Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Đêm nhạc kính mừng Phật Đản tại chùa Đức Hậu, TP Vinh

Đêm nhạc kính mừng Phật Đản tại chùa Đức Hậu, TP Vinh

Đăng lúc: 06:37 - 11/05/2017

Lịch sử ghi chép lại rằng: Khi Đức Thế Tôn Như Lai giáng thế, 6 cõi đều chấn động, trái đất rung chuyển, chim cất tiếng ca vang, cả 33 cõi trời đều vang lên những khúc nhạc để ca ngời , sinh tụng sự giáng sinh của bậc Giác Ngộ.

Với ý nghĩa đó .Hôm nay ngày 14/4/Al nhằm ngày 9/5/2017 chùa Đức Hậu, Nghi Đức, Tp Vinh long trọng tổ chức Đêm văn nghệ kỷ niệm ngày Đức Phật Đản Sanh do Đại Đức Thích Định Tuệ - trụ trì Chùa Phúc Thành, Chùa Đức Hậu, kiêm trưởng ban tổ chức.Với sự chứng minh của Đại Đức Thích Minh Lâm, cùng với sự tham gia của các diễn viên, ca sĩ nổi tiếng, các tổ , các Phật Tử trong Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ, các Em trong Gia Đình Vườn Tuệ và các tổ chức Xã hội tại địa phương cũng dâng lên Đức Phật những lời ca, tiếng hát . Với tinh thần đó hàng ngàn tín dồ Phật Tử trong và ngoài tỉnh đã tu tập về Chùa để bày tỏ tấm lòng, sự thành kính của mình , cũng để tái hiện lại giây phút Đấng Giác Ngộ hạ sinh trong Đêm ca nhạc tối hôm nay.
Sau đây là một số hình ảnh:


Đại Đức Thích Định Tuệ khai mạc đêm văn nghệ chào mừng.


































Nhân dịp này Đại Đức Thích Định Tuệ trụ trì Chùa Đức Hậu và,các nhà tài trợ đã trao tận tay những gia đình có hoàn cảnh khó khăn trên địa phương sở tại 25 suất quà, mỗi suất quà 500.000đ.













Tác giả bài viết: Hồng Nga , Thành Nam

Nguồn cơn của sự giận dữ và mối lo ngại chữ “nhẫn” chỉ còn để trang trí

Nguồn cơn của sự giận dữ và mối lo ngại chữ “nhẫn” chỉ còn để trang trí

Đăng lúc: 20:57 - 04/11/2016

Có vẻ chữ "nhẫn" ngày nay đã trở nên một vật trang trí đơn thuần như ảnh diễn viên. Nhìn quanh ở ngoài đường, chúng ta cảm thấy rõ: Căng thẳng, cáu bẳn, bực bội là cảm xúc chủ đạo. Báo chí cảnh báo về bạo lực học đường gia tăng, các nhà văn hoá lo ngại người Việt trở nên “ưa giao lưu bằng nắm đấm”.

Bạo lực thanh thiếu niên bắt nguồn từ... gia đình
Bạo lực học đường và trách nhiệm của người thầy
Bạo lực học đường, một vấn nạn phải được giải quyết từ căn cơ
Hệ thống giá trị truyền thống của người Việt vốn coi trọng trạng thái tâm lý và cảm xúc cân bằng. “Đại học” - một trong những cuốn sách kinh điển của Nho giáo, viết: "Tâm yên tĩnh rồi, lòng mới ổn định. Lòng ổn định rồi, suy nghĩ sự việc mới có thể chu toàn. Suy nghĩ sự việc chu toàn rồi, mới có thể xử lý, giải quyết công việc được thỏa đáng”. Thái độ và phong cách “trung dung”, được định nghĩa là sự ôn hòa, cân bằng, không thái quá, cũng được coi là kim chỉ nam của người quân tử. Ngược lại, “kẻ tiểu nhân thì không hề lo sợ, nể nang hay e dè ai hết, nên cách nói năng và hành động của kẻ tiểu nhân không thái quá thì cũng bất cập”.
Có được cái tâm an lành cũng là một đích lớn trong tu tập Phật giáo. Mọi người tự căn dặn “chín bỏ làm mười”. Mỗi dịp Tết, người ta vẫn nô nức kéo nhau đi xin ông đồ chữ Nhẫn để treo trang trọng trong nhà.
Nhưng có vẻ những chữ Nhẫn này đã trở nên một vật trang trí đơn thuần như ảnh diễn viên. Nhìn quanh ở ngoài đường, chúng ta cảm thấy rõ: Căng thẳng, cáu bẳn, bực bội là cảm xúc chủ đạo. Báo chí cảnh báo về bạo lực học đường gia tăng, các nhà văn hoá lo ngại người Việt trở nên “ưa giao lưu bằng nắm đấm” và dự báo về “cái chết của sự hiền lành”. Trong dịp Tết Nguyên Đán 2016, hơn 5.000 người nhập viện vì đánh nhau, tăng 25% so với 4 năm trước. Đặc biệt, khi ở trên mạng, nhiều người nhanh chóng biến thành những đứa trẻ 3 tuổi không kiểm soát được mình.

Nguồn cơn của sự giận dữ và mối lo ngại chữ “nhẫn” chỉ còn để trang trí ảnh 1
Người dân hiếu kỳ tụ tập xem 2 nữ sinh đánh nhau tại quận 6, TPHCM gây ùn tắc giao thông.
Là một trong những cảm xúc bẩm sinh, bên cạnh buồn, sợ, vui, bất ngờ và kinh tởm, giận dữ thuộc về con người. Nó có thể trỗi dậy từ nỗi thất vọng, cảm giác bị tổn thương hay mất mát. Giận dữ báo cho chúng ta biết là có điều gì đó không ổn, rằng nhu cầu của chúng ta không được đáp ứng. Một cậu thanh niên không được phép đi chơi. Một đứa trẻ bị khước từ đồ chơi mới. Một nhân viên bị từ chối yêu cầu tăng lương.
Người giận dữ là người đang bị đau, họ muốn hét lên rằng “tôi quan trọng”, bởi họ cho rằng người khác không hiểu hay không muốn hiểu điều đó. Cơn tức giận đầu tiên của con người xảy ra khi đứa trẻ sơ sinh giận tím tái người vì không được bú. Người giận dữ khao khát tấn công lại và loại bỏ kẻ đã làm đau anh ta, và nếu không được (ví dụ khi nguyên nhân là một trận kẹt xe lúc tan tầm), anh ta sẽ giận cá chém thớt và trút cơn giận lên một người thứ ba.
Nguồn cơn của giận dữ
Tình trạng giận dữ có thể được nuôi dưỡng và nung nấu bởi một cảm giác bất lực, bế tắc trước cuộc sống. Người giận dữ chất chứa trong lòng những tổn thương và xúc phạm mà anh ta đã trải qua: Một hôn nhân thất bại, một tai nạn vô nghĩa. Anh ta thấy mình là một nạn nhân trong một thế giới không công bằng. Chắc chắn phải có một ai đó khiến cuộc sống của anh ta trở nên thảm hoạ như thế, không là đứa con cứng cổ thì cũng là các thể chế nhà nước. Nhiều người còn oán giận cả tạo hoá, sự hữu hạn và vô vị của cuộc đời. "Mỗi người chỉ có một số kiếp, một cõi sống,” Nguyễn Huy Thiệp nhận xét, “và điều đó làm lòng ta run lên vì căm giận”.
Người giận dữ kiểu này hay diễn trong đầu mình những đoạn phim tưởng tượng nhằm trả thù những kẻ đã làm mình bị tổn thương, từ tay hàng xóm tới công an phường tới thằng bạn trở mặt. Với thời gian, sự cay đắng không những giảm đi mà còn lớn lên, sự giận dữ dần đông cứng lại. Người giận dữ khước từ chấp nhận thực tại và bị ám ảnh bởi những đòi hỏi phi thực tế với người khác hoặc những hiện tượng trong xã hội.
Giận dữ cũng có thể xuất phát từ những lý do liên quan tới đạo đức. Người ta phẫn nộ khi cho rằng những giá trị của mình, niềm tin của mình bị tấn công, căn tính của mình bị đe doạ. Khi đó, giận dữ đi kèm với kinh tởm và căm ghét. Người bị tấn công nhanh chóng coi người kia là kẻ thù, quái vật hay rác rưởi, và sau khi phi nhân hoá họ, coi họ xứng đáng để bị trừng trị. Sự tức giận khi bị người mình yêu quý (bạn thân, người yêu, thần tượng) phản bội hay rơi vào thể loại này.
Những người này hay cho rằng sự giận dữ của mình là hợp lý và chính nghĩa, phục vụ cho một mục đích cao cả hơn chính họ. Ở kịch bản tích cực, các cá nhân giận dữ về đạo đức có thể trở thành những người vận động cho những thay đổi trong xã hội (nếu như họ chuyển hoá được sự giận dữ của mình). Ở kịch bản tiêu cực, họ khoác lên mình tấm áo chính nghĩa và coi bất cứ xung đột nhỏ nhất nào cũng như một cuộc thánh chiến.
“Tôi kinh tởm những kẻ vi phạm chuẩn”, những người này có xu hướng nói vậy. “Tôi dễ nổi cơn tam bành với những người có quan điểm khác tôi”. “Tôi cảm thấy bị tấn công khi người khác có hành vi đi ngược với các giá trị của mình”. “Tôi sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ niềm tin của mình”. Đây là những dấu hiệu của sự cứng nhắc tới cực đoan, thiếu khoan dung và khước từ sự khác biệt.
Lại có loại thịnh nộ vì nhục; người ta nổi xung vì cho rằng mình bị “mất mặt”, danh dự của mình bị sứt mẻ. Loại thịnh nộ này hay xảy ra hơn ở những văn hoá coi trọng thể diện như ở các nước Châu Á, và nó khiến người nổi giận quay ra tấn công và làm nhục người làm nhục mình.
Thể diện ở đây không phải chỉ là của cá nhân, mà còn có thể là của gia đình, quê quán và cả của “Việt Nam" nói chung, nghĩa là bất cứ một tập thể nào mà người ta cho rằng mình thuộc về nó. Một đại gia cư xử không đẹp với tình nhân có thể bị coi là “làm xấu mặt đàn ông Việt Nam". Một người Việt bị phát hiện ăn cắp ở nước ngoài thì làm “nhục quốc thể”, một nghệ sĩ hát quốc ca trước mặt thượng khách quốc tế theo “kiểu lạ” cũng vậy.
Trong những trường hợp này, người ta tức giận vì họ sợ bị coi là vô giá trị, xấu xí, không xứng đáng trong con mắt của người khác. Quan trọng ở đây là sự lăng nhục nằm ở cảm nhận của người nổi giận chứ không nằm trong ý định của người hứng chịu cơn giận (đại gia quịt tiền, người ăn cắp hay nghệ sĩ hát quốc ca).
Những người giận dữ dạng này sẽ dễ đồng tình với những câu nói này: “Tôi hay thịnh nộ khi người khác không tôn trọng tôi”, “Tôi sẽ bảo vệ danh tiếng và thể diện của mình tới cùng”, “Tôi rất lo mình bị coi là ngớ ngẩn hay ngu ngốc”, “Tôi dễ nổi đoá khi bị nói là mình sai”, và “Tôi không thể quên được sự coi thường của người khác”.
Cả ba dạng giận dữ trên đều có thể trở thành trạng thái kinh niên. Ai trong chúng ta cũng có một người họ hàng hoặc một người bạn như vậy: Thường xuyên bực bội và cáu kỉnh. Không cái gì có thể làm anh ta (phần lớn, nhưng không phải tất cả những người này là nam giới) hài lòng. Kể cả trong những lúc mọi người xung quanh vui vẻ nhất thì anh ta cũng tìm ra được một lý do gì đó để phàn nàn. Đây là những người bị cầm tù bởi giận dữ. Giận dữ trở thành trạng thái chủ đạo của họ. Trong vườn cây tâm hồn của mình, họ chỉ tưới tắm cho giận dữ mà để những cảm xúc khác héo mòn. Tức giận trở nên phản ứng hiển nhiên, phản xạ đầu tiên của họ, được kích hoạt bởi bất cứ một lý do nhỏ bé nào. Khi gặp vấn đề, họ quay lại với sự giận dữ như quay về một người quen cũ, xấu xí nhưng trung thành. Giận dữ là nhà họ, họ không biết đi đâu nữa.
Giận dữ che chở cho người tức giận, nó là vỏ bọc ngăn anh ta cảm nhận sự tổn thương và đau đớn của mình. Tất cả những gì anh ta có thể nghĩ đến trong khoảnh khắc đó là đánh trả để bảo vệ lòng kiêu hãnh, trút giận để cảm thấy mình quan trọng và có sức mạnh. Sự cay đắng và thù địch là làn sương mù để anh không phải nhìn vào nỗi đau của mình. Lúc đó, sự nhẫn tâm với người khác, dù là người gây ra nỗi đau hay một kẻ thứ ba, có tác dụng như thuốc gây mê.
Và như thế, dần dần ký ức của người giận dữ kinh niên đầy ắp những sự khó chịu, khiến họ có xu hướng chỉ chú ý tới những khía cạnh tiêu cực của mọi thứ đang diễn ra. Quan điểm của họ rằng thế giới này xấu xí được khẳng định, vòng luẩn quẩn khép kín.

Nguồn cơn của sự giận dữ và mối lo ngại chữ “nhẫn” chỉ còn để trang trí ảnh 2
Người nhà bệnh nhân hành hung bác sĩ tại bệnh viện Thanh Nhàn.
Sức mạnh của sự điềm tĩnh
Giận dữ có thể là một người đưa tin tốt về một nhu cầu không được đáp ứng của ta, nhưng như các tác giả Adrian Faupel, Elizabeth Herick và Peter Sharp viết trong “Quản lý giận dữ - Một cuốn hướng dẫn thực hành”, nó là một người giải quyết vấn đề tồi. Câu “giận quá mất khôn” của người Việt được từ điển Oxford Dictionary trình bày lại hoa mĩ hơn, ở đây giận dữ được định nghĩa là một cảm giác khó chịu cực đại, và “đối ngược với lý trí”.
Hãy tự quan sát lần tới, khi ai đó lên án bạn là “Trơ trẽn!" chẳng hạn. Huyết áp của bạn bắt đầu tăng, hơi thở gấp, mắt bạn nheo lại, trường nhìn thu hẹp lại, bạn mất khả năng lắng nghe và thấu hiểu người khác. Bạn đáp trả. Bên kia tấn công lại. Bạn gặp khó khăn để kiểm soát mình, bạn bị biến dạng, không nhận ra bản thân nữa. Lúc này, bạn như một cái điện thoại bị treo, không tiếp nhận được những gì từ bên ngoài mà mâu thuẫn hay đi ngược với cảm xúc tức giận mà bạn đang có.
Khi cơn thịnh nộ qua đi, bạn thấy bã người ra, và có thể hối hận về điều bạn đã nói hay làm. “Giận dữ vô dụng,” Seneca - triết gia lừng danh thời La Mã cổ đại - viết vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, “ngay cả trong chiến tranh.”
Nhưng trái ngược với giận dữ là cái gì?
Không tức giận không có nghĩa là thờ ơ, mặc kệ, không có chính kiến. Không nổi giận không có nghĩa là nhút nhát, yếu đuối. Trái ngược với giận dữ là sự điềm tĩnh. Sự điềm tĩnh nằm ở giữa của giải tần mà một cực là sự lãnh đạm hay bạc nhược, và cực kia là sự hung hăng, căm giận ngùn ngụt.
Khác với nhu nhược, điềm tĩnh là nền tảng cho một thái độ cương quyết, đanh thép, sự minh mẫn, sắc bén và sức thuyết phục. Điềm tĩnh cũng khác với hung hăng ở chỗ nó không thô bạo và phá huỷ. Trong điềm tĩnh ẩn chứa sức mạnh. Nó là vũ khí sắc bén nhất để bạn không những bảo vệ mình mà còn những người liên quan trước chính họ.
Điềm tĩnh cũng không phải là kìm nén giận dữ, một dạng chạy trốn xung đột, bên ngoài "vẫn bình thường", không tỏ ra phản đối hay bất đồng, trong khi bên trong sôi sục như một nồi áp suất đóng chặt vung. Người cương quyết không lẩn tránh xung đột, mà bày tỏ nhu cầu của mình, bảo vệ niềm tin của mình, trong khi vẫn tôn trọng cảm xúc, nhân phẩm và lưu ý tới nhu cầu của người kia. Anh ta không có mong muốn hạ nhục hay đè bẹp người khác, không cưỡng ép hay đe doạ. Người điềm tĩnh mà cương quyết có thiện chí đi tìm giải pháp trong tinh thần hợp tác. Anh vững vàng ở giữa biển giận dữ của người khác.
Khả năng quản lý giận dữ là một thành tố cơ bản của trí tuệ xúc cảm và có vai trò quan trọng trong việc tạo cho ta một đời sống cảm xúc khoẻ mạnh và những quan hệ xã hội lành mạnh.
Trí tuệ xúc cảm có hai mặt. Một mặt, nó là khả năng nhận biết được cảm xúc của bản thân, có một vốn từ vựng lớn để gọi tên những gì đang xảy ra bên trong mình. Nó cũng là kỹ năng thể hiện những cảm xúc đó ra bên ngoài một cách có mức độ, điều hoà tâm trạng, không mất kiểm soát, không quát, gào, dùng nắm đấm, nức nở, suy sụp hay bỏ đi, và không để sự bấn loạn nhấn chìm khả năng tư duy.
Mặt khác, trí tuệ cảm xúc là năng lực "đọc" người khác, nắm bắt tình cảm của họ, hiểu được nguồn cơn hành động của họ, và phản hồi lại một cách tinh tế. Thấu hiểu không có nghĩa là chấp thuận quan điểm hay hành vi của người kia.
Theo Daniel Goleman - cha đẻ của các nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm, xã hội hiện đại đã quá chú trọng tới thông minh được đo qua IQ và tầm quan trọng của lý trí. Nhưng IQ sẽ không dẫn tới đâu nếu ta để cảm xúc cuốn mình trôi đi như một cơn lũ. Với Goleman, những người không nhận thức được xúc cảm của mình thì cũng không đọc được tâm trạng của người khác; họ vừa thiếu khả năng tự chế ngự vừa thiếu sự thấu cảm, hai yếu tố nền tảng cho một cuộc sống đạo đức. Người i tờ về cảm xúc trở thành kẻ phá hoại cuộc sống của chính mình và của những người liên quan.
Chuyển hoá giận dữ
Làm thế nào để thoát khỏi nhà tù của giận dữ? Làm thế nào để vươn tới được sự vững vàng của điềm tĩnh và cương quyết?
Bước đầu tiên là tự thú nhận là bạn đang ở trong tù, và điều này không phải là hiển nhiên hay dễ dàng với tất cả mọi người. Không muốn hạ xuống lớp giáp bảo vệ và nhìn vào những nỗi đau bên trong, người giận dữ hay tìm cách biện hộ cho thái độ của mình. “Tính khí tôi là như vậy”. Phổ biến hơn: “Chúng nó như thế thì không giận sao được.”
Khi đã hạ quyết tâm đến với tự do, bước thứ hai, theo nhà tâm lý học Potter-Efron, là học cách thể hiện sự bất bình của mình mà không mất kiểm soát, không để mình bị cơn giận đập cho tơi tả như tàu lá chuối trong cơn giông. Nhà tâm lý học Paul Ekman so sánh cơn giận với một núi lửa. Ở người nóng tính, núi lửa cao và có miệng rộng, thành núi dốc, cơn giận của người này phát sinh nhanh, kéo dài, và dữ dội. Ở người bình tĩnh hơn, núi lửa nhỏ và thấp, cơn giận tới chậm hơn, đi qua nhanh hơn, và ít phá huỷ hơn. Khả năng phục hồi nhanh khỏi một tâm trạng tiêu cực là dấu hiệu của một trạng thái tâm lý khoẻ mạnh và dẻo dai.

Nguồn cơn của sự giận dữ và mối lo ngại chữ “nhẫn” chỉ còn để trang trí ảnh 3
Sơ đồ núi lửa giận dữ của người dễ nóng giận (bên trái) và của người bình tĩnh (Nguồn: “Emotional Awareness”, Paul Ekman / Dalai Lama)
Mục tiêu của quá trình chuyển hoá giận dữ là dần dần khiến những núi lửa giận dữ nhỏ lại, mức độ cuồng nộ của mỗi cơn giận thấp hơn và gây ra ít thiệt hại hơn. Để làm được việc đó, bạn cần tìm cách kéo dài khoảng thời gian từ khi cảm xúc trỗi dậy tới hành động. Giữa dự định đánh trả, được khơi dậy bởi giận dữ, và bản thân hành vi trả thù, là những tích tắc ngắn ngủi. Nếu trong lúc đó bạn ý thức được về ý định trả thù của mình, bạn có thể ngăn chặn nó. Bản chất của trẻ con và những người lớn không tự kiểm soát được hành động luôn đi liền với cảm xúc: Có kẹo trước mặt là phải ăn ngay lập tức, bị tổn thương là nổi xung tấn công trả lại liền.
Khi bắt đầu nổi giận, hãy đếm tới 10 và thở sâu trước khi bạn nói hay làm gì đó. Nếu bạn rất giận dữ, hãy đếm tới 100. Khoảng thời gian này là cơ hội để nhận thức của bạn vào cuộc và lý trí của bạn lên tiếng, đẩy lùi những phản ứng tức thời và nhường chỗ cho những hành vi có suy nghĩ hơn, sau khi đã nhìn sâu vào bên trong mình và gọi tên sự tổn thương, nỗi đau hay sự thất vọng. Khi gọi được tên, cơn bão giận dữ đánh mất năng lượng của nó. Nhận thức làm bạn hiểu được vì sao người khác phẫn nộ, và giúp bạn giải toả tình huống như xì hơi một quả bóng.
Chìa khoá ở đây là ý thức về bản thân, nhận biết được ý nghĩ của ta, trạng thái của ta. Ngược với tình trạng này là khi ta suy nghĩ miên man mà không biết, hoặc khi ta bị cảm xúc lôi cuốn đi. Ý thức về bản thân là bước ra ngoài để quan sát chính mình, nhìn thấy sự giận dữ của mình, ý muốn gây hại của mình, như cái tôi thứ hai đang quan sát cái tôi thứ nhất một cách quan tâm nhưng không bị cuốn theo người anh em đang vật vã trong sự kích động của nó. Khả năng nhận biết nhạy bén về những gì xảy ra bên trong mình này giúp ta neo bản thân lại trong những con sóng cảm xúc.
Dalai Lama ví việc tu tập để quản lý giận dữ như một quá trình đi học. Ở bậc nhà trẻ, sau khi cơn giận qua đi, khi núi lửa đã phun trào và đã nguội, người ta mới nhận ra được tác hại của nó và rút kinh nghiệm cho phản ứng của mình trong tương lai. Tới bậc trung học, người ta có thể ý thức được về cơn giận của mình khi nó vẫn đang xảy ra, và qua đó điều chỉnh hành vi và lời nói của mình. Họ đã có khả năng giảm nhiệt cái núi lửa đang hoạt động. Ở mức Ph.D., người ta nhận ra sự trỗi dậy của giận dữ trước khi bất cứ một hành vi hay lời nói nào được buông ra, và qua đó không bị cảm xúc bắt cóc nữa. Có thể không cưỡng lại được sự trỗi dậy của tức giận, nhưng người có bằng Ph.D. nhận ra những tín hiệu của nó từ rất sớm, nhận ra nguy cơ núi lửa ngay từ khi mới có vài ngọn khói, và có thể trì hoãn hành động của mình cho tới khi cơn giận qua đi.
Tác giả Richard Meyer dùng một hình ảnh khác. Ông so sánh cảm xúc căm giận ở người không luyện tập như vết khắc vào đá, khó mà phai mờ. Với ý thức và tập luyện, dần dần sự giận dữ chỉ còn như được viết lên cát. Cuối cùng, nó chỉ thoáng qua như khi ta lấy que vẽ lên mặt nước.
Nhưng tất cả những kỹ thuật đều hạn chế nếu bạn không thay đổi được thái độ sống. Cuộc sống của bạn sẽ đầy ắp cáu kỉnh và bực bội nếu từ sáng tới tối bạn đi tìm câu trả lời cho hai câu hỏi này: Lại có vấn đề hay tin xấu gì nữa đây? và Tôi có thể đổ lỗi cho ai?
Liều thuốc chữa là phát triển một cảm giác sống dựa trên niềm tin vào người khác, nhìn nhận cuộc sống một cách lạc quan, ít hoài nghi hơn, vun đắp cảm giác yêu thương và được yêu thương. Bạn hãy thử lưu tâm tới khen ngợi chứ không chỉ trích người khác, nhìn ra những niềm vui trong cuộc sống bên cạnh những vấn đề mà bạn muốn thay đổi. Các nhà tâm lý học gọi đây là phương pháp thay thế: Khen ngợi thay cho chỉ trích, lạc quan thay cho bi quan, và tha thứ thay cho căm ghét.
Chúng ta cũng cần chấp nhận chúng ta không kiểm soát được cả thế giới. Plato có lý: Với những thứ thay đổi được, ta thay đổi chúng mà không cần phải nổi giận. Với những thứ không thay đổi được, lại càng không có lý do ta để bực bội. Tất nhiên, trong cuộc đời nhiều khi chúng ta không biết cái gì thuộc về nhóm đầu và cái gì thuộc về nhóm sau, nhưng lúc đó, sự tức giận lại càng không giúp bạn có được trí tuệ mà bạn cần.
Thêm nữa, chúng ta nên cam kết thay đổi, bất kể người xung quanh có thay đổi bản thân họ không. Nhiều khi chúng ta tự nhủ mình chỉ buông bỏ giận dữ khi chồng, vợ, bố mẹ, hoặc những cư dân mạng khác cũng vậy. Nhưng như thế thì không khác gì chúng ta không muốn thoát khỏi nhà tù của thịnh nộ chỉ vì người khác vẫn muốn ở trong đó. Ngược lại, khi chúng ta đã tự do, ta có thể giúp họ thoát ra khỏi nhà tù của chính họ.
Giận dữ và thay đổi xã hội
Cuối cùng, giận dữ đóng vai trò gì trong việc tạo ra thay đổi xã hội? Liệu người hoạt động xã hội có cần sự giận dữ cho công việc của mình? Qua những phần trên, câu trả lời có lẽ đã rõ.
Cảm xúc giận dữ ban đầu, nếu có, phải được chuyển hoá thành năng lượng tích cực. Người hoạt động xã hội cần đi qua tầng tầng lớp lớp những hiện tượng bề mặt để nhận biết những cơ chế bất công ở đằng sau, để suy nghĩ về chiến lược tạo thay đổi và vai trò của mình trong đó. Anh ta chỉ có thể làm vậy với một sự tỉnh táo, điềm tĩnh và bền bỉ. Giận dữ triền miên không những không có ích, nó còn cản trở việc nhận ra được tương quan của sự việc, mình có thể làm gì và không làm gì, và làm như thế nào. Người hoạt động xã hội hiệu quả thường hay được ví với một võ sĩ: Luôn luôn sáng suốt, tỉnh táo, cương nghị, và giầu kinh nghiệm.
Ngược lại, người phẫn nộ và chua chát triền miên trước thực trạng xã hội là người đã đầu hàng. Anh ta đã mất hy vọng; với anh, xã hội đã trở thành một đống bùng nhùng không gì gỡ ra được.
Cái chúng ta cần là nuôi dưỡng không phải là sự tức giận hay thù ghét, mà là khao khát muốn thay đổi, là đòi hỏi công lý không ngừng nghỉ. Căm giận khiến chúng ta muốn loại bỏ người làm ta giận. Khao khát thay đổi khiến chúng ta muốn chuyển hoá họ. Một trong những thành tựu và bí quyết thành công lớn nhất của Nelson Mandela là ông luôn luôn giữ được đối thoại với những kẻ đàn áp ông. Với ông, “kẻ đàn áp cũng cần được giải phóng, giống như kẻ bị đàn áp vậy.” Giải thích về việc mình đồng ý nhận giải Nobel Hoà bình cùng với tổng thống Nam Phi - de Klerk, ông nói: “Để tạo ra hoà bình với kẻ thù, bạn phải làm việc với kẻ thù đó, và kẻ thù đó trở thành người đồng hành của bạn”. Hiển nhiên, bạn không thể chuyển hoá kẻ thù thành bạn đồng hành bằng căm giận.

Xá chào người quá cố...

Xá chào người quá cố...

Đăng lúc: 14:51 - 27/07/2016

Nhân một câu chuyện đăng trên Tuổi Trẻ online về vấn đề cúi đầu chào người quá cố khi linh cữu đi ngang qua, tôi có vài suy nghĩ...
xachao.jpg
Một nhà sư Nhật Bản hành lễ trước đống đổ nát - là nơi nhiều người thiệt mạng do trận động đất

Thật ra, truyền thống kính người đã khuất đã có từ rất lâu rồi. Từ hồi Phật còn tại thế, chuyện được truyền lại trong kinh Báo đáp công ơn cha mẹ, trong đó có đoạn:

“Đáo bán lộ đành rành mắt thấy

Núi xương khô bỏ đấy lâu đời

Thế Tôn bèn vội đến nơi

Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng”…

Phật là Bậc Giác ngộ hoàn toàn, là Cha lành của “ba cõi bốn loài” nhưng Ngài cũng cung kính đảnh lễ đống xương khô. Vì sao vậy? Vì biết đâu trong đống xương khô đấy là hình hài của ông bà, cha mẹ hay là của chính ta trong nhiều đời nhiều kiếp, trải qua luân hồi sanh tử mà bỏ thi hài lại đó. Đọc, hiểu ý kinh như vậy, thiết nghĩ, hàng Phật tử chúng ta cần noi theo hạnh của Phật, cung kính trước người đã khuất cho dù trong đời hiện tại họ không có liên hệ máu mủ ruột rà với chúng ta và cũng có thể chúng ta chưa một lần biết mặt họ.

Sự cung kính đó không cần phải thể hiện bằng vật chất cao sang mà chỉ cần những hành động nhỏ như đi ngoài đường thấy đoàn xe tang thì ta chủ động nhường đường. Nếu có thể, hãy cúi đầu khi linh cữu đi qua để thể hiện sự tôn kính người đã mất. Ngoài ra, khi đi dự tang, chúng ta nên ăn mặc cho phù hợp và không đi lễ bằng giấy vàng mã hoặc những vật mang tính chất mê tín dị đoan khác.

Mục đích của tang chế là tiễn đưa linh cữu người quá cố trở về với cát bụi và một phần thông báo cho người thân, bạn bè biết người ấy đã qua đời. Thêm nữa, nhiều gia đình còn thỉnh chư Tăng lo về đời sống tâm linh cho người mất.

Ngày nay, chúng ta quá chú trọng vào hình thức trong lễ tang. Chúng ta tổ chức đám thật to, sử dụng quan tài thật đắt tiền, mời ca sĩ, các diễn viên xiếc tạp kỹ làm huyên náo xóm làng cả ngày lẫn đêm. Chúng ta thử hỏi làm những việc đó nhằm mục đích gì và có lợi cho ai? Chữ hiếu không nằm trong mâm cao cỗ lớn mà nằm trong đạo đức của người ở lại.

Một việc nữa là chúng ta hay có thói quen rải, đốt vàng mã cho người chết. Không biết thói quen này có từ bao giờ, nhưng theo tôi, nó thật sự không ích lợi. Thứ nhất, điều này làm tổn hao tài nguyên của xã hội (giấy được làm từ gỗ) mà không mang lại một lợi ích thiết thực nào; thứ hai, làm ô nhiễm môi trường sống của những người khác.

Singapore là đất nước được mệnh danh có ý thức bảo vệ môi trường tốt nhất thế giới, có những chế tài hết sức rõ ràng cho việc xử lý người xả rác bừa bãi. Người xả rác bừa bãi lần đầu tiên sẽ bị phạt tối đa là 1.000 đô-la Singapore, tái phạm thì mức phạt sẽ tăng lên 2.000 - 5.000 đô-la và phải lao động công ích. Có những hình phạt như vậy thì mới bảo vệ được môi trường sống và nâng cao được ý thức cũng như tình yêu của con người đối với môi trường tự nhiên.

Ở Việt Nam, thực chất cũng đã có Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12-7-2010 quy định về vấn đề xả rác nơi công cộng. Theo đó, hành vi xả rác nơi công cộng sẽ bị phạt tiền từ 100.000 - 300.000 đồng. Tuy nhiên, mức phạt này chưa thật sự đủ sức răn đe với người vi phạm và sẽ khó áp dụng đối với nhà có tang lễ. Không ai nỡ chặn đường một đám tang để xử phạt vài trăm ngàn. Nói như thế không có nghĩa chúng ta dung túng cho việc tang ma muốn xả bao nhiêu giấy vàng mã cũng được, mà các ngành chức năng có thể ghi lại hình ảnh rải vàng mã làm bằng chứng rồi sau đó phạt “nguội” cũng chưa muộn.

Dẫu biết rằng mất đi người thân là đau đớn, buồn bã biết nhường nào, nhưng chúng ta có nghĩ những công nhân vệ sinh cũng rất cực khổ khi phải quét dọn sau khi đám tang đi qua?

Xã hội ngày càng phát triển, chúng ta cũng phải mạnh tay dẹp bỏ những hủ tục, những thói quen đã không còn phù hợp với đời sống văn minh. Đồng thời chúng ta khuyến khích những nét đẹp đạo đức được giữ gìn và phát huy hơn nữa để đời sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Tấn Khang

Kim Tiểu Long trải lòng về vai diễn Đức Phật

Kim Tiểu Long trải lòng về vai diễn Đức Phật

Đăng lúc: 21:39 - 30/10/2015

Nghệ sĩ Kim Tiểu Long từ Mỹ về Việt Nam vào vai Đức Phật trong bộ phim "Công chúa Da Du Đà La" (do Thành hội Phật giáo Việt Nam TP HCM và Công ty TNHH phim Phượng Hoàng sản xuất). Phim này dài 4 tập, vừa đóng máy sau gần 2 tháng thực hiện.



Vai diễn để lại nhiều ký ức đẹp cho Kim Tiểu Long.
Vai diễn để lại nhiều ký ức đẹp cho Kim Tiểu Long.
Kim Tiểu Long cho biết bộ phim này có kịch bản do soạn giả Hoàng Ngọc Ẩn viết, phần cố vấn Phật pháp của Thượng tọa Thích Nhật Từ, Viện phó Học viện Phật giáo Việt Nam, kiêm Trưởng ban Văn hóa Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại TP HCM. Nội dung phim kể về cuộc đời Công chúa Da Du Đà La, người vợ hiền đức, thanh cao, hết lòng trung thành và hy sinh giúp chồng thành công trên con đường đi tìm chân lý.

Sau khi đắc đạo, Đức Phật trở về quê nhà giảng giải Phật pháp, công chúa thấm nhuần tư tưởng đạo Phật, xin xuất gia trở thành một vị tỳ kheo ni. Nhờ chăm chỉ tu học tinh tấn, chẳng bao lâu công chúa đắc quả A La Hán và trở thành một trong những ni sư xuất sắc.

"Tôi rất hạnh phúc khi được giao vai diễn Thái Tử Tất Đạt Đa và sau này đắc đạo thành Đức Phật Thích Ca. Phim này dự kiến phát hành dưới dạng DVD vào dịp Tết Nguyên Đán" - Kim Tiểu Long nói thêm.



Kim Tiểu Long trong cảnh chứng kiến vua cha qua đời.
Kim Tiểu Long trong cảnh chứng kiến vua cha qua đời.
Bối cảnh phim được thực hiện tại Đà Lạt.
Bối cảnh phim được thực hiện tại Đà Lạt.
Đạo diễn Phượng Hoàng đánh giá cao khả năng diễn xuất của Kim Tiểu Long, nhận định anh đã cố gắng tập trung cho vai diễn, tạo sự tương tác trong diễn xuất.



Kim Xuân, Hùng Minh hỗ trợ đắt lực cho dàn diễn viên trẻ tham gia bộ phim.
Kim Xuân, Hùng Minh hỗ trợ đắt lực cho dàn diễn viên trẻ tham gia bộ phim.
“Bên cạnh tôi còn có nhiều nghệ sĩ gạo cội đóng các vai phụ: Hùng Minh, Thanh Nguyệt, Kim Xuân, Công Minh, Chí Bảo, Xuân Trúc…Tất cả yểm trợ để tôi tự tin thể hiện vai diễn mình rất diễm phúc được nhận. Bộ phim này do sư nữ Ngọc Liên, vốn là hoa hậu doanh nhân và phụ nữ thành đạt do cộng đồng kiều bào tại Mỹ bình chọn, sau khi xuất gia nhà Phật, sư cô đã phát tâm đầu tư vốn để thực hiện bộ phim này” – Kim Tiểu Long thông tin.



Kim Tiểu Long trong cảnh phim được quay tại Đà Lạt.
Kim Tiểu Long trong cảnh phim được quay tại Đà Lạt.
Hiện Kim Tử Long đang chuẩn bị quay về Mỹ để biểu diễn theo hợp đồng đã ký với nhà tổ chức. Anh tranh thủ về Trà Ôn – Vĩnh Long thăm mẹ.



Kim Tiểu Long về thăm mẹ tại Trà Ôn, Vĩnh Long.
Kim Tiểu Long về thăm mẹ tại Trà Ôn, Vĩnh Long.

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 25
  • Hôm nay 405
  • Tháng hiện tại 62,159
  • Tổng lượt truy cập 23,468,408