn mọi người xung quanh thực hành bố thí đúng pháp. Có như vậy, theo thời gian, những người giả sư không còn đất sống vì thứ họ muốn nhận chính là tiền.
Bên cạnh đó, thiết nghĩ quý Ban Trị sự GHPGVN ở mỗi tỉnh, thành trên cả nước nên thiết lập một đường dây nóng để tiếp nhận thông tin về tình trạng giả sư nói riêng cũng như các vấn đề liên quan đến Phật giáo tỉnh nhà nói chung.
a Suong Lac.jpg
* Phật tử Sương Lạc (Mỹ Tho, Tiền Giang): Nếu gặp người giả sư khất thực tôi vẫn chắp tay trước ngực và chào. Có lần tôi gặp sư giả tại chợ Mỹ Tho lúc đang ngồi trên xe máy, họ đi đến chỗ tôi và đứng im vài giây. Khi đó tôi xuống xe chắp tay chào và nói “Nam-mô A Di Đà Phật”. Họ thấy vậy tiếp tục đứng im. Tôi lấy mấy trái ổi trên xe định bỏ vào bát (mặc dù biết giả nhưng tôi vẫn muốn cho), vị đó lắc đầu và bỏ đi luôn.
Tôi có tìm hiểu và được biết rằng, những vị sư nếu có đi khất thực cũng tuyệt đối không nhận tiền, bởi đó là luật Phật. Do vậy, Phật tử khi cúng dường quý thầy, quý sư cũng phải có hiểu biết, để không tiếp tay cho nạn giả sư tồn tại (bằng cách bỏ tiền vào bình bát của họ). Mỗi Phật tử am hiểu giới luật, văn hóa Phật giáo thì những hiện tượng giả danh Phật giáo tự khắc sẽ bị đẩy lùi...
Trúc Nhi
Đăng lúc: 22:00 - 29/10/2016
Ai cũng biết, thiền định là cốt tủy của pháp hành trong Phật giáo. Muốn chuyển hóa phiền não, thanh tịnh thân tâm, thăng hoa tuệ giác cần phải thực hành thiền định, tinh chuyên Chỉ và Quán. Để vào sâu thiền định, hành giả phải từng bước chuyển hóa và đoạn trừ năm triền cái (ngũ cái), tức năm món trói buộc và ngăn che: Tham dục, Sân nhuế, Thùy miên, Trạo hối và Nghi. Tâm của chúng ta luôn bị năm triền cái này chi phối, chướng ngại, khiến cho các pháp bất thiện dấy khởi, không thể thành tựu định và tuệ.
Bước đầu hành thiền cần thực hiện điều hòa thân, điều hòa hơi thở. Tiếp theo là an trú chánh niệm, phát huy thiền Chỉ và thiền Quán, thành tựu năm thiền chi (Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất tâm) để lần lượt đoạn trừ năm triền cái.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta sẽ thuyết về bất thiện tụ. Các Thầy nên khéo nghĩ nhớ.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:
- Thế nào gọi là bất thiện tụ? Nghĩa là năm món che đậy (ngũ cái). Thế nào là năm? Tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, điệu hý cái, nghi cái. Đó gọi là ngũ cái. Muốn biết bất thiện tụ thì đây gọi là ngũ cái. Vì sao thế?
Tỳ-kheo nên biết! Nếu có ngũ cái này, liền có phần súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Các pháp bất thiện đều từ đây khởi lên. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy tìm phương tiện diệt tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, điệu hý cái, nghi cái. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm 32.Thiện tụ VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.197)
Để chuyển hóa tâm tham muốn về năm trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc), hành giả cần quán sát về tính vô thường, vô ngã của chúng. Bản thân mình có thể chết bất cứ lúc nào, các sự vật và hiện tượng khác cũng liên tục thay đổi. Quán sát về sự nguy hiểm của các dục, nhờ đó mà xả buông, lắng dịu các dục, thành tựu ly tham.
Khi tâm có sân hận, hành giả cần làm lắng dịu hay giập tắt. Rải tâm từ, quán sát về sự nguy hại của sân hận, tư duy cách nào đó để tâm hoan hỷ sinh. Lòng bi mẫn, hoan hỷ và tha thứ phát sinh thì sân hận được chuyển hóa.
Khi hành thiền, nếu mất chánh niệm thì dễ dàng rơi vào hôn trầm thùy miên (buồn ngủ, dã dượi, dật dờ). Cần điều hòa thân, điều chỉnh tư thế, tăng cường tỉnh giác, chú tâm vào đề mục thì hôn trầm sẽ tan biến. Đức Phật đã chỉ ra 8 cách chuyển hóa hôn trầm cụ thể: “Khi có hôn trầm thì chớ tác ý đến tưởng ấy, tư duy các pháp đã được nghe, tụng đọc, kéo hai lỗ tai và xoa bóp chân tay, đứng dậy lấy nước rửa mặt, tác ý tưởng ánh sáng, đi kinh hành, nằm nghỉ một lát”.
Trạo cử (điệu hí, trạo hối) là tâm dấy khởi không dừng khiến hành giả không trú niệm vào đề mục. Để lắng dịu trạo cử, hành giả phải tăng cường chú tâm vào đề mục, phát huy chánh niệm cao độ. Duy trì sự chú tâm và chánh niệm thường trực thì trạo cử sẽ lắng yên. Ngoài ra, một lối sống đầy đủ về giới, thiểu dục, tri túc và biết ơn cũng giúp cho hành giả bớt lăn tăn, trạo cử.
Nghi ngờ là tâm lý thường gặp, gây ra sự bất ổn, thiếu quyết định, loạn động. Trong quá trình hành thiền, vì gặp các trở ngại nên có nhiều mối nghi xuất hiện. Nghi ngờ về pháp, về thầy, về bản thân v.v…, nói chung nghi ngờ là do chưa thành tựu Chánh kiến. Hành giả cần phát huy Chánh tư duy và Chánh kiến để nhận ra con đường và đích đến của sự hành thiền. Từ đó mới có thể buông xả tất cả loạn động, nghi ngờ, tin sâu vào sự thực tập.
Thế Tôn đã xác định, năm triền cái có mặt thì “liền có phần súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục”, “các pháp bất thiện khởi lên” nên người tu cần phải từng bước chuyển hóa và đoạn diệt mới có thể thành tựu định và tuệ.
Quảng Tánh
Đăng lúc: 16:08 - 05/10/2016
Khi nói đến niềm tin là nói tin về điều gì, chẳng hạn như tin theo học thuyết, triết thuyết, tin theo tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc một hệ thống tư tưởng, chủ nghĩa nào đó, tin nơi ai hoặc tin nơi chính bản thân mình (lòng tự tin, tự tín).
Tin điều gì có nghĩa là mình cho điều đó là đúng, là có thật, đặt hoàn toàn hy vọng vào điều đó, nương tựa nơi điều đó, hướng suy nghĩ và hành động theo. Niềm tin rất quan trọng và cần thiết đối với mỗi con người, tuy nhiên nó cũng mang lại nhiều tác hại nếu như đó là niềm tin sai lầm, niềm tin được xây dựng trên cơ sở nhận thức mù quáng, không sáng suốt, thiếu trí tuệ.
Một người bệnh có thể tin rằng mình sẽ khỏi bệnh nếu như gặp thầy hay thuốc giỏi và bản thân mình có mong muốn được bình phục, biết quan tâm làm theo những gì vị lương y, bác sĩ hướng dẫn. Sự lạc quan tin tưởng, niềm tin đặt đúng chỗ (đúng thầy, đúng thuốc) sẽ giúp cho người bệnh có thêm sức mạnh ý chí làm tăng sức sống, sức đề kháng bệnh tật và sự quyết tâm điều trị đẩy lùi bệnh tật. Tuy nhiên cũng trong trường hợp đó, nếu người bệnh không có lòng tin nơi thầy hay thuốc giỏi, không có lòng tin mình có thể vượt qua bệnh tật, và từ đó không nỗ lực điều trị bệnh theo hướng dẫn của vị lương y, bác sĩ, như thế thì người bệnh khó có thể đẩy lùi được bệnh tật.
Hoặc tệ hại hơn là người đó có niềm tin sai lầm (không thấy nguyên nhân của bệnh, không đi đúng hướng điều trị), đặt lòng tin không đúng chỗ (không đúng thầy, không đúng thuốc). Ví dụ như ngày xưa, khi y học chưa phát triển, gặp bất cứ bệnh gì người ta cũng rước thầy pháp về cúng, làm phép để trừ tà, kết quả là nhiều con bệnh đã mất mạng. Ngày nay cũng vậy, có nhiều người mắc bệnh tâm thần nhưng người thân không biết cứ ngỡ bị vong nhập, bị trúng tà (vì biểu hiện của một số dạng bệnh tâm thần có phần giống như hiện tượng trúng tà), lại quá mê tín nên cứ mời thầy bùa thầy pháp về làm phép đuổi tà, trấn yểm, cúng vái, cuối cùng thì tiền mất tật mang.
Niềm tin mù quáng, mê lầm có tác hại rất lớn, nó là kết quả của nhận thức cảm tính thiếu lý trí, thiếu trí tuệ sáng suốt. Ngày xưa ở một số nước có chiến tranh, nhiều tướng soái, nhiều nhà lãnh đạo chính trị, quân sự đã lợi dụng sự mê tín của người đời, giả thần giả thánh, tự xưng mình là con trời (thiên tử), tự cho việc họ làm là ý trời để thiên hạ nghe theo và không dám chống lại họ; họ ngụy tạo những bằng chứng huyền hoặc để khiến cho mọi người tin theo. Có nhiều đội quân được vẽ bùa, phù chú lên mình, được gieo vào lòng niềm tin bất bại, đao thương, súng đạn không thể làm hại, nhưng khi ra chiến trường mới biết mình tin mê lầm, họ chết gục trên chiến trận.
Có trường hợp người thủ lĩnh lợi dụng niềm tin mê tín để làm tăng thêm ý chí, sức mạnh chiến đấu của quân đội mình, nhưng cũng có trường hợp họ cũng có ảo tưởng rằng mình có phép màu bảo hộ. Tuy niềm tin đó có làm cho tinh thần chiến đấu, sức mạnh chiến đấu tăng cao, nhưng hậu quả của nó là làm cho họ chủ quan, khinh suất, không nhận thấy rõ thực lực của mình và của quân địch, từ đó dẫn đến thất bại.
Niềm tin trong tôn giáo, tín ngưỡng cũng vậy. Có những niềm tin giúp con người hướng đến điều lành điều thiện, mạnh dạn làm các việc có ích cho cá nhân, cộng đồng xã hội, nhân loại, chúng sinh. Nhưng có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người. Nó khiến con người tàn hại lẫn nhau, mất hết lý trí, khiến con người đánh mất chính mình, lệ thuộc vào những điều huyền hoặc, không tưởng, lệ thuộc vào những thế lực siêu hình do con người tưởng tượng ra, không còn ý chí, không còn tự chủ; khiến con người nô lệ cho vô minh, dục vọng, làm những chuyện tàn ác, điên rồ mà cho là làm theo chân lý, làm đúng với lẽ phải, đúng với quy luật vũ trụ.
Những niềm tin u mê này đến mức cực đoan sẽ gây ra chiến tranh, kỳ thị tôn giáo, tín ngưỡng, gây ra thù hằn, oán ghét lẫn nhau. Bởi thế cho nên, đối với vấn đề niềm tin cần phải hết sức thận trọng.
Khi con người chưa hiểu biết nhiều về thế giới, người ta không có khả năng lý giải các hiện tượng đời sống, các hiện tượng tự nhiên, cho nên tin rằng có đấng tạo hóa, có các thần linh sáng tạo ra thế giới, điều hành thế giới, tưởng tượng ra thần mặt trời, thần mặt trăng, thần mây, thần mưa, thần gió, thần núi, thần sông, thiên lôi, hà bá v.v…
Bất cứ điều gì cũng cho là ý trời sắp đặt, họa phước, thành bại, được mất, cơm ăn áo mặc, hạnh phúc, khổ đau… đều do ông trời và các thần linh ban cho, nhưng kỳ thực thì con người phải làm mới có ăn, phải lao động sáng tạo từ đời này sang đời khác mới có được thế giới như ngày nay, chứ không phải thượng đế và các thần linh ban cho hay tự dưng mà có. Sự thật sờ sờ trước mắt, nếu ông trời và các thần linh ban cho thì con người khỏi phải làm gì cả cũng có cuộc sống tốt, và những ai tin tưởng tuyệt đối vào ông trời và thần linh hẳn đã được bình an, sung sướng, hạnh phúc hơn những ai không tin.
Tuy nhiên không ít người vẫn chấp nhận nô lệ cho niềm tin mù quáng để rồi đánh mất ý chí, đánh mất niềm tin nơi chính mình, lệ thuộc thần quyền trong khi thần quyền là không có thật.
Không phải những ai thờ cúng, tín ngưỡng ông trời và các thần linh, vật linh cũng đều giàu sang, an vui, hạnh phúc, và không phải những ai không có niềm tin đó cũng nghèo khó, khốn khổ, bất hạnh. Sự thật là thế, quá rõ ràng nhưng vẫn có người không thấy.
Sự mê tín của con người vẫn không giảm mặc dù xã hội đã tiến bộ nhiều, thậm chí còn có chiều hướng tăng cao. Những thành phần bất hảo lợi dụng sự mê tín mà ra sức trục lợi. Mê tín dị đoan, tà thuyết ngoại đạo nổi lên khắp nơi khiến cho tâm trí con người điên đảo.
Ngay cả ở châu Âu, châu Mỹ, các nước được xem là văn minh tân tiến vẫn đầy dẫy tệ nạn mê tín dị đoan, các giáo phái cuồng tín lợi dụng sự tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo mà hoành hành. Còn các nước có truyền thống văn hóa phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam v.v… thì đi đến đâu cũng thấy có hiện tượng xin bùa xin phép, bói toán, coi tuổi tác, ngày tháng tốt xấu, ngồi đồng nhập cốt, đi đến đâu cũng thấy cúng bái sì sụp, cúng ông trời - thần linh, cúng nhà cửa - đất đai, cúng xe cộ - thuyền bè, cúng trên bờ - dưới sông, cúng người chết, cúng vật linh, cúng âm binh - cô hồn, có khi cúng ai cũng không biết, cứ bày nhang đèn, vàng mã, vái lạy bốn phương tám hướng mà cầu sự bình an, hưng thịnh.
Nếu chỉ đặt niềm tin vào sự cầu cúng, trông cậy vào thần thánh, ma quỷ, không siêng năng cần cù lao động, học tập, trau giồi kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn thì việc làm ăn, kinh doanh buôn bán không thể nào phát triển được. Nếu không có nhân phẩm đạo đức tốt, không có quan niệm, lối sống tích cực thì cuộc sống sẽ bất an, đau khổ. Không có ông trời, thần linh hay ma quỷ nào che chở, bảo hộ hoặc ban phước giáng họa cho được.
Ở Việt Nam, từ khi hiện tượng ngoại cảm được giới khoa học công nhận thì các nhà ngoại cảm rầm rộ nổi lên, thật có, giả có, ảo tưởng mình là nhà ngoại cảm cũng có. Còn người dân thì tin người cõi âm có thể liên hệ với người còn sống, có thể tác động, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của mình, từ đó ra sức cúng bái, cầu khẩn sự gia hộ, giúp đỡ. Nghĩ tưởng đến những người quá cố, người thân người thương, người có ân nghĩa, công đức thì tốt, nhưng hướng về người quá cố vì sợ họ làm hại mình hoặc vì cầu sự chở che, gia hộ thì quả là việc làm mê tín.
Trong một số trường hợp vong linh người chết có thể liên hệ với người còn sống (trong điều kiện nhân duyên như thế nào đó mà có sự tương thích), nhưng những trường hợp này rất ít, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là các vong linh có thể tác động, ảnh hưởng đến cuộc sống của người mà họ yêu thương hoặc oán ghét.
Nếu các vong linh ở cõi âm có thể tác động, ảnh hưởng đến người sống thì thế giới này từ lâu đã không an ổn, đã loạn lên rồi. Bởi vì trong lịch sử đã có biết bao cuộc chiến tranh diễn ra, thù hận chất chồng, nếu các vong linh người chết có thể làm hại kẻ thù của họ thì những người còn sống đã sống không yên. Giữa con người với con người, ân oán tình thù đầy dẫy, nếu sau khi chết rồi mà các vong linh có thể can thiệp vào thế giới người còn sống thì chắc chắn thế giới loài người từ lâu đã rối loạn, đã xuất hiện nhiều điều kinh khủng, quái dị lắm.
Người nào cũng có tổ tiên, ông bà, người thân quá cố, nhưng nếu chết rồi mà vong linh những người quá cố còn tồn tại mãi ở cõi âm nào đó và có thể tiếp xúc, can thiệp vào cuộc sống của người thân, nếu họ có thể giúp cho những người đó được bình an, được sang giàu, được may mắn, hạnh phúc thì trên thế gian không ai gặp rủi ro, bất hạnh, khổ đau cả, bởi vì ai cũng có người thân quá cố chở che, phù hộ. Nhưng sự thật thì không phải thế, sống trên đời ai cũng gặp khó khăn cả, không gặp khó khăn này cũng gặp khó khăn khác, không gặp nỗi khổ này cũng gặp nỗi khổ khác, không ai khỏe mạnh mãi mà không ốm đau, không ai luôn may mắn mà chưa từng gặp rủi ro bất trắc, không ai thành công mà chưa một lần thất bại v.v… Vậy rõ là người chết không thể can dự vào cuộc sống của chúng ta.
Con người sống không thể không có niềm tin, nhưng niềm tin đó phải là Chánh tín, được xây dựng trên cơ sở Chánh kiến, sự thấy biết chơn chánh, nhận thức đúng đắn, có chiều hướng tích cực, phù hợp với chân lý và quy luật cuộc sống. Nếu niềm tin gây tác hại, ảnh hưởng xấu, làm trở ngại cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, gieo bất an, khổ não cho con người thì tuyệt nhiên đó không phải là niềm tin chơn chánh, cần loại bỏ.
Phan Minh Đức
Đăng lúc: 21:13 - 04/09/2016
Quán Thế Âm là vị Bồ-tát có công hạnh đặc sắc, năng lực vĩ đại và trí tuệ tỏa sáng muôn nơi để cứu giúp chúng sanh trở về đường giác.
Công hạnh của Ngài được nói đến thông qua những bộ kinh tinh hoa của Phật giáo Đại thừa như kinh Bát nhã, kinh Pháp hoa, kinh Hoa nghiêm, kinh Duy ma, kinh Đại bảo tích, kinh Đại Niết-bàn và kinh Vô lượng thọ...
Đặc biệt, tinh thần từ bi cứu khổ cứu nạn của Bồ-tát Quán Thế Âm phổ cập giữa thế gian như một hiện tượng văn hóa cách tân, báo hiệu một nguồn sinh khí mới, rất thân thiện, gần gũi với tâm lý của con người trong từng ngõ ngách cuộc sống. Theo quy luật tự nhiên, hạnh nguyện cứu giúp, gia hộ của Bồ-tát Quán Thế Âm (gọi chung là tư tưởng Quán Âm) thích hợp với thực tiễn xã hội nên được đa số quần chúng đón nhận nhiệt tình. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển trên đất mẹ (Ấn Độ) rồi truyền sang các nước Đông Nam Á, tín ngưỡng Bồ-tát Quán Thế Âm đã để lại nhiều dấu ấn rất sâu đậm trong đời sống văn hoá, xã hội và lịch sử.
Nhà nghiên cứu Phật học Nhật Bản Kimura Taiken nhận định: “Theo một ý nghĩa nào đó ta có thể nói rằng sự phát triển về Phật Bà Quan Âm là nguyên nhân chủ yếu làm cho giáo lý Phật giáo biến thiên và triển đạt. Do đó, vấn đề bộ phái Phật giáo liên quan tới Bồ-tát luôn được coi là một vấn đề vô cùng trọng yếu” 1.
Thật vậy, Bồ-tát Quán Thế Âm lấy thế giới Ta-bà làm trung tâm hóa độ. Ngài dùng mọi phương tiện dẫn dắt chúng sanh thoát mọi khổ đau trần thế. Ngài phổ độ bằng cách tiếp cận chúng sanh xem như thân bằng quyến thuộc. Nên mọi người con Phật cảm nhận sự hiện diện của Ngài rất gần gũi, rất thân thiện, dễ dàng đi vào lòng người, vào lòng xã hội. Đặc trưng “giáo lý Phật giáo biến thiên và triển đạt” nghĩa là phương pháp độ sanh thẫm sâu vào đời sống nhân sinh, là niềm tin cứu độ cùng với sự kính ngưỡng vô biên, không phải ở lãnh vực thuyết pháp khai tâm mở trí. Nên nói, Bồ-tát Quán Thế Âm không những đứng ở một vị trí tôn kính, tôn thờ như Đức Phật Thích Ca, mà niềm tin về Ngài còn ăn sâu vào trong tâm tư, tình cảm, thật thân thương và gần gũi.
Cho đến hôm nay, trong tâm thức người Việt, Bồ-tát Quán Thế Âm có sức mạnh siêu nhiên, luôn biến hóa cứu độ chúng sanh trong mọi hoàn cảnh. Hàng năm, có ba ngày lễ vía Bồ-tát Quán Thế Âm: Đó là ngày 19 tháng 2 âm lịch vía Bồ-tát Quán Thế Âm đản sinh, ngày 19 tháng 6 âm lịch vía Bồ-tát thành đạo, ngày 19 tháng 9 âm lịch vía Bồ-tát xuất gia. Ngoài ra, một hóa thân khác của Quán Thế Âm là Bồ-tát Chuẩn Đề, vía Ngài ngày 16 tháng 3 âm lịch. Các hoạt động lễ hội tưởng niệm và cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm trong toàn quốc thường được tổ chức vào các ngày vía này.
Truyền thống người Việt luôn tưởng nhớ tổ tiên và thờ cúng những người đã khuất là tập tục lưu truyền nhiều đời. Họ quan niệm người khuất phải sanh một cõi nào đó theo nghiệp của mình, trôi lăn theo sáu nẻo luân hồi. Vì tập nghiệp chúng sanh hầu hết nặng về tham ái nên vì nhân tham ái mà tái sanh vào ngạ quỷ. Vì thế người con Phật quan niệm lễ chẩn tế cô hồn sẽ giúp hương linh (ngạ quỷ) giảm bớt khổ đau, đói khát, và người cúng thí nhờ đó mà tạo ra phước báo vô lượng. Trong lễ cúng thí này, Bồ-tát Quán Thế Âm (hiện thân Tiêu Diện Đại Sĩ) được tôn trí ở vị trí cao nhất để thống lĩnh, giáo hóa, ban vui, cứu khổ cho các chúng sinh ngạ quỷ, cô hồn.
Đón linh hồn người quá cố về,
Mời Phật Bà Bồ-tát.
Đưa linh hồn người quá cố ra cửa ngục,
Thỉnh cầu xá tội 2.
Lễ thí thực cô hồn cũng góp phần làm vơi nỗi đau lòng của người đang sống và kính nhớ tổ tiên quá vãng của mình. Vì thế, lễ chẩn tế cô hồn thường được tổ chức nhân mùa Vu lan Báo hiếu. Đặc biệt, ngày nay lễ chẩn tế cô hồn được các nhà doanh nhân tổ chức trong những dịp khai trương để cầu âm siêu dương thái, mong trí tuệ sáng suốt và tâm từ rộng mở trong việc kinh doanh buôn bán.
Lễ chẩn tế cô hồn phản ánh nhiều khía cạnh, văn chương, triết lý và tín ngưỡng, nói chung là tất cả tinh hoa trong nền triết học Phật giáo Đại thừa Mật tông. Bố trí đàn tràng theo hình thức của Maṇḍala3. Thiết trí một vòng tròn, tượng trưng cho đóa sen nở trọn và tượng trưng căn bản vũ trụ luận của Mật tông. Có hai bộ Maṇḍala: Kim cang giới Mạn-đà-la (Vajradhātu-Maṇḍala) đại diện cho trí tuệ và Thai tạng giới Mạn-đà-la (Gabhadhātu-Maṇḍala), đại diện cho tâm đại bi của Như Lai.
Hiện nay, tượng Bồ-tát Quán Thế Âm không chỉ tôn thờ trong chùa mà còn xuất hiện trong vườn nhà, nơi làm việc. Hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm đã xuất hiện trên các cung đường, những địa điểm nguy hiểm để trấn giữ yêu quái, gia hộ bình an, cứu giúp dân chúng an lành. Người dân thường đặt tượng Bồ-tát Quán Thế Âm ở những nơi thường xảy ra tai nạn hoặc các nơi công cộng, ngay cả trên tàu xe, với niềm tin tưởng Ngài che chở, gia hộ an lành cho những chuyến đi xa.
Đơn cử như tại Quốc lộ 1A đi Vũng Tàu, ngay vòng xoay xa lộ (ngã tư Vũng Tàu) có tôn trí thờ Bồ-tát, với những câu chuyện truyền nhau về sự linh nghiệm của Phật Bà Quán Âm. Người ta tin rằng, những nơi có Ngài xuất hiện sẽ được hộ trì, giảm bớt tai nạn giao thông, làm cho người điều khiển xe cảm thấy bình an qua những khu vực nguy hiểm.
Những gia đình có điều kiện xây nhà cao tầng thường đặt tượng Bồ-tát Quán Thế Âm trên sân thượng để trấn giữ yêu quái, giúp người nhà yên lành. Họ tin rằng, thờ Ngài để ngăn cản điềm xấu đến gia đình, giúp gia chủ làm ăn thuận buồm xuôi gió, mọi người trong gia đình ít ốm đau bệnh tật. Nhiều người đeo đồ trang sức có hình Bồ-tát Quán Thế Âm với niềm tin sẽ được Ngài độ trì trong cuộc sống hàng ngày.
Tại các bệnh viện, người ta tôn trí tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, bởi họ tin rằng mỗi khi người bệnh thấy mẹ Quán Âm là họ cảm nhận được sự che chở. Đứng trước những nỗi đau bệnh tật của người nhà và của chính mình, ngoài việc phó thác cho đội ngũ bác sĩ điều trị, mọi người vẫn mong một sự nhiệm mầu, cụ thể là mong việc hóa hiện các thân của Mẹ Quán Âm để giúp người thoát khổ, thoát khỏi nguy nan bệnh tật cận kề sanh tử. Lúc này, hơn khi nào, người tín tâm cầu nguyện năng lực vô úy, một khả năng đặc thù chỉ những ai thật định tĩnh, tự tin và từ bi vô hạn mới có thể làm con người yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm.
Cho nên, tư tưởng Quán Âm không chỉ ở địa vị tôn thờ mà còn gắn liền với môi trường sống và làm việc, rất thân thương và gần gũi. Việc thờ cúng Bồ-tát Quán Thế Âm rất đa dạng, từ bàn thờ trang nghiêm, đến trước sân chùa, hang động, hồ nước hay nơi công cộng, nơi làm việc, hay đeo tượng Quán Thế Âm trên người đều mang ý nghĩa hộ trì cho con người bình an trong mọi hoàn cảnh sống. Điều này chứng tỏ tín ngưỡng Bồ-tát Quán Thế Âm đã đi sâu vào lòng quần chúng, xuất phát từ niềm tin rằng Ngài là vị Bồ-tát độ trì bình an.
Thích Nữ Tâm Diệu
Đăng lúc: 10:58 - 28/03/2016
Một con cú già khôn ngoan sống ở cây đa. Nó càng nhìn thấy sự đời thì càng ít nói. Mà nó càng ít nói thì lại lắng nghe nhiều. Tại sao mình lại không như con cú già khôn ngoan kia? (Khuyết danh).
bo-tat-QTa.jpg
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian...
Khi còn bé thơ, chúng ta được dạy ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Và càng nói nhiều thì đó là dấu hiệu phát triển bình thường. Nhưng ít khi nào chúng ta được dạy phải biết lắng nghe. Và phần nhiều, cha mẹ, thầy cô, các bậc phụ huynh, v.v… không để tâm nhiều đến chuyện dạy dỗ cách biết lắng nghe. Tất nhiên, cha mẹ hay các thầy cô có dạy mình phải biết nghe lời. Nhưng ít khi chúng ta được dạy cách biết lắng nghe cho đúng.
Thường khi trong một cuộc đối thoại, chúng ta muốn người đối diện nghe ý kiến của mình muốn phát biểu, hay diễn đạt hơn là mình nên lắng nghe ý tưởng của họ. Nếu đã là vậy, rõ ràng không có sự lắng nghe xảy ra. Mà hễ không có sự lắng nghe, hiểu và cảm thông sẽ không bao giờ được thiết lập. Vợ chồng thường hay gặp phải tình cảnh này, nên có câu nói chọc cười: ‘Ngày xưa chồng nói vợ nghe. Bây giờ chồng nói vợ chê lắm mồm’. Cho nên, biết lắng nghe là nhịp cầu nối đầu tiên cho sự hiểu biết, cảm thông.
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, sở dĩ Ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp, nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ-tát, Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.
Nhiều kinh điển nói về công hạnh của Bồ-tát, về sức uy thần diệu dụng của Ngài, thường hiện thân khắp nơi cứu giúp người đang đau khổ trên trần gian. Nhưng để tu tập theo hạnh nguyện từ bi, cứu khổ của Ngài, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu thêm một số chi tiết về những hạnh nguyện đó.
Trong kinh Pháp hoa nói Ngài thường thị hiện 33 hóa thân. Nhưng theo thiển ý, chắc đây là con số tượng trưng. Ngài được mô tả là một vị Bồ-tát luôn hóa thân cứu khổ mọi loài chúng sinh. Ngài hóa thân là một hiện tượng đặc thù theo tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’, biểu lộ tấm lòng đại từ bi, không phân biệt kẻ thân, người sơ, kẻ thâm tín, người hoài nghi, thậm chí người vô thần, ngoại đạo.
Hiện tượng hóa thân nói lên sự thấu hiểu và cảm thông thật sâu sắc nỗi sợ hãi, mối ưu lo của chúng sinh trong thế giới đảo điên, mộng tưởng. Để được tiếp cận với một chúng sinh đang đau khổ, Ngài hiểu rõ rằng một người xa lạ, dù là một Bồ-tát, sẽ khó có thể đến gần để chúng sinh kia được giãi bày nguồn cơn nỗi khổ của mình.
Theo kinh nghiệm đời thường cho thấy, khi chúng ta đang đau khổ hoặc phiền não mình chỉ muốn chia sẻ với ai biết lắng nghe, thông cảm, và không có ý phê phán, bình phẩm về những điều mình đã làm sai, hay tâm tình mình đang giãi bày, thổ lộ. Và thường mình muốn chia sẻ với người quen biết, dễ thương, hoặc người nào tôn trọng ý tưởng và tình cảnh của mình. Nếu hiểu được điều này, chúng ta có thể đóng vai sứ giả của Đức Quán Thế Âm, lắng nghe mà không phê bình, chỉ trích để giúp làm vơi nỗi khổ của người.
Thật ra, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng làm sứ giả Quán Âm, và muốn thành tựu vai trò này đòi hỏi mình phải biết lắng nghe.
Nhưng biết lắng nghe là một nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải quên mình đi mà chỉ biết nghe người kia đang nói gì. Biết lắng nghe đòi hỏi mình phải biết lắng đọng tâm tư để nghe rõ thông điệp của người mình đang đối diện. Cái bi kịch thường hay xảy ra cho chúng ta là khi mình muốn học hạnh lắng nghe nhưng cứ mỗi khi nghe xong câu chuyện mình lại diễn dịch nó qua lăng kính kinh nghiệm của bản thân, giống như mình nhìn thấy một sự kiện qua cặp kính màu của mình, nên thay vì hiểu và cảm thông, chúng ta lại chỉ trích hay phê phán người đối diện là dở cái này, thiếu cái nọ.
Do đó, hành động lắng nghe của mình bị thất bại. Nếu chúng ta biết lắng nghe qua tâm hạnh từ bi như Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta biết tôn trọng ý tưởng của người nói và lắng nghe cho kỹ những nỗi khổ đau mà họ đang trải nghiệm, thì công sức lắng nghe của mình sẽ chắc chắn mang lại một kết quả tốt và có thể sẽ làm vơi đi nỗi khổ của người.
Ngoài việc hóa hiện các thân để cứu độ, Ngài còn có khả năng làm cho chúng sinh hết lo sợ (vô úy thí). Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn có nêu lên 14 hoàn cảnh, những trường hợp tượng trưng, mà Ngài đã vận dụng năng lực vô úy để cứu độ. Năng lực vô úy là một khả năng đặc thù mà chỉ có những ai thật định tĩnh, tự tin, và từ bi vô hạn mới có thể làm được. Như một bà mẹ thương con vô cùng mới có thể làm con mình yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm. Sở dĩ chúng ta cảm thấy an lòng, không hoảng sợ, kinh hoàng trước sự hiện diện của Bồ-tát Quán Thế Âm vì Ngài sẵn lòng hy sinh bản thân để cứu độ mọi người.
Chúng ta cũng đã từng nghe qua năng lực vô úy này được các thiền sư thể hiện, như trong câu chuyện sau: Trong thời nội chiến ở Triều Tiên, một vị tướng soái dẫn quân đánh chiếm hết vùng này đến vùng kia, hủy diệt hết những gì cản trở bước tiến của ông ta. Dân chúng trong thành biết đoàn quân của vị tướng đang đánh tới, và nghe tiếng tàn bạo của ông ta nên mọi người đều trốn lánh vào vùng núi cao.
Vị tướng tiến chiếm thành không người và ra lệnh quân lính tìm kiếm dân trong thành khắp nơi. Vài người lính trở về báo cáo chỉ có một thiền sư còn ở lại. Vị tướng quân liền vội vã đến chùa, đi thẳng vào bên trong, rút gươm ra, và nói: “Lão thầy chùa kia, ông không biết ta là ai sao? Ta là người có thể thản nhiên lấy mạng của ông không chớp mắt”. Vị thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông tướng soái và bình thản trả lời: “Và tôi, thưa ngài, là người có thể để ngài lấy đầu mà cũng không chớp mắt”. Vị tướng quân nghe xong, liền cúi đầu và bỏ đi.
Sợ hãi là bản năng của con người, ai sinh ra cũng có. Nhưng các bậc thánh, hay như người căn tính yếu kém như chúng ta, nếu biết tu tập tinh chuyên và có lòng từ bi vô lượng, đều có khả năng, không những vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, mà còn khéo giúp người khác an tâm, không lo sợ. Tu tập hạnh từ bi có khả năng giúp mình vượt qua khổ hải và cũng giúp được người vơi bớt khổ đau. Vậy muốn có được năng lực vô úy thì chúng ta không thể thiếu hạnh từ bi.
Tuệ giác của pháp môn lắng nghe, không chỉ nằm trong việc lắng nghe âm thanh, lời nói, ngôn ngữ của người đối diện, mà còn vận dụng hết cả thân tâm mình từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và cả ý căn, để hiểu thấu và thấy rõ từ cử chỉ, hành vi, và sắc diện của họ đang nói lên những gì, mà lời nói, ngôn ngữ chưa diễn đạt, trình bày được hết ý của câu chuyện.
Chỉ cần vận dụng một phần ba (1/3) năng lượng của tuệ giác lắng nghe là chúng ta đã có thể giúp vơi đi nỗi khổ của người khác nhiều lắm rồi. Nhưng tiếc thay, đa số chúng ta thích nói hơn là thích nghe nên năng lượng của tuệ giác lắng nghe ít khi được sử dụng. Sở dĩ, mình thích nói hơn lắng nghe vì bản ngã, hay cái ta, đóng vai trò lớn trong việc thể hiện tầm quan trọng của bản thân, con người mình. Không ai muốn đóng vai trò ‘thấp cổ, bé miệng bao giờ!’. Hiểu rõ được điều này và phải vận dụng nhiều công phu tu tập mới có được chút khả năng lắng nghe vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Nhân ngày lễ vía của Đức Bồ-tát, chúng ta hãy cùng nhau vận dụng hết năng lực của mình để nhất tâm tu tập nguyện noi theo công hạnh của Ngài và để xứng đáng làm một sứ giả của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Tháng 10-2015
Tuệ Nghiệp
Đăng lúc: 21:19 - 24/11/2015
Có khi ngồi một nơi yên tĩnh nhìn lại chính mình, cuộc đời cứ trôi qua mang theo đó bao nhiêu vui buồn thương ghét. Chúng không mất mà nằm lại trong tàng thức, chẳng phân biệt sai đúng, tốt xấu, khổ vui, sanh tử hay Niết-bàn.
Chỉ ở chỗ, vui nhiều hơn buồn, thiện nhiều hơn ác, để rồi trong quá trình huân tập mà thọ nhận được cảnh an vui căn nghiệp của chính mình. Thấy người cứ loanh quanh khổ do chính mình tạo ra mà mình thấy khổ lây, như hiệu ứng dây chuyền, nhìn người ăn me chua mà miệng ứa nước miếng, trông thấy họ cắn đá lạnh mà mình thấy ê răng! Từ lục căn đến lục trần rồi đến lục thức. Cuộc sống cứ bám riết vào hiện tượng bên ngoài vốn vô thường nên khổ miết.
Là Phật tử, cần sống theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm
Sống trong sân si, hơn thua lừa lọc, ăn miếng trả miếng, chỉ làm khổ mình khổ người ngay cả trong hiện tại cho đến tương lai. Chấp chứa chi trong lòng mà không buông bỏ, vất cái đau khổ đó đi?
Nói chung là chưa chịu xả.
Muốn xả được thì phải lắng nghe và thấu hiểu. Lắng nghe với một cái tâm không thành kiến và tỉnh thức phân biệt đúng sai trong chánh niệm để biết thương nhau hơn.
Trong kinh Tăng chi bộ (kinh Sáu pháp vô thượng), Đức Phật dạy:
“Thầy Tỳ-kheo phải tu sáu pháp vô thượng. Những gì là sáu?
1. Mắt thấy sắc, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.
2. Tai nghe tiếng, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.
3. Mũi ngửi mùi, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.
4. Lưỡi nếm vị, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.
5. Thân chạm xúc, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.
6. Ý đối với pháp, không ưa thích, ghét bỏ, trụ tâm nơi xả, hằng tỉnh sáng.
Ai được sáu pháp này là bậc vô thượng, là phước điền của chúng sinh, xứng đáng cho trời, người tôn trọng, cung kính, cúng dàng”.
Chỉ vì không lắng nghe mà sinh ra hiểu lầm nghi kỵ, sinh ra thù hận. Chỉ vì không lắng nghe nên vườn hoa biến thành vũng lầy, từ đồng xanh biến thành hoang địa!
Không dừng lại ở cái “tiểu ngã” trong tôi mà còn phải nghe thấy cả tiếng gọi quanh đây của trời đất bạt ngàn “đại ngã” kia để có sự quán chiếu mà cảm thông gìn giữ cứu hộ bảo bọc sống cùng nhau trong cảnh hạnh hòa.
“Thương người như thể thương thân”, câu tục ngữ Việt Nam đầy tính nhân văn đã gắn liền trong tâm thức con người trong cộng đồng, là lời nhắc nhở phải biết yêu thương trân trọng người khác như chính bản thân mình.
Sống trong thế giới chấp thủ thường khiến mình đau khổ vì phân biệt nhị nguyên đúng sai giả thật, khi đã chấp ngã rồi thì lọt vào thế giới vô minh nên chẳng hiểu mình hiểu người, ví như làm cha mẹ không hiểu tánh tình con cái, đã vợ chồng lại chẳng thấu lòng nhau.
Không dừng lại ở đó, sự lắng nghe trong nhẫn nhịn, trong chịu đựng, chấp nhận và thấu hiểu như Đức Phật đã dạy cõi Ta-bà này biết bao nhiêu thống khổ cần sự bao bọc chở che đầy vị tha với tinh thần vô úy mới tìm đến an lạc.
Vậy, tại sao mình không đem nụ cười cảm thông đến với người cho cuộc đời thanh thản dễ chịu hơn? Bởi cái lẽ thật cuộc đời là thấy rõ cái bản chất của mình, cái chủng tử có từ muôn ngàn kiếp trước mắc lên thân người, mà thân người có gì bất biến để tâm phân biệt bao che buộc người khác làm theo ý mình để rồi tâm cứ chấp mãi chất chồng?
Nhà Phật có câu “người tu hành thì giận không quá một đêm”, đó cũng là một cách thấu hiểu và cảm thông trong cuộc sống vốn đầy trắc ẩn bộn bề sinh tử này.
Là Phật tử, sống theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm, hàng ngày tụng niệm “Thề trọn đời giữ đạo, Theo tự tánh làm lành, Cùng pháp giới chúng sinh, Cầu Phật từ gia hộ”. Thế đã lắng nghe từ tự tánh thì nhận ra cái tâm vốn chẳng sanh chẳng diệt, chấp nhận cái “phiền toái” kia mà lấy làm tánh bồ-đề.
Biết lắng nghe cũng là một nghệ thuật như người mẹ hiểu con mình, như bác sĩ biết con bệnh, như Bá Nha gặp bạn tri âm Tử Kỳ. Thử hỏi, làm sao không hạnh phúc khi được người khác hiểu mình? Và, có những điều không thể nói, không thể hiểu thì “sự lắng nghe” kia cũng đã làm vơi bớt khổ đau của người khác rồi.
Thục Đ
Đăng lúc: 18:15 - 19/11/2015
Vừa qua, Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ, Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN cùng với các nhà lãnh đạo Phật giáo trên thế giới đã ký vào Thông điệp của Phật giáo về hiện tượng biến đổi khí hậu, gửi đến Hội nghị Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 21 (COP-21), sẽ diễn ra tại thủ đô Paris của nước Pháp vào cuối tháng 11-2015.
Thông điệp nhận định rằng: “Chúng ta đang ở vào một thời điểm quyết định, thời điểm mà sự sống còn của loài người chúng ta cũng như của các loài khác trên trái đất này đang bị đe dọa nghiêm trọng do những hành động của chính chúng ta”. Hơn bao giờ hết, để cứu vãn sự sống trên hành tinh này, các nhà lãnh đạo Phật giáo kêu gọi các quốc gia và vùng lãnh thổ hãy cùng nhau đưa ra một lộ trình cho giải pháp toàn diện và lâu dài nhằm chấm dứt các nguyên nhân chính gây nên hiện tượng biến đổi khí hậu.
Với giáo lý đạo Phật, vạn vật hiện hữu trong tương quan mật thiết với nhau. Do lòng tham lam, con người đã khai thác cùng kiệt tài nguyên môi trường tự nhiên, sử dụng nhiên liệu hóa thạch và những phương thức tiêu thụ không bền vững, vì lợi nhuận trước mắt. Chính điều đó đã làm cho môi trường sinh thái mất sự cân bằng, ngày càng xấu đi. Những đợt thiên tai kinh hoàng, nguồn nước, không khí và thực phẩm bị ô nhiễm trầm trọng hiện nay chính là hậu quả của việc làm đó. Bao nhiêu sự đau thương mất mát, bệnh tật mới phát sinh… ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sống của con người, trở thành nỗi ám ảnh, mối lo lắng sợ hãi cho con người và mọi loài ở nhiều nơi…
Mọi giải pháp tích cực đều được bắt đầu bằng sự thấu hiểu, quan niệm đạo đức và trách nhiệm cộng đồng. Chỉ có cái nhìn duyên sinh, tình thương thực sự mới gắn kết tất cả chúng ta có ý chí trong việc tìm ra giải pháp tích cực nhằm giảm tốc độ và hạn chế những tác động của biến đổi khí hậu trên toàn cầu.
Trong đời sống mưu sinh khó khăn, nhất là đối với con người ở các nước đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam chúng ta, chúng ta thường thờ ơ, thậm chí không quan tâm tới các tác nhân gây nên hiện tượng biến đổi khí hậu, xem đó là chuyện đâu đâu xa vời, không liên hệ tới đời sống của mọi người. Đó là nhận thức sai lầm. Các nhà khoa học chứng minh rằng và cảnh báo rằng, biến đổi khí hậu ảnh hưởng rất trực tiếp tới sự sống của mọi loài trên hành tinh, trong đó có những yếu tố quan trọng như không khí, nguồn nước, thực phẩm… mà con người phải trao đổi, tiêu thụ hàng ngày.
Ở tầm vĩ mô, đại diện cho giới lãnh đạo các quốc gia và vùng lãnh thổ - 197 thành viên sẽ ngồi lại với nhau dưới ngôi nhà chung Liên Hiệp Quốc cùng tìm giải pháp cụ thể để giữ nhiệt độ của trái đất không tăng thêm trong hội nghị COP-21 sắp tới.
Chư tôn đức, các vị lãnh đạo đại diện các truyền thống Phật giáo trên thế giới đã cùng ký thông điệp với đề nghị cụ thể gửi đến hội nghị trên.
Đối với cá nhân, chư vị lãnh đạo Phật giáo cũng đã kêu gọi mọi người hãy chung tay chung lòng nhằm tích cực sử dụng năng lượng sạch, bảo vệ rừng, chuyển sang ăn chay, giảm tiêu thụ, chuyển hóa rác, sử dụng năng lượng có khả năng tái tạo, sử dụng phương tiện công cộng... Đó là những việc làm thiết thực mà người Phật tử cần nên ý thức tiên phong góp phần cải thiện tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay.
Thích Pháp Hỷ
Đăng lúc: 19:03 - 11/11/2015
Loài thỏ khoái cà rốt, nhưng nhiều lúc chúng vẫn ăn nhầm củ cải trắng bởi đeo kính màu. Khoa học cũng đưa ra hiện tượng “mù màu” khi con người nhìn về chân tướng vũ trụ; bắt đầu bằng những báo cáo về cấu tạo mắt của động vật.
Mỗi loài, qua sự lồi lõm tròng mắt sẽ quy định cái nhìn khác nhau; ngay trong cùng loài, mắt nhìn sự vật như một cái kính lồi, chỉ cần xê dịch tí xíu hiện tượng đã biến đổi. Để thấy, mỗi người đều nhìn sự vật hiện tượng qua con mắt của riêng mình không ai hoàn toàn giống ai. Năm đứa con, đều thấy mẹ mình tốt nhất, song sâu xa trong mỗi đứa đều lưu một hình ảnh mẹ khác xa. Công án Thiền về Tô Đông Pha. Sở dĩ họ Tô nhìn sư Phật Ấn ngồi thiền như một đống phân, đơn giản vì ngay lúc đó tâm thi/cư sĩ này nhơ bẩn; còn sư Phật Ấn nhìn Tô Đông Pha giống Phật, bởi tâm của sư tịnh sáng [như Phật].
Ở tầng cấp cao hơn, kinh Lăng Nghiêm mô tả về loài quỷ chạy bên bờ sông Hằng vẫn kêu gào khát cháy, vì ở cảnh giới của chúng nơi mênh mông nước ấy lại là sa mạc. Vấn đề đặt ra: Liệu ta đã hiểu về đối tượng mà mình có thói quen phán xét? Câu trả lời là không. Vợ chồng sống gắn bó từ lúc cưới đến đầu bạc nói hiểu nhau chân tơ kẻ tóc, thực tế họ chỉ hiểu phần tảng băng nổi. Khoa học cho biết mắt người chỉ thấy [hiểu] được 2000/400 tỉ = 1/200 triệu tức 0,0000005% thực tại. Tiến sĩ khoa học Joseph Dispenza: “Chúng ta chẳng biết gì về thực tại cả và tất cả cảm nhận về cái gọi là thực tại ngoài kia đều đã được sàng lọc qua các giác quan của con người. Não bộ xử lý 400 tỉ bit thông tin trong 1 giây nhưng chúng ta chỉ nhận biết được 2000 bit trong số đó”. Soi vào Phật pháp, ta chỉ cảm được phần tướng, còn tánh muốn thấy phải chứng ngộ, ngoài ra không còn cách nào khác.
Tánh là Tâm Phật. Tâm Phật vốn thâu toàn vũ trụ, câu thông với vạn thể. Về mặt tinh thần, chúng ta đang sử dụng vọng tâm chứ không phải chân tâm. Vọng tâm như sóng trên mặt biển không ngừng dao động, và nghiệp lực là dòng cuồng lưu phía dưới, nó dễ hợp với duyên (gió, bão…) tạo nên sóng thần, động đất. Còn thể xác chúng ta trên địa cầu nhỏ đến mức không thể so sánh với một hạt cát trong vũ trụ. Trong vũ trụ, vọng tâm lại biến hiện ra vô lượng vũ trụ khác. Chỉ lúc người tu đại ngộ mới thoát vọng tâm, trở về chân tâm, hiểu sơ đẳng giống như một người đang giữa trận cuồng phong tàn phá kinh hoàng, bỗng trời yên biển lặng. Như trong cơn ác mộng thức giấc, mồ hôi còn đầm đìa. Bỗng à lên, thì ra mơ. Sợ quá. Khiếp quá. Đây không phải so sánh, mà thật. Đại ngộ là tỉnh mộng. (Đại sư Vĩnh Gia: “Trong mộng rõ ràng có sáu cõi, tỉnh mộng rồi không cả đại thiên”).
Chúng sanh đều đang trong một giấc mộng lớn. Hãy kiểm thảo, hiếm ai trong mơ lại biết mình đang mơ. Vậy chúng ta đi đứng nằm ngồi, chúng ta véo mình thấy đau, sao gọi là mơ. Điều này Duy Thức Phật giáo giải thích cặn kẽ, hiện thời còn được ngành vật lý lượng tử minh tường. Chẳng hạn bóng đèn nê-ông bật sáng, dưới ánh nhìn khoa học thực nghiệm, ấy là sự tắt và đỏ của liên tục các điện tử nối tiếp. Trong Kinh còn nêu thí dụ, quay tròn ngọn đuốc, ta thấy một vòng lửa, thật ra đó là sự tương tục của vô vàn điểm nối ngọn đuốc với nhau, nhanh quá nên mắt thường không nhận ra. Trong phim nhân vật bước một bước, đó là sự nối ghép của 24 hình/1 giây.
Một giây, 24 hình tương tự [nối nhau] ẩn hiện đã lừa được nhục nhãn; huống hồ trong một giây vọng tâm phát xuất hàng tỉ ý niệm vi tế. Sự tiếp nối đó tạo nên vạn vật chuyển động. Chuyển động sinh năng lượng. Năng lượng sinh vật chất. Vẫn là mộng. Lúc ai nằm mơ, là mộng trong mộng, thậm chí trong mộng của mộng lại có mộng nữa, mộng đến khôn cùng. Địa ngục chính là những cơn ác mộng nối nhau không ngừng; nó là sự phản chiếu của nghiệp lực ta gây trong kiếp trước và kiếp này. Sự công bằng của con tạo khiến người đời không thể tin nổi. Tin, chính ở phước duyên sâu dày chủ yếu nhờ đời trước đã gieo nhân Phật pháp, đã tu.
Ta đều đang nhìn thấy một phần nhỏ chân lý tối thượng mà thôi. Trái đất lớn bằng ngôi sao, thì dải ngân hà có hàng tỉ ngôi sao; con người đã biết được mấy ngôi sao theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa (như vừa chân ướt chân ráo đặt lên sao Hỏa); nói gì đến trong vũ trụ có vô lượng tỉ tỉ dải ngân hà. Ta thiển cận về toàn thể vũ trụ như thế nào thì thiển cận với nhân sinh như vậy. Ngay đến thiên tài, họ cũng mới tận/sử dụng những tài năng phàm thường trong kho tàng vi diệu cuộc đời, và cũng thiển cận về bổn tâm mà thôi. Mỗi ta đều có chân/Phật tâm, cả vũ trụ nằm trong ấy, ta sẽ không hề chạm tới được [nếu chẳng nỗ lực tu hành]. A-lại-da thức chúng ta tích lũy vô vàn nghiệp lực thiện ác, dẫu qua bao nhiêu kiếp đầu thai đều y nguyên. Một lượng thông tin khổng lồ, lượng nghiệp lực khổng lồ “có hình tướng sẽ đầy cả hư không” nếu gặp duyên sẽ hiện cảnh quá lợi hại. Phật giảng: không ân oán, không đền nợ trả nợ đời trước sẽ không trở thành vợ chồng con cái trong kiếp này.
Là sự hút nhau tự nhiên như một dạng sóng cùng tần số. Trả nợ thì con hiếu thuận, đòi nợ thì con bất hiếu; thậm chí còn trường hợp, con ngoan hiền song ốm yếu bệnh tật, cha mẹ bán hết gia sản đến mạt vận, cũng là một cách đòi nợ! Duy hướng vào Phật pháp mới chuyển được nghiệp bất hiếu [từ kiếp trước] thành có hiếu [trong kiếp này]. Rồi nữa, một ngày bỗng gặp người lạ giúp đỡ mình, ngược lại lần đầu tiên gặp mặt người đã muốn đẩy ta đến đường cùng, đích thị duyên nợ từ tiền kiếp. Ta không nhận ra trước đã gây nhiễu gì cho họ; họ cũng không hề biết, song nghiệp lực trong tàng thức nó “có mắt”, biết nhận dạng do đó nó thôi thúc họ phải trả thù. Tuy nhiên, sự đòi nợ thường rất ít, gần như qua kiếp này oan gia chỉ đòi phần lãi (xóa phần nợ gốc). Đòi lãi, ta [do mờ nhân quả] nên tìm cách trả đũa mạnh bạo hơn, thế là dư báo! Chính ý nghĩ đòi lại “công bằng” là đầu mối của lục đạo, phần nhiều luân hồi trong cõi quỷ, cõi loài vật và địa ngục. Người giàu sang danh vọng, trước hết là nhờ sự quy đổi từ phước trong mạng nhiều đời; không hiểu không tin, ngỡ nhờ tài năng của mình nên mặc sức phình bản ngã tiêu pha hưởng thụ, mặc sức coi khinh những người yếu hèn nghèo đói; không dùng phước ấy làm phước, gặp đại họa, đời sau mang lông đội sừng...
Tiêu tiền hưởng thụ, vốn là tiêu phước. Phước mỏng dần nghiệp báo sẽ hiện, mà tai nạn, bệnh tật luôn là thước đo. Một nhân vật lừng danh, bỗng gặp nạn, thân liệt trí mờ, bấn loạn mộng mị triền miên; giữa lúc ngoài kia sản phẩm dán mác của họ vẫn ngồn ngộn đẻ ra tiền bạc. Họ chìm vào cõi cô đơn tận cùng cho tới lúc hồn dứt khỏi xác đau như “rùa sống lột mai”. Cũng khoan nói chuyện thức nhập thai loài gì. Thân mất, thức ấy không chịu quy định bởi vật chất thế gian nữa mà quy định bởi phước đức. Hãy tưởng đến cảnh thân vừa mất, ta thấy ngay xác mình nằm đó dần thối rữa. Ta biết mọi sự diễn ra, thấy họ hàng thân quyến đó lại bất lực trao đổi bất lực sờ chạm. Ta đói không ăn được đồ cúng kiếng ngon lành bốc khói; ta lạnh được cúng áo ấm đốt lửa vẫn lạnh, ta nóng [hồn] chui vào tủ đông vẫn nóng. Và nếu [linh hồn] vẫn chấp trước về quan tài đắt tiền, nấm mồ sang trọng, cái ngã sẽ giữ họ ở lại trong cảnh giới thân trung ấm chịu đau khổ bội bội lần thảm cảnh cuối đời, không thể siêu thăng lên cõi thanh bình.
Phật vô ngã. Chúng sanh sở ngã. Cái Ngã to đùng và nó không ngừng lớn mạnh theo chút tài sắc bé mọn. Ngã chấp càng lớn vô minh càng dày, càng che khuất phần minh tuệ trong căn mạng. Cống cao ngã mạn nhờ nói lưu loát vài thứ tiếng? Xin phép gạn ra lớp váng mê tín dị đoan để nêu sự thật: một người nông dân lúc lên đồng, vong nhập vào liền tuôn ra trôi chảy nhiều thứ tiếng. Lúc hồn kia xuất lập tức họ trở về sự thể ban đầu là người một chữ [ngoại ngữ] cắn đôi không biết! Đó dẫu sao vẫn là tục đế. Xét về chân đế, người chứng quả Thánh đầu tiên đã có thiên nhãn thông, nhìn thấu cảnh trời và địa ngục; chứng thêm nhị, tam, tứ quả liền thấu suốt ý nghĩ của bất cứ ai (Tha tâm thông), rồi Thần túc thông, hễ khởi ý niệm muốn tới đâu liền có mặt ở đó.
Người Niệm Phật đạt nhất tâm bất loạn có thể “tiền trạm” tới Tây phương Cực Lạc, thế giới của Vô Lượng Thọ, muốn bất cứ gì liền có nấy, không muốn tự biến mất. Nhưng trong nhà Phật không phải khuyên tu để đạt những thứ ấy đi lòe thiên hạ. Những vị chứng càng cao, chúng ta sẽ càng không thể biết! Người được xem và tự cho mình thông minh tỉnh táo hơn các bậc đại đạo sư, cho mình luôn làm chủ bản thân, thực chất nhầm lẫn. Khiến tự ngã thêm lớn. Một khi ta không ít nhất sai khiến được tập khí phiền não, đơn giản và cụ thể như không làm chủ không hóa giải nổi cơn nóng giận, là đang sống trong sự lôi dẫn của nghiệp lực. Con người sống bằng vọng tâm, gọi đúng danh từ là con rối của nghiệp lực.
Chúng ta có mặt trên đời bởi sự hội tụ kết tinh nghiệp từ tiền kiếp. Có những đứa trẻ mở mắt sống chưa bao lâu đã nhận ngay nghiệp dữ quá khứ; lý do khiến người đời thường gọi “trời không có mắt” gây oan giá họa.
Thực tế nhân quả tơ hào không sai. Lộ trình từ nhân tới quả biến hóa khôn lường; quả có thể méo mó biến dạng khiến ta không nhận ra, tuy nhiên hiển nhiên nhân xấu đã gieo, không sớm thì muộn quả xấu sẽ ập đến. Thường tội lỗi [nhân đời trước] chưa hiện, ta lớn dần theo cái nhìn và ý nghĩ của gia đình; lớn thêm bị quy định thêm qua tâm thái nhìn nhận của bè bạn, xóm làng; với những người nổi tiếng họ còn “nối mạng tư tưởng” với rất nhiều người trên địa cầu. Ý niệm câu thông khắp vũ trụ, còn mạnh hơn bất kỳ loại sóng nào khoa học từng khám phá. Khoa học, với những mệnh đề kiểu như “hiệu ứng cánh bướm” đã trở lên dễ hiểu. Do vậy ý niệm là yếu tố tiên quyết làm nền móng tương lai mỗi sinh mệnh. Lúc thai nhi hình thành phải được thai giáo. Người mẹ chẳng những nên sống trong một không gian nền nếp khuôn phép không có tạp âm mà ngay đến ý nghĩ của mình cũng luôn thiện lương hòa ái. Ý niệm là mấu chốt gieo nên nghiệp lực [xấu ác] mạnh mẽ nhất.
Tin nhân quả là điều trọng yếu. Tin nhân quả là bước đầu làm chủ vận mạng. Nhân quả phải là bài học đầu tiên và xuyên suốt đời người. Được giáo dục về nhân quả, đứa trẻ sẽ không nghĩ/nói xấu ác, vu oan giá họa cho ai, sẽ không ăn cắp ăn trộm thứ không phải của mình, lớn lên sẽ không sa đà rượu chè hút chích, sẽ không tà niệm với kẻ ngoài vợ mình. Đứa trẻ từ nhỏ được dạy không sát hại động vật kể cả côn trùng muỗi kiến, ngược lại còn yêu thương động vật từ mèo chó trong nhà đến những loài vật hoang trong rừng, làm sao chúng có thể khởi ý niệm hại [giết] người cho được. Nhân quả cũng giống như giới luật. Sống trong nhân quả tức đang sống trong một không gian thanh tịnh. Ta chưa hề thấy cố nội, qua ảnh cũng không, nhưng chắc chắn tin có cố nội. Có cố mới có ông, có ông mới có cha,… Nhân quả đời trước cũng vậy, ta không thấy song phải tin sâu sắc. Phật dạy nhân quả xuyên ba đời.
Tin chắc tất cả mọi sự việc không như ý gặp phải tuyệt đối chẳng ngẫu nhiên, mà do nhân từ đời trước, phải tin và quán, và quán như thế mới không khởi tâm oán hận người đã gây hại cho mình, không khởi tâm báo thù trả đũa. Người kia gây hại dù lớn đến đâu sẽ có nhân quả vũ trụ quản lý, sẽ bị báo ứng trừng trị chẳng sớm thì muộn, chớ bao giờ khởi niệm "thay trời hành đạo", muốn chỉnh sửa, giáo huấn, trừng trị y. Khởi ý niệm này nguy hiểm vô cùng, trước hết là gây tổn phước báu cho mình, nữa là làm cho mạng lưới nhân duyên cộng đồng cũng bị tổn hại và chính ta lúc mạng chung sẽ lọt vào đọa xứ. Chưa hết, khởi loại ý niệm này các oan gia trái chủ vô hình trong nhiều đời sẽ có dịp thuận tiện càng tác ý giúp thêm cho ý niệm xấu của ta mãnh liệt. Mỗi người cơ bản đều có số lượng lớn oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp âm thầm theo sát; nhờ phước ta còn dày, họ chưa thể làm gì; không tu phần đông nghiệp sẽ nhào tới lúc lâm chung. Nhớ hồi học đại học, tôi luôn mua thức ăn của một dì bán thịt heo đã ba chục năm. Bẵng đi rất lâu, một ngày hay tin dì bị ung thư, tôi liền tới thăm.
Dì nói thường thấy ai cầm dao băm chặt dưới chân... Thật mừng, những ngày cuối đời dì được đạo hữu gần đó khuyên niệm Phật, lúc tôi đến thăm dì còn bảo đọc Chú Đại Bi cho dì nghe... Có người khác, cận kề cái chết đã thấy rành rành oan gia nghiệp báo, sợ đến biến dạng mặt mày lật mình xuống giường, mà nào có trốn được. Pháp gọi hiện tượng này là hoa báo; hoa báo hiệu cho quả phía bên kia đời. Lúc sống, ai từng vùng mình khỏi cơn ác mộng (như bị truy đuổi chém giết, bị tra tấn hành hạ…), sẽ cảm được chút ít về địa ngục. Hơn thế, trí não ta chỉ mới tưởng đến cảnh hành lạc, tưởng đến cảnh sẽ phương hại “kẻ thù” như thế nào, vào địa ngục cũng hiện lên như vậy để thọ nhận. Bạn trong đời không đánh đập ai, song đã từng giết một con cá hay bất kỳ loài vật nào như thế nào, lúc mất thân, hồn vào địa ngục sẽ [hiện] chịu lại nỗi đau như thế; chủ tâm giết tổ kiến từng con từng con, vào hỏa đồ nhận lại như vậy. Ở đời cắt xẻ thịt động vật chiên xào ra sao, vào địa ngục ta bị chặt khúc rán lên như vậy. Đây chỉ là điểm xuyến thoáng qua cảnh tượng nhân quả điệp trùng Phật thuyết trong kinh Địa Tạng.
Đau đớn đến trời đất cũng ứa máu! Biết làm sao. Nghiệp ấy tự tạo tự chịu, không ai quy định cả. Đó là quy luật vĩnh hằng trong vũ trụ, người phát hiện ra chính là Phật. Phật nói lên sự thật, ai không tin đành thọ nghiệp dữ. Một sự thật quá thảm, sự thật vượt khỏi lối suy niệm thông thường, nên nó trở thành hoang đường. Nhưng cái hoang đường đó vẫn thường ngày nhỡn tiền sống động trong nhân sinh thế tục, sống động tuyệt đỉnh trong mắt của bậc chân tu.
Nhân quả hữu hình đã vậy, nhân quả vô hình quả đáng sợ biết báo - đó là Ý Niệm. Ý niệm cũng có đồng minh bè phái. Ý niệm xấu khởi ra, lập tức chiêu cảm cùng loại cuộn về như lốc tố, chiêu cảm các ác niệm cùng loại của các ác thần ác quỷ, la sát. Ngược lại ta khởi tâm lành, nhẫn nhục, tha thứ cho đối phương thì nghiệp chướng tiêu nhanh, sức khỏe ngày càng kiện khang trường thọ. Trong nhiều buổi giảng cho Phật tử và giới trí thức, tiến sĩ Nguyễn Tường Bách cũng đặc biệt nhấn mạnh điều này. Các bậc đại đức hiện thời thì kết hợp với những khám phá của khoa học để hướng người đời cứu thế giới bằng việc giữ ý niệm thiện, thay thế và loại trừ tà niệm.
Ai không tin có thể đặt hai bát cơm, hai bát nước, hai loại trái cây hay bất cứ “vật vô tri” nào ở hai căn phòng, một nghĩ xấu về nó, một phát ý nghĩ yêu thương, một thời gian sẽ thấy thứ vô tri đó biến đổi thế nào, tươi ngon hay thối úng. Xin mở ngoặc, chỉ phát ý niệm thiện hay ác là đủ, không cần chưởi rủa hay nói lời yêu thương. Những loại “vô tri” trên sẽ [bắt sóng] hiểu và biến đổi theo ý niệm của chúng ta. Qua đây cũng cho thấy ý niệm phát từ tâm mới trọng yếu, trí não sẽ nhận tín hiệu sau đó mới sai sử chân tay miệng tạo tác. Ý niệm chính là nhiên liệu tạo nên bản chất mỗi người. Nếu ý niệm không thể hiện ra chân tay miệng, bề ngoài trong đời sống y không làm hại ai song chớ nhầm tưởng y thiện lương. Trong tâm y mang ý niệm sân hận, luôn muốn người ấy người kia sớm thân bại danh liệt mau già mau chết; và bởi góp vào vũ trụ loại từ trường cực xấu, chẳng những y hại một người mà còn [góp phần] hại đến cả nhân loại. Thầy Tuệ Hải trong một buổi giảng về Nhân Quả có đoạn:
"Theo kinh Địa Tạng, chúng ta chỉ cần tác ý liền có nhân quả. Mỗi khi mình nghĩ tốt, sẽ tạo một dạng sóng trường tốt đưa ra vũ trụ, nghĩ xấu sẽ tạo sóng trường xấu mang theo một dạng màu. Nghĩ thiện lành sẽ cho ra màu trong sáng, êm ái nhẹ nhàng, đi hoài trong không gian không mất, thứ hai cái sóng trường thanh bình đó sẽ chạm tới các cõi có chúng sanh đau khổ, khiến được mát dịu; ta được nhận ngay phước. Nhưng mỗi lần sân si nghĩ xấu, sẽ tạo một sóng trường bất an mang theo khí xấu, mang theo sự khó chịu cho người, khiến ta tổn phước. Thử lắng tâm nghĩ xấu đến ai, là họ cảm giác khó chịu khi nghĩ tới mình liền… Trong Kinh nói nhất niệm xuyên tam giới là sự thật. Một ý niệm chúng ta đi khắp tam giới chứ không phải chỉ tới một vài người bình thường; và trong khoảng cách từ mình đến đối phương còn có rất nhiều cõi, nhiều loài chạm phải, thì đã có nghiệp, có quả báo dành cho ta rồi”.
Nên nghĩ tốt về người. Loại ra những điều xấu của người và thay bằng những lời nói, cử chỉ tốt của họ dẫu chỉ là tí ti. Hành giả Tịnh tông, không cứ thiện ác, cứ phát tâm từ ái niệm (tai nghe rõ) “A Di Đà Phật” ắt lợi đôi đường cả Đời lẫn Đạo. Sao niệm Phật tai phải nghe rõ từng chữ? Bởi niệm Phật (dẫu là niệm thầm) tai không nghe là miệng niệm chứ không phải tâm niệm, cũng bằng ta đang nhờ người khác niệm hộ; để tâm ta nhảy múa vũ điệu tập khí trần ai.
Niệm Phật tai không chịu lắng nghe [câu mình niệm] là tu bề ngoài, chỉ ngửi mùi chứ không thực được ăn món ấy. Niệm Phật như vậy miệng niệm nhưng tâm vẫn nhìn lỗi thế gian, đu theo mà phê bình hê hả. Lục tổ Huệ Năng khuyến “bậc chân tu không nhìn lỗi thế gian”. Người tu nào còn tin Ngài, với lời khai thị này hẳn phải chạm khắc vào máu huyết. Còn nhìn lỗi thế gian, nên hiểu ngay [lúc đó] chưa phải chân tu! Khoa học lượng tử lúc thấu tỏ lý này quả thực thấy… đau đầu; cuối cùng đưa ra hướng giải quyết thật khế hợp với tinh thần kinh điển: Thay vì chống chiến tranh, hãy ủng hộ hòa bình.
Tu, trước nhất ở Tâm; là sự thay thế ý niệm, khiến mọi vọng niệm thế gian quy về chân niệm. Mức thấp nhất, hễ nghĩ ác nghĩ xấu lập tức biết để thay vào những ý nghĩ thiện. Ý nghĩ chuyển, hành vi mới chuyển. Người lo chuyển hành vi lại không chuyển ý niệm là gãi ngứa ngoài dày, đầu đội đất chân đòi đạp trời. Hãy hướng vào nội giới, hướng vào kiểm thảo từng ý niệm tung hoành tạo tác trong tâm. Hãy nhìn lỗi mình sửa lỗi mình, chớ nhìn lỗi người lo sửa lỗi người trong lúc mình [soi gương tạo dáng nhiều] lại nhìn bản tâm quá ít. Hễ thấy anh kia rượu chè phè phỡn là chê bai bại hoại, lại không nhìn mình đóng cổng tà hạnh (ở đây chỉ nhấn mạnh việc quá mức với vợ, chưa cần mở đến dan díu bóng hồng). Thấy bà kia nhiều chuyện lại không thấy mình nịnh nọt bợ đỡ.
Thấy kẻ tham ăn lại không thấy mình tham ngủ nghỉ, tham quyền cố vị. Thấy người gặp nạn liền cho chắc hắn ở cơ quan sống chẳng ra gì, lại không nhìn nhân xấu mình thường gieo và ngay vừa khởi cái ý niệm hả hê đó... Quán sâu sắc chân lý tuyệt đối, rằng ta chỉ hiểu người được một phần tỉ tỉ, không thể khởi ý niệm phê bình. Thế gian chẳng thiếu hàng Bồ tát nghịch hạnh, những vị Phật thị hiện tướng “ác” tùy duyên độ cho những chúng sanh đặc biệt, ta không biết nên cứ mặc nhiên phạm thượng chư Phật và Bồ tát. Một vị Tổ khuyên xem tất cả chúng sanh đều là Phật, ngoại trừ ta [là phàm phu]. Tâm đạt đến mức này mới mong về nước Phật.
Tâm đạt chuyên nhất tinh ròng niệm câu hồng danh “A Di Đà Phật”, mới mong rời Ta bà về Cực Lạc. Tâm loạn, cần dụ tâm niệm theo chuỗi 5 hoặc 10 câu hoặc bao câu tùy, cứ niệm hết một chuỗi liền quay lại từ đầu. Không nên niệm một câu thì đếm một, mà phải dụng tâm nhớ. Niệm một chuỗi 9 câu, thì cứ ước niệm 3 câu, rồi 3 câu, rồi 3 câu nữa - xong một chuỗi. Hễ nhận thấy, ồ ta niệm đến câu thứ mấy [trong 9 câu] rồi, đó là vọng đang trỗi, phải xóa ngay vòng đó niệm lại từ đầu. Ta lạc vào một nơi có trường lực xấu, có sao khi trong tâm cứ niệm Phật.
Ta phải sống trong ngôi nhà trái phong thủy, hay ngôi miếu được cho nhiều ma quỷ chướng khí, có sao, cứ niệm Phật. Sóng phát ra từ câu “A Di Đà Phật” là siêu thiệu, ta vô nhiễm lại thanh lọc được cả không gian rộng lớn. Tu như vậy có đơn giản? Thực tế hiếm có pháp nào trong tám vạn bốn ngàn pháp môn đơn giản hơn. Kết quả lại quá tối thắng. Trên thế gian nhiều hành giả niệm “A Di Đà Phật” biết trước ngày giờ được về nước Phật trước ba ngày, trước ba tháng, trước nhiều năm. Đúng ngày giờ Phật hẹn (mà đương sự đã thông báo với đại chúng trước đó), hành giả không bệnh tật, tỉnh táo niệm Phật mà đi, để lại thân tướng sáng rỡ. Sự này, không lời tôn vinh nào đủ xứng đáng, đành phải dùng cụm từ: “Không thể nghĩ bàn”.
Điều đơn giản nhất cũng là thâm mật. Sao phải niệm Phật?, bởi đó mới chính đang làm chủ nghiệp lực, làm chủ vận mạng. Còn không chúng ta sống bởi sự hội tụ của tất cả ý niệm từ vô vàn người quen; kể cả những người thân nhất - cũng đang làm hại ta! Hiển nhiên. Một đứa con hư, ta liền chì chiết đồ bất hiếu nghịch tử, lúc nào cũng ý nghĩ này, và câu này sẽ phát ngay hễ nó bỗng phạm một lỗi khác. Một kẻ phạm tội ăn trộm vào trại giam, được ân xá về quê; anh ta thay đổi hoàn lương, song đến nhà bạn, bạn có đề phòng? có cất ngay ví tiền và những đồ quý trước lúc xuống nhà dưới. Tâm đề phòng xuất phát từ ý nghĩ trong tâm đen, rằng hắn, kẻ ăn trộm.
Tên ăn trộm, hãy đề phòng! Ý niệm này đã xuyên vào bản thể anh ta khơi dậy hạt giống nhòm ngó tài vật của người. Bỏ qua đức tính tốt của người, cứ chăm chăm nhìn lỗi, ý nghĩ xấu này sẽ góp phần bồi đắp lỗi thành bản chất, và dĩ nhiên nó sẽ phương hại chính mình. Từ trường ý niệm chẳng khác lúc ta hét vào một hang động, rồi nó sẽ dội lại chính ta. Cứ tưởng đến cảnh tay hốt rác vứt qua hàng xóm, sẽ biết ngay tay mình dơ trước; hay đó là cảnh ngậm máu phun người theo cách diễn của triết lý dân gian, sẽ hiểu. Tâm chao đảo, nhân loại trên trái đất và vũ trụ hiện từ cõi mê chao đảo.
Bậc chân tu thường ngày vẫn miên mật hạ thủ công phu lấy đó hồi hướng cho những người Đức Phật gọi với tận cùng tình thương yêu là “đáng thương xót”, nhưng dẫu sao vẫn là cứu vãn tình thế, trong lúc gốc bệnh của chúng sanh không ngừng gia tăng thông qua cấp số nhân của ý niệm bất chánh. Đây, là nguyên nhân sâu xa khiến ngay đến bậc đại triệt đại ngộ với năng lực vô biên cũng đành “bó tay”, không thể ngày một ngày hai cứu nổi chúng sanh thoát Lục Đạo.
Đăng lúc: 19:35 - 09/11/2015
Phước hay họa đều do nghiệp (hành động, tạo tác của con người thông qua suy nghĩ, lời nói, việc làm. Tạo nghiệp tốt thì gọi là thiện nghiệp. Tạo nghiệp xấu, ác thì gọi là bất thiện nghiệp hay ác nghiệp.
Có họa phước không?
Trong những tai nạn, hiểm họa như động đất, sóng thần, bão lụt, chiến tranh, dịch bệnh, hỏa hoạn… một số ít người may mắn được sống còn trong khi nhiều người khác không thoát khỏi cái chết. Sự may mắn đó người ta gọi là phước.
Có người vừa mới ra đời đã phải gánh chịu những bất hạnh khổ đau: bệnh hoạn, tật nguyền, bị vứt bỏ, hoặc sinh ra trong một gia đình khốn khổ, hoặc sinh ra trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc… Cuộc sống đang an lành bỗng dưng tai ương xảy đến cho gia đình khiến tan nhà nát cửa, mất người thân, mất gia tài sản nghiệp… Những hoàn cảnh khốn khổ, những tai ương hoạn nạn, những nỗi khổ niềm đau ấy, người ta gọi là họa.
Phước và họa đều do nghiệp
Phước và họa không phải tự nhiên sinh ra cũng không phải do ông trời (Phạm thiên hoặc Thượng đế) hay thần linh sắp đặt. Có đấng siêu nhiên nào lại bất công ban hạnh phúc cho người này nhưng lại gieo khổ đau cho kẻ khác? Những con người hiền lành lương thiện, họ có tội lỗi gì lại phải gánh chịu những thảm họa đớn đau? Những kẻ gian ác, bất lương có được ân phước gì mà lại bình an, sống trong hoàn cảnh tốt? Tất cả những hiện tượng sai biệt và những vấn đề dường như bất công, phi lý ấy đều có những nguyên nhân gần và xa mà chúng ta không thấy, không biết hết.
Kinh Phật có ghi: Một lần có người hỏi Đức Phật nguyên nhân tại sao trên thế gian có quá nhiều sự sai biệt bất đồng: người sống lâu, kẻ chết yểu; người ít bệnh, kẻ nhiều bệnh; người đẹp, kẻ xấu; người giàu, kẻ nghèo; người có nhiều uy quyền, kẻ không có thế lực; người cao quý, kẻ thấp hèn; người thông minh, kẻ ngu khờ v.v…
Đức Phật cho biết tất cả những hiện tượng đó đều do nghiệp. Con người là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Chính nghiệp đã phân chia các loài hữu tình có hơn kém như thế. Đức Phật cũng cho biết cụ thể rõ ràng một số nghiệp nhân và nghiệp quả tiêu biểu dẫn đến sự sai khác giữa con người với con người, giữa các loài hữu tình với nhau:
Chết yểu là do nghiệp giết hại các loài hữu tình, không có tâm từ bi. Sống lâu là do từ bỏ giết hại, có tâm từ bi. Nhiều bệnh là do đời trước thường não hại các loài hữu tình. Ít bệnh là do không não hại các loài hữu tình. Tướng mạo xấu xí là do thường hay phẫn nộ bất mãn, tâm sân hận. Tướng mạo xinh đẹp là do không phẫn nộ bất mãn, tâm nhu hòa, từ ái. Nghèo là do không bố thí, cúng dường. Giàu có là do đã bố thí, cúng dường. Ít uy quyền là do thói ganh tỵ, đố kỵ với người được quyền lợi, người được tôn kính. Nhiều uy quyền là do không ganh tỵ, đố kỵ.
Sinh vào gia đình hèn hạ là do tâm ngạo mạn, kiêu căng, thường khinh khi kẻ khác, không kính người đáng kính, không trọng người đáng trọng. Sinh vào gia đình cao quý là do tâm khiêm tốn, nhún nhường, thường tôn kính người đáng kính. Không có trí tuệ là do không thường đến các bậc tu hành để học hỏi. Có trí tuệ là do thường đến học hỏi các bậc tu hành (Kinh Tiểu nghiệp phân biệt, số 135, Trung bộ kinh III).
Phước hay họa đều do nghiệp (hành động, tạo tác của con người thông qua suy nghĩ, lời nói, việc làm. Tạo nghiệp tốt thì gọi là thiện nghiệp. Tạo nghiệp xấu, ác thì gọi là bất thiện nghiệp hay ác nghiệp.
Trong kiếp sống hiện tại và nhiều kiếp sống quá khứ, chúng sinh đã tạo ra vô số nghiệp thiện ác cho nên phải chịu thọ nhận niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên những ai tạo thiện nghiệp nhiều thì đời sống sẽ nhiều niềm vui, nhiều hạnh phúc hơn những chúng sinh tạo nhiều bất thiện nghiệp. Do đó có người giàu sang, uy quyền tột bực và có người nghèo hèn, khốn khổ vô cùng.
Chúng sinh không thể nào nhớ được những nghiệp mình đã tạo ra trong kiếp sống quá khứ. Ngay cả trong kiếp sống hiện tại, con người cũng không thể nào nhớ hết những nghiệp nhân của mình đã làm. Do đó khi nghiệp quả xảy ra, phần nhiều chúng ta không biết đó là kết quả của nguyên nhân gì. Chỉ các bậc Thánh xuất thế gian như Đức Phật và các vị Bồ-tát, A-la-hán mới thấy biết rõ hành nghiệp của chúng sinh, những nghiệp nhân đã gieo và những nghiệp quả phải nhận lãnh của họ.
Phước là yếu tố rất quan trọng để hình thành đời sống an vui, hạnh phúc. Người có nhiều phước báo sẽ dễ dàng thành công trong cuộc sống, dễ dàng vượt qua những trở ngại, khó khăn và có được những gì mà đời sống thế gian mong đợi (quyền uy, sức khỏe, giàu sang, nổi tiếng, may mắn, hạnh phúc).
Ngược lại, họa là yếu tố khiến cho đời sống con người điên đảo, khiến cho họ phải chịu bất hạnh, khổ đau. Đối với người có phước, cuộc sống nhiều sung sướng, mãn nguyện bao nhiêu thì đối với người vô phước, cuộc sống nhiều cực nhọc, bất mãn và khổ đau bấy nhiêu.
Đánh giá một cách tương đối thì thế gian này vui ít khổ nhiều trong mắt của người ít phước báo; vui nhiều khổ ít trong mắt của người nhiều phước báo; khổ vui lẫn lộn, đan xen đến rồi đi không ổn định đối với người có tội lẫn phước báo xấp xỉ với nhau.
Rất ít người tạo được những phước nghiệp cần và đủ để có một đời sống hạnh phúc, đa phần có phước báo này nhưng lại thiếu phước báo khác, vì thế nhân loại không có bao nhiêu người mãn nguyện với cuộc sống này. Mặt khác, những ai tạo được phước nghiệp quá lớn đủ để sinh về các cõi trời thì họ không xuất hiện ở cõi người, nên bản chất của cõi người là không có niềm vui, hạnh phúc lâu dài, viên mãn.
Phần lớn chúng sinh cõi người đều thiếu phước báo để có được một đời sống mãn nguyện. Có những người thành đạt, nổi tiếng từ khi tuổi còn trẻ, nhưng có những người sống đến hết cuộc đời cũng chẳng làm được sự nghiệp chi, thậm chí cuộc sống bấp bênh, phải chịu cảnh khốn khổ, bần hàn và gặp nhiều tai ương hoạn họa.
Không phải người nào giàu sang, thành đạt hoặc có quyền uy, đều là người có tài năng và đạo đức. Cũng không phải ai nghèo khổ, khốn khó cũng đều là những kẻ bất tài vô dụng. Tất cả đều do nghiệp mà họ đã tạo ra trong hiện tại và quá khứ gần hoặc lâu xa, dẫn đến sự nhận chịu phước và họa nhiều hay ít.
Người có phước giàu sang nhưng không có phước thọ mạng. Do quá khứ có làm phước bố thí nhưng tạo nghiệp giết hại chúng sinh, cho nên sinh ra đời thụ hưởng sự giàu sang sung túc nhưng lại chết sớm khi tuổi đời còn trẻ. Ngược lại, có người có phước sống thọ nhưng không có phước giàu sang nên sống cả đời trong hoàn cảnh bần hàn khốn khó.
Người có tài năng, trí tuệ nhờ đời trước siêng năng nghiên cứu, học hỏi, thường gần gũi cầu học nơi các bậc hiền trí nhưng nếu không tạo nghiệp bố thí, không biết chia sẻ với người khác thì không có được phước báo giàu sang và ít có người ủng hộ.
Trong kinh Phước đức (Tiểu bộ kinh), Đức Phật dạy 10 phương pháp tạo phước đức cho mình và người, đây chính là cách kiến tạo đời sống an vui, hạnh phúc bền vững:
1. Lánh xa kẻ xấu ác, luôn thân cận người hiền, tôn kính bậc đáng kính.
2. Sống trong môi trường tốt, được tạo tác nhân lành, được đi trên đường chánh.
3. Có học, có nghề hay, biết hành trì giới luật, biết nói lời ái ngữ.
4. Được cung phụng cha mẹ, yêu thương gia đình mình, được hành nghề thích hợp.
5. Sống ngay thẳng, bố thí, giúp quyến thuộc thân bằng, hành xử không tỳ vết.
6. Tránh không làm điều ác, không say sưa nghiện ngập, tinh cần làm việc lành.
7. Biết khiêm cung, lễ độ, biết đủ và nhớ ơn, không bỏ dịp học đạo.
8. Biết kiên trì phục thiện, thân cận giới xuất gia, dự pháp đàm học hỏi.
9. Sống tinh cần tỉnh thức, học chân lý nhiệm mầu, thực chứng được Niết-bàn.
10. Hành xử trong nhân gian, tâm không hề lay chuyển, phiền não hết, an nhiên. Ai sống được như thế, đi đâu cũng an toàn, tới đâu cũng vững mạnh, phước đức của tự thân (HT.Thích Nhất Hạnh dịch).
10 phương pháp trên chính là những thiện nghiệp sinh ra công đức, phước báo làm cho hữu tình (người, trời) được nhiều an vui, lợi lạc (Bởi loài người, trời mới có nhiều điều kiện thực hành những phương pháp này, còn chúng sinh ở các cõi khác như súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục bị nhiều khổ não bức bách nên rất khó tu tập).
Ngay khi sống theo những lời dạy trên chính là đang sống trong an lạc hạnh phúc (ở hiện tại) chứ không chỉ có hạnh phúc trong tương lai và đời sau. Càng thực hành được nhiều điều Đức Phật dạy thì hiện tại càng có hạnh phúc, và tương lai được sinh làm người có nhiều phước báo hoặc sinh về cõi trời. Chính vì thế mà 10 phương pháp trên còn được gọi là 10 phước đức hay 10 hạnh phúc, và bài kinh trên được gọi là kinh Phước đức hay kinh Hạnh phúc.
Đăng lúc: 19:18 - 05/11/2015
Với sự quan sát và cách nhìn của một Phật tử trí thức về các hiện tượng Phật giáo trong xã hội hiện tại, trong mong ước xây dựng một nền Phật giáo chánh tín, GN trân trọng giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Phạm Văn Nga, pháp danh Nguyên Cẩn về vấn đề đức tin và chánh tín.
Khi xã hội trống vắng niềm tin
Cách đây nhiều năm trong một chuyến công tác ở Moscow - Liên bang Nga, ông chú tôi, một quan chức trong ngành điện lực, sau cuộc hội thảo chuyên môn, giờ giải lao, một cán bộ cấp cao, một nữ phó tiến sĩ người Nga tâm sự: “Các anh may mắn hơn chúng tôi, các anh có niềm tin vào tôn giáo hay một thứ tín ngưỡng nào đó, còn chúng tôi, sau khi Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu tan rã, chỉ còn sự trống rỗng, hầu như chúng tôi chẳng biết tin vào điều gì bây giờ!”.
ngcan (2).jpg
Ở các nước phát triển, nhiều người tìm đến với Phật giáo vì đó là lối sống có thể ứng dụng
mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích thiết thực cho mình, cho người, cho môi trường...
Niềm tin tôn giáo
Là một trí thức XHCN, chắc bà ấy khi đề cập đến niềm tin không nhắm đến những tín ngưỡng như những nghi thức cầu nguyện hay những điều huyền nhiệm mà cũng không phải là triết lý theo truyền thống Tây phương, vì theo Edward Conze “Ở châu Âu, chúng ta hầu như đã quen với lỗ hổng rất lớn giữa lý thuyết của các nhà triết học và và sự thực hành của họ. Chẳng hạn như Schopenhauer và Herbert Spencer,… là những ví dụ nổi bật. Nếu một nhà triết học ở đây chứng minh được rằng không có cái ta, lập tức họ buông bỏ điều đó và hành xử như một người có bản ngã… Thật không dễ gì bài bác một nhà triết học bằng cách chỉ ra rằng ông ta thô lỗ với vợ ông ta, ganh tị với bạn đồng nghiệp, đã may mắn hơn ông ta, và đỏ mặt tức bực khi bị phản bác… Trái lại trong Phật giáo tầm quan trọng là do lối sống, một đời sống thánh thiện, buông bỏ sự dính mắc đối với thế giới này…” (*) .
Vậy cái niềm tin tôn giáo bà nói ở đây hẳn là những nguyên tắc sống, thái độ sống, hành xử với tha nhân, cái nhìn về cuộc đời. Nói như nhiều nhà nghiên cứu phương Tây, Phật giáo là một tôn giáo thực tế. Vì họ hiểu giá trị của một ý tưởng phải được đánh giá và phê phán qua việc bạn có thể vận dụng thế nào ý tưởng đó. Bất cứ nơi nào, hay ở bất kỳ ai, nếu người ta thấy những tính cách từ bi, hỷ xả, tử tế, thanh thản, tự tin, người ta sẽ hiểu cái “triết lý” thực tế phía sau những thái độ ấy và mức độ tu chứng của hành giả, không cứ là tu sĩ hay cư sĩ…
Thế nhưng niềm tin của chúng ta hôm nay ở đâu khi nhìn lại xã hội chúng ta những năm gần đây, người ta không khỏi lo âu, ái ngại vì nhiều thông tin cho thấy các mặt của đời sống đều xuống cấp, nhất là văn hóa mà ánh xạ của nó thể hiện qua các mặt ngôn ngữ, truyền thông và nhất là cách hành xử bạo lực từ nhà trường ra đường phố, công sở… Ngay cả trong tình yêu người ta cũng phũ phàng khi sẵn sàng giết, tạt a-xít, trói rồi đốt người yêu, người vợ và thậm chí con mình (!). Sân hận dễ dàng bộc phát, tràn lan nhiều nơi.
Gương mặt người Việt Nam theo một số nhà xã hội học từ lâu nay đã biến mất vẻ an nhiên, thay vào đó là những nét đề phòng. Họ căng thẳng vì đời sống chăng? Có thể nhưng ngày xưa cha ông còn nghèo hơn chúng ta bây giờ mà? Họ học theo phim ảnh Âu Mỹ hay những game bạo lực chăng? Nhưng ở những nước sản xuất ra phim hay game đó, tỷ lệ tội ác thấp hơn chúng ta nhiều? Vậy thì vì đâu, cơ chế thị trường chăng? Không, cái cơ chế ấy chỉ làm cho một số người trở nên giàu có, phát triển lòng tham lệch lạc vì thiếu sức mạnh răn đe của luật pháp hay người thi hành nương tay vì lý do gì đó (?).
Lòng tham hôm nay thể hiện qua sự nhũng nhiễu của một bộ phận quan chức, qua hành vi thiếu lương tâm làm hàng gian hàng giả, hay kê giá lên nhiều lần của một lớp tư sản đỏ, có sự tiếp tay của thể chế “lợi ích nhóm” lũng đoạn đời sống.
Và niềm tin đặt sai chỗ
Nhưng có thật xã hội hôm nay thiếu niềm tin tôn giáo không? Có người sẽ tranh luận rằng Phật giáo, chưa nói đến các tôn giáo khác, đang trong giai đoạn “phồn vinh”, được bá tánh hết sức quan tâm và có rất nhiều tín đồ. Cứ nhìn vào các lễ hội, người ta thấy chen chúc từ đầu năm đến cuối năm…Không cứ chùa Hương, chùa Bái Đính hay những chùa nổi tiếng khác, mà dịp lễ Tết, chùa nào cũng đông, người người đi chùa như trẩy hội, ngày rằm mồng một nhiều chùa tấp nập, khói hương mờ một góc đường... Đáng mừng chăng?
Phật giáo, như chúng ta biết, không chỉ là triết lý sống thực tế mà còn có những nghi lễ - nội dung tín ngưỡng, tôn giáo. Dù muốn dù không, những loại hình nghi lễ đã phát triển xung quanh giáo lý của Ðức Phật.
“Ðiều tối quan trọng ngày nay là nhận biết giá trị bức thông điệp của Ðức Phật và sống theo những lời dạy ấy. Đó là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không sử dụng các chất kích thích làm mê mờ tâm trí. Đức hạnh cao hơn là bố thí, giữ giới - những nguyên tắc đạo đức căn bản và thực hành thiền định.
Giáo đoàn của Ngài cũng đã trở thành một tôn giáo mà người ta sẵn sàng trung thành, một tôn giáo có nghi lễ, tổ chức, đường lối, tiêu chuẩn riêng để quyết định điều gì đúng điều gì không đúng, về mặt lịch sử, đó là một loại Phật giáo khác với hình thức kết tập thuyết giảng ban đầu của Phật.
Ngày đó, người tu Phật chỉ hướng đến những chân lý mà Phật chỉ dạy với tâm trí rộng mở, và tự do tư tưởng vì Phật giáo chủ trương giải thoát chúng ta khỏi một đấng Thượng đế vô hình - toàn năng hay những ràng buộc siêu nhiên, và nói chung khỏi mọi giáo điều. Thế nhưng, trong khi thực hiện những nghi lễ, có không ít người đã lầm tưởng một số hình thức hay những cách biểu hiện -phi-Phật giáo là nghi lễ chính thống hay tông phái “duy nhất” đưa đến giác ngộ.
Và hiện nay, nhiều pha tạp khác len lỏi vào đời sống tôn giáo của đạo Phật, gây nhiều ngộ nhận về giá trị “tâm linh” như ngoại cảm, đồng cốt, lịch số, dâng sao - giải hạn…
Chúng ta có thể kể đến một hiện tượng được bàn tán, sôi nổi viết thành sách, trên mạng, trên báo chí, là ngoại cảm. Xuất phát từ ước vọng tìm lại hài cốt những chiến sĩ tử trận trong chiến trường, đã dấy lên phong trào “Đi tìm đồng đội”. Rồi một đồn mười, mười đồn trăm, người ta đổ xô đi tìm và trao niềm tin cho những “nhà ngoại cảm”. Thực hư cũng còn mơ hồ vì đã xảy ra những vụ lọc lừa như vụ “cậu Thủy”, kẻ làm giả rất nhiều hài cốt, mập mờ đánh lận con đen, để rồi vừa bị tuyên án chung thân cách đây một tuần. Có cả những vị tu sĩ cũng tham gia vào hiện tượng ngoại cảm này.
Với vấn đề đồng cốt, một hiện tượng không những không bị cấm mà còn được xem như loại hình văn hóa “phi vật thể”.Hòa thượng Thích Thanh Từ có lần giảng dạy: “Những kẻ làm ông đồng, bà cốt đều là người sống trong trạng thái bất bình thường. Bản thân họ đã mất hết khả năng tự chủ, họ bị sai sử bởi một ma lực huyền bí nào đó. Khi ma lực ấy dựa vào họ, liền lạm dụng các danh hiệu thánh, những bậc vĩ nhân của thuở xưa dùng mạo xưng để lừa bịp người đời. Những kẻ yếu vía dễ tin nghe xưng danh hiệu Phật, Bồ-tát hay những vị tiên thánh liền khiếp đảm kính tin. Họ không dám phê phán đó là tà hay chánh…”.
Hòa thượng nhấn mạnh: “Không khi nào các bậc Thánh phải gá vào thân kẻ phàm tục khác làm việc giáo hóa. Vì các ngài đầy đủ thần thông biến hóa vô ngại. Như thế, những ma lực tựa vào đồng cốt đều là sức của quỷ thần. Vì sợ người đời không tin, nên chúng mạo xưng những danh hiệu cho to để gây uy tín. Biết rõ tính cách ma mị của chúng, người Phật tử phải tránh xa, tuyệt đối không được phụ họa với chúng, huống là quy kính. Có thế mới tỏ ra là người Phật tử chân chánh”(**).
Trong thực tế lâu nay, với nhu cầu về tín ngưỡng dân gian, nhiều người đến chùa xin các thầy ngày giờ chôn cất, khởi sự công trình, khai trương, cúng nhà mới…
Trong tạng kinh bộ Anguttaranikaya, Phật dạy: “Này các Tỳ-khưu, chúng sanh hãy làm cho thân được trong sạch, khẩu được trong sạch, ý được trong sạch. Thân khẩu ý trong sạch trong buổi sáng là ta có giờ an lành trong buổi sáng, thân khẩu ý trong sạch trong buổi chiều thì ta có giờ an lành trong buổi chiều”.
Ngài Maha Thongkham Medhivongs diễn giải thêm: “Người làm việc lành giờ nào thì ngày giờ ấy là giờ lành. Người mong cầu an vui mà biết bố thí, cúng dường đến các bậc xứng đáng cúng dường, các bậc phạm hạnh - sẽ được an vui. Sự cữ kiêng, cúng kiếng, cầu xin đều là những việc làm không bổ ích chi cả. Người có chánh kiến không nên làm những việc vô ích, vô bổ như thế” (***). Chúng ta thấy những việc như xin xăm, bói quẻ cũng như những hình thức cầu may. Rủi may là điều xảy ra không có duyên cớ. Phó thác hành động của mình, cho đến phó thác cả quyết định của mình vào một lời giải đáp âm u được gán cho “tâm linh” - chỉ tin mà không cần cơ sở lý luận. Cái gì không thành tựu thì đều đổ lên “số”, “vận”, “khắc tuổi”…
Nếu hiểu nguyên lý nhân quả, thân tổng báo của chúng ta có lẫn lành với dữ, khi nhân lành đến thì hưởng quả lành, nhân dữ chịu quả dữ. Người mê tín gửi gắm tâm hồn vào sự huyền bí, vào thế giới vô hình, nhiều người mất hết suy lý thực tế, phó thác cuộc đời của mình cho những “vì sao”, nghi lễ cầu đảo bị dẫn dắt bởi những thầy cúng.
Một vấn nạn khác đang diễn ra, đó là hiện nay có nhiều người, kể cả có học hành, địa vị xã hội thiếu nhận thức căn bản về Phật giáo, nhầm lẫn Mật tông với những hình thức như thần quyền, sử dụng bùa chú và tin mãnh liệt rằng đó là con đường ngắn nhất đưa đến giải thoát, giác ngộ, siêu việt mọi phương pháp khác, bất chấp trì giới, thiền định, phát triển trí tuệ, gạn lọc tham sân si. Đây là một ngộ nhận rất lớn mà Phật giáo chưa thấy một sự hướng dẫn nào rõ ràng từ Giáo hội, các bậc cao tăng qua các phương tiện truyền thông mạnh dạn lý giải và hướng dẫn họ một cách chính thống.
Xây dựng chánh tín từ đâu?
“Tư tưởng căn bản của Phật giáo là lý Nhân quả, Duyên khởi, Tứ diệu đế, nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim cương thừa - Mật tông, vốn đã hiện diện hàng ngàn năm nay trong đời sống người dân Việt. Còn những hiện tượng hay nghi lễ gì đó mà không dựa trên những đạo lý này thì mãi mãi chỉ là hình thức thức phù phiếm và không phải là “chánh đạo”. Mong mọi người cẩn trọng!
Ðức Phật đã từng dạy: “Ðừng vội tin tưởng điều gì vì dựa vào một tập quán lưu truyền. Ðừng vội tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vịn vào uy tín và thẩm quyền của một người nào đó. Ðừng tin tưởng điều gì vì có được nhiều người nói đi nhắc lại. Hãy tin tưởng vào những gì mà người ta đã từng trải, kinh nghiệm, thấy là đúng, thấy có lợi cho mình và người khác”.
Ðây là một thái độ dân chủ, khoa học mà những ai theo Phật cần tiếp nhận, thấy rõ quyền tự do tư tưởng của chính mình.
Có người còn cho rằng Phật giáo không giống như một tôn giáo (religion), không phải là học thuyết (doctrine), cũng không hẳn là triết lý (philosophy) hay luân lý học (ethics) như quan niệm Tây phương, mà là lời giảng giải của một bậc giác ngộ về con đường xây dựng hạnh phúc tương đối và hạnh phúc thực sự trong cuộc đời, tự tại trong sinh tử. Nói cách khác, con đường đó đưa đến diệt ham muốn, buông bỏ chứ không trói buộc, giảm lợi chứ không tăng, đưa đến con người thiểu dục, xã hội tri túc, chứ không tạo ra những kẻ tham lam vơ vét, khiến bất công tăng lên.
Đức Phật theo quan niệm một số triết gia là thầy thuốc - vô thượng y vương, đã tìm ra nguyên nhân, đã đưa ra thuốc chữa và liệu pháp chữa trị, được tóm tắt trong giáo lý Tứ Thánh đế. Ngài chỉ ra nguyên nhân của khổ, bản chất của đời sống, cách diệt khổ. Tuy nhiên nếu có nghe, đọc, tranh luận, mà không thực hành thì những lời dạy đó cũng vô nghĩa và không hiệu quả thiết thực. Nhất là khi chúng ta đang sống trong một xã hội trống vắng niềm tin mà ngày xưa chúng ta từng có, rất mạnh, rực rỡ như thời Lý-Trần hay cũng mạnh mẽ trong những thời kỳ sau đó.
Chiến tranh qua đi, lẽ ra chúng ta phải xây dựng lại niềm tin hay đức tin ấy nhưng buồn thay, nhiều hiện tượng khiến cho chúng ta thấy rằng mọi chuyện lại đang đi về phía ngược lại. Khi người ta chạy theo những nghi thức mê tín mà không còn tin vào lý nhân quả, vào duyên khởi, vào sự giải thoát và hạnh phúc chân chính ngay trong kiếp sống này thì người ta sẽ làm bất cứ điều gì mà không hề ăn năn sám hối, thành thực sửa sai, tránh làm điều sai quấy.
Chỉ cầu nguyện - có hiệu lực chăng?
Nhiều người quan niệm cầu nguyện tất yếu phải là chánh tín nhưng thử hỏi nếu chúng ta chỉ cầu nguyện thôi thì mọi ước mơ ích kỷ đều được toại nguyện, thì xin thưa, đó là mê tín. Vì nếu chỉ cầu nguyện mà được, thì không cần nói đến nhân quả nghiệp báo. Nhưng nếu mọi sự kiện xảy ra đều do nhân quả thì cầu nguyện khó mà toại nguyện, vậy thì cầu nguyện làm gì?
Khi cầu nguyện, dù mang nghiệp nặng hay nhẹ, chúng ta cũng đã thực hiện hành trì một trong những pháp môn căn bản vì chúng ta phải nghĩ tới Đức Phật, các vị Bồ-tát khi niệm danh hiệu của các Ngài. Hành giả sẽ tin rằng vị Phật hay Bồ-tát mình vừa cầu nguyện có năng lực làm mờ, làm biến đi những ác niệm trong tâm hồn mình. Nhất là niềm tin đó phải chí thành. Hành giả phải nhận thức sâu sắc tội lỗi của mình và hồi hướng công đức về thế giới của phẩm chất an lành.
Khi chánh tín tâm thành tựu, bạn sẽ thanh tịnh hóa cuộc sống thực tế của mình từ trong ý niệm. Hiểu và tin lý nhân quả, chúng ta khéo chuyển cái xấu trở thành tốt, cái dở trở thành hay, nắm chắc quyền tự chủ, tạo dựng tương lai tươi đẹp cho chính mình. Lý nhân quả vừa là khoa học vừa là sức mạnh chuyển biến con người. “Có trời mà cũng có ta”.
Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng ta có thể chuyển nghiệp ngay trong kiếp sống này. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá nhân là đến được trí tuệ tối hậu. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là bắt đầu thay đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp thân, khẩu và ý của chính mỗi cá nhân.
ngcan (3).jpg
Niềm tin vào duyên sinh
Chúng ta hiểu vạn vật trong vũ trụ đều duyên sinh. Không một vật nào tự thân có thể tạo ra chính mình mà phải là tập hợp gồm nhiều thành phần, đơn vị. Lý duyên khởi vì thế rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hiểu được lý duyên khởi, chúng ta thấy rõ muôn vật trên thế gian đều tương sinh, tương tức với nhau như nước và mây, như cây và hạt. Chúng ta không thể tách một cá thể đứng ngoài xã hội, ngoài nhân loại. Hạnh phúc chung của một gia đình, một cộng đồng phải là hạnh phúc tổng hòa của từng cá nhân gộp lại. Những quốc gia mà giàu nghèo cách biệt quá xa không thể là một quốc gia hạnh phúc khi ‘kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra’. Người ta không tính GDP mà GNH (Gross National Happiness - Tổng hạnh phúc quốc gia).
Tin vào duyên khởi là tin bằng trí tuệ, bằng nhãn quan khoa học. Đó là chánh tín. Người có chánh tín là người có trí tuệ, người có trách nhiệm, vì hiểu lý nhân quả và duyên khởi. Chúng ta xét một hiện tượng, một sự việc tốt xấu, phát xuất từ nhân nào, sẽ chịu quả gì và sửa đổi lại điều kiện hay duyên tạo ra nó vì mình là chủ nhân của mọi thành bại, đau khổ an vui. Nhờ đức tín, con người mới cố gắng chuyển đổi, vươn lên trong mọi lĩnh vực. Một dân tộc có đức tự tín, không bao giờ cam chịu khuất phục, chậm tiến. Có tự tín là có một sức mạnh phi thường. Có tự tín, sự tu hành mới không thối chuyển.
Hòa thượng Thanh Từ có viết: “Bản chất của đạo Phật là trí tuệ, là giác ngộ, làm sao dung nạp được mê tín. Nếu người ta thấy trong chùa chiền hiện nay còn những hiện tượng mê tín, vội phê bình đạo Phật mê tín. Đây là những oan tình của đạo Phật. Tất cả những kinh Phật không có nói những việc mê tín ấy, chẳng qua một số người vì tùy tục, vì thiếu hiểu Phật pháp vẽ bày ấy thôi.
Người học Phật chân chánh phải gan dạ loại bỏ những tập tục sai lầm ấy, can đảm dứt khoát đập tan mọi tệ đoan làm suy giảm giá trị Phật pháp. Có khi dẹp bỏ những điều đó, có thể thiệt thòi chút ít quyền lợi của mình. Song chúng ta cương quyết vì Chánh pháp, chớ không vì lợi dưỡng, vì đưa người ra khỏi đường mê, không vì sợ mất mát bản đạo. Được thế, chúng ta mới xứng đáng là người lãnh đạo tín đồ mới”(**).
Đạo Phật đem lại một lối sống mà mình có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích cho mình. Người nào quy y Phật, Pháp và Tăng với niềm tin như vậy thì họ sẽ trở thành người Phật tử mà không cần một lễ nghi nào, không một loại hình thức nào, không đăng ký, không thể lệ nào để phải làm theo. Vì vậy mà, F.L Woodword, một trong những dịch giả nổi tiếng về những lời dạy của Ðức Phật, đã từng nói Phật giáo là “tôn giáo tự mình làm lấy” (a do-it-yourself religion).
Ðiều tối quan trọng ngày nay là nhận biết giá trị bức thông điệp của Ðức Phật và sống theo những lời dạy ấy. Đó là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không sử dụng các chất kích thích làm mê mờ tâm trí. Đức hạnh cao hơn là bố thí, giữ giới - những nguyên tắc đạo đức căn bản và thực hành thiền định.
Tư tưởng căn bản của Phật giáo là lý Nhân quả, Duyên khởi, Tứ diệu đế, nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim cương thừa - Mật tông, vốn đã hiện diện hàng ngàn năm nay trong đời sống người dân Việt. Còn những hiện tượng hay nghi lễ gì đó mà không dựa trên những đạo lý này thì mãi mãi chỉ là hình thức thức phù phiếm và không phải là “chánh đạo”. Mong mọi người cẩn trọng!
Nguyên Cẩn
Đăng lúc: 21:28 - 17/10/2015
Hai chữ “Oán trách” có mặt trong khắp mọi ngõ ngách xã hội, từ quan hệ gia đình bè bạn đến hầu hết các mối quan hệ xã hội.
Có thể nói đây là hiện tượng phổ biến. Dù thân thiết như vợ chồng, cha mẹ, con cái cũng khó tránh được hai chữ “trách cứ” nhau. Ví dụ khi mẹ thấy con cái không vâng lời, có thể nói với con trước mặt chồng: “Con cái gì mà chẳng biết nghe lời gì cả, tính tình xấu xa dạy thế nào vẫn chứng nào tật nấy, bố mày chịu khó mà kèm nó cho tốt”. Đấy quả thực là những câu nói khiến người nghe khó chịu.
Người ta thường trách cứ nhau sau khi nổi giận, vì thế những lời “phát tiết” thường rất khó nghe, không những người nghe cảm thấy khó chịu mà bản thân người nói cũng chẳng vui vẻ gì. Khi bạn bất mãn điều gì với người hoặc sự việc nào đó, bạn sẽ cảm thấy ấm ức, tức giận oán hờn trách móc, tuy nhiên bạn cần hiểu rằng, người sống trong đời mười việc hết tám chín việc không như ý, nếu bạn chỉ biết oán hờn trách móc chỉ làm cho sự việc thêm rối lên mà cũng chẳng giải quyết công việc êm đẹp.
Khi nghe lời oán trách, mọi người thường nghĩ “tôi đối xử tốt với nó thế mà chẳng hiểu sao nó thường không hài lòng về tôi. Vì tốt cho nó tôi mới làm thế, không những không được lời cám ơn ngược lại còn bị chê trách, thật là làm ơn mắc oán”. Cách nghĩ vấn đề như vậy chỉ làm bạn thêm bực tức! Nếu bạn xem oán hờn trách móc là hiện tượng phổ biến, bình thường thì người bị oán sẽ không thấy đau khổ, nếu không hễ cứ bị trách móc bạn liền nghĩ mình bị trách oan, đau khổ sẽ như quả cầu tuyết, càng lăn càng lớn.
Nếu bạn biết tiếp cận vấn đề ở góc độ khác, bạn hãy nghĩ “không phải hiền thánh, mấy ai tránh khỏi lỗi lầm”, bạn thấy người khác chỉ trích hợp lí, bạn nên rút kinh nghiệm, bạn phải cám ơn họ đã cho bạn cơ hội nhìn lại thiếu sót của bản thân.
Người bình thường mấy ai không phiền não, có phiền não nhất định sẽ có oán hờn, trách móc. Có thể bạn không phải là nguyên nhân làm cho người khác phiền não nhưng vẫn bị trách móc, bạn hãy nghĩ mình đang làm điều tốt, đang giúp họ trút giận, giúp họ xả bớt phiền muộn, căng thẳng. Khi cảm thấy bất mãn, có thể do người khác cũng có thể do mình tự gây ra, bạn nên nghĩ rằng do một người nào đó tung tin nhảm chứ không phải lỗi của mọi người. Khi gặp trường hợp này hãy đặt mình vào vị trí người khác để suy nghĩ, cố gắng thực hiện: không oán trách người khác, chấp nhận người khác trách móc, và lắng nghe chỉ trích của người khác. Khổng Tử nói “bậc quân tử nghe lỗi lầm thì vui mừng”, không những không nên phiền não mà ngược lại nên vui vẻ đón nhận vì khi người khác còn biết trách nghĩa là bạn còn giá trị trong họ.
Có trường hợp khi nghe người khác oán trách liền nghĩ “người thanh cao sẽ tự thanh cao, người nhơ bẩn tự làm nhơ bẩn” thế là đóng cửa tuyệt giao, không thèm để ý đến người khác, như thế chỉ làm cho đối phương thêm giận, họ sẽ cho rằng bạn muốn cắt đứt mọi mối quan hệ với họ. Nếu đến mức này sẽ rất khó hòa giải. Khi nghe người khác trách mình bạn nên tìm biện pháp giải quyết hợp tình hợp lí, không nên đổ thêm dầu vào lửa. Nếu là lời trách bình thường, bạn chỉ nên gật đầu tỏ ý cho đối phương rằng mình đã biết, vì có thể đối phương chỉ nhắc nhở chứ không có ý gì khác.
Nếu bạn bị người khác oán trách, chỉ trích thậm tệ bạn nên phản ứng lại. Trường hợp đối phương hiểu lầm, bạn nhất định phải tìm cách giải thích cho họ biết. Nếu đối phương trách vì bạn không làm như họ mong đợi thì hãy nói với họ rằng bạn sẽ cố gắng sửa sai trong lần sau. Nếu đối phương vẫn thấy không hài lòng, bạn cứ nói thật là mình đã cố hết sức để đối phương thông cảm.
Nếu ai cũng biết dùng thái độ bình thản để đón nhận những lời chỉ trích và tìm cách giải quyết thỏa đáng thì sẽ trưởng thành hơn sau những lời chỉ trích đó.
HT. Thánh Nghiêm
Đăng lúc: 05:35 - 14/07/2015
Người xưa rất hay, nói hơi bị thừa...- “tiên trách kỷ hệu trách nhân”, đừng vội vàng chụp mũ người, hãy soi lại bản thân mình, nói kiểu bây giờ: không được chủ quan. Nhân sinh thường gặp nhau ở chỗ: nhìn người thì rõ, nhìn mình thì...không rõ, thấy lỗi người thì dễ, lỗi ta thì…Đặc điểm này phổ biến lắm. Tâm ta tâm người có sự sai biệt là chuyện thường tình.
Tôi “mê” nữ Nhà văn nọ từ lúc cô chập chững bước chân lên văn đàn với những tác phẩm nhỏ đầu tay. Dõi theo ngòi bút nữ nhân tài hoa ấy, đến khi cô viết được chừng ..vài chục đầu sách, thì gặp.
Trong một dịp tình cờ, bắt tay người nữ thâm trầm, trẻ tuổi, có đôi mắt tinh anh, tôi ngỡ ngàng biết đấy là thần tượng của mình, nữ văn sĩ X. Vài câu nói xã giao. Lần thứ hai gặp trong một dịp, cũng tình cờ, nhận ra nhau, tôi chủ động chào và được “thưởng” một nụ cười biết nói. Và, với riêng tôi, như thế đã là...trực quan sinh động lắm rồi, sau khi đã đọc không sót đầu sách nào của cô văn sĩ ấy, thêm cả những sáng tác mới chỉ được giới thiệu trên báo. Văn chương, tâm hồn, nhân dáng nữ nhân tài hoa ấy, với tôi, rất hài hòa, mười phân ít ra vẹn…chín. Nếu cô ấy lập một câu lạc bộ những người hâm mộ ắt tên tôi ở hàng đầu vì sự ngưỡng mộ. Nhưng đấy chỉ là tâm tôi thôi.
Gáo nước lạnh đầu tiên tôi nhận được khi giao lưu văn nghệ tại một tòa soạn lớn, anh bạn biên tập là con mọt sách thứ thiệt đã không hề tế nhị (mà chắc chi anh biết tôi là fan của cô văn sĩ nọ?), nói thẳng: Bà đó viết không hay! Tôi bị sốc nặng, nín thinh. Bắt đầu có những suy nghĩ “tại sao” … Chú gần nhà, học ít song mê văn, mượn sách của tôi (tác phẩm của cô văn sĩ nọ) đọc miết, rồi buông một câu còn đau hơn: tao thấy cũng thường thôi! Chẳng thà chú đánh tôi còn dễ chịu hơn. Chưa hết đâu, lần nọ đi mua thuốc tây ở hiệu dược quen, cô dược sĩ trẻ măng mang kính trắng, đang lúc rảnh rỗi, bắt chuyện văn chương với tôi, và khi nghe tôi nhắc đến thần tượng, nữ văn sĩ X, cô gái xinh đẹp ấy đã đánh đòn đau điếng: nhà văn X là ai? Trời ạ, sao lại thế?
Bây giờ tôi ngộ rồi: cuộc sống là tập hợp những cá thể rất khác nhau, sự sai biệt tư tưởng là được nhiên, không có gì lạ. chẳng riêng gì chuyện văn chương, món rất chi trừu tượng, sự khác biệt thấy ở mọi nơi mọi lúc với đủ các đối tượng: chính trị, văn hóa, thể thao, ẩm thực… Người ta tranh luận, cãi vã, bất đồng...xoay quanh nhận thức về một đối bóng, một khuynh hướng, một giọng ca…
Có những cuộc tranh luận bất phân thắng bại vì chẳng ai chịu ai, song cũng có những khác biệt dung hòa giải quyết được do người trong cuộc nhận ra khác biệt là bình thường, và đấy rất hay, theo tôi, chính vũ trụ cũng tồn tại hài hòa trong sự khác biệt cơ mà?
Điều gì sẽ xảy ra khi tất cả độc giả đều chỉ thích đúng một nhà văn duy nhất, hay một giọng ca? Các quán ăn phục vụ độc vị mỗi một món? Chán lắm… Vũ trụ mênh mông bao la với các hành tinh chuyển động với quỹ đạo khác nhau, cấu tạo hành tình cũng khác, và các vệ tinh quay quanh cũng chẳng giống nhau.
Những sự khác biệt ấy tồn tại trong trật tự hài hòa, chân phương, tuyệt mỹ, và nhờ đấy sự sống trên trái đất có nắng ấm, tuyết rơi, bốn mùa xuân hạ thu đông nhịp nhàng.
Trật tự ấy là hoàn mãn đến mức không ai ngốc đến mức đồ bỏ bớt chi tiết này hay chi tiết khác, cũng như bộ máy chiếc đồng hồ tự động, xê dịch một tí sự đo thời gian bị hỏng ngay. Tập hợp các khác biệt hợp thành sự hoàn mỹ.
Tâm ta khác tâm người do căn cơ và sự huân tập khác nhau, lòng từ, bi, hỉ, xả..sẽ dung hợp được sự khác biệt thay vì sân si từng câu nói, từng ánh mắt.
Sự thấy biết khác nhau là thường tình do duyên nghiệp và phước báu riêng. Đức Phật giác ngộ mỹ mãn mới thấu suốt lẽ thật, chúng ta phàm phu nhìn nhận sự vật hiện tượng tương đối là chuyện có gì phải bàn? Như mặt nước phản chiếu mây bay, trong thêm một chút, mây càng rõ, cố lắng lọc tâm ta cho thấu suốt sự thu cảm sẽ trong sáng hơn, ngày hôm nay thấy tốt hơn hôm qua, ngày mai lại tốt hơn nữa, rồi có ngày sẽ có diễm phúc thấy được lẽ thật, sự thật rốt ráo.
Tôi có duyên nghiệp gì đấy với nhà văn nọ, và rất nhiều người cũng đồng nghiệp như tôi, tìm thấy ở con chữ của cô cái hay cái đẹp, nói thay hồn mình.
Nhưng cũng phải thừa nhận cuộc sống mênh mông, nếu có người không chung nghiệp với ta, thấy con chữ nhà văn ấy lấn cấn chỗ nào đó, không mê, cũng nên cho là thường, đành rằng cũng lao xao buồn, việc gì phải một sống một chết “bảo vệ” nhà văn ấy, thực ra, dưới góc nhìn của đức Phật, - đấy là bảo vệ cái tâm ích kỷ của ta mà thôi, thỏa mãn tâm lý “cái gì mình cũng đúng”.
Rồi đến khi ngộ ra, biết rằng chính tâm ta cũng giả nốt, có đâu mà chấp.
Vậy thôi.
Nguyễn Thành CôngNgười xưa rất hay, nói hơi bị thừa...- “tiên trách kỷ hệu trách nhân”, đừng vội vàng chụp mũ người, hãy soi lại bản thân mình, nói kiểu bây giờ: không được chủ quan. Nhân sinh thường gặp nhau ở chỗ: nhìn người thì rõ, nhìn mình thì...không rõ, thấy lỗi người thì dễ, lỗi ta thì…Đặc điểm này phổ biến lắm. Tâm ta tâm người có sự sai biệt là chuyện thường tình.
Tôi “mê” nữ Nhà văn nọ từ lúc cô chập chững bước chân lên văn đàn với những tác phẩm nhỏ đầu tay. Dõi theo ngòi bút nữ nhân tài hoa ấy, đến khi cô viết được chừng ..vài chục đầu sách, thì gặp.
Trong một dịp tình cờ, bắt tay người nữ thâm trầm, trẻ tuổi, có đôi mắt tinh anh, tôi ngỡ ngàng biết đấy là thần tượng của mình, nữ văn sĩ X. Vài câu nói xã giao. Lần thứ hai gặp trong một dịp, cũng tình cờ, nhận ra nhau, tôi chủ động chào và được “thưởng” một nụ cười biết nói. Và, với riêng tôi, như thế đã là...trực quan sinh động lắm rồi, sau khi đã đọc không sót đầu sách nào của cô văn sĩ ấy, thêm cả những sáng tác mới chỉ được giới thiệu trên báo. Văn chương, tâm hồn, nhân dáng nữ nhân tài hoa ấy, với tôi, rất hài hòa, mười phân ít ra vẹn…chín. Nếu cô ấy lập một câu lạc bộ những người hâm mộ ắt tên tôi ở hàng đầu vì sự ngưỡng mộ. Nhưng đấy chỉ là tâm tôi thôi.
Gáo nước lạnh đầu tiên tôi nhận được khi giao lưu văn nghệ tại một tòa soạn lớn, anh bạn biên tập là con mọt sách thứ thiệt đã không hề tế nhị (mà chắc chi anh biết tôi là fan của cô văn sĩ nọ?), nói thẳng: Bà đó viết không hay! Tôi bị sốc nặng, nín thinh. Bắt đầu có những suy nghĩ “tại sao” … Chú gần nhà, học ít song mê văn, mượn sách của tôi (tác phẩm của cô văn sĩ nọ) đọc miết, rồi buông một câu còn đau hơn: tao thấy cũng thường thôi! Chẳng thà chú đánh tôi còn dễ chịu hơn. Chưa hết đâu, lần nọ đi mua thuốc tây ở hiệu dược quen, cô dược sĩ trẻ măng mang kính trắng, đang lúc rảnh rỗi, bắt chuyện văn chương với tôi, và khi nghe tôi nhắc đến thần tượng, nữ văn sĩ X, cô gái xinh đẹp ấy đã đánh đòn đau điếng: nhà văn X là ai? Trời ạ, sao lại thế?
Bây giờ tôi ngộ rồi: cuộc sống là tập hợp những cá thể rất khác nhau, sự sai biệt tư tưởng là được nhiên, không có gì lạ. chẳng riêng gì chuyện văn chương, món rất chi trừu tượng, sự khác biệt thấy ở mọi nơi mọi lúc với đủ các đối tượng: chính trị, văn hóa, thể thao, ẩm thực… Người ta tranh luận, cãi vã, bất đồng...xoay quanh nhận thức về một đối bóng, một khuynh hướng, một giọng ca…
Có những cuộc tranh luận bất phân thắng bại vì chẳng ai chịu ai, song cũng có những khác biệt dung hòa giải quyết được do người trong cuộc nhận ra khác biệt là bình thường, và đấy rất hay, theo tôi, chính vũ trụ cũng tồn tại hài hòa trong sự khác biệt cơ mà?
Điều gì sẽ xảy ra khi tất cả độc giả đều chỉ thích đúng một nhà văn duy nhất, hay một giọng ca? Các quán ăn phục vụ độc vị mỗi một món? Chán lắm… Vũ trụ mênh mông bao la với các hành tinh chuyển động với quỹ đạo khác nhau, cấu tạo hành tình cũng khác, và các vệ tinh quay quanh cũng chẳng giống nhau.
Những sự khác biệt ấy tồn tại trong trật tự hài hòa, chân phương, tuyệt mỹ, và nhờ đấy sự sống trên trái đất có nắng ấm, tuyết rơi, bốn mùa xuân hạ thu đông nhịp nhàng.
Trật tự ấy là hoàn mãn đến mức không ai ngốc đến mức đồ bỏ bớt chi tiết này hay chi tiết khác, cũng như bộ máy chiếc đồng hồ tự động, xê dịch một tí sự đo thời gian bị hỏng ngay. Tập hợp các khác biệt hợp thành sự hoàn mỹ.
Tâm ta khác tâm người do căn cơ và sự huân tập khác nhau, lòng từ, bi, hỉ, xả..sẽ dung hợp được sự khác biệt thay vì sân si từng câu nói, từng ánh mắt.
Sự thấy biết khác nhau là thường tình do duyên nghiệp và phước báu riêng. Đức Phật giác ngộ mỹ mãn mới thấu suốt lẽ thật, chúng ta phàm phu nhìn nhận sự vật hiện tượng tương đối là chuyện có gì phải bàn? Như mặt nước phản chiếu mây bay, trong thêm một chút, mây càng rõ, cố lắng lọc tâm ta cho thấu suốt sự thu cảm sẽ trong sáng hơn, ngày hôm nay thấy tốt hơn hôm qua, ngày mai lại tốt hơn nữa, rồi có ngày sẽ có diễm phúc thấy được lẽ thật, sự thật rốt ráo.
Tôi có duyên nghiệp gì đấy với nhà văn nọ, và rất nhiều người cũng đồng nghiệp như tôi, tìm thấy ở con chữ của cô cái hay cái đẹp, nói thay hồn mình.
Nhưng cũng phải thừa nhận cuộc sống mênh mông, nếu có người không chung nghiệp với ta, thấy con chữ nhà văn ấy lấn cấn chỗ nào đó, không mê, cũng nên cho là thường, đành rằng cũng lao xao buồn, việc gì phải một sống một chết “bảo vệ” nhà văn ấy, thực ra, dưới góc nhìn của đức Phật, - đấy là bảo vệ cái tâm ích kỷ của ta mà thôi, thỏa mãn tâm lý “cái gì mình cũng đúng”.
Rồi đến khi ngộ ra, biết rằng chính tâm ta cũng giả nốt, có đâu mà chấp.
Vậy thôi.
Nguyễn Thành Công
Đăng lúc: 05:20 - 09/07/2015
Một vụ việc khá nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hình ảnh Phật giáo vừa xảy ra vào khoảng 09h ngày 8/7/2015 tại Tp Vinh, tỉnh Nghệ An. Nạn nhân là gia đình anh Võ Đình Sơn chị Trần Thị Tú ngụ tại phường Lê Lợi, Tp Vinh.
Tin tức cũ: Sư giả ở Nghệ AnTrực tiếp kể lại cho tôi. Chị Trần Thị Tú ( nhà 8A, ngõ 85, đường Nguyễn Đình Chiểu, khối 16, phường Lê Lợi, Tp Vinh, Nghệ An) thuật lại: Vào khoảng 09h sáng ngày 08/7/2015, Vừa đi chợ về chưa kịp khóa cổng, đang loay hoay việc trong nhà nghe tiếng gõ nhẹ, chị Tú chạy ra đã thấy người đàn ông cao khoảng 1.63m nói giọng miền Nam, da trắng và mặc y phục tu sĩ Phật giáo, tay cầm bình bát theo kiểu nhà sư khất thực trên đầu đội mũ vải trùm kín đầu màu nâu đang đứng ngay trong sân nhà.
- Nhà sư cần gạo hay cần tiền – chị Tú hỏi?
- Cần tiền – người đàn ông lý nhí trả lời !
Chị Tú đưa cho người đàn ông nói trên 10.000đ nhận tiền xong một lúc ông ta trả lại, chị dắt 10 ngàn đồng vào ví và sau đó không làm chủ bản thân được nữa, sau đó người như ai đó điều khiển tiếp tục móc hết số tiền hơn 1,5 triệu đồng trong ví đưa cho ông ta. Chưa hết, nạn nhân tiếp tục vào nhà mở két lấy 1 cây vàng miếng, 1 dây chuyền 2 chỉ và 5 chiếc nhẫn , tổng cộng là 1,7 lượng vàng đưa hết cho kẻ lừa đảo. Gần một tiếng đồng hồ sau hai con chị là cháu Đình Đạt 12 tuổi, và Tường Vy 10 tuổi đi chơi về phát hiện chị nằm bất tỉnh giữa nhà.
Trước đó khoảng 3 tháng gia đình nạn nhân cũng đã mua một số nhang của những người giả danh nhà chùa nói giọng miền Nam đi bán nhang làm “từ thiện” và có hẹn sẽ đến để đưa giấy mời đến dự lễ động thổ một ngôi chùa tại thành phố Vinh.
Hiện vụ việc đang được vụ việc đang được cơ quan công an điều tra làm rõ.
Qua sự việc trên, xin cảnh báo đến tất cả mọi người hãy cảnh giác trước những hành vi lợi dụng hình ảnh tu sĩ Phật giáo và uy tín của các nhà chùa để tiến hành lừa đảo, lợi dụng vào lòng tin của một số phật tử nhân dân.
Sân nhà chị Tú - bị thôi miên sáng ngày 08/7/2015.
Với người bình thường, khó mà biết được đâu là nhà sư thật và đâu là kẻ giả sư thông qua hình thức bề ngoài cũng như những quy định của người tu hành. Bởi lẽ, bây giờ đang trong mùa An cư kiết hạ (từ rằm tháng 4 tới rằm tháng 7 âm lịch) tất cả các Tăng Ni, tu sĩ các hệ phái Phật giáo đều phải tập trung ở các trường hạ, các chùa, tu viện… theo quy định thống nhất của Giáo hội và luật Phật chế.
Hiện nay Trong thành phố Vinh và các vùng trong tỉnh Nghệ An, một số giả mạo mặc áo phật tử hoặc áo nhà sư đi bán nhang dạo, chèo kéo nhiều người mua nhang với danh nghĩa ủng hộ chùa để làm phước, còn hù dọa về mặt tâm linh để chủ nhà không thể từ chối. Thủ đoạn của những đối tượng giả dạng nhà sư đã khiến nhiều người nhẹ dạ cả tin, mê tín dị đoan bị lừa gạt, gây bức xúc dư luận. Nếu phát hiện những hiện tượng này rất mong mọi người gọi điện thoại thông báo cho công an phường gần nhất.
Vậy rất mong các cơ quan ban ngành các cấp cùng phối hợp triển khai những biện pháp để giữ hình ảnh Phật giáo và uy tín các chùa tại địa phương.
Vũ Thái Quảng
Đăng lúc: 07:44 - 30/06/2015
Cần thực tập thêm pháp tu rải tâm từ. Tâm từ càng tăng trưởng thì tâm sân luôn được tưới tẩm làm cho mát dịu.
HỎI: Ba tôi thọ giới Bồ-tát tại gia và tu niệm Phật theo pháp môn Tịnh độ đã nhiều năm nhưng chưa hóa giải được nóng giận. Xin được hướng dẫn cách tu để ba tôi chuyển bớt tâm sân. Tôi được biết có một cách tu, sau khi công phu thì đọc bài nguyện: “Nguyện cho con (chúng sanh) thoát ly nguy hại, nguyện cho con (chúng sanh) thoát ly phiên não, nguyện cho con (chúng sanh) thoát ly khổ ách, nguyện cho con (chúng sanh) an lạc hạnh phúc” có người áp dụng và có kết quả tốt trong việc chuyển hóa nóng giận. Ba tôi có thể ứng dụng pháp này không? Mong quý Báo chia sẻ thêm.
(HẠNH ĐÔNG, wangmo7477@gmail.com)
ĐÁP:
Bạn Hạnh Đông thân mến!
Về căn bản, ba của bạn đã có những nỗ lực tu học thật đáng trân trọng. Mọi pháp tu đúng như Chánh pháp, dù cách tu khác nhau nhưng đều có một điểm chung là thành tựu giới-định-tuệ. Ba của bạn dụng công giữ giới, tu tập niệm Phật đã nhiều năm nhưng còn nhiều nóng giận, có thể vì nhiều nguyên nhân.
Trước hết là biệt nghiệp nóng giận của mỗi người vốn khác nhau. Người nhẹ nghiệp nóng giận thì họ luôn mát mẻ, tươi vui, đời sống nhẹ nhàng dù không tu hành gì nhiều. Ngược lại người nặng nghiệp nóng giận thì dù rất cố gắng tu tập nhưng vẫn không chuyển hóa được nhiều, có lúc không thể kiểm soát hết thân tâm của mình, khiến những cơn giận có nguy cơ bùng phát.
Hiện ba của bạn đã thành tựu giới (nếu giữ các giới trọn vẹn), đã có thành tựu một phần về định (nhờ thực hành niệm Phật) nhưng vì thường nóng giận, nên có thể đoán định rằng ông chưa mấy thành tựu về tuệ. Và điều cần lưu ý là, giới và định sẽ trợ duyên tích cực cho việc chuyển hóa nóng giận, nhưng từ bi và trí tuệ mới thực sự có năng lực nhổ bật gốc rễ nóng giận.
Về tu giới, người tu giữ giới nhưng không tự hào vì mình có giới, thương người chưa biết giữ giới chứ không khinh khi, giữ giới đem lại hạnh phúc chứ không phải trói buộc hay gánh nặng. Khi giữ giới, đặc biệt là tại gia Bồ-tát giới, cần giữ trọn mà thân tâm nhẹ nhàng, an vui và tự tại.
Ba của bạn tu niệm Phật theo pháp môn Tịnh độ. Trong pháp tu này, hai yếu tố được chú trọng đầu tiên là niệm và định. Tiếc rằng, bạn không nói rõ ba của bạn niệm Phật thế nào. Nhưng cần lưu ý là, một số người tuy có niệm Phật mà không có chánh niệm. Vì sao có hiện tượng ấy? Nếu chỉ niệm Phật ngoài miệng, niệm Phật để tính chuỗi, niệm Phật như một thói quen thì chỉ dừng lại nơi hình thức niệm Phật. Niệm Phật theo cách này thì dù tu niệm có bao năm đi nữa cũng không thể chuyển hóa phiền não.
Chỉ khi nào niệm Phật, miệng niệm (thành tiếng hoặc thầm), tai nghe Phật hiệu rõ ràng, tâm ý biết rõ và chuyên nhất vào Phật hiệu. Niệm Phật như thế mới có chánh niệm, nhờ chánh niệm sâu dày khiến cho định lực càng tăng thêm. Năng lực của chánh niệm và chánh định giúp cho hành giả nhận diện về thân tâm một cách tỏ tường, bén nhạy. Nếu tâm có các phiền não, đơn cử như nóng giận thì sẽ thấy rất rõ quá trình hình thành, tồn tại và hoại diệt của chúng. Trong trường hợp này, chính năng lực của chánh niệm sẽ giúp hành giả kiểm soát, hạn chế và chuyển hóa được cơn giận.
Điều cần yếu là chế tác năng lượng từ bi, nhân tố quan trọng nhằm hóa giải nóng giận. Dĩ nhiên, lòng từ có được là nhờ tu tập thiền quán rải tâm từ. Bạn đã biết thực tập “Nguyện cho con (chúng sanh) thoát ly nguy hại, nguyện cho con (chúng sanh) thoát ly phiên não, nguyện cho con (chúng sanh) thoát ly khổ ách, nguyện cho con (chúng sanh) an lạc hạnh phúc”, đây chính là một phần của pháp thiền rải tâm từ. Tâm từ được rải đến khắp chúng sanh, từ thân đến sơ, từ thương đến không thương, từ gần đến xa, bao trùm pháp giới… đạt đến vô lượng. Thiết nghĩ, ba của bạn cần thực tập thêm pháp tu rải tâm từ này. Tâm từ càng tăng trưởng thì tâm sân luôn được tưới tẩm làm cho mát dịu. Tâm từ đạt đến vô lượng thì có khả năng dung nhiếp, hóa giải hoàn toàn sân hận.
Quan trọng nhất là phát huy tuệ giác để thấy rõ sự nóng giận, thù hận, bất mãn cùng các nguy hại của nó. “Một đốm lửa sân có thể thiêu rụi cả rừng công đức”. Quán sát sâu sắc hơn để thấy rõ: Ai giận? Giận ai? Không thực có người giận, không thực có người hay vật (việc) để giận, cũng không thực có cơn giận. Nóng giận như “hoa đốm giữa hư không” do duyên sanh thì cũng do duyên diệt.
Như vậy, ngoài việc tu giới và định (niệm), ba của bạn cần tu tập thêm từ bi và trí tuệ. Chỉ và Quán cần luôn có mặt trong sự tu niệm hàng ngày. Đó chính là phương pháp cốt lõi có thể giúp ba của bạn chuyển hóa được nóng giận cùng với các phiền não khác.
Chúc bạn tinh tấn!
TỔ TƯ VẤN
Đăng lúc: 06:37 - 14/06/2015
Doanh nhân Ấn Độ Bhanwarlal Raghunath Doshi đã trở thành hiện tượng gây nóng các mặt báo khi công khai từ bỏ hết tài sản trị giá hàng trăm triệu đô la để trở thành nhà sư.
Ông “vua nhựa” của Delhi đã từ bỏ đế chế trị giá 600 crore (100 triệu đô la Mỹ) của mình trong một buổi lễ diễn ra hôm Chủ nhật, để trở thành đệ tử thứ 108 của Jain guru Shri Gunratna Surishwarji Maharaj.
Tỉ phú Ấn Độ bỏ hết tài sản đi tu
Quyết định của Doshi không hề bồng bột nhất thời. Những bài giảng của Jain đã lôi kéo được tâm hồn Doshi từ năm 1982, nhưng gia đình bao gồm vợ, hai con trai và con gái luôn là lý do khiến Doshi lưỡng lự. Cuối cùng vào năm ngoái, cả gia đình đã nhất trí để cho Doshi hoàn thành giấc mơ cả đời mình – được trở thành một nhà sư.
Tỉ phú Ấn Độ bỏ hết tài sản đi tu
Doshi xuất thân là người Rajasthan, từ chối tham gia vào công việc kinh doanh ngành dệt của cha năm 1970. Thay vào đó, ông mượn 30.000 rupee từ cha để khởi nghiệp kinh doanh nhựa ở Delhi. Và sau 40 năm phát triển, thành công, sống cuộc sống xa hoa, Doshi quyết định từ bỏ tất cả để sống khổ hạnh – mặc quần áo giản dị, đi chân đất và xuống tóc.
Nghi lễ công nhận Doshi trở thành một nhà sư được diễn ra vô vùng tráng lệ tại quảng trường rộng 1 triệu mét vuông ở Ahmedabad, Gujarat.
Huyền Anh
(Dịch từ Oddity)
Đăng lúc: 06:19 - 08/06/2015
Nhận được tin báo từ TS Đoàn Ngọc Khôi, Phó Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi, tôi được UBND tỉnh mời vào để nghiên cứu, đánh giá về chuyện “toàn thân xá lợi” của Hòa thượng Thích Minh Đức sau 26 năm viên tịch. Đồng thời phải tìm cách xử lý vì nhục thân của ngài đặt trong tháp đá bắt đầu có hiện tượng mối đùn… Thượng tọa Thích Hạnh Khương - trụ trì chùa Long Bửu, đội 11, thôn Xuân Vinh, xã Hành Đức, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, niềm nở tiếp chúng tôi và thuật lại câu chuyện.
Hòa thượng Thích Minh Đức, thế danh Nguyễn Khắc Dần, sinh năm 1901 tại làng Hiệp Phổ, xã Hành Đức, huyện Nghĩa Hành. Năm 17 tuổi, ngài xuất gia tu học tại chùa Phước Quang, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, dưới sự dìu dắt của Hòa thượng Tăng Cang Hoằng Tịnh và được ban pháp tự Đạo Thứ. Vốn là người thông minh, ham học hỏi, lại vô cùng đức độ, khiêm nhường, nên năm 1940, ngài được cử về trụ trì Tổ Đình Long Bửu và đảm nhận làm Hội trưởng Hội Phật giáo huyện Nghĩa Hành.
Năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ Ngài được cử làm Hội trưởng Hội Phật giáo cứu quốc huyện Nghĩa Hành. Ngài đã dốc sức hoàn thành mọi công việc để làm đẹp đạo, tốt đời… Bên cạnh việc tu tập, ngài còn nghiên cứu về đông y và trở thành một lương y nổi tiếng để cứu độ chúng sinh...
Cuối năm 1984, linh cảm thấy gần đến lúc phải ra đi, ngài rời chùa Linh Phước về lại tổ đình Long Bửu. Vào đêm 18 tháng Giêng năm Ất Sửu 1985, ngài gọi các đệ tử lại bên mình dặn dò lần cuối, nhắn nhủ 13 điều khuyên người niệm Phật… Đôi mắt ngài ngước lên nhìn bức ảnh tượng Adiđà, ngài bảo vị Trưởng tử đưa cho mình bức ảnh. Hai tay nâng bức ảnh phật Adiđà úp lên mặt, cũng là lúc ngài trút hơi thở cuối cùng. Lúc đó, kim đồng hồ chỉ 3h sáng 19 tháng Giêng năm Ất Sửu, tức 8/2/1985. Ngài trụ thế 84 năm và hạ lạp 51 năm. Môn đồ tứ chúng xây tháp để an trí nhục thân ngài ngay tại sát bên phải tổ đình Long Bửu.
Khai quật mộ của Hòa thượng Thích Minh Đức. Ảnh: Lê Văn Bình.
Thời gian trôi qua, ngôi tháp cũ bị xuống cấp trầm trọng vì mưa nắng, lũ lụt. Môn đồ chùa Linh Phước ở Đà Lạt, đã phát nguyện để xây dựng một ngôi bảo tháp mới, được đặt tên là Long Bửu tháp. Ngày 11/1/2011, trước sự chứng giám của 10 phương chư phật, chư tôn, tăng ni, phật tử gần xa…, lễ khai quật mộ phần ngài trong ngôi tháp cũ bắt đầu, để sau đó cải táng đưa vào tháp mới.
Mọi người thật sửng sốt khi chứng kiến quan tài của ngài đã bị mục nát nhưng chiếc áo ca sa và những dải băng vải bó thân xác ngài vẫn còn nguyên vẹn. Xương sọ của ngài có màu vàng. Hai xương bàn chân còn nguyên vẹn, các đốt xương bàn và cổ chân dính chặt vào nhau và dựng đứng lên theo như tư thế chôn ban đầu. Qua bức ảnh của nhà nhiếp ảnh Lê Văn Bình, tôi thấy điều kỳ diệu là khung xương phần thân của ngài không bị sập xuống, mặc dầu khối đất đè trên mình là quá lớn khi quan tài đã mục nát.
Thượng tọa Thích Hạnh Khương còn kể lại cho tôi một chi tiết cũng rất lạ. Khi mới khai quật lên, thấy trên sọ Hòa Thượng có ba chấm màu hồng. Sau khi đưa nhục thân của ngài vào tháp thì 1 tuần sau ba chấm chuyển sang màu đen, 1 tuần sau nữa ba chấm chuyển thành màu trắng, còn hiện nay là màu vàng. Nhìn tháp mộ của ngài kiên cố như vậy mà không hiểu sao theo báo cáo lại bắt đầu có mối đùn lên ở bên trong.
Tôi hỏi Thượng tọa Thích Thanh Khương thì được biết: “Quan tài mới của Hòa Thượng được làm bằng loại gỗ quý kiền kiền, hay người ta còn gọi là gỗ xoay (tên khoa học là Hopea pierrei Hance, thuộc họ dầu Dipterocarpaceae), rất cứng, không bị mối mọt. Quan tài chỉ có 4 mặt bao quanh, dưới đáy là một tấm thất tinh (có 7 lỗ để thông thoáng với đất). Trên tấm tất tinh, người ta trải gạo nếp rang và đặt Hòa thượng lên trên”.
Theo tôi, có lẽ chính đây là nguyên nhân sơ xuất khi cải táng, vì mối đã dễ dàng đi qua 7 lỗ để vào ăn lớp gạo trải ở dưới. Không có lý do gì để ngăn cản bọn mối khi ăn hết gạo sẽ hủy hoại nhục thân của Hòa thượng.
Ngày 27/5, trong buổi làm việc với Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi – ông Lê Quang Thích và sau đó với ông Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở VH, TT&DL tỉnh, chúng tôi đã nói rõ giá trị của nhục thân và đề nghị phải xử lý ngay chuyện mối. Lãnh đạo tỉnh rất quan tâm và đã đề nghị Bảo tàng Tổng hợp Quảng Ngãi tổ chức cuộc họp với Ban Tôn giáo tỉnh, huyện, chùa Long Bửu và các cơ quan có liên quan để được phía Giáo hội Phật giáo đồng tình cho tiến hành chống mối và bảo quản nhục thân bằng phương pháp khoa học.
Về ý nghĩa của nhục thân Hòa thượng Thích Minh Đức, theo chúng tôi có những nét độc đáo. Như đã biết, ở Việt Nam hiện nay có 4 nhục thân mà chúng tôi đặt tên cho táng thức này là thiền táng, đó là các thiền sư: Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường (Chùa Đậu - Hà Nội), Như Trí, Chuyết Chuyết (Bắc Ninh). Nhưng cả 4 vị này đều dùng kỹ thuật sơn ta trộn với phụ gia: đất mối đùn, giấy dó, mạt cưa, vải màn rồi dát vàng, bạc, quang dầu… để phủ bọc lên cơ thể. Còn ở nhục thân của Hòa Thượng Thích Minh Đức, hoàn toàn chôn ngay trong đất, không hề có sơn ta. Vậy tại sao hài cốt và vải bọc bên ngoài còn nguyên vẹn?
Theo ý kiến của chúng tôi, có 2 lý do cơ bản đó là do Đại lão Hòa thượng Thích Minh Đức đã có một quá trình rất dài chứng nghiệm trong tu tập và đạt đến sự giác ngộ viên mãn. Điều đó thể hiện sự đắc đạo trong tu chứng mà chỉ có những vị cao tăng mới đạt được. Chỉ có làm chủ được tâm thức thì ngài mới tự điều khiển được ngày, giờ ngài ra đi để trở về với cõi vĩnh hằng. Bên cạnh đó cũng có thể do long mạch khi đặt huyệt mộ rất chính xác nên nhục thân được bảo toàn.
Chúng tôi được biết, ở Thái Lan, vào tháng 6/1973, tại ngôi chùa Kararam trên đảo Samui, vị sư trụ trì Luang Po Daeng linh cảm giờ phút từ bỏ cõi đời của mình đã đến. Ông nói với các sư trong chùa rằng ông sắp ra đi. Thế rồi ông lặng lẽ bước vào căn phòng nhỏ, thay chiếc áo vàng mới, ngồi xuống tấm chăn mỏng và cả người cứ bất động như thế cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Thi hài của ông sau này chỉ bị hỏng phần mắt, da dẻ còn nguyên, họ đặt ngài vào quan tài dựng đứng, lắp kính trong suốt để du khách thập phương tới chiêm ngưỡng…
Tại sao những di hài này không bị phân hủy theo thời gian? Có lẽ cũng do sự tu tập viên mãn, như Hòa thượng Thích Minh Đức. Trước đây, chúng ta cũng đã từng biết Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để chống lại chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo. Thịt nát, xương tan nhưng trái tim của Hòa thưởng vẫn còn nguyên vẹn, điều mà chúng tôi, những nhà khoa học không thể giải thích được, nhưng Phật giáo thì lại coi là chuyện đương nhiên.
Để khép lại bài báo này, chúng tôi chỉ mong muốn Bộ VH, TT& DL sẽ có kế hoạch xếp hạng chùa Long Bửu thành di tích Quốc gia, nơi còn lưu giữ nhục thân của Đại lão Hòa thượng Thích Minh Đức - đúng với giá trị của nó và sẽ là nơi cho khách thập phương được chiêm ngưỡng nhục thân của ngài, với ngôi bảo tháp bằng đá tuyệt đẹp, với chùa Long Bửu mà phía trước là cả một đầm sen rộng mênh mông, lộng gió.
PGS.TS Nguyễn Lân Cường
Đăng lúc: 09:41 - 05/06/2015
Thân và tâm, tức thể xác và tinh thần, cái nào quan trọng hơn? Đa số chúng ta thường lo cho thể xác hay lo cho tinh thần? Chúng ta ai cũng lo cho thân làm sao được sạch đẹp, sung mãn, đầy đủ; còn phần tinh thần ít ai quan tâm tới. Nhưng thử hỏi, chúng ta lo cho thể xác được sung mãn, đầy đủ thì nó có bền bỉ, lâu dài được không? Rất tiếc, dù ta lo cho nó cách mấy thì thân này cũng phải già-bệnh-chết.
Ta lo cho thân đầy đủ để rồi ngày mai nó sẽ mất. Vậy lo cho thân như thế là mình khôn hay dại? Ấy vậy mà ai cũng lo, lo giữ cái không thể bền bỉ, lâu dài mà vô tâm, không để ý đến phần chủ động để mặc tình nó ra sao thì ra. Chúng ta hành động như vậy là sáng suốt hay si mê? Ta nào là lo nhà cửa, lo cơm ăn áo mặc, lo tiền bạc của cải làm sao cho có thật nhiều; nhưng khi nhắm mắt ta chỉ mang theo nghiệp tốt hoặc xấu, tất cả những thứ đó ta đều phải bỏ lại hết, mà nghiệp tốt hay xấu là do tâm tạo tác mà ra.
Khi muốn làm gì thì ý phải nghĩ trước rồi thân này mới hành động. Tinh thần là cái chỉ huy, sắp đặt mọi việc trong cuộc sống nên chúng ta phải làm sao lo cho nó được thánh thiện, tốt đẹp, cao quý mới phải. Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
Lâu nay chúng ta cho thân người là thật, tâm suy tư nghĩ tưởng cũng là thật. Do mê lầm, chấp chặt như vậy nên chúng ta cứ lo tìm cách gom góp tài sản, của cải cho mình và con cháu mai sau. Đầu tiên ta chấp cảnh, sau mình chấp thân và tâm là thường, là ngã.
Vì tình chấp như thế nên Phật dạy thân người do bốn chất đất-nước-gió-lửa giả hợp mà có, song bốn chất này thường xung khắc nhau; đất ngăn ngại nước, nước xói mòn đất, nước làm tắt lửa, gió thổi thì đất rung rinh. Chúng xung khắc mà phải hợp lại nên thường sanh ra những hiện tượng bất hòa như đau yếu, bệnh hoạn. Khi chúng không dung hợp nhau được nữa thì tan rã, tứ đại phân ly; nên mới nói “có thân là có khổ”. Ai cũng có thể biết vậy nhưng làm việc gì cũng lo cho thân, ăn uống bồi bổ cũng vì thân.
Thân chúng ta những chất cứng như da, thịt, gân, xương, tóc, răng thuộc về đất. Những chất lỏng như máu, mủ, mồ hôi, nước mắt thuộc về nước. Những vật có tính động như hơi thở vô, hơi thở ra thuộc về gió. Nhiệt độ trong thân như hơi ấm thuộc về lửa.
Khoa học hiện đại ngày nay phân tích thân người có hằng hà vô số tế bào, song cũng từ bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp thành. Từ lâu chúng ta lầm tưởng thân này là thật tôi, là của tôi, rồi cứ chấp chặt vào đó. Nếu ai đụng chạm đến “cái tôi” này thì ta liền phản ứng chống trả lại hoặc tìm đủ mọi cách để bảo vệ, vun bồi cho nó được đầy đủ, thỏa mãn.
Nhưng với tuệ giác của Phật thì Ngài thấy rõ thân do đất-nước-gió-lửa hợp lại mà thành, nếu thiếu một trong bốn chất ấy thì thân này tan rã. Song, mỗi ngày chúng ta muốn duy trì thân để được tồn tại phải ăn cơm, uống nước, hít thở không khí. Cứ thế ta vay mượn đất-nước-gió-lửa bên ngoài để bồi bổ, thay thế cho đất-nước-gió-lửa bên trong. Suốt cả cuộc đời chúng ta sống bằng sự vay mượn liên tục, khi hết vay mượn thì mạng sống dừng.
Hơi thở trả về với gió. Hơi ấm trả về với lửa. Máu, nước miếng, nước mắt trả về với nước. Da, thịt, gân xương trả về với đất. Tất cả đều rã tan, trở thành một cái xác thúi chẳng còn gì gọi là thân mạng nữa. Vậy mà ai cũng cố tâm lo cho chúng mà quên hẳn phần tinh thần.
Thích Đạt ma Phổ Giác
Đăng lúc: 06:15 - 09/05/2015
Những hiện tượng thần bí như bóng đè đã được giải thích dưới góc nhìn của khoa học, đồng thời mở ra hướng điều trị cho chứng rối loạn giấc ngủ.