Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Chùa Đức Hậu thăm và tặng quà cho hội người mù tại Huyện Thanh Chương

Chùa Đức Hậu thăm và tặng quà cho hội người mù tại Huyện Thanh Chương

Đăng lúc: 18:53 - 05/11/2019

Chiều nay 5/11/2019 Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ đã tổ chức đến thăm và tặng quà cho Hội Người Mù, Huyện Thanh Chương

IMG 6415

Chùa Đức Hậu thăm và tặng quà cho miền quê nghèo xã Thanh Sơn, Thanh Chương

Đăng lúc: 19:49 - 24/07/2018

Đại đức Thích Định Tuệ đã ân cần thăm hỏi và động viên các hộ gia đình cùng nhau cố gắng lao động sản xuất....

Chuyển hóa đố kỵ

Chuyển hóa đố kỵ

Đăng lúc: 15:33 - 10/07/2017

Đố kỵ là tâm lượng hẹp hòi, khó chịu, bực bội, ganh ghét những ai có sắc đẹp, danh vọng, quyền lợi, may mắn và thành công hơn mình. Khi chưa dự vào Hiền Thánh thì ai cũng mang trong mình tâm xấu đố kỵ này. Chỉ khác nhau là người nhiều kẻ ít, người bộc lộ hết ra bên ngoài còn kẻ thì giấu nhẹm một phần hay giấu hết vào bên trong. Thậm chí ngay cả những lời chia vui chúc tụng chân thành lắm khi cũng là bề ngoài, còn nội tâm thế nào thì mỗi người tự biết.
doky.jpg
Người đời hơn thua nhau từng chút một, người tu mang tâm đố kỵ cũng chẳng phải là hiếm- Ảnh minh họa

Tâm đố kỵ ở đời thì quá rõ ràng, dễ hiểu. Điều khiến ta bất ngờ là trong đạo, người tu mang tâm đố kỵ cũng chẳng phải là hiếm. Và khó hiểu nhất là “đố kỵ Phạm hạnh”. Phạm hạnh có nghĩa là thực hành đạo đức, giới hạnh, tịnh hạnh, Thánh hạnh. Thì ra đố kỵ có mặt khắp nơi, trong môi trường tài sắc danh lợi thì có đố kỵ theo tài sắc danh lợi; trong môi trường tu học, thực hành đạo đức thì cũng có đố kỵ theo cách riêng. Nghĩa là, một người chuyên trau dồi đạo đức, thực hành giới hạnh trọn vẹn thanh tịnh, thay vì người này được tán thán, cung kính, lễ bái, cúng dường thì đôi khi lại trở thành đối tượng bị cô lập, bị gièm pha công kích, bị đố kỵ rằng “thấy vậy mà… không phải vậy”. Nói rõ ra, một người thành công về đạo đức, giới hạnh thì vẫn có thể bị đồng đạo vụng tu đố kỵ như thường.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Ta ở trong đây, không thấy một pháp nào mau đưa đến hoại diệt như là ganh ghét, đố kỵ Phạm hạnh. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy tu hành từ nhẫn, thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm12. Nhập đạo,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.140)

Thời Thế Tôn, sự đố kỵ Phạm hạnh đã xảy ra. Đơn giản vì, người có đạo đức và giới hạnh càng cao thì tứ chúng quy ngưỡng ngày càng nhiều, khiến người thiếu Phạm hạnh sút giảm tín đồ nên không vui, sinh tâm ghét ganh, đố kỵ. Theo Thế Tôn, đố kỵ có nhiều thứ bậc nhưng riêng đố kỵ Phạm hạnh rất nguy hiểm, khiến cho đạo pháp “mau đưa đến hoại diệt” nhất. Bởi lẽ, người có đạo tâm khi đối trước bậc Phạm hạnh luôn sinh tâm kính ngưỡng. Nếu xét đạo đức và giới hạnh của mình chưa bằng thì sinh tâm hổ thẹn, tự trách và răn mình cố gắng hơn. Ngược lại sinh tâm đố kỵ với bậc Phạm hạnh thì đạo tâm của mình đã hủ hóa, không chỉ riêng mình thối đọa mà đố kỵ còn khiến cho đạo tình bị sứt mẻ, đạo pháp bị tổn thương.

Thế nên, khi giác tỉnh nhận ra đố kỵ dấy khởi nơi tâm mình thì hãy nhanh chóng rải tâm từ để hóa giải. Từ là tâm yêu thương, mong cho mọi người đều tốt đẹp, an lành. Thấy rõ nguyên nhân vì sao người thành công, và vì cái gì mà ta chưa thành công? Nhờ thấy rõ mọi sự với tuệ tri cùng với vận dụng lời dạy “Hãy tu hành từ nhẫn” của Thế Tôn nên tâm đố kỵ được tưới tẩm yêu thương và nhanh chóng lắng dịu. Dặn lòng nhẫn nhịn, hãy khoan hoặc bớt đố kỵ. Mở lòng yêu thương, mong mọi người thành công từ trong suy nghĩ cho đến lời nói và việc làm. Được vậy thì tâm đố kỵ tan biến, bản thân mình an vui và mọi người cũng an vui.
Quảng Tánh

Làm chủ thời gian của chính mình

Làm chủ thời gian của chính mình

Đăng lúc: 21:18 - 24/06/2017

Dzigar Kongtrul Rinpoche sinh ra ở miền Bắc Ấn Độ, nhưng hiện sống ở miền Nam Colorado, Hoa Kỳ. Ông là sáng lập viên của Mangala Shri Bhuti, tổ chức chuyên nghiên cứu và thực hành giáo lý của dòng truyền thừa Longchen Nyingthik thuộc Phật giáo Tây Tạng.
*

Biết nhìn nhận thực tại

Ngày nay, những người ở độ tuổi bảy mươi vẫn thấy mình còn thời giờ để tiêu pha. Tôi không biết do đâu mà họ được vậy. Có lẽ vì trong các xã hội tân tiến, người ta sống khỏe hơn, luôn hoạt động và di chuyển nhiều hơn, nhờ thực phẩm tốt hơn, có nhiều thuốc bổ và nhiều phương pháp chữa bệnh hơn. Người già cũng có nhiều thứ để giải trí, để bận rộn hơn như: các tour du thuyền, các hội thảo và nhiều loại hoạt động thể lực khác. Bạn sẽ nghe họ nói, “Những người bốn mươi là người ba mươi mới, và những người năm mươi là bốn mươi mới…”. Ai cũng cố gắng để giữ được sự trẻ trung hay cái nhìn trẻ trung. Cách suy nghĩ này đã thay đổi quan điểm và cách chúng ta liên tưởng đến tuổi già.

hourglass.jpg
Việc chúng ta sử dụng thời gian như thế nào tùy thuộc vào việc ta sắp xếp thời gian,
và việc đó lại tùy thuộc vào việc ta phác họa cuộc sống của mình như thế nào - Ảnh minh họa

Khi tôi mới đến phương Tây, phần đông đệ tử của tôi đều khá trẻ, chỉ trừ một nhóm phụ nữ rất chí thành ở độ tuổi bốn mươi hay lớn hơn. Họ lập nhóm để học pháp, mà họ vui vẻ gọi nhau là nhóm Các bà lão. Khi tôi hỏi một đệ tử khác, trong độ tuổi bảy mươi, có muốn gia nhập với nhóm Các bà lão không, thì người này nổi giận. Con người thường như thế, tưởng là mọi thứ đều vĩnh viễn.

Trong các nền văn hóa truyền thống, bảy mươi đã coi là già, và người ta không có vấn đề gì khi nói lên điều đó. Các nền văn hóa này xem tuổi già là lúc để ta sửa soạn cho cái chết. Nhiều người thời tuổi trẻ có những hành động ngông cuồng, bất thiện thường bắt đầu chỉnh sửa lại, và hướng đến việc thực hành tâm linh lúc tuổi xế chiều. Thay vì tiếp tục làm điều bất thiện, họ dốc hết những năm tháng còn lại trong đời để đọc kinh, lễ sám. Tôi thấy những điều này thường xảy ra, ngay nơi bản thân tôi.

Ở Tây Tạng, khi cha mẹ già đi, con cái sẽ nói, “Cha/mẹ già rồi, hãy lo trì tụng kinh kệ, đi chùa chiền!”. Điều này có hai lợi thế: con cái biết làm thế thì cha mẹ khỏi vướng bận họ, nhưng đó cũng là do áp lực của xã hội thúc đẩy người ta chuẩn bị cho cái chết. Khi người già chuẩn bị cho điều đó; nó giúp họ ở tư thế sẵn sàng.

Biết nhìn nhận thực tại tốt hơn là bắt nó phải theo ý mình. Biết chăm sóc thân là điều khôn ngoan; ta không muốn già, không muốn bất lực trước tuổi. Ta không muốn đánh mất lòng tin yêu cuộc sống, sự nhiệt tâm. Nhưng chăm chú lo kéo dài cuộc sống hơn là chấp nhận cái chết là vô vọng. Tuổi trẻ chóng qua, rồi đến tuổi trung niên, rồi tuổi già. Tóm gọn lại là thế. Rinpoche Patrul khuyên ta nhìn sự xoay vần của cuộc sống như thời gian của một ngày: trẻ con ở buổi bình minh, tuổi mới lớn là những giờ phút của buổi sáng, trưởng thành buổi trưa, và già nua buổi hoàng hôn. Nếu bạn muốn chuẩn bị tâm thức cho cái chết, thì việc quán sát thời gian là điều nên làm.

Lập thời dụng biểu

Bản tính tôi không phải là người có óc tổ chức, nhưng mấy năm trước đây tôi nhận thấy nếu tôi không biết làm chủ thời gian, thì nó sẽ làm chủ tôi. Vì thế, giờ tôi làm đầy thời gian biểu của mình với càng nhiều pháp hành càng tốt. Tôi lên kế hoạch cho cả năm - điền đầy cả cuốn lịch với quyết tâm, rồi tôi thực hành theo đó. Tôi biết mình có tất cả bao nhiêu giờ trong ngày và tôi dành thời gian để làm các việc đó. Tôi nhận định, đây là cuộc đời tôi, nếu tôi không làm chủ nó thì ai sẽ làm đây. Tôi thấy mình suy nghĩ nhiều về thời gian, quán sát mình còn bao nhiêu thời gian và mình muốn làm gì với chúng.

Thực tế ra mà nói, ta chỉ có hai mươi bốn giờ một ngày. Vậy ta muốn dùng chúng vào việc gì? Ta cần thời gian để ngủ. Nhưng thực sự ta cần ngủ bao nhiêu tiếng? Bảy hay tám tiếng không thích hợp với ta rồi, trừ khi ta đang ở tuổi mới lớn. Đa số đều có việc làm. Ta thường phải làm cơ bản tám, chín tiếng một ngày. Vậy là ta chỉ còn lại bảy hay tám giờ. Nhưng rồi ta còn những bổn phận đối với gia đình, ta cần dành thời gian với họ. Như thế với thời gian còn lại, ta làm thế nào để tu tập trong đời sống?

Tôi là người thuộc về đêm, nên tôi hành thiền vào đêm khuya. Có người lại thích bắt đầu trước bình minh. Đó là những giờ yên tĩnh - những giờ dễ tu tập - vì người khác đang yên giấc hay có thể cũng đang tu tập. Đôi khi thực hành vào ban đêm tôi cũng cảm thấy buồn ngủ, nhưng qua giai đoạn đó, tôi tìm được nguồn năng lực mới giúp tôi hoàn tất được việc thực hành của mình. Bất cứ điều gì có thể giúp ta tập trung sẽ tạo năng lực, đem lại ý nghĩa cho cuộc sống của ta. Trước đây tôi thường bị mất ngủ, nhưng giờ khi đã có thời gian thực hành thường xuyên, tôi thường có giấc ngủ sâu.

Thiết lập mục tiêu rõ ràng

Nếu ta có nguyện vọng thực hành, ta cần thiết lập mục tiêu rõ ràng để thực hiện điều đó. Tâm lưỡng lự không giúp gì cho ta. Ở Tây Tạng có câu nói: Yi nyi te tsom. Yi nyi, có nghĩa là khi ta có hai tâm, sẽ có sự mâu thuẫn trong lựa chọn. Ta sẽ không chắc chắn nên phải làm gì. Ta có thể muốn tu tập nhưng không đủ ý chí để thực hiện điều đó.

Nhiều người muốn tu tập mà không tìm ra thời gian. Điều đó ảnh hưởng đến lòng tự trọng của họ. Trong trường hợp đó, ta cần tự hỏi điều gì đã cản trở ta thực hiện ý nguyện của mình? Ta có sống tốt không, hay chỉ lây lất qua ngày? Ta sử dụng thời gian của mình như thế nào? Ta có biết đúng, sai? Ta có hướng tham vọng của mình đến một đời sống có ý nghĩa, hay tránh né nó? Nếu đúng, thì tại sao lại như vậy?

Việc chúng ta sử dụng thời gian như thế nào tùy thuộc vào việc ta sắp xếp thời gian, và việc đó lại tùy thuộc vào việc ta phác họa cuộc sống của mình như thế nào. Một khi ta đã trả lời được những câu hỏi này, và đã quyết định rõ ràng để có thời gian thực hành trong cuộc sống, thì ta phải cố gắng hết sức hơn là để tâm chạy rông, vô tổ chức, chỉ đợi điều gì đó xảy ra cho mình.

Đề phòng sự xao lãng

Sự xao lãng ngụy trang dưới nhiều hình thức. Đôi khi ta cảm thấy như mình phải gánh vác chuyện của người khác. Nếu ta có khuynh hướng hay làm việc đó thì thế nào cũng có người bằng cách này hay cách khác, níu áo ta. Họ cần một lời khuyên, nhưng họ không thực sự lắng nghe ta. Họ chỉ muốn có chỗ để giải tỏa, trút bầu tâm sự. Họ cảm thấy căng thẳng, rồi khiến ta bị căng thẳng lây, rốt cục không có ai được lợi lộc gì. Hoặc giả, trong công việc, nếu chúng ta quá chú trọng đến chi tiết và muốn mọi thứ phải hoàn hảo, thì có thể ta chẳng bao giờ làm xong chuyện gì, mà cũng không còn thời giờ để tu tập. Chúng ta cũng có thể cảm thấy mình là người duy nhất biết làm bất cứ việc gì, nên cuối cùng là ta phải gánh vác mọi việc. Có người lại không bao giờ biết từ chối. Các hình thức gây xao lãng này còn chưa kể đến nhu cầu phải được giải trí, được tiêu khiển không ngừng của ta, cũng như những thứ xa lạ, đòi hỏi nhiều sự quan tâm mà ta mang vào cuộc sống của mình như là thú nuôi, các hệ thống giải trí cá nhân và các loại máy vi tính cầu kỳ.

Ngay cả trong các khóa tu, người ta cũng tìm đủ cách để bận rộn, để lẩn tránh việc tu tập, như mỗi ngày bỏ ra hằng giờ để lên danh sách mua sắm. Ở Ấn Độ, người ta nói, “Bạn chỉ cần hai chiếc bánh mì mỗi ngày”. Tôi không nghĩ điều đó có nghĩa là ta phải qua ngày bằng hai chiếc bánh mì, như một nhà tu khổ hạnh. Đây chỉ là ám chỉ cho sự buông xả. Thực sự chúng ta cần gì? Đã bao lần ta bị xao lãng bởi các tham vọng, bởi sự tìm tòi phương cách để đạt được chúng? Chúng ta có thể giải phóng bản thân khỏi những xao lãng này bằng cách không cần đến chúng? Dầu với lý do gì, đổ lỗi cho người khác vì sự xao lãng của mình đều không hay ho gì. Kunchyen Longchenpa đã nói, “Các tham vọng thì vô hạn; chỉ khi ta buông chúng thì chúng mới biến mất”.

Tâm cởi mở - bình an

Nếu không có mục tiêu, ta chỉ loanh quanh như một con hổ bất an, không thể tìm thấy yên ổn trong bất cứ thứ gì. Ta lăn trở trên giường, vặn truyền hình, chuyển đổi các kênh, ăn khi không đói, rồi điện thoại liên miên. Ta định làm gì thế? Ta đang cố gắng để kết nối với thế giới vật chất bên ngoài. Nhưng làm sao ta có thể làm điều đó, khi ta còn chưa thể kết nối với nội tâm mình?

Những lúc ta không cảm thấy kết nối với nội tâm là lúc tốt nhất để tu tập. Khi tâm ta không bình ổn, cũng giống như khi bị đau răng. Ta bị hành hạ, chi phối bởi tư tưởng, tình cảm và sự sợ hãi. Ta cũng nghĩ ra đủ thứ cảm xúc vật lý. Tôi đau cổ, rồi nhảy qua đau lưng, đau chân. Rồi bỗng nhiên, ta nghe tiếng nói bên tai, hay mắt ta đang ngứa? Sự thật hơi đáng ngờ, phải không bạn?

Ta cần thời gian để năng lượng bất ổn, căng thẳng này hạ xuống nơi thân. Khi thân an, tâm an. Khi tâm an, các cảm xúc an, và ta cảm nhận sự tự tại, thư giãn, hay shenjong. Khi tâm thư giãn, nó có mặt cho ta, phục vụ ta hay ít nhất cũng giúp ta hiểu việc gì đang xảy ra. Không gian của shenjong ít có biến động, nên tư tưởng, cảm xúc không thể xô đẩy, làm tổn hại ta như chúng thường làm. Tất cả những nỗi mệt nhọc tan biến đi. Tâm ta trong sáng. Thân cảm thấy nhẹ nhàng như mảy lông.

Cần có sức mạnh và sự rõ ràng

Ta cần chút ít sức mạnh để chống lại thói quen chạy theo ngoại cảnh, ngay cả khi ta đã mất khá nhiều thời gian vào đó. Đừng như chú cá heo bơi theo dòng nước, dầu đã bơi nửa đường vào miệng gấu, thay vì thối lui ra, lại nghĩ, “Dầu gì, ta cũng đi được nửa chặng đường”. Thoát ra được sự xao lãng đòi hỏi ta phải có ý chí và sự rõ ràng.

Có nhiều người nói, “Tôi quá lười và quá yêu bản thân nên không thể bỏ thì giờ tu tập”. Loại người lười biếng và thiếu ý chí như vậy sẽ chẳng bao giờ được giải thoát. Đức Phật đã nói, loài ruồi, giòi, vi trùng, nếu chúng có khả năng khao khát được giác ngộ, chúng cũng sẽ làm được. Thật đáng xấu hổ nếu điều đó xảy ra, phải không? Giòi mà còn đạt được giác ngộ huống là ta. Trong kinh nói, “Vạn pháp do duyên khởi”. Các duyên mà ta cần được tạo ra do ý chí và sự rõ ràng của dự tính, và cách ta áp dụng chúng trong đời sống.

Không phải là ta không tinh tấn. Chuông báo thức reo, 4 giờ sáng. Nhiệt độ đã xuống hàng đơn vị. Chúng ta không muốn ngồi dậy, nhưng đó là ngày thứ hai và ta sẽ phải lãnh hậu quả, nếu không ngồi dậy. Phải dậy thôi. Rồi phải quét tuyết trên cửa xe, làm ấm xe, và thẳng tới chỗ làm, ở đó chín hay mười tiếng. Phải làm những việc này mỗi sáng cũng cần chút tầm nhìn, chút ý chí và sự sáng suốt. Nếu ta có thể làm tất cả những thứ đó, chắc chắn ta sẽ tìm ra được thời gian để thực hành.

Cánh đồng xoài hiện đại

Nếu ta có thể quán sát thời gian một cách thực tế, xếp đặt thời khóa biểu, tránh sự xao lãng với ý chí, tâm sáng suốt, và suy nghĩ về những gì khiến cuộc sống có ý nghĩa, chúng ta chắc chắn sẽ tìm ra thời gian để thực hành, để thư giãn tâm. Thông thường, khi thư giãn có nghĩa là đem tâm ra khỏi những công việc hàng ngày, nằm nghỉ ngơi, xem truyền hình hay ngủ nghỉ. Thường thư giãn có nghĩa là tách ra khỏi những căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng dầu ta có bỏ ra nửa cuộc đời để ngủ vẫn chẳng bao giờ thấy thư giãn. Đó là vì ta không chú tâm vào việc thư giãn tâm.

Có gì giúp ta thư giãn hơn là sự buông bỏ những âu lo, những toan tính? Có cách gì tốt hơn là quan sát Bồ-đề tâm để giảm thiểu sự bám víu? Để giải phóng những hy vọng và sợ hãi, có gì tốt hơn là hãy để chúng khởi lên, rồi tự chúng hoại diệt một cách tự nhiên trong không gian của tâm cởi mở? Thiền tạo không gian cho mọi thứ: tất cả những hy vọng, sợ hãi, âu lo cũng như niềm vui và khát vọng. Không cần phải kiểm soát tư tưởng, vì khi thực hành, ta đã tự nguyện để chúng như chúng là - không phán xét chúng tốt hay xấu, có ích hay có hại, tâm linh hay vật chất. Có những hoạt động nào khác có thể hỗ trợ cho tâm và các phát khởi của nó theo cách này không? Chắc chắn là không.

Điều duy nhất ta cần để thực hành là tìm một nơi yên tĩnh để ngồi: một căn phòng, một ghế ngồi nơi công viên, hay chính chiếc giường của mình. Trong các kinh diễn tả một cánh đồng xoài yên tĩnh như là một nơi lý tưởng để thực hành. Đức Phật và các đệ tử của Ngài đã hành thiền ở những nơi như thế. Nếu bạn nghĩ về điều đó, đang giữa một ngày bận rộn, bất cứ một chỗ yên tĩnh nào để ngồi cũng có thể là cánh đồng xoài hiện đại.

DZIGAR KONGTRUL RINPOCHE
Diệu Liên Lý Thu Linh
(Chuyển ngữ từ Take charge of your practice, Tricycle, 5-5-2017)

Suy nghiệm lời Phật: Chẳng thể chữa trị

Suy nghiệm lời Phật: Chẳng thể chữa trị

Đăng lúc: 21:47 - 22/06/2017

Trong đường tu ai cũng biết rằng, buông bỏ hết để vượt qua các dục mới dự phần vào Thánh quả. Thế nhưng, buông bỏ là một quá trình vốn không dễ dàng vì tập khí nắm giữ quá sâu dày. Đã bao lần chúng ta thất bại, trầy trật rồi lại cố gắng vươn lên. Những tưởng buông xả những chấp thủ vi tế sâu xa của tự ngã mới khó, ai dè các món dục thô phù như danh và lợi lại cứ đeo đẳng, khiến ta thật khó dứt trừ.
ducphatday.jpg
Học Phật ai cũng hiểu, buông bỏ hết để vượt qua các dục mới dự phần vào Thánh quả

Thuở sơ cơ nhập đạo, tâm Bồ-đề dũng mãnh nên ta xem danh lợi thật phù du, hư huyễn. Rồi dần dà tháng lại ngày qua, không biết tự khi nào tâm ta thay đổi, ta bị chính mình đánh lừa. Tự huyễn danh lợi là phương tiện để hành đạo tốt hơn, phụng sự đạo pháp và chúng sinh đắc lực hơn rồi quyết nắm giữ, không hề có ý buông xả. Vướng vào căn bệnh trầm kha này, Thế Tôn nói là ‘chẳng thể chữa trị’. Hiện trạng này không phải thời mạt pháp mới có, mà ngay thời Chánh pháp của Thế Tôn cũng khá nhiều. Đề-bà-đạt-đa là một trong những trường hợp điển hình.

“Một thời Phật ở thành La-duyệt, tại vườn trúc Ca-lan-đà, cùng đại chúng năm trăm Tỳ-kheo. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các thầy có thể thấy pháp của Đề-bà-đạt-đa thanh tịnh chăng? Ngược lại, Đề-bà-đạt-đa tạo ác sâu nặng, sẽ chịu tội nhiều kiếp không thể chữa trị. Đối với pháp của Ta, chẳng thấy được một ngày mảy may điều lành có thể kể ra được. Nay Ta nói đầu mối các tội của Đề-bà-đạt-đa chẳng thể chữa trị. Ví như có người rơi vào cầu tiêu sâu, thân hình chìm lỉm, không một chỗ sạch. Có người muốn đến cứu vớt vị ấy lên chỗ sạch, họ xem khắp bờ xí và thân người đó xem có chỗ nào sạch, liền nghĩ: ‘Ta muốn nắm vị ấy kéo lên’. Họ nhìn kỹ không một chỗ sạch để có thể nắm được, liền bỏ mà đi. Như vậy, này các Tỳ-kheo, Ta xem Đề-bà-đạt-đa là người ngu si, chẳng thấy chút gì đáng nhớ, sẽ chịu tội nhiều kiếp chẳng thể chữa trị. Sở dĩ như thế vì Đề-bà-đạt-đa một mực ngu si, thiên về lợi dưỡng, tạo tội ngũ nghịch, thân hoại mạng chung sẽ sanh trong đường ác. Như vậy, này các Tỳ-kheo, lợi dưỡng sâu nặng khiến người chẳng đến được chỗ an ổn. Thế nên, này các Tỳ-kheo, đã sanh tâm lợi dưỡng hãy nên lìa bỏ. Nếu người chưa sanh, chớ khởi lòng nhiễm trước. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm11.Bất đãi,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.126)

Thì ra, cội nguồn của vấn đề là do vô minh, tâm không sạch sáng, ngôn ngữ của Thế Tôn là ‘một mực ngu si’. Liệu Thế Tôn quở trách có quá lời chăng? Chúng ta có thật si mê như Đề-bà-đạt-đa thiên về lợi dưỡng không? Bấy giờ hẳn Đề-bà-đạt-đa không chấp nhận. Hiện chúng ta cũng khó thừa nhận bởi mình học cao hiểu rộng, bằng cấp chức vụ đầy mình, có tài tổ chức lãnh đạo, chùa to Phật lớn, đệ tử và tín đồ đông… Sự thật là nếu tất cả chỉ dừng lại ở thức tri, tưởng tri, lấy trí thế gian để hành đạo thì công nghiệp của chúng ta dẫu có to lớn dường mấy cũng chỉ đem đến phước báo hữu lậu. Đó là chưa nói đến thành công càng nhiều thì tự mãn càng lớn, dính mắc danh lợi càng tăng, không khéo bỏ buông thì ‘thân hoại mạng chung sẽ sanh trong đường ác’.

Vấn đề then chốt là cần thành tựu tuệ tri và thắng tri, hằng sống với tuệ giác thiền quán để thấu rõ sự thật dukkha, ‘chiếu kiến ngũ uẩn giai không’ để vượt qua dục, xả buông danh lợi. Thế Tôn thường cảnh tỉnh người học đạo phải thấy rõ sự nguy hiểm ‘lợi dưỡng sâu nặng khiến người chẳng đến được chỗ an ổn’ đồng thời phát khởi tinh cần ‘đã sanh tâm lợi dưỡng hãy nên lìa bỏ, nếu người chưa sanh chớ khởi lòng nhiễm trước’. Trong bối cảnh vật dục danh lợi đoanh vây đời sống tu hành, để tiến đạo thì người con Phật cần nương theo kinh nghiệm của Thế Tôn: Phát huy tuệ giác để thấy rõ sự thật, phá tan vô minh si ám để thôi tự huyễn mình, thấy rõ sự nguy hiểm của lợi danh mà tinh cần buông bỏ. Buông thật sự mới bình an, đến bờ kia.
Quảng Tánh

Giao lưu lớp giáo lý Minh Tâm cùng ĐTHSXN tại chùa Đức Hậu

Giao lưu lớp giáo lý Minh Tâm cùng ĐTHSXN tại chùa Đức Hậu

Đăng lúc: 15:44 - 22/05/2017

Chiều ngày 19/5/2017, Chùa Đức Hậu long trọng đón tiếp Quý Thầy Cô và lớp học Giáo Lý Minh Tâm TP. Ban Mê Thuột do thầy Thích Hải Nguyện, Thích Hải Trung, sư cô Thích Nữ Hạnh Dung dẫn đoàn về giao lưu với các Phật tử trong Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ do ĐĐ Thích Định Tuệ trụ trì chùa Đức Hậu, ĐĐ Thích Đạo Quang thành phố Nha Trang đón tiếp. Một cuộc hội ngộ thật ý nghĩa, thắm tình đạo vị với các Phật Tử ở vùng Cao Nguyên với các Phật Tử trong Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ.


Tối ngày 19/5/2017 Đại Đức Thích Định Tuệ tổ chức đêm Thiền Trà giao lưu giữa các Phật Tử.trong lớp học Giáo lý Minh Tâm và phật Tử trong Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ Trong đêm thiền trà, các Phật Tử đều lắng đọng tâm tư và lắng nghe hơi thở của chính mình, xoa dịu những nhọc nhằn trong cuộc sống và lắng nghe nhịp tim thổn thức, được lắng nghe những lời chia sẻ của Chư Tôn Đức Tăng Ni và những bạn đồng tu . Các Phật Tử lại được cùng nhau chánh niệm, thưởng thức những ly trà nghĩa tình và trao cho nhau những năng lượng của tình thương cùng sự hiểu biết.



Trong đêm Thiền Trà, Đại Đức Thích Định Tuệ trụ trì Chùa Đức Hậu đã chia sẻ những tình cảm của mình đến với Chư Tôn Đức Tăng Ni và kính chúc các Thầy Cô pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, chúc các Phật Tử luôn được an lạc trong ánh hào quang của Chư Phật... và tu tập ngày càng tinh tấn hơn..



Sáng ngày 20/5/2017 Phật tử Đạo trang Hương Sen Xứ Nghệ giao lưu với lớp học giáo lý Minh Tâm chia sẻ những kinh nghiệm tu tập và ký hiệp ước " Hiểu và Yêu Thương ". Qua buổi giao lưu các Phật tử được các quý Thầy, cô trả lời những câu hỏi, những thắc mắc trong quá trình tu học. Đại Đức Thích Định Tuệ trụ trì chùa Đức Hậu đã chia sẻ với các Phật tử : " Thầy mong các Phật tử có mặt trong buổi sáng ngày hôm nay hãy nhớ thời khắc này, người ở Đắc Lắc người ở Nghệ An được ngồi bên nhau , được ký hiệp ước yêu thương, phát nguyện bằng trái tim và tâm hồn của mình. Đặc biệt là các quý thầy cô và các Phật tử ở Đắc Lắc đã dành cho đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ những tình cảm, khoảnh khắc, kỷ niệm được gắn bó bên nhau. Thầy mong các Phật tử cố gắng tu tập tốt hơn nữa "
buổi chiều và sáng hôm sau đoàn đã đi tham quan Quê Nội và Quê Ngoại Bác Hồ và thăm nhà tưởng niệm Đại thi hào Nguyễn Du ở Nghi Xuân Hà Tĩnh
Sau đây là một số hình ảnh của đêm thiền trà và giao lưu ký hiệp ước ( Hiểu và yêu thương )



Đại Đức Thích Hải Nguyện thay mặt quý Thầy Cô và lớp học Giáo Lý Minh Tâm cảm ơn quýThầy và Phật tử trong Đạo tràng Hương Sen Xứ Nghệ đã dành cho đoàn sự chào đón nồng nhiệt nhất , Thầy chúc các Phật tử tinh tấn tu học theo giáo lý của Đức Phật.



Đại Đức Thích Đạo Quang - MC chương trình trong đêm Thiền Trà và ký hiệp ước " Hiểu và Yêu Thương"





























Sư Cô Thích Nữ Hạnh Dung chia sẽ trong buổi giao lưu




















ĐạiĐ














kết thúc buổi giao lưu Các quý Thầy Cô và Phật tử cùng nhau ký hiệp ước " Hiểu và Yêu Thương ""










Hiệp ước ( HIỂU VÀ YÊU THƯƠNG)

Nhân dịp này Qúi Thầy Cô và lớp học Minh Tâm tặng Qùa cho Đại Đức Thích Tuệ và Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ









chụp ảnh lưu niệm





Tác giả bài viết: Hồng Nga

Làm phước không bao giờ đủ

Làm phước không bao giờ đủ

Đăng lúc: 19:25 - 04/01/2017

Làm phước không bao giờ đủ

GN - Làm phước hay vun bồi phước đức là một trong những hạnh tu căn bản của người đệ tử Phật. Nhất là với hàng Phật tử tại gia thì việc tu phước có vai trò rất quan trọng vì tương đối dễ làm, và nhờ phước đức nâng đỡ nên mọi phương diện cuộc sống trở nên thuận lợi, tốt đẹp hơn. Trong các việc phước thì bố thí, cúng dường, hộ trì Tam bảo mang đến phước báo thù thắng nhất.
a cung dang.jpg
Cúng dường chư Tăng

“Một thời Đức Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ vua Ba-tư-nặc… đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết thâm pháp cho vua, khuyến khích, làm cho hoan hỷ. Vua Ba-tư-nặc nghe thuyết pháp xong, bạch Thế Tôn: Cúi mong Thế Tôn nhận lời con thỉnh trong ba tháng, cùng Tỳ-kheo Tăng, chớ đi nơi khác.

Thế Tôn làm thinh nhận lời thỉnh của vua Ba-tư-nặc. Vua Ba-tư-nặc thấy Thế Tôn yên lặng nhận lời mời, liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy rồi lui đi. Về đến thành Xá-vệ, vua ra lệnh cho các quần thần: Ta muốn cúng dường thức ăn cho Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng trong ba tháng, cung cấp các thức cần dùng như y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men khi bệnh tật. Các ông cũng nên phát tâm hoan hỷ. Quần thần đáp: Xin vâng.

Vua Ba-tư-nặc liền cất đại giảng đường ngoài cửa cung cấm hết sức đẹp đẽ, treo giăng phướn, lọng, kỹ nhạc xướng lên vô kể, bày các ao tắm, chưng các đèn dầu, dọn các thức ăn trăm vị.

Bấy giờ Thế Tôn thấy đã đến giờ, đắp y, ôm bát, cùng các Tỳ-kheo Tăng, vây quanh trước sau vào thành Xá-vệ, đến giảng đường kia. Đến rồi Ngài lại tòa ngồi, các Tỳ-kheo mỗi vị ngồi theo thứ tự. Khi ấy, vua Ba-tư-nặc cùng các cung nhân tự tay đem thức ăn cung cấp chỗ cần dùng; suốt ba tháng không chút thiếu sót, cung cấp y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men khi bệnh tật. Thấy Thế Tôn ăn xong, vua đem các thứ hoa rải lên Thế Tôn và các Tỳ-kheo Tăng rồi lấy một ghế nhỏ đến trước Như Lai ngồi, bạch Thế Tôn:

Con từng theo Phật nghe: do gốc nhân duyên bố thí thức ăn cho súc sanh được phước trăm lần, cho người phạm giới ăn được phước ngàn lần, cho người trì giới ăn được phước vạn lần, cho tiên nhân đoạn dục ăn được phước ức lần, cho bậc hướng Tu-đà-hoàn ăn được phước chẳng thể kể, huống lại Thánh quả Tu-đà-hoàn, huống là bậc hướng Tư-đà-hàm, đắc đạo Tư-đà-hàm, huống bậc hướng A-na-hàm, đắc đạo A-na-hàm, huống bậc hướng A-la-hán, đắc đạo A-la-hán, huống bậc hướng Bích-chi Phật, đắc Bích-chi Phật, huống bậc hướng Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, huống bậc thành Phật và Tỳ-kheo Tăng, phước đó công đức không thể tính kể. Hôm nay con tạo công đức đã xong.

Thế Tôn bảo: Đại vương! Chớ có nói thế! Làm phước không nhàm chán, hôm nay cớ sao nói đã làm xong? Vì sao thế? Vì sanh tử dài lâu không thể kể…”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm 23. Địa chủ [trích],
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.401)

Căn bản của tinh thần bố thí, cúng dường theo lời Phật dạy là bình đẳng, phổ cập, không phân biệt. Nhưng được gieo duyên cúng dường với những bậc giới đức, trí tuệ, giải thoát như Đức Phật, chư vị Thánh Tăng thì phước báo vô lượng.

Trong pháp thoại này, vua Ba-tư-nặc đã hội đủ duyên lành, được cúng dường Thế Tôn và chư Thánh Tăng suốt ba tháng, dĩ nhiên phước báo của vua không thể nghĩ bàn. Tuy vậy, khi vua có ý tự mãn, xem việc làm phước của mình đã đủ, tạo công đức đã xong thì Đức Phật liền quở “Đại vương! Chớ có nói thế!”. Vì nói như thế là chưa đúng, làm phước không bao giờ đủ cả.

Sở dĩ Thế Tôn khuyến cáo đức vua không nên tự mãn “vì sanh tử dài lâu không thể kể…”. Khi chưa thành tựu giải thoát tối hậu, chúng ta vẫn tiếp tục trôi lăn trong sinh tử, nguy cơ vương vào ác nghiệp, làm tổn giảm phước đức rất cao. Nên người chưa tạo phước thì hãy cố gắng gây tạo, người đã biết làm phước thì tinh tấn làm thêm. Người đệ tử Phật nguyện làm phước không nhàm chán, không bao giờ nói đã làm xong, cho đến ngày phước trí nhị nghiêm, công viên quả mãn.
Quảng Tánh

Suy nghiệm lời Phật: Sinh nhà tôn quý

Suy nghiệm lời Phật: Sinh nhà tôn quý

Đăng lúc: 20:27 - 21/12/2016

Chúng sinh theo nghiệp mà trôi lăn trong tam giới, lục đạo không dứt. Chính sự sinh tử luân hồi miên viễn là nỗi khổ lớn của chúng sinh. Người tu học Phật pháp với mục tiêu tối hậu là vượt thoát luân hồi, chứng quả vô sinh. Trong dòng sống hiện tại, con người vì ái, thủ, hữu mà tiếp tục tái sinh để chịu khổ đau, không thoát ra được bộc lưu sinh tử.
Dù rằng, tái sinh làm trời, người hưởng phước và tiếp tục tu học là một trong những mục tiêu quan trọng của người học Phật, nhất là hàng cư sĩ chuyên tâm hộ pháp. Nhưng bốn Thánh quả (Tu-đà hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán) mới chính là đích đến của đệ tử Thế Tôn, nhất là quả vị A-la-hán, chấm dứt luân hồi sinh tử. Nên Thế Tôn không nói đến thọ sinh dù cho đó là thượng, trung hay hạ. Vì “thọ sinh là rất khổ”, “một đời hai đời còn khổ nạn, huống gì lưu chuyển mãi mãi mà có thể cam chịu”.

a phathoc.jpg

“Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy lui ngồi một bên, giây lát sau rời chỗ ngồi, bạch Phật:

- Thế Tôn thường khen hào tộc cao quý, không nói đến thấp hèn. Song, bạch Thế Tôn, con không khen tôn quý, không nói thấp hèn, chỉ nói với hàng trung lưu khiến được xuất gia học đạo.

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

- Thầy tự nói rằng không khen hàng tôn quý, không nói thấp hèn, chỉ nói hàng trung lưu được xuất gia học đạo. Nhưng nay Ta không nói về nơi thọ sinh thượng, trung, hạ. Vì sao thế? Phàm thọ sinh là rất khổ, không đủ mong muốn. Như đống phân kia chút ít còn rất hôi huống gì nhiều; nay sự thọ sinh cũng lại như vậy, một đời hai đời còn khổ nạn, huống gì lưu chuyển mãi mãi mà có thể cam chịu. Do hữu có sinh, do sinh có lão, do lão có bệnh có tử, lo buồn khổ não, có gì đáng tham ưa, bèn thành thân ngũ thạnh ấm. Nay Ta quán sát nghĩa này mà nói như thế. Một đời hai đời còn khổ nạn, huống gì lưu chuyển mãi mãi mà có thể cam chịu.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có ý muốn thọ sinh, nên phát nguyện sinh trong gia đình hào quý, không sinh nơi ti tiện. Vì sao thế? Chúng sinh bị tâm ràng buộc lâu dài, chứ không bị hào tộc ràng buộc. Này Xá-lợi-phất! Như Ta ở trong gia đình hào quý, là dòng Sát-lợi Chuyển luân Thánh vương, nếu như Ta không xuất gia học đạo thì sẽ làm vua Chuyển luân. Nay Ta bỏ địa vị Chuyển luân Thánh vương, xuất gia học đạo thành đạo Vô thượng. Còn nếu sinh trong nhà thấp hèn, không được xuất gia học đạo thì trở lại bị rơi trong đường ác.

Cho nên, Xá-lợi-phất! Nên tìm phương tiện hàng phục tâm. Như thế, Xá-lợi-phất, nên học điều này!

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm 51.Phi thường [trích],
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.571)

Tâm từ bi của Thế Tôn luôn bình đẳng. Bất cứ ai, dù cho ở hoàn cảnh nào cũng được hóa độ, trở thành đệ tử Phật và có cơ hội tu tập thành tựu giải thoát. Tuy nhiên, trong quá trình học đạo theo giáo pháp của Thế Tôn, không phải ai cũng dự phần vào các Thánh quả. Tùy theo căn cơ, tinh tấn nỗ lực cùng nhiều duyên lành khác trong tu học mà mỗi người có một kết quả khác nhau. Có người sau khi nghe pháp thoại liền chứng đắc, có người sau một thời gian tinh chuyên tu học mới dự vào Thánh quả, có rất nhiều người dù hết sức cố gắng nhưng vẫn chưa thành tựu được gì nhiều, nương vào nhân duyên tu học đời này để tái sinh vào nơi tốt đẹp mà tiếp tục cuộc tu.

Theo Thế Tôn, lý tưởng là tu tập chứng đắc Niết-bàn, giải thoát luân hồi sinh tử ngay trong đời hiện tại. Nếu chưa đạt được giải thoát, phải luân hồi tái sinh thì “nên phát nguyện sinh trong gia đình hào quý, không sinh nơi ti tiện”. Sinh trong nhà tôn quý ở đây là phải đi kèm với nguyện lực hướng về Tam bảo để tu học.

Thực tế cho thấy, cũng là người tu, nhưng người nào xuất thân với truyền thống gia đình có nền tảng đạo đức tốt, học vấn cao, kinh tế ổn, vẫn có “chất” hơn. Nói cách khác, phước báo hữu lậu cùng với hạt giống Phật pháp sẽ trợ duyên tích cực cho người tu hướng đến giải thoát.
Quảng Tánh

Thiêng Liêng Đêm Hoa Đăng Chùa Đức Hậu

Thiêng Liêng Đêm Hoa Đăng Chùa Đức Hậu

Đăng lúc: 10:53 - 19/12/2016

Đêm 15-12-2016 Tức ngày 17/11/ÂL, trong chương trình tuần lễ tu tập kỷ niệm Khánh đản Đức Phật A Di Đà, chùa Đức Hậu đã trang nghiêm tổ chức lễ cúng dường hoa đăng và thực tập quán niệm, tiếp xúc hạt giống Di Đà trong nội tâm và xây dựng Tịnh độ hiện tiền. Sau thời Pháp thoại của Đại Đức giảng sư Thích Nguyên Liên , đại chúng đã bắt đầu thực hiện nghi thức truyền đăng, toạ thiền và niệm Phật.
Trong không khí trang nghiêm sâu lắng, đại chúng đã cùng nhau thực tập tìm về tự tính Di Đà trong nội tâm, thực tập gửi năng lượng thương yêu đến với tất cả chúng sinh. Đặc biệt hơn nữa, trong đêm hoa đăng tất cả các Phật tử thuộc Đạo Tràng Hương Sen Xứ Nghệ cùng nhau gửi gắm năng lượng chánh niệm cầu nguyện cho Hương Linh thân mẫu Đại Đức Thích Đinh Tuệ là Cụ Bà Nguyễn Thị Chốn pháp danh Thánh Hộ vừa qua đời tại Tràng Bom, Đồng Nai. Phút giây quán niệm thật sâu lắng, đại chúng được nghe và thực tập lời quán niệm theo sự hướng dẫn của Chư Tôn Đức trong ban giáo Tho: " Hiểu rằng thế cuộc là vô thường nhân sinh luôn thống khổ, vì thế chúng con nguyện cố gắng tu tập chuyên cần thực hành Giáo Pháp của ngài , y giáo phụng hành theo những gì ngài đã chỉ dạy, để một ngày nào đó tất cả mọi người mọi loài trong mười phương thế giới đều được an trụ trong chín phẩm sen vàng Cực Lạc, thể nhập được tự tính A Di Đà trong chính bản thế tự tâm". Cuối thời khóa thực tập, đại chúng được Thượng Tọa Thích Nguyên Liên đại diện Chư Tôn Đức chứng minh ban lời đạo từ, sách tấn tu tập theo pháp môn Tịnh Độ chú trọng vào 3 tiêu chí: Tín, Nguyện và Hạnh . Sau khi lần lượt dâng ngọn liên đăng cúng dường Tam Bảo, đại chúng được nhận lộc, là một chiếc bánh chưng " An dưỡng " . Đêm hoa đăng kết thúc trong niềm hoan hỉ vô biên của toàn thể đại chúng , chính thức khép lại khóa tu một tuần nhân kỷ niệm Khánh Đản Đức Phật A Di Đà tại Chùa Đức Hậu.
Sau đây là một số hình ảnh:

Đối trị khủng hoảng, tìm lại bình an

Đối trị khủng hoảng, tìm lại bình an

Đăng lúc: 20:11 - 28/11/2016

Khủng hoảng tâm lý ở giới trẻ không phải là một câu chuyện mới mẻ nhưng đây cũng là thực trạng phổ biến hiện nay.
Rất nhiều cuộc điều tra trong thanh thiếu niên Việt Nam cho thấy sự khủng hoảng trong cuộc sống đang đẩy các bạn trẻ đến với bờ vực của sự tiêu cực. Vấn đề không chỉ dừng lại ở việc phản ánh thực trạng mà cả xã hội phải cùng chung tay hướng dẫn giới trẻ thoát khỏi khủng hoàng và tìm lại sự cân bằng trong cuộc sống.

anh PGTT 873.jpg
Sống chậm lại, điềm tĩnh hơn, cũng là một trong những cách giúp chúng ta tìm được
sự an nhiên trong tâm hồn. Trong ảnh, Phật tử CLB Nhân Sinh tập thiền - Ảnh: Nhân Sinh

Nhận diện khó khăn

Không ai trong cuộc sống chưa từng gặp phải khó khăn dẫn đến bị khủng hoảng tâm lý. Chỉ khác nhau ở chỗ mỗi người mỗi cảnh, mức độ nặng nhẹ khác nhau. Bàn về vấn đề này, Phật tử Thiện Nghiêm (ngụ quận 4, TP.HCM) cho biết - người cha yêu quý của anh mất đột ngột cộng thêm sau đó là những câu chuyện hiểu lầm, vu oan từ những dòng trạng thái trên trang mạng xã hội của anh đã khiến anh bị sốc và rơi vào trạng thái hoang mang, khủng hoảng tâm lý trong khoảng 6 năm.

Khác với Thiện Nghiêm, nữ Phật tử Diệu Tâm (thành viên nhóm Bước Chân Sen, chùa Long Phước, quận Bình Thạnh, TP.HCM) lại có một cách nghĩ khác. Chị nghĩ trong cuộc sống, có thuận lợi hẳn sẽ có khó khăn, nhưng sẽ không có khó khăn đến mức chưa thể vượt qua. Bởi khi thấu suốt được chân lý Nhân-Quả, chúng ta sẽ thấy khó khăn của ngày hôm nay hay của ngày mai đều có nguyên nhân của nó. Cho nên, khi khó khăn vừa khẽ chạm vào cuộc sống thì chúng ta sẽ có cách hoặc cố gắng tìm cách hay lắng nghe ý kiến từ người thân giúp tháo gỡ nhẹ nhàng, bình tĩnh, từ từ, để hạn chế ở mức thấp nhất có thể sự tổn thương.

Thật vậy, không có một khó khăn nào mà không thể vượt qua, không một khủng hoảng nào không có hồi kết. Vạn vật đều tuân theo kịch bản của thành, trụ, hoại, không và khủng hoảng tâm lý cũng vậy. Cho nên khi khủng hoảng đến, ta cứ bình tĩnh chấp nhận nó. Hạn chế tối đa việc để khủng hoảng chiếm trọn tâm trí dẫn tới những việc làm dại dột gây hại cho bản thân và những người xung quanh. Nhận diện khủng hoảng là một việc làm cần thiết, phải thấy cho được “bộ mặt” của nó để tìm nguyên nhân phát sinh khủng hoảng từ đâu mới có thể tháo gỡ từng nút thắt một.

TS.Ngô Xuân Điệp, Trưởng khoa Tâm lý học, Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM nhận định nguyên nhân chính dẫn tới khủng hoảng trong giới trẻ: “Các hệ thống phép tắc hà khắc của Khổng giáo đã bóp nghẹt sự phát triển của nhiều thế hệ Việt Nam, tạo ra sự khống chế thái quá xâm phạm trực tiếp vào quyền được tự do, tự quyết của trẻ em, tước đoạt khả năng ra quyết định của trẻ em, tạo ra thế hệ người lớn nhu nhược - dễ bị bắt nạt, nhiều thế hệ người quá nhút nhát, thiếu tính sáng tạo. Các hệ thống văn hóa Khổng giáo được hợp thức hóa trong công sở và lại gây ra tình trạng bắt nạt nơi công sở, vào gia đình gây ra bạo hành... Chương trình giáo dục quá cao so với khả năng phát triển tâm lý của người trẻ. Tình trạng giáo dục ép buộc trẻ em cũng bị chi phối bởi các cá nhân xây dựng chương trình bị chi phối nặng bởi văn hóa Khổng giáo”.

Xử lý khủng hoảng

Khoảng thời gian 6 năm bị khủng hoảng tâm lý, Thiện Nghiêm tưởng chừng như cuộc sống đi vào ngõ cụt. Nhưng sau đó, anh đã tìm đến đạo Phật, ánh sáng Phật pháp như cứu cánh, đã giúp Thiện Nghiêm thoát khỏi bóng tối khủng hoảng để tìm lại một cuộc sống an bình về cả thể xác lẫn tinh thần. Anh chia sẻ: “Tôi luôn tự an ủi mình phải mạnh mẽ, tự tin hơn bằng cách đọc những lời Phật dạy, nghe giảng pháp trên băng đĩa và trì chú niệm Phật vì tin rằng điều này có thể chuyển nghiệp xấu của mình”.

Sau một thời gian đặt niềm tin vào Phật pháp, anh đã thấu hiểu và ứng dụng được lời Phật dạy để có cách đối trị với những người đã gieo tiếng xấu cho anh, đồng thời chế ngự khủng hoảng tâm lý, đưa tinh thần trở về trạng thái an nhiên. Anh nói bài học lớn nhất mà thời gian đó cho anh là tin sâu vào luật nhân quả. Có thể anh từng gieo nhân ác với những người đó trong quá khứ nên bây giờ nhân ấy đủ duyên và bắt đầu trổ quả. Không phải chúng ta ngồi chờ cái quả trút lên mình mà khi thấy cái quả đã hiện rõ thì hãy chấp nhận nó nhưng đồng thời cũng có những hành động nhằm chuyển hóa tâm hành xấu khi quả không lành ấy biểu hiện, làm cho nó biến mất hoặc chí ít là ngăn chặn nó phát triển lớn hơn.

Đối với chị Diệu Tâm, khi gặp khó khăn chúng ta “không nên vượt qua nó” mà hãy “tìm cách thỏa hiệp, sống hòa bình, vui vẻ với nó”. Bởi mọi thứ đều sẽ theo quy luật sinh rồi diệt, không cần phải trốn chạy, cũng không cần tiêu diệt chúng. Khi chúng ta tin vào quy luật Nhân-Quả, Sinh-Diệt của thế giới tự nhiên thì lúc ấy chúng ta không còn phải loay hoay với câu hỏi “Làm sao để thoát khỏi khủng hoảng?”.

Việc cần làm là đừng cố vùng vẫy để thoát khỏi mà là đối đầu một cách hòa bình với nó, dĩ nhiên sẽ không dễ dàng, sẽ có những khó chịu nhất định. Tự lượng sức mình, cân nhắc xem khó khăn đó, liệu mình có đương đầu nổi không, nếu được thì mình nhẹ nhàng đi xuyên qua nó, còn nếu thấy cái khó này nặng quá sức mình thì mình chọn cách buông bỏ. Thách thức bản thân như ông bà mình dạy “trong cái khó, ló cái khôn”.

Tìm lại an nhiên

Vượt qua khoảng thời gian sóng gió, giờ đây anh Thiện Nghiêm đã lấy lại cân bằng trong cuộc sống và tìm được sự an tĩnh trong tâm hồn. “Bây giờ trong tâm tôi rất an. Tu là cách xử lý khổ đau, vì tôi cho rằng tu để chuyển nghiệp. Tôi tìm đến chùa để học Phật, tụng niệm kinh Phật và suy xét lời Phật dạy để tìm lại bình an cho chính mình. Không oán giận, thù hằn nữa”, Phật tử Thiện Nghiêm chia sẻ.

Tìm lại sự an nhiên cho thân tâm không phải ngày một ngày hai mà đó là một lộ trình, một sự thực tập có chủ đích, có cứu cánh rõ ràng. Chị Diệu Tâm cho hay: “Tôi tìm đến sự an tĩnh bằng sự tập luyện tâm thoát khỏi tham, sân, si, mình không muốn khi mình qua đời, mình lại nằm ôm của cải vốn không thuộc của mình, mà không dám bước tới bờ giải thoát với sự an tĩnh tuyệt đối trong tâm hồn. Sau những thất bại, những khó khăn mà mình đã chạm phải, mình xem tất cả như một người thầy, và ngôi trường giáo dục mình học tập suốt thời gian sống là trường đời”.

Sống chậm lại, điềm tĩnh hơn, cũng là một trong những cách giúp chúng ta tìm được sự an nhiên trong tâm hồn. Khi chúng ta lắng lòng mình xuống, lắng nghe hơi thở của mình, nhìn thấu nội tâm mình, chúng ta sẽ thấy cơ thể mình cũng là một trường học, và bản thân mình vừa là người thầy, vừa là học trò, chúng ta sẽ tìm được cách học phù hợp với cơ địa của mình, tùy theo định hướng, cứu cánh mình đề ra. Ví như mình, cứu cánh là sự giải thoát, an lạc thật sự tự bên trong. Và an tĩnh trong tâm hồn hiển nhiên trở thành một trong những điều quan trọng mình hướng đến để có sự cân bằng của tâm thức khi ứng xử với chính mình và thế giới bên ngoài, xung quanh mình.

Tấn Khang

Nguyên nhân & cách giải quyết khủng hoảng

Khủng hoảng tâm lý là hiện tượng tâm lý tiêu cực ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của con người. Khủng hoảng xảy ra khi cá nhân rơi vào tình trạng sốc tâm lý liên quan đến hoàn cảnh bên ngoài: chiến tranh, động đất, thiên tai, tai nạn thảm khốc, mất người thân... Cũng có thể liên quan đến cách giáo dục của gia đình gia trưởng, ép buộc, cấm đoán, lạm dụng, khống chế hành vi thái quá và lặp đi lặp lại nhiều năm hay suốt đời; tệ nạn bắt nạt học đường, bắt nạt công sở; bắt cóc, đói nghèo, buôn người, khủng bố, thất bại làm ăn, bạo hành, thất tình... Các cá nhân rơi vào hoàn cảnh trên có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng tâm lý.
Ở Việt Nam hiện nay giới trẻ và trẻ con rơi vào khủng hoảng tâm lý khá nhiều do cách giáo dục quá gia trưởng của cha mẹ, bị ép học (trẻ con học quá nhiều và kiến thức chương trình phổ thông quá cao so với khả năng phát triển của trẻ), bắt nạt học đường, bắt nạt nơi công sở, cậy quyền thế khống chế người khác, bạo hành thể xác và tinh thần...

Làm gì khi người thân bị khủng hoảng tâm lý?

- Cần nghiêm túc tôn trọng, lắng nghe, thấu hiểu, hỗ trợ giới trẻ phát triển.

- Chương trình giáo dục cần được nghiêm túc xem xét lại và được đề xuất khi đã qua các nghiên cứu khoa học nghiêm túc.

- Cần giúp họ đương đầu đối mặt để khắc phục.

- Cần được thăm khám tâm lý để được hỗ trợ.

- Những liệu pháp tâm linh như thiền, đi chùa tụng kinh... sẽ mang lại một số hiệu quá nhất định, nhưng phải thông qua chuyên gia trị liệu hướng dẫn.

TS.Ngô Xuân Điệp
(Trưởng khoa Tâm lý học Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM)
T.K ghi

Biết mình để sống đúng

Biết mình để sống đúng

Đăng lúc: 19:41 - 17/10/2016

Lời Phật không dễ nghe – tôi hiểu điều này và trân quý hết thảy những gì mình may mắn được biết và Phật pháp trong hành trình nhận thức tìm cầu gian nan. Sống càng nhiều, xem đi xem lại trước tác nổi tiếng của nhà văn Ngô Thời Ân bản in sách hay kịch bản phim tôi càng thấm thái hành trình gian khó của Thầy trò Đường tăng lồng bên trong tính hiện thực cao; cầu Đạo và đạt Đạo là chuyện không hề giản đơn. Cuộc đời và sự nghiệp tư tưởng của Đức Chí Tôn là minh chứng vĩ đại nhất.


Biết mình là ngộ
Nhà quân sự lớn của Trung Hoa, Tôn Tử, đã có đúc kết sâu sắc “biết mình biết người trăm trận trăm thắng”, đó là một chân lý chẳng riêng gì với quân sự - chính trị.

Sự biết mình biết người trong Phật giáo không trùng khít với cách đặt vấn đề của Tôn Tử. Biết người thì đã rõ: đối tượng nhận thức từ thiên nhiên đến xã hội trong mọi chiều không gian – thời gian là vô cùng to lớn, dù vậc vĩ nhân xuất chúng hay khoa học gia thông thái nhất cũng thừa nhận đối tượng nhận thức ấy là khôn cùng và khiêm cung thừa nhận sự hữu hạn của nhận thức cá nhân. Ngày nay chúng ta thấy bao nhiêu trung tâm nghiên cứu trên khắp thế giới, bao nhiêu nhà khoa học miệt mài ngày đêm vắt óc tiếp cận các đối tượng nhận thức song công việc không hề vơi, cái mới cái chưa biết luôn tít tắp ở phía trước. Đấy là nói đến nội hàm “biết người” – vật ngoài thân.

Biết mình- một sinh linh nhỏ bé như hạt cát trên sa mạc nhưng lại không hề dễ hơn chuyện biết vạn vật bên ngoài. Thân tâm ta vô thường vận động mải miết trong từng sát na, biến hiện vô chừng thách thức của chính ta và tất nhiên- mọi người có quan tâm đến ta. Một bạn là hành giả trên đường học Phật đã viết rất hay: biết người là khôn, biết mình là ngộ. “Ngộ” là biệt ngữ nhà Phật chỉ sự thấu suốt rốt ráo hoàn toàn và viên mãn về nhận thức, vượt lên khái niệm biết thông thường. Nhưng muốn “ngộ” đâu có dễ, mấy ai dám vỗ ngực xưng tên: tôi ngộ rồi? Khó lắm.

Đọc lịch sử và theo dõi thời sự ai không căm giận và bức bối khi những tên tội phạm thâm ác nhất, dã man nhất đã cãi chày cãi chối đến cùng tại các phiên tòa cho dù tội rõ mười mươi. Người ta có thể đặt câu hỏi: họ không nhận thức được tội hay .... Số tội phạm tự thú và nhaanh chóng nhận tội, sám hối cũng có nhưng không nhiều, số chạy trốn tội vẫn chiếm số đông khiến các nhà điều tra và luật sư- báo chí luôn có nhiều việc để làm, thực té cho thấy có không ít tội phạm không thừa nhận hành vi họ là tội, có khi cho đến lúc chấm dứt sự sống ở cọc bắn! Đấy là ván đề đáng để các nhà tội phạm học và tâm, lý học nghiên cứu sâu.

Phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh Đức quốc xã diễn ra không dễ dàng, và gần đấy quốc tế cũng mệt mỏi với nỗ lực kết tội diệt chủng rõ mười mươi và kinh tởm khi tập đoàn Pol- Pot pở CPC không thừa nhận chúng có tội với hàng triệu nhan mạng đồng bào mình. Đấy, đâu có giản đơn, nói gì chuyện trộm cắp vặt hay giết ..vài mạng người! Có lẽ vì điều đó, tính chất ấy, mà nhân loại vẫn duy trì bàn tay sắt với các nhà tù và công cụ cảnh sát hùng mạnh để cưỡng bức các hành vi xâm phạm luật pháp và đạo đức khi mà ý thức đạo đức tự giác gian nan tồn tại ở thế gian này.

Biết người- biết vật ngoài thân, hãy cố gắng học tập và suy nghĩ nhiều; biết mình hãy tự quán chiếu tự thân tâm ta và chiêm nghiệm trong từng sát na sự sống quý báo. Người ta- để điều khiển phuwong tiện đơn giản là xe gắn máy phải học và thi mới điều khiển được, nhưng để sống một cách có hiểu biết, có khi nào chúng ta quên học để hiểu chính mình hay không? Phật giáo giúp bạn làm việc đó rất tốt: tu học để ngộ. ..và đấy là đóng góp vĩ đại của tôn giáo này cho nhân loại ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi..


Thành Công

Thế nào là tự nhiên

Thế nào là tự nhiên

Đăng lúc: 22:23 - 09/10/2016

Có lẽ chúng ta nghĩ rằng, cuộc sống bình thường và cách hành xử hằng ngày của mình là tự nhiên, còn tu học hay thiền tập là “mất tự nhiên” và ta sẽ không còn thích hợp với cuộc sống này nữa.


Thế nào là tự nhiên
Trong những buổi chia sẻ về thiền tập, tôi thấy người ta thường đặt câu hỏi là khi ta bước chân vào con đường tu học, khi ta bắt đầu tập thiền, chúng có làm cho cuộc sống của mình trở nên mất tự nhiên chăng? Có làm cho ta mất đi sự nhanh nhẹn không? Ta có còn biết xử lý những vấn đề trong cuộc sống cho được hiệu quả không? Hay nói cách khác, cuộc sống của ta có còn được “tự nhiên” như xưa chăng?

Thế nào là sự tự nhiên
Nhưng thế nào mới là tự nhiên? Ngài Ajahn Chah có một chia sẻ khá thú vị về vấn đề này.
“Một cái cây mọc trong rừng là tự nhiên. Nhưng khi ta đốn xuống đem về xây nhà, ta còn gọi cây đó là ‘tự nhiên’ không? Và khi ta dùng gổ ấy để xây nhà cho người ta ở, thì nó lại có nhiều giá trị cho chúng ta hơn. Như một con chó chạy đây đó tìm kiếm thức ăn, khi ta thảy cho nó một món gì, chúng nhào lại dành giựt với nhau. Điều đó ta cho là tự nhiên phải không! Nhưng ta có muốn tự nhiên như thế không?
Sự tự nhiên thật sự chỉ có thể hiểu được với một cái thấy sâu sắc. Sự tự nhiên này nằm ngoài những thói quen, điều kiện, và sự sợ hãi của ta. Nếu ta cứ buông thả, để cho mình sống theo sự ‘tự nhiên’ của ý muốn, sở thích của mình, mà trong đó tiềm tàng những tham đắm, si mê, ta sẽ bị đau khổ theo sự vận hành của luật nhân quả. Thiền tập, giúp cho sự hiểu biết và tình thương của ta phát triển, và nhờ vậy mà ta có thể thấy rõ được hình tướng chân thật của mọi vật, theo lẽ tự nhiên.”
*** Chỉ làm công việc của mình
Nhưng để cho sự vật được tự nhiên cũng không có nghĩa là ta buông xuôi và không làm gì hết, mà là hành động với một tuệ giác. Ngài Ajahn Chah nói,
“Bạn có để ý rằng mỗi sự vật tự nó có một lối phát triển riêng không. Khi ta đã cố hết sức mình rồi thì ta hãy để cho luật tự nhiên, nhân quả vận hành theo luật của nó. Ta bao giờ cũng phải cố gắng, tùy theo sức của mình, nhưng tuệ giác hay niềm vui đến với ta mau hay chậm, điều đó hoàn toàn không tùy thuộc vào mình.
Cũng như khi bạn trồng một cây, ta không thể nào bắt buộc cây mọc mau hay chậm được. Cây có nhịp độ phát triển riêng của nó. Bổn phận riêng của bạn là đào đất, tưới nước, bón phân, chăm sóc nó. Và bạn cũng chỉ có thể làm được bấy nhiêu thôi. Còn sự phát triển là tùy thuộc vào cây. Nhưng nếu bạn cứ làm như thế, bạn đừng lo, cây bạn trồng sẽ xanh tươi, sẽ phát triển.
Nhưng bạn phải biết phân biệt giữa công việc của mình làm và công việc của cây. Công chuyện của cây hãy để yên cho nó, còn bạn hãy quan tâm đến bổn phận của chính mình. Nếu bạn không thấy rõ được điều ấy, bạn sẽ đi bắt cây phải mọc nhanh lên, rồi đâm hoa, nở nhụy, kết trái theo ý muốn của bạn. Đó là một cái nhìn, quan niệm sai lầm, dẫn ta qua biết bao nhiêu phiền não, khổ đau. Làm gì cũng vậy, nhất là trên đường tu tập, hãy thực hành cho đúng với sự thật, phần còn lại để cho sự vận hành của pháp, luật nhân quả phân xử.
Hiểu được như vậy, cho dù con đường của bạn đi có dài bao nhiêu, dầu ở bất cứ nơi đâu, bạn lúc nào cũng sẽ được an vui.”
Tôi nghĩ ta có thể mang lời khuyên ấy vào ngay trong cuộc sống của mình. Một bài học kham nhẫn trước những phiền não và khó khăn trong cuộc đời, “hãy thực hành cho đúng với sự thật, phần còn lại để cho sự vận hành của pháp.” Và với sự kham nhẫn bằng tuệ giác ấy thì dầu bất cứ trong hoàn cảnh nào, ta cũng sẽ có an vui…

Nguyễn Duy Nhiên

Chết do tai nạn sẽ tái sinh về đâu?

Chết do tai nạn sẽ tái sinh về đâu?

Đăng lúc: 21:51 - 30/09/2016

Những cái chết bất thình lình, bất đắc kỳ tử, đột tử do các tai nạn thật oan uổng nhưng luôn rình rập, đe dọa con người. Trong các trường hợp này, sự chết ập đến rất nhanh và đa phần các nạn nhân đều hoảng loạn trước khi chết.



Một thời, Thế Tôn trú giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigroda. Rồi Mahànàma đi đến, sau khi đảnh lễ, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:
Kapilavatthu này, bạch Thế Tôn, rất phồn vinh, dân cư đông đúc, quần chúng chen chúc, chật hẹp. Bạch Thế Tôn, sau khi hầu hạ Thế Tôn hay các Tỷ kheo đáng kính, vào buổi chiều, con đi vào Kapilavatthu, con gặp con voi cuồng chạy, con gặp con ngựa cuồng chạy, con gặp người cuồng chạy, con gặp cỗ xe lớn cuồng chạy, con gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy. Trong khi ấy, bạch Thế Tôn, tâm con nghĩ đến Phật,Pháp và Tăng bị hoang mang. Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: Nếu lúc ấy con mệnh chung, thời sinh thú của con là gì, sinh xứ đời sau là chỗ nào?

Chớ có sợ, này Mahànàma! Không ác là cái chết của ông! Này Mahànàma, với những ai đã lâu ngày tâm tu tập trọn vẹn về tín, về giới, về sở văn, về thí xả, về trí tuệ; với những người ấy, dầu sắc thân này bị vô thường phá hoại, tan nát, hoại diệt, nhưng nếu tâm vị ấy được tu tập lâu ngày trọn vẹn về tín, giới, sở văn, thí xả và trí tuệ thì tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng.

Ví như, này Mahànàma, một người nhận chìm một ghè dầu vào trong hồ nước sâu và đập bể ghè ấy. Ở đây, các mảnh ghè vì chìm xuống nước nhưng dầu thì nổi lên, trồi lên trên. Cũng vậy, với ai đã lâu ngày tâm được tu tập trọn vẹn về tín, giới, sở văn, thí xả và trí tuệ; với những người ấy, dầu sắc thân này bị vô thường phá hoại, tan nát, hoại diệt, nhưng nếu tâm vị ấy được tu tập lâu ngày
trọn vẹn về tín, giới, sở văn, thí xả và trí tuệ thì tâm của vị ấy thượng thặng, đi đến thù thắng.

LỜI PHẬT DẠY TRONG KINH TẠNG NIKÀYA 343
(ÐTKVN, Tương Ưng Bộ V, chương 10, phẩm Saranàri,
phần Mahànàma [1], Nxb Tôn Giáo, 2002, tr.539)

LỜI BÀN:
Cuộc sống của con người luôn đồng hành với vô vàn biến động, bất trắc. Thiên tai, địch họa, bệnh tật cùng với các tai nạn lao động, giao thông, hỏa hoạn… từng phút, từng giây đã cướp đi rất nhiều sinh mạng. Thân người thật mong manh, dễ vỡ, dù thận trọng đến mấy thì không ai dám xác quyết rằng ta sẽ an toàn trong những giây phút tiếp theo.

Những cái chết bất thình lình, bất đắc kỳ tử, đột tử do các tai nạn thật oan uổng nhưng luôn rình rập, đe dọa con người. Trong các trường hợp này, sự chết ập đến rất nhanh và đa phần các nạn nhân đều hoảng loạn trước khi chết. Ðối với người ít tu tập thì chính điều này đã tạo ra cận tử nghiệp bất thiện, ảnh hưởng không tốt đến xu hướng tái sinh.

Tuy nhiên, theo tuệ giác của Thế Tôn, những ai đã tu tập lâu ngày trọn vẹn về tín, giới, sở văn, thí xả và trí tuệ thì dẫu bị hoang mang, không giữ vững chánh niệm trước lúc chết do tai nạn quá bất ngờ nhưng với nền tảng tu tập vững chắc, trọn vẹn đối với các thiện pháp, nhờ thiện nghiệp sâu dày sẽ giúp họ đi đến chỗ thù thắng, tái sinh vào cõi lành, không hề bị đọa lạc.

Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp. Sự chuẩn bị này sẽ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa thiết thực cho đời sống hiện tại và cả những cái chết bất ngờ, nếu có, ở tương lai.

Quảng Tánh

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 12
  • Hôm nay 1,938
  • Tháng hiện tại 38,393
  • Tổng lượt truy cập 23,444,642