Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
9 câu nói hóa giải những khó khăn trong cuộc đời

9 câu nói hóa giải những khó khăn trong cuộc đời

Đăng lúc: 21:20 - 24/12/2016

Đời người có rất nhiều điều khó khăn cần chúng ta lựa chọn và đưa ra quyết định. Đứng trước mỗi lựa chọn và khó khăn ấy, làm sao để chúng ta có quyết định đúng đắn? Hãy tham khảo 9 câu nói của bên Phật gia dưới đây:


1. Khi bạn mất đi một thứ gì đó, có nhất định phải theo đuổi để giành lại không?

Kỳ thực, khi bạn mất đi một thứ gì đó là bởi vì thứ ấy chưa bao giờ thực sự thuộc về bạn, cho nên đừng quá nuối tiếc và theo đuổi nữa.

2. Khi bạn cảm thấy sống quá mệt mỏi, làm sao để sống được thoải mái hơn?

Kỳ thực, cuộc sống quá mệt mỏi là bởi vì phần nhỏ là do cuộc sống và phần lớn là do dục vọng (lòng tham) và sự phàn nàn của chúng ta tạo ra.


3. Quá khứ và hiện tại, chúng ta nên nắm giữ như thế nào?

Đừng để ngày hôm qua chiếm cứ quá nhiều ngày hôm nay của chúng ta.

4.Chúng ta nên đối xử với chính bản thân và đối xử với người khác như thế nào?

Khi đối đãi với bản thân, chúng ta nhất định phải trân quý và đối xử thật tốt, bởi vì đời người không dài và thân người là khó được nhất.

Khi đối đãi với người khác, chúng ta càng cần phải trân quý và đối xử tốt hơn nữa, bởi vì nhân duyên kiếp này, kiếp sau khó gặp lại.

5. Như thế nào là giải thích một cách lễ phép?

Khi giải thích một điều gì thì luôn nhớ rằng, “xin lỗi” là một loại chân thành, không có liên quan đến phong độ hay thể diện của một người. Nếu chúng ta cho đi sự chân thành thì cuối cùng sẽ nhận lại được sự chân thành.

6. Làm sao để cân bằng giữ vui vẻ và bi thương?

Mỗi người chỉ có một trái tim nhưng lại được chia thành bên trái và bên phải. Một bên là nơi cư trú của niềm vui, niềm hạnh phúc. Một bên lại là nơi cư trú của bi thương và đau khổ. Cho nên, đừng vui vẻ quá mức, cười quá lớn mà đánh thức bên bi thương.

7. Đừng xem nhẹ và cũng đừng tự mãn về bản thân

Chỉ cần chân của chúng ta còn ở trên mặt đất thì đừng quá khinh xuất, tùy tiện mà xem nhẹ mình. Chỉ cần chúng ta còn sống trong địa cầu này thì cũng đừng coi bản thân mình quá to lớn.

8. Có phải tình yêu thương sẽ bị hòa tan bởi thời gian?

Tình yêu thương có thể khiến con người quên đi thời gian nhưng thời gian cũng có thể khiến con người quên mất tình yêu thương.

9. Trân quý mỗi lần gặp gỡ

Hai người yêu thương nhau nhưng không thể ở gần nhau thì sẽ không thể đi cùng nhau. Đời người tưởng dài nhưng kỳ thực lại quá ngắn ngủi! Hãy quý trọng mỗi lần gặp mặt.

Suy rộng ra một chút, đối với người thân, bạn bè hãy trân quý mỗi lần gặp gỡ, bởi vì đời của một người không phải là sẽ kéo dài mãi mãi…


Mai Trà biên dịch - Theo Secretchina

Kế thừa và phát huy rực rỡ mạch sống của Đạo Pháp

Kế thừa và phát huy rực rỡ mạch sống của Đạo Pháp

Đăng lúc: 20:07 - 28/11/2016

Phật giáo đã du nhập vào đất nước Việt Nam rất sớm, từ đầu thế kỷ thứ I, trong lúc người dân Việt đang khổ đau dưới sự cai trị tàn khốc của nhà Hán. Hành đạo trong một nước có bối cảnh lịch sử như vậy, các nhà truyền giáo mang tinh thần từ bi vô ngã vị tha của đạo Phật đã dễ dàng nhập thân hành động, đóng góp trí tuệ và công sức cho sự sống còn của dân tộc.

Sử liệu cho thấy sự gắn bó mật thiết của Phật giáo với vận mệnh dân tộc, khổ nhục cùng cam, vinh quang cùng hưởng trong suốt chiều dài lịch sử hơn hai ngàn năm. Mối tương quan sâu đậm này đã hình thành một Phật giáo Việt Nam đầy sức sống với những nét đặc sắc chưa từng thấy.
Trong quá trình phát triển, khởi thủy từ miền Bắc Việt Nam, Phật giáo đã lần truyền xuống miền Trung và miền Nam. Đến miền Nam, thì lại gặp Phật giáo Nam tông (do Phật giáo Khmer truyền đến) đang sinh hoạt mạnh.

pgvn.jpg
Phật giáo đã du nhập vào đất nước Việt Nam rất sớm, từ đầu thế kỷ thứ I
và đồng cam cộng khổ cùng dân tộc... - Ảnh minh họa từ internet

Chúng ta đều biết hai hệ phái Phật giáo Bắc tông và Nam tông có sự khác biệt về tư tưởng và hình thức tu học. Vì vậy, khi Phật giáo Bắc tông phát triển sinh hoạt ở miền Nam Việt Nam, đồng thời gặp gỡ hoạt động có sẵn của Phật giáo Nam tông, điều này đã gợi cho Tăng Ni, Phật tử ý nghĩ cũng là đệ tử Phật mà tại sao không hợp nhất lại, để có sự cách biệt như vậy. Ý niệm thống nhất Phật giáo nảy mầm từ thời điểm giao thoa sơ khởi giữa hai hệ Phật giáo như vậy.

Tuy nhiên, trong khi Phật giáo chưa thống nhất được hai hệ phái Bắc tông và Nam tông thì đất nước ta bị Pháp xâm chiếm, vì nhà Nguyễn đã cắt sáu tỉnh Nam Kỳ đặt dưới sự đô hộ của thực dân Pháp.

Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, đạo Phật bị chèn ép tối đa. Hầu hết các ngôi chùa lớn ở thành phố Sài Gòn như chùa Khải Tường ở gần nhà thờ Đức Bà, chùa Từ Ân, hay những chùa được sắc tứ ở thời Nguyễn đều bị thực dân Pháp phá hủy toàn bộ.

Dù giới Phật giáo mang niềm khao khát thống nhất mãnh liệt đến đâu chăng nữa, nhưng đứng trước hoàn cảnh nghiệt ngã ấy, cũng đành bó tay. Và từ đó dẫn đến tình trạng Phật giáo bị tan rã, từng chùa phải sinh hoạt riêng lẻ, không thể có lãnh đạo chung cho hoạt động Phật giáo. Có thể nói Phật giáo gần như im lìm, chẳng còn chút sức sống.

Tình trạng Phật giáo suy đồi kéo dài mãi đến thế kỷ XX mới có những vị danh tăng xuất hiện như Hòa thượng Thiện Chiếu, Hòa thượng Khánh Hòa, Hòa thượng Khánh Anh, Hòa thượng Từ Phong… Và Phật giáo bắt đầu hoạt động trở lại với sự sáng lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Sau đó, các hội đoàn khác lần lượt ra đời như Hội Lưỡng Xuyên Phật học, Hội Phật học Nam Việt, Giáo hội Tăng-già Nam Việt, Hội Lục hòa Tăng, Giáo hội Tăng-già Nguyên thủy, Giáo hội Tăng-già Khất sĩ. Riêng tại thành phố Sài Gòn lúc ấy, Phật giáo bừng sống với trên 20 hội hoạt động.

Nhưng phải đợi đến ngày đất nước được giải phóng mới mở ra cơ hội thuận tiện để giới Phật giáo thực hiện nguyện vọng thống nhất. Thật vậy, khi đất nước độc lập, các tổ chức quần chúng cũng đều thống nhất. Phật giáo Việt Nam được coi là một tôn giáo gắn liền với dân tộc; vì thế không thể tồn tại tình trạng phân chia Nam Bắc, phân hóa cục bộ nhiều tập đoàn, hệ phái. Đó là quan điểm chung của Tăng Ni, Phật tử cả nước và đã trở thành hiện thực với sự thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào ngày 7-11-1981, có đầy đủ đại biểu của 9 tập đoàn Phật giáo đại diện cho toàn thể Tăng tín đồ Việt Nam (9 tập đoàn gồm: Giáo hội Phật giáo Cổ truyền VN, GHPGVN Thống nhất, Giáo hội Tăng-già Nguyên thủy VN, Thiên Thai Giáo Quán tông, Giáo hội Tăng-già Khất sĩ VN, Hội Thống nhất Phật giáo VN, Hội Phật học Nam Việt, Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước và Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP.HCM).

Thành thật mà nói, việc điều hòa sinh hoạt Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn thập niên đầu mới thành lập có phần khó khăn, vì Tăng Ni, Phật tử vẫn còn quen với nếp sinh hoạt theo từng hệ phái riêng lẻ, thường được gọi là biệt truyền. Các hình thức Phật giáo biệt truyền khi hội nhập vào tổ chức thống nhất, sống chung với nhau, đương nhiên cảm thấy bỡ ngỡ, bị ràng buộc, khó thích hợp trong giai đoạn đầu.

Nhưng với thời gian, mọi người con Phật đều ý thức rằng họ cùng tôn thờ một đấng Thế Tôn, cùng sống chung trong một đất nước, nên cần có một mẫu số chung cho sinh hoạt đạo pháp. Ý niệm đúng đắn ấy đã là kim chỉ nam hoạt động của Giáo hội, thể hiện qua phương châm: “Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức”, nhưng vẫn tôn trọng sự tu hành của biệt truyền đúng Chánh pháp.

Thấm nhuần sâu sắc tinh thần thống nhất tổ chức mà Giáo hội đề ra, Tăng Ni, Phật tử tham gia hoạt động không còn ý nghĩ mình thuộc Bắc tông, Nam tông, Khất sĩ, hoặc thuộc Phật giáo cổ truyền. Tất cả đều hòa hợp cùng sinh hoạt chung trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam, một tổ chức Phật giáo duy nhất hợp pháp tồn tại trong nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đặt dưới quyền giám sát của Giáo hội, tất cả tu sĩ đều lãnh thẻ Tăng tịch do Giáo hội cấp phát. Tất cả văn kiện, thủ tục liên quan đến hoạt động đạo pháp đều phải thông qua Giáo hội duyệt xét. Không thể có một hoạt động nào của Phật giáo nằm ngoài Giáo hội.

Về ý nghĩa thống nhất lãnh đạo, chúng ta nhận thấy Hội đồng Trị sự gồm đủ chư tôn đức thuộc mọi hệ phái. Tuy nhiên, vì sinh hoạt theo nghị quyết, tức giải pháp do tập thể lãnh đạo quyết định, nên khi một vấn đề nào được tập thể duyệt xét, chấp thuận, thì tất cả đều phải chấp hành.

Nhờ thống nhất lãnh đạo như vậy, ý thức độc tôn không thể tồn tại. Từ đó, muốn ý kiến đề xuất của mình được chấp nhận, thành viên ấy phải tranh thủ được sự đồng tình của đại chúng thì mới thành quyết định chung của tập thể, mới có giá trị.

Về sự lợi ích của việc tôn trọng hình thái biệt truyền, chúng ta cần hiểu rõ thế nào là biệt truyền. Ngoài sự thống nhất tư tưởng về giáo pháp, chúng ta còn thấy kinh nghiệm tu hành, sở đắc của từng vị cao tăng khác nhau được truyền thừa qua các đệ tử. Phần biệt truyền này của các sơn môn hệ phái vẫn được Giáo hội tôn trọng. Nhờ vậy, giáo lý Phật chỉ có một, mà sinh hoạt biệt truyền, hay phần tu chứng, đắc pháp thì muôn màu muôn vẻ tạo thành sự hiện hữu nhiều vị danh tăng trong Giáo hội. Chính những kiến thức đa dạng của các bậc danh tăng đã đáp ứng được yêu cầu tri thức của xã hội hiện đại.

Hoạt động của Giáo hội trên cơ sở thống nhất ý chí và hành động, thống nhất tổ chức và lãnh đạo, đồng thời vẫn tôn trọng giáo pháp biệt truyền. Nền tảng thống nhất một cách đúng đắn và vững chắc như vậy, đã đóng góp không ít cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.

Thật vậy, với sự nỗ lực hoàn thiện, trau dồi đạo hạnh và phát triển Phật sự, các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành quả đáng kể, ghi đậm dấu mốc lịch sử của quá trình thành lập và phát triển của Giáo hội trải qua 7 nhiệm kỳ, điển hình là Giáo hội đã thành lập 63 Ban Trị sự ở 63 tỉnh, thành phố trong cả nước.

Đồng thời các Đại giới đàn trang nghiêm trao truyền giới pháp đã được tổ chức ở nhiều tỉnh thành của cả ba miền Nam, Trung, Bắc góp phần xương minh Phật pháp.

Các hoạt động Phật sự tại vùng miền núi Tây Bắc, đại ngàn Tây Nguyên, vùng sông nước miền Tây Nam Bộ cũng được phát triển rõ nét, nói lên hoạt động nhập thế tích cực của Giáo hội trong thời hiện đại.

Đặc biệt là các hội Phật tử Việt Nam tại nước ngoài như Cộng hòa Séc, Liên bang Nga, Pháp, Đức, Hungary, Ukraine, Ba Lan, Nhật Bản đã được Giáo hội tổ chức và đang hoạt động tốt đẹp.

Về đối ngoại, mối liên hệ giữa Phật giáo Việt Nam với các tổ chức Phật giáo trên thế giới ngày càng mở rộng qua những hội nghị, những cuộc viếng thăm, trao đổi văn hóa, tư tưởng…

Ngoài ra, còn nhiều thành quả đáng trân trọng thuộc các lãnh vực như hoằng pháp, đào tạo giảng sư, văn hóa, các khóa tu tổ chức cho Phật tử trên mọi miền đất nước...

Riêng thành phố Hồ Chí Minh, Thành hội Phật giáo đã được thành lập ngày 4-6-1982, do HT.Thích Trí Tịnh làm Trưởng ban. Đến năm 1998, Ban Trị sự Phật giáo TP.HCM có nhiều thắng duyên cho Phật giáo thành phố tự đứng lên bằng đôi chân của mình, nghĩa là không nhận sự công trợ của Nhà nước nữa.
Thật vậy, mỗi năm, hoạt động của Phật giáo TP thuộc nhiều lãnh vực đều tự phát triển mạnh mẽ. Ban Trị sự Phật giáo TP đã phối hợp khéo léo với Ban Trị sự Phật giáo 24 quận huyện TP.HCM hoàn thành tốt đẹp công tác thống kê tự viện, lập danh bộ Tăng Ni và cấp Giấy chứng nhận Tăng sĩ chính thức của Giáo hội.

Sự thành công trong việc quản lý cơ sở và thành viên đã tạo cho Phật giáo TP.HCM sức mạnh về tổ chức, về con người và nhiều lãnh vực hoạt động quan trọng.

Ngoài ra, cũng có rất nhiều ngôi chùa được trùng tu, hoặc xây dựng mới. Đáng kể nhất là ba ngôi chùa tiêu biểu cho ba hệ phái Bắc tông, Nam tông và Khất sĩ đã được xây dựng với quy mô rộng lớn, trang nghiêm.

Đó là chùa Huê Nghiêm, quận 2, trong khuôn viên rộng hơn 30.000 mét vuông, được bao bọc bởi quần thể vườn cây xanh rộng lớn, tạo nên không khí trong lành cho cư dân và Phật tử về tu tập tại khu đô thị mới phát triển.

Ngôi chùa thứ hai là Pháp viện Minh Đăng Quang có quần thể kiến trúc Phật giáo đặc trưng của Hệ phái Khất sĩ miền Nam. Chùa tọa lạc tại quận 2 trong khu diện tích rộng hơn 37.000 mét vuông, với những tầng tháp cao vút và những tòa nhà dành cho nhiều sinh hoạt của chùa.

Ngôi chùa thứ ba là tổ đình Bửu Long trong khuôn viên rộng hơn 11.000 mét vuông, tọa lạc trên ngọn đồi phía Tây, sông Đồng Nai, thuộc quận 9, TP.HCM, với cảnh quan thoáng mát, thanh tịnh.

Và phải kể đến ngôi Việt Nam Quốc Tự mang dấu ấn lịch sử của Phật giáo Việt Nam. Chùa sắp hoàn thành việc xây dựng để đưa vào hoạt động của Phật giáo thành phố trong năm tới.

Về hệ thống giáo dục, Phật giáo TP.HCM cũng quan tâm nhiều đến việc đào tạo Tăng tài. Từ lớp sơ cấp đến trung cấp, cao đẳng Phật học đã có hàng ngàn Tăng Ni đang theo học, hoặc đã tốt nghiệp.

Và trên hết, Học viện Phật giáo TP.HCM đã phát triển vượt trội. Cố HT.Minh Châu làm Viện trưởng trong 5 khóa từ 1994-2005. Tăng Ni tốt nghiệp cử nhân của 5 khóa này là 1.057 vị.

Năm 2005-2011: 1.477 Tăng Ni tốt nghiệp cử nhân chính quy.

Năm 2009-2015: 938 Tăng Ni tốt nghiệp cử nhân chính quy và 261 Tăng Ni tốt nghiệp cử nhân hệ đào tạo từ xa.

Năm 2013-2019: 931 Tăng Ni đang học cử nhân chính quy và 450 Tăng Ni đang học cử nhân hệ đào tạo từ xa.

Chương trình cao học, năm 2011-2015: 8 Tăng Ni tốt nghiệp thạc sĩ. 42 Tăng Ni đang làm luận văn thạc sĩ.

Học viện Phật giáo TP.HCM cũng liên kết với Trường Đại học Sư phạm TP.HCM mở khóa Sư phạm Giáo dục Mầm non khóa I (2015-2019) tại Học viện. Khóa học có 97 Ni sinh.

Từ năm 2005, chương trình cử nhân hệ 4 năm được đổi thành chương trình hệ Tín chỉ. Điều đặc biệt chưa từng có, Học viện TP.HCM đã mở khóa đào tạo thạc sĩ và từng khóa, số lượng Tăng Ni theo học tăng mạnh. Ngoài ra, vấn đề bức bách của Giáo hội, nhất là tại TP.HCM, Tăng Ni theo học các trường Phật học đã phải ở nhà dân, vì các tự viện không thể đáp ứng việc lưu trú. Điều này đã gây ra nhiều bất tiện và không tốt cho việc tu học của Tăng Ni.

Học viện Phật giáo TP.HCM đã giải quyết được tình trạng khó khăn trên cho Tăng Ni. Học viện TP đã sớm hoàn thành các tòa nhà tiện nghi cho Tăng Ni sinh nội trú, chăm lo đầy đủ đời sống vật chất và việc học hành một cách tốt nhất có thể. Đó là điều ước mơ của Tăng Ni, Phật tử từ lâu và đến ngày nay, Phật giáo thành phố đã biến niềm mong ước đó trở thành hiện thực.

Trong các trường lớp nói trên có đủ màu áo của những tu sĩ thuộc tất cả hệ phái, sơn môn, đều cùng học tập chung, tạo thành sự cảm thông, hiểu biết nhau, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Có thể nói đó là biểu tượng tốt đẹp nhất chưa từng có trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, một thành quả do sự thống nhất mang đến.

Nhìn thành quả tốt đẹp về giáo dục ngày nay gợi chúng ta nhớ lại tình trạng giáo dục vào trước năm 1945. Ở thời đó, phải nói là khó kiếm được một tu sĩ Phật giáo có trình độ sơ cấp, đừng nói chi đến trình độ cao hơn.

Ngày nay, Giáo hội đã đào tạo được số lượng tu sĩ đáng kể có kiến thức, tốt nghiệp từ phổ thông đến đại học, trên đại học, cũng như các Tăng Ni tốt nghiệp ở nước ngoài về. Điều này khẳng định một tương lai tươi sáng của Phật giáo Việt Nam trên bước đường hoằng truyền Chánh pháp.

Ngoài ra, không thể không nhắc đến thành quả ấn tượng về hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo TP.HCM. Thể hiện sâu sắc tinh thần từ bi vô ngã vị tha của Phật dạy, trong 35 năm qua, hoạt động từ thiện xã hội của Phật giáo TP được thực hiện từ sự đóng góp của các mạnh thường quân và các Ban Từ thiện cơ hữu như: Từ thiện xã hội Báo Giác Ngộ, Từ thiện xã hội Ban Hướng dẫn Phật tử, Từ thiện xã hội Gia đình Phật tử, Từ thiện xã hội Ban Phật giáo Quốc tế, Từ thiện xã hội Ban Trị sự 24 quận/huyện. Tất cả đều thực hiện việc từ thiện dưới mọi hình thức như: Tuệ Tĩnh đường, các trường nuôi dạy trẻ mồ côi, trẻ khuyết tật, trẻ bị chất độc da cam, các lớp học tình thương, các nhà dưỡng lão, các trung tâm cai nghiện và nuôi người bị nhiễm HIV, ủng hộ đồng bào bị thiên tai trong và ngoài nước.

Ngoài những công tác từ thiện trên, những công tác phúc lợi xã hội khác như: xây cầu bê-tông, đắp đường giao thông nông thôn, đóng giếng nước sạch, hiến máu nhân đạo, đóng góp các quỹ từ thiện vì người nghèo, học sinh hiếu học, giúp phụ nữ nghèo vượt khó, tặng xe đạp cho học sinh, xe lăn, xe lắc cho bệnh nhân nghèo, tặng xuồng ghe, hỗ trợ áo quan, hỗ trợ mổ mắt miễn phí cho bệnh nhân nghèo bị đục thủy tinh thể, bệnh tim nhi, phát quà Tết, quà Trung thu cho các cháu thiếu nhi, nồi cháo tình thương, bữa ăn từ thiện cho bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện, phòng khám đa khoa…

Những việc làm nói trên cho thấy Phật giáo TP đã hoàn thành rất tốt hoạt động từ thiện xã hội, chẳng những giảm bớt gánh nặng cho công quỹ Nhà nước mà còn góp phần tích cực cho an sinh xã hội.

Theo báo cáo của Ban Trị sự PG TP.HCM vào năm 1982-1987, số tiền đóng góp cho từ thiện xã hội được gần 3 tỷ đồng. Và từ năm 1997 cho đến nay, hoạt động từ thiện xã hội luôn tăng vượt bậc. Cụ thể là: 1997-2012: hơn 1.182 tỷ đồng. Từ 2013 - 6 tháng đầu 2016: hơn 1.204 tỷ đồng và nhiều ngoại tệ, cùng hơn 100 ca hiến máu nhân đạo.

Tổng cộng thành quả từ thiện hơn 2.500 tỷ đồng, tức tăng gấp 833 lần so với thời kỳ đầu mới thành lập, Phật giáo TP.HCM đã đóng vai trò hậu thuẫn mạnh mẽ cho hoạt động từ thiện của Trung ương Giáo hội trong suốt 35 năm qua và cũng góp phần quan trọng cho sự phát triển khối Đại đoàn kết dân tộc Việt Nam thêm bền vững.

Những thành quả mà Phật giáo đã đạt được khẳng định rằng chủ trương và đường hướng hoạt động của Giáo hội thực sự đúng đắn. Vì vậy, những hoạt động Đạo pháp cũng đã góp phần xây dựng xã hội, mang lại nhiều kết quả tốt đẹp đáng quý.

Tóm lại, Phật giáo Việt Nam được xây dựng trên nền tảng của những thành quả lợi ích thiết thực quan trọng, đã tạo lập được trong suốt chiều dài lịch sử gần hai ngàn năm.

Kỷ niệm Giáo hội Phật giáo Việt Nam trải qua chặng đường dài 35 năm, đã đánh dấu một bước trưởng thành đáng trân trọng về nhận thức và hành động của Tăng Ni, Phật tử; đồng thời thể hiện sự hiểu biết sâu sắc tinh thần thống nhất và đoàn kết, cùng nhau thực hiện truyền thống tốt đạo đẹp đời do Giáo hội đề ra.

Chúng tôi kỳ vọng trong tương lai với bối cảnh nhiều thuận lợi cho hoạt động của Giáo hội, cũng như dựa trên nền tảng tốt đẹp đã tạo dựng được, Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh nói riêng sẽ phục vụ hữu hiệu hơn nữa cho Đạo pháp và Dân tộc, nâng cao vị trí của Phật giáo Việt Nam trong lòng dân tộc và trong cộng đồng quốc tế.
HT.Thích Trí Quảng
(Phó Pháp chủ GHPGVN)

Tiến trình vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam

Tiến trình vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam

Đăng lúc: 20:40 - 23/09/2016

Sau ngày 30-4-1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, giang san quy về một mối. Trong bối cảnh như vậy, đó là điều kiện thuận lợi cho Phật giáo VN tiến hành công cuộc thống nhất trên cả nước, quy tập các tổ chức hệ phái về “Ngôi nhà chung” của Giáo hội nhằm phát huy sức mạnh hoằng pháp độ sinh.

Hồ sơ tư liệu này là tập hợp có hệ thống các tài liệu và sưu khảo từ những ngày đầu tiên công cuộc thống nhất Phật giáo diễn ra. Giác Ngộ xin trân trọng giới thiệu đến chư Tăng Ni, quý độc giả.

image1.JPG
Chư tôn giáo phẩm các thành viên Ban Vận động tại chùa Quán Sứ,
tham dự Hội nghị kỳ 2, ngày 18-1-1981 - Ảnh Tư liệu của Báo Giác Ngộ
Cuộc họp mặt lịch sử

Trong hai ngày 12 và 13-2-1980, chư tôn đức giáo phẩm lãnh đạo các tổ chức hệ phái Phật giáo trong cả nước đã có cuộc gặp gỡ tại TP.HCM. Hiện diện trong cuộc gặp lịch sử này có các vị cao tăng như: HT.Thích Đức Nhuận, Quyền Hội trưởng Hội Phật giáo Thống nhất VN; HT.Thích Đôn Hậu, Chánh Thư ký Viện Tăng thống GHPGVN Thống nhất; HT.Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVN Thống nhất; HT.Thích Minh Nguyệt, Chủ tịch Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP.HCM; HT.Thích Thế Long, Phó Hội trưởng kiêm Tổng Thư ký Hội Phật giáo Thống nhất VN; HT.Thích Giác Tánh, HT.Thích Trí Nghiêm, Thành viên Hội đồng Giáo phẩm T.Ư GHPGVN Thống nhất; HT.Thích Thiện Hào, Phó Chủ tịch Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP.HCM; HT.Thích Trí Tịnh, Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVN Thống nhất; HT.Thích Bửu Ý, Viện trưởng Viện Hoằng đạo Giáo hội Phật giáo Cổ truyền VN; HT.Thích Giới Nghiêm, Tăng thống Giáo hội Tăng-già Nguyên thủy VN; TT.Thích Minh Châu, Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh; TT.Thích Từ Hạnh, Tổng Thư ký Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP.HCM; TT.Thích Thanh Tứ, Chánh Văn phòng T.Ư Hội Phật giáo Thống nhất VN; TT.Thích Giác Toàn, Thường trực Trung ương Giáo hội Tăng-già Khất sĩ VN; NS.Huỳnh Liên, Ni trưởng Ni giới Khất sĩ VN; Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện, CS.Võ Đình Cường và CS.Tống Hồ Cầm.

Sáng ngày 12-2-1980, trước lúc khai mạc phiên họp, các ông Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành T.Ư Đảng; Trần Bạch Đằng, Phó Trưởng ban Dân vận Mặt trận Trung ương và Phạm Quang Hiệu, Ban Tôn giáo Chính phủ đến thăm và nói chuyện. Trong cuộc trao đổi, ông Nguyễn Văn Linh nói rằng đây là buổi gặp mặt đầu tiên của Trung ương Đảng Cộng sản VN với giới lãnh đạo Phật giáo VN, và ông tỏ ý tiếc cuộc gặp gỡ không được diễn ra sớm hơn, bởi vì tình hình đất nước sau ngày giải phóng gặp nhiều vấn đề cấp bách phải giải quyết.

Ông Nguyễn Văn Linh đã dành phần lớn thời gian để trình bày về quan điểm của Đảng Cộng sản VN đối với Phật giáo và nói về nhiệm vụ của Phật giáo đối với dân tộc. Ông nói rằng người cộng sản VN, người đầu tiên là Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì lòng yêu nước, vì mục đích giải phóng dân tộc đã tìm ra con đường cộng sản chủ nghĩa. Người cộng sản VN quan niệm đạo Phật cũng là con đường cứu khổ cứu nạn dân tộc. Tuy đường lối và phương tiện có khác, nhưng vẫn có mục đích chung là mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân VN. Đạo Phật hiện diện trên đất nước ta gần 2.000 năm, lớn lên trong lòng dân tộc, gắn bó với sự tồn vong của dân tộc.

Người cộng sản VN xem đạo Phật là một tôn giáo của dân tộc, và trong khi đấu tranh cho hạnh phúc của dân tộc, người cộng sản VN xem người Phật tử VN như là những người bạn đường, đồng chí trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Phát biểu về nhiệm vụ của người Phật giáo đối với dân tộc, ông nói: “Lịch sử giao phó cho Đảng Cộng sản VN lãnh đạo dân tộc, với sứ mạng đó, chúng tôi tin tưởng sâu sắc rằng các vị lãnh đạo Phật giáo VN và đồng bào Phật tử sẽ phát huy truyền thống yêu nước của mình, tiếp tục đi theo con đường cách mạng, để góp phần vào sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.

HT.Thích Trí Thủ thay mặt toàn thể các vị trong buổi họp mặt phát biểu cảm ơn, bày tỏ niềm xúc động trước quan điểm và thái độ chân thành của các vị đại diện Đảng và Nhà nước, Hòa thượng nói: “Đạo Phật và dân tộc gắn liền nhau trong lịch sử. Từ khi du nhập đến nay, đạo Phật xem dân tộc VN là quê hương. Tôi rất xúc động trước những lời phát biểu các vị đại diện Đảng và Chính phủ, và hy vọng những điều đó sẽ được thực hiện tốt đẹp”.

Về vấn đề thống nhất Phật giáo, Hòa thượng khẳng định: “Hôm nay nước nhà đã độc lập thống nhất, Phật giáo không có lý do gì lại duy trì sự phân hóa về mặt tổ chức và sự chia cắt Bắc Nam”.

HT.Thích Đôn Hậu phát biểu: “Thực hiện đại đoàn kết là việc cần thiết đối với Phật giáo cũng như đối với dân tộc. Nguyện vọng của tôi trước sau như một là cần thực hiện thống nhất Phật giáo”.

Trước nguyện vọng thống nhất Phật giáo, ông Trần Bạch Đằng đã phát biểu quan điểm của Đảng và Nhà nước, ông nói: “Việc thống nhất Phật giáo nên hay không nên trong lúc này, và cần phải thống nhất như thế nào, quý vị hoàn toàn tự định đoạt lấy. Đảng và Nhà nước sẵn sàng quan tâm giúp đỡ khi được yêu cầu”.

Tại phiên họp buổi chiều, hoàn toàn có tính cách nội bộ Phật giáo. Toàn thể buổi họp đồng tâm suy cử Đại lão HT.Thích Đức Nhuận và HT.Thích Đôn Hậu, chứng minh buổi họp; HT.Thích Trí Thủ và HT.Thích Minh Nguyệt chủ tọa điều hành buổi họp. TT.Thích Minh Châu, TT.Thích Từ Hạnh và TT.Thích Thanh Tứ làm Thư ký.

Buổi họp mặt đã quyết định thành lập “Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam” (gọi tắt là Ban Vận động) có nhiệm vụ vận động nghiên cứu thực hiện công cuộc thống nhất Phật giáo nước nhà. Ban Vận động là tiêu biểu cho tiếng nói chung của Phật giáo VN. Thành phần Ban Vận động bao gồm các giáo phẩm lãnh đạo các tổ chức, hệ phái Phật giáo và nhân sĩ Phật giáo hiện diện trong buổi họp mặt này, sẽ tiếp tục mời bổ sung vào.

Ban Vận động sẽ chính thức ra mắt tại thủ đô Hà Nội, TP.HCM và cố đô Huế.

Cả ngày 13-2-1980, các vị tham gia phiên họp đã làm việc, trao đổi, bàn bạc, góp ý sửa chữa nội dung dự thảo thông bạch, và kiến nghị gởi Chính phủ và Mặt trận.

Buổi họp tiếp tục bàn những vấn đề chung quanh nhiệm vụ Ban Vận động, bổ sung nhân dự và quyết định xin đặt trụ sở và văn phòng thường trực Ban Vận động tại chùa Quán Sứ - Hà Nội và chùa Xá Lợi - TP.HCM.

Cũng trong phiên họp chiều ngày 13-2-1980, buổi họp mặt có vinh hạnh được đón tiếp Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, Phó Thủ tướng Chính phủ; Giáo sư Nguyễn Văn Chì, Chủ tịch UB MTTQVN TP.HCM, Thường vụ Thành ủy, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận TP.HCM, đến thăm viếng và tán thán công việc của các vị lãnh đạo Phật giáo đang làm.

Tiến trình vận động thống nhất Phật giáo VN

Ban Vận động được thành lập với các chức danh: Trưởng ban: HT.Thích Trí Thủ; Các Phó Trưởng ban: HT.Thích Trí Tịnh, HT.Thích Mật Hiển, HT.Thích Bửu Ý, HT.Thích Giới Nghiêm, HT.Thích Minh Nguyệt, HT.Thích Thế Long; Ủy viên Thường trực: HT.Thích Thiện Hào; Chánh Thư ký: TT.Thích Minh Châu; Phó Thư ký: TT.Thích Từ Hạnh, Thích Thanh Tứ; Các Ủy viên: HT.Thích Giác Tánh, HT.Thích Trí Nghiêm, HT.Thích Đạt Hảo, HT.Châu Mum, TT.Thích Thanh Trí, TT.Thích Chánh Trực, TT.Thích Giác Toàn, NS.Huỳnh Liên, CS.Nguyễn Văn Chế, CS.Võ Đình Cường và CS.Tống Hồ Cầm.

Ban Vận động đã ra mắt ngày 9-4-1980 tại chùa Quán Sứ (Hà Nội). Tại buổi lễ ra mắt, HT.Thích Trí Thủ đã tuyên đọc thông bạch của Ban Vận động gởi Tăng Ni, Phật tử cả nước và sau đó, toàn Ban Vận động đã ra mắt các vị Tăng Ni, Phật tử thủ đô.

image2.JPG
Ông Hoàng Tùng, UV Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên huấn T.Ư thăm
và nói chuyện về tình hình đất nước với Ban Vận động tại chùa Quán Sứ - Ảnh Tư liệu của Báo Giác Ngộ

Ngày 15-5-1980, tại chùa Xá Lợi, Ban Vận động đã làm lễ ra mắt trước đông đảo Tăng Ni, Phật tử TP.HCM. Tại buổi lễ, HT.Thích Minh Nguyệt đã đọc diễn văn khai mạc và HT.Thích Trí Thủ đã tuyên đọc thông bạch của Ban Vận động, khẳng định bối cảnh nước nhà đã thống nhất là vận hội mới mở đường cho thống nhất Phật giáo VN. HT.Thích Giới Nghiêm, TT.Thích Giác Toàn, đại diện các tổ chức, hệ phái đã phát biểu bày tỏ hoan hỷ và cảm xúc, nhất trí hoàn toàn với việc thống nhất Phật giáo VN.

Trong ngày 23-5 và 24-5-1980, Ban Vận động đã tổ chức ra mắt tại giảng đường chùa Từ Đàm, Huế và nhận được sự đồng thuận của tất cả Tăng Ni, Phật tử cố đô.

Sau khi lễ ra mắt thành công tốt đẹp, tại Hà Nội, TP.HCM và Huế - mùa thu tháng 8-1980, Ban Vận động đã có cuộc mạn đàm thân mật với 140 đại biểu nhân sĩ, trí thức, Phật tử thuộc nhiều giáo phái tại chùa Vĩnh Nghiêm (TP.HCM)do HT.Thích Trí Thủ chủ trì. Nội dung cuộc mạn đàm xoay quanh vấn đề thống nhất Phật giáo VN, những tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp, các hệ phái đa số đều nói lên những suy nghĩ chân tình trước tình hình thống nhất Phật giáo cùng những băn khoăn như chương trình tu học của Tăng Ni, tính biệt truyền của hệ phái; vấn đề hệ thống và cơ cấu tổ chức của PGVN sau khi thống nhất, vấn đề quản lý chùa chiền, quản lý Tăng, Ni…

Ngày 16-1-1981, Hội nghị kỳ 2 của Ban Vận động đã tiến hành tại Hà Nội. HT.Thích Trí Thủ đã đọc diễn văn khai mạc, nêu rõ quyết tâm tiến hành sớm việc thống nhất Phật giáo VN trong năm 1981. Hội nghị đã thảo luận chương trình hoạt động của Ban trong năm 1981.

Từ ngày 15-3 đến 24-3-1981, Ban Vận động đã lần lượt đến thăm và tiếp xúc 9 hệ phái gồm: Giáo hội Tăng-già Khất sĩ VN, Hội Phật học Nam Việt, Giáo hội Phật giáo cổ truyền VN, GHPGVN Thống nhất, Giáo hội Tăng-già Nguyên thủy VN, Thiên Thai Giáo Quán tông; Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP.HCM; Hội Phật giáo Thống nhất VN và Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước miền Tây Nam Bộ.

Các cuộc tiếp xúc đã diễn ra giữa Ban Vận động và các hệ phái trong bầu không khí cởi mở, chân tình và thẳng thắn. Mọi tâm trạng, tư tưởng của quý vị đều nhìn về một hướng, đó là thống nhất Phật giáo VN là lựa chọn duy nhất và phù hợp nhất trong bối cảnh nước nhà đã thống nhất trọn vẹn, có còn chăng là những ưu tư thứ yếu mà trong quá trình thống nhất sẽ được đồng nhất hoặc cởi bỏ cho phù hợp với tình hình.

Ngày 5-8-1981, tại chùa Xá Lợi (Q.3, TP.HCM), Hội nghị kỳ 3 của Ban Vận động đã họp phiên toàn thể. Đây là hội nghị cuối cùng của Ban Vận động trước khi hội nghị thành lập GHPGVN diễn ra vào đầu tháng 11-1981. Hội nghị đặt dưới sự chứng minh của HT.Thích Đức Nhuận và chủ trì của HT.Thích Trí Thủ cùng các vị giáo phẩm trong Ban Thường trực. Phía khách mời có các ông Nguyễn Quang Huy, Trưởng ban Tôn giáo của Chính phủ; Ung Ngọc Ky, Ủy viên Thường trực UBMTTQVN TP.HCM.

Mục đích của Hội nghị kỳ III lần này là để các vị trong Ban Vận động, lãnh đạo các hệ phái góp ý kiến, thảo luận các phương thức và đường lối thống nhất Phật giáo VN. Hội nghị đã thảo luận góp ý kiến về bản dự thảo văn kiện thống nhất Phật giáo cùng nội dung tổ chức Hội nghị đại biểu Thống nhất Phật giáo VN. Với 4 ngày làm việc trong tình đoàn kết, cảm thông và xây dựng, Hội nghị kỳ III đã thành công viên mãn trong niềm tin mãnh liệt vào tiền đồ rạng rỡ của Phật giáo VN.

Sáng ngày 9-10-1981, tại chùa Xá Lợi đã diễn ra cuộc họp mặt Tăng Ni, Phật tử TP.HCM với Ban Vận động và sự phối hợp của Ban Vận động TP.HCM nhằm chuẩn bị tiến tới Hội nghị đại biểu Thống nhất Phật giáo VN được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 4-11-1981. Cuộc họp mặt quy tụ trên 1.000 Tăng Ni, Phật tử tiêu biểu của các hệ phái, tổ chức Phật giáo.

HT.Thích Trí Tịnh, Trưởng ban Nội dung đọc lời đúc kết các ý kiến đóng góp trong cuộc họp, nói lên được tính nhất quán cao độ và sâu sắc của toàn thể Tăng Ni, Phật tử hiện diện đối với công cuộc thống nhất Phật giáo VN.

Trong gần hai năm, Ban Vận động đã tích cực làm tốt vai trò của mình, thu thập ý kiến của Ban Lãnh đạo các tổ chức, hệ phái Phật giáo trên cả nước để soạn thảo văn kiện căn bản cho sự thống nhất; đồng thời tổ chức hội nghị đại biểu các hệ phái, thảo luận, biểu quyết các văn kiện và thành lập Ban Lãnh đạo Trung ương Lâm thời để triển khai thành lập cơ cấu tổ chức các tỉnh thành. Con đường đó dù có nhiều thuận lợi vì có cùng một điểm chung, đó là nguyện vọng thống nhất Phật giáo trong bối cảnh đất nước thống nhất, độc lập, một sự thống nhất thực sự với trọn vẹn ý nghĩa của nó, nhưng không phải là không gặp một vài sự khó khăn. Nói như HT.Thích Trí Thủ trong trả lời phỏng vấn Báo Giác Ngộ trước thềm hội nghị thống nhất Phật giáo VN, “Chân lý bao giờ cũng thắng”.

Thống nhất Phật giáo VN không chỉ là nguyện vọng mà hơn thế nữa, đó là chân lý tất yếu của Phật giáo VN, “có thống nhất Phật giáo mới đoàn kết được toàn thể Tăng Ni, Phật tử cả nước” để thực hiện những Phật sự trọng đại của Phật giáo VN, như báo cáo của TT.Thích Minh Châu về sứ mệnh của Ban Vận động Thống nhất Phật giáo VN.

Hoàng Hạ tổng hợp

Thủ tướng Ấn Độ giao lưu với tăng, ni Học viện Phật giáo Việt Nam

Thủ tướng Ấn Độ giao lưu với tăng, ni Học viện Phật giáo Việt Nam

Đăng lúc: 18:23 - 03/09/2016

Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã đến thăm chùa Quán Sứ (Hà Nội), Trụ sở Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam chiều 3/9 và giao lưu với các tăng, ni là học viên của Học viện Phật giáo Việt Nam.

Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi gặp gỡ các phật tử. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Tham dự có Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam; Hòa thượng, Tiến sỹ Thích Thiện Nhân, Chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Đại sứ Ấn Độ tại Hà Nội và Đại sứ Việt Nam tại New Dehli cùng đông đảo tăng, ni Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Phát biểu tại buổi giao lưu, Hòa thượng Thích Thiện Nhân thay mặt hơn 50 nghìn tăng, ni và hàng chục triệu phật tử khắp Việt Nam chào đón Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã đến thăm Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhấn mạnh đây là sự kiện vô cùng đặc biệt, qua đó khẳng định vai trò của Phật giáo ở Việt Nam từ lịch sử quá khứ hơn hai nghìn năm trước cho đến ngày nay, Hòa thượng Thích Thiện Nhân cho rằng, Phật giáo luôn luôn là cầu nối quan trọng trong tình hữu nghị bền chắc giữa nhân dân Ấn Độ và nhân dân Việt Nam.


Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi nói chuyện với các tăng ni, phật tử. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Nhắc lại lịch sử ra đời và quá trình phát triển của Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng Thích Thiện Nhân khẳng định, các nhà sư Ấn Độ là những nhà truyền giáo đầu tiên đem Phật giáo vào Việt Nam thông qua con đường thương mại biển, tạo nên sự liên kết giữa văn hóa Ấn Độ và văn hóa bản địa Việt Nam, trở thành thành tố văn hóa không thể thiếu trong văn hóa Việt Nam. Phật giáo đóng vai trò khơi nguồn trong mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Mối quan hệ đó được thắt chặt trên nền tảng tình hữu nghị giữa Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ Jawaharlal Nehru và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hòa thượng Thích Thiện Nhân tin tưởng, nhân dân và đất nước Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Nerandra Modi, sẽ phát triển phồn vinh, thịnh vượng. Ấn Độ sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng môi trường hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và thế giới.

Giao lưu với các tăng, ni, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi khẳng định: “Thế gian cần hòa bình. Đi trên con đường hòa bình sẽ mang đến hạnh phúc cho muôn loài. Chiến tranh chỉ mang lại tàn phá, độc ác, chết chóc. Đạo Phật mang lại niềm hy vọng, ánh sáng, niềm tin, hòa bình”.


Thủ tướng Modi thăm chùa Quán Sứ, trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Thủ tướng Narendra Modi bày tỏ mong muốn ngày càng nhiều tăng, ni Việt Nam tiếp tục sang Ấn Độ học Phật giáo. Tại Varanasi, một địa phương của Ấn Độ cũng có chùa của Việt Nam . Thủ tướng bày tỏ hy vọng sẽ được đón tiếp các tăng, ni Việt Nam khi sang Ấn Độ học Phật giáo; mời các tăng, ni Việt Nam ngồi thiền tại cây bồ đề và suy ngẫm về Đạo Phật.

Thu Phương (TTXVN

Nghệ An: Phật giáo tỉnh sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm 2016

Nghệ An: Phật giáo tỉnh sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm 2016

Đăng lúc: 22:58 - 19/07/2016

Sáng ngày 18/7/2016, tại chùa Đại Tuệ (Nam Đàn), BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An tổ chức hội nghị sơ kết công tác Phật sự 6 tháng đầu năm 2016 và triển khai công tác Phật sự 6 tháng cuối năm 2016.
Quang lâm chứng minh và tham dự buổi lễ có Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS TW GHPGVN kiêm trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An. Thượng tọa Thích Thọ Lạc, phó thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An, thành viên Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Nghệ An, Chư Tôn đức Tăng Ni các chùa trong tỉnh.
Lãnh đạo UBND, Ban Dân vận Tỉnh ủy, UBMTTQ, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ, Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Xây dựng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Công an tỉnh.
6 tháng đầu năm 2016, Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An đã đạt được những kết quả quan trọng trong công tác phật sự trên địa bàn tỉnh. Toàn tỉnh có 35 vị Tăng Ni đang sinh hoạt hợp pháp trên địa bàn, có 47 cơ sở thờ tự (46 chùa và 01 Niệm Phật đường), 17/21 đơn vị hành chính có hoạt động của Phật giáo, tham gia Hội nghị chuyên đề về công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Tổ chức thành công Tọa đàm: "Định hướng, phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An".

Ban Trị sự đã quyết định bổ nhiệm trụ trì chùa Lam Sơn( Quỳnh Lưu). Phê chuẩn nhân sự Ban Hộ tự chùa Đồng Tương.Tổ chức khóa an cư kết hạ cho 43 hành giả tại 2 địa điểm, trong đó: Hạ trường chùa Đại Tuệ (29 vị) dành cho Chư Tăng có 28 Tỷ khiêu, 01 Sa di. Hạ trường chùa Cần Linh (12 vị) dành cho Chư Ni có 6 Tỷ khiêu Ni, 1 Thức xoa ma na, 1 Sa di Ni và 4 hình đồng Ni. Giới thiệu 02 vị đi học hệ Cao đẳng tại Học viện Phật giáo Hà Nội , cử các thành viên Ban Hoằng Pháp về tại các chùa, các đạo tràng, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa để gặp gỡ đồng bào Phật tử.
Lễ khai bút và trồng cây tại chùa Đại Tuệ nhân dịp đầu xuân. Tổ chức thành công Lễ hội Hương sen xứ Nghệ năm 2016, lễ Phật đản, kỷ niệm 5 năm thành lập Phật giáo Nghệ An, hướng tới kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN, thành lập CLB Hương Từ Bi chùa Hồng Phúc, chùa Hà quy tụ trên 50 thành viên, tham gia tích cực các hoạt động thiện nguyện, sơ bộ toàn tỉnh có trên 45 ngàn Phật tử đã Quy y. Tổ chức tiếp đón và làm việc với đoàn công tác của Ban Hướng dẫn Phật tử TƯ GHPGVN vào ngày 17/4. Các hoạt động văn nghệ Phật giáo được duy trì và ngày càng phát triển ở nhiều nơi, đăng tải kịp thời các tin tức Phật sự tại địa phương

Vận động công tác từ thiện trên 300.000.000đ, tặng ngàn ngàn suất quà trong dịp tết, giúp đỡ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các hộ nghèo gia đình có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống.
Trong công tác bầu cử Quốc hội khóa 14 và HĐND các cấp NK 2016 – 2021. Được sự hiệp thương của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Ban Trị sự đã tiến hành các cuộc họp giới thiệu Ni sư Thích Diệu Nhẫn - Phó Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh, tham gia đại biểu HĐND cấp tỉnh . Đại biểu HĐND cấp huyện có 2 vị, đó là: Đại đức Thích Đồng Tuệ - Trụ trì Chùa Hà, tham gia Đại biểu HĐND huyện Nam Đàn . Đại đức Thích Tuệ Quang - Trưởng Ban Quản lý dự án xây dựng Chùa Gám - TVTL Yên Thành, tham gia Đại biểu HĐND huyện Yên Thành.
Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, những khó khăn, thách thức và thống nhất một số lưu ý, nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung thực hiện trong 6 tháng cuối năm.

Phát biểu bế mạc tại hội nghị Thượng tọa Thích Thọ Lạc, phó Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An, chỉ rõ Phật giáo tỉnh nhà cần phải phát huy hơn nữa truyền thống đoàn kết hoà hợp, vượt qua khó khăn thử thách, khắc phục yếu kém tồn tại, phấn đấu vì sự xương minh của Phật pháp, vì hạnh phúc an lạc cho chúng sinh. Xây dựng mối quan hệ thống nhất về lãnh đạo và tổ chức giữa Ban Trị sự với Tăng Ni, Phật tử thành viên tạo ra một sức mạnh tổng hợp của sự đoàn kết hoà hợp, làm nền tảng cho các hoạt động Phật sự vì Đạo pháp Dân tộc, làm tốt đời đẹp đạo.
Tại hội nghị, Đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành cấp tỉnh, Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An đã tặng hoa chúc mừng Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu, Trưởng Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An nhận bằng tiến sỹ Tôn giáo học.

Dịp này, hàng Phật tử tại gia đã dâng cúng tịnh tài, tịnh vật lên Chư tôn đức Tăng, Ni trong ý nghĩa hộ trì Tam bảo.
Sau đây là một số hình ảnh buổi lễ:











Chư tôn giáo phẩm niệm phật cầu gia hộ














Hội nghị dưới sự chủ trì của Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS TWGHPGVN kiêm trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An


Toàn cảnh Hội nghị sơ kết










Đại Đức Thích Tâm Thành đọc báo cáo tổng kết Phật Sự 6 tháng đầu năm















Ông : Nguyễn Văn Long -Phó Ban Tôn Giáo phát biểu.




Ban trị sự Phật giáo tỉnh tặng hoa chúc mừng HT . Thích Thanh Nhiễu


Ban tôn giáo cùng các ban ngành tặng hoa chúc mừng.














Thượng Tọa Thích Thọ Lạc - Phó Ban Văn Hóa TW GHPGVN, phó thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An bế mạc buổi lễ tổng kết.







Tác giả bài viết: Hữu Tình- Hồng Nga

Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo

Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo

Đăng lúc: 22:40 - 26/05/2016

Văn hóa chắp tay: Có đôi lúc những việc làm rất đơn giản trong việc xã giao, nhưng có người lại không để ý đến nó, từng cái chắp tay hay bắt tay, việc ăn mặc khi đến một nơi tôn nghiêm, và thể hiện sự tôn kính đúng chỗ. Chắp tay là nét đẹp truyền thống văn hóa của Phật giáo bật lên tính nhân văn và đặc thù.

Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo
Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân - Ủy viên Bộ chính trị - Chủ tịch Ủy ban Trung Ương MTTQ Việt Nam chắp tay phát biểu tại buổi khánh tuế Đức pháp chủ Hòa thượng Thích Phổ Tuệ tròn 100 tuổi.
Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo
Hình ảnh nhân văn đặc thù trong Phật giáo.
Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chắp tay cúi đầu chúc mừng Đức Pháp chủ nhân mùa Phật đản.

Tổng thống Obama chắp tay chào vị thầy xuất gia trong chuyến thăm tại chùa Phước Hải chiều ngày 24/05 vừa qua. Đây là một nét đẹp truyền thống của Phật giáo khi vị lãnh đạo một nước cường quốc đã thể hiện nét đẹp văn hóa này.
Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo
Người dân Sài Gòn đỗ xô ra đường đón chào vị tổng thống Mỹ. Vì lòng ngưỡng mộ và kính trọng đã cho chúng ta thấy ở hình ảnh hiếm có này.
Những nét đẹp văn hóa của người lãnh đạo
Búp sen nở, nụ cười tươi, niềm vui trọn vẹn, cảm niệm tấm lòng của người dân Việt Nam.

Sau buổi gặp gỡ là buổi tiệc nhỏ và chia tay trong niềm vui của những người thân và bạn bè.Hy vọng sau cuộc gặp gỡ này sẽ là tiền đề cho việc thúc đẩy hợp tác mạnh mẽ đôi bên thắt chặt hơn nữa tình hữu nghị và "Tình Con Người" trên Thế giới này lại với nhau hơn, đồng cảm và chia sẽ , lắng nghe giúp
đở nhau hơn . Cuộc gặp gỡ kết thúc tốt đẹp để lại trong vòng tay yêu thương và trí tuệ trong mỗi con Người với nhiều điều tốt đẹp và mang tính Nhân văn.

Người đàn ông quyền lực nhất thế giới Tổng thống Mỹ Barack Obama có cuộc gặp gỡ hai người Phụ nữ quyền lực nhất trong Gia đình. Một người quyền lực nhất trong Quán Bún Chả và người còn lại quyền lực nhất trong Quán Nước Mía ven đường, để có cuộc hội thảo về Chủ đề tính Nhân bản và mang đầy ý niệm giữa tình con người với nhau. Đây là cuộc gặp gỡ thượng đỉnh hợp tác song phương đôi bên cùng có lợi trong không khí hân hoan ,bình dị, gần gủi mộc mạc và thân thiện.


Cúi xuống để vĩ đại
..."Người ta vĩ đại không phải vì người ta lúc nào cũng đứng thẳng, đăm chiêu, mà người ta vĩ đại vì đã biết cúi mình xuống và mỉm cười đúng lúc...."
ST


Doanh Doanh

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm Học viện Phật giáo tại TP HCM

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm Học viện Phật giáo tại TP HCM

Đăng lúc: 06:19 - 08/05/2016

Hòa thượng Thích Trí Quảng, Phó Pháp chủ HĐCM, Viện trưởng Học viện thân mật tiếp đoàn.

Sáng nay (7/5), phái đoàn do ông Trương Tấn Sang, nguyên Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam làm trưởng đoàn đã có chuyến viếng thăm chư tôn đức Hội đồng Điều hành (HĐĐH) Học viện và công trình học viện - cơ sở Lê Minh Xuân (huyện Bình Chánh, TP HCM).

Hòa thượng Thích Trí Quảng, Viện trưởng Học viện cùng chư tôn đức HĐĐH tiếp đoàn.
Hòa thượng Thích Trí Quảng, Viện trưởng Học viện cùng chư tôn đức HĐĐH tiếp đoàn.
Hòa thượng Thích Trí Quảng, Phó Pháp chủ HĐCM, Viện trưởng Học viện thân mật tiếp đoàn. Tại buổi gặp gỡ, ông Trương Tấn Sang vấn an sức khỏe Hòa thượng Viện trưởng và chúc mừng GHPGVN, chư tôn đức Hội đồng Điều hành Học viện đã xây dựng công trình học viện thành tựu giai đoạn I.

Hai cây vạn niên tùng được nguyên chủ tịch nước Trương Tấn Sang trồng trước tòa nhà Hành chính của Học viện.
Hai cây vạn niên tùng được nguyên chủ tịch nước Trương Tấn Sang trồng trước tòa nhà Hành chính của Học viện.
Đáp từ, Hòa thượng Viện trưởng đã cảm ơn nguyên Chủ tịch nước và giới thiệu những nét chính về sự quy mô của công trình cũng như định hướng phát triển trong tương lai của Học viện.

Dịp này, Hòa thượng Viện trưởng cùng ông Trương Tấn Sang trồng 2 cây vạn niên tùng để đánh dấu sự thành tựu giai đoạn I của công trình Học viện PGVN cơ sở Lê Minh Xuân.

Bảo Toàn

Biết khổ, thể nghiệm khổ, không cho đấy là khổ

Biết khổ, thể nghiệm khổ, không cho đấy là khổ

Đăng lúc: 19:21 - 05/11/2015

Phật giáo bàn rất nhiều về sự khổ. Theo Phật giáo, đời người là một quá trình chịu nhiều cái khổ như khổ của sinh, khổ của già, khổ của bệnh, khổ của chết.


Ngoài ra, còn có các nỗi khổ khác như cầu không như ý, oán thù gặp gỡ, thân ngũ uẩn nung nấu, tất cả cộng lại thành tám nỗi khổ (Bát khổ). Lìa khổ, diệt khổ là mục đích cuối cùng của đạo Phật, nhưng trước khi lìa khổ, diệt khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta phải biết nhận diện đau khổ.

Phật giáo phân tích về các nỗi khổ nhằm giúp chúng ta hiểu được những nguyên nhân chính tạo nên đau khổ. Nhưng, nếu chúng ta chỉ hiểu khổ trên mặt chữ, hiểu khổ qua sự miêu tả của người khác thì dù chúng ta có thuộc lòng hết tất cả các nỗi khổ mà chưa thực sự trải qua, chúng ta vẫn chưa thể thể nghiệm hết đau khổ. Vì thế, kiến thức về khổ trong Phật giáo bất quá cũng chỉ là sự miêu tả về khổ. Điều đó chưa đủ tạo sức mạnh cho chúng ta đối diện khổ, vì khi gặp tình huống bất ngờ không như mong đợi, chúng ta vẫn tham, sân, si; khi gặp những điều yêu thích vẫn tham lam, muốn thu nhận tất cả cho mình. Dù thế nào đi nữa thì con người cũng chỉ chạy loanh quanh các tâm lí tạo khổ như tham lam, sân giận, ngu si, ngạo mạn, nghi ngờ mà thôi, còn về bản chất của khổ là thế nào vẫn không thể nào biết được, điều này sẽ ngăn ngại khả năng thoát khổ của chúng ta.

Mọi việc chúng ta cần phải tự thân trải qua mới để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng. Nhiều người tìm hiểu Phật pháp liền biết ngay cuộc đời là biển khổ và từ đó họ chuyên tâm tu Phật. Phần lớn những người còn lại cần phải tự thân trải qua đau khổ như gặp tai nạn, qua cơn bệnh nặng, qua sự biệt li đau đớn mới hiểu đời là biển khổ. Ví dụ người may mắn duy nhất sống sót sau một vụ tai nạn máy bay hoặc người lâm bệnh thập tử nhất sinh nhưng được cứu sống mới hiểu thế nào là khổ. Khi trải qua được những nỗi khổ đó, họ sẽ có thái độ sống hoàn toàn khác. Sở dĩ như thế là vì họ đã từng “chết hụt” nên sẽ vô cùng quý trọng sự sống này. Cho nên, dù cuộc sống có khổ hơn, họ vẫn chịu đựng được, họ sẽ không còn thấp thỏm lo âu về cuộc sống như những người bình thường khác.

Ngoài ra, những người có người thân đột ngột qua đời sẽ nhận thấy sự mong manh của sự sống, từ đó họ trân trọng tình cảm với mọi người xung quanh. Để ghi nhận tình cảm của mình đối với người đã thiếu may mắn ra đi, họ sẽ có thái độ sống khác hoặc là làm từ thiện, cống hiến sức mình cho xã hội hoặc là hiến tài sản cho các nơi làm từ thiện. Nhờ tự thân trải nghiệm khổ, họ sẽ cảm nhận rất mạnh mẽ sự vô thường của cuộc sống; nhờ trải qua các nỗi khổ cùng tột đó, sau này họ sẽ không còn bị khổ “uy hiếp”, không còn thấy khổ nữa.

Từ những điểm trên, chúng ta thấy rằng các vị Bồ-tát chắc chắn tu tập từ trong những khổ đau của mình và chúng sinh vì các ngài là người dấn thân vào đời, chịu mọi đau khổ mà chúng sinh từng chịu nên khi dấn thân vào đó không còn thấy khổ mà chỉ thấy vui vì đã cứu giúp chúng sinh. Hơn nữa, các ngài vào trong đau khổ để cứu người khổ đau, như Bồ-tát Địa Tạng từng nói: Nếu ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục để cứu khổ chúng sinh? Quả thực, những người biết dấn thân vào đời thật vĩ đại biết bao!

Từ những ví dụ trên, chúng ta thấy rằng nếu muốn biết khổ, thể nghiệm khổ thì hãy biết rằng bản thân của khổ chưa từng tổn tại trong đời, thấy khổ không còn là khổ nữa. Tuy nhiên, chỉ những vị Bồ-tát và những người trải đời mới hiểu hết điều này.

Là một người tu hành Phật pháp, muốn lìa khổ, diệt khổ phải không ngừng tu tập, vượt qua trùng trùng chướng ngại của thân tâm để từ đó vượt lên tất cả khổ nạn.

HT. Thánh Nghiêm

20150814142234674761 (Copy)

Hãy tranh luận với bản ngã

Đăng lúc: 18:42 - 07/09/2015

Bản ngã tự thấy mình là trung tâm của vũ trụ, và vị trí của nó là thường hằng. Làm sao chúng ta phản đối tri giác sai lầm này? Hãy tranh luận với bản ngã. Tranh luận về việc nó nhìn nó và nhìn người khác như thế nào.

Trích: Sống Chết An Lành. Tác giả: Gehlek Rimpoche
1. Tất cả chúng ta đều mong muốn điều giống nhau.
Có những người bạn thích, có người bạn không thích, có người bạn không thích cũng không ghét. Sự thật là mọi người trong số đó, bất kể bạn thích hay không, đều mong muốn giống y như bạn vậy, đều mong muốn hạnh phúc. Họ muốn không bị đau khổ, cũng như bạn vậy. Bạn có thể nêu ra người nào xứng đáng chịu đau khổ hay không? Làm sao bạn phân biệt ra được?
Mọi người đều muốn tinh thần sảng khoái, có những giấc mơ đẹp, muốn bình an, giống như bạn vậy. Họ có những ước muốn bất thành, cũng như bạn, họ xứng đáng thành tựu những ước mơ đó. Hạnh phúc của họ cũng quan trọng như hạnh phúc của bạn.
2. Nhãn hiệu “bạn bè” đáng tin cậy tới mức nào? Nhãn hiệu “kẻ thù” đáng tin cậy tới mức nào?
Giả sử chúng ta đang băng qua đường và một chiếc xe sắp đụng chúng ta. Trong giây phút ấy, khi biết rằng sự sống của chúng ta sắp sửa biến đi như một giấc mơ thì có đáng để chúng ta nuôi giữ lòng ghét bỏ ai đó không? Hay lòng luyến ái với người nào đó? Khi đối mặt với thần chết mọi thành kiến hay sự cãi vả của chúng ta thường trở nên vô nghĩa. Sự khác biệt giữa chúng ta và người sắp bị xe đụng là họ có ý nghĩ rõ ràng hơn về lúc nào họ sẽ ra đi. Còn ta thì không chóng thì chầy cũng ở trong vị thế tương tự. Có thể là ngày mai, hay vài năm nữa. Ta sẽ phải lìa bỏ mọi người và mọi thứ, vậy thì có đáng để nuôi giữ lòng ghét bỏ hay luyến ái không?
3. Chúng ta sống dựa vào lòng tốt của người khác.
Mọi người, dù chúng ta có biết họ hay không, đều có ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta theo một cách nào đó – hoặc là họ sản xuất một đồ phụ tùng để sửa xe cho chúng ta, hay trồng lúa mì để làm bánh cho chúng ta ăn. Nếu bạn nhìn mọi sự vật dưới góc độ tái sinh, thì chúng ta đã hiện hữu tự thuở nào, dưới dạng này hay dạng khác, thế nên mọi chúng sinh vào lúc này hay lúc khác đều có liên hệ với chúng ta. Mọi chúng sinh đều đã từng là người gần gũi và thân yêu nhất của ta, đã từng gặp gỡ ta trên đường đời, đã từng là mẹ của ta, tắm rửa và cho ta ăn. Họ cũng đã từng sỉ nhục và gây tổn hại cho ta, nhưng thông thường hơn là họ làm gì đó để duy trì cuộc sống cho ta. Và bất kỳ tổn hại nào họ gây ra cho ta đều do lòng sợ hãi. Kẻ thù hôm nay có thể là người yêu hôm qua. Chúng ta không biết. Đó là điều có khả năng xảy ra. Hãy ghi nhớ điều này một cách sâu sắc.
Nếu tôi quyết định dẹp bỏ bản ngã của tôi, thì tôi không thể làm như vậy mà không có người khác: Khi tôi cố gắng thực hành kham nhẫn, nếu tôi cố giữ mình không gây tổn hại người nào đó, thì chính người làm tôi giận dữ đã cho tôi cơ hội để thực tập kham nhẫn. Khi tôi cố biến lòng luyến ái thành tình thương thuần khiết thì người làm tôi bị ám ảnh đã cho tôi cơ hội để cố gắng. Tôi không thể nào sống còn mà không có lòng tốt và sự hào phóng của người khác.
4. Tất cả chúng ta đều ở trong cảnh ngộ giống nhau.
Tất cả chúng ta đều đau khổ như nhau và mọi người sinh ra đều sẽ chết. Nếu tôi là một bác sĩ và đứng trước ba người sắp chết, tôi có thể nào nói, “Mình sẽ chữa trị cho người mình thích thôi?”. Có thể không có đủ thì giờ để chữa hết cho cả ba, nhưng nên có ý nghĩa như thế.
Vì tôi sẽ chết và bạn sẽ chết, điều đó có nghĩa là mọi vật đều vô thường. Không có chuyện là một người nào đó sẽ là bạn của mình mãi mãi hay người nào đó là kẻ thù mãi mãi. Chúng ta có thể thấy điều đó ngay trong cuộc sống của mình. Người mà chúng ta thề yêu thương suốt đời trở thành người bạn tốt nhất của ta. Xem người nào đó là “bạn” hay “thù” luôn luôn, không thay đổi thì đó là sự mù quáng của bản ngã. Nhưng “bạn” tùy thuộc vào “thù” cũng giống như phương Đông tùy thuộc vào phương Tây, đêm phụ thuộc vào ngày, trên tùy thuộc vào dưới. Những gì bạn làm đều ảnh hưởng đến tôi và ngược lại. Người ta nói rằng, chuyển động của một con bướm ở Trung Quốc ảnh hưởng đều chiều gió ở Mỹ. Cơ thể của chúng ta, nhân thân, và cuộc sống của chúng ta đều quyện chặt vào nhau. Chúng ta không thường hằng, chúng ta không tồn tại biệt lập, và không ai tự bản chất là bạn hoặc thù.
5. Hãy noi gương những bậc giác ngộ.
Khi bạn nhìn những bậc vĩ nhân như đức Phật hay chú Jesus, nhìn những bậc tiên tri hay bậc thánh, những vị ấy có phân biệt giữa người này với người khác không? Không. Họ không có thích hay không thích. Họ đều muốn giúp mọi người như nhau. Những bài pháp xưa nay cho chúng ta biết rằng những bậc giác ngộ cư xử với người khác như người mẹ đối xử với con một của mình. Các vị thầy cũng dạy rằng đức Phật cảm nghĩ về người dâng cúng dầu thơm cho ngài cũng như người chặt cánh tay ngài. Ngài thương tất cả và muốn giúp đỡ cho họ, bởi vì mọi người đều đau khổ và mong muốn hạnh phúc. Điều này đối với chúng ta dường như cực đoan, nhưng điều ấy là điều có thể. Tôi đã thấy các vị thầy của tôi sống cuộc đời trong trạng thái thanh thản. Không ai đến để chặt tay họ, nhưng tôi thấy họ cư xử với những người đối xử tệ với họ cũng như cư xử với học trò thân cận.
Khi các bạn thấy được chân tướng của “cái tôi, cái quý giá nhất” thì bạn bắt đầu phát triển tuệ giác. Khi các bạn thực sự hiểu sự tương thuộc của tất cả mọi sự vật, bản chất của thực tại, thì bạn có tuệ giác. Nhưng chừng đó có đủ để đạt được giải thoát khỏi khổ đau? Có lẽ là chưa. Cái bất thiện cần phải được thay thế bằng cái thiện. Sân hận cần phải được thay thế bằng sự kham nhẫn hay hiểu biết. Luyến ái cần được thay bằng tình thương thuần khiết. Sự ghen ghét cần phải được thay thế bằng sự thương yêu, chăm sóc. Tuệ giác không thôi chưa đủ. Tình thương và từ bi sẽ dẫn đến sự phát triển khả năng lựa chọn cuộc sống mà chúng ta mong muốn. Khi chúng ta từ bỏ bản ngã, thì chúng ta thay thế nó bằng cái gì? Chúng ta thay “cái tôi, cái quý giá nhất” bằng việc xem người khác là quý giá nhất.
Chiêu thức cuối cùng để dẹp trừ "cái tôi, cái quý giá nhất” là bắt đầu công việc cho người khác hạnh phúc và nhận đau khổ cho người. Bản ngã nghĩ rằng mình nên có cái gì tốt nhất, cho nên nếu như cho nó cái tệ nhất thì nó sẽ rút lui. Phương pháp thực tập này gọi là tonglen – cho và nhận.
Lúc đầu, nếu như bạn thật sự thực tập, không cần phải hướng đến nhiều người, một người thôi cũng được, có thể là người bạn yêu mến, con của bạn, hoặc bất kỳ người nào bạn rất quan tâm. Hãy hình dung người ấy ngồi bên cạnh; bạn hãy thở ra bằng lỗ mũi bên phải, và đi ra cùng với hơi thở ấy là tất cả nghiệp thiện và tình thương của bạn. Hãy cho người ấy mọi sự tốt đẹp không chút do dự. Đó là thực tập tình thương. Rồi hít vào bằng lỗ mũi bên trái và nhận tất cả nguồn gốc gây đau khổ cho người ấy – đó là thực hành từ bi – và để cho nó đánh ngay vào đầu bản ngã.
Lúc này có lẽ có một sự do dự - chắc chắn là như vậy – khi nhận vào sự đau khổ của người khác. Nếu ý nghĩ này làm bạn sợ thì hãy bắt đầu bằng cách nhận lấy mọi đau khổ trong tương lai của bạn, những khổ đau mà bạn sẽ trải qua vào ngày mai, vào những tuần lễ sắp đến, tháng, năm sắp đến, những kiếp sắp đến. Hãy nhận hết ngay bây giờ và để nó hòa tan trong trái tim của bạn và đi vào bản chất của thực tại.
Chúng ta có thể dùng sự thực tập này để lợi dụng những khó khăn của chúng ta thay vì để cho chúng làm cho chúng ta điên đảo. Chúng ta đang nhận lãnh quả của những gì chúng ta đã gieo nhân trong quá khứ, và chúng ta lấy làm sung sướng rằng nó sẽ qua đi, biến khỏi cuộc đời của chúng ta và chúng ta sẽ vượt qua nó. Rồi chúng ta có thể nhớ thật sự cầu nguyện rằng một chút đau đớn hoặc sợ hãi, hay là gì đó đi nữa, cũng có thể làm cho người khác đỡ phải gánh chịu một sự đau khổ như thế hoặc hơn thế. Các bậc tôn đức xưa nay dạy rằng bằng vào năng lượng của từ bi thì một chút đau khổ có thể cứu chúng ta khỏi sự khổ đau tệ hại hơn rất nhiều trong tương lai. Một chút khó khăn về tài chính có thể thay thế cho một triệu năm làm con ma đói. Một chút nhức đầu có thể thay cho một thời khù rất dài ở chốn địa ngục. Nếu chúng ta nhìn nó theo cách: “Ừ mình bị tai nạn, nhưng mình vẫn còn sống”, hoặc “Ừ, thì mình bị thương, nhưng ít ra là không ai làm cho vết thương tệ hại hơn,” thì vấn đề sẽ trở thành không có gì lớn như mình vẫn nghĩ.
Sau một thời gian hãy thực tập với người khác, người mà bạn thật sự yêu thương, những người mà bạn sẵn sàng làm mọi việc để cho họ khỏi đau khổ. Tất cả mọi đau khổ sẽ ở dưới dạng một đám mây đen trong tim. Hơi thở của bạn kéo đám mây đen ấy ra khỏi người họ hay khỏi người của bạn. Ở bên trong trái tim, bản ngã là một ngọn đèn nhỏ đang cháy. Đám mây đen đi vào và thổi tắt ngọn lửa ấy. Phù, thế là nó đã tắt, đã bị tiêu diệt. Và những người ấy, do bạn đã hút ra nguyên nhân bất thiện gây ra đau khổ và cả sự đau khổ, đều sẽ giải thoát khỏi cả hai. Thay vào đó bạn cho họ sự may mắn, niềm vui, phúc lành, và tuệ giác của bạn dưới dạng ánh sáng. Và họ sẽ ngập tràn ánh sáng đó và trở nên sung sướng.
Theo TINHDO.NET

Ấn Độ: Chùm ảnh Hiệp hội Dhomey, Pháp tổ chức Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma tại Tu viện Main

Ấn Độ: Chùm ảnh Hiệp hội Dhomey, Pháp tổ chức Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma tại Tu viện Main

Đăng lúc: 08:01 - 24/06/2015

Văn phòng Chính phủ Tây Tạng lưu vong, Dharamsala đưa tin – 22/06/2015 đã diễn ra buổi lễ mừng Sinh nhật Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma, do Hiệp hội Dhomey, Pháp tổ chức tại Tu viện Main, Dharamsla, Ấn Độ.
Ông Virbhadra Singh, Bộ trưởng Bộ Himachal Pradesh, Ấn Độ cho biết: “Tôi tham dự Lễ mừng Sinh nhật Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma với tất cả lòng chí thành cung kính ngưỡng mộ lòng Từ bi, đức Đại hùng lực của vị lãnh đạo tinh thần dân tộc Tây Tạng, Ngài không chỉ dẫn dắt nhân dân Tây Tạng trên hành trình xây dựng xã hội an lạc hạnh phúc mà cho cả nhân loại thế giới nói chung.
Đức Đạt Lai Lạt Ma không những được sự ngưỡng mộ của các lãnh đạo Chính phủ Tây Tạng lưu vong, mà còn là một kiến trúc sư của nền hòa bình, sự tĩnh lặng bình yên, tình hữu nghị thiện chí giữa các quốc gia, trong đó Ngài được công nhận bởi cộng đồng nhân loại thế giới.
Chúng tôi vô cùng hạnh phúc được sự hiện diện của đức Đạt Lai Lạt Ma, Chính phủ Tây Tạng lưu vong, cộng đồng Tây Tạng cùng hòa mình chung sống hài hòa tại Dharamshala, bang Himachal Pradesh chúng tôi đang lãnh đạo”.
Ông Edward John, một nhà lãnh đạo chính trị nổi tiếng Canada, hồi tưởng lại chuyến công du hoằng pháp tại Australia của đức Đạt Lai Lạt Ma, nơi Ngài gặp gỡ với một nhóm người bản địa, và chia sẻ về Văn hóa ngôn ngữ của họ, tầm quan trọng của việc gìn giữ và phát huy chung cho gia đình nhân loại.
“Trong thâm tâm tôi vô cùng ngưỡng mộ và tri ân Ngài, cho con cháu và hơn 370 triệu người dân bản địa trên toàn thế giới, làm thế nào cùng nhắn gửi Thông điệp cho nhau”.
Ông cung kính dâng lên món quà Sinh nhật, một tấm khăn choàng màu sắc cổ truyền Canada, như một dấu hiệu của lòng biết ơn sâu sắc đến đức Đạt Lai Lạt Ma.
Trong bài phát biểu, đức Đạt Lai Lạt Ma đã bày tỏ mối quan tâm sâu sắc về hoàn cảnh của người dân bản địa ở các nước khác nhau. Ngài nói rằng những thổ dân phải được giáo dục, để họ có thể học hỏi, hòa mình với nếp sống văn minh hiện đại.
Nói về việc bảo tồn truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc, Ngài nhấn mạnh rằng: “Ngôn ngữ văn tự là điều kiện tiên quyết để bảo tồn truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc. Khi nói đến cộng đồng Tây Tạng, tôi vô cùng tri ân và tự hào về tổ tiên của mình để có một kịch bản Tây Tạng rất phong phú”.
Ngài nhớ lại buổi chia sẻ với những người bản xứ da đen với tinh thần cảm xúc. Ngài bày tỏ nỗi buồn của mình khi người đàn ônglại tin rằng bộ não của người đàn ông da đen hạn chế hơn bộ não của người đàn ông da trắng. Đề cập đến vấn đề mặc cảm tự ty của thổ dân, Ngài nói rằng Trung Quốc đã đối xử với người Tây Tạng rất thiếu văn minh. Có phải người Tây Tạng không biết kềm chế bởi cơ hội hạn chế, họ sẽ có được ngang bằng với người dân Trung Quốc. Thế kỷ 21 là thế kỷ của sự bình đẳng, dân chủ, văn minh.
Ngài tiếp tục chia sẻ về ý nghĩa của sự đoàn kết và phụ thuộc lẫn nhau. Ngài nói rằng: “Mình là Trung tâm” là nguyên nhân, cội gốc của tất cả những rắc rối trên thế giới. Do thái độ ích kỷ, thế giới không bao giờ hết tạo ra vấn đề. Chúng ta sống trong một cộng đồng mà chúng ta không không thể hòa nhập thì tự chúng ta bị cô lập, do đó chúng ta phải phụ thuộc vào người khác. Hạnh phúc của chúng ta phụ thuộc vào sự tích cực lành mạnh của nhân loại thế giới”.
Chia sẻ cảm nghĩ của mình về hạnh phúc, Ngài nói rằng bản chất thực sự của nhân loại đang bị thương hại từ người sáng tạo ra thế giới, mình là hiện thân của tình yêu và lòng từ bi. Tình yêu và lòng từ bi là bẩm sinh trong mỗi con người, vì được nuôi dưỡng bằng tình thương yêu của người mẹ.
Nếu thiếu tình yêu thương và lòng từ bi, đối với hệ thống giáo dục hiện nay nếu chỉ tập trung vào nhu cầu vật chất, Ngài nhấn mạnh sự cần thiết để mang lại sự tập trung bằng giá trị bên trong của tiềm năng tri thức và đạo đức của con người.
Chùm ảnh Hiệp hội Dhomey, Pháp tổ Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma tại Tu viện Main Dharamsla, Ấn Độ. Trân trọng kính mời quý bạn đọc cùng chia sẻ:

Ông Virbhadra Singh, Bộ trưởng Bộ Himachal Pradesh, Ấn Độ dâng lễ mừng Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma, theo nghi lễ truyền thống Tây Tạng


Một nhóm Sinh viên Mỹ tham dự Lễ mừng Sinh nhật Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma


Đức Đạt Lai Lạt Ma và Ông Virbhadra Singh, Bộ trưởng Bộ Himachal Pradesh, Ấn Độ xem triển lãm Văn hóa PG Tây Tạng, dịp Lễ mừng Sinh nhật Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma


Đức Đạt Lai Lạt Ma và các vị khách đặc biệt tham quan phòng sách báo, Văn hóa phẩm PG Tây Tạng, dịp Lễ mừng Sinh nhật Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma


Đức Đạt Lai Lạt Ma trao tặng Ông Virbhadra Singh, Bộ trưởng Bộ Himachal Pradesh, Ấn Độ, một bức tranh Tôn giả Shantarakshita (Tịch Hộ), Tiến sĩ Lobsang Sangay (洛桑森格- Lạc Tang Sâm Cách), Thủ tướng Chính phủ Tây Tạng lưu vong (Sikyong), cầm bức tranh Tôn giả chiêm ngưỡng, và quan khách đặc biệt, dịp lễ mừng Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma


Quan cảnh tiệc mừng Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma


Một trong hàng nghìn người tham dự lễ mừng Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma


Đức Đạt Lai Lạt Ma và Ông Virbhadra Singh, Bộ trưởng Bộ Himachal Pradesh,Ấn Độ cắt bánh Sinh nhật khánh tuế chúc thọ bát tuần cho Ngài, lễ mừng Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma


Ông Virbhadra Singh, Bộ trưởng Bộ Himachal Pradesh, Ấn Độ cung kính dâng bánh Sinh nhật, Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma


Quan cảnh Lễ Mừng Sinh nhật, Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma thật trang nghiêm long trọng, lễ mừng Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma


Một Thanh niên mặc trang phục truyền thống dân tộc Tây Tạng quỳ gối, ngâm những vần Thơ kính mừng Sinh nhật, Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma


Một số thành viên đứng che ô trong cơn mưa, cùng tham dự lễ mừng Sinh nhật, Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma, lễ mừng Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma


Đội Văn hóa Nghệ thuật Tây Tạng biểu diễn một vũ khúc truyền thống dân tộc, kính mừng Sinh nhật, Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma


Đức Đạt Lai Lạt Ma choàng khăn truyền thống Canada, món quà Sinh nhật 80 tuổi, lễ mừng Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma


Thế hệ trẻ Sinh viên Phật giáo Tây Tạng cung kính chắp tay mừng Sinh nhật, Khánh tuế chúc thọ bát tuần đức Đạt Lai Lạt Ma


Đức Đạt Lai Lạt Ma tay cầm đĩa DVD, và Cư sĩ Virbhadra Singh, Bộ trưởng Bộ Himachal Pradesh, Ấn Độ, giới thiệu nội dung phim tài liệu về cuộc sống của các trẻ em Trường TCV Làng thượng Trẻ em Tây Tạng, Dharamsla, Ấn Độ, đây là quà tặng Sinh nhật đức Đạt Lai Lạt Ma 80 tuổi. 22/06/2015





Đức Đạt Lai Lạt Ma và Cư sĩ Virbhadra Singh, Bộ trưởng Bộ Himachal Pradesh, Ấn Độ, cùng quan chức cao cấp Ấn Độ, Tây Tạng lưu vong xem phim tài liệu về cuộc sống của các trẻ em Trường TCV Làng thượng Trẻ em Tây Tạng, Dharamsla, Ấn Độ. 22/06/2015

Thích Vân Phong (Tin từ VP Chính phủ Tây Tạng lưu vong - Ảnh: Tenzin Cheojor)

Nghiệp duyên chỉ bởi một nụ cười

Nghiệp duyên chỉ bởi một nụ cười

Đăng lúc: 08:26 - 06/06/2015

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng giảng rằng: Phương pháp độ nhân, cần phải chú trọng “khéo léo đúng dịp”. Câu chuyện Đức Phật hóa độ Bạt Kiết Đế, người con gái đem lòng cảm mến tôn giả A Nan, chính là một minh chứng sống động về phương diện này.


Tôn giả A Nan trông vô cùng anh tuấn khôi ngô, Văn Thù Bồ Tát từng dùng “Tướng như thu mãn nguyệt, mục tựa tịnh liên hoa” để ca ngợi ngài.

Một hôm, tôn giả A Nan khát nước đến không chịu được, liền đến bên một thiếu nữ đang gánh nước xin chút nước uống. Thiếu nữ này tên là Bạt Kiết Đế, là tộc người Ma Đăng Già vốn bị mọi người xem là hạ tiện. Cũng giống như bao thiếu nữ quyền quý khác, cô cũng đã ngưỡng mộ A Nan từ lâu. Nhân thấy A Nan đến chỗ mình xin nước uống, lòng cô vui khôn tả xiết.

Tôn giả A Nan uống nước xong, cúi mình cảm tạ cô gái, trong lòng ngài không hiểu sao lại có cảm giác dường như đã quen biết cô từ rất lâu rồi.

Thiếu nữ nhìn theo hình bóng A Nan đi xa rồi khuất dần, bỗng sinh lòng mến mộ, từ đó cô chìm sâu vào nỗi nhớ tương tư của mối tình đầu, thần trí suốt ngày ngẩn ngơ như mất hồn mất vía.

Mẹ cô không ngừng gặn hỏi nguyên do, cuối cùng cô cũng nói ra sự thật. Người mẹ không nhẫn tâm nhìn thấy con gái ngày một gầy đi, liền nghĩ ra một mưu kế: Sa Bì Già La Tiên Phạm Thiên chú, có thể mê hoặc đàn ông, nếu như gạt A Nan đến chỗ này, mời người niệm chú, để cho họ gạo nấu thành cơm……

Một hôm, quốc vương Ba Tư Nặc mở hội đàn trai tăng cúng dường, Đức Phật cùng chúng đệ tử là những người được mời đến tham dự. Tôn giả A Nan vì đi ra ngoài chưa về, nên không thể đến dự tiệc hội trai tăng, đành phải tự mình cầm bát đi khất thực. Khi đi ngang qua trước cửa nhà của người thiếu nữ Ma Đăng Già, cô mỉm cười tiếp đón ngài, nói: “Tôn giả A Nan, ngài còn nhớ tôi không?”

Tôn giả A Nan thực tình vẫn chưa quên người thiếu nữ xinh đẹp này, liền cười cười gật đầu.

Thiếu nữ vô cùng xúc động nắm lấy tay A Nan, nói: “Hãy theo em vào nhà nào, vào nhà em nhận cúng dường”.

A Nan trong đầu mơ mơ màng màng đi theo sau cô gái, vào đến khuê phòng của cô, tôn giả cứ như khúc gỗ, mặc cho người ta sắp đặt, trong lòng rất muốn thoát ra, nhưng lại không làm gì được.

Lúc này, hội trai tăng cúng dường trong hoàng cung cũng vừa mới bắt đầu, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni biết rõ A Nan bị ma chú khống chế, không cách nào thoát ra được, liền căn dặn Văn Thù Bồ tát, dùng Lăng Nghiêm Chú mà giải cứu A Nan.

Văn Thù Bồ tát vội đến nhà thiếu nữ, dùng Lăng Nghiêm Chú hóa giải Sa Bì Già La Tiên Phạm Thiên chú. A Nan giật mình tỉnh ngộ, thoát khỏi sự khống chế của cô gái, lôi thôi lếch thếch trở về tịnh xá.

Thiếu nữ Ma Đăng Già không can tâm bỏ cuộc dễ dàng như vậy, ngày ngày cứ đứng chờ A Nan trước của tịnh xá, A Nan đi đến đâu, cô theo đến đó. Cuối cùng tôn giả A Nan hết cách, đành cầu xin Đức Phật giúp đỡ.

Đức Phật nói: “Ngày mai con hãy gọi cô gái đó đến đây, ta sẽ nói chuyện với cô ấy”.

Ngày hôm sau, cô gái theo A Nan đến gặp Đức Phật. Đức Phật không hề oán trách cô nửa lời, Ngài từ bi mà nói với cô rằng: “Tâm tình muốn được gả cho A Nan của con ta hiểu được, nhưng A Nan đã là người xuất gia, nếu con muốn gả cho y, thì con cần phải xuất gia tu hành một năm cái đã”. Thiếu nữ liền gật đầu đồng ý.

Đức Phật nói: “Xuất gia cần phải được sự đồng ý của cha mẹ, cha mẹ con đồng ý cho con xuất gia sao?”

Thiếu nữ đáp: “Bẩm Phật Đà! Từ nhỏ đến lớn cha mẹ con lúc nào cũng đều nghe lời con hết, họ nhất định sẽ đồng ý cho con xuất gia”.

Cứ như vậy, thiếu nữ Ma Đăng Già vui vui vẻ vẻ mà xuống tóc tu hành, trở thành một thành viên trong nhóm Tỳ Kheo Ni.

Sau khi xuất gia, dưới sự cảm hóa của Phật Pháp, trái tim nồng nhiệt ban đầu của cô, càng ngày càng trở nên tĩnh lặng, dần dần cô hiểu ra rằng tình cảm ràng buộc đối với A Nan ngày trước đều là sự ngu muội nhất thời mà thôi.

Phật Đà nói với chúng đệ tử rằng: A Nan và Bạt Kiết Đế 500 năm kiếp trước, trong một lần tình cờ gặp gỡ, hai người đã mỉm cười với nhau, từ đó mà dẫn đến tình duyên trong đời này.

Từ đó, Bạt Kiết Đế càng thêm nỗ lực tinh tấn tu hành, sau cùng cô trở thành một trong những người kiệt xuất trong nhóm Tỳ Kheo Ni, chứng đắc Thánh quả còn sớm hơn cả A Nan.

(Dựa theo “Câu chuyện mười đại đệ tử của Đức Phật”)

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 7
  • Hôm nay 2,753
  • Tháng hiện tại 39,208
  • Tổng lượt truy cập 23,445,457