Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
IMG 4767

Chùa Đức Hậu: Thành Kính Khóa Lễ Lạy Ngũ Bách Danh Vía Đức Quán Thế Âm tháng 9

Đăng lúc: 15:29 - 07/11/2017

Nhân ngày lễ vía Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngày 19/9 Đinh Dậu, chùa Đức Hậu tổ chức đảnh lễ xưng niệm Ngũ Bách Danh (500 danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm) với sự tu tập tinh tấn, tấm lòng nhiệt thành và tôn kính của Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ.

Chùa Đức Hậu tổ chức khóa tu Khánh đản đức Phật A Di Đà

Chùa Đức Hậu tổ chức khóa tu Khánh đản đức Phật A Di Đà

Đăng lúc: 16:02 - 15/12/2016

Suốt một tuần lễ khánh đản đức từ phụ A Di Đà Phật, đông đảo Phật tử đạo tràng Hương sen xứ Nghệ đã vân tập về chùa Đức Hậu tham dự khóa tu Niệm Phật, tham gia các buổi pháp thoại, thảo luận Phật pháp, đảnh lễ hồng danh, thắp hoa đăng cúng dường, và thực tập quán niệm.

Nhân ngày kỷ niệm Đản Sinh Đức từ phụ A Di Đà Phật, chùa Đức Hậu tổ chức khóa tu một tuần lễ từ ngày 11 đến ngày 17 tháng 11 năm Bính Thân (09 đến 15/12/2016).
Suốt một tuần qua, đông đảo các Phật tử thuộc đạo tràng Hương Sen xứ Nghệ (Phật tử đạo tràng chùa Đức Hậu, TP. Vinh và chùa Phúc Thành, Hưng Nguyên) và một số Phật tử các đạo tràng trong tỉnh đã vân tập tham dự. Trong chương trình tu tập, các Phật tử được chư tôn đức trong Ban giáo thọ hướng dẫn tụng kinh, niệm danh hiệu Phật A Di Đà, lạy 48 đại nguyện, dâng hoa đăng quán niệm, và được lắng nghe các thời pháp thoại do chư tôn đức Giảng sư ban bố.
Riêng hôm nay, ngày 17.11 âm lịch, chính thức kỷ niệm Đản sinh đức từ phụ Giáo chủ cõi Tây Phương, mặc dù thời tiết mưa dầm suốt ngày cũng không làm chùn bước chân tinh tấn của các hành giả. Từ sáng sớm, đạo tràng bắt đầu hành trì niệm Phật, sau đó trải nghiệm một buổi thảo luận rất sôi nổi do thầy Mục Đồng hướng dẫn. Lần lượt các vấn đề được nêu ra, như ngày 17.11 có phải chính thức là sinh nhật Phật A Di Đà không? Phật A Di Đà có hay không? Thế giới Cực Lạc ở đâu? Người hiểu Phật pháp và không hiểu Phật pháp cùng hành động ác, ai có tội nặng hơn? Lòng tin được xác quyết theo khía cạnh nào? Vì sao thờ Phật? Và, thờ tượng đức Phật, Bồ tát nào? v.v. Rất đông hành giả tham gia ý kiến, trình bày sở hành của mình, rồi sau đó được đúc kết lại để thông suốt hơn trong sự kiến giải và thực tập.
Sau thời khóa thực tập dùng cơm trưa chánh niệm và giải lao buổi trưa, đại chúng tiếp tục lắng nghe thời pháp thoại của ĐĐ. Giảng sư Thích Nguyên Liên. Thầy đã giảng rộng hơn về các khía cạnh của hạnh nguyện đức Phật A Di Đà và giáo lý Tịnh độ.
Sau pháp thoại là Lễ Quy Y cho các đạo hữu phát tâm trở thành Phật tử, và lễ hồng danh 48 đại nguyện.
Vào lúc 19 giờ tối nay (15.12.2016), sẽ diễn ra đêm hoa đăng Tưởng niệm, cúng dường Tam Bảo, đồng thời hồi hướng công đức cầu siêu cho thân mẫu Đại đức trụ trì Thích Định Tuệ, là hương linh Nguyễn Thị Chốn, pháp danh Thánh Hộ, vừa qua đời tại Đồng Nai.

6 điều đừng bao giờ hiểu sai về đạo Phật kẻo mất hết phúc báo

6 điều đừng bao giờ hiểu sai về đạo Phật kẻo mất hết phúc báo

Đăng lúc: 13:40 - 04/07/2016

Dưới đây là 6 điều đừng bao giờ hiểu lầm về đạo Phật tránh mất hết phúc báo

Đức Phật không có thật

Trong tâm thức tâm linh của nhiều người Việt, Đức Phật giống như các vị thần thánh khác, là đấng siêu nhiên không tồn tại hữu hình. Nhưng nếu tìm hiểu Phật giáo, là một tín đồ của Phật giáo, thì chắc hẳn không thể không biết, Đức Phật vốn xuất thân là một người trần mắt thịt.

Trải qua quá trình tu luyện, Người trở thành Phật và đi truyền đạo khắp nơi, cứu khổ chúng sinh. Đời sau để tưởng nhớ công đức và tôn vinh những giá trị nhân sinh tốt đẹp mà Ngài mang lại nên thờ cúng.

Cầu Phật xin thứ nọ, thứ kia

Vẫn tồn tại trong một cộng đồng người quan điểm Phật là đấng tối cao ban phước lành cho nhân loại. Những người không đi chùa có những suy nghĩ này là có thể chấp nhận được, tuy nhiên với những người đi chùa thường xuyên vẫn tồn tại quan điểm này thì thực sự rất khó hiểu. Họ đi chùa và cầu xin đủ thứ . Họ cầu sức khỏe, cầu giàu sang, cầu gia đình ấm êm hạnh phúc, cầu con cái công thành danh toại. Họ cúng vài trái cam, đôi nải chuối, vài trăm nghìn…và tự cho rằng mình đã đủ thành tâm để trời Phật phù hộ cho nhiều điều.

Cũng rất nhiều người khác, muốn có đời sống bình an, năng đi chùa lễ Phật, lập bàn thờ Phật tại nhà và nghĩ rằng như thế sẽ được thần Phật phù hộ suốt đời, đến khi thác đi chắc chắn sẽ về cõi cực lạc. Họ bỏ qua những trần trụi của cuộc đời, bỏ qua những giáo lý nhân quả của Phật để rồi kiến tạo nên một kiểu sống lệch lạc sai lầm, tự cho mình cái quyền sống ung dung tự tại với tất cả, coi thường tất cả vì đã có Phật “chống đỡ” đằng sau. Tuy nhiên, nên nhớ rằng Phật dạy muốn có quả ngọt lành thì gieo nhân hạt thơm tho. Đừng mong gieo hạt ớt mà gặt trái chanh. Cuộc sống vô thường nhưng nhân quả báo ứng liên hồi, tiền kiếp hậu kiếp xấu tốt nhục vinh cơ bản cũng bởi cách sống mỗi người mà ra.

Điều này có nghĩa là, phước lành của chúng ta do chính chúng ta tạo nên, không phải do Phật ban phước mà chính từ những nhân mà chúng ta gieo ở đời, họa hay phước sẽ từ đó mà ra vậy.

Niệm Phật là đọc danh hiệu Phật

Tụng kinh, niệm Phật không phải để cầu cúng hay học thuộc lòng, đọc lên là sẽ được Phật chứng cho. Mục đích lớn nhất của việc này là để chúng đệ tử ghi nhớ lời Phật dạy, soi sáng bản thân, giác ngộ Phật pháp và hành động theo. Vừa tụng niệm, vừa thấm nhuần và ghi nhớ, làm theo, ấy mới là niệm Phật chân chính.

Mô tả ảnh.
Ảnh minh họa
Đi tu là phải ăn chay

Đây là một trong nhiều ám ảnh của những người bước đầu tìm hiểu về Phật giáo. Họ không cưỡng lại được ham muốn ăn mặn của mình và cảm thấy ăn chay khi đi tu thật sự là một điều kinh khủng. Tuy nhiên, Phật giáo không bắt buộc con người ta ăn chay. Ăn được là tốt, nhưng nếu không ăn chay được thì nên hạn chế sát sinh.

Còn nhớ, ngày xưa khi chưa có điều kiện ăn chay, Phật đi khất thực và ăn những gì được cho, đôi khi vẫn ăn mặn vì dân chúng cho đồ mặn và đó không phải là điều tội lỗi. Ăn chay nhưng không hành thiện, ăn chay nhưng vẫn giữ những sân hận trong lòng, đối đãi với người trên bằng sự bất kính, đối đãi với người dưới bằng sự thị uy khinh miệt, thì đó cũng không bằng ăn mặn mà nhân từ hiền hậu, sống thiện tâm hiền lành.

Phật có toàn quyền quyết định số phận con người

Quan niệm này lý giải cho những việc hành mê tín dị đoan trong cộng đồng người Việt hiện nay. Họ cho rằng số phận của mình được quyết định bởi những đấng thần linh tối cao như Chúa, Thượng đế, Phật…chính vì vậy họ luôn sống trong một niềm nghi ngờ về tất cả những biến cố đến với mình, coi như đó là sự an bài và có thế nào cũng không thoát được số kiếp đó. Từ đó, một đại bộ phận người đã lợi dụng tâm lý này để hành nghề mê tín dị đoan, khiến cho đạo Phật có những hình thức biến thể không giống như giáo lý chính thống.

Đạo Phật chỉ dành cho người già

Tâm linh thì không có tuổi, tôn giáo thì không phân biệt người. Phật giáo là chỗ dựa về tinh thần cho tất cả những ai đang muốn đi tìm hạnh phúc đích thực của cuộc sống. Dù đang còn trẻ hay tuổi đã xế chiều thì Phật giáo cũng đều mang đến cho bạn những kiến thức, những bài học, những kinh nghiệm và triết lý sống đơn giản nhưng ý nghĩa.

Nghe lại chính mình

Nghe lại chính mình

Đăng lúc: 23:05 - 24/06/2016

"Duyên xuất gia thì xuất gia, duyên cư sĩ thì vui làm cư sĩ; đừng cố chấp, gồng mình làm theo mà dễ bỏ cuộc. Trên bước đường tu tập thì đừng vội thấy chùa to lớn mà nghĩ nơi ấy là trú xứ của Chánh pháp; đừng vội thấy thầy được đông chúng vây quanh mà nghĩ là minh sư.

Con hãy đi, hãy nhìn, nghe kỹ và ngẫm sâu để biết rằng: đến ngôi chùa dù to hay nhỏ, dù nghèo hay giàu nhưng tới nơi ấy thì được an nhiên, tự tại, chỉ muốn cúi đầu đảnh lễ chư Phật, Bồ-tát, Hiền Thánh Tăng mười phương ba đời thì đó là Tam bảo hiện tiền. Còn nếu gặp vị thầy nào dù có vẻ ngoài sang trọng hay giản dị, con đừng bận tâm việc ấy, hãy xem từ nơi thầy có toát ra sự ấm áp, yêu thương, vỗ về, che chở; là vị thầy mà đáng để mình kính trọng thì đó thật là vị thầy để con đảnh lễ, vui nghe và học theo hạnh tu của người…”.

Ni sư đã nói với tôi những lời ấy khi những năm tôi còn đương trai trẻ, chỉ khoảng 24, 25 tuổi. Lứa tuổi của cống hiến, khả quyết và dễ chạy theo cảnh trần. Những lời nói ấy cứ âm ỉ chảy trong tôi. Và tôi đã đi và thấy đúng như vậy. Hiện Ni sư đã hơn 30 năm miệt mài tuổi đạo, 72 tuổi đời sống vì yêu thương hết thảy và chân chánh.

“Nghe kỹ và ngẫm sâu”, lời Ni sư dạy, chợt đồng hiện trong tôi từ những lời kinh Phật. Lúc nào Ngài cũng bắt đầu cụm từ “các ông hãy chú ý lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Tôi sẽ vì các ông mà nói…”. Như vậy sự chú ý lắng nghe kỹ sẽ đem lại hiệu quả. Bởi có tập trung, có để tâm đến vấn đề hiện tại đang giải nghi hoặc đang đàm luận hoặc đang trên bước đường tu hành thì sẽ thực hành đúng, có vậy mới gặt hái thành công. Nếu không nghe kỹ, không chú ý sẽ nghe nhầm và suy luận lệch lạc. Lúc đó thực hành sẽ sai đường. Vậy thì mê vẫn hoàn mê, chưa thể tri kiến khai ngộ.

Trong một ngày chúng ta nghe rất nhiều thứ âm thanh, mình chạy theo âm thanh ấy để phân biệt đúng sai, tốt xấu để rồi phiền não dấy lên như những cơn sóng biển luôn chồm lên vồ vập. Cái nghe ấy chỉ là nghe của thanh trần bên ngoài, của vọng tưởng, của phân biệt, thị phi cho nên mình buồn, khổ, than oán. Ít khi nghe kỹ, ngẫm sâu để thấy cái nghe thật sự trong tâm trong veo kia. Nghe lời xu nịnh, thêu dệt, nói đôi chiều, nói dối, lời đường mật… thì sẽ gây ra bao cảnh đổ vỡ. Bởi nghe một chiều, nghe không kiểm chứng, nghe không suy sâu xét kỹ thì nghe đó trôi lăn trong vô minh đau khổ. Người từng nhắc với tôi rằng đừng vội nghe cô nói mà con hãy đi xa, đi nhiều, rồi có dịp tiếp xúc và suy xét lại để thực hành cho đúng.

Sau bao năm nửa đời, nửa đạo tôi vẫn thấy sự tu và công phu tu phi thời của Ni sư luôn là hành trang quý báu để mình học theo hạnh nguyện ấy trên bước đường học và hành theo lời Phật dạy. Ni sư ngoài những thời khóa công phu chung thì vẫn luôn dành cho riêng mình thời khóa: kinh Lăng Nghiêm, kinh Vạn Phật, Lương Hoàng Bảo Sám.

Ni sư từng nói rằng: “Lạy Phật bằng niềm tin chân thật. Sám hối nghiệp chướng từ tâm chân thật. Tụng kinh cũng từ tâm chân thật. Trì chú cũng từ tâm chân thật. Ngồi thiền cũng từ tâm chân thật không vọng tưởng mong cầu… thì tất cả sẽ có cảm ứng vậy!”. Mái chùa quê, lời nói của vị Ni sư giản dị mà sâu xa thuần lắng biết bao.

Ni sư xuất thân trong một gia đình giàu có. Mẹ làm nghề kim hoàn, từ nhỏ ăn uống đã có người hầu kẻ hạ, thế nhưng vẫn một lòng quy hướng Phật. Mẹ người từng nói: “Tu khó lắm con ơi!”... Trải qua bao gian khó và bằng ý chí tha thiết mãnh liệt, cuối cùng người đã thực hiện được hạnh xuất gia, theo bước Như Lai giải thoát khổ đau của cảnh huyễn mộng thế gian này.

Chiều nay, tôi nương cái nghe theo tiếng mưa để trở về với âm thanh của tiếng chuông chùa quê mộc mạc, nơi mà tôi từng có lần đã cùng với những bậc hiền trì kinh Pháp hoa. Tôi ngồi im lặng và nghe lại chính mình, nghe lại bản tâm trong veo của mình cũng như những giọt nước ngoài thinh không kia trong trẻo đang tuôn chảy cho đời tươi mát, mặc kệ tiếng khen chê.

Tôi định vấn an Ni sư qua điện thoại, nhưng thôi… và tôi với người đang gọi nhau từ chốn không cùng của vô biên trú xứ để hòa cùng dòng nước mát này ra biển tâm rộng lớn. Tôi thầm nói: Con lạy thầy! Con đã trở về! Thế rồi âm thanh đại hồng chung đang rung trong không gian đặc sệt mưa. Tôi ngồi đó in như bất động mà mặc tưởng công hạnh chư Phật rồi thầm niệm danh hiệu Phật để an trú trong an lạc hiện tại, ngay phút giây này.
Tâm Anh

Bí ẩn về hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Bí ẩn về hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Đăng lúc: 22:02 - 23/05/2016

Theo các tài liệu nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng và nhất là cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng thì từ năm 1419 Tây Tạng đã có truyền thống về sự hóa thân khi Đại Sư Tsong Khapa qua đời.



Tây Tạng đã có truyền thống về sự hóa thân từ năm 1419.

Vị này đã chỉ định sư Gedum Truppa thay thế mình. Chính vị sư này đã nguyện rằng sau khi chết sẽ tái sinh trở lại để cứu độ chúng sinh. Để các đệ tử biết được mình sẽ hóa thân vào người nào, Đại sư đã chỉ rõ một vài thứ đồ dùng hàng ngày của mình và viết một bài kệ đặc biệt. Sau khi Đại sư Gedun Truppa viên tịch được 2 năm, các đệ tử đã thăm dò, theo dõi, tìm kiếm khắp nơi hóa thân của Đại Sư.

Lúc bấy giờ ở một vùng kế cận Thủ Đô, có một bé trai mới 2 tuổi nhưng ăn nói và hiểu biết thông thạo như người lớn. Nghe được tin này, các đệ tử của Đại Sư đã tìm đến tiếp xúc. Họ thấy cậu bé trả lời những câu hỏi do họ đưa ra rất trôi chảy. Sau đó là cuộc thử thách, họ đặt những di vật của Đại Sư Gedun Truppa lẫn lộn với nhiều đồ vật khác của những vị sư khác trong tu viện trước mặt cậu bé rồi hỏi như sau:

– Hãy cho biết những thứ nào người đã thường dùng ngày xưa?

Cậu bé nhìn tất cả các thứ rồi lựa chọn những di vật của Đại Sư Gedun Truppa để riêng ra một bên rồi nói:

– Đây là những thứ tôi thường dùng ngày trước.

Các đệ tử vô cùng kinh ngạc, một người nhớ lại bài kệ liền đưa cho cậu bé đọc thử. Không ngờ vào tuổi nhỏ như vậy mà cậu bé lại đọc được cả bài kệ và còn giải thích luôn những đoạn khó hiểu cho mọi người nghe.



Sau khi đã chắc chắn đó là vị Hóa Thân của Đại Sư Gedun Truppa. Các đệ tử đã rước cậu bé về tu viện và tôn lên làm Sư Trưởng với danh hiệu là Gedun Gyatso. Tại tu viện, cậu bé đã được huấn luyện rất kỹ về giáo lý quy luật và mọi thứ dành cho vị Sư Trưởng sau này. Gedun Gyatso rất thông minh, học một biết mười, có lần cậu bé thấy nhiều người trong tu viện kinh ngạc về trí thông minh của mình nên đã nói một câu như sau:

– Thế các người không biết ta chính là Đại Sư Gedun Truppa hay sao?

Về sau, cậu bé lớn lên trong tu viện cùng với các tài năng xuất chúng của mình. Lúc bấy giờ ông là một Sư trưởng nổi danh về tài đức, thông suốt mọi kinh điển Phật giáo và đã đi rao giảng, giúp đỡ mọi người từ những làng mạc xa xôi đến những nơi heo hút khiến mọi người dân ở Tây Tạng đều tôn sùng kính nể.

Sư trưởng có nhiều ước nguyện trong vấn đề cứu độ chúng sanh. Nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu thì bệnh bất ngờ và qua đời. Trước khi tắt hơi, vị Sư trưởng này đã trăn trối lại mình sẽ tái sinh lần nữa để mong hoàn tất ý nguyện. Lần này, ông để lại một số di vật khác trước và một bài kệ mới để các đệ tử dùng trong việc tìm ra người mà Sư trưởng sẽ đầu thai vào.



Không đầy một năm rưỡi sau, người ta phát hiện được một ngôi làng ở rất xa thủ đô có một cậu bé ra đời trong một gia đình nghèo. Bé này có những cử chỉ và lời nói rất lạ lùng. luôn luôn tỏ vẻ nôn nóng và yêu cầu đến được tu viện để gặp mặt một số vị sư ở đó. Tu viện liền cử ba người đến ngôi làng ấy. Khi đi, họ đem theo các di vật của Sư trưởng cùng bài kệ.

Trước lúc phái đoàn đến nhà một ngày, cháu bé đã báo cho gia đình biết là: “Ngày mai sẽ có khách quý đến thăm, hãy chuẩn bị trà nước đón khách”. Quả nhiên ngày hôm sau phái đoàn tu sĩ của tu viện chính đến, cháu bé đã nhận ra một người trong đoàn, đó là một vị sư già. Các vị sư lại bày ra các di vật của sư trưởng chen lẫn với những thứ khác vào và yêu cầu cháu bé chọn ra hai đồ vật mà trước đây sư trưởng đã sử dụng. Cậu bé không chỉ chọn đúng đồ vật mà còn đọc cả bài kệ.

Cháu bé được tôn vinh sau đó làm vị Đại Sư tên là Sonaw Gyatso. Vị Đại Sư tài ba lỗi lạc còn hơn cả vị Sư trưởng trước. Điều này được các vị Trưởng Lão giải thích rằng: qua nhiều lần tái sinh và học hỏi, lần tái sinh sau bao giờ cũng đặc sắc hơn vì đây là một sự tiến hóa, trong đó có sự tiến hóa rõ ràng về kiến thức. Hơn nữa vì sự Hóa thân nên các vị này luôn luôn tu bồi thêm công quả và sự học hỏi của mình.

Năm 1588, Đại Sư Sonaw Gyatso qua đời, lần này vị Đại Sư căn dặn các đệ tử trước khi xuôi tay là mình sẽ lại tái sinh một lần nữa để cứu độ người Mông Cổ. Vị Đại Sư đã để lại một số di vật và một bài kệ ngắn để các đệ tử đối chiếu và tìm kiếm người hóa thân.

Đến khoảng năm 1593, các đệ tử mới tìm gặp một bé trai 5 tuổi có những điều rất phù hợp với cuộc thử nghiệm. Bé trai này được đưa về tu viện và phong danh hiệu là Yonsten Gyatso. Về sau, bé trai này trở thành Đạt Lai Lạt Ma.

Khi Yonsten Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 này qua đời, các đệ tử lại theo truyền thống như trình bày từ trước để tìm người kế vị. Đó là Hóa thân của chính Yonsten Gyatso. Đây là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 danh hiệu là Lobsang Gyatso.

Các vị Đạt Lai Lạt Ma tuần tự nối tiếp theo phương thức Hóa thân đã cố gắng chăm sóc nhân dân và gìn giữ đất nước được độc lập lâu dài trong suốt mấy trăm năm.



Đạt Lai Lạt Ma lần thứ 14.

Tục truyền rằng khi vị Đạt Lai Lạt Ma Thupten Gyatso qua đời, nhục thân ngài ở vị thế ngồi tĩnh tọa và được ướp xác theo phương pháp cổ truyền. Nhưng sau đó các tu sĩ thấy mặt ngài đã chuyển về hướng Đông Bắc. Vị sư già nhiều kinh nghiệm đã suy ra rằng đức Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ hướng, nơi mà ngài lại tái sinh.

Từ đó cuộc tìm kiếm vị Hóa thân của ngài được tiến hành. Một hôm họ nghe đồn về một cháu độ 3 tuổi rất thông minh và thường nhắc đến các vị sư cũng như thích kinh điển. Cháu bé rất vui mừng khi thấy các nhà sư vào nhà mình nên chạy vội đến mà ngồi lên đùi một vị trưởng lão hòa thượng vì vị này có đeo một chuỗi hạt rất đẹp vị sư hỏi:

– Tên ngươi là gì?

Cháu bé đáp:

– Tôi là Lhamo

Vị sư lại chỉ một nhà sư đứng bên cạnh và hỏi:

– Đây là ai?

Cháu bé đáp:

– Đây là Lạt Ma Scra.

Các cuộc trắc nghiệm kế tiếp đều được Lhamo làm đúng hoàn toàn. Do đó phái đoàn quyết định đưa Lhamo về kinh đô. Đến năm gần 5 tuổi. Bé Lhamo chính thức được tôn vinh là Đạt Lai Lạt Ma lần thứ 14.

Xuân Thu (Tổng hợp)

Tuần lễ tu học nhân mùa Phật Đản - Chùa Đức Hậu

Tuần lễ tu học nhân mùa Phật Đản - Chùa Đức Hậu

Đăng lúc: 21:56 - 22/05/2016

Tuần lễ tu học và tọa thiền, niệm danh hiệu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ, Chùa Đức Hậu, Nghi Đức, TP Vinh, Nghệ An. Do Đại Đức Thích Định Tuệ tổ chức.
Tuần lễ tọa Thiền liên tục trong một tuần từ ngày mồng 8 đến ngày 14-4 -AL đã thành công viên mãn, hàng nghìn phật tử về tu tập, thực tập trong chánh niệm, trau dồi nhân cách , thả mình trong không gian bình yên, và nhất tâm Trì Tụng danh hiệu của Ngài, tuần lễ tu tập đã khép lại trong niềm hoan hỉ của tất cả các Phật Tử trong Đạo Tràng và những người dân nơi đây.















Kết thúc khóa tu vào đêm 14 tháng 4 âm lịch ( 20 tháng 5 dương lịch năm 2016). Thầy Đại Đức Thích Định Tuệ đã long trọng tổ chức Lễ tắm Phật tại Chùa Đức Hậu các Phật Tử trong Đạo Tràng cùng lắng lòng thanh tịnh dây phút thiêng liêng trong nghi thức cử hành nghi lễ tắm phật bằng tất cả tấm lòng thành kính của người con Phật trong mùa Khánh đản Phật lịch 2560. Chúng con chắp tay nguyện cầu cho thế giới thanh bình, đất nước phồn vinh, gia đình ấm no hạnh phúc, chúng sanh thấm nhuần mưa Pháp, mọi người đều được Phúc lạc.
Sau đây là một số hình ảnh.

Lắng nghe để hiểu & thương

Lắng nghe để hiểu & thương

Đăng lúc: 10:58 - 28/03/2016

Một con cú già khôn ngoan sống ở cây đa. Nó càng nhìn thấy sự đời thì càng ít nói. Mà nó càng ít nói thì lại lắng nghe nhiều. Tại sao mình lại không như con cú già khôn ngoan kia? (Khuyết danh).
bo-tat-QTa.jpg
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian...

Khi còn bé thơ, chúng ta được dạy ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’. Và càng nói nhiều thì đó là dấu hiệu phát triển bình thường. Nhưng ít khi nào chúng ta được dạy phải biết lắng nghe. Và phần nhiều, cha mẹ, thầy cô, các bậc phụ huynh, v.v… không để tâm nhiều đến chuyện dạy dỗ cách biết lắng nghe. Tất nhiên, cha mẹ hay các thầy cô có dạy mình phải biết nghe lời. Nhưng ít khi chúng ta được dạy cách biết lắng nghe cho đúng.

Thường khi trong một cuộc đối thoại, chúng ta muốn người đối diện nghe ý kiến của mình muốn phát biểu, hay diễn đạt hơn là mình nên lắng nghe ý tưởng của họ. Nếu đã là vậy, rõ ràng không có sự lắng nghe xảy ra. Mà hễ không có sự lắng nghe, hiểu và cảm thông sẽ không bao giờ được thiết lập. Vợ chồng thường hay gặp phải tình cảnh này, nên có câu nói chọc cười: ‘Ngày xưa chồng nói vợ nghe. Bây giờ chồng nói vợ chê lắm mồm’. Cho nên, biết lắng nghe là nhịp cầu nối đầu tiên cho sự hiểu biết, cảm thông.

Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, sở dĩ Ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp, nhất tâm niệm danh hiệu của Bồ-tát, Ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu họ thoát khỏi tai ách.

Nhiều kinh điển nói về công hạnh của Bồ-tát, về sức uy thần diệu dụng của Ngài, thường hiện thân khắp nơi cứu giúp người đang đau khổ trên trần gian. Nhưng để tu tập theo hạnh nguyện từ bi, cứu khổ của Ngài, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu thêm một số chi tiết về những hạnh nguyện đó.

Trong kinh Pháp hoa nói Ngài thường thị hiện 33 hóa thân. Nhưng theo thiển ý, chắc đây là con số tượng trưng. Ngài được mô tả là một vị Bồ-tát luôn hóa thân cứu khổ mọi loài chúng sinh. Ngài hóa thân là một hiện tượng đặc thù theo tinh thần ‘tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên’, biểu lộ tấm lòng đại từ bi, không phân biệt kẻ thân, người sơ, kẻ thâm tín, người hoài nghi, thậm chí người vô thần, ngoại đạo.

Hiện tượng hóa thân nói lên sự thấu hiểu và cảm thông thật sâu sắc nỗi sợ hãi, mối ưu lo của chúng sinh trong thế giới đảo điên, mộng tưởng. Để được tiếp cận với một chúng sinh đang đau khổ, Ngài hiểu rõ rằng một người xa lạ, dù là một Bồ-tát, sẽ khó có thể đến gần để chúng sinh kia được giãi bày nguồn cơn nỗi khổ của mình.

Theo kinh nghiệm đời thường cho thấy, khi chúng ta đang đau khổ hoặc phiền não mình chỉ muốn chia sẻ với ai biết lắng nghe, thông cảm, và không có ý phê phán, bình phẩm về những điều mình đã làm sai, hay tâm tình mình đang giãi bày, thổ lộ. Và thường mình muốn chia sẻ với người quen biết, dễ thương, hoặc người nào tôn trọng ý tưởng và tình cảnh của mình. Nếu hiểu được điều này, chúng ta có thể đóng vai sứ giả của Đức Quán Thế Âm, lắng nghe mà không phê bình, chỉ trích để giúp làm vơi nỗi khổ của người.

Thật ra, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng làm sứ giả Quán Âm, và muốn thành tựu vai trò này đòi hỏi mình phải biết lắng nghe.

Nhưng biết lắng nghe là một nghệ thuật. Nghĩa là chúng ta phải quên mình đi mà chỉ biết nghe người kia đang nói gì. Biết lắng nghe đòi hỏi mình phải biết lắng đọng tâm tư để nghe rõ thông điệp của người mình đang đối diện. Cái bi kịch thường hay xảy ra cho chúng ta là khi mình muốn học hạnh lắng nghe nhưng cứ mỗi khi nghe xong câu chuyện mình lại diễn dịch nó qua lăng kính kinh nghiệm của bản thân, giống như mình nhìn thấy một sự kiện qua cặp kính màu của mình, nên thay vì hiểu và cảm thông, chúng ta lại chỉ trích hay phê phán người đối diện là dở cái này, thiếu cái nọ.

Do đó, hành động lắng nghe của mình bị thất bại. Nếu chúng ta biết lắng nghe qua tâm hạnh từ bi như Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta biết tôn trọng ý tưởng của người nói và lắng nghe cho kỹ những nỗi khổ đau mà họ đang trải nghiệm, thì công sức lắng nghe của mình sẽ chắc chắn mang lại một kết quả tốt và có thể sẽ làm vơi đi nỗi khổ của người.

Ngoài việc hóa hiện các thân để cứu độ, Ngài còn có khả năng làm cho chúng sinh hết lo sợ (vô úy thí). Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn có nêu lên 14 hoàn cảnh, những trường hợp tượng trưng, mà Ngài đã vận dụng năng lực vô úy để cứu độ. Năng lực vô úy là một khả năng đặc thù mà chỉ có những ai thật định tĩnh, tự tin, và từ bi vô hạn mới có thể làm được. Như một bà mẹ thương con vô cùng mới có thể làm con mình yên tâm dù hoàn cảnh trước mặt đang xảy ra vô cùng bất lợi và nguy hiểm. Sở dĩ chúng ta cảm thấy an lòng, không hoảng sợ, kinh hoàng trước sự hiện diện của Bồ-tát Quán Thế Âm vì Ngài sẵn lòng hy sinh bản thân để cứu độ mọi người.

Chúng ta cũng đã từng nghe qua năng lực vô úy này được các thiền sư thể hiện, như trong câu chuyện sau: Trong thời nội chiến ở Triều Tiên, một vị tướng soái dẫn quân đánh chiếm hết vùng này đến vùng kia, hủy diệt hết những gì cản trở bước tiến của ông ta. Dân chúng trong thành biết đoàn quân của vị tướng đang đánh tới, và nghe tiếng tàn bạo của ông ta nên mọi người đều trốn lánh vào vùng núi cao.

Vị tướng tiến chiếm thành không người và ra lệnh quân lính tìm kiếm dân trong thành khắp nơi. Vài người lính trở về báo cáo chỉ có một thiền sư còn ở lại. Vị tướng quân liền vội vã đến chùa, đi thẳng vào bên trong, rút gươm ra, và nói: “Lão thầy chùa kia, ông không biết ta là ai sao? Ta là người có thể thản nhiên lấy mạng của ông không chớp mắt”. Vị thiền sư nhìn thẳng vào mặt ông tướng soái và bình thản trả lời: “Và tôi, thưa ngài, là người có thể để ngài lấy đầu mà cũng không chớp mắt”. Vị tướng quân nghe xong, liền cúi đầu và bỏ đi.

Sợ hãi là bản năng của con người, ai sinh ra cũng có. Nhưng các bậc thánh, hay như người căn tính yếu kém như chúng ta, nếu biết tu tập tinh chuyên và có lòng từ bi vô lượng, đều có khả năng, không những vượt qua nỗi sợ hãi của bản thân, mà còn khéo giúp người khác an tâm, không lo sợ. Tu tập hạnh từ bi có khả năng giúp mình vượt qua khổ hải và cũng giúp được người vơi bớt khổ đau. Vậy muốn có được năng lực vô úy thì chúng ta không thể thiếu hạnh từ bi.

Tuệ giác của pháp môn lắng nghe, không chỉ nằm trong việc lắng nghe âm thanh, lời nói, ngôn ngữ của người đối diện, mà còn vận dụng hết cả thân tâm mình từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và cả ý căn, để hiểu thấu và thấy rõ từ cử chỉ, hành vi, và sắc diện của họ đang nói lên những gì, mà lời nói, ngôn ngữ chưa diễn đạt, trình bày được hết ý của câu chuyện.

Chỉ cần vận dụng một phần ba (1/3) năng lượng của tuệ giác lắng nghe là chúng ta đã có thể giúp vơi đi nỗi khổ của người khác nhiều lắm rồi. Nhưng tiếc thay, đa số chúng ta thích nói hơn là thích nghe nên năng lượng của tuệ giác lắng nghe ít khi được sử dụng. Sở dĩ, mình thích nói hơn lắng nghe vì bản ngã, hay cái ta, đóng vai trò lớn trong việc thể hiện tầm quan trọng của bản thân, con người mình. Không ai muốn đóng vai trò ‘thấp cổ, bé miệng bao giờ!’. Hiểu rõ được điều này và phải vận dụng nhiều công phu tu tập mới có được chút khả năng lắng nghe vi diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Nhân ngày lễ vía của Đức Bồ-tát, chúng ta hãy cùng nhau vận dụng hết năng lực của mình để nhất tâm tu tập nguyện noi theo công hạnh của Ngài và để xứng đáng làm một sứ giả của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Tháng 10-2015
Tuệ Nghiệp

Tuần lễ tu tập kỷ niệm vía đức Phật A Di Đà tại chùa Đức Hậu - Nghi Đức - thành phố Vinh

Tuần lễ tu tập kỷ niệm vía đức Phật A Di Đà tại chùa Đức Hậu - Nghi Đức - thành phố Vinh

Đăng lúc: 11:05 - 27/12/2015

Tối ngày 10/11AL ( tức ngày 20/12 năm 2015) tại chùa Đức Hậu - Nghi Đức, thành phố Vinh, đã khai mạc khóa tu niệm Đức Phật A Di Đà trong thời gian một tuần lễ ( Từ 10/11 đến ngày 17/11 AL năm 2015) dưới sự tổ chức và hướng dẫn của Đại Đức Thích Định Tuệ - trụ trì chùa Đức Hậu, chùa Phúc Thành, Tp VInh, Nghệ An. Hôm nay ngày 16/11(tức ngày 26/12 năm 2015) vào lúc 7h30, các Phật Tử thiện nam, tín nữ khắp nơi đã hoan hỉ , vân tập về chùa. Tham dự và chứng minh có Đại Đức Thích Minh Lâm, Đại Đức Thích Minh Duy - trụ trì Tịnh Xá Ngọc Thịnh- Tp Hồ Chí Minh, Đại Đức Thích Quảng An, Sư Cô Thích Nữ Minh Hoa, cùng với các em trong gia đình vườn Tuệ và Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ.

Myanmar: Ngôi Danh lam Cổ tự Kuthodaw có cuốn sách đá lớn nhất thế giới

Myanmar: Ngôi Danh lam Cổ tự Kuthodaw có cuốn sách đá lớn nhất thế giới

Đăng lúc: 09:18 - 01/11/2015

Hiện nay, cuốn sách khổng lồ lớn nhất thế giới này cùng các bản khắc trên đá đã trở thành một báu vật quốc gia của Myanmar, và một phần quý giá của di sản văn hóa Phật giáo trên thế giới.

Ngôi Danh lam Cổ tự Kuthodaw nằm ở chân núi Mandalay, Myanmar và được xây dựng vào thời vua Mindon Min (1808- 1878).

Điểm độc đáo của ngôi Cổ tự này thu hút hấp dẫn du khách hành hương chính là cuốn sách đá lớn nhất thế giới. Cuốn sách gồm 1460 trang, tạo thành từ những viên đá nhìn giống như hang động nhỏ. Mỗi viên đá dày 13 cm, cao 153 cm và rộng 107 cm.

Với danh hiệu ngôi Cổ tự Kuthodaw nghĩa là chùa Hoàng gia, và chính thức mang tên Mahalawka Marazein. Trong khuôn viên của chùa có khu vườn Tháp thờ Pháp bảo, trong mỗi Tháp có một phiến đá cẩm thạch được khắc ghi trên cả hai mặt với một trang Kinh Phật giáo có chứa đầy đủ bộ Tam tạng Pali của Phật giáo Nguyên Thủy.

Ngôi Danh lam Cổ tự được xây dựng như một phần của hoàng cung Mandalay từ năm 1857. Vua Mindon Min, lo lắng trước sự xâm lăng của người Anh cả về lãnh thổ lẫn tôn giáo đã quyết định để lại một công trình hoàng gia để truyền bá Phật giáo: một bộ kinh Tam Tạng tiếng Pali khắc trên đá.

Công việc ghi chép lại kinh Phật trên mặt đá hoàn toàn không đơn giản và phải mất tới ba ngày để một người thợ khắc kín hai mặt của một tấm biển. Sau khi khắc chữ lên bề mặt đá, các rãnh chữ được đổ khuôn vàng. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài và nhiều lần phục chế, nhiều chữ vàng đã không còn, chỉ còn lớp muội đen hay những vệt khắc đá.

Công trình Văn hóa Phật giáo vĩ đại này bắt đầu xây dựng vào khoảng năm 1860 và gắn vương miện chóp Bảo tháp vào ngày 19/07/1862, Công trình văn hóa Phật giáo, các bi ký ghi chép Tam tạng kinh Pali được ra mắt công chúng vào ngày 04/05/1868.

Tuy nhiên mãi đến năm 2013, ngôi Danh lam Cổ tự Maha Lawkamarazein hay Kuthodaw mới được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Hiện nay, cuốn sách khổng lồ lớn nhất thế giới này cùng các bản khắc trên đá đã trở thành một báu vật quốc gia của Myanmar, và một phần quý giá của di sản văn hóa Phật giáo trên thế giới.

** Chùm ảnh ngôi Danh lam Cổ tự Maha Lawkamarazein (Kuthodaw), trân trọng kính mời quý bạn đọc cùng chia sẻ với Myanmar Phật giáo Quốc đạo:

____ Thích Vân Phong ____

10 điều không cầu khi đi chùa lễ Phật

10 điều không cầu khi đi chùa lễ Phật

Đăng lúc: 09:16 - 01/11/2015

Khi đến chùa bạn hãy nhớ những điều dưới đây không được nghĩ tới và cũng không được cầu khẩn mong muốn thành hiện thực nhé, những điều này là không nên.


Một là đừng cầu thân thể không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì lòng tham sẽ dễ sinh. Muốn lấy thuốc lành trị bệnh khổ, thì nên thực hành giác ngộ giải thoát khỏi thế giới Ta-bà này.

Hai là đừng cầu không khó khăn, vì có có khăn thì đạo tâm mới kiên cường.
Bước qua được khó khăn thì con đường càng lớn, mỗi lần vượt qua trở ngại thì bầu trời càng cao rộng hơn.

Ba là đừng cầu tâm không khúc mắc, vì tâm không khúc mắc thì ngạo mạn dễ sanh.
Vườn tâm thường nhổ cỏ phiền não, vô minh trở thành vô lượng ánh sáng quang minh.


Bốn là không cầu lợi về mình, chấp trước vào mình dễ sinh vào ba cõi xấu.
Nguyện chịu bệnh khổ thế chúng sinh, khiến họ đều được thân tâm an lạc.

Năm là đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng tôi luyện thì sao thành Phật.
Ma là bạn tốt của người tu hành, người đức cao tự hàng phục được các loại ma.

Sáu là không cầu làm việc mong dễ thành công vì người ở trong cảnh thuận lợi khó tu hành.
Nghịch cảnh thuận cảnh không phân biệt, việc thành việc bại đều như nhau.

Bảy là không cầu danh lợi, tham muốn danh lợi dễ đọa vào luân hồi.
Luôn nhớ danh lợi như giấc mộng hão huyền, cam nguyện âm thầm làm người cống hiến.

Tám là làm ơn không cầu mong báo đáp, vì muốn người báo đáp thì con đường làm ơn đã sai lệch.
Tùy duyên dứt nghiệp đoạn sanh tử, không nợ không thiếu sống an nhàn.

Chín là oan ức không cầu biện bạch, nhẫn nhục chịu đựng trả món nợ xưa.
Người khác đánh đập mắng chửi là trợ hạnh cho mình, quên hết ân sủng hay bị làm nhục thì công đức mới vẹn toàn.

Mười là không cầu người khác giúp mình, tự lực cánh sinh không nên phan duyên.
Khi có điều mong cầu thì lúc đó có khổ, lúc không có gì để mong cầu thì được tự do tự tại.

Tôi niệm Bồ-tát Quán Thế Âm

Tôi niệm Bồ-tát Quán Thế Âm

Đăng lúc: 18:49 - 29/10/2015

Từ nhỏ tôi đã được dạy trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Bác tôi là người xuất gia trụ trì một ngôi chùa, ông thường dạy tôi cũng như các Phật tử khác trì tụng chú Đại bi và danh hiệu của Bồ-tát.
Botat QAm.jpg
Tôn tượng Bồ-tát Quán Thế Âm

Tôi vốn ốm yếu và thường hay bệnh, thể chất lẫn tinh thần đều kém. Tôi luôn sống trong mặc cảm tự ti, không có lòng tin nơi bản thân mình, thường ngại tiếp xúc với người khác và ít khi tham gia các hoạt động tập thể, cộng đồng. Chính vì tâm lý yếu đuối mà tôi có nhu cầu một nơi nương tựa tinh thần và sự chở che, giúp đỡ từ một đấng thiêng liêng.

Bác tôi dạy rằng Bồ-tát Quán Thế Âm có tâm từ bi rộng lớn, thường cứu khổ ban vui cho chúng sinh, vì thế cần nên nhớ nghĩ công hạnh, thường trì niệm danh hiệu và học đức tính lợi tha của Ngài.

Tôi tin tưởng lời bác dạy và niệm danh hiệu Bồ-tát mỗi ngày, nhất là khi đi đâu xa và khi chuẩn bị làm việc gì đó hay thi cử. Hễ lên tàu, xe là tôi nhiếp tâm niệm danh hiệu Bồ-tát để Ngài phù hộ, vì tôi sợ tai nạn, rủi ro xảy ra. Những khi vào phòng thi cử cũng niệm mãi danh hiệu Bồ-tát để Ngài phù hộ cho tôi làm bài đạt kết quả tốt. Tôi không ỷ lại vào sự giúp đỡ của Bồ-tát, vẫn chăm chỉ học hành, nhưng vì không có lòng tin nơi bản thân, vì tâm lý không vững thường hay hoang mang lo lắng mà tôi cầu sự trợ giúp của Bồ-tát, cầu sự an tâm nơi Bồ-tát.

Cho đến sau này tôi mới hiểu hơn về ý nghĩa của việc trì niệm Bồ-tát Quán Thế Âm.

Phần lớn những ai tín ngưỡng Bồ-tát Quán Thế Âm đều xem Ngài như một đấng thiêng liêng có quyền năng ban bố phước lành và bảo hộ sự sống, sự bình an, giải lâm nguy, cứu khổ nạn. Tuy nhiên nếu nghĩ như thế thì Bồ-tát Quán Thế Âm không khác gì các vị thần linh của các tôn giáo khác. Suy nghĩ và niềm tin của nhiều người đã thần linh hóa Bồ-tát Quán Thế Âm, biến Ngài thành một vị thần.

Sự thật thì Bồ-tát có thể làm trái luật Nhân quả, ban phước lành, tiêu trừ tai ách, bệnh tật, khổ não cho mọi người không? Nếu có thể thì từ lâu Bồ-tát đã cứu độ tất cả chúng sinh rồi, đâu cần đợi đến khi chúng sinh trì niệm danh hiệu và cầu nguyện sự cứu giúp của Ngài, vì Bồ-tát vốn dĩ từ bi mà. Không ai có thể làm trái luật Nhân quả, và Bồ-tát cũng thế.

Tại sao có người được sự gia hộ, cứu giúp của Bồ-tát, sự cầu nguyện của họ có cảm ứng? Tại sao có người cũng trì niệm danh hiệu Ngài, cầu nguyện sự bình an, tiêu tai tiêu nạn mà chẳng có kết quả gì? Tất cả chỉ là nhân duyên. Khi nhân duyên hội tụ đủ thì thành tựu, nhân duyên chưa đủ hoặc trái nghịch nhau, phá hoại nhau thì không thành tựu. Nếu trong quá khứ đời này hoặc những đời trước đã từng tạo các nhân duyên thiện lành, hiện tại lại tu tạo thêm công đức phước báo (thông qua các việc thiện như cúng dường, bố thí, phóng sinh, làm các việc có ích cho tha nhân, trì niệm danh hiệu Bồ-tát, trau giồi đạo đức...), khi nhân duyên lành hội tụ đủ thì thành tựu quả lành.

Trì niệm danh hiệu của Bồ-tát, nhớ nghĩ đến Bồ-tát và những công hạnh của Ngài chính là đang hướng tâm về điều lành, điều thiện, bởi vì Bồ-tát là hình ảnh đại diện cho những đức tính cao quý, cao thượng: từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha. Nếu nhân duyên lành trong quá khứ quá ít, hoặc quá khứ chưa từng tạo nhân duyên lành, hiện tại tạo nhân duyên tốt chưa đủ sức chuyển hóa những nhân duyên quá khứ, chưa đủ để thành tựu quả thiện lành, như thế thì không thể có được những điều mình mong muốn, nguyện cầu. Đó không phải là do Bồ-tát ban cho hay không ban cho, mà do nhân duyên mình tạo tác.

Từ khi hiểu như thế tôi niệm Bồ-tát không phải để cầu xin phước lành, cầu sự chở che, bảo hộ. Tôi niệm Bồ-tát để nhớ nghĩ về điều thiện, về các đức tính từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha, phụng sự tha nhân, phụng sự chúng sinh không mệt mỏi. Khi trì niệm danh hiệu Bồ-tát, nhiếp tâm vào danh hiệu thì không khởi vọng tưởng, nhờ đó mà có sự bình an; không khởi phiền não thì tâm mát dịu như được uống nước cam lộ, một loại nước ngon ngọt (cam) và mát mẻ như sương mai (lộ).

Khi tâm định tĩnh, sáng suốt thì không còn hoang mang lo lắng, không còn sợ hãi và trí tuệ sẽ soi sáng hành động, việc làm, giúp mình có những giải pháp tốt trong cuộc sống, giúp mình vượt qua khó khăn, khổ nạn.

Tôi học được nhiều điều từ ý nghĩa hình ảnh biểu tượng của Bồ-tát. Cành dương liễu tượng trưng cho hạnh nhẫn nhục (nhẫn nhục trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, mọi đối tượng tiếp xúc để tu học, để làm việc, để phụng sự tha nhân, có nhẫn nhục như thế mới thành tựu được trí tuệ và tâm đại bi).

Nước cam lồ tịnh thủy tượng trưng cho tình thương từ bi mát dịu, ngọt ngon. Tòa sen tượng trưng cho sự thanh tịnh vô nhiễm. Ngàn mắt của Bồ-tát (thiên nhãn) tượng trưng cho trí tuệ soi sáng cho hành động, việc làm. Ngàn tay (thiên thủ) tượng trưng cho biện tài, năng lực phụng sự, độ sinh v.v…

Trong kinh Pháp hoa (phẩm Phổ môn), Đức Phật dạy hạnh nguyện của Bồ-tát là quán sát lắng nghe âm thanh thế gian (quán thế âm) và ứng hiện ban thí vô úy (sự bình an, không sợ hãi), tùy theo sự mong cầu của thế gian mà đáp ứng, cứu giúp. Điều này dạy tôi về hạnh lắng nghe và yêu thương, chia sẻ. Biết lắng nghe để hiểu và thương, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong tình thương yêu và hiểu biết. Người khác có nhu cầu gì, cần sự giúp đỡ nào thì mình quan tâm chia sẻ, ở đâu cần thì mình đến, không ngại gian khổ, khó khăn, vì an lạc hạnh phúc cho tha nhân mà dấn thân phụng sự trên nhiều phương diện.

Hình ảnh của Bồ-tát với dương liễu tịnh bình hoặc ngàn mắt ngàn tay luôn nhắc nhở tôi về tâm đại từ đại bi và hạnh nguyện cứu khổ, ban vui, mang lại sự bình an vô úy và hạnh phúc cho cuộc đời, nhắc nhở tôi phải nỗ lực tinh tấn trong tu học Phật pháp, rèn luyện trau giồi đạo đức, trí tuệ, tài năng để có được tâm hạnh Bồ-tát và khả năng làm lợi ích cho cuộc đời.
Minh Hạnh Đức

Diệt trừ phiền não

Diệt trừ phiền não

Đăng lúc: 19:06 - 28/10/2015

Hỏi: Làm cách nào để diệt trừ được phiền não và niệm Phật được nhất tâm?



Đáp: Diệt trừ hết phiền não để niệm Phật được nhất tâm luôn là mục tiêu và nguyện vọng tha thiết của hầu hết những người tu tập theo pháp môn Tịnh độ. Tuy nhiên muốn làm được điều đó, trước tiên chúng ta cần phải biết được phiền não từ đâu có? Biết được cội gốc của nó nằm ở đâu, thì mới có thể diệt trừ. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Bồ tát Mã Minh chia tâm làm hai môn là Chân Như và Sinh Diệt. Một cái là tâm thể sáng suốt thanh tịnh và hai là cái tâm lăng xăng mê muội.

1- Nguồn gốc của phiền não:

Nếu chịu khó ngồi yên để quán xét kỹ, thì chúng ta sẽ biết được hằng ngày mình thường sống với cái tâm nào nhiều nhất. Khi ngồi tĩnh tọa hoặc niệm Phật hay nghe pháp, chúng ta có thấy được cái tâm sáng suốt thanh tịnh của mình không? Nếu không có nó, chúng ta không thể nghe thấy hay nhận biết được các sự vật ở bên ngoài. Tuy nhiên, thông thường chúng ta dễ bỏ quên cái tâm sáng suốt quý báu của chính mình, mà chỉ lo hướng theo sự nắm giữ những sự việc ở bên ngoài, cho nên suốt đời bị lầm lạc khổ đau. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật nói rằng: “Chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên là khai thị cho chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến”. Tất cả các đức Phật, từ Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca và cho đến sau này là Phật Di Lặc ra đời cũng chỉ vì một lý do cực kỳ quan trọng là chỉ bày cho mọi người thấy được cái tâm thanh tịnh, sáng suốt chân thật sẵn có ở ngay nơi mình, mà không phải làm một việc gì khác hơn nữa.

Đức Phật không bắt buộc tất cả mọi người phải bỏ hết vợ con, tài sản để đi vào chùa để được giải thoát. Nếu sống trong chùa mà không hóa giải được phiền não, thì chạy đi đâu cũng không thể thoát khổ. Bởi vì phiền não không ở ngoài tâm này, cho nên nếu không biết tu tập thì dù có bay lên trời cũng vẫn bị đau khổ phiền muộn. Những vật chất có hình tướng thì có thể vứt bỏ, còn cái tâm không hình tướng này thì làm sao bỏ? Chỉ còn cách quay trở về tâm này xét sâu cội gốc, tìm ra nguyên nhân mà hóa giải nó, thì mới được yên ổn. Chính cái tâm này là cội gốc của khổ đau phiền muộn và cũng chính nó là nguồn gốc của an lạc giải thoát.

2- Diệt trừ phiền não:

Muốn phá trừ tâm bám chấp vào thân này, thì cần phải thấy rõ được cội gốc của sự thật. Sự thật ấy nằm ở ngay nơi sự vay mượn trong từng hơi thở, không có gì là bền chắc của cái thân này. Do chúng ta không biết tu, không hiểu đạo và không gặp được chánh pháp, cho nên cả một đời cứ chạy theo hơn thua, phải quấy, được mất và vất vả tranh đấu, ra sức bon chen với cuộc sống cũng chỉ vì lo cho cái thân này được ăn ngon, mặc đẹp, ở sang. Lúc nào cũng muốn cho nó được đầy đủ sung sướng. Tuy nhiên, dù mình yêu quý, giữ gìn và lo lắng hết mức như vậy, nó vẫn không chung thủy với mình. Rồi một ngày nào đó, nó cũng bỏ mình ra đi không một lời từ biệt. Một khi bác sĩ tuyên bố thân này đã bị ung thư vào giai đoạn cuối hoặc nhiễm siêu vi B, C.v.v… thì mình chỉ còn biết khóc than. Thân này không bảo đảm bền chắc, dù có tồn tại lâu dài thì cuối cùng nó cũng phải đi đến chỗ hoại diệt. Do không thấu rõ được lẽ thật của thân này, cho nên chúng ta luôn bám chấp vào nó và lấy nó làm sự sống, cho nên đức Phật gọi đó là sự si mê hoặc vô minh.

Hai chữ ‘thọ trì’ có ý nghĩa rất quan trọng trong sự tu học của chúng ta. ‘Thọ’ là nhận và ‘Trì’ là giữ. Nắm giữ danh hiệu Phật tức là chúng ta luôn giữ cho tâm của mình lúc nào cũng thanh tịnh sáng suốt. Chỉ cần sơ ý phóng tâm, buông mất câu danh hiệu Phật thì liền thấy người và vật có tốt, xấu, phải, quấy, hơn, thua. Làm mất tâm thanh tịnh trong sáng để chạy theo những ý niệm chúng sinh và chuốc lấy phiền não. Nếu trong đời sống hằng ngày, chúng ta cứ mãi chạy theo những tâm niệm phiền não, mê lầm thì sẽ còn tạo nghiệp và bị khổ đau hoài, không thể nào dừng lại. Niệm Phật chính là con đường ngắn nhất để quay trở về cái tâm thanh tịnh sáng suốt. Tâm thanh tịnh sáng suốt đó không có tạo nghiệp xấu ác, cho nên không có chiêu cảm quả báo khổ. Tu hành là cốt để trở về với cái tâm thanh tịnh, không còn sống với phiền não vô minh và nhận lấy khổ đau nữa. Mỗi khi gặp việc buồn giận hoặc vui thích thì đều phải nhanh chóng quay trở về niệm thầm danh hiệu Phật: “Hít vào A Di; Thở ra Đà Phật”, mạng này chỉ tồn tại trong một hơi thở, thì hơn thua hoặc yêu ghét làm chi cho thêm mệt, trở về với tâm an lạc sáng suốt cho nhẹ khỏe. Luôn sống đúng như vậy là giữ được tâm thanh tịnh ngay trong môi trường ô nhiễm loạn động và được giải thoát ở ngay trong sự ràng buộc. Đó chính là phiền não tức Bồ đề.

Ngay từ bây giờ, nhiếp tâm vào từng danh hiệu Phật trong mỗi hơi thở, mỗi khi ăn uống, ngủ nghỉ hoặc mỗi lúc mặc quần áo cần phải thấy rõ được lẽ thật vay mượn mong manh của thân này, buông xả muôn duyên huyễn hoặc. Thực hành quán xét như vậy thì định huệ đầy đủ chỉ trong một danh hiệu Phật và dần dần chúng ta có được sức mạnh của trí tuệ để phá vỡ bức màn vô minh mê lầm. Khi mọi phiền não tan hết và trí huệ tròn sáng đầy đủ, thì hoặc nghĩ, nói hay làm việc gì cũng ở trong cái tâm an lạc sáng suốt và đều phù hợp với chánh pháp. Làm tất cả phước đức, công đức đó để trang nghiêm cho pháp thân thanh tịnh của mình trong kiếp này và muôn kiếp về sau. Đời này, chúng ta tu học theo chánh pháp được an lạc tốt đẹp, trang nghiêm thì đời sau sinh ra sẽ được công đức, phước huệ tròn đầy. Hạt giống tu tập đó được nhân thêm nhiều hơn trong những kiếp sau nữa và cứ tiếp tục tu tiến mãi cho đến kiếp cuối cùng khi tròn đầy công đức như Phật. Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta con đường tu tập an lạc, giải thoát duy nhất này, dù tìm khắp cả thế gian cũng không có con đường nào khác, do đó mọi người cứ vững lòng mà tiến bước. Tu hành đúng theo chánh pháp thì ngay trong đời sống này luôn được an vui và khi chết sẽ nhẹ nhàng vãng sinh về Cực Lạc.
Thích Minh Thành

Pháp môn niệm Phật - Từ triết lý đến tín ngưỡng

Pháp môn niệm Phật - Từ triết lý đến tín ngưỡng

Đăng lúc: 07:48 - 11/07/2015

Niệm Phật là hàng phục phiền não, chuyển thức thành trí, hiển lộ tự tánh Di Đà.
Khái lược về triết lý kinh điển của pháp môn Niệm Phật
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đều thuyết minh tổng quát về pháp môn Niệm Phật. Việc hình thành pháp môn Tịnh độ chủ yếu từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như kinh Bát chu tam muội (Ban châu tam muội), kinh A Di Đà, kinh Quán vô lượng thọ, kinhVô lượng thọ, kinh Hoa nghiêm, kinh Thủ lăng nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng 18 thế kỷ qua (tính từ khi kinh Bát chu tam muội được dịch tại Trung Quốc năm 179), và pháp môn Niệm Phật được hình thành và phát triển thời Sơ tổ Tịnh tông Huệ Viễn (334-416) cho đến ngày nay.
Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn Niệm Phật đã đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan pháp môn Niệm Phật, trên căn bản thì Thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời Tổ sư Liên Trì (1532-1612) về sau, phổ biến phương pháp niệm danh hiệu Phật A Di Đà.
phat hoc.jpg
Nam-mô A Di Đà Phật
Đối chiếu với các kinh điển Nguyên thủy thì thấy có những điểm khác nhau giữa pháp niệm Phật trong Phật giáo Nguyên thủy và Tịnh Độ tông. Đó là sự thực. Lý do là Phật giáo Nguyên thủy lấy thiền Tứ niệm xứ làm pháp môn chủ đạo cho sự chứng đắc và giác ngộ. Niệm Phật theo Kinh tạng Nikaya là pháp quán niệm chứ không phải là xưng niệm danh hiệu như thời kỳ về sau của Tịnh Độ tông. Vấn đề chú ý là Tịnh Độ tông lấy pháp niệm Phật làm pháp môn chủ đạo cho mục đích vãng sanh và chứng đắc Niết-bàn. Nói niệm Phật vãng sanh là y cứ từ kinh luận Đại thừa. Nhưng niệm Phật chứng ngộ Niết-bàn được đề cập trong kinh điển Nguyên thủy thì Đại thừa chưa phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
Từ hiện thực đó, niệm Phật vốn là một phương thức điều phục tâm, pháp tuyệt diệu đi vào thiền định và chứng đắc tuệ giác bị chôn vùi đằng sau lớp rào cản tín ngưỡng làm phát sinh nhiều quan niệm sai biệt về pháp tu này. Tín ngưỡng đây là từ ngữ tạm dùng vì chưa thể hiện trọn vẹn ý nghĩa niệm Phật từ phương diện triết lý. Tín ngưỡng niệm Phật là mặt nổi với niềm tin Phật A Di Đà ở cõi Cực lạc được phổ biến trong nhân gian, nhưng trong đó tiềm ẩn tư tưởng Phật-đà quan của Phật giáo Đại thừa. Niềm tin và triết lý của pháp Niệm Phật đã từng hòa quyện vào nhau trở thành pháp tu với hai phương diện niệm Phật vãng sanh và niệm Phật chứng ngộ Niết-bàn là vấn đề mà bài viết này đề cập.
A Di Đà, phiên âm từ chữ Phạn Amita, có nghĩa là Vô lượng; A Di Đà là Vô lượng thọ (Amitāyus) và Vô lượng quang (Amitābha). Tại sao từ A Di Đà chuyển đến ý nghĩa Vô lượng thọ và Vô lượng quang? Các nhà dịch thuật đều căn cứ vào ý nghĩa và nội dung kinh văn để nhận thức phẩm đức của Phật A Di Đà. Theo Từ điển Bách khoa Phật giáo Việt Nam giải nghĩa: “A Di Đà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc qua bộ kinh Ban châu tam muội do Chi-lâu-ca-sấm dịch năm 179, kinh Đại A Di Đà do Chi Khiêm dịch vào đầu thế kỷ thứ III và kinh A Di Đà do La Thập dịch vào đầu thế kỷ thứ V”1. Điều chúng ta thấy rõ là có nhiều kinh luận Đại thừa xuất hiện giới thiệu Phật A Di Đà. Theo tinh thần các kinh Đại thừa nói chung thì A Di Đà có nghĩa rút gọn tên Vô lượng thọ và Vô lượng quang. Đặc biệt trong kinh điển Mật giáo, A Di Đà còn có tên là Cam lồ đại minh vương hay Kim cương cam lồ thân2.
Một vài học giả đối chiếu tư tưởng các tôn giáo khác có sự suy luận sai biệt, như có người cho rằng: “A Di Đà là sự phát triển của thần thoại mặt trời trong tư tưởng tôn giáo Iran, hay có thể xuất phát từ tín ngưỡng Vishnu trong thời Veda của Ấn Độ”3. Nhưng chúng ta phải hiểu là đó sự suy luận theo tinh thần khảo cứu của các học giả. Còn đối với các nhà Phật học thì căn cứ nội dung các kinh điển Đại thừa và Nguyên thủy để phát huy tác dụng giáo lý Tịnh độ trong quá trình tu tập và hoằng pháp.
Ai đã từng đọc kinh văn Nguyên thủy, đều biết niệm Phật là phương pháp quán tưởng, quán niệm về mười phẩm hạnh của Đức Phật trong pháp Lục niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên. Niệm Phật ở đây là tư duy, nhớ nghĩ về phẩm đức Phật chứ không phải là xưng danh hiệu Phật. Khi thuyết pháp cho các đệ tử cư sĩ, Đức Phật dạy như sau: “Các ông sắp vào nơi hoang mạc, sẽ gặp nhiều khủng bố, tâm kinh hoàng dựng đứng cả lông, lúc ấy nên niệm Như Lai: Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác… Phật, Thế Tôn. Niệm như vậy thì mọi khủng bố đều tiêu trừ"4. Kinh Trung A-hàm, Đức Phật dạy về tác dụng pháp quán niệm mười phẩm đức của Phật: “Người ấy sau khi niệm tưởng Như Lai như vậy, ác tham nếu có liền bị tiêu diệt. Những pháp tạp uế, ác bất thiện, nếu có cũng bị diệt”5. Niệm Phật trong thiền môn của Tổ sư Thiền tông Hoằng Nhẫn có chủ trương: “Niệm Phật tịnh tâm”6 (Niệm Phật để tịnh tâm). Niệm Phật ở đây là phương tiện nhiếp tâm và quán tâm. Cho nên Thiền sư Thần Tú định nghĩa: Niệm Phật tức là tu chánh niệm (Phù niệm Phật giả, đương tu chánh niệm)7, chánh niệm để quán nguồn tâm, “quán sát tâm nguyên”. Tịnh độ tại tâm là cứu cánh của pháp môn Niệm Phật. Tư tưởng này cũng là quan niệm về Tịnh độ của Phật giáo Việt Nam thời Trần. Thiền sư Trần Nhân Tông có bài kệ khai thị như sau: “Tịnh độ là lòng trong sạch/Chớ còn hỏi đến Tây phương/Di Đà là tính sáng soi/ Mựa phải nhọc tìm Cực lạc”8.
Một khi đạt đến cấp độ niệm Phật đoạn trừ phiền não, dứt sạch tham ái thì Niết-bàn xuất hiện và Cực lạc Tây phương hiện tiền, đâu còn tìm cầu. Chứng ngộ Niết-bàn là thể nhập được tánh giác thanh tịnh, đầy đủ vô lượng công đức, ý nghĩa ấy được gọi “Duy tâm Tịnh độ” hay “Tự tánh Di Đà”, đó là cụ thể hóa ý nghĩa “Thực tướng niệm Phật” trong giáo nghĩa Tịnh độ. Đây là điểm then chốt mà các tông phái thường quan niệm về tính hợp nhất của Thiền và Tịnh.
Đức Phật Thích Ca rõ ràng là vị Phật lịch sử. Có vài học giả cho rằng Phật A Di Đà là vị Phật tôn giáo. Đây là quan điểm thuộc lĩnh vực nghiên cứu. Chúng ta cần hiểu rằng: Mục đích Phật nói kinh, không phải xây dựng hình ảnh Phật theo ý nghĩa tôn giáo. Phật tôn giáo là khái niệm các học giả thiết lập để tìm hiểu về Phật giáo. Kinh văn Đại thừa nhắc đến Phật A Di Đà là vị Phật quá khứ. Đứng về phương diện Phật-đà quan mà luận, nếu Phật giáo Nguyên thủy chấp niệm quan điểm bảy vị Phật theo kinhTrường bộ9, thì đương nhiên chấp nhận có quá khứ Phật, hiện tại Phật và vị lai Phật. Phật A Di Đà hay mười phương chư Phật đều là Phật quá khứ. Phật dạy mọi chúng sanh có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Từ triết lý nhân quả mà luận thì tu theo hạnh Phật sẽ thành Phật, tu theo hạnh Bồ-tát sẽ thành Bồ-tát. Phật Thích Ca hay Phật A Di Đà và vô số Phật trên phương diện Pháp thân, trí tánh giác ngộ đều bình đẳng, tu là để khôi phục tánh giác ngộ ấy.
Các pháp môn căn bản đều thiết lập trên ba môn Giới-Định-Tuệ để loại bỏ Tham-Sân-Si. Pháp niệm Phật cần được hiểu như thế. Chúng sanh khổ đau do tâm tạo, do tâm hằng tư niệm ác pháp điều động thân miệng ý khởi hạnh ác, nay trở về niệm Phật, giúp tâm thanh tịnh. Tất cả các phương pháp Phật dạy đều là phương tiện, không nên dùng kiến giải chủ quan làm chìa khóa phân tích và so sánh pháp từ góc độ chân đế. Nếu lập luận như thế dễ lầm chiếc bè và bờ sông là một, thật đáng tiếc trong phương pháp luận!
Vấn đề Tịnh độ quan, chúng ta suy nghiệm từ Kinh tạng Nikaya, qua kinh Đại Thiện Kiến vương10, Đức Phật thuật lại cho ngài A Nan nghe quốc gia hưng thịnh của vua Thiện Kiến làm Chuyển luân Thánh vương trong thời quá khứ, ngôn từ diễn tả môi trường của cảnh giới ấy căn bản có nhiều điểm giống như thế giới Tây phương Cực lạc trong kinh A Di Đà. Hơn nữa từ thực tế, Đức Thích Ca trước khi thành Phật ở cõi Ta-bà là Bồ-tát Hộ Minh trú tại cõi trời Đâu suất, Phật Di Lặc tương lai thành Phật cũng đang trú tại cõi trời Đâu suất. Cảnh giới đó chúng ta có thể gọi là thiên quốc tịnh độ. Đứng về phạm trù tâm mà luận, Phật hay Bồ-tát luôn có tịnh độ hiện hữu, vì có cái tâm trong sạch thì có cảnh giới trong sạch là tịnh độ. Nếu Phật và Bồ-tát có tâm giải thoát khi thị hiện trong nhân gian này, thì thế giới chúng ta có thể gọi là Phàm thánh đồng cư độ.
Do vậy, người tu niệm Phật xem Đức Phật là đấng Giác ngộ vẹn toàn, bậc Giác ngộ giải thoát có năng lực từ bi và trí tuệ siêu việt, tin cõi Tịnh độ trang nghiêm không thể nghĩ bàn. Đức Phật xuất hiện, thế gian không ai bằng Phật được nhấn mạnh trong kinh Nguyên thủy như sau: “Ta là bậc tối thượng ở trên đời. Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời”11. Kinh điển Nguyên thủy ghi lại Đức Thích Ca cũng xuất hiện trong đời với nhiều năng lực siêu phàm, công đức thù thắng siêu việt thế gian, người phàm phu không có được. Trong giáo lý Tịnh độ, các kinh điển Đại thừa đều đề cập Đức Phật A Di Đà phóng quang tiếp độ chúng sanh phát nguyện vãng sanh là điều sự thực chứ không phải yếu tố thần thoại của người đời sau. Kinh Nguyên thủy cũng có xác nhận về sự kiện Đức Phật hiện hào quang như sau: “Anan nên biết, Ta có hai nhân duyên mà phóng hào quang lớn: Một là khi ở bên gốc cây bồ-đề sắp thành đạo, liền phóng hào quang. Hai là khi sắp vào Niết-bàn cũng phóng hào quang lớn”12.
Như thế, từ quan điểm tu niệm Phật của Phật giáo Nguyên thủy, Tịnh Độ tông phát huy yếu tố niệm Phật với tín ngưỡng tích cực, kinh luận Đại thừa cho là chánh tín trong pháp môn tu. Niệm Phật nhập vào cảnh giới Tam muội (Chánh định), phát huy sự quán chiếu và chứng ngộ Niết-bàn được nhấn mạnh trong kinh Bát chu tam muội, kinh Lăng nghiêm, hay kinh Văn Thù thuyết Bát-nhã hoàn toàn phù hợp với quan điểm niệm Phật chứng đắc Niết-bàn trong kinh Nguyên thủy. Đức Phật đã dạy như sau: “Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là Niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”13. Ý nghĩa niệm Phật như vậy thì Nguyên thủy và Đại thừa đều chấp nhận.
Bước chuyển từ triết lý niệm Phật đến tín ngưỡng niệm Phật
Theo lịch sử Phật giáo thì từ thời Tổ Huệ Viễn đến thời Tổ Thiện Đạo có ba tư tưởng chính thực hành pháp môn Tịnh độ gọi là “Tịnh độ tam lưu”. Trong tác phẩm Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập14 của ngài Pháp Nhiên, một Tăng sĩ Nhật Bản chép rằng, có bốn nhân vật quan trọng trong sự phát triển tư tưởng niệm Phật. Phái thứ nhất là ngài Huệ Viễn (334-416) chủ trương quán tưởng niệm Phật, lấy kinh Bát chu tam muội làm y cứ tu học. Thực hành quán tưởng niệm Phật, chuyên chú niệm Phật để đạt Tam muội (Chánh định), thấy Phật vãng sanh. Phái thứ hai có ngài Đạo Xước và Thiện Đạo, nhưng chỉ gọi là phái Thiện Đạo (613-681), tiếp nối tư tưởng của Đàm Loan chủ trương nương vào tha lực bổn nguyện của Phật, niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tịnh độ. Phái thứ ba có ngài Từ Mẫn (680-748), còn gọi là Pháp sư Huệ Nhật, chủ trương: Giáo -Thiền-Mật-Tịnh kiêm tu, thực hành tất cả pháp lành, chuyên tâm niệm Phật nguyện sanh Tịnh độ.
Kinh văn Đại thừa có quan niệm về yếu tố tha lực trong giáo nghĩa niệm Phật. Tha lực có phải là năng lực và bổn nguyện của Phật hay là kỳ vọng được thiết lập từ tính chủ quan của đệ tử Phật? Trong giáo lý Nguyên thủy hàm chứa yếu tố tha lực như là công đức phát sanh từ lòng kính trọng Đức Phật, kính trọng Tam bảo, hay là từ công đức bố thí. Kinh Lâu đài của nàng Chiên-đà-la (Candàlì -Vimàna)15 kể câu chuyện một phụ nữ nghèo, hạnh nghiệp xấu nhưng một lần lễ Phật với lòng thành kính, sau đó bị tại nạn lâm chung mà được sanh lên cõi trời. Hay câu chuyện Lâu đài do cúng mè16, kể về một người phụ nữ nghèo khổ, từ lâu sống với nghiệp xấu đáng đọa địa ngục, nhưng nhờ một lần cúng dường mè cho Đức Phật mà được phước sanh thiên. Trong giáo lý Tịnh độ tin tưởng rằng người thường niệm, lễ Phật và tu các thiện pháp sẽ được Phật tiếp độ vãng sanh. Đây là yếu tố quan trọng phát huy quan niệm tha lực và tự lực hợp nhất trong giáo lý Tịnh độ.
Nguyên thủy Phật giáo, bậc thánh từ A-na-hàm trở lên mới thực sự không còn bị tái sanh vào thế giới Ta-bà, sẽ sanh vào cõi trời và sau cùng đắc quả A-la-hán tại đó. “Sau khi viên tịch ở đây, Ngài tái sanh vào cảnh giới Vô phiền thiên (Suddhavasa, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết), một cảnh giới thích hợp với các vị A-na-hàm. Ngài sẽ chứng đắc đạo quả A-la-hán và sống hết tuổi thọ trong cảnh giới này”17. Chúng ta có thể nói rằng từ bậc A-na-hàm mới được an trú trong cảnh Thiên quốc Tịnh độ.
Theo giáo lý Tịnh độ, Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng chiếu soi thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh. Đại thừa triển khai chân lý Phật dạy với quan niệm Thế giới quan và Phật-đà quan hoàn toàn không bị đóng khung trong quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Niềm tin trọn vẹn về một bậc thầy giác ngộ viên mãn, đầy đủ oai lực từ bi và trí tuệ. Năng lực của Phật có từ tác động rất mạnh đối với tâm thức người quán niệm. Người tu Tịnh độ, cũng có niềm tin rằng bên ngoài có Phật A Di Đà, bên trong tâm mình có tánh Phật A Di Đà. Khi chưa giác ngộ thì còn bị phiền não che lấp tự tánh Di Đà, nay niệm Phật là phương tiện tuyệt vời để khôi phục tâm tánh ấy.
Có thể nói niệm Phật theo Kinh tạng Nikaya là quán tưởng công đức Phật. Tịnh Độ tông phát huy yếu tố tha lực và tín ngưỡng một cách toàn triệt để truyền bá rộng rãi trong quần chúng. Nhưng phải ghi nhận rằng, yếu tố triết lý trong giáo nghĩa Tịnh độ vẫn nhấn mạnh vai trò pháp niệm Phật hướng đến chứng ngộ Niết-bàn như giáo lý Phật giáo Nguyên thủy. Điều này thể hiện rõ trong các kinh Bát chu tam muội, kinh Văn Thù thuyết Bát-nhã, kinh Lăng nghiêm và nhiều kinh khác.
Phái của ngài Huệ Viễn thể hiện pháp niệm Phật tam muội, thiên về phép quán tưởng niệm Phật, ít phổ biến rộng rãi, nhưng bậc trí tu hành pháp này rất đắc dụng. Phái của ngài Thiện Đạo khuyên niệm Phật y cứ vào kinh A Di Đà, kinh Vô lượng thọ và kinh Quán Vô lượng thọ, với tín ngưỡng là người niệm Phật được tất cả chư Phật hộ niệm, “Nhất thiết chư Phật hộ niệm”. Phái của ngài Từ Mẫn thì mang tính chất quân bình trong đời sống niệm Phật, vận dụng giáo nghĩa Phật dạy các tông phái Giáo-Thiền-Mật-Tịnh. Về sau, Thiền sư Vĩnh Minh (904-975) có công khởi xướng tư tưởng Thiền-Tịnh song tu, điều hòa tư tưởng Thiền và Tịnh thông qua triển khai rộng phương diện triết lý của pháp môn Niệm Phật, thể hiện rõ trong tác phẩm Vạn thiện đồng quy tập. Các nhà hoằng pháp xưa nay, tùy theo đối tượng và hoàn cảnh đúc kết tinh hoa pháp môn Tịnh độ để tu học, nhất quán với lập trường giáo lý Đại thừa.
Vãng sanh và chứng ngộ là tinh hoa của pháp môn Niệm Phật
Vãng sanh có nhiều chánh nhân, nhưng căn bản kinh Quán Vô lượng thọ dạy rằng: “Này Vi Ðề Hi! Người muốn sang nước Cực lạc ấy nên tu ba phước. Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực sư trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành. Hai là thọ trì tam quy y, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi. Ba là phát tâm Bồ-đề, sâu tin nhơn quả, đọc tụng kinh điển Ðại thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành. Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp”18. Đó là hạnh tu thiết thực trong đời sống mang ý nghĩa đạo đức, luân lý, giới luật và trí tuệ. Vãng sanh theo kinh A Di Đà dạy là phải đạt “nhất tâm bất loạn”, một khi đạt nhất tâm tức là thành tựu về thiền định và trí tuệ. Thành tựu tuệ giác thì mới có đầy đủ công đức giải thoát. Vãng sanh theo kinh Hoa nghiêm được đúc kết trong quá trình thực hành mười nguyện lớn của Bồ-tát Phổ Hiền, đây là lộ trình tu học tích cực, có chí nguyện lớn trong tinh thần tự lợi và lợi tha, sau cùng đem hết thảy công đức nguyện sanh về cõi Tây phương Tịnh độ. “Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi/Phước lớn vô biên đều hồi hướng/Khắp nguyện chúng sanh đang chìm đắm/Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang”19. Theo kinh Lăng nghiêm, muốn sanh Tịnh độ cần niệm Phật đắc Vô sanh pháp nhẫn, tức thuộc bậc Bồ-tát mới thông đạt pháp vô sanh hay bất thối địa. Đây là hạnh tu của Bồ-tát Đại Thế Chí, dùng câu niệm Phật để thâu nhiếp sáu căn, tịnh tâm để nhập vào chánh định, khi có chánh định thì có tuệ giác ngộ và thành tựu vãng sanh. “Pháp tu nhân địa của con là chuyên tâm niệm Phật, chứng nhập pháp Vô sanh nhẫn. Nay ở cõi Ta-bà này, rộng độ những người niệm Phật, vãng sanh về Tịnh độ. Phật hỏi về chứng đắc viên thông, con không lựa chọn, đều nhiếp lục căn, tịnh niệm kế tiếp, được vào Tam-ma-địa, đó là thù thắng nhất”20.
Kinh Bát chu tam muội dạy pháp quán tưởng niệm Phật. Đây là một phương pháp tưởng nhớ và quán sát hình ảnh Phật A Di Đà đến chuyên chú và nhập thiền định. Do sức tưởng niệm mà thấy Phật A Di Đà, thấy Phật là đồng nghĩa được vãng sanh. Nhưng muốn thấy Phật A Di Đà phải vào tam muội, tức nhập vào chánh định. Kinh chép: “Như Ta vừa nghe danh hiệu Đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác hiện nay Ngài ngự ở thế giới chư Phật. Thế giới của Ngài tên là Cực lạc, Ngài thường ngự vào pháp hội của các Bồ-tát để nói pháp và giáo hóa. Rồi người nghe y theo chỗ nghe được chuyên tin tưởng nhớ quán sát không ngừng nghỉ cho đến khi hình ảnh trên hiện rõ ràng trong trí sau cùng được thấy Đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác”21. Và kinh này giải thích rõ phương pháp khởi tâm quán sát, biện tâm để đắc trí tuệ giải thoát Niết-bàn như sau: “Tâm có tưởng niệm tức thành sanh tử, tâm không tưởng niệm tức là Niết-bàn. Các pháp không chơn thật chỉ do tư tưởng duyên khởi, đối tượng bị nghĩ liền diệt, chủ thể năng tưởng cũng không. Hiền Hộ! Ông nên biết các Bồ-tát nhơn tam muội này chứng được trí giác vĩ đại”22.
Niệm Phật như thế nào để phù hợp với tông chỉ của giáo lý Phật dạy? A Di Đà chính là bản tánh của chúng ta, niệm Phật là hàng phục phiền não để hiển lộ tánh giác A Di Đà. Niệm Phật để chuyển thức thành trí, hiển lộ tự tánh Di Đà. Niệm Phật đạt nhất tâm bất loạn, không còn tướng người niệm và đối tượng niệm; siêu việt đối đãi năng sở. Niệm Phật quán tưởng Cực lạc tại tâm, cho nên không còn khái niệm đây là Ta-bà và kia là Tịnh độ; siêu việt không gian. Niệm Phật an trú ngay trong mỗi niệm, không mong cầu tương lai, không truy tìm quá khứ; siêu việt thời gian. Niệm Phật như thế, không lạc vào có và không, không chấp trước, tâm tánh rỗng lặng; khế hợp trung đạo thật tướng. Công phu như vậy thì Thiền, Tịnh và Mật hay các phương pháp tu học khác cùng điểm chung là hướng về Niết-bàn giải thoát, như nước trăm sông đều đổ vào biển cả mênh mông.
Lời kết
Trên phương diện tu học, thực tập bất cứ một pháp môn nào cũng có những phương tiện nhất định để điều phục và chuyển hóa tâm. Tịnh độ đã từng phát triển mạnh mẽ trong quần chúng qua nhiều thế kỷ tại các nước Phật giáo Đại thừa. Liên quan vấn đề tín ngưỡng và triết lý trong pháp niệm Phật chúng ta có thể đi đến một vài nhận xét sau:
Thứ nhất: Tín ngưỡng và triết lý trong pháp niệm Phật là điều kiện căn bản của vãng sanh và thành tựu tuệ giác. Bồ-tát Long Thọ xem pháp môn Niệm Phật dễ thành tựu đạo quả Vô thượng một cách mau chóng, gọi là “dị hành đạo”(dễ tu hành). “Phật pháp có vô lượng môn, như những con đường ở thế gian có khó có dễ, đi bộ thì khó ngồi thuyền bè thì dễ. Muốn dễ đi, mau đến phải nên niệm Phật, phải nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà thì mau được đạo giác ngộ Chân chánh Vô thượng”23.
Thứ hai: Niệm Phật là phương pháp rất thù thắng để điều phục phiền não và thể nhập chánh định, đó là tiềm năng của sự quán tâm để chứng ngộ Niết-bàn. Vấn đề đặt ra là phương pháp niệm và quán tưởng theo đúng kinh điển Nguyên thủy và kinh điển Đại thừa hướng dẫn.
Thứ ba: Trên phương diện triết lý thì Thực tướng niệm Phật là nội dung căn bản của pháp môn Niệm Phật, vạn pháp không ngoài tâm, mười pháp giới không ngoài tâm, vũ trụ không ngoài tâm, Tây phương Tịnh độ không ngoài tâm và Niết-bàn cũng không ngoài tâm. Tâm ấy là bản thể vạn pháp, chính là “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ”. Dù tu bất cứ pháp môn nào, sau cùng cũng chứng ngộ tâm tánh ấy. Đó là tinh hoa của pháp môn Niệm Phật. Cho nên các vị Tổ sư xem pháp niệm Phật là phương tiện thiết thực trong sự tu học và truyền bá Phật pháp.
Thích Đức Trí

An tâm như thế nào?

An tâm như thế nào?

Đăng lúc: 08:28 - 20/06/2015

Trong Thiền tông có một câu chuyện đối thoại giữa Tổ Bồ Đề Đạt Ma và đệ tử thiền sư Huệ Khả.



Thiền sư Huệ Khả cảm thấy trong tâm có rất nhiều vấn đề, nên muốn Tổ giúp đỡ mình an tâm. Vì thế, Tổ hỏi Thiền sư: “Tâm con ở đâu? Con hãy đem tâm bất an ra cho thầy xem thử!”. Kết quả, Thiền sư không tìm được tâm mình. Lúc đó, Tổ Bồ Đề Đạt Ma bảo: “Thầy đã an tâm cho con rồi”.

Nguyên nhân nội tâm con người bất an, rốt cuộc là không phải ở bên ngoài mà do tâm ganh tỵ, tâm lo lắng, tâm sân hận, tâm tức giận, tâm tham... gây mâu thuẫn xung đột. Sự xung đột này bao gồm giữa mình với mình, hoặc mình với người khác, có thể là thật mà cũng có thể là tưởng tượng.

Như tâm ganh tỵ, có lúc chúng ta nhìn thấy người khác thành công, trong tâm rất khó chịu. Đúng ra, người khác thể hiện sự thành công, chúng ta phải vui mừng, khen ngợi, chia vui cùng họ; vả lại, sự thành công của họ làm cho chúng ta được thơm lây, thậm chí có cơ hội học theo. Thay vì ganh tỵ với người khác, chi bằng tìm hiểu nguyên nhân nào họ có thể thành công; đồng thời, hãy xem xét lại mình làm thế nào mới có thể tài giỏi giống như họ. Nhưng có lúc người khác làm được mà chúng ta cố gắng hết sức mình vẫn không làm được; lúc đó, chúng ta hãy nghĩ lại nhân duyên, phước báo của mình chưa đủ, cần phải nỗ lực thêm. Sau đó, cố gắng vun trồng nhân duyên, phước đức thì tất nhiên sẽ thành tựu.

Sở dĩ, người khác được thành công là vì họ phải trải qua nỗ lực vất vả; cho dù trong đời này họ không cực nhọc, nhưng đời quá khứ họ cũng từng tích lũy. Có người nhìn thấy người khác giàu sang, có địa vị danh vọng cảm thấy không khâm phục, cho rằng mình suốt đời làm lụng cực khổ mà vẫn thiếu trước hụt sau, cũng không có hạnh phúc. Lúc đó, chúng ta hãy nghĩ lại, người khác được giàu sang, hạnh phúc là kết quả từ đời quá khứ đã nỗ lực tu tập, chúng ta không ngưỡng mộ họ, cũng không nên ganh tỵ.

Ngoài ra, tâm tham cũng là nguyên nhân làm cho tâm con người bất an, người sống biết đủ không gọi là tham, người không biết đủ luôn tìm cầu gọi là tham. Người tham không biết chán là điều rất đau khổ, thật ra người biết đủ tất sẽ được đầy đủ. Chúng ta không cần suy nghĩ tìm mọi cách để đi tranh giành với người khác, chỉ cần nỗ lực làm việc thì tất nhiên sẽ được đơm hoa kết trái. Nếu như thành quả chưa xuất hiện là chứng tỏ nhân duyên chưa thành thục, chúng ta cũng không nên buồn vì việc này. Nếu suy nghĩ như thế sẽ tiêu trừ nhân tham sinh ra đau khổ.

Trên thực tế, tâm bất an chủ yếu là tự mình làm khổ mình, tự chuốc phiền não. Khi chúng ta cảm thấy bất an, trước phải hiểu rõ vì sao mình bất an? Sau khi tìm hiểu nguyên nhân thì thấy rất nhiều phiền não mà chúng ta cũng không cần bận tâm. Như chúng ta đi thi, sau khi thi xong, có người hàng ngày trông chờ kết quả, trong tâm lúc nào cũng hồi hộp lo lắng, không biết mình có thi đậu không? Thi đậu rồi học ở đâu? Nếu như lúc đó chúng ta suy nghĩ: “Dù sao mình cũng đã thi xong, có lo lắng như thế cũng chẳng giải quyết được gì; còn sau khi đậu học ở đâu, đến lúc đó sẽ tính, hiện tại có lo lắng cũng vô ích, cần gì tự mình chuốc lấy phiền não?”. Nếu nghĩ như thế thì tâm an liền, cảm thấy mình suy nghĩ lung tung thật vô duyên.

Cho nên, khi tâm chúng ta bất an thì hãy nghĩ lại, tự hỏi mình nguyên nhân bất an là gì? Do mình suy nghĩ quá nhiều, thực ra chẳng có việc gì đáng làm cho chúng ta phiền não và buồn rầu. Khi phản tỉnh như thế thì tâm chúng ta sẽ an ổn.

Ngoài ra, khi bất an, cũng có thể niệm danh hiệu Phật A Di Đà, hay Bồ-tát Quán Thế Âm. Nếu chuyên tâm niệm Phật, sẽ không còn nghĩ những vấn đề phiền não, tất nhiên từ từ tâm sẽ an lạc.

HT. Thánh Nghiêm

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 13
  • Hôm nay 2,072
  • Tháng hiện tại 38,527
  • Tổng lượt truy cập 23,444,776