Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Phái đoàn TV. Tường Vân thăm tặng quà cho đồng bào lũ lụt tại Nghệ An.

Phái đoàn TV. Tường Vân thăm tặng quà cho đồng bào lũ lụt tại Nghệ An.

Đăng lúc: 21:29 - 02/11/2016

Hôm ngày 31/10/2016 đoàn từ thiện, cứu trợ đồng bào lũ lụt tỉnh miền Trung, Từ tu viện Tường Vân đã đến thăm hỏi và tặng quà cho đồng bào bị thiệt hại do lũ lụt vừa qua, đoàn đã đi từ Quảng Bình và từ thiện tại tỉnh Hà Tĩnh. Hôm nay đã có mặt tại chùa Phúc Thành, Chùa Long Hoa huyện Hưng Châu, Hưng Nguyên, Nghệ An và Chùa Chí Linh - Quỳnh Lưu , Nghệ An. Hòa Thượng Thích Phước Tiến - trưởng đoàn từ thiện và các nhà hảo tâm cùng các Phật tử tại Chùa Tường Vân. Với tinh thần chia sẻ, và động viên bà con vượt qua những khó khăn để ổn định cuộc sống hằng ngày .


Tiếp đoàn có Đại Đức Thích Định Tuệ : trụ trì Chùa Phúc Thành, Chùa Đức Hậu đã thay mặt các Phật Tử và bà con vùng lũ lụt cảm ơn sâu sắc tới Hòa Thượng Thích Phước Tiến và phái đoàn đã đến thăm và tặng quà cho các Phật Tử và bà con bị lũ lụt tại Nghệ An. Và kính chúc Hòa Thượng cùng phái đoàn lời chúc sức khỏe, và lời cám ơn sâu sắc nhất.
Phái đoàn đã tặng cho xã Hưng Châu tại Chùa phúc Thành 500 suất quà,Chùa Long Hoa 200 suất quà, Chùa Chí Linh 400 suất quà, , mỗi suất trị giá 600.000đ.









Tại Chùa Long Hoa , các Phật Tử và người dân nơi đây được gặp lại Hòa Thượng Thích Phước Tiến. Tu Viện Tường Vân đã chia sẻ những hoàn cảnh khó khăn về chén cơm manh áo của đồng bào trong lúc bị lũ lụt vừa qua và ban bố một thời Pháp nhằm khơi dậy lòng từ bi, nhân ái, nhân văn của người dân Việt Nam với câu ca dao: " Nhiễu điều phủ lấy giá gương - Người trong một nước phải thương nhau cùng " . Hòa Thượng đã nhấn mạnh về tinh thần yêu thương, đùm bọc, gắn bó ,chia sẻ trên toàn thể đồng bào cả nước.
Lãnh đạo chính quyền huyện Hưng Châu, đã thay mặt người dân tỉnh Nghệ An, cảm ơn Hòa Thượng và Phái đoàn đã chia se những lúc khó khăn, dộng viên kịp thời về tinh thàn lẫn vật chất , nhằm ổn định cuộc sống của người dân sau lũ lụt .

Sau đây là một số hình ảnh;
































Tác giả bài viết: Hồng NGa

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: "Bạn là chính mình nhưng tốt đẹp hơn nhờ làm theo những hướng dẫn này"

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: "Bạn là chính mình nhưng tốt đẹp hơn nhờ làm theo những hướng dẫn này"

Đăng lúc: 08:06 - 23/07/2016

"Năm Giới tân tu không giáo điều hay bắt buộc tu hành. Ai ai cũng có thể sử dụng nó như nền tảng đạo đức của bản thân mà không phải trở thành Phật tử hay tuân theo bất cứ tín ngưỡng nào. Bạn là chính mình nhưng tốt đẹp hơn nhờ làm theo những hướng dẫn này" - Thích Nhất Hạnh.
Vì sao Google tìm đến Thiền sư người Việt Thích Nhất Hạnh? (P2)
Vì sao Google tìm đến Thiền sư người Việt Thích Nhất Hạnh? (P1)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ với doanh nhân
Thiền sư Thích Nhất Hạnh: "Bạn là chính mình nhưng tốt đẹp hơn nhờ làm theo những hướng dẫn này"
Năm Giới tân tu thể hiện quan niệm về năm Giới - cốt lõi của Phật giáo và cung cấp phương thức thực hành chánh niệm trong đời sống thường nhật. Năm Giới tân tu đại diện cho quan niệm Phật giáo về tinh thần, đạo đức toàn cầu. Chúng là biểu hiện cụ thể cho lời dạy của Đức Phật về Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, con đường dẫn tới chân lý và tình yêu đích thực, hướng đến chữa lành và hạnh phúc cho chính chúng ta cũng như thế giới.

Thực hành Năm Giới tân tu là trau dồi tuệ giác tương tức để loại bỏ phân biệt đối xử, sự thiếu khoan dung, giận dữ, sợ hãi, tuyệt vọng. Có thể sống như Năm giới tân tu là chúng ta đã ở trên con đường của một vị Bồ tát. Biết mình đang ở đó, chúng ta sẽ không lạc lối trong những hoang mang về hiện tại hay tương lai.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết về Năm Giới tân tu:

1. Tôn kính sự sống

Ý thức được nỗi đau khổ gây ra bởi sát sinh, con cam nguyện nuôi dưỡng tuệ giác tương tức và lòng từ bi, học cách bảo vệ cuộc sống của con người, thú vật, cây cỏ, khoáng chất. Con nguyện không sát sinh hay để người khác sát sinh, cũng như không ủng hộ bất cứ hành động sát sinh nào trên thế giới, trong suy nghĩ hay trong cách sống của mình.

Chứng kiến những hành động bạo lực xuất phát từ giận dữ, sợ hãi, tham lam, không khoan dung hay chính là từ tư duy lưỡng nguyên và phân biệt đối xử, con nguyện cởi mở, không kỳ thị, không cố chấp theo quan điểm nào để chuyển hóa bạo lực, cuồng tín cũng như chủ nghĩa giáo điều của bản thân và chúng sinh.


2. Hạnh phúc chân thực

Ý thức được nỗi đau khổ gây ra do lừa gạt, bất công xã hội, trộm cắp, áp bức, con nguyện mở rộng lòng hảo tâm trong suy nghĩ, lời nói và hành động. Con nguyện không ăn cắp hay sở hữu bất cứ thứ gì mà đáng lẽ nên thuộc về người khác; và con sẽ chia sẻ thời gian, năng lượng, tài vận của mình với những ai cần đến.

Con sẽ nhìn sâu hơn để biết, hạnh phúc hay đau khổ của người khác không tách biệt với hạnh phúc hay đau khổ của bản thân; rằng hạnh phúc chân thực không thể thiếu đi thấu hiểu, từ bi; và rằng chạy theo vật chất, danh vọng, quyền lực hay sắc dục có thể mang lại rất nhiều bất hạnh, tuyệt vọng.

Con biết, hạnh phúc phụ thuộc vào thái độ tinh thần của mình chứ không phải điều kiện bên ngoài, và rằng con có thể dễ dàng sống hạnh phúc trong khoảng khắc hiện tại bằng cách nhớ, mình đã có nhiều hơn đủ để được hạnh phúc. Con nguyện thực hành theo Chánh mạng để giảm đi đau khổ của chúng sinh trên Trái Đất và đảo ngược quá trình nóng lên của toàn cầu.

3. Tình yêu đích thực

Ý thức được nỗi đau khổ gây ra bởi thói tà dâm, con nguyện nuôi dưỡng trách nhiệm và học hỏi cách bảo vệ sự an toàn, toàn vẹn của cá nhân, đôi lứa cũng như xã hội. Biết rằng ham muốn tình dục không phải tình yêu, và rằng hành vi tình dục bị thúc đẩy bởi thèm muốn luôn luôn làm hại bản thân cũng như người khác, con nguyện không ăn nằm với ai mà không có tình yêu đích thực sâu sắc cùng cam kết dài lâu được gia đình, bạn bè thừa nhận.

Con sẽ làm mọi thứ trong khả năng để bảo vệ trẻ em khỏi bị lạm dụng tình dục và để ngăn chặn các cặp đôi, gia đình khỏi bị đổ vỡ bởi tà dâm. Thấy rằng cơ thể và tâm trí là một, con nguyện học hỏi những cách thích hợp để chăm sóc năng lượng tình dục bên trong; nuôi dưỡng lòng yêu thương, từ bi, niềm vui và tính toàn diện – bốn yếu tố cơ bản của tình yêu đích thực – phục vụ cho niềm hạnh phúc lớn lao của con và của người khác. Tình yêu đích thực giúp con trở nên đẹp đẽ hơn trong tương lai.

4. Ái ngữ và lắng nghe

Ý thức được nỗi đau khổ gây ra bởi lời nói thiếu suy nghĩ và việc không có khả năng lắng nghe, con nguyện nuôi dưỡng ái ngữ và lòng từ bi để giảm bớt đau khổ, thúc đẩy hòa giải cũng như bình an trong bản thân và trong những người khác, các nhóm dân tộc và tôn giáo cùng các quốc gia.

Biết rằng lời nói có thể tạo nên hạnh phúc và khổ đau, con nguyện nói sự thật thông qua những ngôn từ tự tin, vui vẻ, đầy hy vọng. Khi cơn tức giận bùng lên, con nguyện không mở lời. Con sẽ luyện tập hít thở và bước đi trong chánh niệm để nhận ra và nhìn sâu vào cơn giận.

Con biết rằng gốc rễ của giận dữ có thể được tìm thấy trong những nhận thức sai lầm, thiếu hiểu biết về nỗi đau của mình và của người khác. Con sẽ nói, nghe để giúp bản thân cũng như người khác biến đổi nỗi đau và tìm cách thoát khỏi tình huống khó khăn.

Con nguyện không tuyên truyền những thông tin mình chưa chắc chắn và không thốt ra những lời gây chia rẽ, bất hòa. Con sẽ thực hành Chánh tinh tấn để nuôi dưỡng khả năng thấu hiểu, yêu thương, vui vẻ và toàn diện để dần dần biến đổi sự tức giận, bạo lực, sợ hãi đang nằm sâu nơi tâm hồn.


5. Nuôi dưỡng và trị liệu

Ý thức được nỗi đau gây ra bởi sự hấp thụ thiếu chánh niệm, con nguyện giữ gìn sức khỏe tốt cả về mặt thể chất lẫn tinh thần cho bản thân, gia đình, xã hội bằng cách ăn, uống, hấp thụ thận trọng. Con nguyện nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực để tránh tiêu thụ những thứ độc hại.

Con kiên quyết không cờ bạc hay sử dụng ma rượu, ma túy hoặc bất cứ sản phẩm nào chứa chất độc hại, cũng như một số trang web, trò chơi điện tử, chương trình tivi, phim ảnh, tạp chí, sách và các cuộc hội thoại.

Con nguyện trở về giây phút hiện tại để kết nối với những yếu tố tươi mát, chữa lành, nuôi dưỡng trong và xung quanh con, không để nuối tiếc và ưu sầu kéo con trở về quá khứ cũng như không để lo âu, sợ hãi, tham ái đẩy con ra khỏi thời khắc hiện tại.

Con nguyện không cố gắng che đậy sự cô đơn, lo âu hoặc bất cứ nỗi đau nào khác bằng việc hấp thụ vô độ. Con nguyện nhìn sâu vào giáo lý tương tức và hấp thụ vừa phải để giữ gìn hòa bình, niềm vui, hạnh phúc trong cơ thể, tâm trí bản thân cũng như gia đình, xã hội và Trái Đất.

Bài phỏng vấn thiền sư Thích Nhất Hạnh chấn động phương Tây: Đức Phật là người hạnh phúc
Theo Nguyệt Minh

Hiệu quả của mô hình xã hội hóa công trình văn hóa tâm linh

Hiệu quả của mô hình xã hội hóa công trình văn hóa tâm linh

Đăng lúc: 20:29 - 19/04/2016

Sau gần 3 năm thực hiện Quyết định 1742 ngày 12/7/2013 của UBND tỉnh Quảng Ninh giao cho Ban Trị sự Phật giáo tỉnh làm chủ đầu tư các hạng mục công trình văn hóa tại Danh thắng Yên Tử, khu di tích nhà Trần Đông Triều, Khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng, bằng nguồn vốn xã hội hóa lên đến hàng trăm tỷ đồng, đến nay các công trình sau khi được trùng tu, tôn tạo đã phát huy giá trị văn hóa, trở thành điểm du lịch tâm linh, thắng cảnh thu hút hàng triệu lượt khách du lịch, tạo nguồn thu ngân sách.

Hiệu quả của mô hình xã hội hóa công trình văn hóa tâm linh Danh thắng Yên Tử sẽ được GHPGVN tỉnh Quảng Ninh triển khai các công trình văn hóa tâm linh
Các công trình mà UBND tỉnh Quảng Ninh giao cho Ban Quản lý tôn tạo Yên Tử, Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) tỉnh Quảng Ninh làm chủ đầu tư gồm: Chùa Ngọa Vân, chùa Quỳnh Lâm, chùa Trung Tiết, chùa Một Mái, chùa Hoa Yên, các công trình am tháp, mắt Rồng... với tổng số vốn các hạng mục công trình lên đến hàng trăm tỷ đồng bằng nguồn vốn xã hội hóa. Trong đó, chùa Ngọa Vân vừa khánh thành giai đoạn 1 với số vốn trên 90 tỷ đồng; chùa Một Mái trung tu tôn tạo trên 25 tỷ đồng; chùa Hoa Yên trên 80 tỷ đồng; khởi công xây dựng mới chùa Quỳnh trị giá hàng trăm tỷ đồng...

Sau khi hoàn thành các công trình đã thu hút lượng khách du lịch lên đến vài triệu lượt/năm, trong đó phải kể đến khu Danh thắng Yên Tử, chùa Ngọa Vân tại Đông Triều với các điểm nhấn là Chùa Đồng, tượng Phật hoàng và khu am tháp.


Khu mắt Rồng, am tháp tại Yên Tử - điểm dừng chân chiêm bái của nhiều du khách

Ông Lê Tiến Dũng, Trưởng Ban Quản lý Di tích và Rừng Quốc gia Yên Tử cho biết, nhờ biết phát huy được nguồn vốn xã hội hóa mà Ban Quản lý tôn tạo Yên Tử đã làm nhiều công trình có giá trị về mặt văn hóa tâm linh, tạo điểm nhấn thu hút khách du lịch. Kinh nghiệm của Yên Tử trong việc huy động xã hội hóa, là công khai, minh bạch và sử dụng đồng tiền của các doanh nghiệp, nhà hảo tâm quyên góp đúng mục đích, xây dựng các công trình đảm bảo về chất lượng và cảnh quan. Điều đáng nói, đối với các công trình mang tính tâm linh, thì Ban Trị sự Phật giáo tỉnh làm chủ đầu tư mới phát huy được nguồn lực xã hội hóa có hiệu quả.


Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông được xây dựng bằng nguồn vốn xã hội hóa
Ông Nguyễn Văn Thắng (xã Thượng Yên Công, TP Uông Bí) cả cuộc đời gắn bó với Danh thắng Yên Tử nói: Trước đây, dân chúng tôi chỉ biết đi rừng, đào của mài, cả sắn để có bữa cơm đạm bạc. Từ năm 2006 đến nay, các cấp chính quyền, ban, ngành của tỉnh Quảng Ninh và TP Uông Bí cùng với Ban Trị sự Phật giáo tỉnh đầu tư nâng cấp hạ tầng, huy động nguồn lưc xã hội hóa để làm các công trình tại Yên Tử như: Chùa Đông, tượng Phật hoàng, chùa Hoa Yên, Một Mái, am tháp... Vì vậy, Yên Tử đã thu hút được nhiều du khách đến thăm quan, lễ bái. Từ đó, người dân chúng tôi phát triển được kinh tế gia đình bằng kinh doanh các mặt hàng phục vụ du khách nên cuộc sống nơi đây đã thay da, đổi thịt.

Cùng với các hạng mục đã được triển khai, trước lễ Phật đản năm nay, tại Danh thắng Yên Tử, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh tiếp tục thực hiện chủ đầu tư các công trình hạng mục tâm linh, điển hình là Trung tâm khai hội, cung Trúc Lâm, vườn thiền với số vốn lên đến hàng trăm tỷ đồng bằng nguồn vốn xã hội hóa. Bước đầu số tiền đã được các tổ chức doanh nghiệp cá nhân ủng hộ trên 100 tỷ đồng. Sau khi hoàn thành, công tình sẽ là điểm đến hấp dẫn cho du khách khi hành hương về Yên Tử - Kinh đô Phật giáo của cả nước. GHPGVN tỉnh Quảng Ninh dự kiến sẽ hoàn thành công trình vào kỷ niệm 710 năm ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn.

“Chúng tôi thấy Quyết định 1742 mà tỉnh giao các công trình văn hóa tâm linh tại 3 khu di tích quốc gia đặc biệt tại Quảng Ninh cho Giáo hội làm chủ đầu tư là rất hợp lòng dân. Tới đây, khi chúng tôi triển khai các hạng mục tại Yên Tử, ngoài việc tuân thủ các văn bản quy phạm của Nhà nước về quy hoạch, quản lý di sản, chúng tôi tiếp tục huy động tốt nguồn vốn xã hội hóa để đưa công trình sử dụng đúng mục đích, hiệu quả”, Đại đức Thích Đạo Hiển - Phó trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Ninh nói.

Chỉ trong vài năm nữa, sẽ có thêm nhiều công trình văn hóa đậm tính thuần Việt, điểm dừng chân của du khách khi hành hương về Yên Tử. Nơi đây, sẽ tái hiện cuộc đời hành trạng của Vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông, giới thiệu về những tác phẩm bất hủ của Ngài, tái hiện cuộc sống tu hành của các chư vị Tổ sư thế kỷ thứ 13. Đây là tiền đề để khu Danh thắng Yên Tử trình UNESSCO công nhận di sản văn hóa.

T.Uyên

Hảo tâm xuất gia

Hảo tâm xuất gia

Đăng lúc: 21:22 - 12/11/2015

Bây giờ, sau khi tham dự một khóa thiền, thì ý niệm xuất gia trong tôi bỗng trỗi dậy mãnh liệt.

HỎI: Hiện tôi đang học năm thứ hai đại học. Nhưng từ lúc còn học phổ thông tôi đã muốn xuất gia, và ý niệm này được giấu kín trong lòng. Bây giờ, sau khi tham dự một khóa thiền, thì ý niệm xuất gia trong tôi bỗng trỗi dậy mãnh liệt. Tôi tự ý thức rằng, đã đến lúc tôi phải đi trên con đường đạo. Điều khiến tôi băn khoăn đó là phải xin phép gia đình như thế nào?

Gia đình tôi có năm người, ba mẹ đều ở tuổi tứ tuần và hoàn cảnh kinh tế cũng bình thường vì chỉ ba tôi đi làm, mẹ ở nhà làm vườn mà phải nuôi ba chị em tôi ăn học. Trong ba chị em, tôi là người được ba mẹ hy vọng nhất. Nếu tôi đi tu thì chắc chắn ba mẹ sẽ rất buồn. Tôi thấy đời người không phải vô hạn, nếu không xuất gia sẽ không kịp. Thật sự bây giờ lòng tôi chỉ hướng đến cửa Phật và đi trên đường Chánh pháp xuất gia chứ không còn gì lưu luyến về cuộc sống thế tục. Tôi làm sao để được xuất gia?

(HUỲNH THẢO, doanhuynhthao@gmail.com)

ĐÁP: Bạn Huỳnh Thảo thân mến!

Theo như tâm sự của bạn, chúng tôi nghĩ rằng bạn là người hảo tâm xuất gia. Hạt giống xuất gia tu học nhiều đời của bạn đã nảy mầm. Vậy bạn cần nỗ lực thêm chút nữa, chắc chắn tâm nguyện của bạn sẽ thành tựu.

Bạn hãy mạnh dạn trình bày tâm nguyện xuất gia của mình lên ba mẹ. Bất cứ bậc cha mẹ nào cũng lo, buồn và thương khi biết con mình chọn con đường xuất gia. Bởi đó là con đường hẹp, nhiều gian khó, phải kham nhẫn và cố gắng thật nhiều mới thành tựu.

Cần phải xin ba mẹ nhiều lần, nếu được cho phép thì bạn hãy xuất gia ngay (không cần đợi học hết đại học). Nếu đủ duyên, bạn nên tìm đến những tu viện, thiền viện chuyên tu để xin xuất gia.

Khi đã xác định xuất gia là lý tưởng sống của mình thì bạn hãy dấn thân tu tập và phụng sự. Trong trường hợp nhân duyên xuất gia còn thiếu thì hãy giữ vững tâm nguyện của mình, sống và tu học theo lời Phật dạy, chờ đến khi hội đủ duyên lành.

Chúc bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN

Học cách cho đi bằng tâm Từ bi rộng lớn

Học cách cho đi bằng tâm Từ bi rộng lớn

Đăng lúc: 06:57 - 19/07/2015

Bố thí là hạnh đầu tiên theo lời Phật dạy hay còn gọi đầy đủ là hạnh buông xả. Bố thí là cho, biết cho,là trao tặng, là giúp đỡ sẻ chia hay mở lòng rộng lượng để cúng dường. Mỗi khi làm việc bố thí là chúng ta đã thắng được lòng tham lam, ích kỷ của mình. Chúng ta có thể cho đi cái gì nhỏ nhất là chuyển được lòng tham đôi chút, cho đi cái lớn hơn là thắng được lòng tham ở mức độ lớn hơn.


Cho đi là hành động cao thượng của những người có tấm lòng vị tha, nhằm nhắc nhở chúng ta, giảm bớt tham lam do si mê chấp giữ. Bố thí là biểu hiện của tình người trong cuộc sống, là sự biết cho đi, là cách để buông xả bớt mọi phiền não khổ đau. Bố thí cần được thực hiện với tinh thần tự nguyện, không có điều kiện để trau đổi.
Cho đi là nhịp cầu kết nối yêu thương, là biết nghĩ tới người khác, biết quan tâm tới người khác. Người hay thường xuyên bố thí, thân tâm lúc nào cũng an lạc, thảnh thơi và làm cho người nhận cũng được hoan hỷ vui vẻ.
Với người nghèo, chúng ta san sẻ hay giúp đỡ một chút cho họ trong cơn hoạn nạn còn quý hơn bằng chín xe mười vàng. Bố thí cũng không chỉ giới hạn trong vật chất, người không có phương tiện vật chất gì cũng có thể thực hành bố thí, như bố thí lời nói để động viên an ủi người khác, bố thí bằng hành động cụ thể như giúp người đau yếu bệnh tật….
Có một người rất nghèo đến hỏi Đức Phật: “Tại sao con làm việc gì cũng không thành công, không gặt hái được kết quả tốt đẹp?”. Phật mới nói rằng: “Vì con chưa học được cách bố thí cho người khác”. Người kia thưa “Con không có thứ gì cả, thì lấy gì con bố thí”. Đức Phật dạy : “Cho dù con hoàn toàn không có của cải gì cả, con vẫn có thể thực hiện bố thí 7 thứ sau đây cho người khác.

1- Nhan thí: Biết nở nụ cười hân hoan trên nét mặt khi tiếp xúc với mọi người, đó cũng là cách đem lại niềm vui cho người khác.
2- Ngôn thí: Biết dùng lời nói nhẹ nhàng, biết nói lời khích lệ, động viên an ủi, cổ vũ người khác.
3- Tâm thí: Biết mở lòng bao dung và độ lượng, biết cảm thông và tha thứ cho người khác vì không thấy ai là kẻ thù của mình.
4- Nhãn thí: Biết dùng ánh mắt thân thiện, sống tình nghĩa mà nhìn mọi người với con mắt biết yêu thương bằng tình người trong cuộc sống.
5- Thân thí: Biết dùng hành động mà giúp đỡ, chăm sóc, chia sẻ cho người khác khi có việc cần thiết.
6- Tọa thí: Biết nhường chỗ ngồi cho người già yếu, trẻ em, người tàn tật, phụ nữ mang thai.
7- Phòng thí: Biết nhường chỗ trong nhà mình hay chỗ nghỉ ngơi chung cho người lỡ đường hoặc có nhu cầu cần thiết hơn mình.
Thế cho nên không giới hạn là người giàu hay nghèo, ai cũng có khả năng bố thí nhưng của cho không bằng cách cho, là cho đúng lúc, đúng thời, đúng nơi, đúng chỗ.
Bố thí để tăng trưởng lòng từ bi
Vậy bố thí, cúng dường có ý nghĩa gì? “Bố thí” tiếng Phạn là Dana, có nghĩa là sự cho; còn theo từ ngữ Hán Việt “bố” là cùng khắp, “thí” là cho, nghĩa là cho cùng khắp không giới hạn. Thông thường, ta chỉ bố thí cho người thân, rộng hơn nữa là cho người nghèo khổ, ít ai bố thí cho người ta đang ghét bỏ hay hận thù. Chính vì không hiểu biết tới nơi tới chốn nên ta chỉ bố thí có giới hạn dẫn đến không được nhiều lợi ích, có khi còn tham lam, ích kỷ nữa là khác. Từ “cúng dường” là nói trại của hai chữ “cung dưỡng”, có nghĩa là cung cấp và dưỡng nuôi. Về nội dung thì bố thí hay cúng dường chỉ là một, không có gì là sai khác. Tuy cùng chung một nghĩa cử, một hành động, nhưng người ta dùng hai từ khác nhau để cho phù hợp với đối tượng thọ nhận; ta cho với lòng hảo tâm, thương cảm thì gọi là bố thí; còn cho với lòng ngưỡng mộ, tôn kính thì gọi là cúng dường.
Thí dụ, cha mẹ là hai đấng sanh thành mang nặng đẻ đau, nuôi ta khôn lớn, lo cho ta ăn học tới nơi tới chốn, dựng vợ gã chồng, tạo cho ta gia tài sự nghiệp, ta phải có trách nhiệm cúng dường cha mẹ khi tuổi già hay lúc bệnh hoạn, ốm đau… (nghĩa là cung cấp và dưỡng nuôi cha mẹ.) Cung cấp những nhu cầu cần thiết để nuôi dưỡng cha mẹ là đạo lý “uống nước nhớ nguồn; ăn trái nhớ kẻ trồng cây” trong tập quán của người Việt nam. Làm người trong trời đất ai cũng từ cha mẹ sinh ra, cha mẹ làm nên thân người, vì vậy ta phải có trách nhiệm, bổn phận hiếu thảo với mẹ cha bằng cách chăm sóc về tình cảm, tinh thần và cung cấp, dưỡng nuôi lúc cần thiết. Trong kinh Phật dạy, gặp thời không có Phật thì cha mẹ là hai vị Phật (Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế). Làm người chúng ta cần nhớ lời dạy quan trọng này.
Một thời lúc Phật còn tại thế, gặp năm hạn hán mất mùa, dân chúng đói khổ, thiếu thốn, khó khăn, đức Phật cũng không ngoại lệ. Một vị Tỳ-kheo thấy Phật thiếu ăn liền đem chiếc y của mình đổi lấy bát cơm dâng lên cúng Phật. Phật hỏi rằng, “ông còn cha mẹ không?” “bạch Phật, cha con chết rồi, con chỉ còn mẹ già thôi ạ”. Phật hỏi tiếp, “mẹ ông dùng cơm chưa?” “Dạ chưa!” Phật nói, “người xứng đáng nhận bát cơm này là mẹ ông chứ không phải Ta”. Sau đó Phật dạy tiếp, “người xuất gia còn cha mẹ không ai nuôi dưỡng thì người đó có quyền khất thực đem về cúng dường cha mẹ”. Ngoài việc cúng dường cha mẹ, người Phật tử còn có trách nhiệm và bổn phận cúng dường người tu hành chân chánh có đạo đức, có nhân cách, suốt đời phục vụ vì Tam Bảo, vì lợi ích chúng sanh.
Tai sao ta phải cúng dường người tu hành chân chánh? Cha mẹ làm nên thân ta, thầy Tổ giúp ta biết được điều hay lẽ phải để vượt qua cạm bẫy cuộc đời, không rơi vào hố sâu tội lỗi.
Chính vì vậy, từ cúng dường được dùng đối với các bậc trưởng thượng, tôn kính như cha, mẹ, thầy Tổ… là những người có công nuôi dưỡng, dạy dỗ, chỉ dạy, giúp ta nên người. Ngoài từ ngữ bố thí, cúng dường còn có nhiều từ ngữ khác như kính tặng, kính biếu… để nói lên lòng tôn kính của người cho.
Từ ngữ “bố thí” được người Việt Nam sử dụng với nhiều ý nghĩa như cho, tặng, biếu, giúp đỡ, chia sẻ… Tất cả đều mang ý nghĩa tốt đẹp của hành động cho. Khi gặp người nghèo khổ ta thương tình giúp đỡ gọi là “cho” hay gọi là “bố thí” cũng được.
Người có tâm từ bi rộng lớn không những biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ cho người mà còn giúp các loài vật nữa. Đó là người biết gieo trồng phước đức đúng Pháp. Người tu hành theo đạo Phật rất cần thực tập để có được tâm từ bi rộng lớn này.
Con cháu đem vật phẩm nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ thì gọi là cúng dường phẩm vật; còn ông bà cha mẹ đem của cải vật chất lo cho con cháu thì gọi bằng từ cho, giúp đỡ hay chia sẻ; hoặc người dân bình thường muốn đem phẩm vật cho những người có địa vị trong xã hội thì gọi là kính biếu hay kính tặng.
Cùng một hành động bố thí nhưng tùy đối tượng, tùy hoàn cảnh mà ta dùng từ ngữ sao cho phù hợp để không làm mất đi sự tôn kính và lòng thương cảm của ta.


Thích Đạt Ma Phổ Giác

tải xuống (1)

Chia sẻ về giáo dục Phật giáo ở Malaysia

Đăng lúc: 06:51 - 09/05/2015

Nhiều năm trước, khi tôi ở Hồng Kông, tôi được giới thiệu đến một vị bảo trợ chùa chiền hảo tâm. Bà này đồng ý hiến tặng 4 triệu đô-la Hồng Kông cho một trong những trường cao đẳng Phật giáo quốc tế. Sau khi thực hiện xong việc hiến tặng đó, bà đưa tôi ra sân bay Hồng Kông. Trên đường ra sân bay, bà nói với tôi rằng bà rất buồn vì đã gửi con gái của mình đến học tại một trong những ngôi trường tốt nhất ở Hồng Kông. Tôi nghĩ nhiều người trong quý vị biết rằng hầu hết những ngôi trường tốt, bao gồm những ngôi trường tốt nhất, là do những người Thiên Chúa giáo điều hành, đặc biệt là những người Công giáo, bởi vì họ đã điều hành trường học từ rất lâu. Sau khi con gái của bà học ở trường đó một thời gian, cô bé này không còn muốn theo mẹ đến chùa nữa. Vị thí chủ hảo tâm này thuật lại sự việc cho tôi.

Gần đây, khoảng một tháng trước, tôi viếng thăm Miến Điện. Quý vị biết Miến Điện là một quốc gia rất sùng mộ đạo Phật nhưng bây giờ tôi nhận thấy rằng có nhiều trường quốc tế ở đó mà chúng do người nước ngoài điều hành, có lẽ là những nhà thờ và họ có biểu học phí rất cao. Tuy nhiên, nhiều người Miến Điện vẫn đưa con cái đến những ngôi trường này bởi vì họ muốn sự giáo dục tốt nhất cho con cái của họ.

Tôi đến Miến Điện dịp đó để tham gia hội thảo lần hai của Hiệp hội những trường đại học Phật giáo Theravāda và có một nhóm tham gia về Phật giáo nhập thế. Khi chúng tôi thảo luận về đề tài này, có một sự đồng ý mạnh mẽ rằng chúng ta nên làm gì đó để tránh loại tình huống này tiếp tục. Vì vậy có lẽ chúng ta nên tự hỏi tại sao Phật giáo không thể xây dựng và điều hành những ngôi trường chất lượng.

Tất cả chúng ta biết rằng những người Thiên Chúa giáo đã xây dựng và điều hành những cơ sở giáo dục từ tiểu học cho đến đại học từ rất lâu. Trong suốt thời kỳ thuộc địa, ở nhiều quốc gia thuộc địa bao gồm cả đất nước chúng ta (Malaysia), những người Thiên Chúa giáo đã tiến hành đẩy mạnh giáo dục và điều hành trường học. Kết quả, ngày nay chúng ta nhìn thấy ở đất nước này, nhiều trường học hàng đầu từ mẫu giáo đến đại học do người Thiên Chúa giáo điều hành.

Tôi nhớ vào buổi gặp mặt giới thiệu ở Kuala Lumpur khi chúng tôi đang lập kế hoạch cho trường cao đẳng này (International Buddhist College), một trong những thính giả Phật tử đã hỏi tôi, “Sao ông muốn xây dựng một trường đại học khác (đại học thứ ba) ở Thái Lan?”. Ông ấy nói rằng ở đó đã có hai trường đại học được nhà nước bảo trợ rồi. Một số trong quý vị biết hai trường đại học này là Đại học Mahamakut và Mahaculalongkorn với phương tiện giảng dạy chính là tiếng Thái.

Vì vậy, khi chúng tôi quyết định thành lập viện Phật giáo quốc tế, chúng tôi quyết định sử dụng một ngôn ngữ quốc tế. Chúng tôi chọn tiếng Anh và sau đó cũng chọn tiếng Trung. Vì đây là câu hỏi đặt ra cho tôi, nên trả lời, tôi đã hỏi vị ấy, “Ông có biết có bao nhiêu trường đại học Thiên Chúa giáo ở Thái Lan không?”. Đây là một quốc gia Phật giáo nhưng thực sự có bảy trường đại học của Thiên Chúa giáo ở đó, và tuy thế chúng ta đang than phiền rằng chúng ta có quá nhiều. Thực ra, nó không chỉ là con số, mà còn là chất lượng…

Hiện giờ, đại học của Công giáo có 20.000 sinh viên. Trong số đó có 2.000 sinh viên nước ngoài và chúng ta không nói đến người Thái gốc Hoa. Chỉ có 1.000 sinh viên đến từ Trung Quốc. Như vậy đây là một đại học tư hàng đầu ở Thái Lan. Trong khi ở Malaysia này, chúng ta có Đại học Hồi giáo Quốc tế (International Islamic University). Đó không phải là đại học duy nhất, mà ở nhiều quốc gia khác theo đạo Hồi ngay cả ở Indonesia, cũng có nhiều đại học như vậy. Tất nhiên ở nhiều quốc gia Trung Đông, họ cũng có nhiều trường đại học. Tất cả những trường đại học này đã sản sinh nên một số lượng hùng hậu những học giả Hồi giáo hàng năm. Như vậy ngay trong việc so sánh với Hồi giáo, chúng ta đã thua xa họ. Đó là để nói rằng chúng ta xúc tiến quá trể và cũng trong khi những tôn giáo khác đang đẩy mạnh giáo dục của họ bằng việc tích cực xây dựng các trường đại học, chúng ta lại phần nào bảo thủ.

Ở những quốc gia như Ấn Độ (nơi Phật giáo từng hưng thịnh), Sri Lanka, Thai Lan, Tây Tạng, chùa chiền từng là những trung tâm giáo dục. Trong thực tế, nếu quý vị muốn nhận sự giáo dục tốt bao gồm cả giáo dục thế tục, quý vị đến chùa. Ngay cả ngày nay ở Sri Lanka, có một số trường học hay những cơ sở truyền thống mà chúng từ xưa thuộc chùa chiền Phật giáo.

Có những ngôi trường đặc biệt nhưng tất nhiên do vì ở vùng đó họ không có những trường học khác. Vì vậy khá thú vị là một số học sinh của những tín ngưỡng khác đôi khi học ở những ngôi trường này, thậm chí học chung với các sư chú trẻ. Ở Thái Lan, nhiều ngôi trường, dù là trường tiểu học hay trung học, được xây trong khuôn viên của chùa. Nhưng chúng không hẳn do chùa điều hành bởi vì bộ giáo dục từ lâu đã sử dụng các ngôi chùa như những trung tâm giáo dục. Nhưng sau đó như ở hầu hết các quốc gia, chính quyền nắm giữ vai trò và trách nhiệm giáo dục; và tất nhiên chúng ta cũng biết rằng trong một vài quốc gia tiên tiến, trường và đại học tư đang làm việc tốt hơn những ngôi trường và đại học do nhà nước bảo trợ.

Ở chùa Than Hsiang, chúng tôi đã tham gia vào giáo dục chính quy với một trường mẫu giáo vào năm 1991. Ngôi chùa tọa lạc ở giữa công viên công nghệ cao. Tôi thật sự thấy được nhu cầu có một trường mẫu giáo với những phương tiện tốt dành cho người trẻ ở đó bởi vì nhiều đôi vợ chồng trẻ vào thời điểm ấy chỉ mới có con và chúng sắp vào mẫu giáo.

Vì vậy chúng tôi quyết định bắt đầu một trường mẫu giáo và 18 năm sau, chúng tôi bây giờ điều hành 6 trường ở những bang miền bắc, không chỉ ở đảo và ở đất liền của bang Penang mà cũng ở bang Kedad. Thực sự, phương pháp của chúng tôi hiện nay là tiếp cận cộng đồng và điều hành trường mẫu giáo nhỏ với ít hơn 100 học sinh mỗi trường. Chúng tôi có trường mẫu giáo chính ở chùa Than Hsiang với khoảng 350 học sinh. Nhưng năm trường khác thì tương đối nhỏ hơn. Như vậy, hoàn toàn dễ dàng để điều hành và quản lý một trường mẫu giáo nếu quý vị có 80 đến 100 học sinh.

Bên cạnh, chúng tôi cũng điều hành nhà dưỡng lão. Hiện tại, chúng tôi thử đặt nhà trẻ và nhà dưỡng lão gần nhau. Chúng tôi cố gắng mang trẻ em và người già lại với nhau. Điều này thực sự rất tốt bởi vì với việc công nghiệp hóa hiện đại của chúng ta, nhiều cặp vợ chồng trẻ phải đi làm việc, vì vậy chúng ta đối diện với hai vấn đề.

Không giống 50 trước, hay ngay cả 30 năm trước, khi ấy chúng ta có một cấu trúc gia đình mở rộng. Khuynh hướng bây giờ là những cặp vợ chồng trẻ bắt đầu gia đình riêng của họ và sống riêng biệt trong một căn hộ. Đôi khi, những đứa trẻ hiếm gặp cha mẹ chúng suốt những ngày trong tuần. Mặt khác, những người già cũng đối diện tình huống là không có con cái chăm sóc bởi vì chúng đang làm việc. Vì vậy, nhằm phục vụ cộng đồng và xã hội, chúng tôi vận hành và cố gắng có trung tâm này không chỉ vì những sinh hoạt tôn giáo, mà cũng điều hành những nhà mẫu giáo cũng như nhà giưỡng lão quy mô nhỏ. Chúng tôi cũng lên kế hoạch điều hành những nhà dưỡng lão quy mô nhỏ với khoảng 25 người. Đây là giải pháp mới của chúng tôi cho cả nhà trẻ và nhà dưỡng lão.

Bây giờ, tôi muốn chia sẻ với các bạn về viện Phor Tay. Từ Phor Tay tiếng Sanskrit là Bodhi, mà nó đề cập đến sự giác ngộ của Đức Phật. Vào năm 1935, một vị Ni từ Hạ Môn, Trung Quốc đến Penang và thiết lập viện Bodhi. Đây là một Ni viện, và bà quyết định đặt tên là Phor Tay, cho thấy rằng ngay khi thành lập, Ni sư này đã có quan điểm rằng giáo dục là quan trọng. Không chỉ những phục vụ tôn giáo, mà ngay cả việc giáo dục cũng được nhấn mạnh.

Ni sư sau đó cùng làm việc với những đệ tử và học trò của mình. Đầu tiên, họ khởi xướng một trường học Phật giáo miễn phí để đem giáo dục miễn phí đến cho những người thiếu may mắn, những trẻ em và thực tế họ cũng thiết lập một trại mồ côi. Cuối cùng, thấy cần thiết nên họ thành lập một trường tiểu học cho trẻ em. Khi những học sinh tiểu học hoàn tất chương trình giáo dục tiểu học của mình, họ tiếp tục lập kế hoạch và sau đó xây Trường Trung học Phor Tay.

Đây là một Ni sư đặc biệt, bà đã bắt đầu tất cả các trường học này từ thập niên 30 thế kỷ trước. Thế rồi ngày nay ở viện Phor Tay này, họ điều hành một trường mẫu giáo, một trường tiểu học và hai trường trung học. Trường trung học được thành lập vào năm 1954 và sau đó vào 1962. Nhiều người thuộc trường trung học nói tiếng Trung chấp nhận sự bảo trợ của chính phủ nhưng trường Board tiếp tục vận hành một trường trung học tư thục. Vì vậy kết quả là, có hai loại trường, một được chính phủ hỗ trợ và một là trường trung học tư thục.

Gần đây trường học được chính phủ bảo trợ được di chuyển đến khu vực công nghiệp và cũng không xa chùa Than Hsiang. Do đó, chúng tôi xây lại trường trung học này thành một trường rất lớn…

Cuối cùng cho phép tôi chia sẻ với các bạn về nỗ lực của chúng tôi trong giáo dục đại học, đặc biệc là Phật học. Năm 1992, khi tôi đang học ở New Zealand, tôi có hai người bạn học đại học – Hòa thượng Giáo sư Dhammajoti và Hòa thượng Mahinda. Hòa thương Dhammajoti đến Sri Lanka và rồi ở đó để hoàn tất khóa cao học và tiến sĩ và tiếp tục giảng dạy ở đó. Ông sống khoảng 25 năm ở Sri Lanka và khi tôi viếng thăm Sri Lanka, ông đề xuất ý tưởng về việc thành lập một cơ sở để đẩy mạnh nghiên cứu Phật học ở Malaysia. Dựa trên sự giúp đỡ của ông, chúng tôi đã làm việc với Đại học Pāli và Phật giáo của Sri Lanka và vào năm 1992, chúng tôi lần đầu tiên mở khóa học chứng chỉ và sau đó là khóa cử nhân.

Trong suốt thời gian đó, Giáo sư Karunadasa đến giảng dạy ở Penang và ông rất tâm đắc sự hợp nhất của Phật giáo Malaysia. Ở đó, ông thấy sự gặp nhau của hai truyền thống Phật giáo lớn là Theravāda và Đại thừa Trung Hoa. Thời điểm đó, Phật giáo Tây Tạng cũng đã bắt đầu đến Malaysia. Ông đã đề xuất ý tưởng thiết lập một trường đại học mà nó dung nạp cả ba truyền thống lớn. Như vậy, ông là người khởi xướng ý tưởng này.

Sau khi xem xét nghiêm túc, chúng tôi thấy Thái Lan là nơi hợp lý để mở đại học này. Có hai lý do chính. Thứ nhất là bởi Thái Lan là một quốc gia Phật giáo. Thứ hai, Thái Lan về vị trí địa lý là trái tim của Đông Nam Á ở khu vực châu Á. Vì vậy, nó ở vị trí trung tâm. Bên cạnh đó, chúng tôi chọn Thái Lan bởi vì nó nằm cận Malaysia và chúng tôi chọn khu vực phía nam Thái Lan bởi vì đó là nơi gần với chúng tôi nhất.

Năm 1999, chúng tôi chính thức thành lập Quỹ Than Hsiang Thái Lan để đăng ký IBC (International Buddhist College). Thế là chúng tôi tuyển một nhóm cố vấn. Đầu tiên, chúng tôi muốn gọi ngôi trường này là Đại học Phật giáo Quốc tế (International Buddhist University) nhưng sau đó theo lời khuyên của nhóm cố vấn chúng tôi chọn cao đẳng (college) vì không có nhu cầu cho chúng tôi thiết lập ba hay bốn phân khoa bởi vì nếu chúng tôi thành lập nhiều phân khoa, chi phí sẽ càng nhiều. Vì vậy, nếu chúng tôi chỉ đáp ứng nghiên cứu Phật học, thì chúng tôi chỉ cần thiết lập hai khoa, một khoa về nghiên cứu Phật học hay khoa nghiên cứu tôn giáo và một khoa là nghệ thuật tự do bởi vì hệ thống giáo dục Thái là dựa trên hệ thống kiểu Mỹ.

Vì vậy, để bắt đầu chúng tôi cũng đưa ra một vài môn học chung – bốn môn học cốt lõi thuộc nghệ thuật tự do – ngôn ngữ, nhân chủng học, tin học và thống kê để có một nền tảng rộng được xây dựng cho những sinh viên của chúng tôi học cư nhân. Chúng tôi có giấy phép để điều hành cao đẳng này và một năm sau, chúng tôi tiếp nhận khối sinh viên cử nhân đầu tiên đó là vào năm 2004. Sự thực, khi chúng tôi bắt đầu mở khóa cử nhân, chúng tôi thậm chí không biết rằng chính sách giáo dục Thái Lan là rất tự do. Chúng tôi đệ trình xin mở khóa học chỉ bằng tiếng Anh và chúng tôi không bị bắt buộc phải dạy tiếng Thái. Rồi sau đó, sinh viên của chúng tôi trong hai năm đầu, đặc biệt với một số sinh viên đến từ Trung Quốc, phải vật lộn vất vả với tiếng Anh. Họ phải học tiếng Anh trước, đôi khi một năm và số khác có thể cần hơn một năm để nâng cao tiếng Anh trước khi có thể học khóa cử nhân. Đối với họ, chúng tôi thấy rằng nếu chúng tôi cũng có thể mở những khóa học bằng tiếng Trung, điều đó sẽ dễ dàng cho những sinh viên đến từ Trung Quốc và cũng một vài đến từ Đông Nam Á, từ Malaysia và Singapore.

Kết quả là, khi chúng tôi bắt đầu khóa cao học, chúng tôi có chương trình giảng dạy của mình cả bằng triếng Trung và tiếng Anh và không có vấn đề gì. Nó được chấp nhận. Vì vậy vào năm 1996, chúng tôi tiếp nhận khối sinh viên cao học đầu tiên, sự thực là hai lớp – cả bằng tiếng Anh và tiếng Trung. Năm rồi, chúng tôi đã bế giảng khối cử nhân và khối cao học đầu tiên. Đồng thời, sau khi bế giảng khóa cao học, một số sinh viên muốn tiếp tục, vì vậy chúng tôi mở khóa tiến sĩ, cũng bằng hai ngôn ngữ và điều đó cũng được chấp thuận.

Về các khóa cử nhân và cao học, chúng tôi trải qua một tiến trình công nhận và chúng tôi làm điều này rất tốt. Hội nghị đầu tiên được tổ chức vào ngày 20 tháng Tám năm ngoái và hiện nay chúng tôi cũng có bốn nghiên cứu sinh tiến sĩ, hai người đăng ký làm bằng tiếng Trung và hai người đăng ký làm bằng tiếng Anh. Chúng tôi cũng đệ trình một chương trình giảng dạy có sửa chữa dành cho cử nhân và bây giờ những sinh viên của chúng tôi cũng được phép chọn hoặc tiếng Trung hoặc tiếng Anh làm phương tiện truyền đạt. Do đó hiện nay, chúng tôi đưa cả tiếng Anh và tiếng Trung vào các khóa cử nhân, cao học và tiến sĩ.

Khoảng một tháng trước, chúng tôi phải trải qua một đánh giá từ bên ngoài về hệ thống đảm bảo chất lượng cho giáo dục cao mà nó tương tự với ISO9000. Ở Thái Lan, tất cả các đại học cho dù là công hay tư phải trải qua việc đánh giá chất lượng này năm năm một lần. Vì năm này là năm thứ năm của chúng tôi trong việc điều hành đại học, vì vậy chúng tôi phải trải qua sự kiểm định này mà nó được ONESCA tổ chức. Thực sự, chúng tôi đã trải qua sự kiểm định này với một kết quả rất tốt. Sự nhấn mạnh của chúng tôi là để chọn một giải pháp bắt đầu với một khối sinh viên nhỏ và chúng tôi đã tiếp tục cách này trong năm năm. Đó là một cơ hội cho chúng tôi nghiên cứu thông qua tiến trình này. Thật sự là một quyết định khôn khéo là bắt đầu với mô hình nhỏ và tập trung vào giáo dục có chất lượng thay vì cố gắng tuyển thật nhiều sinh viên. Chúng tôi thật sự nhấn mạnh vào chất lượng thay vì số lượng.

Vào năm tuyển sinh đầu tiên, chúng tôi có 65 người nộp đơn từ Trung Quốc và họ nộp đơn cho khóa học thông qua internet. Trong số này, chúng tôi chỉ chấp nhận 13 người. Nhưng trong số 13 người này, chỉ có tám người đến bởi vì tại nhiều khu vực ở Trung Quốc, nếu quý vị đang sống ở một thành phố lớn, quý vị có thể có hộ chiếu nhanh chóng. Nhưng nếu quý vị đang sống ở những vùng xa xôi, thì mất hơn nửa năm để xin hộ chiếu. Vì những người đó không thể có hộ chiếu đúng thời hạn, họ không thể tham gia với chúng tôi.

Mỗi năm vào tháng Tư, chúng tôi tổ chức một Dhammaduta Tour. Năm đại học thứ năm của chúng tôi đi qua. Vào năm thứ năm, chúng tôi có khoảng 80 sinh viên. Chúng tôi cũng bắt đầu một giai đoạn thí điểm về việc học qua internet, chọn một vài môn học từ chương trình cử nhân của chúng tôi. Hiện chúng tôi đang lập kế hoạch mở khóa cao học 3 năm thông qua học từ internet từ tháng 9 năm này. Giải pháp học qua internet này là rất quan trọng đối với chúng tôi. Có hai lý do cho việc giới thiệu phương pháp học qua internet này. Tất nhiên internet bây giờ quá phổ biến. Nếu quý vị truy cập internet, quý vị có thể học bất cứ nơi đâu ở trên thế giới và chúng ta có thể đi đến một mục tiêu rất rộng.

Dựa trên những kinh nghiệm của chúng tôi trong năm năm đầu, phần khó khăn nhất trong điều hành IBC không phải về mặt học thuật, mà vấn đề của sinh viên. Do đó, nếu những sinh viên đang ở tại nhà, thực hiện kỳ học của họ, chúng tôi không phải lo lắng về nơi ở của họ cũng như vấn đề sinh viên đến từ những quốc gia khác. Sự thực, mặc dù chúng tôi có 80 sinh viên, những họ đến từ hơn 14 quốc gia với những truyền thống Phật giáo khác nhau và nói những ngôn ngữ khác nhau.

Trước tiên, nó rất khó khăn cho chúng tôi quản lý những sinh viên này bởi nền tảng xuất thân khác nhau của họ. Dù thế nào đi nữa, sau khi họ có thể sống ở IBC, tôi nghĩ họ hiểu giá trị sự của đa dạng này bởi vì họ có thể học hỏi những truyền thống Phật giáo khác nhau từ những sinh viên cùng học và nhiều điều thú vị khác.

Chỉ ở Thái Lan mà chúng tôi có thể bắt đầu một đại học bằng trước hết tập trung vào nghiên cứu Phật học. Một số trong các quý vị biết rằng trong 20 năm qua, nhiều tổ chức Phật giáo đã bắt đầu những đại học ở Đài Loan, nhưng tất cả những đại học này chỉ mới đây thôi, chúng không được phép mở khoa nghiên cứu Phật học. Họ đang điều hành những khóa học thế tục nhờ đó số lượng đầu tư vào mới lớn. Đối với một số trong những trường đại học này, nghiên cứu Phật giáo không thuộc phân khoa Phật học mà thuộc về triết học và tôn giáo so sánh.

Khi chúng tôi điều hành một đại học ở Thái Lan, trước tiên chúng tôi mở nghiên cứu Phật học. Nhưng từ những kinh nghiệm mà chúng tôi có được ở Malaysia này, qua việc điều hành trường mẫu giáo, nhà dưỡng lão, những trung tâm tư vấn, chúng tôi cũng muốn mở những khóa học này. Thực ra, tâm lý học Phật giáo rộng hơn tâm lý học phương Tây. Quan điểm của chúng tôi là mở khóa học tư vấn và mang vào đó yếu tố tâm lý Phật giáo. Thêm nữa, ở hầu hết tất cả các quốc gia, dân số đang già đi, vì vậy chúng tôi cần chăm sóc người già. Do đó, việc chăm sóc người già cũng là một khóa học mà nó sẽ rất hữu ích. Chúng tôi cũng sẽ mở khóa y học Trung Quốc bởi vì chúng tôi đang điều hành phòng phám chữa bệnh sử dụng sự phục vụ của bác sĩ Trung Quốc ở Penang và những khu vực khác ở bang miền bắc đã hơn 20 năm. Vì vậy, kế hoạch của chúng tôi là lần lượt giới thiệu những khóa học thế tục này vào trong IBC.

Thực ra, điều đầu tiên mà chúng tôi có khả năng sẽ tập trung vào là giáo dục mẫu giáo bởi vì những trường mẫu giáo mà chúng tôi đã điều hành, chúng tôi điều hành rất tốt. Điều đó có nghĩa là chúng tôi sẽ tiếp tục với quan niệm nhận cái tốt nhất của cả giáo dục truyền thống Đông phương qua đó những trẻ em học tụng đọc kinh điển và cũng từ giáo dục phương Tây dưới dạng giáo dục mẫu giáo mà nó sẽ giúp trẻ em học thông qua chơi. Cả hai hệ thống giáo dục trước khi đến trường này có giá trị tương tứng. Khi chúng tôi kết hợp hai điều này, chúng tôi tạo ra sự hợp nhất.

Kết luận:

Nhận xét của tôi là thế này: Nếu chúng ta không đầu tư vào giáo dục, Phật giáo, như là tôn giáo với hầu hết tín đồ ở châu Á, sẽ bị thay thể bởi những tôn giáo khác. Hiện tại ở nhiều quốc gia châu Á, Phật giáo vẫn có số tín đồ đông nhất nhưng nếu chúng ta tiếp tục bước đi như hiện nay của mình, chúng ta sẽ bị thay thế. Một ngày nào đó, chúng ta có thể trở thành không còn thích hợp. Hiện tượng này thật sự đã xảy ra ở Nam Hàn rồi.

Mới đây, khi đến Trung Quốc để tham dự Diễn đàn Phật giáo Thế giới, tôi cũng nhận thấy điều như vậy ở đó. Những người Thiên Chúa giáo đang xông xáo đến đó, bởi vì ở phương Tây, những giáo hội Thiên Chúa giáo, đặc biệt là Công giáo truyền thống, họ từng có những nhà thờ lớn nhưng bây giờ lại có rất ít tín đồ. Kết quả, họ dùng các nguồn đầu tư vào Malaysia rất năng nổ. Ngay cả ở Thái Lan, họ cũng rất xông xáo. Hòa thượng Dhammodaya nói với tôi rằng Sri Lanka cũng đang đối mặt với điều tương tự. Ở Nam Hàn cũng vậy, đã có nhiều người Thiên Chúa giáo hơn Phật tử rồi. Nếu chúng ta không thay đổi thái độ, điều này sẽ xảy ra ở Trung Quốc, có thể trong tương lai không xa. Ước đoán của tôi là trong 20 năm nữa điều này sẽ xảy ra.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, cho phép chúng tôi phản ánh về điều này và nhấn mạnh vào giáo dục Phật giáo. Một điều buồn rằng là khi chúng tôi muốn xây dựng chùa, có nhiều người ủng hộ. Nhưng khi chúng tôi muốn thúc đẩy giáo dục Phật giáo, người ta không nhiệt tâm ủng hộ. Sau cùng, tôi thấy vui là được chia sẽ với quý vị những quan sát của tôi và một vài đề án giáo dục Phật giáo ở Malaysia cũng như trường Cao đẳng Phật giáo Quốc tế (IBC).

HT.Wei Wu
Nguyên Hiệp lược dịch

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 7
  • Hôm nay 108
  • Tháng hiện tại 61,862
  • Tổng lượt truy cập 23,468,111