Hương Sen Xứ Nghệ

Hương Sen Xứ Nghệ Tỏa Ngát Đất Trời
Sử dụng ái ngữ và lắng nghe sâu

Sử dụng ái ngữ và lắng nghe sâu

Đăng lúc: 20:36 - 31/03/2018

Khi truyền thông bị cắt đứt hay bị bế tắc, chúng ta khổ đau. Khi không có ai lắng nghe và hiểu ta, ta sẽ trở thành trái bom sắp nổ. Lắng nghe với tâm từ bi mang đến cho ta nhiều trị liệu. Đôi khi, chỉ cần mười phút lắng nghe sâu là chúng ta có thể được chuyển hóa và có lại nụ cười trên môi

Lộ trình thành đạo của Bồ-tát Siddhartha

Lộ trình thành đạo của Bồ-tát Siddhartha

Đăng lúc: 14:56 - 02/01/2017

Đêm Bồ-tát Siddhartha vượt thành xuất gia, cả hoàng thành Kapilavatthu chìm trong im ắng và hoang lạnh. Không khí chia ly buồn thương man mác như bao trùm khắp các ngã đường của kinh thành mỗi nơi Ngài đi qua. Bồ-tát Siddhartha cảm nhận rất rõ ràng dù Ngài không hề ngoái lại.


Siddhartha quyết tâm ra đi với tất cả nhiệt huyết của tuổi xuân, quyết tìm ra chân lý để giải quyết vấn đề khổ đau sinh tử cho mình và cho cả muôn loài.
Lộ trình thành đạo của Bồ-tát Siddhartha
Lộ trình thành đạo của Bồ-tát Siddhartha
Sau khi vượt sông Anomà, Siddhartha cởi hoàng bào, cắt tóc trao cho Channa đem về trình báo phụ hoàng, tạm biệt người hầu cận trung thành và ngựa Kanthaka yêu quý, Ngài nhắm rừng xanh thẳng tiến. Người thanh niên, vị đông cung thái tử đã để lại phía sau tất cả dư âm của một đời sống vương giả, hiện thân làm đạo sĩ lang thang trong rừng xanh núi thẳm, với lộ trình phía trước dường như vô định, chưa biết về đâu.

Năm năm tầm sư học đạo, bấy giờ Bồ-tát còn được gọi là đạo sĩ Gotama đã gặp hai vị thầy nổi tiếng đương thời, đó là Alàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta. Tại đạo tràng của đạo sư Alàra Kàlàma, Bồ-tát Siddhartha đã chứng được Vô sở hữu xứ, một thiền chứng thâm sâu thuộc tầng thứ ba của Tứ không định. Đạo sĩ Gotama được mời ở lại để lãnh đạo, dẫn dắt đồ chúng nhưng Ngài thấy rằng: “Giáo lý này không dẫn đến buông xả, không tận diệt ái dục, không dẫn đến chấm dứt, không dẫn đến thanh bình an lạc, trực chứng, giác ngộ và Niết Bàn” nên từ giả ra đi.

Rời Alàra Kàlàma, Bồ-tát lần tìm đến với đạo sư Uddaka Ràmaputta. Tại đây, đạo sĩ Gotama đã chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ, thiền chứng cao nhất trong tam giới và trong tất cả các đạo sĩ đương thời. Uddaka Ràmaputta cũng thỉnh cầu đạo sĩ Gotama ở lại lãnh đạo đồ chúng nhưng Bồ-tát vẫn thấy rằng thiền chứng này tuy rất thậm thâm nhưng vẫn chưa đạt đến giác ngộ và Niết-bàn, nên giả từ ra đi.

Với thời gian dài đến năm năm, tuy không đạt được giác ngộ tối hậu nhưng Bồ-tát Siddhartha đã thành tựu kinh nghiệm về thiền định, nhất là thiền Chỉ với các thiền chứng của Tứ không định rất sâu xa, tịch tịnh. Lúc rời xa vị thầy Uddaka Ràmaputta danh tiếng nhất, kỳ thật Bồ-tát cũng không biết phải nương tựa vào ai. Trong tận cùng của niềm cô độc, tiếng gọi khổ hạnh bỗng trở nên réo rắt gọi mời. Trong tín niệm đương thời, các đạo sĩ luôn đề cao khổ hạnh, xem đó là cửa ngõ duy nhất để diệt trừ tất cả tội lỗi cũng như phiền não, mở toang cánh cửa u tối vô minh, thành tựu giải thoát tối hậu.
Những khu rừng xanh tốt và thâm u xứ Uruvela là thánh địa của những đạo sĩ khổ hạnh. Đạo sĩ Gotama tìm đến để thực hành khổ hạnh cùng với năm người bạn đồng tu, nhóm đạo sĩ Kondanna. Thêm sáu năm trường khổ ải, đạo sĩ Gotama đã tận lực đi theo con đường khổ hạnh, tự đọa đày. Ngài tinh tấn đến độ vượt thắng tất cả mọi hình thức khổ hạnh của các đạo sĩ đương thời, có thể nói là bậc đệ nhất khổ hạnh và đỉnh cao là ngấp nghé bờ vực của sự tự hủy diệt. Trong tình trạng sắp đối diện với cái chết, đạo sĩ Gotama chợt nhận ra rằng: Khổ hạnh không đưa đến giác ngộ. Đời sống vương giả của bậc đế vương hưởng thọ dục lạc là chìm đắm trong sanh tử thì đã đành nhưng đời sống khổ hạnh đến tận cùng cũng chỉ làm thân thể suy kiệt, tinh thần héo úa và nhất là bế tắc trong việc khai mở tuệ giác, chỉ phí công vô ích mà thôi.

Bồ-tát Siddhartha tiếp tục trầm tư về con đường đưa đến giác ngộ. Có một đạo lộ nào khác nữa chăng? Nhớ đến thời thơ ấu, trong buổi lễ hạ điền Ngài đã thể nhập Sơ thiền, một trạng thái hỉ lạc do ly dục sanh. Một ý tưởng sáng chói chợt hiện ra nơi Ngài là hướng nội và xả ly. Đạo sĩ Gotama liền quyết định từ bỏ khổ hạnh, thọ dụng bát sữa của Sujata, tắm rửa ở dòng sông Neranjara, bắt đầu một phương pháp thực tập hướng nội theo tinh thần Trung đạo, tránh xa hai cực đoan. Sau khi sức khỏe được hồi phục, tinh thần minh mẫn, định tỉnh trở lại, Bồ-tát Siddhartha đến cội bồ-đề hạ quyết tâm thiền định.
Trong lúc Bồ-tát phát đại nguyện dù thịt nát xương tan, nếu chưa giác ngộ thì không rời khỏi cội bồ-đề thì nhóm đạo sĩ Kondanna từ bỏ Ngài ra đi. Họ khinh ghét Ngài vì đã thối thất, không đi đến tận cùng con đường khổ hạnh. Còn lại một mình trong rừng thiêng nước độc, bốn bề hoang lạnh, đối diện với vô vàn hiểm nguy, Bồ-tát thể nhập thiền định với quyết tâm sắt đá, ý chí kim cương. 49 ngày đêm tọa thiền dưới cội bồ-đề là cuộc chiến hàng phục nội ma và ngoại chướng vô cùng cam go và cuối cùng Ngài đã chiến thắng.

Trong đêm cuối cùng, trước khi tuệ giác bùng vỡ, kinh sách ghi rằng Bồ-tát hướng đến giác ngộ tối hậu bằng cách tuần tự nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Trên nền tảng Tứ thiền, Bồ-tát vận dụng “tâm định tỉnh, thanh tịnh, không còn ô nhiễm, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, dễ xử dụng, giác tỉnh, vững chắc và không thể lay chuyển”, hướng tâm ấy về tuệ giác “Hồi nhớ những kiếp sống quá khứ”. Ngài liền nhớ lại nhiều kiếp sống quá khứ với đầy đủ các chi tiết. Ðó là tuệ giác đầu tiên, Túc mạng minh, Bồ-tát Siddhartha chứng ngộ vào lúc canh Đầu, đêm Thành đạo.
Tuệ giác và tịnh lạc đã phát sanh, nhưng Bồ-tát vẫn giữ chánh niệm, tự giác tỉnh, tiếp tục hướng tâm ấy về “Sự hiểu biết hiện tượng sanh và diệt của chúng sanh”. Ngài thấy rõ chính hành vi tạo tác của mỗi người là tác nhân đưa họ sanh tử luân hồi trôi lăn trong ba cõi. Bồ-tát chứng Thiên nhãn minh, tuệ giác thứ hai vào canh Giữa, đêm Thành đạo.
Ngài tiếp tục hướng tâm ấy đến “Tuệ hiểu biết sự chấm dứt các lậu hoặc”. Vào canh Cuối của đêm Thành đạo, lúc sao Mai vừa mọc, Bồ-tát chứng được Lậu tận minh. Màn đêm tăm tối của dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu đã bị phá tan và trí tuệ bùng phát. Ngài biết rằng: “Ta đã được giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại đời này nữa”. Ngài chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đây, Ngài được tôn xưng là Đức Phật với mười danh hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật-Thế Tôn.
Trải qua vô lượng kiếp hành Bồ-tát đạo, và trong kiếp hiện tại Bồ-tát Siddhartha cũng phải bao phen khó nhọc, dám hy sinh cả thân mạng mới có ngày huy hoàng, thành Bậc Giác Ngộ, Thế Tôn, Phật Thích Ca Mâu Ni dưới cội bồ-đề.
Có thể xem Tam minh (Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh) là nội dung chứng ngộ của Bồ-tát Siddhartha trong đêm Thành đạo. Tam minh là tuệ giác của thiền Quán được Đức Phật phát triển và thành tựu dựa trên nền tảng thiền Chỉ của Tứ thiền. Chính sự khám phá này của Thế Tôn, về sau đã trở thành nguyên tắc cơ bản cho sự tu tập và thăng chứng của các Tỷ-kheo đệ tử.

Kinh Đại Sư Tử Hống (Trung Bộ I) tóm tắt lộ trình tu tập của vị Tỷ-kheo bằng cách chứng nhập từ Sơ thiền đến Tứ thiền, rồi từ Tứ thiền chuyên tâm tu tập thiền Quán vô ngã, vô thường, loại trừ mười kiết sử để lần lượt chứng đắc bốn Thánh quả và đạt Niết-bàn tối hậu.

Có một đạo lộ khác để thành tựu giác ngộ là từ Tứ thiền, hành giả tiếp tục đi sâu vào Tứ không định. Tuy nhiên, Thế Tôn thường cảnh tỉnh phải xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ để nhập cảnh giới Diệt thọ tưởng định trước khi vào Niết-bàn tối hậu. Tốt nhất là nên dừng lại ở Vô sở hữu xứ, rồi tu tập Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỉ, Xả) để băng đến Diệt thọ tưởng định trước khi vào Niết-bàn tối hậu (Thích Chơn Thiện, Tăng già thời Đức Phật, tr.229).
Như vậy, dù Bồ-tát Siddhartha đã trải qua vô lượng kiếp tu tập Bồ-tát đạo, mang trong mình năng lực và bản nguyện của vị Bồ tát Nhất sinh bổ xứ nhưng nội dung tu tập và chứng ngộ của Ngài thật cụ thể, rõ ràng mà hàng đệ tử hậu thế có thể lần theo dấu xưa để thành tựu Thánh quả A-la-hán.
Mặt khác, Tứ thiền và Tứ không định tuy là những thiền chứng của ngoại đạo hoặc là những dạng thức thiền Chỉ, theo Phật giáo, nhưng có vai trò rất quan trọng, làm nền tảng cho thiền Quán để phát huy tuệ giác nhằm thành tựu giải thoát, chứng đắc Niết-bàn.
Chính thiền Quán với tuệ minh sát có năng lực soi chiếu phá tan si ám về tự ngã, thường hằng để thấu triệt sự thật vô ngã, vô thường của vạn pháp đồng thời làm sụp đổ những kiết sử căn bản vốn là thành trì của sanh tử luân hồi nhằm chứng đạt giải thoát tối hậu, chính là phát kiến vĩ đại của Bồ-tát Siddhartha.
Nếu không có phát kiến thiền Quán thì Bồ-tát Siddhartha không thể thành đạo, thành Phật cũng như không có đạo Phật ở thế gian này.

Cho nên, Phật không thành đạo mà chỉ có Bồ-tát Siddhartha thành đạo. Và thiền định Chỉ-Quán từ ngàn xưa cho đến ngàn sau vẫn là tinh túy, cốt tủy của pháp hành trong Phật giáo có tác dụng chuyển hóa, đưa hành giả từ phàm phu lên Thánh vị.


Quảng Tánh / Phật học đời sống

Nguồn cơn của sự giận dữ và mối lo ngại chữ “nhẫn” chỉ còn để trang trí

Nguồn cơn của sự giận dữ và mối lo ngại chữ “nhẫn” chỉ còn để trang trí

Đăng lúc: 20:57 - 04/11/2016

Có vẻ chữ "nhẫn" ngày nay đã trở nên một vật trang trí đơn thuần như ảnh diễn viên. Nhìn quanh ở ngoài đường, chúng ta cảm thấy rõ: Căng thẳng, cáu bẳn, bực bội là cảm xúc chủ đạo. Báo chí cảnh báo về bạo lực học đường gia tăng, các nhà văn hoá lo ngại người Việt trở nên “ưa giao lưu bằng nắm đấm”.

Bạo lực thanh thiếu niên bắt nguồn từ... gia đình
Bạo lực học đường và trách nhiệm của người thầy
Bạo lực học đường, một vấn nạn phải được giải quyết từ căn cơ
Hệ thống giá trị truyền thống của người Việt vốn coi trọng trạng thái tâm lý và cảm xúc cân bằng. “Đại học” - một trong những cuốn sách kinh điển của Nho giáo, viết: "Tâm yên tĩnh rồi, lòng mới ổn định. Lòng ổn định rồi, suy nghĩ sự việc mới có thể chu toàn. Suy nghĩ sự việc chu toàn rồi, mới có thể xử lý, giải quyết công việc được thỏa đáng”. Thái độ và phong cách “trung dung”, được định nghĩa là sự ôn hòa, cân bằng, không thái quá, cũng được coi là kim chỉ nam của người quân tử. Ngược lại, “kẻ tiểu nhân thì không hề lo sợ, nể nang hay e dè ai hết, nên cách nói năng và hành động của kẻ tiểu nhân không thái quá thì cũng bất cập”.
Có được cái tâm an lành cũng là một đích lớn trong tu tập Phật giáo. Mọi người tự căn dặn “chín bỏ làm mười”. Mỗi dịp Tết, người ta vẫn nô nức kéo nhau đi xin ông đồ chữ Nhẫn để treo trang trọng trong nhà.
Nhưng có vẻ những chữ Nhẫn này đã trở nên một vật trang trí đơn thuần như ảnh diễn viên. Nhìn quanh ở ngoài đường, chúng ta cảm thấy rõ: Căng thẳng, cáu bẳn, bực bội là cảm xúc chủ đạo. Báo chí cảnh báo về bạo lực học đường gia tăng, các nhà văn hoá lo ngại người Việt trở nên “ưa giao lưu bằng nắm đấm” và dự báo về “cái chết của sự hiền lành”. Trong dịp Tết Nguyên Đán 2016, hơn 5.000 người nhập viện vì đánh nhau, tăng 25% so với 4 năm trước. Đặc biệt, khi ở trên mạng, nhiều người nhanh chóng biến thành những đứa trẻ 3 tuổi không kiểm soát được mình.

Nguồn cơn của sự giận dữ và mối lo ngại chữ “nhẫn” chỉ còn để trang trí ảnh 1
Người dân hiếu kỳ tụ tập xem 2 nữ sinh đánh nhau tại quận 6, TPHCM gây ùn tắc giao thông.
Là một trong những cảm xúc bẩm sinh, bên cạnh buồn, sợ, vui, bất ngờ và kinh tởm, giận dữ thuộc về con người. Nó có thể trỗi dậy từ nỗi thất vọng, cảm giác bị tổn thương hay mất mát. Giận dữ báo cho chúng ta biết là có điều gì đó không ổn, rằng nhu cầu của chúng ta không được đáp ứng. Một cậu thanh niên không được phép đi chơi. Một đứa trẻ bị khước từ đồ chơi mới. Một nhân viên bị từ chối yêu cầu tăng lương.
Người giận dữ là người đang bị đau, họ muốn hét lên rằng “tôi quan trọng”, bởi họ cho rằng người khác không hiểu hay không muốn hiểu điều đó. Cơn tức giận đầu tiên của con người xảy ra khi đứa trẻ sơ sinh giận tím tái người vì không được bú. Người giận dữ khao khát tấn công lại và loại bỏ kẻ đã làm đau anh ta, và nếu không được (ví dụ khi nguyên nhân là một trận kẹt xe lúc tan tầm), anh ta sẽ giận cá chém thớt và trút cơn giận lên một người thứ ba.
Nguồn cơn của giận dữ
Tình trạng giận dữ có thể được nuôi dưỡng và nung nấu bởi một cảm giác bất lực, bế tắc trước cuộc sống. Người giận dữ chất chứa trong lòng những tổn thương và xúc phạm mà anh ta đã trải qua: Một hôn nhân thất bại, một tai nạn vô nghĩa. Anh ta thấy mình là một nạn nhân trong một thế giới không công bằng. Chắc chắn phải có một ai đó khiến cuộc sống của anh ta trở nên thảm hoạ như thế, không là đứa con cứng cổ thì cũng là các thể chế nhà nước. Nhiều người còn oán giận cả tạo hoá, sự hữu hạn và vô vị của cuộc đời. "Mỗi người chỉ có một số kiếp, một cõi sống,” Nguyễn Huy Thiệp nhận xét, “và điều đó làm lòng ta run lên vì căm giận”.
Người giận dữ kiểu này hay diễn trong đầu mình những đoạn phim tưởng tượng nhằm trả thù những kẻ đã làm mình bị tổn thương, từ tay hàng xóm tới công an phường tới thằng bạn trở mặt. Với thời gian, sự cay đắng không những giảm đi mà còn lớn lên, sự giận dữ dần đông cứng lại. Người giận dữ khước từ chấp nhận thực tại và bị ám ảnh bởi những đòi hỏi phi thực tế với người khác hoặc những hiện tượng trong xã hội.
Giận dữ cũng có thể xuất phát từ những lý do liên quan tới đạo đức. Người ta phẫn nộ khi cho rằng những giá trị của mình, niềm tin của mình bị tấn công, căn tính của mình bị đe doạ. Khi đó, giận dữ đi kèm với kinh tởm và căm ghét. Người bị tấn công nhanh chóng coi người kia là kẻ thù, quái vật hay rác rưởi, và sau khi phi nhân hoá họ, coi họ xứng đáng để bị trừng trị. Sự tức giận khi bị người mình yêu quý (bạn thân, người yêu, thần tượng) phản bội hay rơi vào thể loại này.
Những người này hay cho rằng sự giận dữ của mình là hợp lý và chính nghĩa, phục vụ cho một mục đích cao cả hơn chính họ. Ở kịch bản tích cực, các cá nhân giận dữ về đạo đức có thể trở thành những người vận động cho những thay đổi trong xã hội (nếu như họ chuyển hoá được sự giận dữ của mình). Ở kịch bản tiêu cực, họ khoác lên mình tấm áo chính nghĩa và coi bất cứ xung đột nhỏ nhất nào cũng như một cuộc thánh chiến.
“Tôi kinh tởm những kẻ vi phạm chuẩn”, những người này có xu hướng nói vậy. “Tôi dễ nổi cơn tam bành với những người có quan điểm khác tôi”. “Tôi cảm thấy bị tấn công khi người khác có hành vi đi ngược với các giá trị của mình”. “Tôi sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ niềm tin của mình”. Đây là những dấu hiệu của sự cứng nhắc tới cực đoan, thiếu khoan dung và khước từ sự khác biệt.
Lại có loại thịnh nộ vì nhục; người ta nổi xung vì cho rằng mình bị “mất mặt”, danh dự của mình bị sứt mẻ. Loại thịnh nộ này hay xảy ra hơn ở những văn hoá coi trọng thể diện như ở các nước Châu Á, và nó khiến người nổi giận quay ra tấn công và làm nhục người làm nhục mình.
Thể diện ở đây không phải chỉ là của cá nhân, mà còn có thể là của gia đình, quê quán và cả của “Việt Nam" nói chung, nghĩa là bất cứ một tập thể nào mà người ta cho rằng mình thuộc về nó. Một đại gia cư xử không đẹp với tình nhân có thể bị coi là “làm xấu mặt đàn ông Việt Nam". Một người Việt bị phát hiện ăn cắp ở nước ngoài thì làm “nhục quốc thể”, một nghệ sĩ hát quốc ca trước mặt thượng khách quốc tế theo “kiểu lạ” cũng vậy.
Trong những trường hợp này, người ta tức giận vì họ sợ bị coi là vô giá trị, xấu xí, không xứng đáng trong con mắt của người khác. Quan trọng ở đây là sự lăng nhục nằm ở cảm nhận của người nổi giận chứ không nằm trong ý định của người hứng chịu cơn giận (đại gia quịt tiền, người ăn cắp hay nghệ sĩ hát quốc ca).
Những người giận dữ dạng này sẽ dễ đồng tình với những câu nói này: “Tôi hay thịnh nộ khi người khác không tôn trọng tôi”, “Tôi sẽ bảo vệ danh tiếng và thể diện của mình tới cùng”, “Tôi rất lo mình bị coi là ngớ ngẩn hay ngu ngốc”, “Tôi dễ nổi đoá khi bị nói là mình sai”, và “Tôi không thể quên được sự coi thường của người khác”.
Cả ba dạng giận dữ trên đều có thể trở thành trạng thái kinh niên. Ai trong chúng ta cũng có một người họ hàng hoặc một người bạn như vậy: Thường xuyên bực bội và cáu kỉnh. Không cái gì có thể làm anh ta (phần lớn, nhưng không phải tất cả những người này là nam giới) hài lòng. Kể cả trong những lúc mọi người xung quanh vui vẻ nhất thì anh ta cũng tìm ra được một lý do gì đó để phàn nàn. Đây là những người bị cầm tù bởi giận dữ. Giận dữ trở thành trạng thái chủ đạo của họ. Trong vườn cây tâm hồn của mình, họ chỉ tưới tắm cho giận dữ mà để những cảm xúc khác héo mòn. Tức giận trở nên phản ứng hiển nhiên, phản xạ đầu tiên của họ, được kích hoạt bởi bất cứ một lý do nhỏ bé nào. Khi gặp vấn đề, họ quay lại với sự giận dữ như quay về một người quen cũ, xấu xí nhưng trung thành. Giận dữ là nhà họ, họ không biết đi đâu nữa.
Giận dữ che chở cho người tức giận, nó là vỏ bọc ngăn anh ta cảm nhận sự tổn thương và đau đớn của mình. Tất cả những gì anh ta có thể nghĩ đến trong khoảnh khắc đó là đánh trả để bảo vệ lòng kiêu hãnh, trút giận để cảm thấy mình quan trọng và có sức mạnh. Sự cay đắng và thù địch là làn sương mù để anh không phải nhìn vào nỗi đau của mình. Lúc đó, sự nhẫn tâm với người khác, dù là người gây ra nỗi đau hay một kẻ thứ ba, có tác dụng như thuốc gây mê.
Và như thế, dần dần ký ức của người giận dữ kinh niên đầy ắp những sự khó chịu, khiến họ có xu hướng chỉ chú ý tới những khía cạnh tiêu cực của mọi thứ đang diễn ra. Quan điểm của họ rằng thế giới này xấu xí được khẳng định, vòng luẩn quẩn khép kín.

Nguồn cơn của sự giận dữ và mối lo ngại chữ “nhẫn” chỉ còn để trang trí ảnh 2
Người nhà bệnh nhân hành hung bác sĩ tại bệnh viện Thanh Nhàn.
Sức mạnh của sự điềm tĩnh
Giận dữ có thể là một người đưa tin tốt về một nhu cầu không được đáp ứng của ta, nhưng như các tác giả Adrian Faupel, Elizabeth Herick và Peter Sharp viết trong “Quản lý giận dữ - Một cuốn hướng dẫn thực hành”, nó là một người giải quyết vấn đề tồi. Câu “giận quá mất khôn” của người Việt được từ điển Oxford Dictionary trình bày lại hoa mĩ hơn, ở đây giận dữ được định nghĩa là một cảm giác khó chịu cực đại, và “đối ngược với lý trí”.
Hãy tự quan sát lần tới, khi ai đó lên án bạn là “Trơ trẽn!" chẳng hạn. Huyết áp của bạn bắt đầu tăng, hơi thở gấp, mắt bạn nheo lại, trường nhìn thu hẹp lại, bạn mất khả năng lắng nghe và thấu hiểu người khác. Bạn đáp trả. Bên kia tấn công lại. Bạn gặp khó khăn để kiểm soát mình, bạn bị biến dạng, không nhận ra bản thân nữa. Lúc này, bạn như một cái điện thoại bị treo, không tiếp nhận được những gì từ bên ngoài mà mâu thuẫn hay đi ngược với cảm xúc tức giận mà bạn đang có.
Khi cơn thịnh nộ qua đi, bạn thấy bã người ra, và có thể hối hận về điều bạn đã nói hay làm. “Giận dữ vô dụng,” Seneca - triết gia lừng danh thời La Mã cổ đại - viết vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, “ngay cả trong chiến tranh.”
Nhưng trái ngược với giận dữ là cái gì?
Không tức giận không có nghĩa là thờ ơ, mặc kệ, không có chính kiến. Không nổi giận không có nghĩa là nhút nhát, yếu đuối. Trái ngược với giận dữ là sự điềm tĩnh. Sự điềm tĩnh nằm ở giữa của giải tần mà một cực là sự lãnh đạm hay bạc nhược, và cực kia là sự hung hăng, căm giận ngùn ngụt.
Khác với nhu nhược, điềm tĩnh là nền tảng cho một thái độ cương quyết, đanh thép, sự minh mẫn, sắc bén và sức thuyết phục. Điềm tĩnh cũng khác với hung hăng ở chỗ nó không thô bạo và phá huỷ. Trong điềm tĩnh ẩn chứa sức mạnh. Nó là vũ khí sắc bén nhất để bạn không những bảo vệ mình mà còn những người liên quan trước chính họ.
Điềm tĩnh cũng không phải là kìm nén giận dữ, một dạng chạy trốn xung đột, bên ngoài "vẫn bình thường", không tỏ ra phản đối hay bất đồng, trong khi bên trong sôi sục như một nồi áp suất đóng chặt vung. Người cương quyết không lẩn tránh xung đột, mà bày tỏ nhu cầu của mình, bảo vệ niềm tin của mình, trong khi vẫn tôn trọng cảm xúc, nhân phẩm và lưu ý tới nhu cầu của người kia. Anh ta không có mong muốn hạ nhục hay đè bẹp người khác, không cưỡng ép hay đe doạ. Người điềm tĩnh mà cương quyết có thiện chí đi tìm giải pháp trong tinh thần hợp tác. Anh vững vàng ở giữa biển giận dữ của người khác.
Khả năng quản lý giận dữ là một thành tố cơ bản của trí tuệ xúc cảm và có vai trò quan trọng trong việc tạo cho ta một đời sống cảm xúc khoẻ mạnh và những quan hệ xã hội lành mạnh.
Trí tuệ xúc cảm có hai mặt. Một mặt, nó là khả năng nhận biết được cảm xúc của bản thân, có một vốn từ vựng lớn để gọi tên những gì đang xảy ra bên trong mình. Nó cũng là kỹ năng thể hiện những cảm xúc đó ra bên ngoài một cách có mức độ, điều hoà tâm trạng, không mất kiểm soát, không quát, gào, dùng nắm đấm, nức nở, suy sụp hay bỏ đi, và không để sự bấn loạn nhấn chìm khả năng tư duy.
Mặt khác, trí tuệ cảm xúc là năng lực "đọc" người khác, nắm bắt tình cảm của họ, hiểu được nguồn cơn hành động của họ, và phản hồi lại một cách tinh tế. Thấu hiểu không có nghĩa là chấp thuận quan điểm hay hành vi của người kia.
Theo Daniel Goleman - cha đẻ của các nghiên cứu về trí tuệ xúc cảm, xã hội hiện đại đã quá chú trọng tới thông minh được đo qua IQ và tầm quan trọng của lý trí. Nhưng IQ sẽ không dẫn tới đâu nếu ta để cảm xúc cuốn mình trôi đi như một cơn lũ. Với Goleman, những người không nhận thức được xúc cảm của mình thì cũng không đọc được tâm trạng của người khác; họ vừa thiếu khả năng tự chế ngự vừa thiếu sự thấu cảm, hai yếu tố nền tảng cho một cuộc sống đạo đức. Người i tờ về cảm xúc trở thành kẻ phá hoại cuộc sống của chính mình và của những người liên quan.
Chuyển hoá giận dữ
Làm thế nào để thoát khỏi nhà tù của giận dữ? Làm thế nào để vươn tới được sự vững vàng của điềm tĩnh và cương quyết?
Bước đầu tiên là tự thú nhận là bạn đang ở trong tù, và điều này không phải là hiển nhiên hay dễ dàng với tất cả mọi người. Không muốn hạ xuống lớp giáp bảo vệ và nhìn vào những nỗi đau bên trong, người giận dữ hay tìm cách biện hộ cho thái độ của mình. “Tính khí tôi là như vậy”. Phổ biến hơn: “Chúng nó như thế thì không giận sao được.”
Khi đã hạ quyết tâm đến với tự do, bước thứ hai, theo nhà tâm lý học Potter-Efron, là học cách thể hiện sự bất bình của mình mà không mất kiểm soát, không để mình bị cơn giận đập cho tơi tả như tàu lá chuối trong cơn giông. Nhà tâm lý học Paul Ekman so sánh cơn giận với một núi lửa. Ở người nóng tính, núi lửa cao và có miệng rộng, thành núi dốc, cơn giận của người này phát sinh nhanh, kéo dài, và dữ dội. Ở người bình tĩnh hơn, núi lửa nhỏ và thấp, cơn giận tới chậm hơn, đi qua nhanh hơn, và ít phá huỷ hơn. Khả năng phục hồi nhanh khỏi một tâm trạng tiêu cực là dấu hiệu của một trạng thái tâm lý khoẻ mạnh và dẻo dai.

Nguồn cơn của sự giận dữ và mối lo ngại chữ “nhẫn” chỉ còn để trang trí ảnh 3
Sơ đồ núi lửa giận dữ của người dễ nóng giận (bên trái) và của người bình tĩnh (Nguồn: “Emotional Awareness”, Paul Ekman / Dalai Lama)
Mục tiêu của quá trình chuyển hoá giận dữ là dần dần khiến những núi lửa giận dữ nhỏ lại, mức độ cuồng nộ của mỗi cơn giận thấp hơn và gây ra ít thiệt hại hơn. Để làm được việc đó, bạn cần tìm cách kéo dài khoảng thời gian từ khi cảm xúc trỗi dậy tới hành động. Giữa dự định đánh trả, được khơi dậy bởi giận dữ, và bản thân hành vi trả thù, là những tích tắc ngắn ngủi. Nếu trong lúc đó bạn ý thức được về ý định trả thù của mình, bạn có thể ngăn chặn nó. Bản chất của trẻ con và những người lớn không tự kiểm soát được hành động luôn đi liền với cảm xúc: Có kẹo trước mặt là phải ăn ngay lập tức, bị tổn thương là nổi xung tấn công trả lại liền.
Khi bắt đầu nổi giận, hãy đếm tới 10 và thở sâu trước khi bạn nói hay làm gì đó. Nếu bạn rất giận dữ, hãy đếm tới 100. Khoảng thời gian này là cơ hội để nhận thức của bạn vào cuộc và lý trí của bạn lên tiếng, đẩy lùi những phản ứng tức thời và nhường chỗ cho những hành vi có suy nghĩ hơn, sau khi đã nhìn sâu vào bên trong mình và gọi tên sự tổn thương, nỗi đau hay sự thất vọng. Khi gọi được tên, cơn bão giận dữ đánh mất năng lượng của nó. Nhận thức làm bạn hiểu được vì sao người khác phẫn nộ, và giúp bạn giải toả tình huống như xì hơi một quả bóng.
Chìa khoá ở đây là ý thức về bản thân, nhận biết được ý nghĩ của ta, trạng thái của ta. Ngược với tình trạng này là khi ta suy nghĩ miên man mà không biết, hoặc khi ta bị cảm xúc lôi cuốn đi. Ý thức về bản thân là bước ra ngoài để quan sát chính mình, nhìn thấy sự giận dữ của mình, ý muốn gây hại của mình, như cái tôi thứ hai đang quan sát cái tôi thứ nhất một cách quan tâm nhưng không bị cuốn theo người anh em đang vật vã trong sự kích động của nó. Khả năng nhận biết nhạy bén về những gì xảy ra bên trong mình này giúp ta neo bản thân lại trong những con sóng cảm xúc.
Dalai Lama ví việc tu tập để quản lý giận dữ như một quá trình đi học. Ở bậc nhà trẻ, sau khi cơn giận qua đi, khi núi lửa đã phun trào và đã nguội, người ta mới nhận ra được tác hại của nó và rút kinh nghiệm cho phản ứng của mình trong tương lai. Tới bậc trung học, người ta có thể ý thức được về cơn giận của mình khi nó vẫn đang xảy ra, và qua đó điều chỉnh hành vi và lời nói của mình. Họ đã có khả năng giảm nhiệt cái núi lửa đang hoạt động. Ở mức Ph.D., người ta nhận ra sự trỗi dậy của giận dữ trước khi bất cứ một hành vi hay lời nói nào được buông ra, và qua đó không bị cảm xúc bắt cóc nữa. Có thể không cưỡng lại được sự trỗi dậy của tức giận, nhưng người có bằng Ph.D. nhận ra những tín hiệu của nó từ rất sớm, nhận ra nguy cơ núi lửa ngay từ khi mới có vài ngọn khói, và có thể trì hoãn hành động của mình cho tới khi cơn giận qua đi.
Tác giả Richard Meyer dùng một hình ảnh khác. Ông so sánh cảm xúc căm giận ở người không luyện tập như vết khắc vào đá, khó mà phai mờ. Với ý thức và tập luyện, dần dần sự giận dữ chỉ còn như được viết lên cát. Cuối cùng, nó chỉ thoáng qua như khi ta lấy que vẽ lên mặt nước.
Nhưng tất cả những kỹ thuật đều hạn chế nếu bạn không thay đổi được thái độ sống. Cuộc sống của bạn sẽ đầy ắp cáu kỉnh và bực bội nếu từ sáng tới tối bạn đi tìm câu trả lời cho hai câu hỏi này: Lại có vấn đề hay tin xấu gì nữa đây? và Tôi có thể đổ lỗi cho ai?
Liều thuốc chữa là phát triển một cảm giác sống dựa trên niềm tin vào người khác, nhìn nhận cuộc sống một cách lạc quan, ít hoài nghi hơn, vun đắp cảm giác yêu thương và được yêu thương. Bạn hãy thử lưu tâm tới khen ngợi chứ không chỉ trích người khác, nhìn ra những niềm vui trong cuộc sống bên cạnh những vấn đề mà bạn muốn thay đổi. Các nhà tâm lý học gọi đây là phương pháp thay thế: Khen ngợi thay cho chỉ trích, lạc quan thay cho bi quan, và tha thứ thay cho căm ghét.
Chúng ta cũng cần chấp nhận chúng ta không kiểm soát được cả thế giới. Plato có lý: Với những thứ thay đổi được, ta thay đổi chúng mà không cần phải nổi giận. Với những thứ không thay đổi được, lại càng không có lý do ta để bực bội. Tất nhiên, trong cuộc đời nhiều khi chúng ta không biết cái gì thuộc về nhóm đầu và cái gì thuộc về nhóm sau, nhưng lúc đó, sự tức giận lại càng không giúp bạn có được trí tuệ mà bạn cần.
Thêm nữa, chúng ta nên cam kết thay đổi, bất kể người xung quanh có thay đổi bản thân họ không. Nhiều khi chúng ta tự nhủ mình chỉ buông bỏ giận dữ khi chồng, vợ, bố mẹ, hoặc những cư dân mạng khác cũng vậy. Nhưng như thế thì không khác gì chúng ta không muốn thoát khỏi nhà tù của thịnh nộ chỉ vì người khác vẫn muốn ở trong đó. Ngược lại, khi chúng ta đã tự do, ta có thể giúp họ thoát ra khỏi nhà tù của chính họ.
Giận dữ và thay đổi xã hội
Cuối cùng, giận dữ đóng vai trò gì trong việc tạo ra thay đổi xã hội? Liệu người hoạt động xã hội có cần sự giận dữ cho công việc của mình? Qua những phần trên, câu trả lời có lẽ đã rõ.
Cảm xúc giận dữ ban đầu, nếu có, phải được chuyển hoá thành năng lượng tích cực. Người hoạt động xã hội cần đi qua tầng tầng lớp lớp những hiện tượng bề mặt để nhận biết những cơ chế bất công ở đằng sau, để suy nghĩ về chiến lược tạo thay đổi và vai trò của mình trong đó. Anh ta chỉ có thể làm vậy với một sự tỉnh táo, điềm tĩnh và bền bỉ. Giận dữ triền miên không những không có ích, nó còn cản trở việc nhận ra được tương quan của sự việc, mình có thể làm gì và không làm gì, và làm như thế nào. Người hoạt động xã hội hiệu quả thường hay được ví với một võ sĩ: Luôn luôn sáng suốt, tỉnh táo, cương nghị, và giầu kinh nghiệm.
Ngược lại, người phẫn nộ và chua chát triền miên trước thực trạng xã hội là người đã đầu hàng. Anh ta đã mất hy vọng; với anh, xã hội đã trở thành một đống bùng nhùng không gì gỡ ra được.
Cái chúng ta cần là nuôi dưỡng không phải là sự tức giận hay thù ghét, mà là khao khát muốn thay đổi, là đòi hỏi công lý không ngừng nghỉ. Căm giận khiến chúng ta muốn loại bỏ người làm ta giận. Khao khát thay đổi khiến chúng ta muốn chuyển hoá họ. Một trong những thành tựu và bí quyết thành công lớn nhất của Nelson Mandela là ông luôn luôn giữ được đối thoại với những kẻ đàn áp ông. Với ông, “kẻ đàn áp cũng cần được giải phóng, giống như kẻ bị đàn áp vậy.” Giải thích về việc mình đồng ý nhận giải Nobel Hoà bình cùng với tổng thống Nam Phi - de Klerk, ông nói: “Để tạo ra hoà bình với kẻ thù, bạn phải làm việc với kẻ thù đó, và kẻ thù đó trở thành người đồng hành của bạn”. Hiển nhiên, bạn không thể chuyển hoá kẻ thù thành bạn đồng hành bằng căm giận.

Đạo Phật & trí thức trong thời đại mới

Đạo Phật & trí thức trong thời đại mới

Đăng lúc: 19:51 - 31/10/2016

Bài viết này đề cập đến vai trò của đạo Phật đối với trí thức trong thời đại mới, thời đại phát triển của khoa học công nghệ và một xã hội tiêu thụ tiện nghi vật chất nhưng cũng đầy áp lực, bế tắc (tình trạng tự tử rất cao tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Mỹ…). Điều đó đặt ra vai trò của đời sống tâm linh để cân bằng giữa đời sống vật chất hưởng thụ và những bế tắc, căng thẳng trong đời sống tâm lý.

Vai trò của đạo Phật trong đời sống gia đình, xã hội

Đạo Phật không chỉ là một tôn giáo, đạo Phật còn là một nguồn tuệ giác vô cùng to lớn cũng như là một phương pháp thực tập về thân và tâm để đạt tới trạng thái an lạc, hạnh phúc, vượt qua những chuẩn mực hạnh phúc thông thường của con người như đầy đủ về vật chất, địa vị xã hội hay thành công trong sự nghiệp và gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà nhà bác học lỗi lạc Albert Eisntein đã phát biểu rằng: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó”. Nhưng sẽ rất xa vời và lý thuyết nếu không hiểu đạo Phật dưới góc độ thực tập và thực chứng, áp dụng vào đời sống gia đình, xã hội như một phương thuốc chữa trị các căn bệnh về tâm, ảnh hưởng lên sức khỏe về thân.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một vị thiền sư nổi tiếng trong nước và trên thế giới đã áp dụng đạo Phật dưới góc độ trị liệu các vấn đề về tâm thức. Ngài đưa ra những khái niệm về ái ngữ và lắng nghe, thiết lập truyền thông, hóa giải những nội kết trong tâm để hòa giải những mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng, cha mẹ đối với con cái, đồng nghiệp với nhau… Đó là sự áp dụng một phần trong Bát Chánh đạo về thực tập chánh ngữ (giới thứ 4). Ngoài ra những phương pháp về chánh niệm, thực tập nhận diện khổ đau, ôm ấp và hóa giải khổ đau được thực hiện qua các phương pháp thiền trà, quán niệm hơi thở và lắng nghe cũng được thực tập để làm giảm những căng thẳng trong xã hội hiện đại. Dù những phương pháp này (ngoài lời Phật dạy, có sáng tạo thêm) nhưng nó lại rất phù hợp với xã hội hiện đại, đặc biệt là các nước Tây phương và Mỹ có truyền thống tôn giáo thờ đấng sáng tạo lâu đời.

Với những người trí thức, việc áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong đời sống hàng ngày dựa trên nguyên tắc hiểu biết rõ nguyên nhân của đau khổ là do sự tham vọng, mong cầu mà không đạt được sẽ dẫn đến tâm trạng thất vọng chán nản và tuyệt vọng. Tôi đã chứng kiến rất nhiều bạn bè, đồng nghiệp là những nghiên cứu sinh đang nghiên cứu các chương trình tiến sĩ. Bản chất của nghiên cứu tiến sĩ là những vấn đề mới, khó và không dễ dàng đạt được trong một thời gian ngắn. Những áp lực, kỳ vọng và sự mong cầu đã làm cho những nhà nghiên cứu rất mệt mỏi và chán nản đôi khi muốn bỏ cuộc.

Nhưng với những người có sự hiểu biết căn bản giáo lý đạo Phật và có sự hành trì trong đời sống hàng ngày thì họ quán xét mọi việc trên phương diện nhân duyên quả. Những nghiên cứu hay kết quả này cần một thời gian nhất định mới ra kết quả (trổ quả), cần những yếu tố (nhân duyên) hội đủ cần thiết như số liệu, phương pháp nghiên cứu… Và những góp ý của giáo sư hướng dẫn hay đồng nghiệp sẽ đưa lại kết quả mong muốn. Ở một khía cạnh khác, những trí thức và những người nghiên cứu luôn đặt ra cho mình đích đến và mục tiêu của nghiên cứu hay kết quả dự án mà đôi khi kết quả không như mong muốn hoặc có thể tốt hơn ngoài dự kiến. Điều đó cho thấy nếu có cái nhìn trung dung, quân bình hay tùy duyên thì người nghiên cứu sẽ nỗ lực trong sự bình thản và hiểu rõ đường đi của nó mà không khởi lên sự đau khổ hay thất vọng, bế tắc. Đó là lợi ích của đạo Phật cung cấp cho ta cái nhìn Trung đạo xa lìa hai cực đoan về thế giới quan và nhân sinh quan trong mọi việc.

Hơn thế nữa, có những vấn đề mà người trí thức hay bất kể là ai đều gặp phải trong đời sống như vợ chồng không hạnh phúc, con cái hư hỏng, đổ vỡ trong sự nghiệp, kinh doanh thất bại hay những vấn đề về sức khỏe, sinh tử. Chính những lúc đó thì những kiến thức khoa học chuyên sâu lại không giúp ích được trong việc giải quyết khổ đau, tuyệt vọng. Đây là một câu chuyện có thật, có một luật sư người Đức rất giỏi và giàu có nhưng ông ta đã tuyệt vọng và tự tử trên chiếc giường mà ông và tình nhân đã ngủ suốt bao nhiêu năm tháng. Ông đã phải lòng và yêu cô thư ký trong văn phòng luật sư, và ông ta đã bỏ lại vợ con. Cái chết của ông ta là kết quả của sự bế tắc và tuyệt vọng khi mất tình nhân vì cô ta đi theo một người trẻ khác.

Qua câu chuyện này cho thấy, ông ta là luật sư giỏi, không thể nói ông ta là người thiếu hiểu biết về tri thức căn bản trong xã hội. Nhưng có những vấn đề thuộc về tâm lý mà không có sự tu tập chuyển hóa sẽ không hóa giải được đành chọn cái chết để kết thúc mọi việc. Còn đối với trí thức Phật tử, người đó hiểu rằng mọi thứ đều có nguyên nhân của nó, và hôm nay là kết quả nhận được. Hơn nữa người Phật tử thấy rõ mọi thứ trên thế gian đều vô thường, biến đổi, không có gì là vĩnh viễn trường tồn, bất biến. Cho nên hãy chấp nhận nó bởi đơn giản đó là sự thật, và để chấp nhận nó là cả một quá trình tu tập, chiến đấu với chính mình đầy gian khổ và khó khăn.

Đóng góp và lợi ích của Tứ diệu đế, Bát Chánh đạo đối với trí thức

Đức Phật là một con người, nhưng Ngài đã giác ngộ và chứng đạt những quy luật của sự sống như khổ và nguyên nhân của khổ và con đường thoát khổ. Ngài ra đời là “Vì an lạc của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của chư thiên và loài người” (Kinh Tăng chi I). Ngài đã thấy rõ đường đi của sinh tử qua Mười hai nhân duyên, và Ngài đã nói lên rất nhiều bài pháp để các hành giả vượt thoát khổ đau nhờ sự tu tập, buông xả, thấy rõ thực tướng của vạn pháp.

Con đường của Đức Phật không nhằm mục đích lý luận, giải quyết các vấn đề triết học hay nguồn gốc của vũ trụ, loài người. Ngài chủ trương đưa ra một phương pháp thực tập một cách khoa học, logic tuần tự từ thấp đến cao cho nhiều đối tượng khác nhau từ người Phật tử tại gia cho đến những tu sĩ chuyên sâu tu tập. Con đường của Ngài không gì khác hơn là Giới, Định, Tuệ (giữ giới, thiền định và quán chiếu) dựa trên nền tảng của Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo cùng với sự hỗ trợ của 37 phẩm trợ đạo giúp hành giả vượt thoát khổ đau thuộc về tâm, từ sơ quả (Tu-đà-hoàn) đến an lạc Niết-bàn (A-la-hán).

Vậy người trí thức sẽ áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo thế nào trong đời sống, công việc, học tập và kinh doanh? Đối với những trí thức và những người trẻ thì việc áp dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo vào đời sống sẽ đưa đến nhiều lợi ích thiết thực bằng tuệ quán và sự tư duy quán xét trên từng sự việc. Thật vậy, điều này đã được xác chứng trong lịch sử Phật giáo cách đây gần 26 thế kỷ, đó là rất nhiều người xuất thân từ vua chúa, trí thức, thương gia cho đến các tầng lớp thấp như tướng cướp, kỹ nữ hay nông dân nghèo khổ đã từ bỏ và đi theo con đường của Đức Phật để chứng an lạc, giải thoát, Niết-bàn như vua Tịnh Phạn, anh em Da Xá, ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Angulimala, kỹ nữ Ambapàlì….

Trong công việc học tập, người trí thức hiểu rõ nhân quả nên nỗ lực lao động, học tập và làm việc, nhờ đó mà đạt được những thành tựu mong muốn. Tránh xa hai cực đoan của sự cầu xin, cúng bái dựa vào các thế lực siêu nhiên vô hình hay chủ quan cho rằng tất cả đều chỉ dựa vào nỗ lực cá nhân là đủ mà quên đi vai trò của sự hỗ trợ, các yếu tố bên ngoài tác động vào. Người xưa từng nói “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên (duyên)” hay “người tính không bằng trời tính” - là sự đúc rút kinh nghiệm thực tiễn đời sống. Nhưng dưới cái nhìn tuệ giác của Phật giáo, Đức Phật chỉ rõ đường đi của nhân-duyên-quả, vì sao lại thu được kết quả như thế. Điều này phù hợp với khoa học hiện đại bởi những phát minh, tìm kiếm nguyên nhân hình thành của vô số các hiện tượng về vật lý hay hóa học.

Người trí thức còn có thể sử dụng Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong chính sách nghề nghiệp như việc áp dụng triệt để chánh kiến và chánh tư duy trong việc định hướng và dự báo chiến lược của công ty hay tập đoàn. Áp dụng chánh ngữ và chánh nghiệp trong việc giao tiếp với nhân viên, đồng nghiệp tạo ra sự đồng thuận, ủng hộ góp phần thành công trong một chiến lược cụ thể nào đó. Người trí thức Phật tử luôn dùng chánh niệm để lắng nghe những đề xuất, đóng góp, bình luận hay gợi ý làm cho sản phẩm hay chiến lược trở nên tốt đẹp hơn. Đó cũng là những lợi ích rất lớn trong việc thực tập Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo trong công việc và đời sống hàng ngày. Ngoài ra nhờ sự quán chiếu, tu tập và hành trì trong mọi công việc và sự kiện hàng ngày mang lại cho họ cái nhìn chân thực, chính xác mà không chứa đựng quan điểm cá nhân (bản ngã) để ra quyết định một cách chính xác chứa đựng trí tuệ và nhân văn sâu sắc là thuộc tính của một thiện tri thức.

Tóm lại, hiểu biết và ứng dụng đạo Phật trong công việc và đời sống hàng ngày đối với tầng lớp trí thức mang lại lợi ích rất lớn và thiết thực, vượt qua giới hạn về tôn giáo, thờ cúng hay một loại tín ngưỡng mà đa phần những người chưa hiểu biết về đạo Phật thường quan niệm như vậy. Xin kết thúc bài viết này bằng một nhận định của một học giả về Phật giáo: “Là Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát Chánh đạo và Tứ diệu đế của Đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó” (Giáo sư Rhys Davids).
ThS.Trần Ánh Dương

Thiền giữa đời thường

Thiền giữa đời thường

Đăng lúc: 22:02 - 11/09/2016

Trong cuộc sống hiện đại, kỹ thuật ngày càng tối tân, con người càng quay như chong chóng theo các công việc, gần như không có thời gian cho việc quán sát nội tại, tìm hiểu bản chất thật của mọi việc cũng như chính bản thân mình. Do đó, nhiều người thân đau, tâm khổ, buồn phiền,… lâu dài dẫn đến lao tâm, lao lực, trầm cảm, bệnh tâm thần và bi kịch hơn nữa là đi đến tổn hại chính mình và người khác.

Đứng trước một thực trạng như thế, hơn bao giờ hết, vấn đề tâm linh, tìm về một cõi bình an trong mỗi con người là nhân tố hàng đầu để quyết định sự tồn sinh và nguồn hạnh phúc chân thật cho nhân loại. Trên ý nghĩa đó, Thiền là một nhu cầu cần thiết, như một chiếc phao cứu vớt con người thời hiện đại ra khỏi đại dương của tham vọng, khát ái và si mê.

b1.jpg

Cốt lõi của Thiền chính là làm cho tâm lặng. Tâm có lặng thì trí mới sáng. Có trí sáng thì con người mới làm chủ được mình. Làm chủ được mình mới làm chủ được hoàn cảnh, hướng cuộc sống đến chân, thiện, mỹ. Hơn nữa, làm chủ được mình là tự chiến thắng mình. Và tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất của người chiến sĩ trên trận mạc tâm linh. Đồng thời có làm chủ được mình mới thấy rõ và nắm vững cơ chế vận hành của nghiệp, biết rõ đường đi lối về của cái vòng sanh, lão, bệnh, tử, nhân quả luân hồi... Đó là lý do vì sao Đức Phật đã thiền định suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ-đề. Đến khi sao Mai vừa mọc, thực tướng của vạn pháp bừng sáng trước con mắt trí tuệ của đấng Giác ngộ. Thế Tôn đã tỉnh thức hoàn toàn sau giấc mộng dài vô minh. Chẳng những Đức Phật đã hoàn toàn giải thoát mà còn có khả năng truyền bá giáo lý đã chứng ngộ cho tất cả chúng sanh.

Chúng ta đều biết, không có vị thầy nào dạy Đức Phật một phương pháp tu học để đạt đến giác ngộ viên mãn. Chính sự tự nỗ lực thiền quán mà Ngài thành tựu được trí tuệ, chấm dứt dòng sanh tử luân hồi từ vô lượng kiếp. Đêm tối đã tan và ánh sáng đã đến; vô minh diệt, minh sanh. Đức Phật nói chỉ có dừng tâm lại, thực sự biết dừng lại và chiếu soi bằng con đường Thiền mới mong giải quyết được vấn đề.

Thiền không phải chỉ là pháp hành dành riêng cho Đức Thế Tôn hay của các thiền sư mà đối với tất cả chúng ta, những con người đang chìm đắm trong sân hận, si mê vẫn có thể thực tập và chứng đạt. Vì chỉ có Thiền mới hóa giải những ô trược tồn đọng trong tâm, làm cho đầu óc con người bớt căng thẳng trước những bế tắc cuộc sống luôn đổi thay sanh diệt. Một ngày bôn ba rong ruổi với cuộc mưu sinh vất vả, con người chịu áp lực quá nặng nề để được sống còn. Vậy thì dành ra được ít phút buông thư tất cả, hít sâu và thở sạch, để thân tâm lắng dịu và hồi sinh là một điều rất cần thiết cho mọi người, nhất là người đệ tử Phật.

Thiền là suối nguồn của tình thương và sự giác ngộ. Thiền một mặt sẽ mang lại kết quả là đoạn tận phiền não tham, sân, si vốn luôn luôn lôi kéo chúng ta trôi lăn trong ba đường ác đạo để rồi lãnh chịu đau khổ. Đồng thời cũng làm tăng trưởng Ðịnh và Tuệ, là pháp có thể đưa chúng ta tới giải thoát Niết-bàn.

Hành giả cần phải chánh niệm, sáng suốt, tinh tấn, cẩn trọng trong từng việc nhỏ nhiệm nhất. Đó chính là con đường giữ giới thu thúc sáu căn. Ý thức rằng những lời ta đang nói có mặt của tham lam, sân hận hay không. Bởi vì ngôn từ mà ta nói ra đều phát xuất từ những tâm tư, suy nghĩ của mình. Khi nói biết mình đang nói gì, chính sự có mặt của chánh niệm sẽ giúp mình kiểm soát được ngôn ngữ, làm cho sự cảm thông thêm sâu sắc giữa mình với những người xung quanh, đặc biệt là không cố ý gây chia rẽ bằng lời nói đôi chiều khiến người chống trái nhau theo lời nói của mình. Thân không trộm cướp, không làm những điều tà hạnh, xâm chiếm hạnh phúc của người. Ý đang khởi tham, sân, si mình rõ biết đang khởi tham, sân, si. Nói chung là giữ cho ba nghiệp thanh tịnh, không bị các vọng tưởng dấy khởi, thấy biết rõ ràng từng hành vi, cử chỉ… Khi ăn biết ăn, khi đi biết rõ từng bước chân, rõ biết như vậy để cảm nhận được trọn vẹn trong giây phút hiện tại. Sống như vậy là sống trong chánh niệm, sống trong tỉnh thức và trong an lạc. Ý thức về bước đi của mình để thấy rằng ta đang đi giữa đất trời mây nước, với cỏ cây hoa lá chim muông... Mỗi bước đi của ta đang hòa với cảnh vật, không gian và thời gian, hòa với cả vũ trụ bao la, và vũ trụ bao la đang có mặt trong mỗi bước đi của mình.

Trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta bị chi phối bởi quá khứ và tương lai. Do vậy, chúng ta không thưởng thức được hạnh phúc ngay phút giây hiện tại. Nhiều lúc có người đang ngồi trong giảng đường nghe pháp, nhưng tâm người ấy đang nghĩ đến tính chuyện làm ăn để kiếm tiền cho giàu sang bằng người khác. Thử hỏi người ấy có cảm nhận trọn vẹn nguồn pháp lạc hay đang vun đắp cho một mối lo toan sầu khổ? Vì vậy, ý nghĩa thật sự của việc tỉnh thức đối với hoạt động của thân là sống với hành động hiện tại. Chỉ có phút giây hiện tại mình sống thật trọn vẹn thì đó là cõi Tịnh độ ngay tại thế gian này. Khi ngồi nghe pháp biết rõ những điều giảng sư truyền đạt mình thâm nhập giáo pháp của Phật tư duy để tu tập. Khi đối diện với những điều ưa thích biết lòng mình đang tham đắm và ngược lại với những điều không ưa thích biết mình đang chán ngán, chẳng ưa, tâm mình khởi niệm gì mình đều biết rõ không bị cảnh trần lôi kéo như vậy là chơn tâm hiện tiền. Cho nên trong nhà Thiền thường nói: “Chỉ cần biết vọng không cần tìm chơn” là thế.

Giữa bao nhiêu phiền toái của cuộc đời tâm chúng ta không bị chi phối mà lúc nào cũng biết dừng lại, trở về với chính mình. Chúng ta phải đưa Thiền đi vào trong đời sống mới thực sự có nhiều lợi ích. Nếu như ngồi thiền theo dõi từng hơi thở để cho tâm tư được tĩnh lặng, tự chủ, an lạc thì chúng ta cũng phải biết ứng dụng Thiền như thế nào để khi làm việc trong nhà bếp hay lúc làm việc ở văn phòng, trong xe hơi, khi ở trung tâm mua bán đông người, hay khi ngồi chờ tàu chạy trong nhà ga xe lửa, tâm của chúng ta cũng được như vậy. Trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào chúng ta cũng hành thiền; không đợi đến lúc ngồi thiền chúng ta mới tu tập được. Cũng như khi vị bác sĩ tiêm một mũi thuốc bổ vào cánh tay của chúng ta, không phải chỉ cánh tay mà cả toàn thân chúng ta đều được hưởng mũi thuốc đó. Khi hành giả thực hành thiền trong các oai nghi thì sự an lạc mà hành giả có trong một giờ phải được tỏa rạng và ảnh hưởng trong suốt hai mươi bốn giờ chứ không phải chỉ trong lúc đang ngồi thiền. Chúng ta phải thực tập như thế nào để không còn thấy ranh giới giữa lúc ngồi thiền và không ngồi thiền thì sự thiền tập mới thực sự mang lại lợi ích.

Hành thiền trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, mọi công việc trong đời sống hàng ngày chính là lúc trở về với nội tâm, quán chiếu và thanh lọc để nội tâm được an lạc, thanh tịnh, sáng tỏ, chứ không phải là chạy trốn chính mình hay chạy trốn thực tại. Mỗi ngày chúng ta đều hành thiền để quán chiếu mọi sự việc đang xảy ra với một tâm tư hoàn toàn tỉnh thức.

Nếu như lúc ăn, lúc nói, lúc làm việc, lúc ngủ nghỉ khi nào chúng ta cũng hành thiền cả, thì đời sống của chúng ta là đời sống Thiền. Thiền là sống tỉnh thức, sống có chánh niệm trong từng phút giây một cách trọn vẹn với chính mình, với mọi người xung quanh. Thiền là sự sống hiện thực sinh động chứ không phải là một ý tưởng mơ hồ xa vời và tách khỏi cuộc sống.

Như vậy, Thiền qua các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi nhằm giúp ta kiểm soát hoạt động của thân bằng chánh niệm, để thực tập oai nghi chánh hạnh, đưa ta trở về sống với hiện tại, xa lìa lối sống tìm cầu hạnh phúc bằng tưởng tượng, bằng mong cầu và bằng hồi tưởng. Hơi thở chánh niệm giúp cho ta khôi phục lại thân tâm của mình một cách trọn vẹn bất cứ ở đâu, trong tư thế nào (đi, đứng, nằm, ngồi), ta cũng thực tập thở và quán chiếu được cả.
Thích nữ Đức Tuệ

Phật giáo cứu rỗi Baggio, Balotelli thế nào?

Phật giáo cứu rỗi Baggio, Balotelli thế nào?

Đăng lúc: 08:08 - 23/04/2016

Phật giáo đang được người Thái Lan truyền bá tới lục địa già qua… “con đường” Leicester City. Trước đó trên sân cỏ châu Âu, có mấy người tin và theo nhà Phật?
Tồn tại âm mưu giúp Leicester vô địch Premier League?
Nhà sư Thái Lan "phán" gì về Leicester?
Kịch bản không tưởng khiến Leicester khóc hận?
Từ “bể khổ” của Roberto Baggio…
Roberto Baggio là một Phật tử. Nhưng tại sao cựu chân sút nổi tiếng với cái “đuôi ngựa thần thánh” lại trở thành đệ tử của nhà Phật? Có lẽ là do cái… “duyên”.
Huyền thoại bóng đá Italia vốn là người Công giáo. Thời còn nhỏ, cũng giống như 7 anh chị em của mình, Baggio vẫn đến nhà thờ đều đặn ở Caldogno, Italia.
Nhưng việc đến nhà thờ cùng với gia đình dường như là thói quen hình thành từ nhỏ của Baggio, hơn là đức tin. Để rồi theo thời gian, cựu tiền đạo lừng danh của Juventus, Inter và Milan sống như một kẻ vô thần.
Những lúc thuận lợi, mọi việc đều xuôi chèo mát mái thì chẳng nói làm gì. Nhưng khi lâm vào cảnh cùng quẫn, bế tắc thì những người không tôn giáo, vô thần, thiếu đức tin rất dễ lầm đường, rơi vào bi kịch.
Chẳng thế mà Karl Marx nói: “Tôn giáo là tiếng thở dài của loài người bị áp bức, trái tim của thế giới không trái tim, cũng giống như nó là linh hồn của những trật tự vô hồn".
“Đời là bể khổ”. Roberto Baggio từng nghe câu nói ấy của anh bạn thân Morrichio - một con nhang đệ tử của nhà Phật. Nhưng đến mùa giải 1987/88, Baggio mới thấy thứ triết lý mà anh từng mỉa mai ấy ngẫm cũng đúng.

Mùa giải ấy Baggio mới là chàng trai 20 tuổi của Fiorentina. Dù được đánh giá cao nhưng Baggio liên tiếp bị chấn thương hành hạ, khiến tinh thần suy sụp và anh từng nghĩ tới việc giải nghệ.
Thời còn ở đội trẻ Caldogno, Baggio từng biết nhiều đồng đội còn chơi bóng hay hơn anh. Nhưng rốt cuộc, phần lớn trong số họ đều không thể theo sự nghiệp sân cỏ, vì chấn thương nặng hoặc… vào tù vì đủ mọi tội danh. Baggio nghĩ tới họ và cũng liên hệ với bản thân mình.
Nhưng đúng vào thời điểm cùng quẫn và bế tắc nhất, huyền thoại Italia đã tìm đến với Phật giáo như một sự cứu rỗi, khiến cho anh bạn Morrichio cũng phải kinh ngạc.
Trong cuốn tự truyện của mình, cựu tiền đạo sinh năm 1967 thổ lộ: “Phật giáo dạy tôi cách nhìn khác về tương lai. Tôi từng chán nản vì gặp quá nhiều chấn thương. Nhưng đạo Phật dạy tôi phải biết dũng cảm để đương đầu với thử thách.
Nhưng trên tất thảy, Phật giáo đã thay đổi cách nghĩ của tôi, cho tôi sức mạnh và tránh xa những lầm lỗi. Không như những đồng đội cũ của tôi ở Caldogno. Họ đi chệch hướng”.
Từ ấy, ngày nào Baggio cũng đọc kinh Phật tối thiểu 1 giờ. Anh nghiệm ra thế nào là “khổ” và con đường chánh đạo để “diệt khổ” - chân lý cơ bản nhất của Phật học.
Nhờ vậy, từ một kẻ cùng quẫn, bất đắc chí, Baggio vượt qua mọi thử thách, tiếp tục sự nghiệp để rồi trở thành một huyền thoại.
Anh nói: “Tôi nghiệm ra rằng, người ta dễ lầm đường. Không có đạo Phật, có thể tôi đã trở thành tội phạm, nghiện ngập ma túy hay có thể giờ này tôi đang rèn sắt với bố tôi ở Caldogno”.

… tới thiền viện Nam Tông của Balotelli
Mehmet Scholl không năng tới chùa, chẳng hằng ngày gõ mõ tụng kinh như Roberto Baggio nhưng ngôi sao này tin vào Phật và bị ảnh hưởng từ những triết lý của đạo Phật về cuộc sống.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn tờ Sueddeutsche Zeitung tháng 05/2010, cựu ngôi sao lừng danh của Bayern Munich phủ nhận anh là một Phật tử, nhưng khẳng định:
“Tôi không phải Phật tử. Nếu bạn làm theo 10 điều răn của Phật, bạn là người tốt. Tôi nghiên cứu đạo Phật, những triết lý của tôn giáo này rất hữu ích cho cuộc sống và công việc hằng ngày”.
Tuy nhiên ngôi sao bị ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo lớn nhất (nhưng không phải Phật tử), thật bất ngờ, đó là Mario Balotelli.
Balotelli là một tài năng của bóng đá thế giới. Nhưng bên cạnh cái tài, Super Mario lại có quá nhiều tật. Anh bị xem là tên ngốc, tên điên khùng hay là kẻ luôn nổi loạn, vô kỷ luật.
Bê bối nổ ra với ngôi sao này như cơm bữa và scandal là một trong những nguyên nhân khiến Balotelli ngày càng sa sút.
Không thể “trị” Balotelli. Năm 2012, Roberto Mancini đã khuyên cậu học trò ngỗ ngược từng… tẩn cả ông trên sân tập Man City nên lấy vợ.
Vì theo lý giải của chiến lược gia Italia, có lẽ chỉ khi lấy vợ, sinh con đẻ cái thì “ngựa chứng” mới trưởng thành.
Nhưng trước khi tham dự VCK EURO 2012 - giải đấu mà Balotelli trở thành người hùng của đội quân Thiên thanh, Balotelli lại hành động điên rồ: đuổi cô bạn gái người mẫu Rafaella Fico ra khỏi căn biệt thự ở Cheshire và… rước tượng Phật về thờ.

Theo tờ Daily Star, ngoài thỉnh tượng Phật về nhà, Balotelli còn mua rất nhiều sách Phật giáo để nghiên cứu.
Trong đó có hai cuốn “Cuộc đời và lời dạy của đức Phật” (The Life and Teachings of Gautama Buddha) của Giáo sư Phys David hay cuốn “Ánh sáng châu Á” (The Light of Asia) của Edwin Arnold.
Đạo Phật, vì sao? Một người bạn của tiền đạo Italia lý giải: “Mario cho rằng, đạo Phật sẽ giúp được anh bỏ rượu, tính nóng nảy và quan trọng hơn là sự bình an trong cuộc sống. Với đạo Phật, Mario sẽ hạn chế được tà tính”.
Từ khi trở lại Italia đầu quân cho Milan, Balotelli thường xuyên tới thiền viện Nam Tông ở Frasso Sabino. Đây là thiền viện của các phật tử Nam Tông, tức Phật giáo Tiểu thừa mà người Italia gọi là Santacittarama.
Balotelli tới thiền viện Nam Tông Frasso Sabino để vãn cảnh thư giãn, thiền cũng như đàm đạo với các chư tăng về Phật - Pháp - Tăng.

Trên tạp chí Phật giáo Shambhala Sun, đại đức chủ trì thiền viện Frasso Sabino, Ajahn Chandapalo từng cho biết, ông tỏ ra kinh ngạc trước những kiến thức về cuộc sống cũng như Phật pháp của Balotelli.
Cánh cửa nhà Phật luôn mở ra cho bất cứ ai. Với đại đức Ajahn Chandapalo, từ khi Balotelli đặt chân đến thiền viện Frasso Sabino, tiền đạo này đã là một… Phật tử Nam tông.
Nhưng nói về Phật tử Nam tông và ảnh hưởng của Phật giáo đến bóng đá thì phải tới King Power của Leicester City.
Người ta tin rằng, nhờ Phật, thầy trò Ranieri sẽ trải qua mọi “kiếp nạn” Premier League để “thành chính quả” như thầy trò Đường Tăng huyền thoại…
Tình đầu của George Best xuống tóc đi tu
Huyền thoại Man United, George Best nổi tiếng là ngôi sao đào hoa. Mối tình đầu tiên của Best là bà Jackie Glass, năm nay 67 tuổi.
Thời điểm hẹn hò với cựu tiền đạo “Quỷ đỏ”, bà Jackie là một trang tuyệt sắc được nhiều chàng trai theo đuổi. Trên Mirror, bà Jackie tiết lộ mình là tình đầu của George Best và mối quan hệ của bà và huyền thoại này kéo dài hơn 1 năm.
Tới năm 1994, sau quá nhiều khổ đau vì tình ái và cuộc sống, bà Jackie quyết định cắt tóc quy y cửa Phật, lấy pháp danh là ni cô Ani Rinchen.
Năm 2005, ni cô Ani Rinchen nghe tin Best qua đời khi bà đang tu tại đảo Holy và bà đã đọc kinh cầu cho linh hồn người cũ siêu thoát.

Thực tập hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm

Thực tập hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm

Đăng lúc: 10:59 - 28/03/2016

Lắng nghe là một phương pháp thực tập quan trọng giúp chuyển hóa thân tâm, là nhịp cầu cảm thông giúp cho ta định tĩnh, sáng suốt khai mở trí tuệ để trải rộng tâm từ chia sẻ nỗi khổ, niềm đau với người khác cùng vượt qua nghịch cảnh và đến gần hơn với hạnh phúc chân thật của chính mình.
VONG PHAP.jpg
Vọng pháp - Ảnh: Trần Thế Phong

Lắng nghe là một gia tài vô tận mà ai cũng có thể dâng tặng cho mọi người. Lắng nghe để hiểu dù điều ấy đã nói ra hoặc chưa nói. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, để lạc quan vui sống.

Hình ảnh Bồ-tát Quán Thế Âm trong Phật giáo được tôn vinh, tán thán với công hạnh lắng nghe, Ngài luôn lắng nghe và chia sẻ, cứu vớt chúng sinh để xoa dịu nỗi đau bất hạnh của muôn loài.

Kính lạy Đức Bồ-tát Quán Thế Âm! Chúng con xin học theo hạnh của Ngài, biết lăng tai nghe cho cuộc đơi bơt khổ. Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu. Chúng con xin tập ngồi nghe vơi tất cả sư chú tâm và thành khẩn của chúng con. Chúng con xin tập ngồi nghe vơi tâm không thành kiến. Chúng con xin tập ngồi nghe mà không phán xét, không phản ưng. Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu. Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu đươc những điều đang nghe và cả những điều không nói. Chúng con biết chỉ cần lăng nghe thôi, chúng con cũng đã làm vơi bơt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi (Quán nguyện).

Pháp môn của Bồ-tát Quán Thế Âm chính là phương pháp phản văn văn tự tánh (không xuôi dòng đuổi theo âm thanh mà trở ngược lại tánh nghe). Trong cái nghe của Ngài, Ngài chuyển dụng khả năng nghe tiếng bên ngoài, để nghe lại tự tánh nghe của mình. Đến lúc những cái sinh diệt diệt hết thì tánh vắng lặng hiện ra và khi ấy chứng được “nhĩ căn viên thông”, được hai thứ thù thắng: đồng với từ lực của mười phương chư Phật và cảm thông lòng cầu mong thương cứu của chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi.

Xin nguyện học theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm: Nghe để hiểu và giúp người khác nhận diện được nguồn gốc của khổ đau, để giúp người an vui. Lắng nghe để thương yêu tất cả muôn loài.

Khi ta lắng nghe là lúc ta phát hiện ra chính bản thân mình, nghe thấy nội tâm của mình, tâm ta như một dòng sông lúc thì yên ả hiền hòa, lúc thì gập ghềnh thác lũ. Ta nghe để hiểu ta hơn và tìm lại chính mình. Trong dòng sinh diệt bất tận của cuộc đời ta luôn phải mang nhiều vai diễn của cuộc đời và mải mê chạy theo nó rồi chợt nhận ra rằng trong ta còn quá nhiều góc khuất, nhiều mảng sáng tối, thiện ác đan xen với nhiều cung bậc cảm xúc. Lắng nghe để trở về với tự tánh, quay về nương tựa chính mình.

Tự tánh là bản thể của tâm, vốn không sanh, không diệt và ngay đây chủ thể và đối tượng nghe đều không tồn tại. Nghe được tự tánh tức nghe đến tận cùng sâu thẳm của vô thanh, nghe cái tịch nhiên im lặng sấm sét. Ngay đây, phiền não rơi rụng, tuệ giác hiện tiền, thực tại hiển bày “vượt ngoài thế gian và xuất thế gian, sáng suốt cùng khắp mười phương, trên thì hợp với bản giác diệu tâm mười phương chư Phật đồng một từ lực với Như Lai, dưới hợp với tất cả chúng sanh đồng với chúng sanh một lòng bi ngưỡng”.

Học theo hạnh của Bồ-tát Quán Thế Âm là chúng ta thực tập hạnh lắng nghe người khác. Nghe để hiểu sâu hơn, thương nhiều hơn. Chỉ cần lắng nghe thôi thì chúng ta đã “cứu khổ” cho rất nhiều người. Ai trong chúng ta mà không có nỗi khổ, niềm đau! Rồi niềm đau ấy ngày một tích tụ và lớn dần lên khi không tìm ra người hiểu mình để sẻ chia, đồng cảm. Đến khi niềm đau vượt ngưỡng chịu đựng thì sự bùng nổ sẽ thành tai họa. Vì vậy, được một người lắng nghe tâm tư, thấu hiểu nỗi lòng của mình là một niềm hạnh phúc. Lắng nghe mình và người khác để hiểu và thương nhằm xây dựng hạnh phúc chính là từ bi, ban vui cứu khổ, là học theo hạnh nguyện của Đức Bồ-tát Quán Thế Âm.

Cuộc sống với các đặc điểm của xã hội hiện đại đã biến con người thành những ốc đảo, dù có thể kết nối, liên lạc với mọi người ở khắp nơi trên thế giới, song con người ngày càng cô đơn hơn bởi sự bế tắc, không hiểu được nhau giữa những người thân trong gia đình và khoảng cách thế hệ trong xã hội. Những “hội chứng” của tuổi trẻ như facebooks, game online... hay buồn bã, bi quan của tuổi già cùng tất cả những biểu hiện suy đồi, thực dụng, tiêu cực của đời sống hiện đại phải chăng là phản ứng khi không được chia sẻ và cảm thông.

Thực tập hạnh lắng nghe trong Phật giáo có thể chuyển hóa và trị liệu những “hội chứng” này, giúp con người xích lại gần nhau, hiểu và thương nhau hơn và đó cũng chính là giọt nước cam lồ của Đức Bồ-tát Quán Thế Âm ban rải cho tất cả muôn loài.

Người ta chỉ có thể mất ba năm để học nói nhưng phải mất cả đời để học hạnh lắng nghe mà chưa chắc đã tròn. Hãy mở rộng lòng mình đển đón nhận chuyển hóa những những khổ đau mà chúng ta đang lắng nghe. Chúng ta chỉ cần trở về với giây phút hiện tại đừng suy nghĩ về quá khứ, đừng lo lắng cho tương lai.

Danh hiệu Quán Thế Âm là lắng nghe những âm thanh khổ đau trong cuộc đời mà đến cứu độ. Mỗi chúng ta đều có những niềm riêng và rất muốn được chia sẻ cùng với người thân, người mà biết lắng nghe ta và thấu hiểu làm ta sung sướng, hạnh phúc vô ngần. Người chỉ ngồi lắng nghe ta thôi đã mang đến cho ta thật nhiều hạnh phúc, làm vơi đi bao nhiêu phiền muộn. Vậy thì sao ta lại không lắng nghe để đem đến hạnh phúc cho người? Phải lắng nghe với tất cả tấm lòng chân thành thì người chia sẻ với ta mới cởi mở và trút bỏ được những phiền muộn, lo lắng. Sự chú tâm, thành khẩn lắng nghe của ta đã tạo ra sự tin cậy và tháo gỡ rất nhiều những uẩn khúc mà người thân của ta đang phải ôm ấp, chịu đựng.

Lắng nghe để giúp người bớt khổ là cả một nghệ thuật. Phải nghe với sự chú tâm bằng tất cả trái tim và tấm lòng rộng mở của mình để cho người khác được sẻ chia, bày tỏ với niềm tin yêu trọn vẹn.

Khi ta lắng nghe với sự chú tâm, ta sẽ đón nhận và hiểu được rất nhiều điều qua ánh mắt, hơi thở, lời nói và các hành vi mà người nói đang chia sẻ... qua đó ta có thể hiểu sâu hơn và giúp cho người bớt khổ. Chỉ có lắng nghe trong sự chú tâm, lắng nghe bằng tất cả tấm lòng mới có được khả năng này. Chỉ cần sự hiện diện của ta là năng lượng bình an đã được lan tỏa tới người cần được chia sẻ. Cảm nhận và thấu hiểu có thể không cần nhiều đến ngôn ngữ mà từ trong tâm giao tiếp với nhau.

Quán chiếu sâu sắc vào hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta thấy ngay rằng những hóa thân của Ngài đang ở quanh ta, hiện diện đầy đủ trong mọi khía cạnh cuộc đời. Hạnh lắng nghe để cứu độ chúng sinh của Ngài là luôn lắng nghe để hiểu dù điều ấy đã nói ra hoặc không nói, lắng nghe mà người kia trút bỏ được ưu phiền, trở nên an vui đó cũng chính là hạnh phúc chân thực.

Hiện nay có rất nhiều người loay hoay đi tìm lẽ sống, hoặc mải mê đi tìm những thú vui tạm bợ của thế gian và đến một ngày tất cả đều khổ đau với cái thú vui giả tạm đó mà quên mất quay về nương tựa bản thân mình để lắng nghe những nỗi khổ niềm đau trong ta, nên hạnh phúc cứ mãi xa vời. Hãy quay trở về bên trong nội tâm để thực tập trau dồi, tăng thêm năng lượng, để dung hòa sự bình yên trong cuộc sống, chăm sóc nuôi dưỡng lòng yêu thương của mình với mọi người xung quanh, để thấy sự sống của thiên nhiên đang tiếp diễn biểu hiện sinh diệt thay cho một đời người.

Trong đạo Phật, có những phương pháp thực tập rất đơn giản đó là: “Phản quan tự kỷ bản phận sự, bất tùng tha đắc” (Quay lại tự tâm chính mình và không tìm cầu ra bên ngoài), để có được niềm an vui, đó chính là con đường chánh niệm giúp cho ta vui sống trọn vẹn trong phút giây hiện tại và là chìa khóa để thành công trong cuộc sống.

Pháp môn Tri vọng là phương pháp đối trị vọng tưởng khi tọa thiền hoặc khi đối duyên xúc cảnh, niệm khởi lên liền biết đó là vọng tưởng, không bị nó lôi dẫn, không chạy theo, vọng tự nhiên biến mất, chỉ cần rõ biết ngay lúc đó tâm an hiện tiền, ngay đó là giác tỉnh. Khi vọng tưởng lặng dứt thì tự tánh hiện bày. Tất cả các phương pháp thực tập này đều quay về quán chiếu với phương pháp phản văn văn tự tánh nương theo hạnh lắng nghe của Ngài Quán Thế Âm.

Đôi khi dừng lại chúng ta mới có thể nhìn và nghe được những thanh âm trong cuộc sống, của nỗi niềm hạnh phúc hay muộn phiền của chính bản thân mình và của những người xung quanh. Đừng để cho sự âu lo vây kín cả cuộc sống mình. Có bao giờ ta đã thật sự lắng nghe ta? Có bao giờ ta đã chân thành lắng nghe người? Một ngày, bạn nên dành một ít thời gian như thế. Rất nhiều người cần một người bạn thật vững chãi chỉ để lắng nghe thôi, lắng nghe và thấu hiểu để tình yêu thương được mở rộng khắp muôn nơi. Đó chính là an lạc và thảnh thơi.

Xã hội ngày nay đang trong thời đại @, mọi sự liên lạc cá nhân đều như chớp nhoáng, vội vã, tất cả đều trong một cuộc sống bận rộn và nhiều khi chúng ta không thể kiểm soát nổi chúng dẫn đến sống ảo và ôm vào lòng mình sự cô đơn tuyệt vọng.

Bên cạnh sự phát triển của xã hội thì còn có những mặt trái tồn tại như sự suy đồi về văn hóa, sự bế tắc trong cuộc sống dẫn đến những tệ nạn gia tăng bởi những nỗi niềm, suy nghĩ riêng không được giải tỏa, không được chia sẻ, không có sự truyền thông trong tư tưởng với những người xung quanh, và vẫn còn nhiều những góc khuất của cuộc đời cần được sự chia sẻ, lắng nghe của người thân.

Cuộc sống hiện tại có quá nhiều áp lực, công việc bộn bề với những điều không được hài lòng, vừa ý, nên ta dễ dàng mất bình tĩnh mà không làm chủ được bản thân, nhất là khi bị mất mát, đau thương bất ngờ về vật chất lẫn tinh thần. Trong những lúc như vậy, tâm ta rối bời, hoảng loạn, mất sự định tĩnh và khát khao có một người bên cạnh để sẻ chia, để lắng nghe. Chỉ cần một thái độ cảm thông, lắng nghe chân thành cũng làm cho ta vơi bớt nỗi đau bất hạnh. Được lắng nghe và biết chia sẻ nỗi đau của người khác là chúng ta đang thực tập hạnh cứu khổ ban vui của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Một gia đình đang phải chịu đau khổ chỉ vì cha mẹ chưa chịu lắng nghe con, luôn áp đặt, cấm đoán và dẫn đến hành vi trốn học của con để ra ngoài chơi game…, và điều gì sẽ xảy ra sau đó không ai có thể lường trước được.

Ví dụ trên đây chỉ là một điển hình, nếu cha mẹ biết lắng lòng, bình thản thì ta sẽ nghe được thấu suốt tâm tư của con và giúp con bình an trước những suy nghĩ của chúng và định hướng phát triển cho con trong cuộc sống.

“Có một cháu bé đã đi chơi cùng bạn không xin phép mẹ và không một lời giải thích khi đi. Nhưng khi về nhà người mẹ chỉ nhìn con và nói:

- Tại sao lại làm thế hả con?

Và cháu bé đã nhận ra tình cảm của mẹ mình và điềm nhiên hỏi lại:

- Thưa mẹ, có thực sự là mẹ muốn biết không?

Bà mẹ gật đầu và cô con gái bắt đầu tâm sự. Lúc đầu cô bé còn ngần ngại nhưng sau đó cháu đã nói ra hết suy nghĩ của mình…

Và người mẹ chợt nhận ra rằng mình đã chưa bao giờ thực sự lắng nghe con, lúc nào cũng bảo con phải làm cái này không được làm cái kia. Khi con muốn kể những suy nghĩ, tình cảm của mình thì mẹ lại ngắt lời bằng những mệnh lệnh khác. Lắng nghe con nói bà bắt đầu hiểu ra, rằng con rất cần đến mình, nhưng không phải như một bà mẹ luôn tỏ ra quyền uy từ trước tới giờ mà như một người bạn để nó có thể tâm tình, một nơi để thổ lộ tất cả những suy nghĩ của tuổi mới lớn. Sự đồng cảm, chia sẻ thực sự xuất hiện và mối quan hệ của hai mẹ con đã tốt hơn hẳn và cháu lại là cô bé dễ thương của bà như ngày nào”.

Chúng ta lắng nghe, tức là sự yên lặng sâu sắc của trái tim hiểu biết mà Bồ-tát Quán Thế Âm đã trao cho mình. Ta lắng lòng để nghe, nghe thật sâu vào từng nhịp thở của con tim, thì những giận hờn, bực tức không thể phát sinh mà hoàn toàn được chuyển hóa. Ta học và tu theo hạnh lắng nghe để mình và người sống bình yên, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.

Cho nên, khi lắng nghe ta phải hiểu thấu chính mình thì mới nghe được trong sâu thẳm con tim, mà biết cách làm vơi bớt nỗi đau, để ta và người có sự cảm thông và càng yêu thương nhau. Im lặng để nghe. Lắng nghe để hiểu. “Hiểu càng rộng, thương càng sâu”. Từ sự lắng nghe để thấy rõ chơn vọng của cuộc đời, thấy rõ nhân quả nghiệp báo của mọi sự việc. Lắng nghe là một phép lạ để khám phá sự thực của mỗi tâm hồn. Chỉ cần im lặng và lắng nghe, mỗi chúng ta sẽ đều trở thành hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Như thế, chúng ta có thể làm cho trần gian cạn vơi đi những khổ đau phiền muộn rất nhiều.

Hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm giúp cho chúng ta vun bồi những hạt mầm yêu thương, trái tim bao dung và độ lượng được tưới tẩm và dần lớn lên đơm hoa kết trái. Nguyện cầu Đức Bồ-tát Quán Thế Âm chứng minh và gia hộ cho tất cả chúng con thực tập hạnh nguyện lắng nghe của Ngài được thành tựu viên mãn.
Đông Phong

Tập thương yêu chân thành

Tập thương yêu chân thành

Đăng lúc: 07:28 - 12/03/2016

Câu chuyện về một cậu học sinh tên “Luis”.
Hôm ấy, khi Luis bước vào lớp, điều gì đó toát lên từ cử chỉ của cậu bé đặt mọi người vào một sự cảnh giác cao độ. Cách đây khoảng một tháng, một em nữ sinh đã tự bóp cổ của mình ngay trước văn phòng thầy hiệu trưởng, và đó là lý do vì sao chúng tôi phải dè dặt như vậy. Tôi nhận ra, bạo lực bộc phát không còn là chuyện diễn ra ở đâu đó xa vời nữa.

Ngay sau đó, tôi chợt liên tưởng, đây có lẽ cũng là điều mà đất nước chúng ta đang cảm nhận được, rằng bạo lực dường như là điều không thể tránh khỏi.

giaohao.jpg
Ảnh minh họa của Trần Thế Phong

Trong lúc ấy, Luis, người đang đi tới đi lui trước mặt tôi cùng với những câu nói lẩm nhẩm, thái độ bực tức, cậu bé không về chỗ của mình mặc kệ cho tiếng chuông báo hiệu vào tiết học đã reo lên. Với ánh mắt đầy sợ hãi, tất cả học sinh trong lớp nhìn nhau, rồi bọn trẻ nhìn vào tôi. “Phải làm gì bây giờ?” - tôi đã tự hỏi mình như vậy. Tôi cố tỏ ra điềm tĩnh và thử nói chuyện với Luis, nhưng cậu bé chỉ xem những chỉ dẫn và hành động của tôi như một lời sáo rỗng. Vì vậy tôi lùi lại, tránh xa khỏi cậu bé và tìm kiếm sự giúp đỡ bằng cách gọi điện cho ai đó, trông Luis dường như lại càng thêm phần nóng giận.

Tôi đã thử làm hết những gì mình có thể để trấn an và giúp cậu bé bình tĩnh hơn, nhưng tất cả đều trở nên vô vọng. Có một tín hiệu bất chợt phát ra từ văn phòng và tôi nhận thấy đó là cơ hội của mình, tôi nói lớn: “Ồ, thầy phải gọi một cuộc điện thoại thôi”. Ngay lập tức, Luis hướng sự tập trung về phía tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói: “Tất nhiên là phải gọi rồi”. Và đột nhiên những bước di chuyển của Luis trở nên nhẹ nhàng hơn, cậu bé rút từ trong túi ra chiếc bút chì và nắm chặt nó trong tay như thể đó là cán của một cây dao, rồi bước dài đến chỗ tôi.

Trong suốt cuộc đời mình, tôi luôn nỗ lực làm mọi thứ để ngăn chặn những tình huống tồi tệ có thể xảy ra. Tôi cũng được học về phi bạo lực và đã dạy cho học sinh của mình về Gandhi, người lãnh đạo các cuộc biểu tình hòa bình(Gandhi là người đã dẫn khởi nền độc lập cho Ấn Độ, đề cao “Chấp trì chân lý”, theo nguyên tắc chân lý và bất bạo động).

Tuy nhiên, trong khoảnh khắc Luis tiến đến gần, tất cả những chuẩn mực để tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới hòa bình của tôi dường như sụp đổ. Tôi không chắc rằng liệu Luis có ý định đâm tôi hay không, nhưng tôi biết mình cần phải làm gì đó để kéo cậu bé ra khỏi những học sinh khác của mình. Cậu bé to lớn hơn rất nhiều so với tôi và tôi như thấy mình rơi vào bế tắc. Tôi không dám tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra sau đó và khoảnh khắc ấy như đang chi phối tôi.

Một nỗi buồn không tưởng cuộn lấy rồi đè nặng lên tôi đến mức khiến tôi đổ gục xuống ghế. Và, tôi bắt đầu cảm nhận được một nỗi đau nào đó, đúng hơn, tôi như bắt đầu nối kết được với Luis. Không kiềm được nước mắt, tôi nói: “Thầy rất tiếc. Đó hẳn là một tổn thương rất sâu sắc”.

Cậu bé bỗng ngưng lại tất cả những hành động của mình, thả lỏng tay rồi nói: “Vâng”. Và như vậy, mọi chuyện dừng lại ở đó.

Những gì chúng ta chọn để thực hành trong cuộc sống hàng ngày, cũng là những điều sẽ xảy đến khi cuộc sống của chính chúng ta bị dồn đến bờ vực. Như vậy, nếu tôi học cách bắn vào những ai đang đe dọa đến mình và nếu có súng trong tay vào lúc đó, tôi tin chắc mình sẽ không ngần ngại bóp cò. Nhưng tôi đã chọn cách ngược lại. Một tháng sau, kể từ sự việc đáng sợ đó, mỗi ngày tôi đều dành ra 45 phút để tập bài tập có tên là “yêu thương chân thành”, hay còn gọi là “Thiền tâm từ”.

Thiền tâm từ là một phương pháp thiền định đơn giản mà khi thực hành nó, điều đầu tiên chúng ta cần làm là nghĩ về những người ta luôn quan tâm và mong muốn đem lại hạnh phúc cho họ - con cái hay thú cưng là một trong những ví dụ điển hình. Sau đó, chúng ta trải lòng mình bằng cách tập quan tâm và mong cầu hạnh phúc cho những người không mấy quan trọng hiện diện quanh ta, hay thậm chí là một người không quen biết, như bác đưa thư vẫn nhìn thấy hàng ngày, nhưng ta chẳng biết ông ấy là ai.

Trong từng hoàn cảnh, từng trường hợp như vậy, chúng ta tập giữ hình ảnh của những con người, những vật thể đó bằng trái tim, bằng suy nghĩ của mình và thầm nguyện cầu: “Mong những con người này có thể được hạnh phúc, mạnh khỏe và hiểm nguy sẽ không chạm đến họ”. Có thể đó là một sự thực hành không mấy khó khăn, nhưng nó cũng không hề đơn giản.

Quay trở lại câu chuyện về Luis. Tôi đã không biết gì cho đến sau đó, thì ra anh trai của Luis chỉ vừa bị tuyên án tù và cậu bé đã rất khó khăn để tiếp nhận sự thật này. Sự mất mát, và cậu bé cần một ai đó có thể lắng nghe để sẻ chia gánh nặng đang đè lên vai mình, nhưng vì không biết thể hiện như thế nào nên thay vào đó, Luis đã có những hành động bộc phát như vậy. Điều đó có lẽ cũng giống như Luis đang tự tìm nhà tù cho chính mình vậy.

Đến bây giờ, tôi vẫn không thể tin rằng những gì diễn ra ngày hôm đó giữa tôi và Luis là kết quả trực tiếp từ việc tôi thực hành thiền định, có lẽ đó chỉ xuất phát từ lòng khoan dung, chi phối tôi và làm tôi thấu hiểu được Luis. Nhưng có một điều tôi chắc chắn rằng, việc thực hành tâm từ đã giúp tôi có thể mở lòng với người khác, để tôi luôn trong tư thế sẵn sàng trước mọi hoàn cảnh. Và đó là tất cả những gì tôi hướng đến. Khi thấu hiểu nỗi sợ hãi tạo ra nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, tôi cũng nhận biết được rằng để xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn, chúng ta cần rèn luyện cho mình sự nối kết, tình thân ái đối với vạn vật, đồng thời biết tiết chế chính mình và người khác.

Người Mỹ hiện nay luôn trang bị cho mình bằng những khẩu súng và bỏ ra nhiều thời giờ chỉ để học cách hủy diệt đi sự sống của người khác. Như vậy làm sao con người có thể mở lòng với nhau, nối kết và sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu thương?

Trên một phương diện nào đó, tôi cảm thấy con người chúng ta chẳng khác là bao so với Luis, tồn tại một nỗi sợ hãi và sự khao khát tình thân, mà ở đó con người biết sẻ chia cho nhau niềm vui cũng như nỗi buồn và tìm thấy ý nghĩa thật sự của cuộc sống. Khi không thể nhận được sự nối kết ấy từ những người xung quanh, con người lại có xu hướng cố giành lấy nó bằng cách bám chấp vào những bạo lực tồn tại bên trong suy nghĩ của mình và thể hiện những bạo lực đó ra bên ngoài bằng sức mạnh bản thân.

Trong niềm hân hoan, tôi xin kết thúc bài viết này bằng một câu khẩu hiệu đầy cảm hứng như vậy: “Hãy thiền định ngay bây giờ và thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn”. Vấn đề ở đây là tôi không tin vào điều đó và có thể bạn cũng vậy. Thay vì chờ đợi thế giới tháo bỏ khúc mắc này, tôi tìm thấy trong tư tưởng Phật giáo, sự hướng dẫn con người đi vào tự tâm của chính mình và không còn bất kỳ một ràng buộc nào.

Chúng ta có thể hiểu rằng, “không còn ràng buộc” có nghĩa là giác ngộ, biết được những gì nên làm và những gì cần lìa bỏ. Khi đạt đến “không ràng buộc” cũng đồng nghĩa với việc chúng ta không còn bị trói buộc bởi những khổ đau, phiền não kia nữa.

Những bước đầu tiên thực hành thiền định, tôi đã luôn nghĩ đến một kết quả, đó là sự yên bình. Nhưng những kết quả mà chúng ta tưởng tượng ra, bản thân nó chính là một thể của ràng buộc. Tôi không thể ngờ được thành quả của sự thiền định ấy đã thay đổi tôi trong khoảnh khắc đối mặt với Luis (tôi đã không còn nghe tin gì về Luis kể từ khi cậu bé rời khỏi trường trung học năm 2011).

Khi điều gì đó tương tự xảy ra, mọi thứ quanh ta dường như thay đổi, nhưng chúng ta sẽ nhận ra rằng mình vẫn còn tồn tại với một sinh mạng vô cùng quý giá, và trái tim sẽ luôn nhận thức được sâu sắc những đau khổ, phiền não trong thế gian này. Những đau khổ, phiền não mà chúng ta có thể nhận biết được là mênh mông vô tận, và không thể nào ngăn hết tất cả chúng lại được.

Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng mình vẫn đang tồn tại, chúng ta có thể tự kéo mình ra khỏi những suy nghĩ to tát kia và dành thời gian lưu tâm đến những chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt, vô nghĩa quanh mình.

Đến một lúc nào đó, chúng ta có thể vận dụng lòng từ bi nơi tự tâm để biết lắng nghe những Luis khác trong cuộc sống này và tạo ra sự bình yên chân thật cho chính ta.

Giao Hảo

Không phải là sư giả mà là tín đồ mặc áo tu sĩ xin ăn

Không phải là sư giả mà là tín đồ mặc áo tu sĩ xin ăn

Đăng lúc: 21:56 - 15/06/2015

Mục tiêu của những người bất hảo mà chúng ta đang nói đến là xin tiền, giả mạo làm tu sĩ Phật giáo chỉ là phương tiện. Trường hợp họ không tự nhận là sư khất thực, khi bị giữ chỉ nói mình là người tu, cũng phủ nhận việc xin tiền, thì cần giải quyết ra sao?
gia su
Gần đây, ở một số địa phương, nạn sư giả xin tiền được cho là đã phần nào giảm bớt. Một phương cách giải quyết được chú ý là chứng minh là sư giả bằng cách cùng công an tạm giữ, truy xét giấy tờ.
Đây là điều đáng mừng. Tuy nhiên, thực tế không đơn giản chỉ có hướng giả sư để khắc chế theo hướng chứng minh là sư giả, từ đó có biện pháp xử lý.
Bài viết này nêu một dạng thức khác của sư giả, là tín đồ thật (có giấy tờ) nhưng mặc quần áo tu sĩ để xin tiền và họ không tự nhận là sư nếu bị xét hỏi, chỉ tự nhận là “tu” chung chung. Đây là một cách thức đáng quan tâm để tìm giải pháp căn cơ.
Mục tiêu của những người bất hảo mà chúng ta đang nói đến là xin tiền, giả mạo làm tu sĩ Phật giáo chỉ là phương tiện. Trường hợp họ không tự nhận là sư khất thực, khi bị giữ chỉ nói mình là người tu, cũng phủ nhận việc xin tiền, thì cần giải quyết ra sao?
Vấn đề cần được thảo luận thấu đáo, vì nó tế nhị, phức tạp và khó xử hơn so với trường hợp tự nhận là tu sĩ Phật giáo nhưng không chứng minh được.
Đó là những người có giấy xác định là tín đồ (phái quy y) để cầm theo và xuất trình khi cần thiết. Họ cạo đầu, mặc áo tràng lam hay nâu, áo vạt mẻ…, là những loại quần áo người tín đồ Phật giáo vẫn mặc phổ biến lẫn lộn với tu sĩ.
Họ xin tiền, nhưng tay cầm thẻ nhang. Có người đội nón lá, khi ngửa nón giơ tới trước, họ là người xin tiền. Khi đội nón, cầm thẻ nhang, họ là người bán. Như vậy, về hình thức, những người này có thể dễ dàng di động qua lại giữa người tu sĩ/người tín đồ và người xin tiền/người bán hàng rong.
Ở trường hợp có chủ ý giả dạng tu sĩ Phật giáo, tự khẳng định là tu sĩ Phật giáo khi bị xét hỏi, đương nhiên người giả dạng rơi vào tình trạng gian dối, có mặc cảm gian dối, tội trạng rành rành, rất dễ xử lý việc giả mạo.
Nhưng ở trường hợp họ chỉ tự coi là người tu (hiểu là tín đồ hay tu sĩ đều được), mặc áo tràng, áo vạt mẻ theo thông lệ Phật giáo, đầu cạo trọc như một kiểu tóc (cạo trọc nay đã là hình thức tóc rất phổ biến), chuyển đổi một cách đơn giản giữa xin tiền và bán hàng, thì phải giải quyết ra sao?
Xét về lý, họ không nhận là tu sĩ, mà nhận là cư sĩ, thì không có điều gì giả mạo.
Còn xin tiền ngụy trang bán hàng rong là dạng thức rất phổ biến hiện nay, nhất là ở những tỉnh thành cấm người ăn xin. Giấy thông hành để đi xin tiền có thể chỉ là vài tờ vé số, có thể vài thỏi kẹo, trị giá vài chục ngàn đồng, để khi cần thì trưng ra nói mình đi bán. Phía xử lý, dù biết là chỉ với một bàn tay xòe ra, người bán hàng sẽ chuyển ngay thành người đi xin, nhưng rất khó đối xử với họ như người ăn xin.
Vấn đề dần dần hiện rõ với chính cái khúc mắc nằm ở ngay Phật giáo Việt Nam. Chính Phật giáo Việt Nam có tình trạng người tín đồ có thể mặc y phục của người tu sĩ. Chỉ cần cạo đầu trọc nữa thôi là ở nhiều trường hợp ăn mặc, rất dễ lẫn lộn người tín đồ thành người tu sĩ không khác. Cái khó là họ vẫn không phải là người giả mạo. Kỹ thuật chuyển dạng giữa người xin tiền và người bán hàng là không khó gì. Bùa hộ mệnh là vài thẻ nhang trong túi vải nâu tu sĩ. Nếu có bị giữ, họ khẳng định mình là tín đồ đi bán nhang, đầu trọc và áo tràng không phải là sư giả mạo, vì trong hoàn cảnh Việt Nam, đó không phải là đặc trưng riêng chỉ có ở tu sĩ Phật giáo.
Như vậy, vấn đề trở về lại trong tay chính Phật giáo Việt Nam. Ngày nào ở Phật giáo Việt Nam còn tập quán người tín đồ trang phục như tu sĩ, với áo tràng, áo vạt mẻ, thì ngày đó vẫn còn dạng sư giả nhưng bề ngoài là không phải giả. Thực chất, đó là tu sĩ tín đồ trang phục lẫn lộn, ngay cả văn bản hành chính của Phật giáo cũng cho phép trang phục như vậy, gọi đó là tịnh nhân. Mặc trang phục “tịnh nhân” nếu đi bán hàng rong, thì bề ngoài vẫn có thể, vẫn không phải sư giả. Thế thì, làm sao giải quyết?
Có lẽ ngày trước chư tổ khi chế định y phục người tu tại chùa đã không tiên lượng tình huống nếu để người tín đồ mặc, sẽ rơi vào cảnh tăng tục lẫn lộn, rồi tệ hơn có người lợi dụng hình thức được cho phép đó đi xin tiền, làm ảnh hưởng xấu đến đạo Phật. Điều này tuy bây giờ có thể điều chỉnh, nhưng xem ra không khả thi, vì việc tín đồ mặc áo tràng, áo vạt mẻ, cả áo nhật bình (có cách điệu, làm khác đi đôi chút), là xu hướng đang phát triển. Xu hướng này tất nhiên sẽ dẫn đến việc giả sư nhưng không thể buộc tội giả sư. Nó trầm trọng hơn, phức tạp hơn, bế tắc hơn.

Minh Thạnh

Nhìn sâu vào mỗi sự vật...

Nhìn sâu vào mỗi sự vật...

Đăng lúc: 06:21 - 08/06/2015

Trong cuộc sống quá bận rộn, đôi khi chúng ta làm rất nhiều việc hoàn toàn chỉ là theo quán tính mà không để tâm suy nghĩ, phân tích gì cả. Thậm chí có những bữa ăn cũng trôi qua thật vội vàng đến nỗi ta không cảm nhận được hết mùi vị của thức ăn.



Khi tôi còn nhỏ, tôi đã rất lấy làm buồn cười khi đọc truyện Tây du ký đến đoạn Trư Bát Giới ăn nhân sâm cùng với Tôn Ngộ Không. Anh chàng háu ăn này đã ăn nhanh đến nỗi vừa ăn xong mà không biết được mùi vị của quả nhân sâm như thế nào!

Ngày nay chúng ta có rất nhiều khi rơi vào trường hợp tương tự. Mặc dù chúng ta không tham ăn, nhưng chúng ta có quá nhiều việc để bận tâm suy nghĩ, có quá nhiều việc đang đợi chúng ta làm, và vì thế chúng ta luôn ăn vội ăn vàng cho qua bữa, không hề để tâm nhận biết nhiều về thức ăn.

Nhưng không chỉ là chuyện bữa ăn. Mỗi ngày chúng ta để cho rất nhiều chuyện khác nữa trôi qua trong sự lơ đễnh, vì đầu óc ta luôn có những chuyện khác để âu lo, suy tưởng.

Với cách sống như thế, chúng ta sống mà thật sự chưa hề cảm nhận được cuộc sống. Chúng ta nhìn thấy và tiếp xúc với sự vật nhưng không thể hiểu được bản chất sâu xa hoặc cảm nhận được giá trị thực có của chúng.

Đôi khi tôi nhớ đến những củ khoai lùi thời thơ ấu, và lấy làm lạ là giờ đây nhiều lúc tôi không thưởng thức được những món ăn rất ngon lành theo cách như tôi đã từng ăn khoai lùi thuở nhỏ. Tôi còn nhớ mình đã phân biệt được mùi thơm của lớp vỏ khoai cháy sém bên ngoài như thế nào, mùi tro nóng bám vào vỏ khoai ra sao, ruột khoai thơm nóng như thế nào... Thậm chí tôi còn phân biệt được sự khác nhau giữa phần trên và phần dưới của cùng một củ khoai...

Thỉnh thoảng chúng ta nên có những bữa ăn theo cách của một em bé ăn khoai lùi... nghĩa là không để cho bất cứ một việc gì chi phối vào bữa ăn của ta.

Khi nhìn vào một món ăn, ta nên nhìn rõ xuất xứ của nó. Từ hạt gạo trắng thơm, cọng rau tươi xanh hay miếng đậu phụ... ta biết được chúng do đâu mà có. Ta nhìn thấy được người nông dân cần khổ lao động để làm ra hạt gạo, cọng rau... Ta nhìn thấy ánh nắng, cơn mưa đã giúp cây lớn lên từ đất... Ta cũng biết được rất nhiều người không có đầy đủ những món ăn như ta đang có. Mỗi ngày đều có những người chết vì đói trên thế giới này. Nhiều nơi, trẻ em không có đủ thức ăn và phải bị suy dinh dưỡng.

Từ những suy nghĩ quán sát như vậy, ta ý thức được đầy đủ giá trị của một bữa ăn. Vì thế, ta không thể nuốt vội nuốt vàng những thứ ấy một cách vô tâm cho qua bữa. Hơn thế nữa, ta biết rằng chỉ khi ta ăn với sự tỉnh thức thì thức ăn và ta mới cùng hiện hữu. Bằng không, xem như ta đã bỏ phí thời gian bữa ăn mà không thật sự sống một chút nào.

Ta nên ăn một cách chậm rãi. Cho dù ta vội vã đến đâu cũng vẫn còn rất nhiều việc khác chưa làm xong. Rút ngắn thời gian một bữa ăn không phải là cách giải quyết vấn đề. Ta chỉ thường làm thế là theo với thói quen từ lâu nay. Dù bận rộn đến đâu, việc dành thời gian thỏa đáng cho một bữa ăn không hề là điều phí phạm. Hơn nữa, mọi sự bận rộn của ta đều nhắm đến phục vụ đời sống. Vậy nếu ta từ bỏ những giây phút thật sự đang sống trong hiện tại thì tất cả những việc khác liệu còn có ý nghĩa gì?

Khi chúng ta ăn một bữa ăn trong sự tỉnh thức, đó không còn chỉ đơn thuần là một bữa ăn. Đó là biểu hiện cụ thể của đời sống, là phương cách ta tiếp xúc và cảm nhận sự vật. Vì thế, nó không những mang lại cho ta năng lượng vật chất, mà còn giúp ta hồi phục những giá trị tinh thần đã mất.

Nếu bạn thường xuyên thực tập điều này cùng với gia đình, đó là một cách giáo dục tốt nhất để hình thành nhân cách đạo đức cho con cái bạn. Bởi vì, trẻ con thường không học theo những gì ta nói, mà chúng học theo những gì chúng ta làm.

Ngoài bữa ăn ra, chúng ta cũng có thể thực tập tinh thần tỉnh thức trong mọi việc chúng ta làm thường ngày. Chúng ta nên tập nhìn sự vật với chiều sâu của nó. Từ đó, chúng ta có thể dễ dàng thông cảm được với những khó khăn và nỗi khổ của người khác. Chúng ta cũng kiên nhẫn hơn khi gặp phải những chậm trễ, bế tắc trong công việc. Ta giải quyết mỗi vấn đề bằng vào sự phán đoán sáng suốt và tỉnh táo, không phải bằng sự vội vã, nôn nóng.

Chúng ta không phải là thực thể duy nhất tồn tại trong cuộc sống này. Ngược lại, ta gắn bó và đồng thời tồn tại, chịu sự chi phối của tất cả những sự vật khác. Không chỉ là những món ăn thức uống hàng ngày mới ảnh hưởng đến ta. Mưa, nắng, sương gió... hay bất cứ những gì chúng ta nhìn thấy hoặc cảm nhận được quanh ta đều có liên hệ chặt chẽ đến cuộc sống của ta. Một người hút thuốc nhả khói vào khoảng không, điều đó cũng có ảnh hưởng nhất định đến môi trường sống của chúng ta. Nói chung, mọi sự kiện trong đời sống đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, và chỉ khi nhìn sâu vào bản chất sự vật ta mới có thể hiểu được điều đó.

Nhìn sâu vào sự vật không chỉ giúp ta hiểu được bản chất sự vật mà còn giúp ta hiểu được chính mình. Ta cảm nhận được đầy đủ và sâu sắc hơn giá trị của cuộc sống từ nhiều góc độ. Ta cảm thông nhiều hơn với đồng loại và sẵn lòng hơn trong việc chia sẻ những gì mình có. Chính nhờ đó ta có được niềm vui và hạnh phúc, vì nhận thức được rằng cuộc sống của ta thật sự có ý nghĩa biết bao!

Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)

 
Hạnh nguyện cấp cô độc
Gia đình vườn tuệ
Tin xem nhiều
Thống kê
  • Đang truy cập 11
  • Hôm nay 3,352
  • Tháng hiện tại 60,737
  • Tổng lượt truy cập 23,466,986