Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
IMG 3503

Chùa Đức Hậu tổ chức lễ đúc tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nặng 10 tấn tại Nam Định

Đăng lúc: 22:09 - 10/11/2018

Tôn tượng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ngự trên tòa sen trong tư thế thiền định cao gần 5m và nặng 10 tấn được tôn trí trong chánh Điện chùa Đức Hậu để làm nơi quy ngưỡng kính lễ-tu tập cho mọi người.

IMG 5861

Lễ Hằng Thuận kết duyên tại chùa Đức Hậu

Đăng lúc: 14:49 - 10/07/2018

Tối ngày 09/07/2018 (26/05/Mậu Tuất), Chùa Đức Hậu tổ chức lễ hằng thuận cho đôi tân hôn: chú rể Nguyễn Minh Chí (pháp danh Tuệ Đức Chí) kết duyên cùng cô dâu Nguyễn Thị Kim Thoa (pháp danh Tuệ Hạnh Thoa).

Thư chúc Tết xuân Mậu Tuất của Đức Pháp chủ GHPGVN

Thư chúc Tết xuân Mậu Tuất của Đức Pháp chủ GHPGVN

Đăng lúc: 11:46 - 17/02/2018

Nhân dịp chào đón Xuân mới Mậu Tuất, Dương lịch 2018, Phật lịch 2562, thay mặt Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Tôi có lời thăm hỏi ân cần và lời chúc mừng năm mới đại hoan hỷ, an lạc, cát tường tới các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam và chư Tôn đức Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỘI ĐỒNG CHỨNG MINH
-----------------------

THƯ CHÚC TẾT XUÂN MẬU TUẤT
CỦA ĐỨC PHÁP CHỦ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Hà Nội, ngày 01 tháng Giêng năm Mậu Tuất

Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính gửi: Các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chư Tôn đức Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài.

Nhân dịp chào đón Xuân mới Mậu Tuất, Dương lịch 2018, Phật lịch 2562, thay mặt Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Tôi có lời thăm hỏi ân cần và lời chúc mừng năm mới đại hoan hỷ, an lạc, cát tường tới các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam và chư Tôn đức Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài.

Cả nước đón Xuân mới trong niềm vui đại thắng lợi trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam tổ chức thành công Diễn đàn hợp tác kinh tế APEC 2017 đưa đất nước bước lên một tầm cao mới trong hội nhập quốc tế. Giáo hội tổ chức thành công Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VIII diễn ra từ ngày 19 – 22/11/2017 tại Thủ đô Hà Nội đã là ngày hội lớn của Tăng Ni, Phật tử với tinh thần đoàn kết, hòa hợp, quyết tâm thực hiện khẩu hiệu: "Trí tuệ - Kỷ cương - Hội nhập - Phát triển”. Đại hội đã khẳng định tính thống nhất ý chí và hành động của toàn Giáo hội, qua đó cũng khẳng định nền tảng phát triển vững chắc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong những chặng đường tiếp theo của thế kỷ 21, luôn gắn bó đồng hành với dân tộc.

Xuân về rộn rã khắp muôn nơi, chào đón xuân mới Mậu Tuất với sức sống mới, các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam phấn khởi tập trung triển khai 09 mục tiêu phương hướng trọng tâm mà Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra, tổ chức nhân sự các Ban, Viện Trung ương các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh, thành phố theo Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam sửa đổi đã được Đại hội VIII thông qua. Đó là cơ sở để các cấp Giáo hội, Ban, Viện Trung ương và Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử bằng trí tuệ tập thể, sáng tạo trong điều hành, đổi mới phương thức hoạt động, đẩy mạnh các hoạt động Phật sự thiết thực đưa ánh sáng giáo lý từ bi, trí tuệ của Đạo Phật vào thực tiễn cuộc sống trong sự nghiệp Hoằng dương Chính pháp làm ích đạo, lợi đời.

Nhân dịp đầu Xuân Mậu Tuất, thay mặt các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử, Tôi bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đối với sự quan tâm giúp đỡ của các cấp Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, và gửi lời kính chúc năm mới tới Quý vị Lãnh đạo, cùng toàn thể nhân dân đón Xuân Mậu Tuất: An khang, thịnh vượng.

Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ tát Ma ha tát.

ĐỨC PHÁP CHỦ
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

(đã ký)

Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ

IMG 2422

Công bố quyết định phục hồi chùa Long Đồng

Đăng lúc: 12:39 - 10/02/2018

Sáng ngày 02 tháng 02 năm 2018, chùa Long Đồng (xã Hưng Nhân, huyện Hưng Nguyên) tổ chức lễ công bố quyết định của UBND tỉnh về việc phục hồi chùa.

Tịnh tín Tam bảo là cơ sở của hiếu thuận

Tịnh tín Tam bảo là cơ sở của hiếu thuận

Đăng lúc: 19:17 - 20/09/2017

Hiếu thuận với cha mẹ, biết ơn và đền ơn là những phẩm tính đạo đức rất quan trọng. Có thể nói, ai khiếm khuyết những phẩm tính trên thì què quặt, là ngợm chẳng nên người.

Dĩ nhiên bình sinh không ai phủ nhận hiếu thuận nhưng thực tiễn đời sống thì lại khác. Tùy nhân duyên mà mỗi người thể hiện chữ hiếu khác biệt nhau theo nghiệp của mình. Nghiệp ở đây là trình độ, nhận thức, quan điểm của cá nhân về hiếu thuận để ứng dụng thực hành. Ngoài ra còn có nghiệp duyên quá khứ đeo đẳng, vay trả, chi phối lên vấn đề hiếu thuận mà người thường rất khó nhận ra hay lý giải về chúng.
Theo Thế Tôn, đối với hàng Phật tử thì trọn niềm tin Tam bảo, tịnh tín Phật-Pháp-Tăng là cơ sở quan trọng để thiết lập và thực hành hiếu đạo. Thoạt nhìn, tịnh tín Tam bảo và hiếu đạo là hai vấn đề khác nhau, ít liên quan với nhau nhưng kỳ thực chúng có liên hệ mật thiết với nhau. Đoạn kinh văn dưới đây ‘chúng sinh muốn… vâng nhận phụng sự cha mẹ, anh em’, tức là có hiếu thuận thì cần giữ vững niềm tin trong sạch ‘không di động’ vào Tam bảo, rất đáng để chúng ta lưu tâm suy gẫm.

a tinhtin.jpg
Nhen nhóm niềm tin Tam bảo - Ảnh minh họa

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Nếu cho chúng sanh muốn khởi tâm từ, có lòng tin thuần thành, vâng nhận phụng sự cha mẹ, anh em, dòng họ, nhà cửa, bằng hữu, tri thức nên đặt ở ba nơi khiến không di động. Thế nào là ba? Nên phát tâm hoan hỷ đối với Như Lai, tâm không di động, bậc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thuợng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư hiệu là Phật, Thế Tôn.

Lại nên phát ý ở trong Chánh pháp, pháp của Như Lai khéo thuyết, vô ngại, rất là vi diệu, do đây mà thành quả vị. Như thế người trí nên học để biết, cũng nên phát ý với Thánh chúng này, Thánh chúng của Như Lai thảy đều hòa hợp, không có lẫn lộn, pháp thành tựu, giới thành tựu, tam muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, giải thoát kiến tuệ thành tựu. Thánh chúng nghĩa là bốn đôi, tám bậc, mười hai Hiền Thánh. Đây là Thánh chúng của Như Lai, đáng kính, đáng quý. Đây là phước điền vô thượng của thế gian. Có các Tỳ-kheo học ba điều này thì thành tựu quả báo lớn. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 21. Tam bảo,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.362)

Tin Tam bảo là nấc thang đầu tiên trên đường đạo. Những tưởng chúng ta dễ dàng chinh phục bước căn bản này để vượt lên những thứ bậc cao hơn nhưng thực tiễn lại khác. Chúng ta đều tin Phật Thích Ca nhưng chư Phật quá khứ, vị lai thì chưa trọn (trong khi các truyền thống Phật giáo đều nói đến chư Phật trong ba đời). Chúng ta đều tin Pháp (theo truyền thống của mình, nhưng không hiểu và không chấp nhận các truyền thống khác) trong khi ‘Pháp của Như Lai khéo thuyết, vô ngại, rất là vi diệu, do đây mà thành quả vị’. Còn tin Tăng là điều khó hơn vì thánh hiền Tăng ngày càng hiếm hoi, trong khi phàm và tạp Tăng thì ngày càng nhiều. Nên việc giữ tâm ‘không di động’ với Tam bảo quả là khó khăn.

Tuy nhiên, dù khó khăn đến mấy thì ‘không di động’ với Tam bảo là thách thức mà hàng Phật tử tại gia lẫn xuất gia phải vượt qua. Vì tâm không tịnh tín (tin sâu, tin với trí tuệ), niềm tin Tam bảo mà ‘di động’ thì không thể tiến tu được. Tịnh tín rồi thì tự khắc chúng ta cảm nhận được tinh hoa, thánh thiện nơi Tam bảo, giống như nhìn đá thấy ngọc, nhìn quặng thấy vàng. Nhờ đó mà niềm tin Phật-Pháp-Tăng trong ta ngày càng sâu sắc và bất động. Từ nền tảng này, những thiện tâm như từ bi hỷ xả, tàm quý hổ thẹn sợ hãi với những đều xấu ác, tha thứ và bao dung, hiếu thuận với cha mẹ và anh chị em ngày một lớn dần thêm. Thế nên, để trọn niềm hiếu thuận với cha mẹ và anh em, người con Phật trước cần trau dồi đức tin, thâm tín Tam bảo.
Quảng Tánh

Nhân duyên khởi ra Chánh kiến

Nhân duyên khởi ra Chánh kiến

Đăng lúc: 08:54 - 18/09/2017

Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạo là nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn. Trong đó, Chánh kiến tức nhận thức và quan điểm đúng Chánh pháp là chi phần quan yếu, có vị trí đứng đầu (Chánh kiến, …, Chánh định). Nhận thức và quan điểm đúng Chánh pháp sẽ quyết định sự nghiệp tu hành luôn đúng với lời Phật dạy, không bị thiên lệch, thẳng đến giải thoát Niết-bàn.
buddhism-2387822_960_720.jpg
Bát Chánh đạo là nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn

Thời Thế Tôn còn tại thế, vẫn có một số ít Tỳ-kheo nhận thức sai Chánh pháp. May thay, các vị này được Thế Tôn nghiêm trách và chấn chỉnh kịp thời. Ngày nay, chúng ta tu học trong thời đại cách Phật lâu xa, Thánh tăng ngày càng ít, trong khi hầu hết là phàm và tạp tăng, cùng với sự nhận thức và diễn giải kinh pháp theo tư kiến chủ quan ngày càng gia tăng khiến cho người sơ học gần như lạc lối trong rừng giáo pháp, mỗi người nói một phách nên chẳng biết theo ai, khó phân định đúng sai, tà chánh. Hơn lúc nào hết, người tu Phật hiện nay cần bám sát những lời dạy của Thế Tôn được bảo tồn trong Kinh tạng để thiết lập và nêu cao Chánh kiến.

Chánh kiến tuy có nhiều tầng ý nghĩa, sâu cạn khác nhau nhưng căn bản vẫn là: Tin hiểu Nhân quả-Nghiệp báo; Tin sâu Bốn Thánh đế; Thấy rõ thực tính Duyên khởi-Vô thường-Vô ngã của vạn pháp; xác quyết Giới-Định-Tuệ là cốt tủy của mọi pháp hành nhân danh Đức Phật. Nên những nhận thức, quan điểm, phương pháp tu tập và hành đạo mà xa lìa những đặc điểm then chốt này sẽ lập tức rơi vào tà kiến, phi Chánh pháp. Vấn đề đặt ra là mỗi người nên thiết lập Chánh kiến cho mình bằng cách nào? Văn-Tư-Tu là con đường làm cho tâm thông trí sáng. Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ hay tức Giới, tức Định, tức Tuệ cũng khiến vô minh diệt, minh sanh. Từ thức tri, tiến lên thắng tri và thành tựu liễu tri. Trong pháp thoại dưới đây, Thế Tôn đề xuất hai pháp “nhận lời dạy dỗ và suy nghĩ về Chỉ, Quán trong lòng” chính là “hai nhân, hai duyên khởi ra Chánh kiến”.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có hai nhân, hai duyên khởi ra Chánh kiến. Thế nào là hai? Nhận lời dạy dỗ và suy nghĩ về Chỉ, Quán trong lòng. Như thế, Tỳ-kheo đối hai nhân, hai duyên khởi ra Chánh kiến. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 15.Hữu vô,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.198)

Theo Thế Tôn, muốn thành tựu Chánh kiến trước hết phải “nhận lời dạy dỗ” cho tứ chúng. Giảng dạy cho người đi sau, cho Phật tử và cho tất cả mọi người biết Chánh pháp. Thật là sai lầm khi không ít Tăng Ni chúng ta ngày nay có xu hướng phó thác việc giảng dạy này cho các vị giáo thọ, giảng sư. Mà đúng ra, mỗi vị Tăng Ni và Phật tử đều phải là giáo thọ, giảng sư. Chư Tăng Ni hiện nay tụng niệm nhiều nhưng ít khi thuyết pháp, giảng dạy trong các khóa lễ. Có thể chư vị biết mà không dạy nhưng cũng có thể không biết nhiều để dạy hay không nhận ra tầm quan trọng của việc giảng dạy giáo pháp. Nên Thế Tôn thật thâm thúy khi đưa ra nhân duyên “nhận lời dạy dỗ” này. Muốn dạy người thì trước hết tự thân mình phải học tập, nghiên tầm giáo pháp. Một khi đã có hiểu biết giáo pháp sâu sắc thì thiết lập được Chánh kiến. Nên giảng kinh, thuyết pháp, dạy người mà thực chất chính là xây dựng Chánh kiến cho mình.

Kế đến, muốn thành tựu Chánh kiến phải “suy nghĩ về Chỉ, Quán”. Tu tập thiền Định và thiền Tuệ, cách gọi khác của Chỉ Quán chính là cơ sở hình thành Chánh kiến. Nói rõ hơn là phải tu tập, thực hành giáo pháp thì Chánh kiến mới phát sinh. Tâm có định thì trí mới sáng, trí sáng tỏ rồi thì liền hết tà kiến, lầm mê. Như vậy, theo lời dạy của Thế Tôn, mỗi người con Phật dù là xuất gia hay tại gia cần phải đầy đủ pháp Học và pháp Hành thì mới có thể thành tựu Chánh kiến. Phật giáo chúng ta tự hào có Tam tạng Kinh-Luật-Luận đồ sộ, minh triết bậc nhất, nhưng thực tế thì không phải ai tự nhận theo Phật cũng có Chánh kiến. Vấn đề là, liệu chúng ta có “nhận lời dạy dỗ và suy nghĩ về Chỉ, Quán” hay không?
Quảng Tánh

Đức Pháp chủ gửi thư chúc Tết Đinh Dậu 2017

Đức Pháp chủ gửi thư chúc Tết Đinh Dậu 2017

Đăng lúc: 09:54 - 28/01/2017

THƯ CHÚC TẾT ĐINH DẬU
CỦA ĐỨC PHÁP CHỦ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
GỬI TĂNG NI, PHẬT TỬ VIỆT NAM Ở TRONG NƯỚC VÀ Ở NƯỚC NGOÀI

ducphapchu.jpg
Trưởng lão HT.Thích Phổ Tuệ

Nam-mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính gửi: Các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam; chư tôn đức Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài.

Chào đón xuân mới Tết cổ truyền Đinh Dậu - 2017, thay mặt Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi có lời chúc mừng năm mới, lời thăm hỏi ân cần tới tất cả các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam và chư tôn đức Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài. Kính chúc quý vị một năm mới tràn ngập niềm hoan hỷ vô biên và thành tựu mọi Phật sự trên bước đường phụng sự Đạo pháp và Dân tộc!

Xuân mới nở muôn sắc hoa thơm ngát là nhờ công bồi đắp của thời gian đã qua. Những nỗ lực của Tăng Ni, Phật tử và các cấp Giáo hội trong năm Bính Thân đã tạo ra tiền đề vững chắc cho thành công Phật sự của năm mới sắp tới. Sự trưởng thành của các cấp Giáo hội, những đóng góp to lớn của Tăng Ni, Phật tử xây dựng ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam, những bài học kinh nghiệm đã được tổng kết tại Đại lễ Kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vừa qua là bài học minh chứng cho hướng đi đúng đắn hợp với thời đại của Phật giáo Việt Nam với phương châm: Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội trên tinh thần đoàn kết hòa hợp, trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm Giáo hội.

Xuân này hơn hẳn xuân qua, tôi rất vui mừng khi nhận thấy kết quả thực hiện cải cách hành chính Giáo hội, hầu hết các Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam cấp quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh trong cả nước đã tổ chức thành công Đại hội đại biểu Phật giáo nhiệm kỳ 2016-2021. Đó chính là cơ sở vững chắc để chúng ta thực hiện thành công Đại hội đại biểu Phật giáo các tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2017-2022 trong năm 2017 tiến tới tổ chức thành công Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VIII, 2017-2022 sẽ được tổ chức vào tháng 11-2017 tại thủ đô Hà Nội. Và đó cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong năm mới Đinh Dậu - 2017 mà Tăng Ni, Phật tử và các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ phấn đấu thực hiện thành công rực rỡ. Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VIII sẽ là đại hội tập trung trí tuệ tập thể của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài để phát huy và làm tỏa sáng tinh hoa hàng ngàn năm Phật giáo Việt Nam nhập thế phục vụ chúng sinh, đồng hành cùng dân tộc trong thời đại hội nhập quốc tế.

Nhân dịp năm mới xuân Đinh Dậu, thay mặt chư tôn đức lãnh đạo Giáo hội, tôi bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc sự quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các hoạt động Phật sự của Tăng Ni, Phật tử các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tôi cũng gửi lời kính chúc năm mới sức khỏe, an khang thịnh vượng tới các quý vị lãnh đạo và gia đình, cùng toàn thể đồng bào nhân dân đón xuân Đinh Dậu tiếp tục đổi mới sâu rộng trong đời sống xã hội và đại thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh!

Nam-mô Hoan hỷ tạng Bồ-tát Ma-ha-tát!

ĐỨC PHÁP CHỦ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
(Đã ấn ký)

Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ

Đức lớn mới thực sự lớn

Đức lớn mới thực sự lớn

Đăng lúc: 20:18 - 15/01/2017

Người đời thường căn cứ vào tuổi đời, địa vị xã hội, vai vế trong dòng tộc để phân định thứ bậc lớn nhỏ, vị trí cao thấp. Người tu thì căn cứ vào tuổi đạo, ai vào đạo trước (thọ giới trước) thì người đó lớn, đi trước, ngồi trên; ai vào sau thì nhỏ nên đi sau, ngồi dưới. Lệ thường là thế, song kỳ thực, tuổi đạo lớn hay nhỏ cũng không phải là vấn đề, quan trọng là vị ấy có giới đức phạm hạnh hay không.

“Một thời Tôn giả Đại Ca-chiên-diên dạo đến nước Bà-na, ở bên bờ ao sâu cùng với chúng năm trăm Đại Tỳ-kheo.

Bấy giờ Tôn giả Ca-chiên-diên danh vang khắp bốn phương. Trưởng lão Bà-la-môn Gian-trà đang du hóa ở đây. Lúc ấy Bà-la-môn nghe Tôn giả Ca-chiên-diên cùng năm trăm Tỳ-kheo du hóa bên ao này, nghĩ rằng: 'Tôn giả trưỡng lão công đức đầy đủ, nay ta có thể đến thăm hỏi Tôn giả'.

Bấy giờ Bà-la-môn Thượng Sắc đem năm trăm đệ tử đến chỗ Tôn giả Ca-chiên diên, thăm hỏi nhau xong, ngồi một bên. Lúc ấy, Bà-la-môn kia hỏi Tôn giả Ca-chiên-diên:

- Như Ca-chiên-diên đây không hành đúng pháp luật. Là Tỳ-kheo trẻ tuổi mà chẳng chịu làm lễ các bậc cao đức Bà-la-môn của chúng tôi.

Tôn giả Ca-chiên-diên nói:

- Bà-la-môn nên biết, Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác thuyết hai địa vị này. Thế nào là hai địa vị? Một là địa vị già cả, hai là địa vị trai tráng.

Bà-la-môn hỏi:

- Thế nào là địa vị già cả? Thế nào là địa vị trai tráng?

Ca-chiên-diên đáp:

- Cho dù, này Bà-la-môn, người ở tuổi tám mươi, hay chín mươi, không dừng được dâm dục, làm các hạnh ác. Này Bà-la-môn, đây là người tuy có thể bảo là già, mà nay ở địa vị trai tráng.

Bà-la-môn hỏi:

- Thế nào là tuổi trai tráng mà ở địa vị già cả?

Ca-chiên-diên đáp:

- Bà-la-môn, nếu có Tỳ-kheo độ hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi tuổi. Người ấy chẳng tập quen dâm dục, cũng chẳng tạo hạnh ác. Đó là, Bà-la-môn, trai tráng mà ở địa vị già cả.

Bà-la-môn hỏi:

- Trong đại chúng này có một Tỳ-kheo không hành dâm dục, chẳng tạo ác hạnh không?

Ca-chiên-diên đáp:

- Trong đại chúng này không có một Tỳ-kheo nào tập dục, làm ác cả.

Bà-la-môn liền từ chỗ ngồi đứng lên, lạy các Tỳ-kheo mà nói:

- Nay các ông tuổi niên thiếu mà ở địa vị già cả, còn tôi tuổi già mà ở địa vị niên thiếu.

Bấy giờ Bà-la-môn kia đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên cúi lạy và tự trình bày:

- Nay con xin quy y Tôn giả Ca-chiên-diên và Tỳ-kheo Tăng, suốt đời không sát sanh...”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 19. Khuyến thỉnh [trích],
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.312)
Cuộc đối thoại giữa Tôn giả Ca-chiên-diên và Bà-la-môn Thượng Sắc cho thấy, trong nhà đạo, phẩm vị cao thấp của một người dựa trên đạo đức, phạm hạnh của chính vị ấy. Cụ thể, “không hành dục, chẳng tạo ác hạnh” là cơ sở để xác định “địa vị già cả” của vị Sa-môn, xuất sĩ trong hội chúng. Ngược lại, người thiếu phạm hạnh, giới đức khiếm khuyết thì dù là gì đi nữa cũng chỉ ở “địa vị niên thiếu” mà thôi.

Liên hệ đến thực tế sinh hoạt Tăng-già trong xứ ta hiện nay, dường như chúng ta đang quá chú trọng về chức vụ. Người có chức vụ càng cao trong Giáo hội thì mặc định là có “địa vị già cả”, ngồi trên, đi trước. Vẫn biết, vì sự việc có tính “hành chánh” nên phải phương tiện như vậy. Vấn đề là, nương theo phương tiện mãi nên không ít người nhầm tưởng đó là cứu cánh (là ‘thiếu niên’ mà cứ nghĩ mình ‘già cả’). Đâu biết, cái hình thức mà mọi người đều biết ấy cần liên hệ với cái nội dung của riêng mình để hổ thẹn, tàm quý mà tự xác định địa vị của mình trong chúng Tăng.

Nhà đạo có câu “Chân thật bất hư”. Danh không xứng với thực thì chỉ là hư danh. Giới đức, phạm hạnh mới thật sự là nền tảng của phẩm vị trên, trước trong Tăng-già. Nhất là phẩm vị ấy phải được chúng Tăng thẩm sát, đánh giá rồi bình chọn và suy tôn mới thực sự giành được sự tôn trọng và quy ngưỡng trong bốn chúng.

Quảng Tánh

Biết ơn - nền tảng của hướng thiện

Biết ơn - nền tảng của hướng thiện

Đăng lúc: 21:38 - 03/12/2016

Biết ơn, tiếng Pāli là kataññutā và thường đi đôi với từ katavedi. Kataññutā nghĩa là khởi tâm biết ơn khi mình có được lợi ích từ việc thọ nhận vật gì hay sự tử tế nào đó từ người khác, còn katavedi nghĩa là thể hiện sự biết ơn đó qua lời nói hay hành động. Kataññutā khi đứng một mình bao hàm cả nghĩa của từ katavedi.

Biết ơn, tiếng Anh là gratitude, xuất phát từ gốc La-tinh là gratia, nghĩa là ơn huệ, biết ơn. Theo Pruyser (1976), tất cả những từ xuất phát từ gốc gratia đều có nghĩa là “Phải làm tất cả mọi điều với lòng tốt, tâm lượng rộng rãi, như là một món quà, cao đẹp trong việc cho và nhận một cái gì đó một cách không vụ lợi” (tr.69).

Emmons và Shelton (2002) định nghĩa biết ơn là “cảm giác kỳ diệu, cảm giác mang ơn và ghi nhận giá trị cuộc sống” (tr.460). Trên phương diện đạo đức, biết ơn là cơ sở để hình thành và nuôi dưỡng các tâm niệm lành, các hành động thiện và những suy nghĩ tích cực trên con đường hướng thiện được cụ thể hóa qua các nội dung sau:
Biết ơn giúp chúng ta đối xử tốt với mọi người

Trong Phật giáo, biết ơn là khái niệm dùng để chỉ cảm giác mang ơn và có ý muốn đền ơn khi chúng ta thọ nhận một hành vi tốt từ một người nào đó. Tachibana giải thích rằng, hình thức đền ơn căn bản và quan trọng nhất liên hệ đến việc chu toàn bổn phận của người con đối với cha mẹ; trái lại, bất hiếu với cha mẹ là một trong những tội ác lớn nhất của con người (tr.235). Do đó, người biết ơn là người thực hiện hành vi đền ơn với tất cả như một người con làm tròn bổn phận đối với cha mẹ, hay ít ra là xem tất cả như người thân của mình. Cách đền ơn toàn tâm toàn ý như vậy đáng được thực hành và nhân rộng trong cộng đồng xã hội. Mỗi người đều nên khởi tâm biết ơn người khác như một bổn phận báo đền công ơn thọ nhận trong cuộc sống. Do đó, trong các mối quan hệ xã hội, quá trình cho-nhận được thiết lập và thường xuyên diễn ra thì sự thương yêu, tôn trọng và sẵn lòng làm tất cả những gì tốt đẹp cho người khác là việc làm tất nhiên của những con người biết suy nghĩ và quán chiếu.

nsgn.jpg

Cuộc sống là một mạng lưới mà mỗi người là một mắt xích. Do vậy, chúng ta thọ ơn không chỉ với những người thân hay những người mình trực tiếp có được lợi ích về vật chất hay phi vật chất. Trong hàng ngàn các mối quan hệ chằng chịt và phức tạp, trực tiếp cũng như gián tiếp, chúng ta thọ ơn ngay cả những người xa xôi mà chúng ta chưa hề quen biết. Chúng ta không chỉ thọ ơn những người cùng thời đại với mình mà còn chịu ơn những người của bao thế hệ trước nữa. Theo tinh thần Phật giáo, “Khoảng cách về không gian và thời gian không làm ngăn ngại các mối quan hệ. Giáo lý luân hồi của các tôn giáo Ấn Độ, đặc biệt là Phật giáo, dạy chúng ta hiểu rằng, trên thực tế, chúng ta không chỉ có quan hệ với con người mà còn với tất cả chúng sanh” (Tachibana, tr.228).

Một sự thật rằng, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc khi nói lời cảm ơn ai đó, hoặc đón nhận lời cảm ơn từ người khác. Chúng ta sẽ phấn chấn khi có ai đó nói rằng, chính mình làm cho họ thay đổi theo hướng tích cực và họ biết ơn về điều này. Chúng ta cũng xúc động không kém khi mình đang gặp việc rắc rối, có người tự nguyện tạm gác lại việc của họ để lăn xả vào cuộc giúp mình mà không tính toán so đo. Cảm giác phấn chấn ấy có mặt vì chúng ta thấy việc mình làm đem lại lợi ích thiết thực cho người khác. Cảm giác xúc động ấy là biểu hiện lòng biết ơn của chúng ta dành cho người trải lòng chia sẻ trong lúc mình cần nhất. Trong cả hai trường hợp, biết ơn và được biết ơn đều đem đến cho chúng ta niềm vui, tâm lý an ổn và có cảm xúc cân bằng hơn. Khi chúng ta nhận được lợi ích từ công sức và thiện chí của người khác dành cho mình, tâm niệm biết ơn có mặt, và khi ấy, chúng ta trở nên tử tế hơn, vì hiểu rằng, không lúc này thì lúc khác, không cách này thì cách khác, chúng ta đã, đang hoặc sẽ mang ơn mọi người. Ý niệm này giúp chúng ta sống tử tế hơn với tất cả mọi người.

Biết ơn giúp chúng ta tận tụy hơn trong công việc

Tấm gương sinh động nhất về sự tận tụy trong công việc là Đức Phật. Sau khi thành đạo, việc đầu tiên của Đức Phật là thể hiện lòng biết ơn đối với cây bồ-đề đã che mưa chắn nắng cho Ngài trong suốt thời gian Ngài tu tập cho đến khi chứng nghiệm đạo quả giác ngộ. Nhiều sử liệu kể lại rằng, sau khi hưởng pháp lạc giải thoát, Ngài dành một tuần để đứng trước cây bồ-đề, nhìn về gốc cây với ánh mắt tri ân. Ngài thể hiện lòng biết ơn giáo pháp Ngài vừa tìm được một cách thiết thực nhất là tìm phương pháp để chuyển tải pháp giải thoát đến số đông dân chúng vốn nhiều tầng lớp với đủ các trình độ khác nhau. Khi đã tận tâm tận lực tìm được phương pháp truyền đạt hiệu quả, Ngài bắt đầu cuộc hành trình hoằng truyền giáo pháp, một hành trình đền ơn không có điểm dừng!

Đối tượng đầu tiên Ngài nghĩ đến để trao gởi thông điệp giải thoát là hai vị thầy tâm linh đầu tiên Ngài đã theo học trên con đường tìm cầu chân lý, đó là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Mặc dù Ngài không chứng đạt giác ngộ khi theo học giáo lý từ hai vị này, nhưng họ là những vị ân nhân trợ duyên không nhỏ trên lộ trình tâm linh của Ngài. Sau khi quán chiếu và biết cả hai vị đều đã mất, Ngài liền nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước đó. Đây cũng là những người Ngài từng chịu ơn bởi lẽ nhờ họ mà Ngài biết đến các hình thức khổ hạnh để Ngài tự chiêm nghiệm trong lúc hành trì. Cho dù đây chưa phải là con đường rốt ráo đưa đến giác ngộ giải thoát, nhưng những trải nghiệm này là động cơ giúp Ngài toàn tâm toàn trí để tìm ra lối đi riêng cho mình.

Một thời gian sau, Ngài bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp trong tinh thần biết ơn đến những đối tượng khác. Đó là Ngài trở về hoàng cung hóa độ người thân của mình cũng trong tinh thần biết ơn. Ngài độ các vị vua đương thời cũng trong tinh thần báo đáp. Suốt một cuộc đời tận tâm tận lực không mệt mỏi, Ngài thực hiện cuộc hành trình độ sinh trong tinh thần tri ân vô hạn. Thế nhưng, chúng ta quen nhìn Đức Phật là một bậc Đại giác ngộ, Đại từ bi, Đại công đức mà mấy ai thấy Ngài là bậc Đại tri ân đáng cho chúng ta học hỏi trọn đời. Không chỉ thể hiện hành vi giáo dục người khác qua hành động của chính mình, Đức Phật còn thể hiện tinh thần tri ân trong nhiều bài kinh. Trong kinh Điềm lành tối thượng (Mangala sutta - kinh số 4, phẩm Nhỏ, kinh Tập), Đức Phật dạy, biết ơn là một trong các điềm lành tối thượng để tiến bộ trên lộ trình tâm linh.

Lòng biết ơn lại được thể hiện rõ nét qua tấm gương của Tôn giả Sāriputta (Xá Lợi Phất), một trong các vị đệ tử lớn của của Đức Phật. Sau khi gặp Tôn giả Assaji (Ác Bệ), Tôn giả Sāriputta hiểu được lý nhân duyên và tỏ ngộ chân lý. Từ đó, Tôn giả Sāriputta cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình trong sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp để đền đáp ơn lành được gặp Chánh pháp. Tôn giả có trí tuệ siêu tuyệt và phương pháp giảng dạy giáo pháp của Tôn giả thật là đặc biệt. Tôn giả là một trong số ít các đệ tử của Đức Phật có thể thay Đức Phật thuyết pháp cho đại chúng, giảng giải chi tiết, phân tích cụ thể các vấn đề giáo pháp sau khi được Đức Thế Tôn tuyên thuyết một cách vắn tắt và các bài pháp thoại ấy đều được ghi lại trong một số kinh Nikāya (điển hình như Trung bộ kinh số 5: kinh Không uế nhiễm; Trung bộ kinh số 144: kinh Giáo giới Chanda; Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương X, kinh Sāriputta-Kotthika; Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm IV, kinh số 5: Đất; Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm III, kinh số 21: Chứng thực với thân; chương III, phẩm XIII, kinh số 128: Anuruddha; chương III, phẩm XVI, kinh số 158: Thối đọa; chương IV, phẩm XVIII, kinh số 173: Phân tích). Tôn giả là cánh tay đắc lực của Đức Phật trong quá trình truyền bá Chánh pháp. Tấm gương tri ân và báo ân của Ngài thật đáng để chúng ta ngưỡng mộ và noi theo.

Như vậy, biết ơn và dốc lòng tận tụy sống một cuộc đời đem lại lợi ích cho mọi người để đền ơn là đặc tính tự nhiên của bậc trí, tựa như chúng ta hít thở khí trời. Người trí thực hành lòng biết ơn và đền ơn trong tinh thần phục vụ như một bản năng, một bổn phận. Với trí tuệ siêu phàm và tâm từ rộng lớn, người trí rõ biết và cảm nhận được những lợi ích có được từ con người và cuộc sống xung quanh. Nếu không cảm nhận được điều này từ bản chất, việc phát khởi tâm biết ơn là một điều không phải dễ dàng, và càng khó hơn là thể hiện tâm biết ơn đó bằng sự tận tụy và hết lòng trong công việc.

Biết ơn giúp chúng ta thực hành pháp bố thí tốt hơn

Chính vì muốn nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn các thành phần xã hội trong cộng đồng để tiến bộ và từng bước hoàn thiện nhân cách của mình, Đức Phật dạy các đệ tử của Ngài cần phải bố thí như là biểu hiện của lòng biết ơn. Mình biết nhận từ người khác và có được lợi ích từ sự thọ lãnh này thì cần phải khởi tâm ban tặng như một quy luật của cuộc sống. Ngài dạy “Có hai loại bố thí, đó là bố thí tài vật và bố thí pháp. Trong hai loại bố thí này, pháp thí tối thắng hơn” (Pháp cú, câu 354; Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm XIII: Bố thí). Người đệ tử xuất gia của Ngài chuyên tâm học pháp và hành pháp, thì sẽ có pháp làm món quà tối thượng để chia sẻ với mọi người. Do đó, cả cuộc đời của người xuất gia là tận tụy, chuyên tâm tu học để thể hiện lòng biết ơn và đền ơn đối với mọi người, mọi loài trong vòng duyên sinh kết nối rộng lớn này qua cách thức cho đi và nhận lại.

Theo truyền thống, Đức Phật dạy, người xuất gia không trực tiếp làm một nghề nào như người cư sĩ để nuôi sống bản thân (kinh Di giáo) mà sống tùy vào sự phát tâm cúng dường của hàng cư sĩ tại gia để nuôi dưỡng tâm niệm tri ân thông qua việc chuyên tâm bố thí món quà tâm linh đến hàng cư sĩ ngoại hộ. Trong khi đó, người cư sĩ còn phải làm nhiều bổn phận ở đời, phải làm các nghề để kiếm kế sinh nhai, nên chưa thể toàn tâm dành hết thời gian trong ngày để học pháp và hành pháp. Họ mong được hiểu giáo pháp Đức Phật được truyền đạt từ người xuất gia và đáp lại, họ có điều kiện để cúng dường tài vật đến các bậc thầy tâm linh. Những lời Đức Phật dạy được ghi lại trong nhiều kinh rằng, người xuất gia là ruộng phước tối thượng để người cư sĩ gieo trồng công đức (Tăng chi bộ kinh, tập 1, chương III, phẩm 7, mục 70: Các lễ Uposatha; mục 75: Cần phải khích lệ; phẩm 10: phẩm Hạt muối; mục 94: Con ngựa thuần thục; phẩm 14: Kẻ chiến sĩ, mục 131: Kẻ chiến sĩ).

Do đó, người xuất gia bố thí pháp, người cư sĩ tại gia cúng dường tài vật là việc làm nhằm tạo cho đôi bên ý thức được cuộc sống do duyên nhau mà tồn tại trong quan hệ cho-nhận trực tiếp giữa người xuất gia và tại gia, qua đó thể hiện và nuôi dưỡng tâm niệm biết ơn. Mỗi người nương vào pháp bố thí này như một bài thực hành căn bản để khởi niệm biết ơn dễ dàng hơn đến với những người không tham gia vào vòng cho-nhận trực tiếp. Từ ý niệm biết ơn trong quan hệ cho-nhận, chúng ta tự nhắc nhở mình - phải biết cho đi để xứng đáng với những gì mình đang nhận lại từ cuộc đời này. Với tâm niệm biết ơn như vậy, mỗi người nên có trách nhiệm với nhau hơn, mở rộng khối óc và đôi tay, sẵn sàng thực hành bố thí trong tinh thần “món vay món trả phải đồng”.

Biết ơn giúp chúng ta hài lòng với cuộc sống thực tại

Khi thấy mình là kẻ thọ ơn, chúng ta dễ dàng có cảm giác hoan hỷ chấp nhận và có tâm lý hài lòng, bằng lòng với những gì mình đang có hay vị trí mình đang là. Cảm giác này hoàn toàn chủ quan và mang tính tương đối. Cùng trong một điều kiện sống, người hài lòng thì cảm nhận được hạnh phúc, an lạc, nhưng người không hài lòng thì cảm nhận sự đau khổ, bất an. Cùng trong một môi trường, không gian sống, khi này chúng ta hài lòng, lúc khác chúng ta lại không vừa ý. Với vật chất thế gian, con người chỉ có được trạng thái hài lòng tạm thời mà thôi. Tâm chao đảo, mất cân bằng do tham đắm và bám víu vào những gì chúng ta ưa thích, từ chối và đẩy ra những gì chúng ta không ưa thích khiến chúng ta khó có được sự hài lòng lâu bền. Chỉ khi nào biết trân quý những gì chúng ta đang có, đang sử dụng với ý niệm biết ơn, biết đủ, chúng ta mới dừng tâm đòi hỏi và tìm cầu để sống một cuộc đời trọn vẹn với thực tại.

Thường xuyên thực hành hạnh biết ơn sẽ giúp chúng ta có cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ và an lành. Người không hài lòng với những gì mình đang có thì không thể ý thức được rằng mình đang thọ ơn người khác. Do vậy, thay vì khởi niệm biết ơn, họ chỉ có thể khởi tâm phàn nàn. Biết ơn, đơn giản là có cảm giác mình là người thọ lãnh và ghi nhận giá trị của những gì mình nhận được từ con người và cuộc sống. Ý niệm biết ơn là mạch máu làm tươi nhuận con tim, nuôi dưỡng khối óc và tưới tẩm tâm hồn chúng ta. Có rất nhiều cơ hội để chúng ta có thể khởi tâm cảm ơn người khác. Với cảm nhận đầy đủ về những gì mình đang có và những gì mình đang trải qua đủ để chúng ta khởi niệm biết ơn. Thân thể, vóc hình, trí tuệ, sắc đẹp, sức khỏe, tài sản, tình cảm chúng ta sở hữu trong kiếp sống này đủ để nhắc chúng ta khởi niệm cảm ơn những gì cuộc đời ban tặng. Từ trong ý niệm biết ơn, chúng ta biết cách sử dụng những gì chúng ta đang có để đem lại lợi ích cho mình, cho người, sống một cuộc đời đáng sống. Đây là cách thể hiện tinh thần biết ơn và đền ơn một cách thiết thực nhất.

Chúng ta có thể làm cho cuộc sống trở nên phong phú và giàu có với tâm niệm biết ơn. Bằng cách ghi nhận thân và tâm này vốn đã được vay mượn từ cha mẹ thuở mới sinh ra, ghi nhận những gì chúng ta đã, đang và tiếp tục thọ nhận từ người khác trong cuộc sống hàng ngày, ghi nhận giá trị ấy để luôn nhắc nhở mình sống trong tinh thần biết ơn. Chúng ta có trọn quyền và có đủ khả năng điều khiển ý tưởng của mình để đạt được hạnh phúc và bình an trong cuộc sống trên nền tảng của tâm niệm biết ơn. An lạc hay đau khổ, thật ra phần lớn đều do mình chọn lựa hơn là do hoàn cảnh hay từ những thứ bên ngoài đem lại, và tinh thần tri ân và báo ân sẽ giúp ta trong việc này.

Khởi niệm biết ơn không có nghĩa chúng ta phủ nhận - những buồn đau, thất vọng xảy ra với mình như một phần trong cuộc sống. Biết ơn là nhận ra mình còn được nhiều thứ từ cuộc đời này và hãy lấy những cái có được ấy làm toa thuốc trị bệnh đau buồn. Một khi chúng ta phàn nàn, nghĩa là chúng ta cảm thấy thiếu thốn hay không hài lòng với cuộc sống hiện tại thì chúng ta có thể khởi lên ý niệm biết ơn chăng? Cứ quay lại nhìn mình, nhìn lại những gì mình đang có, đủ để chúng ta khởi niệm cảm ơn, để tâm hồn bình an và cảm thấy hài lòng với cuộc sống còn nhiều điều bất toàn này. Vấn đề là khi biết khởi tâm biết ơn, chúng ta có đủ khả năng vượt trên những đau buồn như một cơ hội để trưởng thành. Người khôn ngoan biết lấy nghịch cảnh làm cơ hội để học hỏi và tự thân biết cách vươn lên từ trong bĩ cực nhằm hóa giải và thăng hoa nỗi đau thành niềm vui. Rác rưởi có thể sử dụng thành dưỡng chất cho cây lá tươi xanh đâm chồi nảy lộc, cho hoa trái khoe hương tỏa sắc giữa đất trời.

Khi chúng ta chú ý đến điều gì, cái đó trở nên quan trọng và chiếm vị trí trung tâm trong tất cả suy nghĩ, ý tưởng của mình. Hơn thế nữa, bao nhiêu ý tưởng liên quan đến từ khóa ấy cũng lần lượt xuất hiện. Ví như khi chúng ta gõ một từ khóa nào đó vào hệ thống tìm kiếm trên mạng, như Google chẳng hạn, thì lần lượt từng trang một, bao nội dung liên quan đến từ khóa ấy đều xuất hiện, chúng ta dễ dàng tìm tiếp và tìm tiếp nữa. Cũng như vậy, khi có một ‘từ khóa’ nào đó xuất hiện trong ý tưởng, ví dụ đó là một điều chúng ta ước muốn. Thế là biết bao ý tưởng đều từ đó phát sinh. Tương tự chim bay theo đàn, ý tưởng cuộn theo từng mảng chứ không tồn tại riêng lẻ bao giờ. Một sự thật rằng, chúng ta không nhận được những gì mình mong muốn, nên chúng ta không hài lòng với cuộc sống hiện tại. Nếu mỗi ngày chúng ta dành 5 phút để ước muốn thì thời gian 1.435 phút còn lại (24 tiếng đồng hồ là 1.440 phút) trong ngày chỉ để lo lắng, suy nghĩ. Vậy liệu những mong muốn của mình có thành tựu hay không? Ham muốn chỉ đến với người không hài lòng thực tại và không biết cách khởi niệm biết ơn.

Do đó, người không biết ơn thì tâm luôn lăng xăng bận rộn mà không thể hướng thượng và hướng thiện. Nếu chúng ta bình tâm quan sát bản thân mình với tất cả năng lực mình đang có, những gì mình đang sở hữu thì chúng ta sẽ đi đúng hướng trong việc dự đoán, chứ không phải mong cầu cho thỏa mãn lòng tham. Làm được thế này, tâm chúng ta sẽ trú trong “ngưỡng an toàn” và không quá bận rộn vô ích với những điều xa rời thực tế với tâm lý mệt mỏi, nhọc nhằn vì mong cầu mà không đạt được. Thay vì lao tâm khổ trí vì những ý tưởng tiêu cực do lo lắng, sợ hãi tạo ra, ý niệm biết ơn sẽ giúp chúng ta trở nên an ổn và thanh thản hơn trong cuộc sống.

Biết ơn giúp chúng ta bớt đi ý tưởng chấp ngã, mở rộng tâm hồn

Một lợi ích nữa là khi chúng ta biết khởi niệm biết ơn thì ý niệm chấp ngã của chúng ta vơi dần. Bằng cách thực hành biết ơn, chúng ta ý thức rõ ràng rằng, chúng ta đơn giản chỉ là một phần không thể tách rời của một bộ phận lớn hơn. Càng ý thức rõ ràng về mối quan hệ duyên sinh giữa mình và thế giới lớn hơn bên ngoài, chúng ta càng trở nên khiêm tốn hơn, thấy mình bé nhỏ lại và phụ thuộc nhiều vào thế giới chúng ta đang sống. Bớt đi ý niệm chấp ngã không có nghĩa là chúng ta đánh mất mình mà là biểu hiện về sự trưởng thành của nhận thức, là sự trưởng thành về khả năng giữ tâm thăng bằng và an lạc nhờ vào tâm niệm biết ơn.

Sống trên đời này, chúng ta không thể tồn tại, đó là chưa nói đến thành công, nếu không có cha mẹ, thầy, bạn và nhiều người thân hay không thân khác nữa. Hẳn là ít nhất chúng ta không thể không mang ơn những người này. Ý tưởng “những gì tôi có được ngày hôm nay là do bản thân tôi, không ai giúp cả” chỉ phản ánh cái nhìn thiển cận của người vô ơn và chấp ngã mà thôi. Chính tâm niệm biết ơn giúp chúng ta hạnh phúc trong vòng tay của người thân như cha mẹ, thầy tổ, bạn bè. Đây là động cơ để mở lòng sống tốt với mọi người và là cách hướng đến con đường thánh thiện trong mọi tình huống. Khi bắt đầu cảm nhận được lợi ích và ý nghĩa với những gì mình trải nghiệm, chúng ta dễ dàng thấy điều hay, lẽ đẹp nơi người khác. Biết ơn giúp cho chúng ta có niềm tin nhiều hơn trong các mối quan hệ. Biết ơn giúp chúng ta cảm nhận được những gì mình thọ nhận từ người khác để dễ dàng khởi niệm đền ơn. Lưu tâm đến cái tốt, cái đẹp thì những tâm niệm và hành động tốt đẹp dễ dàng phát sinh và chúng ta có thể nhân rộng những điều thiện lành trong cuộc sống và rộng dần ra từ nơi chúng ta sinh sống.

Với tâm rộng mở trong tinh thần biết ơn, chúng ta dễ tha thứ hơn, nhờ đó các vết đau tâm lý dễ chữa lành hơn. Tha thứ là chìa khóa để chữa lành vết thương tâm lý và cảm xúc, đồng thời, tha thứ chỉ có thể làm được khi khởi lên ý niệm biết ơn. Trong đau buồn mà vẫn thấy mình “được” chứ không mất, chúng ta mới có thể khởi niệm biết ơn và dễ dàng tha thứ. Tha thứ có thể thuần túy diễn ra từ trong ý niệm thông qua trị liệu, thiền định, thực hành tâm từ bi và sẵn lòng cảm thông đối với tất cả mọi người. Tha thứ cho chính mình hay người nào đó là chất liệu nuôi dưỡng chúng ta trưởng thành hơn và chữa lành vết thương lòng nhanh hơn.

Biết ơn giúp chúng ta vững vàng hơn trong cuộc sống

Trong những tình huống khó khăn nhất, tâm chúng ta chùn xuống và các tâm lý tiêu cực đua nhau xuất hiện trên bề mặt ý thức. Điều này làm cho nỗi đau trương phồng thêm lên một cách không cần thiết. Trong những tình huống như vậy, nếu chúng ta bình tâm nhìn lại để kịp nhận ra rằng, những gì chúng ta đang có, kể cả nỗi khổ niềm đau vừa lưu dấu trong tâm, là món quà vô giá để chúng ta khởi tâm cảm ơn tất cả. Sự mất mát để lại niềm đau, nhưng đáng giá hơn là bài học vô thường sinh động mà cuộc đời ban tặng. Chúng ta hãy biết ơn điều này và với tâm lý biết ơn như vậy, đau thương mất mát được chữa lành nhanh chóng.

Biểu hiện lòng biết ơn đối với người khác có nghĩa là chúng ta đang dành cho người ấy một sự ghi nhận và hỗ trợ tinh thần với ngụ ý rằng việc người ấy làm cho chúng ta là có ý nghĩa. Điều này tạo cho người ấy tăng thêm niềm tin việc mình làm là đúng, từ đó khởi tâm hoan hỷ, tinh thần phấn chấn hơn và sống bình an hơn.

Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những thay đổi mới mẻ trong ta và trong cuộc sống. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được sự đóng góp của người khác vào sự thành công của bản thân mình một cách dễ dàng. Mỗi bước tiến trên lộ trình tâm linh là mỗi cơ hội để chúng ta thể hiện tâm biết ơn của mình. Biết ơn chính là động cơ, là nền tảng cho mỗi bước tiến trên con đường hướng thiện của bản thân mỗi người. Với sự biến đổi không ngừng của môi trường và cuộc sống, chúng ta phải luôn xem lại mình để thích ứng với hoàn cảnh hiện tại. Mỗi lần thích nghi với môi trường hay hoàn cảnh mới, chúng ta có cơ hội cảm ơn tất cả để chúng ta có thể vươn lên một nấc thang cao hơn, một trạng thái hài lòng được thiết lập trong quá trình tu tập.

Ngay cả trong hoàn cảnh không như ý, chúng ta cũng nên khởi tâm biết ơn vì nhờ có khó khăn, thất bại chúng ta mới có dịp hiểu rõ khả năng thực tế và kỹ năng xoay xở tình huống của bản thân, cũng như có dịp quan sát những tâm lý khởi lên và dâng trào đến mức độ nào trong bối cảnh bất như ý đó. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta định hướng, hạ quyết tâm để đứng vững và bước chắc trên con đường hướng thượng nhằm hoàn thiện nhân cách của mình.

Biết ơn đem lại nhiều lợi ích từ cơ thể khỏe mạnh đến tâm lý ổn định, tinh thần sảng khoái và làm tươi mát cuộc sống nội tâm cũng như trong các quan hệ giao tiếp với người xung quanh. Nếu thường xuyên khởi niệm biết ơn, chúng ta sẽ có cái nhìn thực tế, rõ ràng và chính xác hơn qua lăng kính duyên sinh về khả năng thực tế của bản thân, về sự góp phần của con người, môi trường và những sắc màu mình trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày. Qua lăng kính của biết ơn, mọi vật trở nên trong sáng hơn, con người ngày càng trưởng thành hơn và cuộc sống mỗi ngày càng thêm tươi đẹp hơn.

Liên Trí

________________

Tài liệu tham khảo

Emmons, R A. & Shelton, C. M. (2002). Gratitude and the science of positive psychology. In: Handbook of positive psychology. Snyder, C. R.; Lopez, Shane J.; New York, NY, US: Oxford University Press. 459-471.

Pruyser, P.W. (1976). The minister as diagnostician: Personal problems in pastoral perspective. Philadelphia, PA: Westminster Press.

Tachibana (1992/1975). The ethics of Buddhism. London: Curzon Press.

Thích Minh Châu (dịch) (1996). Tăng chi bộ kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Thích Minh Châu (dịch) (1997). Trung bộ kinh. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Thích Minh Châu (dịch) (1997). Tương ưng bộ kinh. TP.Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

Phụng tống kim quan HT.Thích Thiện Bình nhập bảo tháp

Phụng tống kim quan HT.Thích Thiện Bình nhập bảo tháp

Đăng lúc: 11:13 - 26/11/2016

Sáng 24-11 (25-10-Bính Thân), Ban Tổ chức tang lễ Đức Phó Pháp chủ HĐCM GHPGVN - cố Trưởng lão HT.Thích Thiện Bình trang nghiêm cử hành lễ tưởng niệm tại chùa Sắc tứ Long Sơn (TP.Nha Trang, Khánh Hòa).
Chứng minh và tham dự buổi lễ có chư tôn đức Giáo phẩm HĐCM, HĐTS TƯGH, các ban ngành, viện, các BTS GHPGVN tỉnh thành.

RJ7A0642.jpg
Trang nghiêm diễn ra lễ tưởng niệm cố Trưởng lão HT.Thích Thiện Bình

Thay mặt Ban Tổ chức tang lễ, HT.Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS đã cung tuyên tiểu sử cố Trưởng lão HT.Thích Thiện Bình.

RJ7A0659.jpg
HT.Thích Thanh Nhiễu cung tuyên tiểu sử cố Trưởng lão Hòa thượng

Theo đó, Hòa thượng thế danh Nguyễn Văn Tuấn, sinh ngày 22 tháng 2 năm Quý Dậu (1933) trong một gia đình thâm tín Tam bảo, ở làng Bình Đông, xã Mỹ Bình, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.

Nhờ sẵn túc duyên, ngài được HT.Thích Thiện Minh - Hội trưởng Hội Phật học Khánh Hòa đương thời hướng dẫn ra Huế xuất gia với Đức Trưởng lão HT.Thích Giác Nhiên - Trú trì Tổ đình Thiền Tôn, và được ban pháp danh Tâm Địa, pháp tự Thiện Bình, pháp hiệu Chánh Tâm. Sau đó, Hòa thượng Bổn sư cho theo học tại Phật học đường Báo Quốc - một cơ sở đào tạo Tăng tài nổi tiếng thời bấy giờ, do Trưởng lão HT.Thích Trí Thủ làm Giám đốc, được sự trực tiếp giảng dạy của quý Ngài như HT.Thích Đôn Hậu, HT.Thích Mật Thể, HT.Thích Thiện Siêu, HT.Thích Trí Quang, HT.Thích Mật Hiển, HT.Thích Mật Nguyện, HT.Thích Thiện Minh, HT.Thích Minh Châu,…

Năm 1950, sau khi tốt nghiệp tại Phật học đường Báo Quốc, ngài được Hoà thượng Bổn sư cho thọ giới Sa-di tại giới đàn chùa Linh Quang - Thừa Thiên.

Năm 20 tuổi (1952), ngài được Bổn sư cho thọ giới Cụ-túc tại Giới đàn Báo Quốc, do Trưởng lão HT.Thích Tịnh Khiết làm Hòa thượng Đàn đầu.

Năm 22 tuổi, ngài được Tổng hội Phật giáo Việt Nam cử làm giảng sư, dấn thân hành đạo nhằm củng cố và xây dựng cơ sở Phật giáo tại tỉnh Quảng Nam, Quảng Trị, Tuyên Đức - Đà Lạt, Kon Tum…

RJ7A0650.jpg
Quang cảnh lễ tưởng niệm

Năm 1997, tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IV, ngài được suy cử vào Hội đồng Chứng minh, kiêm Ủy viên Kiểm soát Hội đồng Trị sự GHPGVN. Sau đó, năm 2007, ngài được suy tôn đảm nhiệm Phó Thư ký Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh GHPGVN; năm 2012, ngài được suy tôn làm Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

Trưởng lão HT.Thích Thiện Bình là thế hệ Tăng tài được đào tạo một cách quy củ trong giai đoạn Chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX, đặc biệt sống trong môi trường Phật học viện nghiêm khắc tại miền Trung, nên Ngài đã được thừa kế một tinh thần phụng sự không biết mệt mỏi vì lý tưởng Bồ-tát đạo, vì sự hưng thịnh của Đạo pháp và Dân tộc.

Mặc dù khi đã tuổi cao sức yếu, nhưng với ý hướng tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức, Ngài vẫn vững chãi trong cương vị lãnh đạo Phật giáo tỉnh nhà, cũng như các Phật sự của Trung ương Giáo hội, gắn bó với Tăng Ni và đồng bào Phật tử.

RJ7A0692.jpg
Kim quan cố Trưởng lão Hòa thượng Phó Pháp chủ trước giờ tổ chức lễ phụng tống nhập tháp

Với những đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc, Trưởng lão HT.Thích Thiện Bình đã nhận được nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Độc lập hạng ba, Huân chương vì sự nghiệp Đại đoàn kết toàn dân tộc, Bằng khen của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bằng khen của Ủy ban Nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Khánh Hòa, Bằng Tuyên dương Công đức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và nhiều bằng khen cao quý khác (xem đầy đủ tiểu sử Đức Phó Pháp chủ Thích Thiện Bình).

RJ7A0678.jpg
HT.Thích Thiện Nhơn đọc lời tưởng niệm của TƯGH

RJ7A0652.jpg

Tiếp đó, HT.Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS thay mặt HĐTS tuyên đọc lời tưởng niệm của TƯGH. Tưởng niệm có đoạn: “… Bằng hạnh nguyện Đại thừa, Hòa thượng đã đi vào đời bằng tinh thần đại sĩ, quyết chí dấn thân phụng sự cõi trần. Nơi nào Hòa thượng đến đều làm cho đạo vàng sáng tỏ, đạo đời hòa quyện, một thể viên dung, chan hòa pháp giới.

Hòa thượng đã tùy duyên hóa độ chúng sinh, truyền trì đạo mạch, phát huy chân lý giải thoát ngàn đời một cách trong sáng và tích cực qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử. Với tinh thần vô ngã vị tha, đạo tâm trác thế, nêu cao truyền thống hòa hợp đoàn kết, quyết tâm xây dựng Đạo pháp và góp phần thống nhất PGVN, Hòa thượng đã cùng Tăng Ni, Phật tử và Môn phái Tổ đình tiếp nối dòng sinh mệnh hơn 2.000 năm lịch sử của PGVN…”.

RJ7A0685.jpg
HT.Thích Ngộ Tánh đọc lời cảm tạ của BTC

HT.Thích Ngộ Tánh, Phó BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, thay mặt BTC tang lễ, BTS và môn đồ pháp phái đọc lời cảm tạ chư tôn đức giáo phẩm Tăng Ni, Phật tử, lãnh đạo chính quyền các cấp đã phúng viếng tưởng niệm và dự lễ phụng tống kim quan cố trưởng lão.

Sau lễ tưởng niệm của TƯGH, lễ phất trần đã được thực hiện theo nghi thức tang lễ thiền môn và phụng tống kim quan Đức Phó pháp chủ Trưởng lão HT.Thích Thiện Bình nhập bảo tháp tại khu tháp Tổ trong khuôn viên chùa Sắc tứ Long Sơn.

RJ7A0695.jpg
Môn đồ đảnh lễ Giác linh cố Trưởng lão Hòa thượng lần cuối

RJ7A0697.jpg
Giây phút bùi ngùi tưởng nhớ "ơn giáo dưỡng một đời nên huệ mạng"

RJ7A0707.jpg

RJ7A0713.jpg
Chư tôn đức HĐCM, HĐTS GHPGVN tưởng niệm

RJ7A0715.jpg
Thực hiện nghi thức phất trần kim quan

RJ7A0726.jpg
Phụng thỉnh di ảnh, long vị cố Trưởng lão Hòa thượng rời Giác linh đường

RJ7A0734.jpg
Nghi thức di quan

RJ7A0760.jpg

RJ7A0795.jpg

RJ7A0800.jpg

RJ7A0843.jpg
Thỉnh kim quan Đức Phó Pháp chủ nhập tháp trong khuôn viên chùa Long Sơn

RJ7A0849.jpg

RJ7A0866.jpg
Kim tĩnh tại khuôn viên chùa

RJ7A0870.jpg

RJ7A0884.jpg
Kim quan cố Trưởng lão Hòa thượng nhập bảo tháp trong sáng nay, 24-11

RJ7A0894.jpg

RJ7A0900.jpg

RJ7A0904.jpg
Rải hoa tiễn biệt một bậc thầy cả đời dấn thân vì đạo cả

Pháp Đăng - Ảnh: Nguyên Sơn

Chùa Phước Viên lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh

Chùa Phước Viên lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh

Đăng lúc: 22:30 - 19/10/2016

Sáng, 18/10/2016 Tông môn pháp phái cùng Tăng chúng Chùa Phước Viên phường Tân Hiệp - Biên Hòa - Đồng Nai trang nghiêm và thành kính đảnh lễ húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh.




Theo đó, HT.Thích Thiện Minh, thế danh Ðỗ Xuân Hàn, sinh ngày 21-4-1922 tại Quảng Trị, xuất gia năm 12 tuổi, đệ tử của Ðại lão HT.Thuyền Tôn Thích Giác Nhiên, Ðệ nhị Tăng thống GHPGVN Thống Nhất.

Cung thỉnh quý chư tôn đức quang lâm
Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên
Buổi lễ húy kỵ có sự chứng minh: HT. Thích Liêm Chính, HT Thích Quang Đạo; HT Thích Thiện Đạo; TT Thích Đạt Đức cùng quý chư tôn thiền đức tăng ni và tông môn pháp phái.
Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên
Hương án tôn thờ di ảnh cố HT.Thích Thiện Minh (1922-1978) tại chùa Phước Viên

Năm 1948, sau khi thọ Sa-di giới, ngài lên nhận Phật sự tại vùng cao nguyên, làm Chánh Hội trưởng Hội Phật học Ðà Lạt và là giảng sư của Hội tại cao nguyên Lâm Viên. Suốt 4 năm tại đây, thầy Trí Nghiễm đã ra công xây dựng những chi Hội khắp 3 tỉnh, lập nhiều cơ sở Gia đình Phật tử. Ðến Năm 1952, Tổng hội cử Đại đức về làm giảng sư những tỉnh miền Nam Trung Việt. Tại đây, nhờ phương pháp tổ chức, Phật giáo tại miền thùy dương từng bước phát triển.
Năm 1956, ngài cùng các cao Tăng ở Bắc ra Trung Phần, nhất là có sự góp sức của cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền đã đứng ra tổ chức Ðại hội Tổng Hội Phật giáo Việt Nam kỳ II. Sau đại hội, Thượng tọa trở về nhận Phật sự tại Nha Trang. Trong giai đoạn này GHPGVN tỉnh Khánh Hòa và Phật tử Khuôn hội Kỳ Viên đã cung thỉnh TT. Thích Thiện Minh, Hội trưởng Hội Phật học Khánh Hòa - trụ trì chùa Kỳ Viên.
Ở cương vị trụ trì, ngài đặt lại tên: Linh Sơn Kỳ Viên Khuôn hội… Năm 1963, sau vụ triệt hạ cờ Phật giáo, vụ thảm sát tín đồ và đồng bào tại Ðài Phát thanh Huế, Thượng tọa được cử vào Ban Liên phái Phật giáo, đòi chính quyền đương thời hủy bỏ đạo dụ số 10, thỏa mãn 5 nguyện vọng chân chính của Phật giáo. Ngày 20-8 cùng với toàn thể Tăng Ni khắp cả nước, Thượng tọa bị bắt giam và được thả sau ngày 1-11-1963.
Năm 1970, Thượng tọa lên đường tham dự Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình Thế giới tại Tokyo (Nhật Bản). Tại đây, Thượng tọa đã đọc bài tham luận nổi tiếng'' Quan điểm của Phật giáo về bất bạo động''.
Năm 1973, sau khi HT.Thích Thiện Hoa viên tịch, TT.Thích Thiện Minh quyền Viện trưởng Viện Hóa đạo ra Thông bạch gởi toàn thể Tăng Ni khắp cả nước phải nỗ lực xóa vết thương chiến tranh khi hòa bình vãn hồi. Nhưng thỏa hiệp ngưng bắn và tái lập hòa bình tại Việt Nam ký kết ở Paris đã không được thi hành…
HT.Thích Thiện Minh viên tịch ngày 16-9-Mậu Ngọ (1978), trụ thế được 56 năm, 36 Hạ lạp.

Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên
Trang nghiêm và thành kính
Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước ViênLễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước ViênLễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước ViênLễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước ViênLễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên
Đảnh lễ ân sư
Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên
Quý thầy cùng Phật tử ghi hình lưu niệm.
Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên
Trước đó chiều 14h00' ngày 17/10/2016 Tăng chúng chùa Phước Viên họp mặt tông môn.

Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên
Trước đó tối 17/10/2016, chùa Phước Viên tổ chức lễ phát xuất gia cho 4 vị và thọ thính giới Sa-di cho 5 vị do Hòa thượng Thích Quang Đạo; HT Thích Liêm Chính cùng quý chư tăng bổn tự làm giới sư.

Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên
HT. Thích Quang Đạo huấn từ sách tấn đệ chúng điệu
Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên
HT Thích Liêm Chính đang thế phát cho chúng Tịnh nhơn (Chú tiểu)
Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước ViênLễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên
Lễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước ViênLễ Húy nhật lần thứ 38 cố HT Thích Thiện Minh tại chùa Phước Viên


Quang Thắng - Tiểu Trạch

Tác hại của niềm tin mê lầm

Tác hại của niềm tin mê lầm

Đăng lúc: 16:08 - 05/10/2016

Khi nói đến niềm tin là nói tin về điều gì, chẳng hạn như tin theo học thuyết, triết thuyết, tin theo tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc một hệ thống tư tưởng, chủ nghĩa nào đó, tin nơi ai hoặc tin nơi chính bản thân mình (lòng tự tin, tự tín).

Tin điều gì có nghĩa là mình cho điều đó là đúng, là có thật, đặt hoàn toàn hy vọng vào điều đó, nương tựa nơi điều đó, hướng suy nghĩ và hành động theo. Niềm tin rất quan trọng và cần thiết đối với mỗi con người, tuy nhiên nó cũng mang lại nhiều tác hại nếu như đó là niềm tin sai lầm, niềm tin được xây dựng trên cơ sở nhận thức mù quáng, không sáng suốt, thiếu trí tuệ.

Một người bệnh có thể tin rằng mình sẽ khỏi bệnh nếu như gặp thầy hay thuốc giỏi và bản thân mình có mong muốn được bình phục, biết quan tâm làm theo những gì vị lương y, bác sĩ hướng dẫn. Sự lạc quan tin tưởng, niềm tin đặt đúng chỗ (đúng thầy, đúng thuốc) sẽ giúp cho người bệnh có thêm sức mạnh ý chí làm tăng sức sống, sức đề kháng bệnh tật và sự quyết tâm điều trị đẩy lùi bệnh tật. Tuy nhiên cũng trong trường hợp đó, nếu người bệnh không có lòng tin nơi thầy hay thuốc giỏi, không có lòng tin mình có thể vượt qua bệnh tật, và từ đó không nỗ lực điều trị bệnh theo hướng dẫn của vị lương y, bác sĩ, như thế thì người bệnh khó có thể đẩy lùi được bệnh tật.

Hoặc tệ hại hơn là người đó có niềm tin sai lầm (không thấy nguyên nhân của bệnh, không đi đúng hướng điều trị), đặt lòng tin không đúng chỗ (không đúng thầy, không đúng thuốc). Ví dụ như ngày xưa, khi y học chưa phát triển, gặp bất cứ bệnh gì người ta cũng rước thầy pháp về cúng, làm phép để trừ tà, kết quả là nhiều con bệnh đã mất mạng. Ngày nay cũng vậy, có nhiều người mắc bệnh tâm thần nhưng người thân không biết cứ ngỡ bị vong nhập, bị trúng tà (vì biểu hiện của một số dạng bệnh tâm thần có phần giống như hiện tượng trúng tà), lại quá mê tín nên cứ mời thầy bùa thầy pháp về làm phép đuổi tà, trấn yểm, cúng vái, cuối cùng thì tiền mất tật mang.

Niềm tin mù quáng, mê lầm có tác hại rất lớn, nó là kết quả của nhận thức cảm tính thiếu lý trí, thiếu trí tuệ sáng suốt. Ngày xưa ở một số nước có chiến tranh, nhiều tướng soái, nhiều nhà lãnh đạo chính trị, quân sự đã lợi dụng sự mê tín của người đời, giả thần giả thánh, tự xưng mình là con trời (thiên tử), tự cho việc họ làm là ý trời để thiên hạ nghe theo và không dám chống lại họ; họ ngụy tạo những bằng chứng huyền hoặc để khiến cho mọi người tin theo. Có nhiều đội quân được vẽ bùa, phù chú lên mình, được gieo vào lòng niềm tin bất bại, đao thương, súng đạn không thể làm hại, nhưng khi ra chiến trường mới biết mình tin mê lầm, họ chết gục trên chiến trận.

Có trường hợp người thủ lĩnh lợi dụng niềm tin mê tín để làm tăng thêm ý chí, sức mạnh chiến đấu của quân đội mình, nhưng cũng có trường hợp họ cũng có ảo tưởng rằng mình có phép màu bảo hộ. Tuy niềm tin đó có làm cho tinh thần chiến đấu, sức mạnh chiến đấu tăng cao, nhưng hậu quả của nó là làm cho họ chủ quan, khinh suất, không nhận thấy rõ thực lực của mình và của quân địch, từ đó dẫn đến thất bại.

Niềm tin trong tôn giáo, tín ngưỡng cũng vậy. Có những niềm tin giúp con người hướng đến điều lành điều thiện, mạnh dạn làm các việc có ích cho cá nhân, cộng đồng xã hội, nhân loại, chúng sinh. Nhưng có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người. Nó khiến con người tàn hại lẫn nhau, mất hết lý trí, khiến con người đánh mất chính mình, lệ thuộc vào những điều huyền hoặc, không tưởng, lệ thuộc vào những thế lực siêu hình do con người tưởng tượng ra, không còn ý chí, không còn tự chủ; khiến con người nô lệ cho vô minh, dục vọng, làm những chuyện tàn ác, điên rồ mà cho là làm theo chân lý, làm đúng với lẽ phải, đúng với quy luật vũ trụ.

Những niềm tin u mê này đến mức cực đoan sẽ gây ra chiến tranh, kỳ thị tôn giáo, tín ngưỡng, gây ra thù hằn, oán ghét lẫn nhau. Bởi thế cho nên, đối với vấn đề niềm tin cần phải hết sức thận trọng.

Khi con người chưa hiểu biết nhiều về thế giới, người ta không có khả năng lý giải các hiện tượng đời sống, các hiện tượng tự nhiên, cho nên tin rằng có đấng tạo hóa, có các thần linh sáng tạo ra thế giới, điều hành thế giới, tưởng tượng ra thần mặt trời, thần mặt trăng, thần mây, thần mưa, thần gió, thần núi, thần sông, thiên lôi, hà bá v.v…

Bất cứ điều gì cũng cho là ý trời sắp đặt, họa phước, thành bại, được mất, cơm ăn áo mặc, hạnh phúc, khổ đau… đều do ông trời và các thần linh ban cho, nhưng kỳ thực thì con người phải làm mới có ăn, phải lao động sáng tạo từ đời này sang đời khác mới có được thế giới như ngày nay, chứ không phải thượng đế và các thần linh ban cho hay tự dưng mà có. Sự thật sờ sờ trước mắt, nếu ông trời và các thần linh ban cho thì con người khỏi phải làm gì cả cũng có cuộc sống tốt, và những ai tin tưởng tuyệt đối vào ông trời và thần linh hẳn đã được bình an, sung sướng, hạnh phúc hơn những ai không tin.

Tuy nhiên không ít người vẫn chấp nhận nô lệ cho niềm tin mù quáng để rồi đánh mất ý chí, đánh mất niềm tin nơi chính mình, lệ thuộc thần quyền trong khi thần quyền là không có thật.

Không phải những ai thờ cúng, tín ngưỡng ông trời và các thần linh, vật linh cũng đều giàu sang, an vui, hạnh phúc, và không phải những ai không có niềm tin đó cũng nghèo khó, khốn khổ, bất hạnh. Sự thật là thế, quá rõ ràng nhưng vẫn có người không thấy.

Sự mê tín của con người vẫn không giảm mặc dù xã hội đã tiến bộ nhiều, thậm chí còn có chiều hướng tăng cao. Những thành phần bất hảo lợi dụng sự mê tín mà ra sức trục lợi. Mê tín dị đoan, tà thuyết ngoại đạo nổi lên khắp nơi khiến cho tâm trí con người điên đảo.

Ngay cả ở châu Âu, châu Mỹ, các nước được xem là văn minh tân tiến vẫn đầy dẫy tệ nạn mê tín dị đoan, các giáo phái cuồng tín lợi dụng sự tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo mà hoành hành. Còn các nước có truyền thống văn hóa phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam v.v… thì đi đến đâu cũng thấy có hiện tượng xin bùa xin phép, bói toán, coi tuổi tác, ngày tháng tốt xấu, ngồi đồng nhập cốt, đi đến đâu cũng thấy cúng bái sì sụp, cúng ông trời - thần linh, cúng nhà cửa - đất đai, cúng xe cộ - thuyền bè, cúng trên bờ - dưới sông, cúng người chết, cúng vật linh, cúng âm binh - cô hồn, có khi cúng ai cũng không biết, cứ bày nhang đèn, vàng mã, vái lạy bốn phương tám hướng mà cầu sự bình an, hưng thịnh.

Nếu chỉ đặt niềm tin vào sự cầu cúng, trông cậy vào thần thánh, ma quỷ, không siêng năng cần cù lao động, học tập, trau giồi kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn thì việc làm ăn, kinh doanh buôn bán không thể nào phát triển được. Nếu không có nhân phẩm đạo đức tốt, không có quan niệm, lối sống tích cực thì cuộc sống sẽ bất an, đau khổ. Không có ông trời, thần linh hay ma quỷ nào che chở, bảo hộ hoặc ban phước giáng họa cho được.

Ở Việt Nam, từ khi hiện tượng ngoại cảm được giới khoa học công nhận thì các nhà ngoại cảm rầm rộ nổi lên, thật có, giả có, ảo tưởng mình là nhà ngoại cảm cũng có. Còn người dân thì tin người cõi âm có thể liên hệ với người còn sống, có thể tác động, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của mình, từ đó ra sức cúng bái, cầu khẩn sự gia hộ, giúp đỡ. Nghĩ tưởng đến những người quá cố, người thân người thương, người có ân nghĩa, công đức thì tốt, nhưng hướng về người quá cố vì sợ họ làm hại mình hoặc vì cầu sự chở che, gia hộ thì quả là việc làm mê tín.

Trong một số trường hợp vong linh người chết có thể liên hệ với người còn sống (trong điều kiện nhân duyên như thế nào đó mà có sự tương thích), nhưng những trường hợp này rất ít, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là các vong linh có thể tác động, ảnh hưởng đến cuộc sống của người mà họ yêu thương hoặc oán ghét.

Nếu các vong linh ở cõi âm có thể tác động, ảnh hưởng đến người sống thì thế giới này từ lâu đã không an ổn, đã loạn lên rồi. Bởi vì trong lịch sử đã có biết bao cuộc chiến tranh diễn ra, thù hận chất chồng, nếu các vong linh người chết có thể làm hại kẻ thù của họ thì những người còn sống đã sống không yên. Giữa con người với con người, ân oán tình thù đầy dẫy, nếu sau khi chết rồi mà các vong linh có thể can thiệp vào thế giới người còn sống thì chắc chắn thế giới loài người từ lâu đã rối loạn, đã xuất hiện nhiều điều kinh khủng, quái dị lắm.

Người nào cũng có tổ tiên, ông bà, người thân quá cố, nhưng nếu chết rồi mà vong linh những người quá cố còn tồn tại mãi ở cõi âm nào đó và có thể tiếp xúc, can thiệp vào cuộc sống của người thân, nếu họ có thể giúp cho những người đó được bình an, được sang giàu, được may mắn, hạnh phúc thì trên thế gian không ai gặp rủi ro, bất hạnh, khổ đau cả, bởi vì ai cũng có người thân quá cố chở che, phù hộ. Nhưng sự thật thì không phải thế, sống trên đời ai cũng gặp khó khăn cả, không gặp khó khăn này cũng gặp khó khăn khác, không gặp nỗi khổ này cũng gặp nỗi khổ khác, không ai khỏe mạnh mãi mà không ốm đau, không ai luôn may mắn mà chưa từng gặp rủi ro bất trắc, không ai thành công mà chưa một lần thất bại v.v… Vậy rõ là người chết không thể can dự vào cuộc sống của chúng ta.

Con người sống không thể không có niềm tin, nhưng niềm tin đó phải là Chánh tín, được xây dựng trên cơ sở Chánh kiến, sự thấy biết chơn chánh, nhận thức đúng đắn, có chiều hướng tích cực, phù hợp với chân lý và quy luật cuộc sống. Nếu niềm tin gây tác hại, ảnh hưởng xấu, làm trở ngại cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, gieo bất an, khổ não cho con người thì tuyệt nhiên đó không phải là niềm tin chơn chánh, cần loại bỏ.

Phan Minh Đức

Nói sự thực thì không sợ hãi

Nói sự thực thì không sợ hãi

Đăng lúc: 19:05 - 27/09/2016

Khi chúng ta có tri kiến/nhận thức một cách thấu suốt về lẽ không thực của tự ngã, chúng ta có thể vượt qua được những khổ đau (không thực) tác động (một cách không thực) lên thân tâm chúng ta. Nhưng thực trạng khổ đau của con người, của chúng sinh vẫn tiếp diễn trong nhận thức điên đảo mộng tưởng của họ. Vận dụng cái thấy như thực về tự ngã (trí) để dấy khởi lòng thương (bi) đối với thế giới chúng sinh, là con đường của kẻ giác ngộ (Bồ-tát).
Từ năm 2001, đầu thế kỷ 21, ngôn ngữ truyền thông bắt đầu nhắc đến nhiều từ ngữ “khủng bố”, “chủ nghĩa khủng bố” (terror/terrorism). Đây không phải là từ ngữ mới, nhưng nó được nhấn mạnh và sử dụng nhiều sau sự kiện 11/9/2001, với tòa tháp đôi ở New York sụp đổ hoàn toàn do những chiếc phi cơ bị những kẻ khủng bố Al-Qaeda dùng bạo lực cưỡng chế phi hành đoàn, điều hướng đâm vào.

Trước đó 6 tháng, vào ngày 10 tháng 3 năm 2001, lực lượng Taliban ở A-phú-hãn (Afghanistan) đã cho nổ bom làm sụp đổ hai tượng Phật khổng lồ khắc trong núi đá, có niên đại hơn 1500 năm. Hành động phá hủy tượng Phật lúc đó dù là hành vi bạo động nhưng không bị xem như là khủng bố, mà là hành động hủy diệt văn hóa nhân loại nghiêm trọng (theo sự lên án của Tổ chức Văn hóa – Khoa học và Giáo dục LHQ - UNESCO).

Vậy, có thể hiểu “khủng bố” là lời nói hay hành vi đe dọa trực tiếp đến mạng sống và đời sống của con người; nhẹ thì từ những cá nhân với mục đích trục lợi, tống tiền; nặng thì từ các tổ chức tôn giáo, chính trị để nêu cao lý tưởng của họ, hoặc từ các nhà cầm quyền nhằm ngăn chặn tiếng nói đối lập để giữ vững chế độ.


Từ “khủng bố” cũng được nghe quen từ bản Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh do Pháp sư Trần Huyền Trang (Đường Tam Tạng) dịch từ Prajñā Pāramitā Sūtra vào năm 649, sau được cô đọng lại thành bản Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh 260 chữ. Trong kinh văn nầy, chữ “khủng” và “bố” đều mang nghĩa đơn giản là (bị) sợ hãi, đe dọa; mà để không bị sợ hãi, đe dọa, tâm phải tịch lặng, an nhiên, không bị vướng mắc, trở ngại (tâm vô quái ngại). Tâm không bị vướng mắc, ngăn ngại là tâm vô trụ (ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm); tâm vô trụ là tâm không có tự ngã, là tâm bản nhiên, tâm bất sanh. Chỉ với cái tâm như thế, mới không còn sợ hãi.

Trong hoàn cảnh mà nhan nhản chung quanh chỉ toàn là những lời hư dối, người ta sợ phải nói những điều trung thực; nói ra có thể bị bắt bớ, đánh đập, tù đày; nói ra có thể bị mất việc, mất chức, mất địa vị, mất danh tiếng, mất cả tài chánh để nuôi thân và gia đình, mất cả cơ sở sinh hoạt (chùa chiền, nhà thờ…). Cá nhân đã không dám nói lời trung thực, mà ngay cả tổ chức mà cá nhân đó tham dự cũng không dám bày tỏ điều gì khác với những hư dối chung quanh. Nghĩa là từ cá nhân đến tập thể, từ những tổ chức nhỏ đến những tổ chức lớn quy tụ hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn thành viên, có mặt với sứ mệnh văn hóa, giáo dục, phục vụ lợi ích số đông… mà trong một xã hội đạo đức băng hoại, tụt dốc, và trong nguy cơ mất nước, mất chủ quyền, cũng không thể mạnh dạn nói lên một lời trung thực.

Điều gì đã làm chúng ta sợ hãi không dám lên tiếng bảo vệ sự thực, không dám bày tỏ thẳng thắn mối ưu tư của mình về tình trạng môi sinh đang bị hủy hoại, không dám đưa ra quan điểm của mình về hiểm họa lãnh thổ và biển đảo bị xâm lấn?

Chỉ vì bảo vệ tự ngã của mình mà thôi.

Sợ hãi là phản ứng của một người trước một sự kiện hay ấn tượng mà họ đã trải nghiệm, hoặc tiên đoán (nhờ rút tỉa từ kinh nghiệm), sẽ gây thiệt hại đến nhân thân (sức khoẻ, sinh mệnh) hoặc tổn thương, suy giảm đến những gì mình sở hữu (danh dự, tài sản, sự nghiệp…).

Phản ứng này là do chấp vào một cái tôi (ngã chấp) ngay từ khi mới chào đời, rồi được bồi đắp và làm cho kiên cố, sâu nặng thêm theo thời gian với những gì được tạo dựng, sở hữu (ngã sở).

Cái tôi càng lớn, sợ hãi càng sâu.

Cái sợ nầy đến từ bên trong. Những đe dọa, khủng bố từ kẻ khác chỉ là phụ thuộc.

Đập vỡ cái vỏ của tự ngã thì không còn sợ hãi, âu lo; không ai có thể đe dọa, khủng bố chúng ta được nữa.

Nhưng để làm được điều nầy, phải thấy được cả thân và tâm đều là ảo ảnh, không thực. Thân nầy không thực, tâm nầy (cảm giác, tư tưởng, hành nghiệp và nhận thức) cũng không thực.

Thân và tâm nầy không thực thì cả thế gian nầy cũng không thực.

(Đã không thực thì có cần phải lên tiếng về một sự thực, về nỗi thống khổ của số đông hay không?)

Bản chất của tự ngã, của thế gian chỉ là ảo ảnh, chỉ là giấc mộng huyễn hóa. Nhưng tác động nhân duyên của tự ngã và thế giới chúng sinh là có thực. Thống khổ của nhân sinh là có thực.

Khi chúng ta có tri kiến/nhận thức một cách thấu suốt về lẽ không thực của tự ngã, chúng ta có thể vượt qua được những khổ đau (không thực) tác động (một cách không thực) lên thân tâm chúng ta. Nhưng thực trạng khổ đau của con người, của chúng sinh vẫn tiếp diễn trong nhận thức điên đảo mộng tưởng của họ. Vận dụng cái thấy như thực về tự ngã (trí) để dấy khởi lòng thương (bi) đối với thế giới chúng sinh, là con đường của kẻ giác ngộ (Bồ-tát).

Khi kẻ lữ hành cô độc thong dong bước ngang những lầu đài tráng lệ và những xó xỉnh sình lầy bẩn nhơ, nhân sinh vẫn cất lên tiếng than khóc về nỗi trầm thống bất tận của họ.

Một lời nói để đắp thêm tiếng thơm hay lợi lạc cho tự thân: không cần thiết; nhưng bày tỏ trung thực về thực trạng khổ đau của kiếp người: rất nên.

California, ngày 24 tháng 9 năm 2016

Cư sĩ Vĩnh Hảo

Đạo Phật là đạo hiếu

Đạo Phật là đạo hiếu

Đăng lúc: 19:23 - 15/08/2016

Kể từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đến thế kỷ II thì Phật giáo đã định hình và phát triển khá mạnh mẽ, nhất là đã có sự thể nhập vào đời sống thực tiễn tại Giao Châu. Đây cũng là lý do tại sao giới trí thức Nho giáo và Lão giáo đặt vấn đề đạo Phật là đạo gì? Mâu Tử đã thẳng thắn trả lời: “Ở trong nhà thì hiếu thảo với mẹ cha, ra ngoài đường giúp nước hộ dân, khi ngồi một mình thì biết tu thân” được ghi trong tác phẩm Lý hoặc luận của Mâu Tử 1.
Mặt khác, không phải ngẫu nhiên khởi nguyên của lịch sử cội nguồn dân tộc ta lại bắt nguồn từ huyền sử cha già Lạc Long Quân cùng với mẹ Âu Cơ kết duyên sinh ra 100 người con từ trong bọc trứng, để rồi dẫn đến khái niệm “đồng bào”. Từ đó 50 người con lên núi, 50 người con xuống biển, lớn lên trưởng thành và chung sống với nhau bằng triết lý “Thương người như thể thương thân”.

daohieu.jpg
Đạo Phật là đạo hiếu là câu trả lời cho bất cứ ai hỏi khi mùa Vu lan Báo hiếu lại về

Khi đạo Phật du nhập vào thì dân ta lại “Rủ nhau xuống bể mò cua/ Lên non hái củi vào chùa nghe kinh”. Nhờ vậy, dân ta mới thấm hiểu triết lý sống của đạo Phật, thấm thía lời Phật dạy: “Vô thỉ luân hồi, tất cả chúng sinh từng làm cha, làm mẹ, làm anh, làm chị trong cõi luân hồi sinh tử”. Và như thế, từ cơ sở triết lý của nền văn hóa Việt Nam và kết hợp của nền giáo lý Phật-đà, đã được người dân Việt trải nghiệm trong cuộc hành trình hướng tâm giải thoát, chúng ta có thể nói đạo Phật là đạo hiếu mà Mâu Tử đã khẳng định trong tác phẩm của ông qua diễn đàn văn học thời kỳ Phật giáo thời du nhập.

1. Ở trong nhà thì hiếu thảo với mẹ cha

Bất cứ ai được sinh ra, lớn lên, trưởng thành và đi vào dòng đời cũng bắt đầu từ vòng tay ôm ấp, nuôi dưỡng và chỉ giáo của mẹ cha. Bằng cả tấm lòng bao la như trời biển, mẹ đã truyền trao cho con những dòng sữa ngọt ngào, ru cho con ngủ bằng cả niềm tin và hy vọng, rồi dìu con đi từng bước, trao cho con cái gia tài đầu tiên là tình người như là hành trang vào đời qua từng năm tháng. Cha thì nghiêm từ nhìn con bằng ánh mắt trìu mến, khích lệ, dành cả cuộc đời để nuôi dưỡng, dạy con nên người. Chính vì ân sâu nghĩa nặng của người làm cha, làm mẹ như thế, nên nhân dân ta đã khắc ghi qua những vần thơ ca dao:“Công cha nghĩa mẹ cao vời/ Nhọc nhằn chẳng quản, suốt đời vì ta/ Nên người ta phải xót xa/ Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao”.

Rõ ràng công cha nghĩa mẹ là vô cùng lớn lao, không có bút mực nào mô tả hết được. Chính trong kinh Tăng chi đã diễn tả cha mẹ là người không bao giờ trả hết ơn được, cho dù người con nỗ lực cung phụng cha mẹ suốt đời: “Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, Ta nói không thể trả ơn được: mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm vậy suốt đời, vừa đấm bóp hầu hạ…cũng chưa làm đủ để đền ơn mẹ và cha”2. Thế nên, Mâu Tử đã dẫn lời Tư Mã Đàm, trước khi từ trần đã dặn con mình là “Hiếu bắt đầu ở việc thờ cha mẹ, tiếp đến thờ vua, và cuối cùng ở việc lập thân nêu danh cho đời sau để làm rõ cha mẹ, đó là đại hiếu” như Tư Mã Thiên đã ghi trong Sử ký 130, tờ 6b6-7. Lời trăng trối này rõ ràng đã lấy từ câu mở đầu của Hiếu kinh mà ta được biết “Thân thể tóc da nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương, là bắt đầu của hiếu. Lập thân hành đạo, nêu danh với đời sau để làm rõ cha mẹ là chung cuộc của hiếu” được ghi trong tác phẩm Lý hoặc luận. Thế nên người con tiếp nhận tình cha nghĩa mẹ bằng sự hiếu thảo của mình: “Công cha như núi Thái sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Rõ ràng chữ “hiếu” được xác lập bằng “đạo con”, tức là đạo làm con, bằng sự thể hiện của tâm hiếu rất cụ thể mà cha ông ta khái quát “Tu đâu cho bằng tu nhà/ Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”. Trong cuộc hành trình thể nhập với đời, người con báo hiếu cho cha mẹ khởi đầu bằng sự hoàn thiện bản thân, tức là phải biết tự sửa mình qua sự tôn kính, sự thực thi những lời giáo huấn nghiêm từ của mẹ cha. Điều đó cũng được cụ thể hóa qua những việc làm cụ thể của người con đối với cha mẹ mà Phật đã dạy trong kinh Đảnh lễ sáu phương: 1. Vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ khi cần. 2. Chăm chỉ học hành, siêng năng làm việc. 3. Giữ gìn gia phong, danh dự gia đình. 4. Giữ gìn tài sản của cha mẹ. 5. Phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. 6. Lo tang lễ mẹ cha đúng phong tục khi cha mẹ qua đời. 7. Khích lệ và giới thiệu đạo giải thoát, Chánh kiến đến cho cha mẹ.

Đó là nếp sống hiếu hạnh của người con Phật trong gia đình. Suy cho cùng, cha mẹ là người sinh thành và giới thiệu con cái vào đời và làm cho đời sáng tươi. Cho nên, bổn phận người con báo hiếu cha mẹ qua các điều nói trên là phù hợp với đạo lý người Việt Nam, Phật giáo chỉ giới thiệu thêm điều thứ 7 là nhằm mục đích hướng tâm cho cha mẹ giải thoát thì sự báo hiếu mới trọn vẹn.

Bản kinh Tăng chi nói rất rõ: “Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với của cải vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đền ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin với Tam bảo thì khuyến khích cho có lòng tin Tam bảo, đối với cha mẹ sống tà giới thì khuyến khích cha mẹ vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham thì khuyến khích cha mẹ bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích cha mẹ vào Chánh kiến. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và đền đáp ơn cho mẹ và cha”3. Và như thế, chỉ có Chánh kiến, Chánh pháp là cánh cửa mở ra thế giới hạnh phúc cho mẹ cha đời này và đời sau mà bổn phận người con ở trong nhà thì phải hiếu thảo với mẹ cha là vậy.

2. Ra ngoài xã hội thì phải giúp nước hộ dân

Một người mà hiếu thảo với mẹ cha là cơ sở thực thi đạo hiếu khi bước ra ngoài xã hội. Trong cuộc hành trình đi tìm lẽ sống, sự hiếu thảo trong gia đình sẽ lan tỏa bởi từ sự giáo dưỡng của cha mẹ và bà con quyến thuộc. Thế nên khái niệm hiếu thảo với mẹ cha trong gia đình đồng nghĩa “giúp nước hộ dân” ở ngoài xã hội. Huống chi, triết lý sống của người Việt đều nhìn nhận nhau trong khái niệm cùng huyết thống đại gia đình, sinh ra cùng trong ý niệm đồng bào như đã nói. Phật lại dạy tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật.

Và như thế, hạnh hiếu không chỉ là cơ sở cội nguồn của văn hóa tình người mà còn là cơ sở thiết lập nền văn hóa vô ngã khi mà con người luôn giáp mặt khổ đau và tìm cách vượt thoát khổ đau. Chính vì lẽ sống lý tưởng này mà tâm hiếu chảy đến đâu thì tình người hóa hiện cụ thể đến đó. Khi tâm hiếu chảy vào cha mẹ thì gọi là sự hiếu thảo với ông bà cha mẹ, vào bạn đời trăm năm thì gọi là tình nghĩa vợ chồng, vào với những người xung quanh thì gọi là tình làng nghĩa xóm, rộng hơn nữa là chảy vào cộng đồng xã hội, quốc gia dân tộc thì là trung với nước hiếu với dân.

Cho nên thể hiện đạo hiếu của người Việt được cha ông ta dạy rất cụ thể: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Đó là giá trị nhân văn được kết tinh từ tâm hiếu thảo trong gia đình để rồi định danh cho tình đồng bào, đồng chí, đồng lòng thiết lập để mọi người tự thân có cách ứng xử hiếu thuận, hiếu hòa trong mọi hoàn cảnh xảy ra, trong mọi điều kiện môi trường sống, cùng nhau chia bùi sẻ ngọt, vượt qua mọi khó khăn, hướng tới hạnh phúc trong từng giai đoạn, từng thời khắc lịch sử của cả dân tộc.

Hơn nữa, triết lý Duyên khởi của nhà Phật lại cho người Phật tử Việt Nam không ai sống một mình, con người có vô số mối liên hệ trong đời sống thực tiễn. Giá trị hạnh phúc của con người, suy cho cùng thực chất là sự kết nối yêu thương, chung sống với nhau hòa hợp. Vì thế lời hát ru năm nào của mẹ lại vang lên: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Thực thi như thế, rõ ràng tự thân đã thực thi tâm hiếu hạnh ra bên ngoài xã hội.

Thực tế, lịch sử dân tộc là lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong cuộc hành trình này tự thân mỗi người Việt đã sống theo đạo hiếu mà cha ông ta trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Bất cứ ai hiện hữu trên dải đất hình chữ S thân thương này đều thấm thía lời ru của mẹ cha từ thuở nằm nôi, dạy cho con học cách ứng xử tùy duyên hiếu thuận với mọi người, mọi hoàn cảnh, miễn sao đạt đến mục đích cũng như lèo lái con thuyền cập bến bờ an toàn, để có sự an lạc trong tâm hồn: “Ru hời ru hỡi là ru/ Bên cạn thì chống, bên su (sâu) thì chèo”. Tinh thần này luôn luôn được tuôn chảy vào trong đời sống thực tiễn của người Việt qua từng giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc.

Thiền sư Pháp Thuận từng khắc họa thông điệp thái độ sống hiếu thảo giúp nước hộ dân này bằng bài Quốc tộ: “Vận nước như mây quấn/ Trời Nam tức thái bình/ Vô vi như điện các/ Xứ xứ dứt đao binh”. Để rồi sau đó Trần Nhân Tông đã hóa hiện lời dạy của cha ông năm nào bằng bài kệ Cư trần lạc đạo phú: “Ở đời vui đạo cứ tùy duyên/ Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền/ Trong nhà có của thôi tìm kiếm/ Đối cảnh vô tâm hỏi chi thiền”. Nhờ vậy, nhân dân ta đã ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông, xây dựng quốc gia hưng thịnh, nhân dân được ấm no, đạo pháp trường tồn cho đến ngày hôm nay.

3. Ngồi một mình thì phải tu thân

Có thể nói đây cũng là triết lý sống của người Việt, khởi nguyên từ những lời ru của mẹ cha ngay từ thuở nằm nôi đã được dặn dò. Cuộc đời là trường học không bao giờ có sự kết thúc. Trong cuộc sống vô thường đầy biến động này, để được sống, được tồn tại, được phát huy con người cần nỗ lực tự hoàn thiện lấy mình. Sự hoàn thiện đạo đức, hoàn thiện nhân cách là điều kiện tất yếu để được yêu thương, được kết nối với cộng đồng xã hội: “Đói lòng ăn nửa trái sim/ Uống lưng bát nước đi tìm người thương”. Xem ra đạo hiếu dạy cho con người khi ngồi một mình phải chiêm nghiệm cái triết lý “đi tìm người thương” để sống, để được sẻ chia.

Thực ra khát vọng lớn nhất của con người là khát vọng hạnh phúc. Và như thế yêu và được yêu là điều hạnh phúc nhất trên đời. Chính vì đó, mẹ cha lại dạy con thực thi nếp sống đạo đức, hoàn thiện phẩm hạnh, tu nhân tích đức qua lời ví von: “Người trồng cây hạnh người chơi/ Ta trồng cây đức để đời về sau”. Có cây đức là có tất cả, bởi lẽ đó là cả quá trình điều chỉnh thân tâm, tự tu, tự sửa sai lầm: “Ở hiền gặp lành, gieo gió thì gặt bão”; “Ai nhất thì tôi thứ nhì, Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba”. Mục đích cuối cùng là tự thân gặt hái những thành tựu hương thơm quả ngọt mà cuộc sống trao tặng: “Trời nào phụ kẻ có nhân/ Người mà có đức muôn phần vinh hoa”. Thật kỳ diệu vô cùng.

Thế nên, sự tu thân khi ngồi một mình được diễn dịch nói trên thực chất là một cuộc hành trình tu tập của mỗi cá nhân mà Phật từng dạy cho chúng ta “Hãy tự mình quay về nương tựa chính mình và nương tựa Pháp, không nương tựa nơi nào khác”. Con người phải tự chịu trách nhiệm về bản thân chính mình. Con người sở dĩ không hoàn thiện nhân cách bản thân, đồng nghĩa không thực thi tâm hiếu từ trong nhà cho đến bên ngoài xã hội.

Con đường Đức Phật giới thiệu cho mọi người thực thi sự tu thân khi ngồi một mình là phải biết chiêm nghiệm hành trì về giới định tuệ. Mỗi bước đi của giới định tuệ là mỗi bước đi ra ngoài tâm lý tham sân si, mục đích là giữ cho “thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh”. Từ trong giá trị đích thực này, mỗi người có thể an trú trong niềm hạnh phúc khi biết sống cho hạnh phúc người khác, đồng nghĩa biết sống hạnh phúc cho chính mình. Bạn có thể thực thi 6 pháp ba-la-mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ để tâm hiếu thảo của bạn lan tỏa vào cộng đồng, vào thế giới hạnh phúc giữa cõi đời này.

4. Thay cho lời kết

Đến đây, chúng ta có thể nói rằng triết lý sống của người Việt là triết lý thực thi đạo hiếu. Đạo hiếu đó được diễn dịch bằng thông điệp hết sức giản dị và mộc mạc, trên hết được cụ thể hóa là: “Ở trong nhà thì hiếu thảo với mẹ cha, ra ngoài đường thì giúp nước hộ dân, khi ngồi một mình thì biết tu thân” từ điểm nhìn của người con Phật thuần thành. Thông điệp này không chỉ đơn thuần mang tính lý thuyết mà nó thể nhập thành thái độ sống, trên hết là nếp sống chuẩn hóa đạo đức Phật giáo, cơ sở hướng đến sự giải thoát khổ đau.

Suy cho cùng, toàn bộ giáo lý của nhà Phật, kể cả nội dung hiếu hạnh mà Phật giáo đề xuất cũng nhằm mục đích kết nối truyền thông sự yêu thương, hướng con người đi đến sự bình an nội tại, thấy rõ cuộc sống hạnh phúc chân thật. Và như vậy một lần nữa, có thể nói đạo Phật là đạo hiếu là câu trả lời cho bất cứ ai hỏi khi mùa Vu lan Báo hiếu lại về.

Thích Phước Đạt

Học hạnh vô tranh

Học hạnh vô tranh

Đăng lúc: 09:35 - 25/07/2016

Lục hòa là một trong những nội dung tu tập quan trọng trong giáo pháp của Thế Tôn. Thanh tịnh và hòa hợp là bản thể của Tăng-già đồng thời là cơ sở để tiến tu nhằm thành tựu giới, định, tuệ và tăng trưởng tín tâm cho tín đồ Phật tử.
Sáu pháp lục hòa kính là gì

\luc-hoa.jpg

Thanh tịnh và hòa hợp là bản thể của Tăng-già, đồng thời là cơ sở để tiến tu nhằm thành tựu giới, định, tuệ

Được sống trong không khí hòa hợp, chung vui là niềm hạnh phúc của mọi người. Nhất là người xuất gia, nguyện sống không gia đình nên được sống vui trong sự bảo bọc, che chở, ấm áp đạo tình của Tăng-già là niềm hạnh phúc lớn.

Thế nhưng, vì nghiệp lực nên có người rơi vào những hội chúng nhiều bất hòa, thường nghi kỵ, tranh giành, đấu đá lẫn nhau. Nguyên nhân của tranh đấu thì rất nhiều nhưng căn bản vẫn là lợi và danh. Lúc mới xuất gia, với sơ tâm dũng mãnh thì lợi và danh thật bọt bèo. Nhưng rồi, chúng vẫn là cội nguồn để người ta tranh chấp. Thế mới biết tâm vô thường, đổi thay đến chóng mặt. Không phải bây giờ mà từ thời Thế Tôn, thời của Chánh pháp mà các Tỳ-kheo đã từng “có lúc dùng dao gậy đập nhau”.

“Một thời Phật ở thành Câu-thâm trong vườn Cù-sư-la.

Bấy giờ Tỳ-kheo ở Câu-thâm hằng ưa tranh tụng, phạm các hạnh ác, đối mặt cãi cọ, hoặc có lúc dùng dao gậy đập nhau. Bấy giờ Thế Tôn sáng sớm đến chỗ các Tỳ-kheo ấy. Đến rồi, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo các thầy, cẩn thận chớ gây gổ, chớ tranh phải trái với nhau. Này các Tỳ-kheo, nên cùng hòa hợp, là bạn bè cùng một thầy, đồng nhất như nước với sữa, sao lại gây gổ?

Khi ấy Tỳ-kheo ở Câu-thâm bạch Thế Tôn:

- Cúi mong Thế Tôn chớ lo việc này, chúng con tự lo liệu lẽ này. Lỗi lầm như thế, chúng con tự biết tội này.

Thế Tôn bảo:

- Thế nào, các thầy vì vua mà hành đạo, hay vì sợ hãi mà hành đạo, hay vì đời sống thiếu thốn mà hành đạo?

Các Tỳ-kheo đáp:

- Không phải thế, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn bảo:

- Thế nào các Tỳ-kheo, các thầy há chẳng phải muốn xa lìa sanh tử, cầu đạo vô vi mà hành đạo sao? Nhưng thân ngũ ấm thật chẳng thể bảo toàn.

Các Tỳ-kheo đáp:

- Đúng vậy, Thế Tôn, như lời Thế Tôn dạy. Chúng con là con nhà vọng tộc, sở dĩ xuất gia học đạo vì cầu đạo vô vi, diệt thân ngũ ấm, thế nên học đạo.

Thế Tôn bảo:

- Các Tỳ-kheo không chịu học đạo mà lại tranh đấu đấm, đánh nhau, đối mặt gây phải trái, nói ác với nhau. Các thầy phải nên thành tựu hạnh này. Cùng đồng một pháp, một thầy dạy, cũng nên hành pháp lục hòa này, cũng nên hành thân, khẩu, ý hành này, cũng nên hành việc cúng dường những vị Phạm hạnh.

Các Tỳ-kheo đáp:

- Đây là việc của chúng con. Thế Tôn chớ lo việc này.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo ở Câu-thâm:

- Thế nào, các người ngu, các thầy chẳng tin lời của Như Lai sao mà nói Như Lai chớ lo việc này? Các thầy sẽ tự chịu quả báo tà kiếp này…”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 24.Cao tràng 3 [trích],
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.513)

Đành rằng, khi chưa thành tựu các Thánh quả thì đôi lúc người tu cũng bị phiền não chi phối. Nhưng vì tham ái lợi danh che mắt mà dẫn tới đấu đá và tranh giành trong chốn thiền môn thì thật xót xa. Bởi không thấy được những tác động tiêu cực nhiều chiều từ việc tranh chấp kiên cố của mình, nghĩ rằng mình làm như vậy là đúng rồi kiên quyết bảo vệ quan điểm bạo động, tranh đấu, gây bất hòa. Cũng như các Tỳ-kheo ở thành Câu-thâm, trước lời khuyên của Thế Tôn mà vẫn ngoan cố “Đây là việc của chúng con. Thế Tôn chớ lo việc này”. Sự việc căng đến nỗi Thế Tôn phải cứng rắn “Thế nào, các người ngu, các thầy chẳng tin lời của Như Lai sao mà nói Như Lai chớ lo việc này? Các thầy sẽ tự chịu quả báo tà kiếp này”.

Hình ảnh các Tỳ-kheo thường tranh đấu, bất hòa với nhau như thế tục đã cho chúng ta nhiều suy ngẫm. Xét cho cùng thì vấn đề cũng không ngoài tham ái và vô minh, nguyên nhân căn bản của khổ đau. Nên xả buông với danh lợi thì tranh chấp, đấu đá sẽ giảm. Sống chung với nhau mà bất hòa là “oán tắng hội khổ”. Nên mỗi người hãy tự buông bỏ một phần chấp ngã, tham ái thì cơ hội hòa hợp sẽ mở ra. Buông hết thì mới thực sự lục hòa, thanh tịnh và an vui.

Nghệ An: Phật giáo tỉnh sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm 2016

Nghệ An: Phật giáo tỉnh sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm 2016

Đăng lúc: 22:58 - 19/07/2016

Sáng ngày 18/7/2016, tại chùa Đại Tuệ (Nam Đàn), BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An tổ chức hội nghị sơ kết công tác Phật sự 6 tháng đầu năm 2016 và triển khai công tác Phật sự 6 tháng cuối năm 2016.
Quang lâm chứng minh và tham dự buổi lễ có Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS TW GHPGVN kiêm trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An. Thượng tọa Thích Thọ Lạc, phó thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An, thành viên Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Nghệ An, Chư Tôn đức Tăng Ni các chùa trong tỉnh.
Lãnh đạo UBND, Ban Dân vận Tỉnh ủy, UBMTTQ, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ, Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Xây dựng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Công an tỉnh.
6 tháng đầu năm 2016, Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An đã đạt được những kết quả quan trọng trong công tác phật sự trên địa bàn tỉnh. Toàn tỉnh có 35 vị Tăng Ni đang sinh hoạt hợp pháp trên địa bàn, có 47 cơ sở thờ tự (46 chùa và 01 Niệm Phật đường), 17/21 đơn vị hành chính có hoạt động của Phật giáo, tham gia Hội nghị chuyên đề về công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động Phật giáo trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Tổ chức thành công Tọa đàm: "Định hướng, phát triển bền vững Phật giáo Nghệ An".

Ban Trị sự đã quyết định bổ nhiệm trụ trì chùa Lam Sơn( Quỳnh Lưu). Phê chuẩn nhân sự Ban Hộ tự chùa Đồng Tương.Tổ chức khóa an cư kết hạ cho 43 hành giả tại 2 địa điểm, trong đó: Hạ trường chùa Đại Tuệ (29 vị) dành cho Chư Tăng có 28 Tỷ khiêu, 01 Sa di. Hạ trường chùa Cần Linh (12 vị) dành cho Chư Ni có 6 Tỷ khiêu Ni, 1 Thức xoa ma na, 1 Sa di Ni và 4 hình đồng Ni. Giới thiệu 02 vị đi học hệ Cao đẳng tại Học viện Phật giáo Hà Nội , cử các thành viên Ban Hoằng Pháp về tại các chùa, các đạo tràng, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa để gặp gỡ đồng bào Phật tử.
Lễ khai bút và trồng cây tại chùa Đại Tuệ nhân dịp đầu xuân. Tổ chức thành công Lễ hội Hương sen xứ Nghệ năm 2016, lễ Phật đản, kỷ niệm 5 năm thành lập Phật giáo Nghệ An, hướng tới kỷ niệm 35 năm thành lập GHPGVN, thành lập CLB Hương Từ Bi chùa Hồng Phúc, chùa Hà quy tụ trên 50 thành viên, tham gia tích cực các hoạt động thiện nguyện, sơ bộ toàn tỉnh có trên 45 ngàn Phật tử đã Quy y. Tổ chức tiếp đón và làm việc với đoàn công tác của Ban Hướng dẫn Phật tử TƯ GHPGVN vào ngày 17/4. Các hoạt động văn nghệ Phật giáo được duy trì và ngày càng phát triển ở nhiều nơi, đăng tải kịp thời các tin tức Phật sự tại địa phương

Vận động công tác từ thiện trên 300.000.000đ, tặng ngàn ngàn suất quà trong dịp tết, giúp đỡ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các hộ nghèo gia đình có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống.
Trong công tác bầu cử Quốc hội khóa 14 và HĐND các cấp NK 2016 – 2021. Được sự hiệp thương của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Ban Trị sự đã tiến hành các cuộc họp giới thiệu Ni sư Thích Diệu Nhẫn - Phó Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh, tham gia đại biểu HĐND cấp tỉnh . Đại biểu HĐND cấp huyện có 2 vị, đó là: Đại đức Thích Đồng Tuệ - Trụ trì Chùa Hà, tham gia Đại biểu HĐND huyện Nam Đàn . Đại đức Thích Tuệ Quang - Trưởng Ban Quản lý dự án xây dựng Chùa Gám - TVTL Yên Thành, tham gia Đại biểu HĐND huyện Yên Thành.
Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, những khó khăn, thách thức và thống nhất một số lưu ý, nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung thực hiện trong 6 tháng cuối năm.

Phát biểu bế mạc tại hội nghị Thượng tọa Thích Thọ Lạc, phó Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An, chỉ rõ Phật giáo tỉnh nhà cần phải phát huy hơn nữa truyền thống đoàn kết hoà hợp, vượt qua khó khăn thử thách, khắc phục yếu kém tồn tại, phấn đấu vì sự xương minh của Phật pháp, vì hạnh phúc an lạc cho chúng sinh. Xây dựng mối quan hệ thống nhất về lãnh đạo và tổ chức giữa Ban Trị sự với Tăng Ni, Phật tử thành viên tạo ra một sức mạnh tổng hợp của sự đoàn kết hoà hợp, làm nền tảng cho các hoạt động Phật sự vì Đạo pháp Dân tộc, làm tốt đời đẹp đạo.
Tại hội nghị, Đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành cấp tỉnh, Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An đã tặng hoa chúc mừng Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu, Trưởng Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An nhận bằng tiến sỹ Tôn giáo học.

Dịp này, hàng Phật tử tại gia đã dâng cúng tịnh tài, tịnh vật lên Chư tôn đức Tăng, Ni trong ý nghĩa hộ trì Tam bảo.
Sau đây là một số hình ảnh buổi lễ:











Chư tôn giáo phẩm niệm phật cầu gia hộ














Hội nghị dưới sự chủ trì của Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS TWGHPGVN kiêm trưởng BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An


Toàn cảnh Hội nghị sơ kết










Đại Đức Thích Tâm Thành đọc báo cáo tổng kết Phật Sự 6 tháng đầu năm















Ông : Nguyễn Văn Long -Phó Ban Tôn Giáo phát biểu.




Ban trị sự Phật giáo tỉnh tặng hoa chúc mừng HT . Thích Thanh Nhiễu


Ban tôn giáo cùng các ban ngành tặng hoa chúc mừng.














Thượng Tọa Thích Thọ Lạc - Phó Ban Văn Hóa TW GHPGVN, phó thường trực BTS GHPGVN tỉnh Nghệ An bế mạc buổi lễ tổng kết.







Tác giả bài viết: Hữu Tình- Hồng Nga

Truong ha LMXuan (8b)

Một ngày ở trường hạ Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM

Đăng lúc: 09:55 - 05/07/2016

Sau lễ tác pháp an cư vào ngày 9-5-2016 cho Tăng Ni sinh viên khóa XI nội trú tại Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM - cơ sở Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, đến nay Tăng, Ni hành giả an cư đã nhập hạ được hơn 1 tháng.
Lần đầu tiên Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM tổ chức khóa an cư tập trung cho Tăng Ni sinh tại cơ sở xã Lê Minh Xuân sau khi hoàn thành xây dựng giai đoạn 1, nhưng với sự nỗ lực của Hội đồng Điều hành, và sự tinh tấn của Tăng Ni sinh viên, trường hạ đã đi vào nề nếp, theo chương trình liên tục tu và học từ 4 giờ sáng cho đến 22 giờ tối.

Với tính chất đặc thù của môi trường giáo dục, trường hạ tại Học viện do chính HT.Thích Trí Quảng, Phó Pháp chủ HĐCM, Viện trưởng làm Thiền chủ; HT.Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch HĐTS, Phó Viện trưởng Thường trực làm Phó Thiền chủ; HT.Thích Minh Thông, Phó Trưởng ban Tăng sự T.Ư, Trưởng ban Tăng sự GHPGVN TP, Giám luật; TT.Thích Thanh Phong, Trưởng ban Bảo trợ làm Hóa chủ và TT.Thích Nhật Từ, Phó Viện trưởng Chánh Duy-na.

Có thể nói, trường hạ tại Học viện - cơ sở xã Lê Minh Xuân là trường hạ tập trung có số lượng Tăng Ni an cư đông nhất thành phố, với 367 hành giả (158 Tăng, 209 Ni).

Được sự đồng thuận của Hội đồng Điều hành Học viện, PV Giác Ngộ đã hòa nhập vào không gian thanh thoát của trường hạ, ghi lại những khoảnh khắc sau đây, xin giới thiệu cùng quý độc giả.

Truong ha-LMXuan (1).JPG
Đúng 4g, thức chúng

Truong ha-LMXuan (2).JPG

Truong ha-LMXuan (3).JPG
Sau đó Tăng Ni từ các nội viện biệt lập trang nghiêm y hậu vân tập chánh điện

Truong ha-LMXuan (8).JPG
Tất cả Tăng Ni sinh viên hành giả trong thời gian công phu khuya bắt đầu từ 4g30 sáng

Truong ha-LMXuan (6).JPG

Truong ha-LMXuan (7).JPG
Toàn thể đại chúng nhất tâm trì tụng

Truong ha-LMXuan (8b).JPG
Cảnh yên tĩnh tại Học viện sau thời công phu khuya

Truong ha-LMXuan (12).JPG

Truong ha-LMXuan (13).JPG
Chương trình an cư hài hòa giữa việc tu và học

Truong ha-LMXuan (21).JPG

Truong ha-LMXuan (16).JPG
Trường hạ tại Học viện có số hành giả đông nhất TP

Truong ha-LMXuan (25).JPG

Truong ha-LMXuan (24).JPG
Tất cả Tăng Ni sinh quá đường chung trong chánh điện

Truong ha-LMXuan (27).JPG
Các hành giả trong ban hành đường 15 vị/nhóm luân phiên chấp tác

Truong ha-LMXuan (28).JPG
Chuẩn bị chu đáo từng bữa ăn cho hành giả

Truong ha-LMXuan (35).JPG
Giờ tiểu thực, mỗi người đều có khay riêng đựng thức ăn theo phương thức tự phục vụ

Truong ha-LMXuan (32).JPG
Ngoài giờ tu và học, Tăng Ni được phân công làm vệ sinh, trồng cây kiểng và rau quả...

Truong ha-LMXuan (37).JPG
Ban quản viện phổ biến phương pháp tọa thiền

Truong ha-LMXuan (45).JPG
Theo chương trình tu học trong ba tháng an cư,
thực hành thiền là một trong những nội dung quan trọng tại đây

Truong ha-LMXuan (41).JPG

Truong ha-LMXuan (44).JPG
Quang cảnh thời tọa thiền

Truong ha-LMXuan (51).JPG

Truong ha-LMXuan (49).JPG

Truong ha-LMXuan (50).JPG
Sau thời tọa thiền, toàn thể đại chúng thực hiện thời tụng kinh tối

Truong ha-LMXuan (52).JPG
Điểm danh dấu vân tay vào cuối ngày

Truong ha-LMXuan (55).JPG
Tăng Ni sinh khi có bệnh duyên được khám chữa tại phòng y tế
của Học viện do chư vị Tăng Ni là y-bác sĩ đảm trách trực tiếp

Truong ha-LMXuan (54).JPG
Cảnh yên tĩnh của Học viện về đêm, sau 22g

>> Xem thêm: Mùa an cư đầu tiên của Tăng Ni sinh nội trú ||

Bảo Toàn thực hiện

Chánh ngữ trong Phật giáo: Ý kiến hay sự kiện

Chánh ngữ trong Phật giáo: Ý kiến hay sự kiện

Đăng lúc: 22:42 - 26/05/2016

Vượt ra ngoài phạm vi pháp lý có lẽ tôn giáo nào cũng dạy con người phải nói lời chân thật, tránh dối trá. Những lời nói dịu dàng làm đẹp lòng người nghe là những điều rất cần thiết để tô hồng cuộc sống trong cái cõi ta bà này vì lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội, bảo tồn sự đoàn kết giữ cho xã hội được ổn cố...

Chánh ngữ trong Phật giáo: Ý kiến hay sự kiện
CHÁNH NGỮ TRONG PHẬT GIÁO

Ý kiến hay sự kiện
Trước khi đề cập tới “chánh ngữ” cần phân biệt sự khác biệt giữa lời phát biểu thuộc dạng bày tỏ “ý kiến” hay phát biểu về “sự kiện”.
Ý kiến (opinion): Khi đưa ra cái nhận xét, đánh giá về một sự vật, một con người, hay một hành động thì đó được gọi là “ý kiến”. Thí dụ một nhân vật trong cộng đồng, có người ca tụng là giỏi giang và khiêm tốn. Nhưng lại có người chê là tầm thường và hám danh. Lời bày tỏ ý kiến của hai người trên hoàn toàn khác nhau, không dễ chứng minh được là đúng hoặc sai.
Sự kiện (fact): là khái niệm về một sự thật và có thể chứng mình được là đúng hay sai. Thí dụ một người đi kiếm việc làm tự khai là có bằng kỹ sư và đã làm giám đốc nhiều năm. Sự kiện này có thể kiểm chứng được nhờ vào việc xuất trình bằng cấp và giấy tờ của cơ sở cũ nơi đương sự làm việc.

Phỉ báng và vu khống

Về mặt pháp luật thời với quyền “Tự do ngôn luận” người ta có quyền phát biểu “ý kiến” dù không đúng hay quá đáng cũng có thể được miễn trách, nếu không nêu lên các sự kiện thất thiệt khác mang tính chất “phỉ báng và vu khống”.
Tùy theo hình luật của từng quốc gia, tội “phỉ báng và vu khống” thường gồm những yếu tố: 1.Phải là hành động phổ biến những tin tức, nói ra những điều giả dối, không đúng sự thật về một người khác; 2.Lời nói giả dối đó làm tổn hại thanh danh, uy tín người khác; 3.Đặc biệt là phải được loan truyền, được phổ biến ra công chúng một cách công khai khiến người thứ ba nghe được.
Tội “phỉ báng và vu khống” có khi chỉ bị kiện ra tòa về mặt “dân sự”, có khi lại bị kiện về “hình sự”. Nếu bị xếp vào loại hình sự thì hậu quả là kẻ phạm tội có thể bị tuyên phán ở tù một thời gian, bị phạt tiền, bị phạt hình phạt thử thách (probation), bị phạt phải làm công tác cộng đồng, làm việc nặng (hard labor) hay phải viết thư xin lỗi v.v...
Thông thường người lập lại và loan truyền tin đồn thất thiệt có tính phỉ báng và vu khống cũng phải chịu trách nhiệm về tội này y như người đầu tiên tung ra tin đồn này.
Nguyên đơn thắng kiện có thể được bồi thường, gồm có các loại: 1.“Thiệt hại đặc biệt” (tiền luật sư, bác sĩ, thuốc men, tiền lương bị khấu trừ…); 2.“Thiệt hại hiện thực” nhưng có tính cách “tổng quát” (chẳng hạn nỗi đau tinh thần, tổn hại tới uy tín…) Thiệt hại này phải được chứng minh; 3.“Thiệt hại phỏng đoán” (dù rằng nguyên đơn có thể không có chứng cớ gì cụ thể). 4.“Thiệt hại trừng phạt” hay “thiệt hại làm gương”…
Tội phỉ báng, nhục mạ hay vu khống, vu cáo theo pháp luật của Việt Nam kể cả trước hay sau năm 1975 đều là một tội hình sự.

Chánh ngữ trong Phật giáo

Vượt ra ngoài phạm vi pháp lý có lẽ tôn giáo nào cũng dạy con người phải nói lời chân thật, tránh dối trá. Những lời nói dịu dàng làm đẹp lòng người nghe là những điều rất cần thiết để tô hồng cuộc sống trong cái cõi ta bà này vì lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội, bảo tồn sự đoàn kết giữ cho xã hội được ổn cố.
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận. Người Tây tạng có câu: “Lời nói không mang gươm giáo, nhưng có thể làm thương tổn trái tim” nên bước quan trọng nhất để phát triển chánh ngữ là suy nghĩ kỹ trước khi nói hay viết.
Chánh ngữ (Samma vaca) là:
1.Không dối trá; 2.Không nói lời mắng nhiếc mạ lỵ khiến người khác đau lòng hay tổn thương; 3.Không thêu dệt thêm bớt để chia rẽ hay đả phá; 4.Không nói lời nhảm nhí vô ích.
Hãy phân tích thấu đáo hơn về bốn đặc tính của Chánh ngữ:

1.Không dối trá: là luôn chân chính trung thực, nói sự thật. Đức Phật dạy chúng ta, đừng bao giờ nói dối dầu vì lợi ích của bản thân, hay lợi ích của ai đó, hay vì bất cứ sự lợi ích gì. Chúng sinh nên tránh “vọng ngữ”. Không nên nói không đúng sự thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có. Không vu oan giá họa cho ai. Nhất là kẻ học Đạo, nếu nói dối rằng mình đã chứng quả Thánh, hay đắc đạo để cho người kính phục, sùng bái mình, thì sẽ mắc tội đại vọng ngữ, bị đọa vào ba đường ác.

2.Không nói lời mắng nhiếc mạ lỵ khiến người khác đau lòng hay tổn thương: không xúc phạm bằng lời nói hung ác, xiên xỏ, nguyền rủa, nói lời kiêu căng, chỉ trích nặng lời, lời nói cộc cằn, thô lỗ. Lời nói là một công cụ đầy quyền lực có thể được dùng cho việc tốt hay việc xấu. Đức Phật đã so sánh lời nói với một cái búa:
“Mỗi người sinh ra đời
được sinh ra với cái búa trong miệng.
Kẻ ngu dùng những lời thô tục
là tự làm mình và người khác bị thương
bằng cái búa đó.”
Nên nói lời hoà nhã, dịu dàng, hiền hậu, toàn là lời đạo đức, từ bi, lợi lạc cho tất cả chúng sinh, ai nghe cũng hân hoan, kính trọng.

3.Không thêu dệt thêm bớt để chia rẽ hay đả phá: tránh dùng “tà ngữ” với ác tâm. Không nói lời hai lưỡi, đòn xóc hai đầu, làm cho hai người khác ghét nhau, thù nhau. Không được nói lời thêu dệt, thêm bớt, nói châm chọc làm cho người nghe buồn phiền và khởi tà niệm. Không được xui bảo người khác nói các điều như trên. Không đứng trung gian gây ác cảm cho hai đàng thù oán, cho đôi bên sân hận đấu tranh. Khi thấy người khác nói những lời không đẹp ấy thì phải khuyên can:
“Lưỡi là một vũ khí không có xương
bị dính giữa hai hàm răng.”

4.Không nói lời nhảm nhí vô ích: Không nói chuyện phù phiếm, vô nghĩa hay u mê vì chúng làm quấy động sự yên tĩnh và định tâm. Nói sau lưng người (gossip) là tà ngữ, không cần biết những gì chúng ta nói về người đó có đúng hay không.

Ngũ Giới

Chánh ngữ được đề cập tới trong “ngũ giới” là năm giới. Ðối với người tại gia, Ðức Phật khuyên giữ năm giới đó là: “1.Không sát sinh; 2.Không nói dối; 3.Không trộm cắp; 4.Không tà dâm; 5.Không uống rượu say sưa.”
Giới là hàng rào ngăn cấm những việc xấu của Thân (việc làm), Khẩu (lời nói), Ý (ý nghĩ). Năm giới là năm thành trì ngăn chặn cho chúng ta đừng đi vào đường ác, là năm hàng rào cản cho chúng ta khỏi rơi vào vực sâu tội lỗi và tương lai sẽ hưởng được quả báo tốt đẹp. Năm giới không những đưa người mạnh tiến trên đường giải thoát khỏi vòng, sinh tử luân hồi, và giải thoát khỏi, phiền não khổ đau mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, quốc gia, xã hội nữa.
Trong ngũ giới thời giới thứ hai là không nói dối. Giới này khuyên người Phật Tử tại gia chân chánh, không nên dùng lời nói để lợi mình hại người, khủng bố tinh thần người khác, vì đó là “vọng ngữ”, “tà ngữ” hay “ác ngữ”. Chỉ nên dùng lời nói để lợi mình lợi người, gọi là “chánh ngữ”, dù người đó là người thân hay kẻ thù. Khi dùng lời nói dối để hại người khác, tâm của chính mình, chắc chắn biến động, làm cho công phu, tu tâm dưỡng tánh, từ bao lâu nay, trở nên vô ích mà lại tạo ra “khẩu nghiệp”! Phật tử cần giữ giới này vì đạo Phật là đạo của sự thật nên phải tôn trọng sự thật, vì nuôi dưỡng lòng từ bi, người Phật tử phải tránh sự dối trá lừa gạt.
Trong Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật bảo Tôn Giả A Nan: “Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy cũng chỉ đốt cháy một đời này mà thôi, còn như nói ác sẽ đốt cháy trong vô số kiếp. Lửa chỉ đốt cháy nhà cửa, của cải của thế gian, còn lời nói ác đốt cháy bảy thứ của cải của Thánh nhân. Vì thế, này A Nan, chúng sanh họa từ trong miệng mà sinh ra, miệng lưỡi thực là búa sắc tự bổ vào mình, là cái họa để tự diệt mình”.

Bát Chánh Đạo

Chánh ngữ cũng được đề cập tới trong “Bát Chánh Đạo”, trong chân lý thứ tư của Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế là bốn chân lý cao cả, là gốc cơ bản của Phật Giáo. Trong Tứ Diệu Đế thì chân lý thứ tư là Đạo Đế, chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ.
Bát Chánh Đạo gồm tám điều chân chánh, là con đường đúng đắn, đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ và giải thoát khỏi khổ. Tám điều đó là:
1.Chính kiến (thầy biết chân chính); 2.Chính tư duy (suy nghĩ chơn chính); 3.Chính ngữ (nói năng chân chính); 4.Chính nghiệp (hành động chân chính); 5.Chính mạng (chính mệnh, nghề sống chân chính); 6.Chính tinh tấn (gắng làm chân chính); 7.Chính niệm (nhớ nghĩ đạo chân chính); 8.Chính định (nhập thiền định chân chính, vô lậu và thanh tịnh).

Trong ba phép tu tập: tu Giới (shila), tu Định (samatha) và tu Tuệ (prajna) trong Bát Chánh Đạo thì chánh ngữ thuộc vào lãnh vực tu Giới và được định nghĩa như sau, như đã ghi trong Tương Ưng Bộ Kinh: “Thế nào là chánh ngữ? Đó là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm”. Đó là về mặt tiêu cực. Về mặt tích cực, Đức Phật cũng dạy rằng chúng ta phải cố gắng tu tập để có những lời nói chân thật, trung thực, ôn hòa và lợi ích.

Kinh Hoa Nghiêm

Trong kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Các đệ tử! Các ngươi nên bỏ lời nói dối, thường nói lời chơn thiệt, lời chắc chắn, dù là trong mộng cũng chẳng nên nói dối.”
Và: “Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói. Lời nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh pháp, ích lợi cho mình và cho người”.
Lời nói phải đúng lúc, tức là phải phù hợp với hoàn cảnh (khế cơ) khi nói. Điều này đòi chúng ta phải biết đối tượng mà mình đang nói là ai? Họ đang ở trong hoàn cảnh và có trình độ nhận thức ở mức độ nào? Nếu không, dù lời nói đúng sự thật cũng trở thành phi pháp. Vì vậy mà đức Phật căn dặn các thầy Tỳ kheo phải biết: “Nói năng như Chánh pháp, im lặng như chánh pháp”
Kinh Pháp Cú

Khi Đại đức A Nan bạch hỏi Đức Phật về những việc làm của chư Phật quá khứ trong những ngày giới, Đức Phật giảng rằng tất cả chư Phật đều dạy ba câu sau đây (được ghi lại trong Kinh Pháp Cú, khuyên nên tránh lời nhục mạ, phỉ báng):

(185) “Chớ nên phỉ báng một ai
Đừng gây tổn hại cho người xung quanh
Giữ gìn giới luật nghiêm minh
Uống ăn chừng mực cho thành thói quen
Lánh riêng sống chỗ tịnh yên
Chuyên tu thiền định, hướng miền thanh cao
Lời chư Phật dạy lành sao!”

Đại đức Mục Kiền Liên hỏi thăm nhiều vị Trời nhờ công đức gì mà được tái sinh vào cảnh Trời. Các vị này kể ra các hành động xem như có vẻ không quan trọng là “chân thật, nhẫn nại và bố thí”. Đức Phật giải thích là các hạnh đó tuy nhỏ vẫn có thể dẫn đến các cõi Trời (được ghi lại trong Kinh Pháp Cú, khuyên không nên nói dối):

(224) “Nói lời chân thật luôn luôn,
Dẹp cơn nóng giận dỗi hờn khó coi,
Dù ta có ít của thôi
Cũng chia bố thí cho người đến xin,
Nhờ ba việc tốt lành trên
Đưa ta đến cõi chư thiên, cõi trời.”

Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật cũng khuyên không nên nói sai, nói ác mà nên nói lành, nói thiện, phải chế phục khẩu nghiệp:

(232) “Giữ gìn kiểm soát Lời người
Đừng vì nóng giận để rồi nói sai
Lời đừng nói ác, hại ai
Nói lành, nói thiện miệt mài tu thân.”

Còn thêm rất nhiều lời dạy của Đức Phật về chánh ngữ…
1. Trong kinh Lời Nói (Tăng Chi 5.198): Đức Phật giảng 5 yếu tố của một lời nói thiện lành trong đó có ghi cần nói đúng sự thật: “Bậc thiện tri thức nói một lời phải dựa trên sự thật, không ngụy biện, không lừa dối” và phải nói lời đem đến lợi ích “Lời nói phải có mục đích và ý nghĩa của nó, dù là lời chân thật nhưng không có mục đích đem lại lợi ích cho ai, thì đó cũng chỉ là lời nói nhảm, vô dụng.”
2. rong kinh số 58, (Trung Bộ), có ghi lời Đức Phật trả lời Vương tử Vô Úy, “Lời nói nào Như Lai biết không như thật, không như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích, Như Lai không nói lời nói ấy.”
3. Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật lại dạy: “Tâm khẩu nhứt như”. Nghĩa là: “Tâm khẩu không khác”. Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy. Khi miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy, mới được an lạc, mới đúng là người tu đạo. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, dù có hình tướng nào, cũng là người dối trá, giả mạo mà thôi.
4. Tứ Nhiếp Pháp: Trong 4 phương pháp nhiếp thụ, 4 phương pháp thực hành để dẫn dắt chúng sinh tin theo chính đạo có ghi “Ái ngữ”. Đây là lời khuyên nên theo căn tính chúng sinh, nói ra những lời nói hiền lành, dịu hòa và an ủi họ, do đó họ sinh tâm thân ái, tin theo chính đạo.
5. Thập Thiện Nghiệp: Nghiệp có thể chia ra ba tánh cách: lành, dữ, hoặc không lành không dữ (vô ký). Những loại nghiệp này do ba chỗ phát khởi là Thân, Khẩu và Ý. Những nghiệp dữ về Khẩu có bốn thứ là: “Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác”.
Ngược lại Thập Thiện Nghiệp là Mười Nghiệp Lành: “1.Không nói dối; 2 Không nói thêu dệt; 3.Không nói lưỡi hai chiều; 4.Không nói lời hung ác.” Lành, theo đạo Phật, nghĩa là có lợi ích cho chúng sinh trong hiện tại cũng như trong tương lai. Không nói dối được giải thích là không nói sai sự thật như:

“Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy.
Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe.
Biết nói không biết, không biết nói biết.
Biết trái nói phải, biết phải nói trái.”

6. Lục Hòa: Để trong một đoàn thể luôn luôn được sự hòa hợp đức Phật nói ra “Lục Hòa” là sáu pháp hòa kính với mục đích đem lại sự an hòa cho mọi người, để sống theo lời Phật dạy, tinh tấn trên đường xây dựng và giải thoát. Trong sáu pháp đó có “Khẩu hòa vô tránh” tức là miệng hòa, không cãi cọ nhau, luôn luôn nói lời hòa dịu, lợi ích, tụng Kinh, niệm Phật, tán dương công đức Phật.

7. Mười Bốn Điều Răn Của Phật: nội dung của bản văn này được nhiều người xem như đã được trích ra từ những ý tưởng trong kinh Phật. Trong điều răn thứ 2 ghi là: “Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.”

8. Nói Rỡn Chơi: Có người cho rằng nói dối để lừa phỉnh chơi, thì không hại gì. Thật ra, sự nói dối ấy vẫn có hại, vì nó làm cho ta quen với thói xấu ấy, và làm cho người xung quanh không tin ở lời nói của ta nữa, dù đôi khi ta nói thật.
Trong Kinh Hoa Nghiêm Phật dạy: “Các đệ tử! Các con nên bỏ những lời vô nghĩa, thường tự giữ gìn lời nói; nói phải biết thời, nói phải thuận pháp. Những lời nói ngoài việc lợi ích cho người, dù là nói chơi cũng không nên nói.”
Trong Kinh Di Giáo Đức Phật cấm hý luận. Không nên nói rỡn chơi: “Bất hý luận.”

Sau vụ khủng bố ngày 11-9-2011 tại Hoa kỳ, luật hàng không đã được bổ sung, ai nói đùa trên máy bay có bom, hoặc khủng bố v.v… chẳng những bị phạt mà còn có thể ở tù vài năm. Theo luật an ninh, khi có người loan tin hoặc báo cáo có bom, nguy hiểm đến tính mạng, máy bay không được cất cánh, nếu đã cất cánh phải đáp ngay lập tức.

9. Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật còn dạy: “Không nên quan tâm chuyện thế gian. Không nên loan truyền các tin đồn.” Bởi vì, các chuyện thế gian, thường là những chuyện, nhân ngã thị phi, không rõ phải quấy đúng sai, tranh chấp hơn thua, thường không căn cứ, không có xác thực, không đáng tin cậy, khó kiểm chứng được, có thể làm hại thanh danh người khác. Những chuyện này thảy đều làm cho, tâm trí con người, bất an, dao động, chỉ có hại, chẳng ích lợi gì! Chúng ta không cần, phung phí thì giờ, một cách vô ích, để đi đính chính, những lời đồn đãi, sai lạc hoàn toàn, nếu như hoàn cảnh, không bị bắt buộc, phải làm sáng tỏ.

Nhiều hình thức bị coi là nói dối
1. Nói dối bằng cách im lặng: Cũng có khi chúng ta được hỏi một câu hỏi mà thái độ im lặng cũng hàm ý là một sự trả lời. Nếu sự im lặng của chúng ta phản ảnh một điều sai sự thật thì đó là nói dối. Thí dụ, người ta điều tra ở một nơi vừa xảy ra án mạng hỏi đám đông đứng quanh là có ai nhìn thấy gì không. Nếu ai chứng kiến vụ án mạng nhưng lại giữ im lặng không nói gì thì sự im lặng đó bị coi là nói dối.
2. Nói dối bằng ngôn ngữ của thân: Đôi khi một cái nhún vai hay nhíu mày có thể bị hiểu lầm là “Tôi không biết”, nhưng nếu bạn thực sự biết, thì cái nhún vai của bạn là một sự dối trá. Ngôn ngữ cũng có thể biểu lộ bằng thân, thí dụ như khi đưa lên ngón tay cái lên là hoan hô nhưng nếu chỉ đưa ngón tay giữa lên là chửi bởi v.v…
3. Buộc tội oan và khai man: là hai hình thức khác của lời nói dối mà Đức Phật khuyên các đệ tử nên tránh vì sẽ gây tai họa cho bản thân người nói cũng như những người xung quanh.
4. Hứa suông: Đức Phật xếp những kẻ khéo miệng hay hứa suông chỉ nhằm đạt được lợi lộc cho bản thân cũng là một hình thức nói dối. Hoặc người có khả năng giúp đỡ bạn, nhưng viện đủ lý do để thoái thác cũng thuộc loại nói dối (Trường Bộ Kinh).
5. Giả danh: Giả danh đưa ra những thông tin sai lệch về trình độ chuyên môn, khả năng, thành tích, đức hạnh hay thổi phồng về mức độ chứng đạt tâm linh hầu đạt được những lợi lộc mà bản thân họ không xứng đáng được hưởng. Giả danh này cũng là một hình thức nói dối.
6. Nhân chứng: Khi bạn được hỏi làm nhân chứng để nói những gì bạn biết. Nếu biết, thì nói, “Tôi biết”; nếu không biết, thì nói, “Tôi không biết”; không thấy, thì nói, “Tôi không thấy”; nếu thấy, thì nói, “Tôi thấy”. Không cố ý nói sai sự thật vì ích lợi của mình hay của ai đó, hay cho những lợi ích tầm thường trong thế gian.

Đôi khi cần nói lời không thật

Tuy nhiên cũng có những trường hợp sự thật cần phải được giữ kín vì nếu nói ra có thể làm hại người khác. Như vậy là thực hành hạnh Từ Bi. Nói dối, chỉ trong trường hợp để cứu khổ độ nguy cho người và vật mới không phạm tội. Thí dụ một bác sĩ biết người bệnh sắp chết nhưng không nên nói thật với bệnh nhân điều này.
Hoà thượng Thích Thanh Từ dạy: “Trừ trường hợp vì lợi người lợi vật, không nỡ nói thật để người bị hại hoặc khổ đau, do lòng nhân cứu người cứu vật nói sai sự thật mà không phạm.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng lên tiếng rằng: “…Đức Phật cấm quý Sư không được nói dối. Ví dụ một vị Tỳ kheo phát nguyện luôn luôn nói sự thật, nhưng khi thấy một con nai đang chạy ngang qua khu rừng. Thình lình gặp anh thợ săn đến hỏi quý Sư có trông thấy con nai ở đâu không? Mặc dù luật Đức Phật cấm vị Tăng không được nói vọng ngữ, nhưng vì muốn cứu mạng sống chú nai vàng cho nên lúc bấy giờ Sư đã trả lời: ‘Tôi không thấy con nai nào chạy qua đây cả…’” (Ocean of Wisdom).
Một thí dụ khác là khi Đức Phật nói với bà Gotami rằng đứa con đã chết của bà sẽ được làm sống lại, nhưng để chữa trị cho đứa bé, Đức Phật bảo bà phải tìm đem về một nắm hạt cải từ một gia đình chưa bao giờ có người chết. Đức Phật sử dụng chính điều không thật này như là một hảo ý để trì hoãn việc nói lên sự thật. Phương cách này đã giúp bà Gotami dần dần tỉnh ngộ và chấp nhận cái chết của đứa con.

Thái độ của Phật Tử khi bị phỉ báng và vu khống

1. Nhẫn nhục: Khinh rẻ, phỉ báng, nguyền rủa là thói thường của thế gian. Cả những người đạo cao đức trọng, trong sạch cũng có thể bị chỉ trích, chê bai, vu oan v.v… Chính Đức Phật cũng từng bị phỉ báng và vu khống. Nên nhớ rằng trên đời này không ai tránh khỏi bị khiển trách, bị chê bai, khó tránh khỏi miệng thế gian. Trong tương lai và trong hiện tại cũng chưa hề có người nào bị tất cả mọi người chê bai hay được tất cả mọi người khen ngợi. Đúng như lời Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú:

(227) “Người con Phật hãy nghe đây
Chuyện không phải chỉ đời này mà thôi
Từ đời xưa đã nói rồi:
‘Làm thinh thời sẽ có người chê bai,
Nói nhiều cũng bị chê hoài,
Dù cho nói ít cũng người chê thôi’.
Làm người không bị chê cười
Thực là chuyện khó ở nơi cõi trần.”

(228) “Ở đời toàn bị chê bai
Hay toàn nghe tiếng người ngoài khen ta
Từ xưa chẳng thấy xảy ra,
Tìm trong hiện tại thật là khó sao,
Tương lai cũng chẳng có nào.”

Nhưng vì bị chê bai mà nổi sân thời tai hại vô cùng vì lúc nóng giận thì con người không còn đủ bình tĩnh để tự kiểm soát hành vi và ngôn ngữ của mình. Khi sân hận phát khởi, nó có khả năng hủy hoại công đức và tâm an lạc.
Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.” Và: “Một đốm lửa sân, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.”
Đức Phật khuyên: “Hãy từ bỏ nóng giận thì phiền não sẽ không đến với các ngươi.”
Kinh Tăng Chi khi nói đến sức mạnh có 8 loại. Trong đó loại thứ 8 “sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”
Kinh Di Giáo: “Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí.”

Vài vị tỳ kheo thường nặng lời lăng mạ một vị khác và vị này trả lời lại. Đức Phật khuyên các thầy không nên gây thù trả oán và Ngài giảng dạy về sự lợi ích của người biết giữ im lặng trước những lời lăng mạ của kẻ khác như ghi trong Kinh Pháp Cú:

(134) “Nếu mà ngươi giữ lặng yên
Như chuông bể nứt im lìm chẳng vang
Trước lời ác độc phũ phàng
Niết Bàn ngươi đã thênh thang bước vào:
Chẳng còn sân hận chút nào.”

Đức Phật dạy rằng con người cũng có thể tạo cho mình tiềm lực vật chất, nghị lực tinh thần, lòng kiên nhẫn và sức mạnh, chẳng khác một con voi chiến lâm trận, bình thản vững tiến giữa lằn tên mũi đạn, sẵn sàng và thản nhiên hứng chịu những lời phỉ báng và vu khống. Luyện được lòng nhẫn nhục mới là khó như ghi trong Kinh Pháp Cú:

(320) “Như voi ra trước trận tiền
Luôn luôn hứng chịu cung tên bắn mình
Như Lai nhẫn nhục tu hành
Chịu điều phỉ báng cũng đành lòng thôi,
Sống vô tư cách lắm người
Xa điều giới luật, ghét nơi cửa thiền.”

(321) “Luyện voi dự hội, tài thay
Luyện voi vua cưỡi cũng hay vô cùng,
Nhưng mà nếu luyện được lòng
Luôn luôn nhẫn nhục, chẳng còn nổi sân
Khi nghe phỉ báng bản thân
Mới là điêu luyện, muôn phần tài hơn.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng từng dạy: “Hãy cám ơn kẻ thù của quý vị vì họ là những vị thầy quan trọng nhất của mình. Họ tập cho quý vị đương đầu với khổ đau và phát huy sự nhẫn nhục, sự bao dung và lòng từ bi. Họ không chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào.” (108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité).

2. Tâm xả: Trước 8 ngọn gió trong giông tố của cuộc đời (“bát phong”), giữa những thăng trầm của thế sự làm tâm con người dao động chao đảo là “thành hay bại, được hay mất, khen hay chê, hạnh phúc hay đau khổ” Đức Phật dạy các Phật tử nên luôn luôn giữ Tâm thản nhiên, bình thản bằng cách hành tâm xả thì sẽ được vững chắc như tảng đá lớn sừng sững giữa trời.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: “Như ngọn núi vững vàng. Trong phong ba bão táp.
Người trí cũng như vậy. Bình thản trước khen chê”.
Đức Phật dạy (trong “Túc sanh truyện”): “Trong hạnh phúc, trong đau khổ, lúc thăng, lúc trầm, ta phải giữ tâm như đất. Cũng như trên đất ta có thể vất bất cứ vật gì, dù chua dù ngọt, dù sạch dù dơ, đất vẫn thản nhiên. Đất không giận cũng không thương.” Hiểu được như vậy, hành được như vậy, chính là pháp môn, tu theo hạnh “Xả”, một trong Tứ Vô Lượng Tâm của đạo Phật, gồm có: Từ, Bi, Hỷ, Xả.

3. Oan ức không cần biện bạch: Ðiều thứ mười trong “Mười điều tâm niệm” dạy rằng: “Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh”.
Vì biện bạch là nhân quả chưa tiêu, oán thù lại càng tăng thêm. Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Cho nên không cần phải than trách gì cả. Chỉ cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng loan truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác, dù cho đó là kẻ thù của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy.
Nhịn được như vậy chứng tỏ chúng ta không còn chấp “mình nhận chịu khổ đau”, không còn chấp “người tạo đau khổ cho mình”, tức là chúng ta đã thấu rõ và hành được “giáo lý vô ngã” của đạo Phật. Trong giáo lý vô ngã của đạo Phật, không có cái gì là “Ta”, nên không có gì là “của Ta”. Được như vậy, oan ức chính là cửa ngõ tiến vào con đường đạo hạnh.

“Mặc tấn”: lời giáo huấn cuối cùng của đức Phật.
Lúc Đức Phật sắp nhập Niết bàn. Thầy A Nan nghe nói òa lên khóc, Đức Phật an ủi và khuyên bảo thầy A Nan là không nên quyến luyến hình hài, vì hữu hình hữu hoại là lẽ đương nhiên. Thầy A Nan quỳ xuống hỏi Phật: “Làm sao điều phục kẻ dữ? Khi gặp những Tỳ kheo, cư sĩ và một số người có tính xấu ác, chúng con phải xử lý như thế nào?"
Đức Phật dạy rằng: “Ðiều đó rất dễ, các ông nên dùng phép Mặc Tấn. Mặc là không nói chuyện với họ, Tấn là không để ý đến họ nữa.”
Ðiều này có nghĩa là khi gặp phải những người có tính xấu ác, thì để điều phục kẻ dữ ta nên làm lơ đừng giao thiệp cãi vã, dùng định lực chẳng để cho họ xoay chuyển. Gặp những hạng người này thì không nên nói chuyện với họ, hãy giữ im lặng, không để ý đến họ, tự họ sẽ rút lui.
Theo Từ điển Phật Quang: Mặc tấn (默擯): “Chúng tăng giữ thái độ im lặng, không chuyện trò giao du là phương thức trừng phạt vị tì khưu vi phạm giới luật mà không chịu sự điều phục.”

*
Để chấm dứt về đề tài “Chánh Ngữ Trong Phật Giáo” xin ghi lại đây lời Hòa thượng Thích Thanh Từ dạy về “Ngũ Giới” trong “Bước đầu học Phật”: “Nói lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình, hoặc hại người là nói dối. Do động cơ tham lam ác độc, sự kiện xảy ra thế này lại nói thế khác, sửa trái làm mặt, đổi phải thành quấy, khiến người mắc họa. Người nói như thế trái với đạo đức, mất cả lòng nhân, không xứng đáng là một Phật tử. Phật tử là người đạo đức nên ăn nói có mẫu mực, thấy biết thế nào nói thẳng thế ấy, không điêu xảo dối trá… Không nói dối là giữ lòng tin đối với mọi người xung quanh.”
Hòa thượng cũng nói về nghiệp ác là một động cơ của luân hồi: “Miệng ưa nói lời dối trá, lời ác độc, lời ly gián, lời thêu dệt, là nghiệp ác của miệng vì những lời nói nầy khiến người nghi ngờ bực tức đau khổ mang tai họa, nên hiện tại hoặc vị lai mình cũng phải nhận lấy hậu quả đau khổ ấy”.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm Học viện Phật giáo tại TP HCM

Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm Học viện Phật giáo tại TP HCM

Đăng lúc: 06:19 - 08/05/2016

Hòa thượng Thích Trí Quảng, Phó Pháp chủ HĐCM, Viện trưởng Học viện thân mật tiếp đoàn.

Sáng nay (7/5), phái đoàn do ông Trương Tấn Sang, nguyên Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam làm trưởng đoàn đã có chuyến viếng thăm chư tôn đức Hội đồng Điều hành (HĐĐH) Học viện và công trình học viện - cơ sở Lê Minh Xuân (huyện Bình Chánh, TP HCM).

Hòa thượng Thích Trí Quảng, Viện trưởng Học viện cùng chư tôn đức HĐĐH tiếp đoàn.
Hòa thượng Thích Trí Quảng, Viện trưởng Học viện cùng chư tôn đức HĐĐH tiếp đoàn.
Hòa thượng Thích Trí Quảng, Phó Pháp chủ HĐCM, Viện trưởng Học viện thân mật tiếp đoàn. Tại buổi gặp gỡ, ông Trương Tấn Sang vấn an sức khỏe Hòa thượng Viện trưởng và chúc mừng GHPGVN, chư tôn đức Hội đồng Điều hành Học viện đã xây dựng công trình học viện thành tựu giai đoạn I.

Hai cây vạn niên tùng được nguyên chủ tịch nước Trương Tấn Sang trồng trước tòa nhà Hành chính của Học viện.
Hai cây vạn niên tùng được nguyên chủ tịch nước Trương Tấn Sang trồng trước tòa nhà Hành chính của Học viện.
Đáp từ, Hòa thượng Viện trưởng đã cảm ơn nguyên Chủ tịch nước và giới thiệu những nét chính về sự quy mô của công trình cũng như định hướng phát triển trong tương lai của Học viện.

Dịp này, Hòa thượng Viện trưởng cùng ông Trương Tấn Sang trồng 2 cây vạn niên tùng để đánh dấu sự thành tựu giai đoạn I của công trình Học viện PGVN cơ sở Lê Minh Xuân.

Bảo Toàn

Chung tay dẹp nạn giả sư khất thực, ăn xin

Chung tay dẹp nạn giả sư khất thực, ăn xin

Đăng lúc: 18:41 - 16/04/2016

Từ đầu tháng 3-2016, việc dẹp nạn ăn xin, giả sư khất thực phi pháp lại được đặt ra. Sở Lao động-Thương binh & Xã hội (LĐ-TB & XH) TP.HCM cùng 24 quận, huyện TP.HCM một lần nữa đã cùng họp bàn, đưa ra các biện pháp giải quyết tình trạng người ăn xin, giả sư khất thực phi pháp tràn lan lâu nay.
Sau buổi họp, các quận huyện, phường xã đã ra quân bắt đầu tổng rà soát, xử lý người ăn xin, giả sư khất thực trên địa bàn TP.HCM. Theo ghi nhận của phóng viên, trên một số tuyến đường trung tâm của TP, các đối tượng này xuất hiện ít hơn so với trước đây.

sugia.jpeg
Theo quan sát của PV Giác Ngộ cũng như phản ánh của bạn đọc, cho đến nay
sau các cuộc điện thoại thông tin về tình trạng giả sư khất thực đến đường dây nóng,
chưa thấy trường hợp nào được giải quyết - Ảnh: Hoàng Triều

Đường dây nóng “24/24”

Để có thể tiếp nhận thông tin từ người dân, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM đã thiết lập 3 đường dây nóng, gồm: 0903.959.929 (do ông Lê Chu Giang - Trưởng phòng Bảo trợ xã hội - trực tiếp trả lời), (08) 38.292.491 và (08) 35.533.258 nhằm tiếp nhận tin báo về người ăn xin, giả sư khất thực trên địa bàn TP.HCM 24/24. Bên cạnh đó, Sở cũng đề xuất chi 200.000 đồng động viên người dân báo tin và giúp địa phương tập trung các đối tượng ăn xin, giả sư khất thực.

Để xác minh lại đường dây “nóng” có thực sự “nóng” hay không, phóng viên Giác Ngộ trong vai người dân theo chân các đối tượng ăn xin giả sư khất thực trên nhiều tuyến đường TP.HCM như: 3-2 (Q.10), Huỳnh Tấn Phát (Q.7), Âu Cơ (Q.Tân Bình)... Khi phát hiện các đối tượng này, phóng viên lập tức liên hệ tới đường dây “nóng” của Sở, đều được nhân viên bắt máy, giọng nhỏ nhẹ: “đường dây nóng xin nghe”, và tiếp nhận những thông tin cũng như địa điểm mà phóng viên báo có những người ăn xin, giả sư khất thực đang hoạt động. Sau khi báo đường dây “nóng”, phóng viên tiếp tục chờ đợi “Sở” cho người xuống xử lý, tuy nhiên chờ mãi vẫn không thấy bóng dáng những người có trách nhiệm xuất hiện. Các đối tượng vẫn ung dung khất thực rồi mất hút sau đó.

Theo ông Lê Chu Giang, hiện vẫn còn nhiều khó khăn trong việc thu gom các đối tượng ăn xin, giả sư khất thực. Ông cho biết, khi nhận được thông tin qua đường dây nóng, lực lượng chức năng tới nơi thì các đối tượng đã bỏ đi, hoặc thấy bóng dáng của lực lượng quản lý họ liền lập tức trốn chạy.

Trước đó, ngày 17-2, tại buổi làm việc với Đảng bộ Công an TP.HCM, Bí thư Thành ủy TP.HCM Đinh La Thăng đã chỉ đạo gắn camera, yêu cầu quản lý người ăn xin ở khu vực trung tâm. Đây là chính sách được nhiều người dân ủng hộ. Tuy nhiên, việc này được thực hiện như thế nào, hiệu quả ra sao vẫn còn là một câu hỏi cần sớm được trả lời.

Tiếp nhận và xử lý thông tin

Bên cạnh việc tiếp nhận thông tin, điều khiến nhiều người dân quan tâm chính là quy trình xử lý của Sở LĐ-TB&XH TP.HCM đối với nguồn thông tin mà người dân cung cấp cho đường dây nóng.

Về phía Phật giáo, GHPGVN TP.HCM đã ra thông báo tạm ngưng việc khất thực và không cấp bất kỳ giấy giới thiệu nào cho các nhà sư đi khất thực. Hiện, những người khất thực trên đường phần lớn là sư giả, nên địa phương có thể dễ dàng xử lý.

Về phía chính quyền, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM đã đề nghị các quận huyện sau khi tiếp nhận thông tin phản ánh của người dân từ đường dây nóng phải lập tức chuyển tin báo về địa điểm xuất hiện các đối tượng đến các đơn vị phụ trách tại quận, huyện, phường - xã để kịp thời giải quyết. Những người có trách nhiệm tại các đơn vị sẽ mời các đối tượng này về trụ sở lập biên bản để có cơ sở xử lý. Đối với người đau yếu, bệnh tật ở ngoài đường, địa phương sẽ đưa đi chữa trị, hết bệnh sẽ cho tiền về quê.

Bài toán khó lúc này là cần phải có lộ trình và thời gian, cần phải có sự phối hợp xuyên suốt, quyết tâm cao giữa ban ngành các cấp chứ không thể ngày một, ngày hai có thể giải quyết, xóa bỏ hẳn tình trạng người ăn xin, cũng như những đối tượng giả sư khất thực, bán vé số, tăm bông để xin ăn trên địa bàn TP.

Bao giờ mới giải quyết được “nạn” giả sư khất thực, ăn xin?

Sau cuộc họp giao ban giữa các ban ngành của TP.HCM đầu tháng 3, Bí thư Thành ủy Đinh La Thăng chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan đã và đang tiến hành thực hiện quyết tâm kéo giảm vấn nạn ăn xin, giả sư khất thực trên địa bàn trung tâm TP, nhất là trong dịp cao điểm của các ngày lễ lớn, trong đó có ngày 30-4 sắp tới.

Để có thêm thông tin giải quyết nạn giả sư khất thực, xin ăn, Sở LĐ-TB&XH TP.HCM đã thiết lập đường dây nóng 24/24. Một trong 3 đường dây nóng như đã nói ở trên do ông Lê Chu Giang, Trưởng phòng Bảo trợ xã hội thuộc Sở LĐ-TB&XH TP.HCM trực tiếp tiếp nhận; ông Giang cho biết, riêng số máy này, mỗi ngày trung bình tiếp nhận 15 cuộc gọi phản ánh của người dân.

Ông Giang cũng cho biết thêm, trong thời gian qua, Trung tâm Hỗ trợ xã hội đã tiếp nhận 2.285 trường hợp ăn xin, giả sư khất thực và cơ quan chức năng đã giải quyết cho 1.866 người được hồi gia. Theo đơn vị này, giải quyết vấn nạn ăn xin, giả sư khất thực gặp khó khăn bởi quy định thời gian thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng họ tại trung tâm bảo trợ không quá 3 tháng.

Ông Giang cho rằng nguyên nhân ăn xin cứ như nấm mọc sau mưa là do “công việc nhẹ, thu nhập cao”. Chưa kể, TP.HCM là nơi có nền kinh tế phát triển, người dân sống có nghĩa tình, hay giúp đỡ, cho tiền bạc nên điều này ít nhiều cũng tạo điều kiện để người ăn xin ở các tỉnh khác tìm đến nhiều hơn. Do đó, cần có sự chung tay của toàn xã hội trong việc hỗ trợ cũng như tuyên truyền ý thức cho người dân không nên cho “tiền” khi thấy những người ăn xin, giả sư khất thực, có như vậy vấn nạn này mới có thể sớm được giải quyết.

Vũ Giang

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 12
  • Hôm nay 3,789
  • Tháng hiện tại 40,244
  • Tổng lượt truy cập 23,446,493