Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Cứu người mà không sát vong

Cứu người mà không sát vong

Đăng lúc: 11:06 - 26/09/2017

Khóa tu chỉ có bảy người, trong đó có hai tu sĩ (đã xuất gia từ thuở nhỏ), còn lại là nam cư sĩ. Cả đoàn lặng lẽ lên núi, trú nhờ nơi gian nhà tổ của một ngôi chùa. Chùa xa và nghèo, nên chùa vắng; thuận tiện cho khóa tập; duy chỉ không có người “phục vụ” nên đoàn phải mang theo lương thực-thực phẩm đủ dùng cho hơn một tháng. Mỗi ngày, công việc chính của đoàn là bốn thời thiền tọa, mỗi thời khoảng hai giờ. Thời gian còn lại dành cho việc chẻ củi, lặt rau, bếp núc… Nghĩa là không có thời giờ trống…

aminhhoa.jpg
Ảnh minh họa
Khoảng giữa khóa thiền, một hôm có đôi vợ chồng đến gặp thầy, dắt theo người con gái để nhờ thầy trị bệnh. (Không biết do đâu mà dẫn đến việc nhờ trị bệnh này, vì khóa thiền diễn ra rất âm thầm!). Người con gái khoảng hơn hai mươi tuổi, sắc mặt hồng hào, không có vẻ gì là người có bệnh. Bệnh, theo lời đôi vợ chồng nói, là không hiểu sao, ngày nào người con gái cũng múa hát cười cợt lung tung…

Nhìn chăm chú người con gái giây lát, thầy hỏi: Có phải cháu thích ăn kẹo bánh và cứ chiều chiều, là cháu mới lên cơn, phải không? Đôi vợ chồng thưa: Quả thế thật. Cháu còn thích mặc áo quần đẹp nữa. Gia đình đã đi tìm thầy chữa hơn ba năm rồi mà thầy nào cũng… lắc đầu. Nhờ thầy làm ơn làm phước…

Thầy bảo hai vợ chồng đưa cháu về, vài hôm sau sẽ gặp lại.

Đêm ấy, thầy khó ngủ, cứ đi đi lại lại trước sân chùa…

Trong buổi uống trà sáng hôm sau, mấy huynh đệ được thầy cho biết, người con gái ấy bị một vong trẻ con đeo bám lâu ngày nên mới có những biểu hiện như thích ăn bánh kẹo, thích mặc áo quần mới… Thầy đang phân vân, chưa chọn được cách giải quyết chu toàn.

***

Mấy ngày sau, cả nhà người con gái ấy trở lên núi. Thầy cho bệnh nhân ngồi chính giữa bộ phản gỗ lớn đặt bên phải gian nhà Tổ, hai bên và phía sau bệnh nhân, thầy bảo ba huynh đệ cùng đặt tay lên lưng và hai vai người bệnh; thầy ngồi đối diện với người bệnh. Thầy bắt ấn, lâm râm trì chú rồi nói lớn: Đi, đi ra khỏi đây ngay, đi mà tìm nơi tu tập, nếu không ta sát! Vừa dứt lời, thầy đánh mạnh vào bệnh nhân…

***

Khi khóa thiền sắp kết thúc, gia đình bệnh nhân lại lên núi để báo tin, rằng sinh hoạt của con gái họ đang dần dần trở lại bình thường. Các huynh đệ đều chúc mừng, mong họ thêm vững lòng tin vào Phật pháp. Thầy cũng chân thành bày tỏ, rằng cái vong đeo bám cô gái là một vong hiền, nên thầy mới có thể “gọi” nó rời bỏ khỏi thân thể cô ấy. Và điều khiến thầy phải đắn đo khi trị bệnh, là làm sao vừa giúp được bệnh nhân mà vẫn không làm thương tổn đến cái vong ấy. Bởi vì nó cũng không có ác ý làm hại người bệnh, nó cũng chỉ là nạn nhân của chính những nghiệp quả đã gieo, đang trôi lăn trong dòng luân hồi u u minh minh bất tận. Thầy lưu ý cho tất cả huynh đệ hiểu-nhận sâu sắc rằng, mỗi một ấn quyết và thần chú đều có công năng riêng nhưng điều chủ yếu là phải dùng tâm từ để điều khiển khi sử dụng ấn chú vào những mục đích tốt đẹp nhằm cứu giúp người khác. Nếu đi lệch khỏi động cơ và mục đích ấy, mọi việc làm đều trở nên vô nghĩa, vô ích và có hại cho bản thân, vì nó chỉ làm tăng thêm cái “ngã” mà thôi. Và điều quan trọng nhất đối với mỗi người trong việc nhận thức về những thế giới tồn tại bên cạnh đời sống hàng ngày của con người, là sự tôn trọng đối với họ…

Buổi sớm mai, tiết trời se se. Còn lại mãi trong sâu xa của tất cả huynh đệ ngày ấy, là hình ảnh thầy vừa nâng tách trà nóng, vừa từ tốn: Đức Khổng phu tử đã từng dặn rằng: Kính quỷ thần nhi viễn chi! (Đối với quỷ thần thì kính trọng nhưng nên tránh xa). Ngài còn nói: Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã (Luận ngữ), có nghĩa là những kẻ vừa mới nghe giảng Đạo rồi đi thuật lại liền sau đó, thì xem như bỏ mất cái đức nơi mình, cũng có nghĩa là, người học Đạo cần phải có sự trải nghiệm chứ không chỉ nghe suông nói suông...
Nguyễn Đông Nhật

Vọng tưởng

Vọng tưởng

Đăng lúc: 11:35 - 30/03/2017

1- Cần thiết cho người tu thiền:

Người tu Tịnh độ để vãng sinh Cực lạc, thì việc hiểu vọng tưởng là gì có lẽ không cần thiết lắm. Bởi chỉ cần tín, hạnh, nguyện đầy đủ thì được vãng sinh. Hạnh thì một câu lục tự Di-đà niệm cho đến khi được nhất tâm bất loạn. Chỉ cần cho được nhất tâm bất loạn, không cần biết vọng tưởng là gì. Người tham thoại đầu, chắc cũng không cần biết rõ về vọng tưởng, chỉ cần đề khởi một câu thoại đầu cho đến khi tâm như thùng sơn lủng đáy. Với người tu thiền, lại là thiền “Biết vọng không theo” hay “Biết có chân tâm” thì việc biết rõ cái gì là vọng để không theo, có lẽ là khá cần thiết. Nó giúp ích cho việc tu học của hành giả không nhỏ. Đó là lý do thứ nhất triển khai bài viết này.

2- Thiền phái Trúc Lâm là phái thiền nhập thế

Là một thiền phái nhập thế thì việc tiếp duyên không thể tránh khỏi. Phật tử thuộc thiền phái Trúc Lâm thì gần như thời gian chính là dành cho công việc xã hội, giao tiếp nhiều. Cho nên, biết rõ về vọng tưởng là việc cần thiết. Để ngoài những lúc phải tiếp duyên, chúng ta hạn chế bớt các duyên. Biết vọng là gì cũng là phương cách để chúng ta nhận định rõ về những gì chúng ta đang hành xử, thông qua ba thứ thân, khẩu, ý của mình. Đó là lý do thứ hai khiến bài viết được triển khai.

anh nsgn.jpg

Vọng tưởng là gì?

Theo cái nhìn của người đời thì “vọng tưởng” được dùng để chỉ cho những lời nói hay suy nghĩ không đúng sự thật.

Với cái nhìn của Phật học, như Tự điển Phật học đã ghi, thì “Không có thật, gọi là vọng. Do phân biệt sai lầm mà có sự chấp giữ các tướng ở thế gian, gọi là tưởng”. Nghĩa này trùng với nghĩa của “Tưởng tâm sở” mà luận Thành duy thức đã nói: “Tưởng tâm sở, là tính chấp thủ tướng mạo của cảnh và có nghiệp dụng thiết đặt ra các danh ngôn”.

Như vậy nói tổng quát, vọng tưởng được chỉ cho những suy nghĩ, tư tưởng không có chất thật so với thực tế. Thực tế này, có thể được hiểu là hiện thực mà chúng ta đang sống đây. Vọng tưởng trong trường hợp này là những gì không có trong đời, như lông rùa, sừng thỏ. Cũng có thể hiểu thực tế là bờ mé chân thật tối cùng, chính là tâm chân như, cội gốc chân thật của tất cả pháp. Tâm này là sở y (tánh) của tất cả pháp. Không có pháp nào có cội gốc riêng. Như ngủ mê rồi mộng mà thấy tướng các cảnh giới, thực chất thì các cảnh giới ấy không có, chỉ là tâm, do vô minh bất giác mà khởi. Với nghĩa này, nói vọng là do đối với chân mà nói. Mọi hiện khởi hiện lên trong tâm, dù đúng dù sai đều gọi là “vọng”.

Do vô minh bất giác mà khởi, không phải chân nên nói “vọng”.

Do chấp thủ tướng cảnh giới mà nảy sinh suy nghĩ, tư tưởng, cảm xúc… nên nói “tưởng”.

Tưởng này do duyên mà thành, không có chất thật, nên nói “vọng tưởng”.

Phân loại vọng tưởng

Trong kinh Lăng-già, Phật phân vọng tưởng ra thành 12 loại.

1- Ngôn thuyết vọng tưởng

Ngôn thuyết vọng tưởng, là chỉ cho “các thứ âm thanh ca vịnh vui đẹp chấp trước”. Cũng chỉ luôn cho loại ngôn thuyết nói năng của người đời. Nói “ngôn thuyết vọng tưởng” vì do vọng tưởng mà khởi ra ngôn thuyết. Vọng tưởng là những gì đã được huân tập và lưu giữ trong tâm. Vọng tưởng vốn không thật. Các thứ âm thanh ngôn thuyết cũng không thật. Vì nó chỉ là pháp duyên hợp. Như Phật nói với Bồ-tát Đại Huệ “Do đầu, ngực, cổ họng, mũi, môi, lưỡi, nướu răng hòa hợp mà phát ra âm thanh”1. Các duyên nếu thiếu, ngôn thuyết không thể thành hình. Nên nói hư vọng.

Nhân của ngôn thuyết chính là dòng vọng tưởng tương tục khởi lên trong tâm. Cho nên, người không nói, chưa chắc vọng tưởng không có, nhưng người nói nhiều thì nhất định vọng tưởng phải nhiều, lực của dòng vọng tưởng phải mạnh. Giờ muốn không quả thì phải trừ nhân. Vì thế, muốn dừng được loại Ngôn thuyết vọng tưởng này thì hoặc là dòng vọng niệm phải dứt, hoặc là phải làm chủ được dòng vọng niệm của mình.

2- Sở thuyết sự vọng tưởng

Sở thuyết sự, là chỉ cho những gì được phát sinh từ Thánh trí, như lời kinh, tiếng kệ, pháp ngữ v.v… Kinh nói: “Nói ra là chỗ Thánh trí biết, y đó mà sinh ngôn thuyết vọng tưởng, nên gọi là Sở thuyết sự vọng tưởng”.

Lời kinh, tiếng kệ v.v… mà gọi là vọng tưởng, vì chúng chỉ là pháp dẫn đạo. Ứng duyên thì hiện. Hết duyên thì không. Như lớp học ồn, cần tiếng hét của giáo viên. Tiếng hét tuy làm dịu được tiếng ồn, nhưng cũng vẫn là tiếng ồn đối với khoảng không thinh lặng, chưa phải là chỗ thinh lặng thật sự. Đó chỉ mới là ngón tay chỉ mặt trăng, chưa phải chính mặt trăng. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Chỗ Thánh trí hiển bày phải ngộ nhập, nếu không thể nhân ngón tay mà thấy mặt trăng thì chỗ hiển bày biến thành cảnh giới giác tưởng”2. Cho nên, dù từ Thánh trí lưu xuất, nhưng nếu cho cái “Sở thuyết sự” ấy là chỗ chân thật, thì cái chân thật ấy liền biến thành cảnh giới giác tưởng, chẳng thể tỏ tường mọi thứ. Vì thế, Hương Nghiêm Trí Nhàn, thông suốt kinh luận, hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, được mệnh danh là Thích Ca thứ hai, vẫn không thể nào trả lời được câu hỏi của ngài Quy Sơn: “Thử nói một câu, trước khi cha mẹ chưa sinh là thế nào?”. Bởi ngón tay không phải là mặt trăng. Nương ngón tay để thấy mặt trăng. Nếu không biết, lấy ngón tay làm mặt trăng thì không thể nào thấy được mặt trăng. Làm thế nào để trả lời khi hỏi về mặt trăng?

Đức Sơn, khi chưa gặp Sùng Tín, là một người rất tự hào về tài học của mình. Đã từng nói với kẻ đồng môn: “Một sợi lông nuốt cả bể cả, tánh bể không thiếu. Hạt cải nhỏ ném trên mũi nhọn, mũi nhọn chẳng động. Học cùng chẳng học chỉ có ta biết thôi”3. Thì biết không phải là hạng vừa trong Giáo tông.

Nghe phương Nam, Thiền tông thịnh hành. Sư bất bình nói: “Kẻ xuất gia, muôn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật, còn chưa thể thành Phật. Huống trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Nói rồi liền quảy bộ Thanh long sớ sao, hướng phương Nam mà tới, với tâm nguyện diệt trừ bọn ma phương Nam, đền ơn Phật Tổ.

Đi giữa đường gặp bà lão bán bánh, Đức Sơn dừng lại hỏi mua bánh.

Bà lão hỏi:

- Gói ấy là sách vở gì?

Trả lời:

- Thanh long sớ sao.

Bà lão hỏi:

- Thầy thường giảng kinh gì?

Đức Sơn trả lời:

- Kinh Kim cang.

Bà nói:

- Tôi có một câu hỏi. Nếu thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Nếu không đáp được, mời thầy đi nơi khác.

Đức Sơn gật đầu ưng thuận.

- Kinh Kim cang nói “Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc”. Vậy xin hỏi, Thượng tọa dùng tâm nào để điểm?

Đức Sơn không trả lời được, bèn hỏi đường đi Long Đàm.

Đến pháp đường, gặp Sùng Tín, Sư hỏi:

- Lâu nay nghe danh Long Đàm, đi đến nơi chẳng thấy Đàm mà Long cũng chẳng hiện.

Sùng Tín trả lời:

- Người đã gần đến Long Đàm.

Đức Sơn không đáp được. Ở lại thờ Sùng Tín làm thầy.

Một đêm, Sư đứng hầu. Sùng Tín bảo:

- Đêm khuya sao chẳng xuống?

Sư chào, bước ra, nhưng lại bước trở vào nói:

- Bên ngoài tối đen.

Sùng Tín thắp đèn đưa Sư. Sư toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó, Sư đại ngộ.

Sau khi đại ngộ, mới nhận ra ngàn kinh muôn luận chỉ là ngón tay giúp người nhận mặt trăng, không phải chính mặt trăng. Sư mang bộ Sớ sao chất trước pháp đường mà đốt. Nói: “Tột cùng các biện luận siêu huyền, chỉ như sợi lông trong hư không. Thông sạch các trọng yếu ở đời, chỉ như một giọt nước gieo trong biển cả”.

Cho nên, là kẻ tu thiền, nếu nhầm những kiến giải khởi lên trong tâm, cho là chỗ tâm chứng tột cùng, thì như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, không tránh khỏi lửa táp vào mình. Vì chúng chỉ là một loại Sở thuyết sự vọng tưởng, do ứng duyên mà hiện. Nếu chấp thủ chúng, tức cho chúng là thật thì chúng là nhân dẫn dến phiền não và trở thành một loại sở tri làm chướng ngại Bồ-đề.

3- Tướng vọng tưởng

Tướng vọng tưởng là đối với tướng các pháp mà khởi vọng tưởng. Như thấy đất liền khởi tưởng cứng. Thấy lửa liền khởi tưởng nóng. Nghe nói me liền khởi tưởng chua. Với con người, con vật hay một sự kiện nào đó, khi nhìn thấy chúng mà tâm khởi lên các thứ tưởng có liên quan, thì những liên tưởng đó gọi là Tướng vọng tưởng. Do chấp thủ tướng mà sinh khởi vọng tưởng, nên gọi là Tướng vọng tưởng.

Chấp thủ tướng là, do từng biết đất có tính cứng, nước có tính ướt, lửa có tính nóng v.v… rồi lưu giữ những thấy biết đó trong tạng thức. Khi đối duyên, y tướng đang thấy mà những chấp thủ được lưu giữ trong tạng thức theo đó sinh khởi. Kinh Lăng nghiêm nói “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn” là đây. Là cái thấy biết hiện tại không do đối duyên trực biết, mà do y vào những thấy biết quá khứ để biết. Thấy biết như vậy là gốc của vô minh, cũng là lấy vô minh làm gốc.

Do y tựa vào những gì đã được lưu giữ mà biết, nên nó là pháp duyên khởi. Duyên khởi thì không có chất thật, nên nói “vọng”. Do chấp thủ tướng mà tâm sinh khởi, nên nói “Tướng vọng tưởng”.

Tướng các pháp đều do duyên tạo thành. Duyên thay đổi thì tướng pháp thay đổi. Cho nên các thứ tưởng liên quan đến tướng các pháp tại một thời điểm nào đó chưa hẳn còn chính xác vào thời điểm sau. Như thấy lửa liền liên tưởng đến tính nóng. Nhưng lửa không phải khi nào cũng nóng. Với một hỗn hợp hóa học gồm 60ml cacbondisulfua (CS2) và 40ml tetraclorua cac bon (ccl4), tướng lửa vẫn còn mà tính nóng đã mất. Các nhà hóa học gọi nó là lửa lạnh. Như con người trước khi tu hành và sau khi tu hành có khi thay đổi một trời một vực. Ngài Angulimala, đệ tử của Đức Phật, trước khi đến với Phật là một kẻ sát nhân, sau khi làm đệ tử Phật thì tu quán từ bi, một con vật nhỏ cũng không khởi tâm giết hại. Từ bi quán có lực đến nỗi đủ để Tôn giả hồi hướng cho một phụ nữ sinh nở được bình an4. Cho nên, tướng pháp luôn biến dịch, không phải khi nào cũng cố định để những lưu giữ trong tâm khi nào cũng có giá trị.

Lại, cùng một tướng như nhau mà nhân duyên hình thành nên tướng đó khác nhau thì giá trị các tướng đó cũng không như nhau. Nếu thấy cùng tướng mà cho là giá trị như nhau thì khó tránh được sai lầm.

Khổng Tử, một lần dẫn học trò du thuyết sang Tề, có Nhan Hồi và Tử Lộ đi theo. Cả hai đều là học trò giỏi của Khổng Tử.

Trong thời Đông Chu, dân chúng lầm than đói khổ, thầy trò Khổng Tử cũng không thoát được cảnh đó. May thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử phân Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm. Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.

Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm, rồi cho cơm vào miệng. Chứng kiến cảnh ấy, Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời than: “Chao ôi! Học trò giỏi của ta mà lại đi ăn vụng…”. Sự liên hệ khởi tưởng từ tướng như thế, gọi là Tướng vọng tưởng.

Thật ra, Nhan Hồi không ăn vụng. Chỉ là vì khi giở nắp xem cơm, một cơn gió thổi qua, bụi trần rơi xuống làm bẩn lớp cơm trên. Ông quyết định ăn phần cơm bẩn đó để thầy và các bạn không phải mất thêm phần cơm cho mình.

Khổng Tử, do huân tập cái thấy bình thường của người đời, thấy tướng như thế và cho là đang như thế, nên kết luận Nhan Hồi ăn vụng, mà quên mất mặt nhân duyên của pháp. Là nhân duyên gì khiến tướng đó xuất hiện? Nếu xét nhân duyên thì hiểu Nhan Hồi vẫn xứng đáng là học trò giỏi của mình.

Cho nên, cái Tướng vọng tưởng này, tuy là vọng nhưng không phải dễ phá. Vì những sở tri đã huân tập sâu trong tiềm thức. Một bậc thánh như Khổng Tử, duyên là đệ tử giỏi nhất của mình, mà vẫn không thắng nổi phần sở tri đang mang, khiến khởi cái tưởng sai lầm, thì biết loại Tướng vọng tưởng này rất mạnh ở mỗi người.

Hầu hết chúng sinh đều mắc phải Tướng vọng tưởng này, dù đang là hành giả tu thiền. Sáu căn đối sáu trần, khởi phân biệt, rồi trên phân biệt lại sinh khởi vọng tưởng. Dù không có duyên bên ngoài, thì dòng tương tục bên trong cũng hiện hành liên tục. Niệm này làm duyên cho niệm kia sinh khởi, nối tiếp không ngừng.

Thiền, chính là sáu căn đối sáu trần mà tâm ở trạng thái hiện lượng. Tổ Trúc Lâm nói: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”.

4- Lợi vọng tưởng

Tâm ưa thích tham đắm các loại lợi dưỡng như châu báu, vàng bạc, tiền tài, đất đai… thì gọi là Lợi vọng tưởng. Vọng tưởng này do tài lợi mà xuất hiện, nên gọi là Lợi vọng tưởng. Vì tâm ưa thích tham đắm thuộc tâm, không thuộc cảnh, nên nói “tưởng”. Vì tâm ưa thích tham đắm có thể thay đổi, tức tâm ấy không có chất thật, nên gọi là “vọng”. Như khi chưa tu hành thì ưa thích vòng vàng, hột xoàn. Tu hành rồi thì thích nâu sồng và cháo rau qua ngày.

5- Tự tánh vọng tưởng

Tự tánh vọng tưởng là phân biệt tất cả pháp đều có thể tánh riêng, rồi chấp giữ không bỏ. Kinh nói: “Gìn giữ tự tánh này như thế chẳng đổi khác, gọi là Tự tánh vọng tưởng”. Loại vọng tưởng này xuất hiện do chấp các pháp có tự tánh không thay đổi, nên gọi là Tự tánh vọng tưởng. Các pháp duyên hợp, vốn không tánh cố định, giờ lại cho các pháp có tánh, nên nói “vọng”.

- Cho pháp có tính chất cố định, gọi là Tự tánh vọng tưởng. Như thấy lửa có tính nóng và lấy nóng làm tánh của lửa. Khi lấy nóng làm tánh của lửa cũng có nghĩa là nóng luôn đi kèm với lửa. Có lửa là có nóng. Thực tế thì không như vậy. Như loại lửa lạnh, tuy vẫn có lửa nhưng không còn tính nóng nữa. Cách chấp thủ lửa luôn nóng, được gọi là Tự tánh vọng tưởng.

- Thấy hành vi nhất thời ở một người, rồi lấy hành vi nhất thời đó cho tánh người đó là như vậy, cũng rơi vào loại Tự tánh vọng tưởng nói đây.

Anh là một người đàn ông rộng lượng, tiền bạc đi làm về đều giao hết cho vợ. Nhưng một thời gian sau, thứ mà mọi người thấy được ở anh là anh không giao tiền cho vợ nữa, và bắt đầu tính toán các chi tiêu trong gia đình. Một người không hiểu chuyện đã kết luận anh là người keo bẩn. Thực tế, có chuyện đó là vì người vợ chơi số đề. Tất cả tiền bạc được lấy ra phục vụ cho việc chơi đề. Trong cái duyên như vậy, anh bắt buộc phải nắm tiền bạc và phân bố chi tiêu trong gia đình để tránh tình trạng thất thoát do việc tham đề của vợ sinh ra. Nếu lấy một hiện tượng thấy được trong nhất thời quy kết thành tánh cố định của một người bất chấp nhân duyên, gọi là Tự tánh vọng tưởng.

Nếu có cái nhìn nhân duyên, là biết mọi hình tướng xuất hiện đều có nhân duyên thì chúng ta không vướng vào loại Tự tánh vọng tưởng này.

- Chúng sinh không có tánh cố định, nhưng gắn tánh cố định cho pháp thì gọi là Tự tánh vọng tưởng.

Chúng sinh là một hợp thể có rất nhiều loại chủng tử trong tạng thức. Xấu có, tốt có, không xấu không tốt cũng có. Dù khi còn ở dạng chủng tử trong tạng thức thì nó mang tính vô ký. Nhưng đủ duyên hiện hình thì tốt xấu phân minh.

Chủng tử nào đủ duyên sẽ hiện hành. Đủ duyên, là khi gặp trúng hoàn cảnh, trúng con người v.v… giúp cái chủng đó hiện khởi. Đây là lý do vì sao một người lương thiện vẫn có thể có những hành vi bất thiện. Một kẻ bất thiện có khi vẫn có các hành vi thiện, là do chủng tử ẩn trong tàng thức đủ duyên hiện hành hay chưa. Đó là quy luật hiện hành của tâm. Vấn đề xảy ra là do cái tưởng của mình. Mình hay quy nạp các hiện tướng đang có, rồi lấy các hiện tướng đó làm tánh của các pháp, pháp trở thành luôn là vậy, sai lầm mới xuất hiện.

Cho nên, người tốt với người này không hẳn đã tốt với người kia, người xấu vào lúc này không hẳn đã xấu vào lúc khác, người mình cho là tốt không hẳn đã là người hoàn toàn tốt v.v… Mọi thứ đều tùy duyên. Tùy duyên thì không tánh. Với cái nhìn duyên khởi như thế, chúng ta ít bỡ ngỡ đối với các việc ở thế gian, cũng ít sai lầm khi đánh giá một hiện tượng.

- Chấp thế gian này có thật, rồi đi tìm hạt cơ bản sinh ra thế giới này, tức cho vật chất có cội gốc riêng của nó, cũng thuộc loại Tự tánh vọng tưởng nói đây.

6- Nhân vọng tưởng

Nhân vọng tưởng, là những vọng tưởng có liên quan đến phần nhân duyên. Kinh nói: “Hoặc nhân hoặc duyên phân biệt có không, nên nhân tướng sinh, ấy gọi là nhân vọng tưởng”. Ngài Hàm Thị bàn rằng: “Đối với nhân duyên, khởi phân biệt có nhân tướng, không nhân tướng, nhân này thì duyên này, nhân kia thì duyên kia…”. Nghĩa là, do sự chấp thủ mà cảnh giới vọng tưởng trở thành như thật với chúng sinh. Trên cái như thật ấy lại khởi phân biệt tìm nhân, tìm duyên v.v… khiến vọng tưởng thêm tương tục, sự chấp thủ càng kiên cố.

Nhân duyên hay duyên khởi tuy là thực lý ở thế gian, tức không pháp nào không hình thành và hoại diệt theo duyên, nhưng nếu chấp vào đó cho là thật, thì không thể nào nhận lại được chân thể thanh tịnh. Như mu bàn tay với lòng bàn tay, nếu chỉ nhìn thấy mu bàn tay và cho đó là tất cả bàn tay, thì không còn cơ hội thấy được lòng bàn tay.

Hiện tượng chỉ là mặt biểu hiện của một chân thể thanh tịnh thông qua nhân duyên và nhân quả. Không chấp vào mặt hiện tượng thì mới có khả năng nhận ra mặt chân thể sẵn đủ trong mỗi người. Còn đã chấp vào mặt hiện tượng, tức cho những hiện tướng đó là thật, rồi y đó mà nảy sinh nhân này quả này, nhân kia quả kia v.v… thì rơi vào Nhân vọng tưởng nói đây.

Như hiện nay, nhân duyên nhân quả được ứng dụng khá tốt trong nhiều lãnh vực. Từ trồng trọt, chăn nuôi, pháp luật, giáo dục v.v… Do nắm được mặt nhân duyên này của pháp, nên nảy sinh việc nhân này sẽ cho ra quả này, nhân kia sẽ cho ra quả kia. Thế giới ngày càng phong phú về mặt vật chất thì cũng có nghĩa là vọng tưởng đang trên đà lừng lẫy. Kỹ thuật biến đổi gien trong công nghệ sinh học là một điển hình. Không chỉ dừng ở mặt biến đổi duyên mà phát triển luôn ở mặt biến đổi nhân. Đà phát triển đó chưa biết sẽ đưa nhân loại về đâu với những thứ như sinh sản vô tính v.v…5. Trung luận có phẩm Phá nhân duyên, là phá sự chấp thủ đối với nhân duyên để chúng ta ý thức chấm dứt loại Nhân vọng tưởng này, thể nhập chân thể rốt ráo.

7- Kiến vọng tưởng

Kiến vọng tưởng, chỉ cho những quan điểm rơi vào nhị biên phân biệt. Kinh luận thường đề cập đến Tứ cú “có, không, không có cũng không không, vừa có cũng vừa không” để nói về loại vọng tưởng này. Cho thế giới này là có, như nghiệp thức của chúng sinh. Cho thế giới này là không, như nghiệp thức của kẻ tu loại định vô tưởng... đều là những dạng của Kiến vọng tưởng.

Thô hơn chút là quan điểm sống của chúng ta. Nó được rút ra từ việc quy nạp các kinh nghiệm trong đời sống của mình.

Một người đến đâu, thấy cũng phải có tiền mới được việc ngay cả khi vào chùa, liền hình thành quan niệm “Tiền là tất cả. Chỉ cần có tiền là có tất cả”. Đó là một loại Kiến vọng tưởng, thuộc ác kiến. Sao gọi là ác kiến? Vì nó được hình thành do quy nạp các hiện tượng từ lòng tham của con người, không phát xuất từ lý thật. Một quan niệm như thế sẽ là tiền đề cho các ác nghiệp về sau, nên gọi là ác kiến.

Người có cái nhìn tương ưng với lý thật ở thế gian thì biết phước và trí mới là cái quyết định tất cả. Hình thành nên cái thấy như vậy cũng là một loại Kiến vọng tưởng, nhưng loại vọng tưởng này thuộc thiện kiến. Vì nó tương ưng với lý chân thật, và là tiền đề giúp người hành thiện trong hiện tại và tương lai.

Người nông dân, có cái nhìn của người nông dân. Người tri thức, có cái nhìn của người tri thức v.v... Tất cả đều bắt nguồn từ việc huân tập học hỏi và kinh nghiệm trong quá khứ.

Tất cả đều do huân tập chấp thủ mà có, không có chất thật, không huân tập nữa thì mất, nên nói vọng tưởng.

Hệ quả là…

1- Sản sinh ra nhiều cái thấy khác nhau. Do loại Kiến vọng tưởng này mà trên cùng một hiện tượng, lại có nhiều cái nhìn khác nhau. Người thấy thế này, kẻ thấy thế kia.

Các tự viện hay thiền thất ở Nhật Bản thường có lệ là thiền khách nào muốn qua đêm tại đó thì phải đủ trí thắng được thiền chủ. Trong một thiền thất kia có hai vị, sư huynh là người có trí tuệ, nhưng sư đệ thì căn tánh không được lanh lợi, lại bị chột một mắt. Vì vậy, ông ít khi ra ngoài tiếp khách, chỉ loanh quanh trong bếp trong vườn là chính.

Một lần, sư huynh vừa ra khỏi cửa thì có một thiền khách đến vấn thiền. Lão đệ dù muốn hay không cũng phải tiếp khách. Biết mình không có trí, nên chủ trương dùng tay nói chuyện là chính.

Thiền khách vừa ngồi xuống liền đưa một ngón tay lên.

Sư đệ thấy vậy, đưa lên hai ngón.

Thiền khách liền đưa lên ba ngón.

Sư đệ nắm tay lại đấm vào mặt thiền khách.

Thiền khách lập tức đứng dậy bỏ đi.

Ra đến cổng, thiền khách gặp vị sư huynh. Ông báo là mình đã thua cuộc và không ngớt lời khen vị sư đệ.

Sư huynh hỏi việc, thiền khách trả lời: “Tôi đưa một ngón tay lên, ý nói Đức Phật độc tôn. Sư đệ thầy thấy vậy liền đưa ra hai ngón tay, ý nói ngoài Phật còn có pháp. Tôi liền đưa ba ngón tay, muốn nói ngoài Phật và Pháp còn có hàng đệ tử Phật. Sư đệ thầy thấy vậy liền đấm vào mặt tôi, muốn nói rằng cả ba đều khởi từ nhất thể. Tôi thua nên đứng dậy đi”. Sư huynh nghe xong, bước vào thiền thất.

Vừa vào thiền thất đã thấy sư đệ chạy tới, bực bội: “Lúc nãy có một thầy dở hơi hết sức. Vừa ngồi xuống đã chế giễu việc chột mắt của đệ. Nhưng đệ nhịn, vẫn đưa ra hai ngón tay, ý muốn nói thầy có phước nên đủ hai mắt. Không ngờ thầy ta vẫn không buông tha đệ, đưa ra ba ngón tay muốn nhấn mạnh dù có thầy đi nữa thì cộng lại cũng chỉ mới ba. Đệ tức quá tính đấm vào mặt thầy thì thầy đã đứng dậy bỏ đi”6.

Đồng căn đồng khí thì thấy như nhau. Không đồng căn đồng khí thì thấy khác nhau. Thế gian này trở thành muôn màu muôn vẻ là vậy.

2- Nhìn sự vật không còn đúng như chính nó. Người đời thường nói: “Kẻ mất búa nhìn đâu cũng thấy người trộm búa”. Chúng ta thường nhìn thế giới qua lăng kính của chính mình, ít nhìn thế giới đúng như chính nó. Kiến vọng tưởng chính là thứ trợ duyên đắc lực cho Tướng vọng tưởng.

Tô Đông Pha là bạn của Thiền sư Phật Ấn. Một lần Tô Đông Pha hỏi Thiền sư Phật Ấn:

- Thầy thấy tôi ngồi thiền thế nào.

Phật Ấn trả lời:

- Như Phật.

Phật Ấn hỏi ngược lại.

- Ông thấy tôi ngồi thiền thế nào?

Tô Đông Pha trả lời:

- Như đống phân bò.

Trả lời xong, hý hửng mang về khoe với em gái mình.

Tô tiểu muội là người am hiểu thiền pháp, lắc đầu trả lời:

- Tâm thầy như tâm Phật thành nhìn anh ngồi như Phật. Tâm anh như đống phân bò nên nhìn thầy ngồi như đống phân bò.

Câu chuyện cho thấy phần Kiến vọng tưởng trong mỗi người ảnh hưởng đến cảnh như thế nào.

3- Quyết định nghiệp mệnh của con người. Kiến vọng tưởng tuy chỉ là một loại vọng tưởng, nhưng nó lại là thứ có thể quyết định hạnh phúc hay đau khổ của một con người khi chưa đạt quả vị thánh. Triết gia Schopenhauer có một ví dụ khá lý thú cho loại Kiến vọng tưởng này. “Một con khỉ nhìn vào gương, không mong gì có một thiên thần nhìn ra”7. Nó nói lên tầm quan trọng của loại Kiến vọng tưởng đối với nghiệp mệnh của một con người.

Vì ý nghiệp là chủ của thân hành và khẩu hành nên khi ta có những tư kiến phù hợp với chân lý, cuộc sống của ta hạnh phúc. Nếu có những tư kiến đi ngược với chân lý, rơi vào tham-sân-si, cuộc sống của ta sẽ đau khổ. Thành ra, muốn chuyển đau khổ thành hạnh phúc thì phải chuyển cho được loại Kiến vọng tưởng này. Tư kiến chưa chuyển thì khó mà nghiệp mệnh chuyển được. Vì thế, trong Bát chánh đạo, chánh kiến đứng đầu. Đó là việc đầu tiên cần trang bị cho hành trình học đạo của một hành giả tu Phật.

Song dù là cái thấy nào, tương hợp hay không tương hợp với chân lý, thì đối với tự tâm thanh tịnh cũng đều là hư vọng, chỉ do chấp cảnh mà hình thành. Vì thế, muốn thể nhập chân tâm thường trụ thì phải dứt sạch tất cả các loại kiến. Trung đạo là con đường duy nhất thể nhập Đại đạo mà ai cũng phải qua. Chỉ khi ấy, chúng ta mới có khả năng nhìn thế giới này đúng như bản chất của nó.

8- Thành vọng tưởng

Kinh nói: “Tưởng ngã và sở tạo thành luận quyết định, ấy gọi là Thành vọng tưởng”. Là muốn nói đến những luận cứ hay học thuyết mang tính quyết định. Ngã là chỉ cho năng tạo. Sở tạo là chỉ cho các học thuyết mang tính quyết định ấy. Đã nói ngã thì luận thuyết ấy thường mang tính chủ quan. Từ cái chủ quan ấy mà tạo ra các học thuyết thì học thuyết ấy không tránh được sai lầm, nên nói “vọng tưởng”. Như Newton, từng cho rằng không gian là một thực thể độc lập, thời gian cũng là một thực thể độc lập. Nhưng hiện nay, với cái nhìn của Einstein, nó không như vậy nữa.

Kinh luận của Phật giáo không mang tính quyết định mà mang tính tùy duyên. Chỉ là ứng cơ mà hiện, như gặp bệnh cho thuốc. Bệnh hết thuốc cũng bỏ. Bệnh này thì thuốc này. Bệnh kia thì thuốc kia. Vì bệnh của chúng sinh vô biên nên kinh luận trở thành vô số. Đều do ứng cơ mà lập. Lập là tùy duyên, không mang tính quyết định. Cho nên trong kinh Lăng-già, Phật nói: “Tất cả pháp chẳng sinh. Bồ-tát chẳng nên lập tông ấy”. Tất cả pháp chẳng sinh là việc mà ba đời Như Lai đều nói đến, nhưng Phật không cho lập tông. Vì đó là lời nói ứng cho kẻ bất giác, không phải ứng cho kẻ giác. Chỉ vì muốn chúng sinh lìa các chấp trước nên nói tất cả pháp không sinh. Nếu lập tông chẳng sinh thì sẽ vọng thấy tướng sinh v.v…8.

Một học thuyết, dù có giá trị phục vụ nhân sinh trong hiện tại, cũng chỉ là pháp tùy duyên. Vì bản chất các pháp ở thế giới này là vậy. Tùy duyên, nên nó có thể mang lại lợi ích cho nhân sinh vào lúc này mà chưa hẳn đã mang lại lợi ích cho nhân sinh vào lúc khác. Hiểu được tính duyên khởi này của pháp thì chúng ta sẽ không có tư tưởng cố định trong việc dùng pháp. Nhưng dù là quyết định hay không quyết định thì bản chất của các luận thuyết đều là hư vọng. Phật pháp nếu chấp trước còn được gọi là Sở thuyết sự vọng tưởng, huống là các học thuyết ở đời mà đôi khi chỉ mang tính giả thuyết.

9- Sinh vọng tưởng

Đây là chỗ chấp của ngoại đạo. Cho là tất cả pháp, có hay không đều là duyên sinh, nhưng duyên có thì hiện, duyên không thì không, không có nhân quả. Cái chấp này là một loại vọng tưởng, vì nó trái với lý thật chi phối thế giới này. Do chấp vào tướng sinh của các pháp mà hình thành, nên nói Sinh vọng tưởng.

10- Bất sinh vọng tưởng

Hàng ngoại đạo này cho rằng “Tất cả tánh vốn không sinh, không có chủng tử nhân duyên, thể sinh là vô nhân”. Ngài Hàm Thị giải thích như vầy: “Tất cả pháp không có nhân sinh, không do duyên khởi, như cò nhất định trắng, quạ nhất định đen, bỗng nhiên mà hiện, không có tánh sinh”. Tức cho pháp nào có tánh nhất định của pháp đó, không có sự thay đổi, không do nhân duyên mà thành. Cái nhìn này, đối với thời đại bây giờ, không phải là cái nhìn chính xác. Bởi thời này, không giải quyết nào không đặt nền tảng trên nhân và duyên. Thứ gì cũng có khả năng thay đổi được. Ngành công nghệ sinh học hiện nay, không chỉ thay đổi duyên để quả được sai khác, mà còn có thể tác động trực tiếp vào nhân để thay đổi quả theo chiều hướng mong muốn của họ.

Luận sâu hơn, nếu không có chủng tử nhân duyên thì do đâu từ cái “vốn không sinh” đó lại có thể sinh ra vô vàn thế giới như hiện nay? Nếu không có nhân duyên thì dựa vào đâu để giải thích sự sai biệt ở loài người cho đến muôn vật trong thế giới này? Và nếu không có sự thay đổi thì phàm phu không thể thành thánh nhân, từ chỗ sinh khởi như hiện nay không thể một lần trở về chỗ “vốn không sinh” để rồi chấp trước vào đó, mà lập thành loại vọng tưởng bất sinh này. Cho nên, sinh hay không sinh là cái thấy tùy duyên, không thể lập tông. Thấy thì không lỗi mà lỗi ở chỗ lập tông. Lập tông thì tướng tùy duyên không thật liền thành chân thật. Nhưng chỗ chân thật thì không thuộc sinh cũng không thuộc bất sinh, lìa tứ cú, tuyệt bách phi.

11- Tương tục vọng tưởng

Kinh nói: “Tương tục vọng tưởng là kia đồng tương tục, như kim với chỉ, ấy gọi là tương tục vọng tưởng”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Tất cả pháp do hòa hợp mà thành. Như không và sắc, như bình và đất với nước. Bởi lệ thuộc bởi nhau mà thành tất cả pháp”. Là nói đến tính duyên khởi của pháp. Do duyên khởi mà có tương tục. Đây là cái nhìn không trái với chân lý. Nhưng nếu chấp vào đó cho là chân lý thì Phật gọi là Tương tục vọng tưởng, là loại vọng tưởng được hình thành do chấp vào mặt tương tục của pháp mà ra. Cái tương tục ấy, chỉ là mặt hiện tượng của một tánh thể không. Chính vì thể ấy không, mới cho phép các pháp theo duyên mà hiển tướng tương tục.

12- Buộc không buộc vọng tưởng

Kinh nói: “Chấp trước nhân duyên buộc cùng không buộc như sĩ phu dùng phương tiện hoặc buộc hoặc mở, ấy gọi là buộc không buộc vọng tưởng”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Có năng buộc thì có sở buộc. Buộc hay mở là do ta. Sức chấp phương tiện mà sinh phân biệt”. Phương tiện lập nên là tùy căn cơ chúng sinh. Có buộc thì mới có giải. Không buộc thì cũng không giải. Tức phương tiện không có chất thật, chỉ tùy duyên mà hiển, hết duyên liền không.

Trong việc tu hành, có hành giả cần đến phương tiện mà có hành giả không cần đến phương tiện. Không cần mà dùng thì liền thành trói buộc. Như Trúc Lâm Đại Đầu Đà hỏi Tuệ Trung thượng sĩ về việc nhẫn nhục và giữ giới. Tuệ Trung thượng sĩ trả lời: “Giữ giới cùng nhẫn nhục, chiêu tội chẳng chiêu phước…”. Không phải ai tu hành cũng đều phải nhẫn nhục và giữ giới. Với người tham sân còn nhiều thì cần phương tiện nhẫn nhục và giữ giới. Nhưng với người mà nhẫn nhục và giữ giới đã thuần, tham sân không cần đối trị nữa, mà cứ duy trì hai pháp đó thì như đi thuyền, muốn lên bờ mà vác thuyền theo, không thể nào lên bờ. Tâm chân thật vô trụ, còn trụ pháp nào thì còn tự buộc mình vào pháp ấy, không thể nhập chỗ vô trụ được. Cho nên đối với phương tiện mà chấp thì Phật gọi là Buộc không buộc vọng tưởng.

Kết luận

Trên đây là 12 loại vọng tưởng được nói trong kinh Lăng-già. Người vô trí không biết nên theo đó mà chấp trước. Kẻ có trí thì hiểu đó mà trừ đoạn. Kinh nói: “Người giác tự tâm hiện chẳng nên ở đó mà khởi tưởng có, không, khác, chẳng khác…”. Đại sư Hàm Thị bàn rằng: “Mê duyên khởi thì thành Biến kế. Đạt Duyên khởi tức là Viên thành”. Cùng là Y tha khởi, chỉ do mê và ngộ mà thành khác đường. Mê thì thành Biến kế. Ngộ thì hay Viên thành.

Chân Hiền Tâm

_______________

(1) Kinh Lăng-già tâm ấn. Đại sư Hàm Thị trực giải. HT.Thanh Từ dịch và chú.

(2) Kinh Lăng-già tâm ấn. Đại sư Hàm Thị trực giải. HT.Thanh Từ dịch và chú.

(3) Hương Nghiêm Trí Nhàn. Thiền sư Trung Hoa tập II. HT.Thanh Từ soạn dịch.

(4) Kinh Angulimala - kinh Trung bộ tập II.

(5) Francis Fukuyama. Tương lai hậu nhân loại. Hà Hải Châu biên dịch.

(6) Tranh biện để được tạm trú - 101 câu chuyện thiền (Góp nhặt cát đá - Thiền sư Vô Trú). Trần Trúc Lâm Việt dịch.

(7) Schopenhauer. Câu chuyện triết học. Bửu Đích và Trí Hải biên dịch.

(8) Lời trực giải của Đại sư Hàm Thị trong Lăng-già tâm ấn. HT.Thanh Từ dịch và chú.

Lộ trình thành đạo của Bồ-tát Siddhartha

Lộ trình thành đạo của Bồ-tát Siddhartha

Đăng lúc: 02:56 - 02/01/2017

Đêm Bồ-tát Siddhartha vượt thành xuất gia, cả hoàng thành Kapilavatthu chìm trong im ắng và hoang lạnh. Không khí chia ly buồn thương man mác như bao trùm khắp các ngã đường của kinh thành mỗi nơi Ngài đi qua. Bồ-tát Siddhartha cảm nhận rất rõ ràng dù Ngài không hề ngoái lại.


Siddhartha quyết tâm ra đi với tất cả nhiệt huyết của tuổi xuân, quyết tìm ra chân lý để giải quyết vấn đề khổ đau sinh tử cho mình và cho cả muôn loài.
Lộ trình thành đạo của Bồ-tát Siddhartha
Lộ trình thành đạo của Bồ-tát Siddhartha
Sau khi vượt sông Anomà, Siddhartha cởi hoàng bào, cắt tóc trao cho Channa đem về trình báo phụ hoàng, tạm biệt người hầu cận trung thành và ngựa Kanthaka yêu quý, Ngài nhắm rừng xanh thẳng tiến. Người thanh niên, vị đông cung thái tử đã để lại phía sau tất cả dư âm của một đời sống vương giả, hiện thân làm đạo sĩ lang thang trong rừng xanh núi thẳm, với lộ trình phía trước dường như vô định, chưa biết về đâu.

Năm năm tầm sư học đạo, bấy giờ Bồ-tát còn được gọi là đạo sĩ Gotama đã gặp hai vị thầy nổi tiếng đương thời, đó là Alàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta. Tại đạo tràng của đạo sư Alàra Kàlàma, Bồ-tát Siddhartha đã chứng được Vô sở hữu xứ, một thiền chứng thâm sâu thuộc tầng thứ ba của Tứ không định. Đạo sĩ Gotama được mời ở lại để lãnh đạo, dẫn dắt đồ chúng nhưng Ngài thấy rằng: “Giáo lý này không dẫn đến buông xả, không tận diệt ái dục, không dẫn đến chấm dứt, không dẫn đến thanh bình an lạc, trực chứng, giác ngộ và Niết Bàn” nên từ giả ra đi.

Rời Alàra Kàlàma, Bồ-tát lần tìm đến với đạo sư Uddaka Ràmaputta. Tại đây, đạo sĩ Gotama đã chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thiền chứng cao nhất trong tam giới và trong tất cả các đạo sĩ đương thời. Uddaka Ràmaputta cũng thỉnh cầu đạo sĩ Gotama ở lại lãnh đạo đồ chúng nhưng Bồ-tát vẫn thấy rằng thiền chứng này tuy rất thậm thâm nhưng vẫn chưa đạt đến giác ngộ và Niết-bàn, nên giả từ ra đi.

Với thời gian dài đến năm năm, tuy không đạt được giác ngộ tối hậu nhưng Bồ-tát Siddhartha đã thành tựu kinh nghiệm về thiền định, nhất là thiền Chỉ với các thiền chứng của Tứ không định rất sâu xa, tịch tịnh. Lúc rời xa vị thầy Uddaka Ràmaputta danh tiếng nhất, kỳ thật Bồ-tát cũng không biết phải nương tựa vào ai. Trong tận cùng của niềm cô độc, tiếng gọi khổ hạnh bỗng trở nên réo rắt gọi mời. Trong tín niệm đương thời, các đạo sĩ luôn đề cao khổ hạnh, xem đó là cửa ngõ duy nhất để diệt trừ tất cả tội lỗi cũng như phiền não, mở toang cánh cửa u tối vô minh, thành tựu giải thoát tối hậu.
Những khu rừng xanh tốt và thâm u xứ Uruvela là thánh địa của những đạo sĩ khổ hạnh. Đạo sĩ Gotama tìm đến để thực hành khổ hạnh cùng với năm người bạn đồng tu, nhóm đạo sĩ Kondanna. Thêm sáu năm trường khổ ải, đạo sĩ Gotama đã tận lực đi theo con đường khổ hạnh, tự đọa đày. Ngài tinh tấn đến độ vượt thắng tất cả mọi hình thức khổ hạnh của các đạo sĩ đương thời, có thể nói là bậc đệ nhất khổ hạnh và đỉnh cao là ngấp nghé bờ vực của sự tự hủy diệt. Trong tình trạng sắp đối diện với cái chết, đạo sĩ Gotama chợt nhận ra rằng: Khổ hạnh không đưa đến giác ngộ. Đời sống vương giả của bậc đế vương hưởng thọ dục lạc là chìm đắm trong sanh tử thì đã đành nhưng đời sống khổ hạnh đến tận cùng cũng chỉ làm thân thể suy kiệt, tinh thần héo úa và nhất là bế tắc trong việc khai mở tuệ giác, chỉ phí công vô ích mà thôi.

Bồ-tát Siddhartha tiếp tục trầm tư về con đường đưa đến giác ngộ. Có một đạo lộ nào khác nữa chăng? Nhớ đến thời thơ ấu, trong buổi lễ hạ điền Ngài đã thể nhập Sơ thiền, một trạng thái hỉ lạc do ly dục sanh. Một ý tưởng sáng chói chợt hiện ra nơi Ngài là hướng nội và xả ly. Đạo sĩ Gotama liền quyết định từ bỏ khổ hạnh, thọ dụng bát sữa của Sujata, tắm rửa ở dòng sông Neranjara, bắt đầu một phương pháp thực tập hướng nội theo tinh thần Trung đạo, tránh xa hai cực đoan. Sau khi sức khỏe được hồi phục, tinh thần minh mẫn, định tỉnh trở lại, Bồ-tát Siddhartha đến cội bồ-đề hạ quyết tâm thiền định.
Trong lúc Bồ-tát phát đại nguyện dù thịt nát xương tan, nếu chưa giác ngộ thì không rời khỏi cội bồ-đề thì nhóm đạo sĩ Kondanna từ bỏ Ngài ra đi. Họ khinh ghét Ngài vì đã thối thất, không đi đến tận cùng con đường khổ hạnh. Còn lại một mình trong rừng thiêng nước độc, bốn bề hoang lạnh, đối diện với vô vàn hiểm nguy, Bồ-tát thể nhập thiền định với quyết tâm sắt đá, ý chí kim cương. 49 ngày đêm tọa thiền dưới cội bồ-đề là cuộc chiến hàng phục nội ma và ngoại chướng vô cùng cam go và cuối cùng Ngài đã chiến thắng.

Trong đêm cuối cùng, trước khi tuệ giác bùng vỡ, kinh sách ghi rằng Bồ-tát hướng đến giác ngộ tối hậu bằng cách tuần tự nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Trên nền tảng Tứ thiền, Bồ-tát vận dụng “tâm định tỉnh, thanh tịnh, không còn ô nhiễm, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, dễ xử dụng, giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển”, hướng tâm ấy về tuệ giác “Hồi nhớ những kiếp sống quá khứ”. Ngài liền nhớ lại nhiều kiếp sống quá khứ với đầy đủ các chi tiết. Ðó là tuệ giác đầu tiên, Túc mạng minh, Bồ-tát Siddhartha chứng ngộ vào lúc canh Đầu, đêm Thành đạo.
Tuệ giác và tịnh lạc đã phát sanh, nhưng Bồ-tát vẫn giữ chánh niệm, tự giác tỉnh, tiếp tục hướng tâm ấy về “Sự hiểu biết hiện tượng sanh và diệt của chúng sanh”. Ngài thấy rõ chính hành vi tạo tác của mỗi người là tác nhân đưa họ sanh tử luân hồi trôi lăn trong ba cõi. Bồ-tát chứng Thiên nhãn minh, tuệ giác thứ hai vào canh Giữa, đêm Thành đạo.
Ngài tiếp tục hướng tâm ấy đến “Tuệ hiểu biết sự chấm dứt các lậu hoặc”. Vào canh Cuối của đêm Thành đạo, lúc sao Mai vừa mọc, Bồ-tát chứng được Lậu tận minh. Màn đêm tăm tối của dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu đã bị phá tan và trí tuệ bùng phát. Ngài biết rằng: “Ta đã được giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại đời này nữa”. Ngài chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đây, Ngài được tôn xưng là Đức Phật với mười danh hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.
Trải qua vô lượng kiếp hành Bồ-tát đạo, và trong kiếp hiện tại Bồ-tát Siddhartha cũng phải bao phen khó nhọc, dám hy sinh cả thân mạng mới có ngày huy hoàng, thành Bậc Giác Ngộ, Thế Tôn, Phật Thích Ca Mâu Ni dưới cội bồ-đề.
Có thể xem Tam minh (Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh) là nội dung chứng ngộ của Bồ-tát Siddhartha trong đêm Thành đạo. Tam minh là tuệ giác của thiền Quán được Đức Phật phát triển và thành tựu dựa trên nền tảng thiền Chỉ của Tứ thiền. Chính sự khám phá này của Thế Tôn, về sau đã trở thành nguyên tắc cơ bản cho sự tu tập và thăng chứng của các Tỷ-kheo đệ tử.

Kinh Đại Sư Tử Hống (Trung Bộ I) tóm tắt lộ trình tu tập của vị Tỷ-kheo bằng cách chứng nhập từ Sơ thiền đến Tứ thiền, rồi từ Tứ thiền chuyên tâm tu tập thiền Quán vô ngã, vô thường, loại trừ mười kiết sử để lần lượt chứng đắc bốn Thánh quả và đạt Niết-bàn tối hậu.

Có một đạo lộ khác để thành tựu giác ngộ là từ Tứ thiền, hành giả tiếp tục đi sâu vào Tứ không định. Tuy nhiên, Thế Tôn thường cảnh tỉnh phải xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ để nhập cảnh giới Diệt thọ tưởng định trước khi vào Niết-bàn tối hậu. Tốt nhất là nên dừng lại ở Vô sở hữu xứ, rồi tu tập Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) để băng đến Diệt thọ tưởng định trước khi vào Niết-bàn tối hậu (Thích Chơn Thiện, Tăng già thời Đức Phật, tr.229).
Như vậy, dù Bồ-tát Siddhartha đã trải qua vô lượng kiếp tu tập Bồ-tát đạo, mang trong mình năng lực và bản nguyện của vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ nhưng nội dung tu tập và chứng ngộ của Ngài thật cụ thể, rõ ràng mà hàng đệ tử hậu thế có thể lần theo dấu xưa để thành tựu Thánh quả A-la-hán.
Mặt khác, Tứ thiền và Tứ không định tuy là những thiền chứng của ngoại đạo hoặc là những dạng thức thiền Chỉ, theo Phật giáo, nhưng có vai trò rất quan trọng, làm nền tảng cho thiền Quán để phát huy tuệ giác nhằm thành tựu giải thoát, chứng đắc Niết-bàn.
Chính thiền Quán với tuệ minh sát có năng lực soi chiếu phá tan si ám về tự ngã, thường hằng để thấu triệt sự thật vô ngã, vô thường của vạn pháp đồng thời làm sụp đổ những kiết sử căn bản vốn là thành trì của sanh tử luân hồi nhằm chứng đạt giải thoát tối hậu, chính là phát kiến vĩ đại của Bồ-tát Siddhartha.
Nếu không có phát kiến thiền Quán thì Bồ-tát Siddhartha không thể thành đạo, thành Phật cũng như không có đạo Phật ở thế gian này.

Cho nên, Phật không thành đạo mà chỉ có Bồ-tát Siddhartha thành đạo. Và thiền định Chỉ-Quán từ ngàn xưa cho đến ngàn sau vẫn là tinh túy, cốt tủy của pháp hành trong Phật giáo có tác dụng chuyển hóa, đưa hành giả từ phàm phu lên Thánh vị.


Quảng Tánh / Phật học đời sống

Làm sao gỡ dính mắc?

Làm sao gỡ dính mắc?

Đăng lúc: 22:59 - 18/12/2016

Trong lúc gửi đi một cái email nhẹ nhàng không có file đính kèm, tôi chợt nhớ - và gần như đó là phút giây giác ngộ tức thì - về quan điểm không dính mắc trong đạo Phật.

godinhmac.jpg
Chúng ta bị dính mắc nhiều thứ thuộc về năm món dục của thế gian
(danh, sắc, tài, thực - ăn uống, thùy - ngủ nghỉ), nên cần quán niệm để gỡ dần - Ảnh minh họa

Có một ngày nọ, vì rơi vào cao điểm của công việc, tôi phải xử lý mấy chục cái email quan trọng, mà cái nào cũng có rất nhiều thông tin hình ảnh gửi qua file đính kèm (attachment). Đó lại là khoảng thời gian mạng bị hư suốt, chập chờn lúc được lúc không, còn tài liệu thì cái nào cũng gấp. Chúng tôi tìm mọi cách để chuyển các file đính kèm đi, các bên than phiền nhau, không ai hài lòng về nhau… Đối với những việc tối quan trọng hay đối tác lớn, tôi phải cử người chạy đến trực tiếp đưa cái ổ đĩa cứng vì không thể gửi chúng qua internet.
Suốt một ngày cả văn phòng phải tập trung toàn bộ tâm trí vào cái tài liệu đến nỗi vào cuối ngày, không ai nói với ai một lời, vẻ mặt mệt mỏi gần như nhau. Tôi rời văn phòng trong trạng thái đờ đẫn, đầu óc cứ chập chờn hình ảnh tài liệu…

Ngày hôm sau, khi mọi việc được giải quyết ổn thỏa, tôi không còn phải gửi gì qua lại cho đối tác nữa. Email lúc này chỉ đơn giản gọn nhẹ vài dòng. Trong lúc gửi đi một cái email nhẹ nhàng không attachment, tôi chợt nhớ - và gần như đó là phút giây giác ngộ tức thì - về quan điểm không dính mắc (non-attachment) trong đạo Phật.

Rõ ràng, gửi một cái email không có file đính kèm thì bao giờ cũng nhanh gọn hơn là có file đính kèm. Cuộc sống cũng không khác gì về điều này.

Chúng ta dính mắc vào quá nhiều thứ trong cuộc sống, đó là điều tất yếu không thể tránh khỏi. Vì sống là tương quan giao tế giữa nhiều mối quan hệ trong cộng đồng. Các nhu cầu sống, dù cơ bản hay nâng cao, thì đều có những thứ ta cần đến không bao giờ dứt được.

Chúng ta dính mắc vào internet. Không có internet một ngày, chúng ta cuống cuồng lên, loay hoay trong mớ thông tin ứ đọng. Internet đã mang đến cho con người sự thuận tiện thì cũng giam con người trong chính cái lồng tưởng rộng lớn của nó. Một ngày không có internet, văn phòng loạn xạ, công việc ngưng trệ, con người cau có với nhau. Ai cũng sẵn sàng nói những lời bực dọc.

Chúng ta dính mắc các tiêu dùng. Cô bạn thân của tôi có thói quen chỉ mua giày và túi xách hàng hiệu. Thời hoàng kim, thu nhập tốt giúp cô thỏa mãn việc bất cứ lúc nào cô cũng có thể mua những món đồ trong cửa hiệu sang trọng. Thói quen này còn đưa đến cho cô ấy một tính cách khá kỳ cục, là nếu cô thấy ai mang giày và túi xách mà không phải hàng hiệu, thì cô sẽ nhìn họ cười nhẹ, hoặc tỏ ra chê bai. Cho đến một ngày, cô thất nghiệp và ly hôn, hai thứ đó đến một lúc và kéo dài cả năm trời. Thời gian đầu, cô không chấp nhận nổi điều đó. Cô than thở, cô khóc lóc thường xuyên. Có lần tôi còn thấy cô điên cuồng đi mua sắm để thể hiện đẳng cấp của mình, bởi cô không muốn ai nhìn thấy mình trong bộ dạng thất bại. Nhưng cuộc sống có những dòng chảy riêng không theo ý mình. Khi những đồng tiền để dành đã cạn, cô giật mình trở về thực tại. Cô ru rú ở nhà một mình không gặp ai, bạn bè rủ đi chơi cô đều từ chối, vì lý do, nếu đi mà không mua sắm đúng đẳng cấp thì mất thể diện lắm.

Chúng ta dính mắc vào ái tình. Anh bạn thân của tôi từ bé, rất tốt tính, chơi với bạn bè thoải mái phóng khoáng không chê trách điều gì. Anh ấy đã có gia đình đầm ấm nhưng vẫn có thói quen có tình nhân bên ngoài. Vì tôi là bạn thân từ bé nên anh ấy rất hay kể lể. Có đôi khi đi chơi với tình nhân về, nỗi ân hận lên ngôi lại gọi tôi ra cà-phê để chia sẻ như hai thằng đàn ông. Anh ta khẳng định rằng anh ta không hề thấy hạnh phúc thực sự khi ngoại tình, nhất là khi bước vào nhà đối diện với các con. Nhưng anh ta bảo rằng những cuộc tình như vậy nó dính vào người anh không thể dứt, chúng giúp anh giải tỏa những căng thẳng từ gia đình và công việc một cách tạm thời. Những lúc tỉnh táo, anh cũng biết là mình đang sai, nhưng cái cảm xúc thú vị của những cuộc tình bên ngoài làm anh không thể dứt ra.

Cũng một người bạn khác của tôi, giữ một vị trí rất lớn trong một tập đoàn đa quốc gia. Cô ấy làm việc một ngày hơn 16 tiếng đồng hồ trong suốt 10 năm liên tục như thế. Cô ấy bị bệnh đau dạ dày nặng và thoát vị đĩa đệm. Tôi đã khuyên cô ấy rất nhiều lần rằng cần phải nghỉ ngơi để bảo vệ sức khỏe, thứ quý giá nhất của bản thân. Cô ấy bỏ ngoài tai mọi lời khuyên cho đến ngày cô ấy không thể ngồi dậy được nữa, phải nằm một chỗ. Trong lúc nằm cô ấy vẫn nghĩ đến núi công việc và cứ bị nỗi ám ảnh là nếu mình nằm như thế quá lâu thì vị trí của cô sẽ bị thay thế. Quyền lực là một nỗi đam mê rất lớn trong đời sống này.

Một vài ví dụ để thấy rằng khi ta dính mắc vào một điều gì nào đó, thì chính là nỗi khổ đang ôm lấy ta. Có người nhận ra mình đang khổ, có người không nhận ra. Từ khi sinh ra cho đến khi mất đi, ta sẽ vướng vào vô số dính mắc, mà nếu không nhìn thấy ánh sáng thì ta sẽ đi như vậy cho đến lúc ta đi đến chỗ không thể quay đầu.

Làm thế nào để gỡ dính mắc? Hãy bắt đầu từ những bước nhỏ nhất, cụ thể với 3 điều sau:

• Quán vô thường: Vạn vật vô thường và ta cũng không ngoại lệ. Ta và những cái chung quanh ta đều sẽ thay đổi theo thời gian. Đừng để cảm xúc và tâm trí của bản thân trú ngụ hoàn toàn vào một điều nào đó. Trong lúc đang vui hay đau khổ, hãy nhớ rằng những việc đó rồi sẽ có lúc thay đổi. Chuẩn bị tâm thế đó giúp ta sớm nhìn thấy những tia sáng đầu tiên của việc thoát khỏi dính mắc.

• Quán vô dục: Hãy nhìn sâu vào những nhu cầu, những cơn thèm khát của bản thân từ mọi phía, từ vật chất đến tình cảm, để thấy rằng chúng có hai mặt, một mặt tươi đẹp mà mắt thường và tâm vô minh sẽ dễ thấy. Và một mặt khác, sâu hơn, đó là những khổ đau do chúng mang lại, mặt này khó thấy hơn. Ngạn ngữ Pháp có câu đơn giản: Cái gì nhiều quá cũng không tốt (tout excès est mauvais). Hiểu vậy để thấy biết đủ với mọi nhu cầu. Khởi đầu của biết đủ là khởi đầu của hành trình thoát khỏi dính mắc.

• Quán hơi thở: Quan sát hơi thở để thấy rằng, đó là nguồn sống, là gia tài cốt lõi của bạn. Nhờ có hơi thở mà bạn biết bạn đang hiện diện ở đây, trong cuộc đời này. Không có hơi thở, những dính mắc cũng chỉ là những hạt bụi bay giữa luân hồi.
Xuân Phượng

Có nên cho trẻ nhỏ quy y?

Có nên cho trẻ nhỏ quy y?

Đăng lúc: 05:33 - 20/07/2016

HỎI: Hiện tôi thấy nhiều bậc cha mẹ cho con cái quy y Tam bảo rất sớm, mới 1 hoặc 2 tuổi đã quy y. Tôi nghĩ, người quy y Tam bảo thì phải hiểu ý nghĩa quy y, phải hiểu về ngũ giới, mà trẻ em làm sao hiểu được điều đó? Và những bé quy y từ nhỏ, khi lớn lên hiểu biết về quy y Tam bảo cùng ngũ giới thì có cần quy y và phát nguyện giữ giới lại không?

(PHẠM LONG, long_p97@yahoo.com.vn)

- Quy y mà không thọ giới được không?
- Quy y một lần là đủ
- Mẫu phái quy y Tam-bảo
ĐÁP: Bạn Phạm Long thân mến!
Vấn đề quy y Tam bảo cho trẻ nhỏ, thậm chí khi còn trong thai đã có từ thời Đức Phật. Kinh Trung bộ II (kinh Vương tử Bồ-đề, số 85) đã ghi lại chi tiết vấn đề này.

Theo kinh văn, lúc Thế Tôn sống giữa dân chúng Bhagga, tại Sunsumaragira, rừng Bhesakala, vườn Lộc Uyển. Bấy giờ, vương tử Bồ-đề (Bodhi) có một ngôi lâu đài tên Kokanada dựng lên không bao lâu và chưa được một Sa-môn, một Bà-la-môn hay một hạng người nào ở cả. Rồi vương tử Bodhi gọi thanh niên Sanjikaputta đi đến chỗ Thế Tôn, mời Ngài ngày mai dùng cơm cùng với chúng Tỷ-kheo tại lâu đài Kokanada.

Thế Tôn nhận lời và ngày mai đi đến lâu đài của vương tử Bồ-đề thọ trai. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, vương tử Bồ-đề đã nói: “Ôi, thật là Phật! Ôi, thật là Pháp! Ôi, thật là khéo thuyết pháp thay!” nhưng vương tử không nói thêm “Tôi quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng” như thông thường đối với những người khác.

Thanh niên Sanjikaputta đã nhắc lại điều này, nhân đó, vương tử Bồ-đề đã giải thích cho Sanjikaputta rõ: “Này Sanjikaputta, chớ có nói như vậy! Này Sanjikaputta, chớ có nói như vậy! Này Sanjikaputta, mặt trước mặt đối diện với mẫu thân của ta, ta tự nghe như sau: Một thời, này Sanjikaputta, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại tu viện Ghosita. Mẫu thân ta đang mang thai, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, mẫu thân ta bạch với Thế Tôn: ‘Bạch Thế Tôn, đứa con này của con, dù là con trai hay con gái, cũng xin quy y với Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận nó làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, nó trọn đời quy ngưỡng’.

Lại một thời, này Sanjikaputta, Thế Tôn trú giữa dân chúng Bhagga, tại Sumsumaragira, rừng Bhesakala, vườn Lộc Uyển. Rồi người vú của ta, ẵm ta bên hông, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, người vú của ta bạch Thế Tôn: ‘Bạch Thế Tôn, vương tử Bồ-đề nay xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận vương tử này làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, xin trọn đời quy ngưỡng’. Và nay, này Sanjikaputta, lần thứ ba ta quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng”.

Như vậy, quy y cho trẻ lúc còn mang thai hay khi còn thơ ấu là điều cần làm. Tuy bấy giờ trẻ chưa nhận thức mấy về ý nghĩa quy y nhưng gia đình đã gieo trồng được hạt giống lành vào tâm thức con trẻ đồng thời đứa trẻ cũng nhận được năng lượng bi mẫn gia hộ của Tam bảo. Sự kết nối và giao cảm tâm linh sơ khai ấy đã được Đức Phật chấp nhận.

Cần thấy rõ rằng, lễ quy y Tam bảo và trao truyền năm giới tuy được thực hiện chung nhưng kỳ thực đó là hai vấn đề khác biệt nhau. Người quy y Tam bảo có thể chưa thọ giới hay thọ từ một đến hết cả năm giới. Nên trong trường hợp quy y cho trẻ nhỏ thì chỉ có quy y mà không thọ giới. Và dĩ nhiên, sau khi đứa trẻ đó lớn lên trong sự gia hộ của Tam bảo, nhận thức được sự cao quý của giáo pháp, cần đối trước Tam bảo phát tâm quy y và nguyện giữ năm giới. Cũng giống như vương tử Bồ-đề, lúc còn trong bào thai đã được mẹ cho quy y, rồi tuổi thơ được cho quy y thêm lần nữa, khi trưởng thành nhận thức được giáo pháp, chính vương tử đã phát tâm quy y Tam bảo.

Chúc bạn tinh tấn!

Nhiên Như - Quảng Tánh

Muốn có vận mệnh tốt, phải thay đổi 10 điều này từ trong tâm

Muốn có vận mệnh tốt, phải thay đổi 10 điều này từ trong tâm

Đăng lúc: 09:37 - 29/05/2016

Mọi đau khổ hay sung sướng của con người suy cho cùng đều tại tâm. Vì thế, muốn hạnh phúc và có vận mệnh tốt đẹp, nên thay đổi ngay những điều này.

Bởi thay đổi bản thân chính là cách tốt nhất để cải biến vận mệnh của mình.
Dục vọng không cần quá cao
Dục vọng không nên quá cao, bởi một khi nó không được sự thỏa mãn thì sẽ gây ra những bức bối, tâm thái sẽ mất đi sự cân bằng.
Suy tính ganh đua không thể quá nặng
Nếu một người cứ mải mê suy tính ganh đua với người này người kia thì sẽ “triệt tiêu” sự khoái hoạt của cuộc đời. Ganh đua không chỉ đánh mất đi sự vui vẻ mà còn làm mất đi vận may của một đời người.
Phải học được cách quên
Đừng canh cánh trong lòng những chuyện quá khứ không đáng nhớ. Những chuyện quá khứ là những chuyện đã xảy ra, không thể thay đổi được, hãy để nó qua đi, như vậy mới có thể giảm thiểu được rất nhiều sự phiền não, trong lòng mới có thể nhẹ nhàng, thoải mái.
Tha thứ để hạnh phúc đến gần ta hơn
Con người từ khi sinh ra đến khi về già và ngay cả là lúc cận kề sinh tử, chúng ta phải đối diện biết bao nhiêu là thị phi, oan ức, những khúc mắc giữa các mối quan hệ vợ chồng, con cái, bạn bè, người thân và cả những người xa lạ. Có nhiều người vì hận người chồng mình vì ông ta lỡ sai lầm một lần mà ôm hận cả đời đến lúc nhắm mắt xuôi tay, có người vì bị người khác gièm pha, nói xấu hay tranh quyền đoạt lợi mà nỗi oán ghét kẻ đó cứ chất chứa trong lòng. Tất nhiên, trong nhiều trường hợp vì kẻ khác có lỗi với ta nên ta mới sanh tâm phiền trách nhưng nếu có thể, chúng ta hãy tập tha thứ.
Mô tả ảnh.
Ảnh minh họa
Hạnh phúc không có nghĩa là giẫm đạp lên người khác
Hạnh phúc không phải là vơ vào cho mình thật nhiều mà ngược lại, bạn nên ban tặng, san sẻ những gì mình có cho người khác. Đó mới là hạnh phúc. Bản thân hạnh phúc tất vận mệnh sẽ tươi đẹp.
Đừng so sánh bản thân với người khác
Trong cuộc sống, đừng so sánh bản thân với người khác, cũng đừng có ước ao được như họ. Ai cũng có ưu điểm riêng của bản thân mình, ai cũng có nỗi khổ riêng mà người khác không biết.
Một khi so sánh, người ta thường hay lấy điểm yếu của bản thân để so sánh với điểm mạnh của đối phương, từ đó sinh ra chán ghét, điều đó chỉ làm tổn hại chính tâm thái của bản thân mình mà thôi!
Yêu thương, trân quý bản thân nhiều hơn
Chỉ có yêu thương, trân quý bản thân mình mới có năng lượng để yêu thương trân quý người khác. Nếu có đủ năng lực, hãy thường xuyên giúp đỡ người khác, như vậy bạn sẽ nhận được niềm vui, có nhiều niềm vui là cách giảm sức ép của cuộc sống.
Biết thế nào là đủ
Chúng ta hay cho rằng mình khổ đau và kém may mắn vì chúng ta luôn tham lam và không biết thế nào là đủ cả. Người có lòng tham cầu càng nhiều thì nỗi khổ càng lớn. Con người cứ nhìn cuộc sống này bằng ánh mắt bi quan, tiêu cực mà không nhìn lại những gì mà chúng ta đang có. Việc ham mê và cầu toàn quá chỉ khiến bản thân thêm bất hạnh mà thôi.
Đừng nói lời tổn thương người khác
Đừng tạo khẩu nghiệp, nói những lời tổn thương người khác ắt có ngày nhận quả bảo cho mình.
Dụng tâm đối mặt
Chỉ có dùng thật tâm, dùng tình yêu thương, dùng nhân cách để đối mặt với cuộc sống thì cuộc sống của bạn mới trở nên đặc sắc hơn!
Mỗi ngày cần bảo trì một tâm thái vui vẻ, lạc quan! Nếu như gặp những sự tình phiền lòng, hãy học cách vỗ về chính mình, tấm lòng rộng mở sẽ khiến bạn mạnh mẽ tự tin hơn để vượt qua.
Muốn có một tâm thái tốt, hãy dùng “lòng biết ơn” để nhìn thế giới, dùng “trái tim” để nhìn thế giới, không tính toán được mất, cảm động trước hết thảy việc làm của người khác. Khi ấy vận mệnh của bạn nhất định cũng trở nên tốt hơn!

Lắng nghe để hiểu & thương

Lắng nghe để hiểu & thương

Đăng lúc: 23:58 - 27/03/2016

Một con cú già khôn ngoan sống ở cây đa. Nó càng nhìn thấy sự đời thì càng ít nói. Mà nó càng ít nói thì lại lắng nghe nhiều. Tại sao mình lại không như con cú già khôn ngoan kia? (Khuyết danh).
bo-tat-QTa.jpg
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian...

Khi còn bé thơ, chúng ta được dạy ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Và càng nói nhiều thì đó là dấu hiệu phát triển bình thường. Nhưng ít khi nào chúng ta được dạy phải biết lắng nghe. Và phần nhiều, cha mẹ, thầy cô, các bậc phụ huynh, v.v… không để tâm nhiều đến chuyện dạy dỗ cách biết lắng nghe. Tất nhiên, cha mẹ hay các thầy cô có dạy mình phải biết nghe lời. Nhưng ít khi chúng ta được dạy cách biết lắng nghe cho đúng.

Thường khi trong một cuộc đối thoại, chúng ta muốn người đối diện nghe ý kiến của mình muốn phát biểu, hay diễn đạt hơn là mình nên lắng nghe ý tưởng của họ. Nếu đã là vậy, rõ ràng không có sự lắng nghe xảy ra. Mà hễ không có sự lắng nghe, hiểu và cảm thông sẽ không bao giờ được thiết lập. Vợ chồng thường hay gặp phải tình cảnh này, nên có câu nói chọc cười: ‘Ngày xưa chồng nói vợ nghe. Bây giờ chồng nói vợ chê lắm mồm’. Cho nên, biết lắng nghe là nhịp cầu nối đầu tiên cho sự hiểu biết, cảm thông.

Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, sở dĩ Ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp, nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ-tát, Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.

Nhiều kinh điển nói về công hạnh của Bồ-tát, về sức uy thần diệu dụng của Ngài, thường hiện thân khắp nơi cứu giúp người đang đau khổ trên trần gian. Nhưng để tu tập theo hạnh nguyện từ bi, cứu khổ của Ngài, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu thêm một số chi tiết về những hạnh nguyện đó.

Trong kinh Pháp hoa nói Ngài thường thị hiện 33 hóa thân. Nhưng theo thiển ý, chắc đây là con số tượng trưng. Ngài được mô tả là một vị Bồ-tát luôn hóa thân cứu khổ mọi loài chúng sinh. Ngài hóa thân là một hiện tượng đặc thù theo tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’, biểu lộ tấm lòng đại từ bi, không phân biệt kẻ thân, người sơ, kẻ thâm tín, người hoài nghi, thậm chí người vô thần, ngoại đạo.

Hiện tượng hóa thân nói lên sự thấu hiểu và cảm thông thật sâu sắc nỗi sợ hãi, mối ưu lo của chúng sinh trong thế giới đảo điên, mộng tưởng. Để được tiếp cận với một chúng sinh đang đau khổ, Ngài hiểu rõ rằng một người xa lạ, dù là một Bồ-tát, sẽ khó có thể đến gần để chúng sinh kia được giãi bày nguồn cơn nỗi khổ của mình.

Theo kinh nghiệm đời thường cho thấy, khi chúng ta đang đau khổ hoặc phiền não mình chỉ muốn chia sẻ với ai biết lắng nghe, thông cảm, và không có ý phê phán, bình phẩm về những điều mình đã làm sai, hay tâm tình mình đang giãi bày, thổ lộ. Và thường mình muốn chia sẻ với người quen biết, dễ thương, hoặc người nào tôn trọng ý tưởng và tình cảnh của mình. Nếu hiểu được điều này, chúng ta có thể đóng vai sứ giả của Đức Quán Thế Âm, lắng nghe mà không phê bình, chỉ trích để giúp làm vơi nỗi khổ của người.

Thật ra, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng làm sứ giả Quán Âm, và muốn thành tựu vai trò này đòi hỏi mình phải biết lắng nghe.

Nhưng biết lắng nghe là một nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải quên mình đi mà chỉ biết nghe người kia đang nói gì. Biết lắng nghe đòi hỏi mình phải biết lắng đọng tâm tư để nghe rõ thông điệp của người mình đang đối diện. Cái bi kịch thường hay xảy ra cho chúng ta là khi mình muốn học hạnh lắng nghe nhưng cứ mỗi khi nghe xong câu chuyện mình lại diễn dịch nó qua lăng kính kinh nghiệm của bản thân, giống như mình nhìn thấy một sự kiện qua cặp kính màu của mình, nên thay vì hiểu và cảm thông, chúng ta lại chỉ trích hay phê phán người đối diện là dở cái này, thiếu cái nọ.

Do đó, hành động lắng nghe của mình bị thất bại. Nếu chúng ta biết lắng nghe qua tâm hạnh từ bi như Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta biết tôn trọng ý tưởng của người nói và lắng nghe cho kỹ những nỗi khổ đau mà họ đang trải nghiệm, thì công sức lắng nghe của mình sẽ chắc chắn mang lại một kết quả tốt và có thể sẽ làm vơi đi nỗi khổ của người.

Ngoài việc hóa hiện các thân để cứu độ, Ngài còn có khả năng làm cho chúng sinh hết lo sợ (vô úy thí). Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn có nêu lên 14 hoàn cảnh, những trường hợp tượng trưng, mà Ngài đã vận dụng năng lực vô úy để cứu độ. Năng lực vô úy là một khả năng đặc thù mà chỉ có những ai thật định tĩnh, tự tin, và từ bi vô hạn mới có thể làm được. Như một bà mẹ thương con vô cùng mới có thể làm con mình yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm. Sở dĩ chúng ta cảm thấy an lòng, không hoảng sợ, kinh hoàng trước sự hiện diện của Bồ-tát Quán Thế Âm vì Ngài sẵn lòng hy sinh bản thân để cứu độ mọi người.

Chúng ta cũng đã từng nghe qua năng lực vô úy này được các thiền sư thể hiện, như trong câu chuyện sau: Trong thời nội chiến ở Triều Tiên, một vị tướng soái dẫn quân đánh chiếm hết vùng này đến vùng kia, hủy diệt hết những gì cản trở bước tiến của ông ta. Dân chúng trong thành biết đoàn quân của vị tướng đang đánh tới, và nghe tiếng tàn bạo của ông ta nên mọi người đều trốn lánh vào vùng núi cao.

Vị tướng tiến chiếm thành không người và ra lệnh quân lính tìm kiếm dân trong thành khắp nơi. Vài người lính trở về báo cáo chỉ có một thiền sư còn ở lại. Vị tướng quân liền vội vã đến chùa, đi thẳng vào bên trong, rút gươm ra, và nói: “Lão thầy chùa kia, ông không biết ta là ai sao? Ta là người có thể thản nhiên lấy mạng của ông không chớp mắt”. Vị thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông tướng soái và bình thản trả lời: “Và tôi, thưa ngài, là người có thể để ngài lấy đầu mà cũng không chớp mắt”. Vị tướng quân nghe xong, liền cúi đầu và bỏ đi.

Sợ hãi là bản năng của con người, ai sinh ra cũng có. Nhưng các bậc thánh, hay như người căn tính yếu kém như chúng ta, nếu biết tu tập tinh chuyên và có lòng từ bi vô lượng, đều có khả năng, không những vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, mà còn khéo giúp người khác an tâm, không lo sợ. Tu tập hạnh từ bi có khả năng giúp mình vượt qua khổ hải và cũng giúp được người vơi bớt khổ đau. Vậy muốn có được năng lực vô úy thì chúng ta không thể thiếu hạnh từ bi.

Tuệ giác của pháp môn lắng nghe, không chỉ nằm trong việc lắng nghe âm thanh, lời nói, ngôn ngữ của người đối diện, mà còn vận dụng hết cả thân tâm mình từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và cả ý căn, để hiểu thấu và thấy rõ từ cử chỉ, hành vi, và sắc diện của họ đang nói lên những gì, mà lời nói, ngôn ngữ chưa diễn đạt, trình bày được hết ý của câu chuyện.

Chỉ cần vận dụng một phần ba (1/3) năng lượng của tuệ giác lắng nghe là chúng ta đã có thể giúp vơi đi nỗi khổ của người khác nhiều lắm rồi. Nhưng tiếc thay, đa số chúng ta thích nói hơn là thích nghe nên năng lượng của tuệ giác lắng nghe ít khi được sử dụng. Sở dĩ, mình thích nói hơn lắng nghe vì bản ngã, hay cái ta, đóng vai trò lớn trong việc thể hiện tầm quan trọng của bản thân, con người mình. Không ai muốn đóng vai trò ‘thấp cổ, bé miệng bao giờ!’. Hiểu rõ được điều này và phải vận dụng nhiều công phu tu tập mới có được chút khả năng lắng nghe vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Nhân ngày lễ vía của Đức Bồ-tát, chúng ta hãy cùng nhau vận dụng hết năng lực của mình để nhất tâm tu tập nguyện noi theo công hạnh của Ngài và để xứng đáng làm một sứ giả của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Tháng 10-2015
Tuệ Nghiệp

Biết khổ, thể nghiệm khổ, không cho đấy là khổ

Biết khổ, thể nghiệm khổ, không cho đấy là khổ

Đăng lúc: 07:21 - 05/11/2015

Phật giáo bàn rất nhiều về sự khổ. Theo Phật giáo, đời người là một quá trình chịu nhiều cái khổ như khổ của sinh, khổ của già, khổ của bệnh, khổ của chết.


Ngoài ra, còn có các nỗi khổ khác như cầu không như ý, oán thù gặp gỡ, thân ngũ uẩn nung nấu, tất cả cộng lại thành tám nỗi khổ (Bát khổ). Lìa khổ, diệt khổ là mục đích cuối cùng của đạo Phật, nhưng trước khi lìa khổ, diệt khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta phải biết nhận diện đau khổ.

Phật giáo phân tích về các nỗi khổ nhằm giúp chúng ta hiểu được những nguyên nhân chính tạo nên đau khổ. Nhưng, nếu chúng ta chỉ hiểu khổ trên mặt chữ, hiểu khổ qua sự miêu tả của người khác thì dù chúng ta có thuộc lòng hết tất cả các nỗi khổ mà chưa thực sự trải qua, chúng ta vẫn chưa thể thể nghiệm hết đau khổ. Vì thế, kiến thức về khổ trong Phật giáo bất quá cũng chỉ là sự miêu tả về khổ. Điều đó chưa đủ tạo sức mạnh cho chúng ta đối diện khổ, vì khi gặp tình huống bất ngờ không như mong đợi, chúng ta vẫn tham, sân, si; khi gặp những điều yêu thích vẫn tham lam, muốn thu nhận tất cả cho mình. Dù thế nào đi nữa thì con người cũng chỉ chạy loanh quanh các tâm lí tạo khổ như tham lam, sân giận, ngu si, ngạo mạn, nghi ngờ mà thôi, còn về bản chất của khổ là thế nào vẫn không thể nào biết được, điều này sẽ ngăn ngại khả năng thoát khổ của chúng ta.

Mọi việc chúng ta cần phải tự thân trải qua mới để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng. Nhiều người tìm hiểu Phật pháp liền biết ngay cuộc đời là biển khổ và từ đó họ chuyên tâm tu Phật. Phần lớn những người còn lại cần phải tự thân trải qua đau khổ như gặp tai nạn, qua cơn bệnh nặng, qua sự biệt li đau đớn mới hiểu đời là biển khổ. Ví dụ người may mắn duy nhất sống sót sau một vụ tai nạn máy bay hoặc người lâm bệnh thập tử nhất sinh nhưng được cứu sống mới hiểu thế nào là khổ. Khi trải qua được những nỗi khổ đó, họ sẽ có thái độ sống hoàn toàn khác. Sở dĩ như thế là vì họ đã từng “chết hụt” nên sẽ vô cùng quý trọng sự sống này. Cho nên, dù cuộc sống có khổ hơn, họ vẫn chịu đựng được, họ sẽ không còn thấp thỏm lo âu về cuộc sống như những người bình thường khác.

Ngoài ra, những người có người thân đột ngột qua đời sẽ nhận thấy sự mong manh của sự sống, từ đó họ trân trọng tình cảm với mọi người xung quanh. Để ghi nhận tình cảm của mình đối với người đã thiếu may mắn ra đi, họ sẽ có thái độ sống khác hoặc là làm từ thiện, cống hiến sức mình cho xã hội hoặc là hiến tài sản cho các nơi làm từ thiện. Nhờ tự thân trải nghiệm khổ, họ sẽ cảm nhận rất mạnh mẽ sự vô thường của cuộc sống; nhờ trải qua các nỗi khổ cùng tột đó, sau này họ sẽ không còn bị khổ “uy hiếp”, không còn thấy khổ nữa.

Từ những điểm trên, chúng ta thấy rằng các vị Bồ-tát chắc chắn tu tập từ trong những khổ đau của mình và chúng sinh vì các ngài là người dấn thân vào đời, chịu mọi đau khổ mà chúng sinh từng chịu nên khi dấn thân vào đó không còn thấy khổ mà chỉ thấy vui vì đã cứu giúp chúng sinh. Hơn nữa, các ngài vào trong đau khổ để cứu người khổ đau, như Bồ-tát Địa Tạng từng nói: Nếu ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục để cứu khổ chúng sinh? Quả thực, những người biết dấn thân vào đời thật vĩ đại biết bao!

Từ những ví dụ trên, chúng ta thấy rằng nếu muốn biết khổ, thể nghiệm khổ thì hãy biết rằng bản thân của khổ chưa từng tổn tại trong đời, thấy khổ không còn là khổ nữa. Tuy nhiên, chỉ những vị Bồ-tát và những người trải đời mới hiểu hết điều này.

Là một người tu hành Phật pháp, muốn lìa khổ, diệt khổ phải không ngừng tu tập, vượt qua trùng trùng chướng ngại của thân tâm để từ đó vượt lên tất cả khổ nạn.

HT. Thánh Nghiêm

Mỗi người hãy là một chiếc lá

Mỗi người hãy là một chiếc lá

Đăng lúc: 00:09 - 22/07/2015

Có một chàng trai nọ trong lúc đau khổ mới tìm đến một vị thiền sư hỏi rằng: "Thưa sư phụ, có những lúc con cảm thấy cuộc sống và mọi người muốn nhận chìm con, vậy khi đối diện như thế con phải làm gì ạ?
Vị thiền sư nói: Vậy con hãy là chiếc lá! Chàng trai không hểu gì nên thưa: xin sư phụ hãy chứng minh cho con được thấu hiểu.
Vị thiền sư mới lấy 2 cái thùng, một thùng chế đầy nước và một thùng để không, rồi Ngài bỏ chiếc lá vào cái thùng không đó, xong rồi Ngài đổ nước vào cái thùng có chiếc lá. Chiếc lá bị nước đổ vào nhiều lần cứ lặn hụp như thế và bị cuốn xoáy trong nước, đến khi nước đã đầy thùng thì chiếc lá vẫn lặng lẽ trôi ung dung trên mặt nước.
Vị thiền sư mới bảo chàng trai, con hãy sống như chiếc lá trong thùng nước! Dòng đời lúc nào cũng cuốn trôi dù đó là nhân nghĩa của một con người, được mất, phải quấy, tốt xấu, nên hư, thành bại thì dù mọi thứ có chuyển biến nghiệt ngã đến đâu cũng không thể nào nhận chìm con được. Ngay từ bây giờ con hãy rèn luyện cho mình sức nhẫn chịu trong cuộc sống, lấy tình thương xóa bỏ hận thù, biết tha thứ người đã từng làm cho mình đau khổ.
Từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn nhường là bí quyết để giúp cho mọi người sống như chiếc lá, dù có bị bão tố phong ba cuốn trôi lặn hụp, nhưng ta vẫn đủ sức vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh.

TIỀN KHÔNG THỂ MUA ĐƯỢC THẦN CHẾT
Có một thứ giá trị nhất mà cuộc sống đã dành cho ta, đó là thời gian. Nếu ta không làm được gì có lợi ích cho xã hội, thì cũng đừng nên làm tổn thương cho ai cả.
Bởi đồng tiền không thể mua được mạng sống của chúng ta khi duyên đời đã hết, nên ta phải biết cách sử dụng chúng như thế nào cho hợp lý. Chúng ta phải nên nhớ rằng tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không mua được thời gian.
Ngày xưa, có một người rất là bỏn sẻn và keo kiệt, lúc nào cũng hà tiện chẳng dám tiêu xài vào việc gì dù việc đó có lợi ích cho mình và người khác. Anh ta tích cóp cả đời, để dành được một khối gia tài rất lớn.
Không ngờ một ngày kia, con quỹ vô thường xuất hiện đòi mạng sống của anh ta. Hoảng quá, anh liền van nài hãy cho tôi thời gian thêm một năm, để tôi có thể nếm chút hưởng thụ từ số tiền kia. Nếu ngài chấp nhận tôi sẽ chia cho một nửa gia tài.
Con quỹ vô thường liền lắc đầu không chịu. Vậy tôi xin đưa hết cả gia tài cho ngài để được sống thêm một ngày nữa. Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin con quỹ vô thường cho tôi một phút để viết di chúc cho người sau vậy.
Đến đây thì con quỹ vô thường mới gật đầu đồng ý. Anh ta run rẩy viết: Mọi người xin hãy ghi nhớ: “Dù có tiền muôn bạc vạn cũng không mua được khi thần chết đến”.
Câu chuyện trên là một ẩn dụ sâu sắc để khuyên nhủ mọi người hãy sống làm sao cho có ý nghĩa, tiền bạc sự nghiệp chúng ta không thể đem theo khi duyên đời đã hết. Thế cho nên, khi còn sống dù ít hay nhiều ta phải làm cái gì đó để có thể giúp đỡ hay chia sẻ cho nhiều người khác.
“Cuộc đời như áng mây trôi, khi tan, khi hợp, khi được, khi mất, khi có, khi không luôn biến chuyển đổi thay không ngừng nghỉ”, chúng ta hãy cố gắng tu hành để vượt qua sống chết khổ đau.
Đã là thân phận con người ai cũng phải chịu cái khổ “Sinh, già, bệnh, chết”, nhưng người biết tin sâu nhân quả sống một ngày là có ích cho xã hội, nên đến khi chết thì họ không bao giờ tiếc nuối và lo sợ.
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai?
NHÂN QUẢ THAY ĐỔI ĐƯỢC KHI CON NGƯỜI QUYẾT TÂM
Khi chúng ta tự ý thức được rằng, đây là việc làm sai trái có hại cho người và vật, thì tự mình can đảm buông xả hoặc từ bỏ là do ý chí của ta mạnh mẽ, thấy được việc làm sai trái mà mình dạn từ bỏ. Và ta nếu muốn từ bỏ vững chắc và lâu dài không bị tái phạm trở lại nữa, thì ta phải phát nguyện tu theo con đường Phật đạo, gìn giữ năm điều đạo đức, đời đời kiếp kiếp quyết tâm không tái phạm lỗi lầm xưa và dứt khoát không chuyện xấu đó nữa vì biết được sự tác hại của nó.
Chúng ta hãy thường xuyên suy xét và kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động mà có hại cho mình và cho người thì ta nhất quyết không làm. Còn những gì mà ta thấy có lợi cho mình và người thì ta cố gắng làm không bỏ qua, dù cho đó là một việc rất nhỏ.
Nhờ tâm phát nguyện rộng lớn như thế, ta sẽ vượt qua được những chướng duyên nghịch cảnh trong cuộc đời. Vì sao? Vì theo đạo lý nhà Phật, ai sinh ra trong cõi đời này hầu như không ít thì nhiều, từ lớn đến nhỏ dù không làm ác nhiều cũng làm ác ít. Bởi vì chúng ta chưa có sự hiểu biết chân chính, chưa có lòng tin nhân quả vững chắc, do đó chắc chắn ai cũng có sai lầm.
Ngày nay, chúng ta may mắn gặp được thầy lành bạn tốt có đầy đủ phúc duyên, tuy điều kiện của chúng ta không được tốt đẹp trọn vẹn như người khác. Nhưng ta không có gì phải buồn phiền, khổ đau, trách móc, đổ thừa tại bị thì là… Bởi vì chúng ta biết Phật pháp, biết thực hành những lời Phật dạy, biết rõ nhân nào dẫn đến sa đọa khổ đau, nhân nào dẫn đến an vui, hạnh phúc.
Nhờ vậy, chúng ta cố gắng dứt khoát chừa bỏ thói hư, tật xấu ngay cả trong ý nghĩ và thường xuyên tu tập mỗi ngày để soi sáng lại chính mình. Nếu ta chưa đủ khả năng tu tập về thiền quán, thiền trực chỉ thì ta cố gắng tu tập theo phương pháp niệm Phật, Bồ tát tức là ta nương theo câu niệm Phật để cho tâm không bị tán loạn (niệm danh hiệu vị Phật nào mà ta thích).
Thí dụ, ta thích đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì ta niệm Phật Thích Ca Mâu Ni, ta thích Phật A-di-đà ta niệm Phật A-di-Đà, nếu ta thích Bồ-tát Quán Thế Âm thì ta niệm Bồ-tát Quán Thế Âm… Bất cứ danh hiệu Phật nào, danh hiệu Bồ-tát nào nếu ta nhiếp tâm, trì chí hướng về đức Phật đó, để tự chiêm nghiệm, soi sáng thì ta sẽ vượt qua những chướng nạn, tai ương trong cuộc đời.
Tuy thân này phải chịu quả đau khổ, nhức nhối, bệnh hoạn, đau yếu… nhưng tâm ta vẫn trong trong sáng lặng lẽ chiếu soi. Thân này tuy đau, nhưng tâm ta thường biết rõ ràng nên ta luôn được bình yên, hạnh phúc.
Khi đau ta biết thân này đau vì nghiệp tập nhiều đời nhiều kiếp mình đã gieo tạo trong quá khứ, nay ta biết được hậu quả của nó làm cho mình người khổ đau, thì ta nhất quyết không để cho tái phạm nữa, đến khi hội đủ nhân duyên thì nghiệp xấu sẻ hết. Nhờ vào sự tinh cần tu tập, mà ta chuyển hóa được nỗi khổ niềm đau, vươn lên và vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Hệ thống ẩn trong tượng Phật đá lớn nhất thế giới

Hệ thống ẩn trong tượng Phật đá lớn nhất thế giới

Đăng lúc: 22:24 - 15/07/2015

Bức tượng Lạc Sơn Đại Phật cao 71 mét ở Trung Quốc được xem là tượng đá lớn nhất thế giới, với hệ thống thoát nước ẩn trong người giúp tượng Phật tránh khỏi sự xói mòn nghiêm trọng và phong hóa suốt hàng thiên niên kỷ.

Tượng đá Lạc Sơn Đại Phật. Ảnh: Wikipedia
Nằm cách thành phố Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc 160 km về phía nam, bức tượng Lạc Sơn Đại Phật hơn 1.300 tuổi được tạc vào núi Lăng Vân là tượng Phật làm bằng đá lớn nhất nhất thế giới.

Bức tượng đối diện núi Nga Mi ở phía đông thành phố Lạc Sơn. Đây là nơi giao nhau của ba con sông Mân Giang, Đại Độ và Thanh Y. Bức tượng tạc một tu sĩ đang mỉm cười, dáng ngồi bình thản, hai tay để trên đầu gối, mắt nhìn chăm chú qua sông.

Đây được cho là tượng Phật Di Lặc, đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Nin (người sáng lập của Phật giáo), tượng trưng cho sự sáng suốt và hạnh phúc. Việc tôn thờ Phật Di Lặc đặc biệt phổ biến giữa thế kỷ thứ 4 và thứ 7. Hiện nay, hình ảnh của Phật Di Lặc vẫn còn xuất hiện trong những ngôi chùa khắp Trung Quốc và nhiều quốc gia khác.

Sự hấp dẫn của tượng Phật không chỉ nằm ở kích thước mà còn thể hiện qua kiến trúc khéo léo. Toàn bộ bức tượng được làm từ đá, ngoại trừ phần tai làm từ gỗ phủ đất sét. Tóc của Phật là 1.021 vòng xoắn đá gắn vào đầu.

Mái tóc tượng Phật có 1.021 vòng xoắn. Ảnh: Chi King/Flickr
Chiều cao bức tượng bằng tòa nhà mười tầng (71 mét), phần đầu cao 15 mét, vai rộng 28 mét, lông mày dài 5,5 mét, mũi cao 6 mét, tai dài 7 mét có khả năng giữ hai người bên trong, mỗi bàn chân trần dài 11m, rộng 8,5m, đủ lớn cho hơn 100 người ngồi. Trong tư thế đứng thẳng, tượng Phật sẽ ngang bằng với tượng Nữ thần Tự do của Mỹ. Phật ngồi ở tư thế đối xứng, tạo ra cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái.

Hệ thống thoát nước khéo léo

Dù có nhiều phần nhỏ bị hư hại nhưng đáng ngạc nhiên là bức tượng vẫn còn nguyên vẹn, nhờ vào hệ thống thoát nước ngầm, giúp các phần bên trong luôn khô ráo. Một số đoạn thoát nước ẩn trong tóc, cổ, và nhiều rãnh phía sau tai, ngực. Hệ thống này giúp tượng Phật tránh khỏi sự xói mòn nghiêm trọng và phong hóa suốt hàng thiên niên kỷ. Lúc đầu bức tượng được bảo vệ bởi 13 tầng gác làm bằng gỗ lớn, nhưng chúng đã bị phá hủy vào cuối triều đại nhà Minh, khiến bức tượng không còn được che chắn nữa.

Bức tượng Lạc Sơn Đại Phật được khởi công xây dựng vào năm 713 thời nhà Đường, do nhà sư Hải Thông người Trung Quốc chỉ huy. Ông hy vọng rằng tượng Phật có thể giúp làm cho nước sông chảy êm đềm, tạo thuận lợi cho tàu thuyền đi lại trên sông.

Theo truyền thuyết, một số quan chức chính quyền địa phương muốn lấy số tiền quyên góp xây tượng Phật từ Hải Thông, nhưng nhà sư này tuyên bố thà mù mắt chứ không chịu mất tiền.

Khi ngân khố dành cho công trình không còn, nhà sư đã tự khoét mắt để thể hiện sự chân thành và tận tâm vào công việc. Cuối cùng ông cũng gom đủ số tiền sau 20 năm đi quyên góp và tiết kiệm. Khi ông qua đời, hai đệ tử của ông tiếp tục cho xây dựng công trình và hoàn thành năm 803.

Kể từ khi xây xong tượng Phật, dòng nước sông hung dữ trở nên hiền hòa. Theo giải thích của các nhà khoa học, trong quá trình xây dựng, đá từ vách núi rơi xuống đáy sông, thay đổi dòng chảy, khiến con sông an toàn hơn. Nhờ đó tàu bè có thể yên tâm qua lại.

Nhà sư Hải Tông, người có công xây dựng tượng Lạc Sơn Đại Phật. Ảnh: David Schroeter/Flickr

Ngoài tượng Lạc Sơn Đại Phật, hàng nghìn tượng Phật nhỏ được người dân chạm khắc xung quanh bức tượng khổng lồ này, tạo thành một bảo tàng điêu khắc trên núi của Phật giáo.

Khu vực Nga My bao gồm bức tượng Lạc Sơn Đại Phật được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1996. Hiện nay, bức tượng Phật luôn là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất của Trung Quốc.

Lê Hùng (vnexpress.net)

Doi Dien 1

Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau

Đăng lúc: 04:42 - 21/06/2015

Người ta thường chia cắt thời gian ra thành quá khứ, hiện tại và tương lai, và nói rằng chúng ta chỉ có giây phút hiện tại này mà thôi. Nhưng thật ra trong giây phút này cái mà chúng ta đang có là sự sống. Đánh mất giây phút hiện tại này, không phải ta phí mất thời gian, mà cũng chính là ta đang đánh mất đi sự sống của mình.
Doi Dien 1
Tôi nghĩ rằng trong giây phút hiện tại này, dầu có thể chúng ta đang phải đối diện với những vấn đề, hay những hoàn cảnh bất như ý, nhưng mình hãy sống trọn vẹn với nó. Với một thái độ tiếp nhận trong sáng, và không mong cầu, ta có thể thấy ra rằng, chính những khó khăn ấy giúp mở ra cho ta thấy được những dính mắc và trói buộc của mình.

Cuộc sống bao giờ cũng có những khó khăn, nhưng tôi không để cho những bận rộn và âu lo ngăn trở không cho tôi tiếp xúc được với thực tại chung quanh mình, được ngồi với người thân, đi dạo trên con đường nhỏ nắng ấm, mỉm cười trong một ngày mưa… Bạn có thấy không, những hạt giống hạnh phúc cũng như những đóa hoa sáng nay, khi nắng ấm về, nào có ai nhắc đâu mà rồi chúng vẫn sẽ nở rộ.

Trong cuộc đời có những cái mà ta không nên, và cũng không thể, làm cho chúng nhanh lên được. Chúng cần thời gian, chúng cần sự chậm rãi. Và khi ta thúc hối những gì không thể thúc hối, khi ta không còn biết có mặt trọn vẹn với thực tại, ta vô tình đánh mất đi hạnh phúc trước mắt bằng một sự mong cầu nào khác xa xôi…

Tôi nghĩ, hạnh phúc chân thật không thể đạt được bằng sự nổ lực thay đổi hoàn cảnh, hay sự tập luyện để đạt đến một trạng thái nào đó, mà là do sự trở về tiếp xúc với tất cả với một thái độ buông xả, và một cái nhìn trong sáng của ta. Nếu như, ta biết bớt đi những nổ lực lăng xăng tìm cầu của mình bạn hả, thì có lẽ những khổ đau trong cuộc đời này cũng sẽ bớt phức tạp hơn nhiều…

Nguyễn Duy Nhiên

Đối diện khổ đau

Đối diện khổ đau

Đăng lúc: 21:24 - 19/06/2015

Nếu chúng ta muốn có hạnh phúc chân thật trong cuộc sống, chúng ta buộc phải chấp nhận một sự thật là cuộc sống đầy dẫy những khổ đau. Chúng ta không thể tránh né, càng không thể loại trừ được hết những khổ đau trong đời sống. Chúng ta cần phải biết cách đối diện, nhận thức và chuyển hóa chúng.
Cuộc sống đầy dẫy những khổ đau. Cho dù ta có là người may mắn nhất trong nhân loại, ta cũng không thể tránh khỏi những nỗi khổ nhất định. Sự hiện hữu của những khổ đau đã bắt đầu ngay từ lúc chúng ta mở mắt chào đời. Chúng ta sợ phải chết, nhưng tất cả chúng ta đều phải chết. Chúng ta yêu thích tuổi thanh xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống, nhưng tất cả chúng ta đều bất lực nhìn tuổi già đến dần. Chúng ta cố tránh né bệnh tật, nhưng rồi tất cả chúng ta đều cũng không tránh khỏi. Chúng ta mong muốn được sống bên cạnh những người mình thương yêu, nhưng rồi bằng cách này hay cách khác, chúng ta vẫn phải chia tay với từng người trong số họ...


Với phần lớn trong chúng ta thì sự thiếu thốn vật chất ở một mức độ nào đó cũng luôn là nỗi khổ. Chúng ta quay cuồng, vật lộn với cuộc sống và rất hiếm khi chúng ta tự thấy mình đã có đủ những thứ mình cần...

Còn có thể kể ra rất nhiều khổ đau mà chúng ta phải thường xuyên đón nhận trong cuộc sống. Chính vì vậy, có người đã phải thốt lên rằng: “Hạnh phúc là sự tạm dừng của những đau khổ.”

Nhưng điều này không thật sự chính xác. Vì nếu như thế thì sẽ chẳng bao giờ chúng ta có được hạnh phúc, vì chẳng hề có một phút giây nào mà đau khổ trong cuộc sống này có thể tạm dừng.

Thay vì mong đợi sự tạm dừng của đau khổ để có được đôi chút hạnh phúc mong manh ngắn ngủi, chúng ta hãy đối diện và nhìn sâu vào bản chất của đau khổ. Khi hiểu rõ được bản chất của chúng, ta sẽ có thể chấp nhận và chuyển hóa. Chỉ khi đó chúng ta mới có được hạnh phúc thật sự.

Hầu hết những khổ đau của chúng ta đều xuất phát từ sự mong cầu đi ngược lại tự nhiên. Chúng ta mong muốn điều gì đó và bất kể là những mong muốn ấy có hợp lý hay không. Hay nói đúng hơn, chúng ta không chịu nhìn sâu vào bản chất của sự vật để có thể thấy được sự vô lý của chính mình.

Một cô gái đau khổ vì yêu thương một chàng trai nhưng không được đáp lại. Chàng trai kia không có lỗi gì cả. Chàng hoàn toàn có quyền lựa chọn người mình yêu thương. Nhưng cô gái đang yêu không có đủ sáng suốt để nhận ra điều đó. Cô đau khổ vì sự sai lầm trong nhận thức của chính mình. Nỗi đau khổ của cô chỉ có thể chấm dứt khi nào cô đối diện được với nó và nhận ra nguyên nhân thật sự, như bao nhiêu người khác đều có thể nhận ra.

Vào một buổi chiều đẹp trời, chúng ta dạo chơi trong một công viên nào đó, ta có thể thấy những cơn gió thoảng qua và có những chiếc lá vàng rơi rụng xuống.

Chiếc lá đã sống trọn một cuộc đời rất đẹp. Từng phút giây tồn tại, nó đã cống hiến trọn vẹn cho sự chuyển hóa dòng nhựa nguyên thành nhựa luyện để nuôi cây. Lá sinh ra từ cây, nhưng trong một ý nghĩa khác, vì lá đã nuôi sống cây nên lá cũng là mẹ của cây. Hết một đời mình, lá rơi rụng về với lòng đất, lại tiếp tục chuyển hóa thành phân mục để nuôi cây. Ngày mai, có thể lá lại được sinh ra thành một chồi non mới...

Trong bức tranh sinh động này, chúng ta có thể thấy rõ quy luật của đời sống. Mỗi người chúng ta là một chiếc lá trên thân cây cuộc đời. Ta không thể tồn tại mãi mãi, nhưng ta có thể sống thật trọn vẹn đời sống của mình. Ta sinh ra từ cuộc sống, nhưng ta sống có ích cho cuộc sống và trong ý nghĩa đó ta cũng góp phần tạo ra cuộc sống.

Thế nhưng hầu hết chúng ta không hài lòng với việc trở về lòng đất như chiếc lá kia. Ta đau khổ vì ta không nhận ra và chấp nhận quy luật tự nhiên của cuộc sống.

Tất cả những thực thể sống đều sinh ra và chết đi. Chiếc lá sinh ra và chết đi. Đóa hoa hồng sinh ra và chết đi. Nhưng những vật vô tri giác, như một tảng đá chẳng hạn, không có sự sinh ra và chết đi theo cách như thế. Chúng chỉ được hình thành và hủy hoại theo thời gian, chúng không có sự sống và sự chết. Chúng ta phải lấy làm hạnh phúc được sinh ra và chết đi, vì chỉ như thế ta mới thật sự được trải qua một đời sống nhiệm mầu.

Nếu chúng ta hiểu rõ được vấn đề và chấp nhận sự thật về sống chết, chúng ta sẽ thấy những giây phút được sống của mình càng có giá trị hơn.

Mỗi một nỗi khổ đau đều có nguyên nhân của nó. Nếu chúng ta biết suy xét để nhận ra những nguyên nhân sâu xa và đích thật, ta sẽ có thể chấp nhận và chuyển hóa nỗi khổ đau thành năng lực thúc đẩy ta nỗ lực sống tốt hơn. Cơ thể chúng ta không rắn chắc như sắt đá, nên một đôi khi ta mắc phải bệnh tật, điều ấy là tự nhiên. Hiểu được điều đó ta càng biết quý trọng và cảm nhận niềm vui trong những lúc được sống khỏe mạnh không bệnh tật, càng cố gắng giữ gìn sức khỏe một cách tích cực hơn, tránh xa những thức ăn uống hoặc những cuộc chơi bời có hại cho sức khỏe. Chúng ta cũng có thể nghĩ về tuổi già như một động lực để sống tốt hơn trong những ngày còn trẻ...

Những thương tổn về tình cảm cũng gây cho chúng ta nhiều đau khổ nếu chúng ta không biết cách đối trị với chúng. Khi gánh chịu những sự bất công, xúc phạm hoặc khinh miệt... chúng ta thường ôm ấp những thương tổn đó như những vết thương trong tâm hồn, và chúng ta đau khổ vì chúng. Nếu chúng ta biết mở rộng lòng và học được những cách ứng xử rộng lượng hơn, cảm thông hơn... chúng ta sẽ có thể hiểu và chấp nhận những sự bất công, xúc phạm hay khinh miệt ấy theo chiều hướng tốt đẹp hơn, và không để chúng làm thương tổn đến tâm hồn ta.

Trong hầu hết trường hợp, người ta cư xử một cách bất công hay thô bạo là xuất phát từ sự thiếu hiểu biết: hoặc là thiếu hiểu biết về cách sống, hoặc là thiếu hiểu biết lẫn nhau. Nếu chúng ta đáp lại bằng sự thù hằn, căm giận, bản thân chúng ta cũng rơi vào chỗ thiếu hiểu biết. Cả hai bên đều đau khổ. Ngược lại, nếu chúng ta hiểu được và cảm thông với sự thiếu hiểu biết của người khác, ta sẽ có khuynh hướng tha thứ hơn là tức giận. Chúng ta có làm thay đổi được người khác hay không, điều đó còn tùy nơi năng lực cảm nhận của họ, nhưng bản thân chúng ta thì chắc chắn sẽ tránh được thương tổn trong những trường hợp này.

Khi chúng ta đau khổ, nếu ta biết nghĩ đến những đau khổ của người khác với sự cảm thông và chia sẻ, nỗi đau của chính bản thân ta sẽ được giảm nhẹ. Ngược lại, sự trách móc, oán giận... chỉ càng làm tăng thêm nỗi đau mà thôi.

Chúng ta phải chấp nhận một thực tế là cuộc đời không sao tránh khỏi những khổ đau. Nhưng trong một chừng mực nhất định, cách hiểu và nhìn nhận vấn đề của chúng ta có thể làm vơi đi đáng kể mức độ đau khổ. Đối diện với từng nỗi khổ đau và tìm hiểu rõ nguyên nhân sâu xa của nó có thể giúp ta có thái độ đón nhận một cách tích cực hơn. Ngay cả khi chúng ta đang hứng chịu một nỗi khổ đau nào đó, chúng ta vẫn thấy tự tin và ít bị thương tổn hơn.


Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)

5 điều cần ghi nhớ khi cuộc sống trở nên tồi tệ

5 điều cần ghi nhớ khi cuộc sống trở nên tồi tệ

Đăng lúc: 21:36 - 05/06/2015

Có những lúc mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta dường như đều rơi xuống tận đáy của hố đen. Bạn sẽ làm gì?để thoát ra? Bạn biết không, sức mạnh tinh thần có một ảnh hưởng vô cùng to lớn. Chỉ cần nghĩ thoáng đi một chút thì trong bất cứ tình huống dù tồi tệ đến mấy, bạn cũng sẽ tìm ra được ánh sáng và sự giải thoát.
Thất bại là một phần của sự trưởng thành

Đôi khi cuộc sống đóng lại một cánh cửa để báo hiệu rằng đó là lúc bạn phải tiến thêm một bước nữa. Có thể xem là một điều may mắn bởi hầu như ai trong chúng ta cũng đều có tâm lý ù lì, không thích thay đổi khi mọi thứ đã trở nên quá quen thuộc và an toàn, chỉ đến khi tình thế bắt buộc thì ta mới chịu vận động hay động não.

Khi mọi thứ không như ý bạn muốn, đừng bao giờ quên nhắc nhở bản thân rằng không có thất bại nào là vô nghĩa. Vực dậy từ chỗ mình đã ngã xuống và rút ra bài học nhớ đời. Bạn vật lộn đối đầu với vấn đề không có nghĩa là bạn thua cuộc. Hãy nhớ rằng mỗi chiến thắng vinh quang đều cần đến cả quá trình đấu tranh gian khổ. Do vậy, cứ kiên nhẫn và tích cực lên rồi bạn sẽ thấy mọi thứ cuối cùng sẽ đâu lại vào đấy cả thôi.

Cuộc sống luôn có hai dạng của thất bại: thất bại khiến ta đau khổ tột cùng và thất bại làm ta thay đổi. Khi đối diện với cuộc sống, thay vì cứ trốn tránh chúng, thì việc đương đầu, chấp nhận những thất bại đều khiến cho ta trưởng thành hơn.



Mọi thứ trong cuộc sống này đều là tạm thời

Mưa rồi lại tạnh. Vết thương hở cũng có ngày lại lành. Sau bóng tối sẽ luôn có chút ánh sáng – Đó là những suy nghĩ chúng ta luôn dặn dò bản thân mỗi ngày nhưng lại mau chóng quên đi để rồi lại chọn cách tin rằng những thứ không may hay những điều xấu xa sẽ mãi theo ta cho đến tận cuối đời.

68474

Chẳng có gì có thể tồn tại mãi mãi được bạn ơi. Cho nên nếu bạn đang vui vẻ, hãy cố gắng mà tận hưởng cho hết mình. Còn nếu bạn đang gặp chuyện không vui cũng đừng quá lo lắng vì nó cũng sẽ qua mau thôi. Mỗi giây mỗi phút trong đời ta đều là một sự bắt đầu mới hay một kết thúc mới. Đời cho ta rất nhiều cơ hội, chỉ là ta có biết nắm lấy chúng và tận dụng được chúng hay không mà thôi.

Lo lắng và than vãn chẳng giải quyết được vấn đề

Những người càng hay than vãn thì càng chẳng làm nên được chuyện gì cả. Thà cứ cố gắng nhưng thất bại để học được một bài học hay còn hơn chỉ ngồi đó than và chẳng làm gì để thay đổi tình hình. Làm sao bạn biết được kết quả sẽ ra sao nếu như bạn không dám thử? Và dù sao đi nữa thì hãy luôn nhớ rằng, hạnh phúc thật sự chỉ đến khi nào bạn ngừng than thở và bắt đầu biết trân trọng, biết ơn những điều mình đang có hiện tại.

Những vết sẹo là minh chứng của sức mạnh

Đừng xấu hổ bởi những vết sẹo mà cuộc đời mang lại cho bạn. Mỗi vết sẹo bạn có chứng tỏ rằng đau đớn không còn nữa và vết thương đã liền thịt, cũng có nghĩa là bạn đã vượt qua được những nỗi đau, rút ra những bài học, trở nên mạnh mẽ hơn để tiếp tục bước về phía trước. Đừng để thất bại trong quá khứ khiến cho bạn trở nên lo sợ với tất thảy những thử thách trong cuộc đời. Hãy nghĩ rằng vết sẹo – những thất bại, tổn thương bạn từng trải qua – là dấu hiệu của sức mạnh. Vâng, tôi đã làm được, tôi đã vượt qua, và những vết sẹo sẽ luôn nhắc nhở tôi cố gắng trở thành một con người tốt hơn.

Mỗi sự cố gắng dù nhỏ đều đẩy giúp ta vượt lên phía trước

Trong cuộc sống, sự kiên nhẫn không hẳn là chờ đợi, nó là khả năng để giữ một tinh thần vững chãi, một thái độ tích cực trong suốt quá trình cố gắng để thực hiện một việc gì đó. Vì thế, nếu như bạn đã quyết định cố gắng, hãy dành thời gian và cố gắng cho đến cùng. Bởi sau cùng những thứ bạn muốn, bạn sẽ làm cho bằng được dù có đối mặt với thất bại hay những chỉ trích, phản đối của người khác. Bạn biết rằng mỗi sự cố gắng đều không hề lãng phí. Khi bạn cố gắng hết mình, một là nó cho ta một bài học sâu sắc từ thất bại, hai là nó mang cho ta kết quả thành công ngoài mong đợi. Dù thế nào đi nữa, sự cố gắng cũng rất xứng đáng mà, phải không?

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 10
  • Hôm nay 2,831
  • Tháng hiện tại 39,286
  • Tổng lượt truy cập 23,445,535